Tài liệu Đề tài Những vướng mắc về bảo hiểm xã hội đối với người lao động trong công cuộc cải cách doanh nghiệp Nhà nước hiện nay: mục lục
lời mở đầu. 2
nội dung. 3
I. Khái niệm, đặc trưng, vai trò của bảo hiểm xã hội (BHXH). 3
1. Khái niệm BHXH. 3
2. Đặc trưng của BHXH. 3
3. Vai trò của BHXH đối với người lao động và đối với xã hội. 3
II. Những vướng mắc về BHXH đối với người lao động trong công cuộc cải cách doanh nghiệp Nhà nước hiện nay. 5
1. BHXH đối với vấn đề lao động dôi dư. 6
2. BHXH với việc sắp xếp lao động doanh nghiệp. 7
3. Cải cách doanh nghiệp với vấn đề nợ BHXH. 7
III. Một số kiến nghị về hướng giải quyết. 8
1. Hướng thứ nhất. 8
2. Hướng thứ hai. 9
Kết luận. 11
tài liệu tham khảo. 12
những vướng mắc về bảo hiểm xã hội đối với người lao động trong công cuộc cải cách dNNN hiện nay.
lời nói đầu
Đảng và Nhà nước ta đặt ra nhiệm vụ trọng tâm trong thời kỳ chiến lược 2001-2010 là đẩy mạnh công cuộc đổi mới, tạo động lực phát huy cao độ mọi nguồn lực, xây dựng nền tảng cho một nước công nghiệp, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Để thực ...
13 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1133 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Những vướng mắc về bảo hiểm xã hội đối với người lao động trong công cuộc cải cách doanh nghiệp Nhà nước hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mục lục
lời mở đầu. 2
nội dung. 3
I. Khái niệm, đặc trưng, vai trò của bảo hiểm xã hội (BHXH). 3
1. Khái niệm BHXH. 3
2. Đặc trưng của BHXH. 3
3. Vai trò của BHXH đối với người lao động và đối với xã hội. 3
II. Những vướng mắc về BHXH đối với người lao động trong công cuộc cải cách doanh nghiệp Nhà nước hiện nay. 5
1. BHXH đối với vấn đề lao động dôi dư. 6
2. BHXH với việc sắp xếp lao động doanh nghiệp. 7
3. Cải cách doanh nghiệp với vấn đề nợ BHXH. 7
III. Một số kiến nghị về hướng giải quyết. 8
1. Hướng thứ nhất. 8
2. Hướng thứ hai. 9
Kết luận. 11
tài liệu tham khảo. 12
những vướng mắc về bảo hiểm xã hội đối với người lao động trong công cuộc cải cách dNNN hiện nay.
lời nói đầu
Đảng và Nhà nước ta đặt ra nhiệm vụ trọng tâm trong thời kỳ chiến lược 2001-2010 là đẩy mạnh công cuộc đổi mới, tạo động lực phát huy cao độ mọi nguồn lực, xây dựng nền tảng cho một nước công nghiệp, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Để thực hiện thành công nhiệm vụ này, một trong những công tác mà ta đã và đang thực hiện là cải cách doanh nghiệp Nhà nước. Chúng ta không thể phủ nhận những tác động tích cực mà công cuộc cải cách này đem lại. Song đi kèm với nó là vô số các vấn đề phức tạp cần giải quyết trong đó có vấn đề lao động, cụ thể là các chính sách về bảo hiểm xã hội đối với người lao động.
Có thể nói bảo hiểm xã hội là xương sống của hệ thống an sinh xã hội. Bảo hiểm xã hội ra đời đã đáp ứng được nhu cầu của đông đảo người lao động nói chung. Trong quá trình làm việc, người lao động không tránh khỏi những rủi ro đáng tiếc làm giảm hoặc mất thu nhập của họ. Bảo hiểm xã hội thực chất là sự đền bù hậu quả của những “rủi ro xã hội”. Sự đền bù này được thực hiện thông qua quá trình tổ chức và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung hình thành do sự đóng góp cuả các bên tham gia bảo hiểm xã hội.
Khi tiến hành cải cách doanh nghiệp Nhà nước, bảo hiểm xã hội phải đối mặt với những khó khăn trong giải quyết các vấn đề như: vấn đề lao động dôi dư, vấn đề sắp xếp lại lao động, vấn đề nợ bảo hiểm của doanh nghiệp.
Nắm bắt được tính thực tiễn của vấn đề, em đã lựa chọn đề tài “Những vướng mắc về bảo hiểm xã hội đối với người lao động trong công cuộc cải cách doanh nghiệp Nhà nước hiện nay” làm nội dung nghiên cứu và xin kiến nghị một số biện pháp giải quyết.
I. KháI niệm, đặc trưng và vai trò của bảo hiểm xã hội.
1. KháI niệm bảo hiểm xã hội (BHXH).
BHXH là quá trình tổ chức, sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung được tồn tích dần do sự đóng góp của người sử dụng lao động và người lao động dưới sự quản lý, điều tiết của Nhà nước, nhằm bảo đảm phần thu nhập để thoả mãn những nhu cầu sinh sống thiết yếu của người lao động và gia đình họ, khi họ gặp những biến cố làm giảm hoặc mất thu nhập theo lao động.
2. Đặc trưng cơ bản của BHXH.
- Bảo hiểm cho người lao động trong và sau quá trình lao động.
- Các rủi ro của người lao động liên quan đến thu nhập của họ như: ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thai sản, mất việc làm, già yếu, chết… Do những rủi ro này mà người lao động bị giảm hoặc mất nguồn thu nhập. Họ cần phải có khoản thu nhập khác bù vào để ổn định cuộc sống. Đây là đặc trưng rất cơ bản của BHXH.
- Người lao động muốn được quyền hưởng trợ cấp BHXH phải có nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã hội. Người chủ sử dụng lao động mà mình thuê mướn. Quỹ BHXH dùng để chi trả các trợ cấp khi có các nhu cầu phát sinh về BHXH.
- Các hoạt động BHXH được thực hiện trong khuôn khổ pháp luật, các chế độ BHXH cũng do luật định. Nhà nước bảo hộ các hoạt động của BHXH.
Tất cả những khía cạnh đã nêu trên cho thấy BHXH được lập ra là để tác động vào thu nhập theo lao động của người lao động tham gia BHXH. Nói cách khác BHXH là hệ thống bảo đảm khoản thu nhập thay thế cho người lao động trong trường hợp bị giảm hoặc mất khả năng lao động hay mất việc làm, do đó bị mất hoặc giảm khoản thu nhập được thay thế, nhằm bảo đảm thoả mãn những nhu cầu sinh sống thiết yếu của họ.
3. Vai trò của BHXH đối với người lao động và đối với xã hội.
a. Đối với người lao động.
Trong cuộc sống hàng ngày có những loại rủi ro như ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thai sản, già yếu rồi chết… Tất cả những rủi ro này đều có thể xảy ra đối với bất cứ người lao động nào, tại bất cứ thời điểm nào trong cuộc sống hàng ngày của con người. Nhất là trong giai đoạn ngày nay, khi mà đất nước đang ngày càng hoàn thiện quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì những “rủi ro” này lại càng diễn ra một cách thường xuyên và có tính chất ngày càng phổ biến hơn vì sự biến động về thị trường lao động và sản xuất kinh doanh đa dạng hơn, phức tạp hơn. Khi những rủi ro này xảy ra đối với người lao động thì sẽ gây cho họ những khó khăn cả về vật chất lẫn tinh thần, gây ra mất hoặc giảm thu nhập, từ đó gây ra những ảnh hưởng không tốt không chỉ cho chính anh ta, gia đình anh ta, mà còn cho cả cộng đồng xã hội loài người.
Với tư cách là một trong những chính sách kinh tế – xã hội của Nhà nước, BHXH sẽ góp phần trợ giúp cho cá nhân những người lao động gặp phải rủi ro, bất hạnh khắc phục những khó khăn bằng cách tạo ra cho họ những thu nhập thay thế, những điều kiện lao động thuận lợi… giúp họ ổn định cuộc sống, yên tâm trong công tác, tạo cho họ một niềm tin vào tương lai từ đó góp phần quan trọng vào việc tăng năng suất lao động cũng như chất lượng công việc cho xí nghiệp, cơ quan họ đang làm nói riêng và toàn xã hội nói chung.
b. Đối với xã hội.
Trước tiên, cần phải khẳng định rằng hoạt động BHXH là một hoạt động dịch vụ, BHXH là một “doanh nghiệp” sản xuất ra những dịch vụ “bảo hiểm” cho người lao động, một loại dịch vụ bất cứ ai cũng cần đến. Nếu các doanh nghiệp này càng sản xuất ra nhiều loại dịch vụ bảo hiểm (đáp ứng đa dạng các yêu cầu) thì giá trị của những sản phẩm dịch vụ này cũng được tính trực tiếp vào tổng sản phẩm xã hội.
Thứ hai, với tư cách là một trong những chính sách kinh tế - xã hội của Nhà nước, BHXH sẽ “bảo hiểm” cho người lao động, hoạt động BHXH sẽ giải quyết những “trục trặc, rủi ro” xảy ra đối với những người lao động, góp phần tích cực của mình vào việc phục hồi năng lực làm việc, khả năng sáng tạo của sức lao động. Sự góp phần này tác động trực tiếp đến việc nâng cao năng suất lao động cá nhân, đồng thời góp phần vào việc nâng cao năng suất lao động xã hội. Với sự trợ giúp cho người lao động khi gặp rủi ro bằng cách tạo ra thu nhập thay thế thì BHXH đã gián tiếp tác động đến chính sách tiêu dùng quốc gia làm tăng sự tiêu dùng cho xã hội.
Thứ ba, với tư cách là một quỹ tiền tệ, BHXH tác động mạnh mẽ tới hệ thống tài chính ngân sách Nhà nước, tới hệ thống tín dụng tiền tệ ngân hàng. Chính vì vậy, đặt ra một yêu cầu cho quỹ BHXH phải tự bảo tồn và phát triển quỹ bằng nhiều hình thức khác nhau trong đó có hình thức đầu tư phát triển phần “nhàn rỗi” của quỹ. Phần này có tác động không nhỏ tới quá trình phát triển kinh tế của đất nước, góp phần tạo ra những cơ sở sản xuất kinh doanh mới, việc làm mới, giải quyết tình trạng thất nghiệp của đất nước, cuối cùng làm tăng tổng sản phẩm quốc dân nói chung.
Thứ tư, BHXH góp phần vào việc thực hiện công bằng xã hội, là công cụ phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia BHXH. Sự phân phối lại thu nhập này được tiến hành qua hai cách: phân phối lại theo chiều ngang giữa những người khoẻ và người già, người đang làm việc và người đã về hưu, người trẻ tuổi và người lớn tuổi, giữa nam và nữ, người đang hưởng trợ cấp và người chưa được hưởng trợ cấp; phân phối lại theo chiều dọc là mục
tiêu quan trọng của chính sách kinh tế xã hội, giữa người có thu nhập cao và người có thu nhập thấp. BHXH không bao hàm ý phân phối bình quân, cũng không hàm ý lấy của người giàu chia cho người nghèo một cách võ đoán. ý tưởng của BHXH là “nhiễu điều phủ lấy giá gương; là đoàn kết tương trợ phát huy tính tự thân, sống hoà nhập có tình có nghĩa giữa các nhóm, các giới hạn trong cùng cộng đồng với nhau mà vốn là tiềm lực của dân tộc ta đã được lịch sử chứng minh”.
II. Những vướng mắc về BHXH đối với người lao động trong công cuộc cảI cách doanh nghiệp Nhà nước hiện nay.
Đối với nền kinh tế Việt Nam, vai trò của doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) phải là lực lượng chủ đạo. DNNN phải là lực lượng đi tiên phong trong tiến trình phát triển kinh tế xã hội. Vì vậy, việc đổi mới và sắp xếp doanh nghiệp là việc làm hết sức cần thiết.
Qua các đợt sắp xếp theo Quyết định 315/HĐBT, 90/TTg, 91/TTg, chỉ thị 20/TTg của Thủ tướng Chính phủ thì số lượng DNNN đã giảm xuống rất nhiều, từ 12300 doanh nghiệp (1990) còn 5570 doanh nghiệp (năm 2000). Đặc biệt, gần đây chúng ta có thêm các biện pháp là cổ phần hoá, giao, bán, khoán kinh doanh và cho thuê doanh nghiệp.
Liên quan đến quá trình cải cách doanh nghiệp Nhà nước thì một trong những vấn đề rất phức tạp phải giải quyết đó là vấn đề lao động cụ thể là các chính sách về BHXH đối với người lao động.
1. Bảo hiểm xã hội với vấn đề lao động dôI dư.
Lao động không bố trí được việc làm là một vấn đề lớn phải giải quyết trong quá trình cải cách doanh nghiệp. Hiện nay, doanh nghiệp Nhà nước đang đứng trước một thực trạng nhiều về số lượng nhưng năng suất lao động thấp và kém hiệu quả. Một trong những nguyên nhân khá quan trọng của sự kém hiệu quả về năng suất, chất lượng là lao động đang quá dư thừa.
Theo số liệu báo cáo chưa đầy đủ của 42 tỉnh, thành phố cho thấy số lượng lao động không bố trí được việc làm chiếm khoảng 6% so với tổng số lao động hiện có của các doanh nghiệp có báo cáo. Trong số lao động dôi dư thì số lao động dôi dư từ 40 tuổi trở xuống chiếm 59%, từ 41-50 tuổi chiếm 31%, từ 51 tuổi trở lên chiếm 10%.
Theo tính toán sơ bộ, giai đoạn 2000-2003, nước ta có khoảng 7,5 vạn lao động bị mất việc làm do 357 doanh nghiệp giải thể phá sản. Cũng chừng ấy lao động dôi dư từ các doanh nghiệp được cổ phần hoa, giao, bán, khoán kinh doanh và cho thuê. Chưa kể các doanh nghiệp còn lại (100% vốn Nhà nước) muốn vươn lên để có đủ sức cạnh tranh và hội nhập cũng cần phải giải quyết lượng lao động dôi dư là không nhỏ. Trước mắt theo chủ trương chung, cần giải quyết chừng 25 vạn lao động (10 vạn đã nghỉ việc từ lâu nhưng chưa giải quyết chế độ theo luật định, và 15 vạn do giải thể, phá sản và thực hiện cổ phần hoá, giao, bán, khoán và cho thuê). Với số lượng lao động cần giải quyết như vậy, cùng với hai yếu tố quan trọng là tuổi đời và thời gian công tác thì việc tính toán để có được các chính sách hỗ trợ đặc biệt là hỗ trợ để bảo đảm về quyền lợi BHXH là rất quan trọng và khó khăn.
2. Bảo hiểm xã hội với việc sắp xếp lao động doanh nghiệp.
Có một thực tế là trong quá trình cải cách doanh nghiệp Nhà nước đó là người lao động không muốn được đào tạo lại để có thể chuyển sang nghề khác, đặc biệt là những nghề nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm. Có hiện tượng là do khi chuyển sang nghề mới, khi nghỉ hưu người lao động sẽ hưởng lương hưu thấp hơn so với khi về hưu ở nghề cũ. Điều này dẫn đến tình trạng doanh nghiệp không thể sắp xếp và sử dụng hợp lý lao động của mình và xuất hiện đề nghị giảm tuổi hưu xuống thấp hơn quy định hiện hành ngay cả đối với những nghề đã giảm tuổi hưu.
3. CảI cách doanh nghiệp với vấn đề nợ bảo hiểm xã hội.
Thực tế những năm qua cho thấy khi thực hiện sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp, dù theo bất cứ hình thức nào, đều gặp phải trường hợp phải xử lý vấn đề nợ BHXH.
Nguyên nhân nợ BHXH cũng có rất nhiều và doanh nghiệp luôn tìm được lý do để biện minh cho mình, kể cả trường hợp đã trừ 5% lương của người lao động cũng vẫn nợ BHXH. Đối với các doanh nghiệp cổ phần hoá, giao doanh nghiệp cho tập thể người lao động và bán doanh nghiệp là chuyển đổi từ sở hữu Nhà nước sang sở hữu của các thành phần kinh tế khác. Vì vậy vấn đề nợ BHXH cần phải được giải quyết ngay từ trước khi chuyển đổi để đảm bảo quyền lợi của người lao động.
Trong cổ phần hoá mặc dù không đề cập riêng vấn đề xử lý nợ BHXH, mà được đề cập trong xử lý nợ nói chung, tức là được tính toán để trừ vào giá trị doanh nghiệp. Như vậy là nợ BHXH cũng chưa giải quyết được vì nò là tài sản, là giá trị của doanh nghiệp, không phải là tiền để trả nợ. Vấn đề này sẽ nan giải hơn khi các doanh nghiệp tiến hành cổ phần hoá không phải là những doanh nghiệp có lãi như những doanh nghiệp đã cổ phần hoá. Vấn đề nợ BHXH trong giao, bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp cũng đã được xử lý một bước bằng việc cho phép lấy từ Quỹ hỗ trợ sắp xếp và cổ phần hoá doanh nghiệp ban hành kèm theo Quyết định 177/1999/QĐ-TTg (gọi tắt là quỹ 177) nhưng cũng vẫn còn vướng mắc như trường hợp cổ phần hoá vì nguồn quỹ 177 còn quá nhỏ bé, hoặc chưa có. Thậm chí trong việc giao doanh nghiệp cho tập thể người lao động, giá trị doanh nghiệp nhỏ hơn cả số nợ phải thừa kế, có địa phương phải hỗ trợ thêm từ nguồn ngân sách của địa phương để giải quyết.
III. Một số khuyến nghị về hướng giảI quyết.
1. Hướng thứ nhất.
Cần có chính sách hỗ trợ nguồn tài chính để tài chính để doanh nghiệp giải quyết dứt đIểm nợ BHXH, nhất là những doanh nghiệp thực sự khó khăn về tài chính. Mặt khác cũng cần có chính sách hỗ trợ về nguồn tài chính để khuyến khích người lao về nghỉ hưu sớm. Cụ thể như sau:
Một là: đối với số lao động đã đóng đủ 30 năm BHXH trở lên nhưng chưa đủ điều kiện về tuổi đời, thiếu từ 1 đến 5 tuổi (con số dự tính) cụ thể là nam từ 55 đến dưới 60, nữ từ 50 đến dưới 55. Đối tượng này theo quy định tại Nghị định 93/CP thì đủ điều kiện về hưu mà không phải trừ lùi tỷ lệ % lương hưu được hưởng nếu tự nguyện xin nghỉ hưu. Nhưng thực tế cho thấy, do nhiều nguyên nhân khác nhau nên đa số người lao động không tự nguyện về hưu vì lương hưu quá thấp (chỉ bằng 75% mức lương đóng BHXH) so với thu nhập của họ khi còn ở doanh nghiệp. Vì vậy đối với nhóm đối tượng này cần có chính sách khuyến khích thoả đáng động viên họ về hưu sớm, đồng thời hỗ trợ thêm một phần thiếu hụt do về hưu trước tuổi.
Hai là: đối với nhóm đối tượng là những người đã đủ tuổi đời (nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi) nhưng thời gian đóng BHXH còn thấp, chẳng hạn từ 15 đến dưới 19 năm. Theo quy định tại Nghị định 93/CP, nhóm đối tượng này đủ đIều kiện về hưu với mức lương thấp hơn. Thực tế cho thấy họ không muốn về hưu mà chờ và đóng thêm BHXH để đủ đIều kiện về hưu và nhận lương hưu với mức bình thường. Đối với nhóm đối tượng này cũng cần hỗ trợ thêm để khuyến khích họ về hưu.
Mức khuyến khích và hỗ trợ có thể như sau:
- Đối với người chưa đủ tuổi, có thể hỗ trợ với mức lương là 1 hoặc 1,5 tháng lương cơ bản cho một năm về hưu trước tuổi.
- Đối với người chưa đủ năm đóng BHXH hỗ trợ để người lao động đóng thêm một số năm BHXH, đồng thời khuyến khích để họ về hưu sớm. Mức khuyến khích có thể thấp hơn so với nhóm trên vì số này đã được hỗ trợ để đóng thêm BHXH. Ngoài ra cũng cần cân đối thêm một nguồn tài chính cần thiết để bù chênh lệch giữa mức đóng và mức hưởng lương hưu cho những năm về sớm của cả hai nhóm đối tượng này.
Cuối cùng, bên cạnh việc hỗ trợ về tài chính và khuyến khích người lao động nghỉ hưu sớm cũng cần mở ra cho những người muốn tiếp tục tham gia BHXH khi họ tự tìm kiếm được nguồn. Đây là một vấn đề lớn có liên quan đến cả chính sách chung về BHXH. Để thực hiện được điều này cần tính toán cụ thể ví dụ: tỷ lệ đóng góp và tỷ lệ thụ hưởng như thế nào? Có tham gia hết các chế độ BHXH hay không hoặc chỉ tham gia một, hai chế độ trong 5 chế độ hiện hành… Việc nối kết giữa thời gian tham gia BHXH trước đó và tiếp theo sẽ được giải quyết như thế nào.
2. Hướng thứ hai.
Chính sách BHXH cần được điều chỉnh một số vấn đề sau:
Thứ nhất: đối tượng BHXH bắt buộc cần được mở rộng thêm ít ra là nơi sử dụng dưới 10 lao động và hợp tác xã.
Thứ hai: bổ sung thêm chính sách BHXH tự nguyện. Với chế độ của chúng ta, đương nhiên mọi người lao động đều được bảo hiểm cũng là mục tiêu xã hội quan trọng cần phải vươn tới. Xét theo góc độ cải cách doanh nghiệp, thì việc bổ sung thêm chế độ BHXH tự nguyện mang một ý nghĩa rất quan trọng. Nó giúp cho người lao động yên tâm, tin tưởng hơn khi cùng chia sẻ khó khăn với doanh nghiệp, với Nhà nước. Người lao động có thể tiếp nối việc tham gia BHXH khi họ có thể tạo ra nguồn thu nhập từ việc làm mới. Còn đối với người lao động thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc cũng có thể lựa chọn thêm cho bản thân một chế độ bảo hiểm tự nguyện nữa khi họ có điều kiện (ví dụ nghỉ việc với hai lương hưu…)
Thứ ba: cần bổ sung thêm chế độ bảo hiểm thất nghiệp. Xét từ góc độ cải cách doanh nghiệp thì đương nhiên có một bộ phận lao động không tránh khỏi bị mất việc làm (tạm thời hay lâu dài). Họ cần có điều kiện và cơ hội tiếp tục tham gia vào thị trường lao động. Xét từ góc độ xã hội nói chung cũng còn một bộ phận người lao động rơi vào tình trạng thất nghiệp.
Thứ tư: cần tính toán lại mức hưởng và đối tượng hưởng đối với người lao động chuyển nghề. Đặc biệt là đối với những người chuyển từ nghề nặng nhọc, độc hại nguy hiểm có mức lương cao hơn nghề cũ, khi nghỉ hưu sẽ có sự chênh lệch giữa người nghỉ hưu ở nghề có lương cao với người nghỉ ở nghề có lương thấp như trên phân tích.
Cuối cùng, về tổ chức bộ máy và hình thành các quỹ. Xu thế chung là quỹ BHXH không gộp cùng một quỹ mà được tách riêng thành các quỹ khác nhau. Hướng là như vậy nhưng vấn đề xử lý kỹ thuật cũng không đơn giản nhất là khi một số chế độ BHXH mới xuất hiện (BHXH tự nguyện, bảo hiểm xã hội thất nghiệp) lại chưa có nguồn trong thời gian dài. Theo đó là vấn đề tổ chức bộ máy để quản lý quỹ. Cũng là một vấn đề hết sức phức tạp và nhạy cảm nhất là trong giai đoạn chúng ta đang thực hiện tinh giản bộ máy, cải cách hành chính và không ít các ý kiến chưa hài lòng về bộ máy quản lý hiện nay.
kết luận
Trong thời đại ngày nay, khi mà khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển thì yếu tố con người ngày càng được coi trọng. Trong các đoàn thể, các xí nghiệp sản xuất kinh doanh, đâu đâu cũng đề ra khẩu hiệu con người là mục tiêu trước hết. Bởi vậy, hơn bao giờ hết, người lao động được quan tâm, chăm sóc về mọi mặt, từ vật chất đến tinh thần.
Chung tay góp sức trong hành động đó, BHXH đã và đang có những chính sách trợ cấp thoả đáng cho người lao động. Người lao động yên tâm sản xuất hơn, năng suất lao động cá nhân tăng cao dẫn đến năng suất lao động xã hội chuyển biến mạnh mẽ. Đây cũng là một trong những nguyên nhân góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội của cả nước.
Cùng với đà phát triển của xã hội, BHXH cũng sẽ có những chuyển biến tích cực để hoàn thiện hơn nữa vai trò của mình, xứng đáng là tổ chức mà mọi công dân ai cũng muốn tham gia.
tài liệu tham khảo
1. Hỏi đáp về bhxh – nxb lao động kỹ thuật.
2. bhxh – Những điều cần biết về bhxh – nxb thống kê.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 63057.DOC