Đề tài Những thách thức đối với hàng nông sản Việt Nam khi gia nhập WTO và giải pháp khai thác

Tài liệu Đề tài Những thách thức đối với hàng nông sản Việt Nam khi gia nhập WTO và giải pháp khai thác: LỜI NÓI ĐẦU Ngày 7/11/2006, tại Geneve (Thụy Sĩ) diễn ra Lễ ký Nghị định thư về việc Việt Nam được chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Vào ngày 28/11, Quốc hội đã thông qua Nghị định thư gia nhập WTO của VN. Và Theo quy định của WTO, 30 ngày sau khi tổ chức này nhận được thư phê chuẩn Hiệp định gia nhập WTO của Quốc hội Việt Nam, nước ta sẽ chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức này. Tham gia vào Tổ chức Thương mại Thế giới, nước ta đứng trước những cơ hội lớn như sau: Được tiếp cận thị trường hàng hoá và dịch vụ ở tất cả các nước thành viên với mức thuế nhập khẩu đã được cắt giảm và các ngành dịch vụ mà các nước mở cửa theo các Nghị định thư gia nhập của các nước này, không bị phân biệt đối xử; Với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện công khai minh bạch các thiết chế quản lý theo quy định của WTO, môi trường kinh doanh của nước ta ngày càng được cải thiện. Gia nhập WTO chúng ta có...

docx19 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1273 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Những thách thức đối với hàng nông sản Việt Nam khi gia nhập WTO và giải pháp khai thác, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Ngày 7/11/2006, tại Geneve (Thụy Sĩ) diễn ra Lễ ký Nghị định thư về việc Việt Nam được chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Vào ngày 28/11, Quốc hội đã thông qua Nghị định thư gia nhập WTO của VN. Và Theo quy định của WTO, 30 ngày sau khi tổ chức này nhận được thư phê chuẩn Hiệp định gia nhập WTO của Quốc hội Việt Nam, nước ta sẽ chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức này. Tham gia vào Tổ chức Thương mại Thế giới, nước ta đứng trước những cơ hội lớn như sau: Được tiếp cận thị trường hàng hoá và dịch vụ ở tất cả các nước thành viên với mức thuế nhập khẩu đã được cắt giảm và các ngành dịch vụ mà các nước mở cửa theo các Nghị định thư gia nhập của các nước này, không bị phân biệt đối xử; Với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện công khai minh bạch các thiết chế quản lý theo quy định của WTO, môi trường kinh doanh của nước ta ngày càng được cải thiện. Gia nhập WTO chúng ta có được vị thế bình đẳng như các thành viên khác trong việc hoạch định chính sách thương mại toàn cầu, có cơ hội để đấu tranh nhằm thiết lập một trật tự kinh tế mới công bằng hơn, hợp lý hơn, có điều kiện để bảo vệ lợi ích của đất nước, của doanh nghiệp. Mặc dầu chủ trương của chúng ta là chủ động đổi mới, cải cách thể chế kinh tế ở trong nước để phát huy nội lực và hội nhập với bên ngoài nhưng chính việc gia nhập WTO, hội nhập vào nền kinh tế thế giới cũng thúc đẩy tiến trình cải cách trong nước, bảo đảm cho tiến trình cải cách của ta đồng bộ hơn, có hiệu quả hơn; Cùng với những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử sau 20 năm đổi mới, việc gia nhập WTO sẽ nâng cao vị thế của ta trên trường quốc tế, tạo điều kiện cho ta triển khai có hiệu quả đường lối đối ngoại theo phương châm: Việt Nam mong muốn là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng thế giới vì hoà bình, hợp tác và phát triển. Tuy nhiên, đối tượng chịu tác động mạnh nhất khi Việt Nam gia nhập WTO là nông dân vì có đến hơn 2/3 hộ gia đình làm nông nghiệp. Nông nghiệp là chìa khoá của sự ổn định và phát triển đối với người dân. Trong bối cảnh hội nhập WTO, nông nghiệp nước ta có thể sẽ gặp không ít những tác động ảnh hưởng đến sự phát triển ổn định của nông nghiệp, ảnh hưởng phần lớn người dân nước ta nhưng cùng với đó sẽ có thêm nhiều cơ hội phát triển. Với mục đích làm rõ hơn những thách thức đối với hàng nông sản Việt Nam trong bối cảnh gia nhập WTO từ đó đề ra những giải pháp cụ thể. Vì lý do trên nên tôi chọn đề tài: “NHỮNG THÁCH THỨC ĐỐI VỚI HÀNG NÔNG SẢN VIỆT NAM KHI GIA NHẬP WTO VÀ GIẢI PHÁP KHAI THÁC” CHƯƠNG I TỔNG QUAN VỀ WTO VÀ QÚA TRÌNH GIA NHẬP CỦA VIỆT NAM 1.1 Những nét chính về WTO Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) ra đời từ các cuộc đàm phán; tất cả những gì tổ chức này làm được đều thông qua con đường đàm phán. WTO được thành lập vào năm 1995 nhưng hệ thống thương mại của nó thì đã tồn tại từ hơn nửa thế kỷ nay. Năm 1948, Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT: General Agreement on Tarrifs and Trade”) đã đề ra hàng loạt các quy định cho hệ thống thương mại. Vào tháng năm 1998, tại Hội nghị bộ trưởng WTO lần thứ hai tổ chức tại Gienevơ, hệ thống này đã kỷ niệm 50 năm ngày ra đời của mình Nói một cách đơn giản, WTO là nơi đề ra những quy tắc thương mại giữa các quốc gia trên quy mô thế giới hoặc gần như toàn thế giới. Tuy nhiên, đó chưa phải là tất cả... Có nhiều cách nhìn nhận khác nhau về WTO. Nó là một tổ chức để tự do hoá thương mại; là diễn đàn để các chính phủ đàm phán các hiệp định thương mại; là nơi để họ giải quyết tranh chấp thương mại. Nó điều hành hệ thống các quy tắc thương mại. Trước tiên, WTO là một khuôn khổ để đàm phán: WTO là diễn đàn, nơi các quốc gia thành viên thương lượng giải quyết những tranh chấp phát sinh trong quan hệ thương mại giữa họ. Bước giải quyết tranh chấp đầu tiên là thảo luận. WTO ra đời từ các cuộc đàm phán và tất cả những gì tổ chức này làm được đều thông qua còn đường đàm phán. Các hoạt động mà WTO đang xúc tiến hiện nay chủ yếu xuất phát từ những cuộc đàm phán diễn ra từ năm 1986 đến 1994, mang tên Vòng đàm phán Urugoay, và từ những cuộc đàm phán trước đó trong khuôn khổ Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT). Hiện nay, WTO đang tổ chức các cuộc đàm phán mới trong khuôn khổ “chương trình phát triển Doha” được khởi xướng từ năm 2001. Đối với những nước phải đối mặt với những rào cản trong thương mại và muốn hạ thấp các rào cản này, thì đàm phán góp phần thúc đẩy tự do hoá thương mại. Tuy nhiên, WTO không chỉ tập trung vào mục tiêu tự do hoá thương mại, trong một số trường hợp, WTO còn đề ra những quy định ủng hộ việc duy trì rào cản thương mại, ví dụ như trong trường hợp bảo vệ người tiêu dùng hay ngăn chặn sự lan tràn của một dịch bệnh nào đó. Thứ hai WTO là tập hợp các quy tắc: Nòng cốt của tổ chức là các hiệp định WTO được phần lớn các quốc gia thương mại trên thế giới đàm phán và ký kết. Những văn bản này tạo thành quy tắc pháp lý nền tảng của thương mại quốc tế. Đó chủ yếu là những cam kết cơ bản ràng buộc các chính phủ thực thi chính sách thương mại trong khuôn khổ đã thoả thuận. Mặc dù do các chính phủ đàm phán và ký kết, song mục tiêu của những cam kết này là giúp các nhà sản xuất hàng hoá, dịch vụ cũng như các nhà xuất, nhập khẩu triển khai các hoạt động của mình, đồng thời vẫn cho phép chính phủ các nước đáp ứng được những mục tiêu xã hội và môi trường. Mục tiêu trọng tâm của hệ thống là giúp trao đổi thương mại được tự do nhất trong khi vẫn tránh được những tác động không mong muốn. Đó một phần là xoá bỏ những rào cản. Đó còn là việc đảm bảo cho các cá nhân, doanh nghiệp và cơ quan chính phủ hiểu biết về những quy định thương mại hiện hành trên thế giới và cho họ lòng tin là sẽ không có sự thay đổi chính sách đột ngột. Nói cách khác, các qui định phải “minh bạch” và dự đoán trước được. WTO giúp các nước giải quyết tranh chấp: Đây chính là hoạt động quan trọng thứ ba của WTO. Quan hệ thương mại thường làm nảy sinh những lợi ích mâu thuẫn nhau. Tất cả các hiệp định, kể cả những hiệp định đã được các nước thành viên WTO đàm phán một cách kỹ lưỡng đều cần phải được diễn giải. Cách tốt nhất để giải quyết tranh chấp là đưa ra một thủ tục trung gian dựa trên cơ sở pháp lí đã thoả thuận. Đây chính là mục tiêu của quá trình giải quyết tranh chấp nêu trong các Hiệp định của WTO. 1.2 Vai trò của WTO Hiện nay, WTO có 150 thành viên và 29 thành viên đang đàm phán (trong đó có Việt Nam). WTO là tổ chức thương mại lớn nhất toàn cầu. Liên hợp quốc có 192 thành viên. WTO là 179 thành viên. Số thành viên của WTO hầu như đã là thành viên của Liên hợp quốc. Ðây là sân chơi mà cả thế giới chơi. Nếu chúng ta đứng ngoài thì chúng ta sẽ không tham gia được vào sân chơi điều tiết toàn bộ ngành thương mại thế giới, chiếm 85% thương mại hàng hóa, 90% thương mại dịch vụ toàn cầu. WTO quyết định hoạt động kinh tế, thương mại, đầu tư của toàn cầu. WTO có một bộ nguyên tắc khổng lồ điều tiết toàn bộ hoạt động kinh tế, thương mại, trong đó có năm nguyên tắc lớn: minh bạch hóa chính sách (rõ ràng, minh bạch, cụ thể, dễ dự đoán để giúp các nhà doanh nghiệp nắm được, thực hiện kinh doanh. Nếu nói thông thoáng (không có luật) thì không phải, luật phải rõ ràng, minh bạch, trước khi ra luật mới phải thông báo cho các doanh nghiệp biết và dự đoán được, chuẩn bị làm ăn). Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc (đối xử cho nước này không kém hơn đối xử của nước thứ ba). Không phân biệt đối xử. Ðối xử quốc gia (dành cho doanh nghiệp nước ngoài đối xử không kém hơn đối xử doanh nghiệp trong nước). Mở cửa thị trường hàng hóa, dịch vụ giúp cho thương mại toàn cầu phát triển, kinh tế phát triển. WTO có khoảng 18 hiệp định lớn và 1 bộ quy tắc. 18 hiệp định: hiệp định về thuế quan (GATT), dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ, trị giá hải quan, hiệp định về vấn đề hàng nông nghiệp, chống bán phá giá, chống trợ cấp, hiệp định về cấp phép nhập khẩu, kiểm tra hàng trước khi xếp, kiểm dịch động thực vật, quy tắc xuất xứ, một số hiệp định khác; rào cản thương mại (TBT). Toàn bộ quy tắc gói gọn trong 30 vạn trang. Ðây là bộ quy tắc khổng lồ, giúp điều tiết toàn bộ thương mại toàn cầu. 1.3 Các nguyên tắc của WTO * Không phân biệt đối xử: không một nước nào được có sự phân biệt đối xử giữa các đối tác thương mại của mình (nghĩa là phải dành cho họ một cách công bằng qui chế “đối xử tối huệ quốc” hay còn gọi là quy chế MFN) cũng như không được phân biệt đối xử giữa hàng hoá, dịch vụ và người nước ngoài (nghĩa là phải dành cho họ quy chế “đối xử quốc gia”); * Tự do hơn: xoá bỏ rào cản thông qua con đường đàm phán. * Dự đoán trước được: phải đảm bảo cho các công ty, các nhà đầu tư và chính phủ nước ngoài rằng sẽ không áp dụng một cách tuỳ tiện các rào cản thương mại (gồm hàng rào thuế quan và phi thuế quan); mức thuế quan và các cam kết mở cửa thị trường được “ràng buộc” tại WTO. * Cạnh tranh hơn: hạn chế những biện pháp thương mại không lành mạnh như trợ cấp xuất khẩu, bán phá giá, nghĩa là bán với giá thấp hơn giá thành sản phẩm nhằm mục đích chiếm thị phần; * Dành ưu đãi cho các nước kém phát triển: cho họ một thời hạn dài và linh động hơn, cùng một số đặc quyền thương mại. 1.4. Những lý do của tự do hoá thương mại Quan điểm kinh tế về một hệ thống thương mại mở trên cơ sở những nguyên tắc được thoả thuận đa biên tương đối đơn giản và chủ yếu xuất phát từ xu hướng chung của thương mại. Không những thế, nó còn được ủng hộ bởi thực tiễn thương mại thế giới và sự tăng trưởng kinh tế từ sau chiến tranh thế giới thứ hai. Thuế quan đối với hàng công nghiệp đã giảm nhanh chóng và hiện nay trung bình ở dưới mức 5% tại các nước phát triển. Trong vòng 25 năm sau chiến tranh thế giới thứ hai, tăng trưởng kinh tế thế giới đạt mức bình quân 5%/năm, một phần là nhờ việc giảm bớt các rào cản thương mại. Thương mại thế giới tăng trưởng với tốc độ nhanh hơn, với tỷ lệ trung bình khoảng 8% trong giai đoạn nói trên. Số liệu thống kê cho thấy có một mối liên hệ không thể phủ nhận giữa tự do hoá thương mại và tăng trưởng kinh tế. Theo học thuyết kinh tế, mối liên hệ này được lý giải một cách hết sức khoa học. Tất cả các nước, kể cả các nước nghèo đều có những nguồn lực như nhân lực, công nghiệp, tài nguyên thiên nhiên, tài chính mà họ có thể khai thác để sản xuất hàng hoá và dịch vụ phục vụ thị trường nội địa hoặc nước ngoài. Khoa học kinh tế cho thấy chúng ta có thể thu lợi khi hàng hoá và dịch vụ được thương mại hoá. Nói một cách đơn giản, nguyên tắc “lợi thế so sánh” chỉ ra rằng các nước làm giàu trước tiên bằng cách tận dụng các nguồn lực sẵn có để tập trung sức lực vào những lĩnh vực mà họ có điều kiện sản xuất tốt nhất, tiếp đến bằng cách trao đổi những sản phẩm này lấy những sản phẩm mà những nước khác có thể sản xuất với những điều kiện tốt nhất. Nói cách khác, chính sách thương mại tự do hay chính sách đảm bảo cho hàng hoá và dịch vụ tự do lưu thông là làm gia tăng cạnh tranh, khuyến khích khả năng sáng tạo và tạo ra thành công. Chính sách thương mại tự do này giúp người ta thu được thêm nhiều lợi nhuận từ việc sản xuất ở điều kiện tốt nhất, với kế haọch hoàn hảo nhất và giá thành thấp nhất. Tuy nhiên, thành công trong thương mại không phải là một hiện tượng tĩnh. Một doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh hoàn hảo đối với một sản phẩm nào đó có thể trở nên kém cạnh tranh hơn một doanh nghiệp khác khi thị trường phát triển hay khi công nghệ mới cho phép tạo ra những sản phẩm với giá rẻ hơn và chất lượng tốt hơn. Nhà sản xuất được khuyến khích thay đổi để tự thích nghi từng bước và tránh bị tổn thất. Họ có thể tạo ra các sản phẩm mới, tìm thấy cơ hội làm ăn mới trong lĩnh vực hoạt động sẵn có của mình hay lao vào một lĩnh vực hoàn toàn mới mẻ. Kinh nghiệm cho thấy khả năng cạnh tranh cũng có thể chuyển từ nước này sang nước khác. Một nước có nhiều điều kiện thuận lợi nhờ giá nhân công rẻ hoặc nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú có thể bị mất khả năng cạnh tranh đối với một số hàng hoá và dịch vụ với sự phát triển của nền kinh tế. Tuy nhiên, nhờ tác dụng khuyến khích của việc mở cửa nền kinh tế, nước này có thể lại trở nên cạnh tranh đối với hàng hoá hay dịch vụ khác. Nói chung, đây là một quá trình dần dần. Tuy nhiên, ý định từ chối đương đầu với thách thức mà các mặt hàng nhập khẩu có khả năng cạnh tranh đặt ra vẫn tồn tại dai dẳng. Và chính phủ các nước giàu có thể bị cám dỗ bởi các biện pháp bảo hộ nhằm có được lợi thế về mặt chính trị ngắn hạn thông qua việc trợ cấp, đề ra những thủ tục hành chính rắc rối, viện cớ vì các mục đích chung hợp pháp như gìn giữ môi trường hay bảo vệ người tiêu dùng nhằm bảo hộ cho các nhà sản xuất trong nước Bảo hộ làm cho các nhà sản xuất trong nước trở nên cồng kềnh, không hiệu quả, cung cấp cho người tiêu dùng những sản phẩm lỗi thời hoặc kém hấp dẫn. Và cuối cùng, mặc dù được nhà nước bảo hộ và trợ cấp, các nhà máy vẫn phải đóng cửa và cắt giảm việc làm. Nếu chính phủ các nước khác trên thế giới cũng áp dụng những chính sách tương tự thì thị trường sẽ bị thu hẹp và hoạt động kinh tế thế giới sẽ trở nên trì trệ. Một trong những mục tiêu mà chính phủ các nước theo đuổi tại các cuộc đàm phán WTO là ngăn chặn để không bị trượt vào vòng xoáy bảo hộ, vốn được xem là một biện pháp đi ngược lại với mục đích mà các quốc gia thành viên đang tìm kiếm Lợi thế so sánh Giả sử rằng nước A giỏi hơn nước B về chế tạo ô tô và nước B làm bánh mì ngon hơn nước A (các nhà lý luận cho rằng so sánh như vậy là khập khiễng). Rõ ràng, vì lợi ích của mình, A sẽ chuyên vào việc sản xuất ô tô còn B chuyên vào việc làm bánh mì, sau đó hai bên trao đổi sản phẩm với nhau. Đây là ví dụ về lợi thế tuyệt đối. Nhưng điều gì xảy ra nếu một nước không có thế mạnh trong bất cứ một lĩnh vực nào? Vậy thì thương mại có gạt bỏ tất cả các nhà sản xuất của nước này ra khỏi thị trường không? Theo Ricardo thì không. Điều này được lý giải bằng nguyên tắc lợi thế so sánh. Theo nguyên tắc này, các nước A và B luôn luôn mong muốn trao đổi thương mại với nhau, ngay cả khi A giỏi về mọi mặt. Nếu A là một nước sản xuất ô tô rất giỏi và chỉ là một nước sản xuất bành mì tương đối giỏi, A sẽ luôn mong muốn đầu tư vào lĩnh vực mà mình giỏi hơn cả - nghĩa là sản xuất ô tô - và xuất khẩu ô tô sang B, nước tiếp tục đầu tư vào lĩnh vực mà mình nắm rõ nhất - nghĩa là làm bánh mì - và bán sản phẩm đó sang A, cho dù B làm bánh không giỏi bằng A. Như vậy thương mại vẫn có lợi cho cả hai bên. Một nước không cần phải giỏi trong lĩnh vực nào mới có thể tận dụng được thương mại. Đó là lợi thế so sánh. Học thuyết này do nhà kinh tế học Đavi Ricardo tìm ra. Đây là một trong những học thuyết được nhiều nhà kinh tế chấp nhận nhất. Học thuyết này cũng gây ra nhiều nhầm lẫn nhất đối với giới kinh tế không chuyên vì họ luôn nhầm học thuyết này với lợi thế tuyệt đối. Chẳng hạn chúng ta thường nghe nói rằng một số nước chẳng có lợi thế so sánh nào cả. Thực tế, điều này không bao giờ xảy ra. 1.5. Tóm tắt các cam kết gia nhập WTO của Việt Nam 1.5.1 Cam kết đa phương Theo kết quả đàm phán, Việt Nam đồng ý tuân thủ toàn bộ các hiệp định và quy định mang tính ràng buộc của WTO từ thời điểm gia nhập. Tuy nhiên do nước ta đang phát triển ở trình độ thấp lại đang trong quá trình chuyển đổi nên ta yêu cầu và được WTO chấp nhận cho hưởng một thời gian chuyển đổi để thực hiện một số cam kết có liên quan đến thuế tiêu thụ đặc biệt, trợ cấp phi nông nghiệp, quyền kinh doanh. Các cam kết chính trong vấn đề đa phương là: Việt Nam chấp nhận bị coi là nền kinh tế phi thị trường trong 12 năm tức là không muộn hơn 31/12/2018. Tuy nhiên, trước thời điểm trên, nếu ta chứng minh được với đối tác nào là kinh tế Việt Nam hoàn toàn hoạt động theo cơ chế thị trường thì đối tác đó ngừng áp dụng chế độ “phi thị trường” đối với ta. Chế độ “phi thị trường” chỉ có ý nghĩa trong các vụ kiện chống bán phá giá. Và các thành viên WTO không có quyền áp dụng cơ chế tự vệ đặc thù đối với hàng xuất khẩu nước ta dù ta bị coi là nền kinh tế phi thị trường. Về dệt may, các thành viên WTO sẽ không được áp dụng hạn ngạch dệt may đối với Việt Nam khi vào WTO (riêng trường hợp ta vi phạm quy định WTO về trợ cấp bị cấm đối với hàng dệt may thì một số nước có thể có biện pháp trã đũa nhất định). Ngoài ra thành viên WTO cũng sẽ không được áp dụng tự vệ đặc biệt đối với hàng dệt may của nước ta. Về trợ cấp phi nông nghiệp, Việt Nam đồng ý bãi bỏ hoàn toàn các loại trợ cấp bị cấm theo quy định WTO như trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp nội địa hóa. Tuy nhiên với các ưu đãi đầu tư dành cho hàng xuất khẩu đã cấp trước ngày gia nhập WTO, ta được bảo lưu thời gian quá độ là 5 năm (trừ ngành dệt may). Về trợ cấp nông nghiệp, Việt Nam cam kết không áp dụng trợ cấp xuất khẩu đối với nông sản từ thời điểm gia nhập. Tuy nhiên, ta bảo lưu quyền được hưởng một số quy định riêng của WTO dành cho nước đang phát triển trong lĩnh vực này. Đối với loại hỗ trợ mà WTO quy định phải cắt giảm nhìn chung ta duy trì được ở mức không quá 10% giá trị sản lượng. Ngoài mức này, ta còn bảo lưu thêm một số khoản hỗ trợ nữa vào khoảng 4.000 tỷ đồng mỗi năm. Các loại trợ cấp mang tính chất khuyến nông hay trợ cấp phục vụ phát triển nông nghiệp được WTO cho phép nên ta được áp dụng không hạn chế. Về quyền kinh doanh (quyền xuất nhập khẩu hàng hóa): Việt Nam đồng ý cho doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài được quyền xuất nhập khẩu hàng hóa như người Việt Nam kể từ khi gia nhập, trừ các mặt hàng thuộc danh mục thương mại nhà nước (như xăng dầu, thuốc lá điếu, xì gà, băng đĩa hình, báo chí) và một số mặt hàng nhạy cảm khác mà ta chỉ cho phép sau một thời gian chuyển đổi (như gạo và dược phẩm). Cam kết của Việt Nam đồng ý cho phép doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài không có hiện diện tại Việt Nam được đăng ký quyền xuất nhập khẩu tại Việt Nam. Quyền xuất nhập khẩu chỉ là quyền đứng tên trên tờ khai hải quan để làm thủ tục xuất nhập khẩu. Trong mọi trường hợp, DN và cá nhân nước ngoài sẽ không được tự động tham gia vào hệ thống phân phối trong nước. Các cam kết về quyền kinh doanh sẽ không ảnh hưởng đến quyền của ta trong việc đưa ra các quy định để quản lý dịch vụ phân phối, đặc biệt đối với sản phẩm nhạy cảm như dược phẩm, xăng dầu, báo - tạp chí… Về thuế tiêu thụ đặc biệt đối với rượu và bia, các thành viên WTO đồng ý cho ta thời gian chuyển đổi không quá 3 năm để điều chỉnh lại thuế tiêu thụ đặc biệt đối với rượu và bia cho phù hợp với quy định WTO. Hướng sửa đổi là đối với rượu trên 20 độ cồn hoặc sẽ áp dụng một mức thuế tuyệt đối hoặc một mức thuế phấn trăm. Đối với bia, sẽ chỉ áp dụng một mức thuế phần trăm. Đối với doanh nghiệp nhà nước (DNNN), doanh nghiệp thương mại nhà nước, cam kết trong lĩnh vực này là nhà nước sẽ không can thiệp trực tiếp hay gián tiếp vào hoạt dộng DNNN. Tuy nhiên, nhà nước với tư cách là một cổ đông được can thiệp bình đẳng vào hoạt động của DN như các cổ đông khác. Ta cũng đồng ý cách hiểu mua sắm của DNNN không phải là mua sắm Chính phủ. Về tỷ lệ cổ phần thông qua quyết định tại DN: Điều 52 và 104 của Luật DN quy định một số vấn đề quan trọng có liên quan đến hoạt động của công ty TNHH và Công ty cổ phần chỉ được phép thông qua khi có số phiếu đại diện ít nhất là 65% hoặc 75% vốn góp chấp thuận. Quy định này có thể vô hiệu hóa quyền của bên góp đa số vốn trong liên doanh. Do vậy, ta đã xử lý theo hướng cho phép các bên tham gia liên doanh được thỏa thuận vấn đề này trong điều lệ công ty Về một số biện pháp hạn chế nhập khẩu, ta đồng ý cho nhập khẩu xe máy phân phối lớn không muộn hơn ngày 31/5/2007. Với thuốc lá điếu và xì gà, ta đồng ý bỏ biện pháp cấm nhập khẩu từ thời điểm gia nhập. Tuy nhiên sẽ chỉ có một DN nhà nước được quyền nhập khẩu toàn bộ thuốc lá điều và xì gà. Mức thuế nhập khẩu mà ta đàm phán được cho hai mặt hàng này là rất cao. Với ôtô cũ ta cho phép nhập khẩu các loại xe đã qua sử dụng không quá 5 năm. Về cam kết thực hiện minh bạch hóa, ngay từ khi gia nhập Việt Nam sẽ công bố dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội, Uỷ ban thường vụ quốc hội và Chính phủ ban hành để lấy ý kiến nhân dân. Thời hạn dành cho việc góp ý và sửa đổi tối thiểu là 60 ngày. Việt Nam cũng cam kết sẽ đăng công khai các văn bản pháp luật trên các tạp chí, trang tin điện tử của bộ, ngành. Một số cam kết liên quan khác: thuế xuất khẩu, Việt Nam chỉ cam kết sẽ giảm thuế xuất khẩu đối với phế liệu kim loại đen và màu theo lộ trình, không cam kết về thuế xuất khẩu của các sản phẩm khác.  Về đa phương, Việt Nam còn đàm phán một số vấn dề đa phương khác như bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, đặc biệt là sử dụng phần mềm hợp pháp trong cơ quan Chính phủ. Định giá tính thuế xuất nhập khẩu, các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại, các biện pháp hàng rào kỹ thuật trong thương mại… Với nội dung này, ta cam kết tuân thủ các quy định của WTO kể từ khi gia nhập. 1.5.2 Cam kết về thuế nhập khẩu Mức cam kết chung của Việt Nam là đồng ý ràng buộc mức trần cho toàn bộ biểu thuế (10.600 dòng). Mức thuế bình quân toàn biểu được giảm từ mức hiện hành 17,4% xuống còn 13,4% thực hiện dần trung bình 5 - 7 năm. Mức thuế bình quân đối với hàng nông sản giảm từ mức hiện hành 23,5% xuống còn 20,9% thực hiện trong khoảng 5 năm. Với hàng công nghiệp từ 16,8% xuống còn 12,6% thực hiện chủ yếu trong vòng 5 - 7 năm. Mức cam kết cụ thể: sẽ có khoảng hơn 1/3 dòng số dòng thuế sẽ phải cắt giảm, chủ yếu là các dòng có thuế suất trên 20%. Các mặt hàng trọng yếu, nhạy cảm đối với nền kinh tế như nông sản, xi măng, sắt thép, vật liệu xây dựng, ôtô - xe máy… vẫn duy trì được mức bảo hộ nhất định. Những ngành có mức giảm thuế nhiều nhất bao gồm: dệt may, cá và sản phẩm cá, gỗ và giấy, hàng chế tạo khác, máy móc và thiết bị điện - điện tử. Bên cạnh đó, Việt Nam đạt được mức thuế trần cao hơn mức đang áp dụng đối với nhóm hàng xăng dầu, kim loại, hóa chất là phương tiện vận tải. Cam kết của Việt Nam sẽ cắt giảm thuế theo một số hiệp định tự do theo ngành của WTO (giảm thuế xuống 0% hoặc mức thấp). Đây là hiệp định tự nguyện của WTO nhưng các nước mới gia nhập đều phải tham gia một số ngành. Ngành mà ta cam kết tham gia là sản phẩm công nghệ thông tin, dệt may và thiết bị y tế. Ta cũng tham gia một phần với thời gian thực hiện từ 3 - 5 năm đối với ngành thiết bị máy bay, hóa chất và thiết bị xây dựng. Về hạn ngạch thuế quan, bảo lưu quyền áp dụng với đường, trứng gia cầm, lá thuốc lá và muối. 1.5.3 Cam kết về mở của thị trường dịch vụ Về diện cam kết, trong Hiệp định thương mại song phương (BTA) với Hoa Kỳ ta đã cam kết 8 ngành dịch vụ (khoảng 65 phân ngành). Trong thỏa thuận WTO, ta cam kết đủ 11 ngành dịch vụ, tính theo phân ngành khoảng 110 ngành. Về mức độ cam kết, với hầu hết các ngành dịch vụ, trong đó có những ngành nhạy cảm như bảo hiểm, phân phối, du lịch… ta giữ được mức độ cam kết gần như trong BTA. Riêng viễn thông, ngân hàng và chứng khoán, để sớm kết thúc đàm phán, ta đã có một số bước tiến nhưng nhìn chung không quá xa so với hiện trạng và đều phù hợp với định hướng phát triển đã được phê duyệt cho các ngành này. Cam kết chung cho các ngành dịch vụ về cơ bản như BTA. Trước hết, công ty nước ngoài không được hiện diện tại Việt Nam dưới hình thức chi nhánh, trừ phi điều đó được ta cho phép trong từng ngành cụ thể. Ngoài ra, công ty nước ngoài tuy được phép đưa cán bộ quản lý vào làm việc tại Việt Nam nhưng ít nhất 20% cán bộ quản lý của công ty phải là người Việt Nam. Cuối cùng, ta cho phép tổ chức và cá nhân nước ngoài được mua cổ phần trong các doanh nghiệp Việt Nam nhưng tỷ lệ phải phù hợp với mức mở cửa thị trường ngành đó. Riêng ngân hàng ta chỉ cho phép ngân hàng nước ngoài mua tối đa 30% cổ phần. Dịch vụ khai thác hỗ trợ dầu khí: Đồng ý cho phép các DN nước ngoài được thành lập công ty 100% vốn nước ngoài sau 5 năm kể từ khi gia nhập để đáp ứng các dịch vụ hỗ trợ khai thác dầu khí. Tuy nhiên, Việt Nam còn giữ nguyên quyền quản lý các hoạt động trên biển, thềm lục địa và quyền chỉ định các ty thăm dò, khai thác tài nguyên. Bảo lưu được một danh mục các dịch vụ dành riêng cho các DN Việt Nam như dịch vụ bay, dịch vụ cung cấp trang thiết bị và vật phẩm cho dàn khoan xa bờ… Tất cả các công ty vào Việt Nam cung ứng dịch vụ hỗ trợ dầu khí đều phải đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Dịch vụ viễn thông, Việt Nam có thêm một số nhận nhượng so với BTA nhưng ở mức độ hợp lý, phù hợp với chiến lược phát triển của ta. Cụ thể là cho phép thành lập liên doanh đa số vốn nước ngoài để cung cấp dịch vụ viễn thông không gắn với hạ tầng mạng (phải thuê mạng do DN Việt Nam nắm quyền kiểm soát) và nới lỏng một chút về việc cung cấp dịch vụ qua biên giới để đổi lấy giữ lại hạn chế áp dụng cho viễn thông có gắn với hạ tầng mạng (chỉ các các doanh nghiệp nhà nước nắm đa số vốn mới đầu tư hạ tầng mạng, nước ngoài chỉ được góp vốn đến 49% và cũng chỉ được liên doanh với đối tác Việt Nam đã được cấp phép). Dịch vụ phân phối, về cơ bản giữ được như BTA, tức là khá chặt só với các nước mới gia nhập. Trước hết, về thời điểm cho phép thành lập DN 100% vốn nước ngoài là như BTA (1/1/2009). Thứ hai, tương tự như BTA, ta không mở cửa thị trường phân phối xăng dầu, dược phẩm, sách báo, tạp chí, băng hình, thuốc lá, gạo, đường và kim loại quý cho nước ngoài. Nhiều sản phẩm nhạy cảm như sắt thép, xi măng, phân bón… ta chỉ mở cửa thị trường sau 3 năm. DN có vốn đầu tư nước ngoài, mở điểm bán lẻ thứ hai trở đi phải được ta cho phép theo từng trường hợp cụ thể. Dịch vụ bảo hiểm, về tổng thể, mức độ cam kết ngang BTA, tuy nhiên, ta đồng ý cho Hoa Kỳ thành lập chi nhánh bảo hiểm phi nhân thọ sau 5 năm kể từ ngày gia nhập. Dịch vụ ngân hàng, ta đồng ý cho thành lập ngân hàng con 100% vốn nước ngoài không muộn hơn ngày 1/4/2007. Ngoài ra ngân hàng nước ngoài muốn được thành lập chi nhánh tại Việt Nam nhưng chi nhánh đó không được phép mở chi nhánh phụ và vẫn phi chịu hạn chế về huy động tiền gửi bằng VND từ thể nhân Việt Nam trong vòng 5 năm kể từ khi ta gia nhập WTO. Ta vẫn giữ được hạn chế về mua cổ phần trong ngân hàng Việt Nam (không quá 30%).  Dịch vụ chứng khoán, ta cho phép thành lập công ty chứng khoán 100% vốn nước ngoài và chi nhánh sau 5 năm kể từ khi gia nhập WTO Các cam kết khác, với các ngành còn lại như du lịch, giáo dục, pháp lý, kế toán, xây dựng, vận tải… mức độ cam kết về cơ bản không khác nhiều so với BTA. Ngoài ra không mở cửa dịch vụ in ấn - xuất bản. CHƯƠNG II HÀNG NÔNG SẢN VIỆT NAM 2.1. Tình hình nông sản xuất khẩu của Việt Nam. Việt Nam là nước đất chật, người đông, bình quân đất canh tác chỉ có 0,3 ha/hộ. Nhưng, nước ta có nhiều mặt hàng nông sản xuất khẩu được xếp hạng trên thế giới: gạo (có lúc xếp thứ 2, có lúc thứ 3 thế giới); cà phê (đứng thứ 2 thế giới), tiêu (số 1 thế giới), điều (số 2 thế giới), chè chúng ta có sản lượng đứng thứ 8 thế giới, hải sản, thủy sản cũng được xếp thứ 8, 9 thế giới. Tuy nhiên các mặt hàng nông sản của Việt Nam chủ yếu được xuất khẩu dưới dạng thô, giá trị gia tăng trong hàng xuất khẩu đạt thấp. Ví dụ cụ thể như sau: Chất lượng trái cây ngoại nhiều khi không ngon bằng trái cây Việt Nam, nhưng vẫn được chấp nhận và lấn lướt trái cây nội địa. Chẳng hạn cam sành Bến Tre hương và vị thơm ngon không thua kém cam Mỹ, giá chỉ 25.000 đồng/kg, trong khi đó cam Mỹ giá 45.000 đồng/kg, nhưng không phải ai cũng dùng cam sành. Tương tự, trên các quầy trái cây, sầu riêng Thái Lan vẫn chiếm giữ số lượng lớn mặc dù giá và vị ngon vẫn không hơn sầu riêng Cái Mơn. Việt Nam là nước xuất khẩu gạo đứng nhì thế giới, nhưng theo biểu giá của Australian Commodity Statistics 2005, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam thấp nhất trong 6 nước xuất khẩu gạo. Gạo Việt Nam xuất khẩu với giá 218USD, trong khi đó, Thái Lan vừa đứng đầu về số lượng, vừa có giá cao hơn Việt Nam 60,33 USD/tấn. Cao nhất là Úc xuất với giá 509,9 USD/tấn. Sở dĩ Chất lượng hàng nông sản Việt Nam bị như trên là do các lý do sau: Cây và giống cây chất lượng kém Nếu nói về sự thế yếu của trái cây, ngoài năng lực hạn chế trong việc xây dựng thương hiệu, làm marketing, khả năng xúc tiến xuất khẩu… thì nguyên do nữa là bị thả nổi về cây giống. Nhà nước không có chính sách rõ ràng và không có hệ thống sản xuất và cung ứng giống. Từ nhiều năm qua, Việt Nam đã tạo ra nhiều giống lúa tốt, hạt gạo Việt Nam sản xuất ra không thua kém gạo các nước, thành công của Việt Nam là đã tạo được giống lúa cực sớm, và thành công lớn nhất là đã tạo thành công giống lúa cao sản. Thế nhưng thị trường gạo chất lượng cao trên thế giới vẫn do Thái Lan, Úc nắm giữ. Nguyên do, theo chính các nhà khoa học thừa nhận, các chủng lúa sản xuất ra cứ được mặt này thì mất mặt kia: cao sản thì thân yếu dễ ngã, dễ rụng, còn chất lượng thơm ngon thì nhiều lép, cuống dai, kháng bệnh kém, dễ bị sâu rầy, bà bên cạnh đó là công nghệ thu hoạch, bảo quản, chế biến. Thói quen chỉ thấy cái lợi trước mắt đã khiến người người sản xuất không chịu tuân thủ quy trình sản xuất và sử dụng cây giống. Một cây giống sản xuất ra theo đúng quy trình trong nhà lưới, lồng kính có giá thành đắt gấp đôi, gấp ba cây nhân nhân thông thường ngoài trời, khiến người sản xuất giống thấy lợi đã làm, mà người mua thì ham rẻ mặc dù vẫn biết rằng chất lượng kém. Chính vì vậy mà lâu ngày cây thoái hóa, nhiễm bệnh, chất lượng quả ngày càng sụt giảm, thua trái cây ngoại là đương nhiên, những nguyên nhân khác như công tác nhân giống không được đồng loạt, dẫn đến chậm trễ việc nhân rộng diện tích cây trồng. Chính sách hỗ trợ của Nhà nước chưa tới với người nông dân. Nông dân chưa hưởng được chính sách ưu đãi, mà phải mua giống với giá cao, nhưng lúa thu hoạch bán ra vẫn theo giá lúa bình thường. Vì vậy người trồng đã không mặn mà với chương trình giống mới. Kỹ thuật và công nghệ sau thu hoạch yếu kém Công nghệ sau thu hoạch không được coi trọng nên việc thất thoát rất lớn, khiến giá thành của sản phẩm không thể hạ thấp. Cây lúa là thế mạnh của nông sản xuất khẩu, nhưng hiện nay ở Đồng bằng sông Cửu Long, lúa chín rục mới được thu hoạch. Thu hoạch xong phơi luôn ngoài đồng. Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, thất thoát sau thu hoạch của lúa Việt Nam từ 10% đến 17%, có khi lên đến đến 30%! Chưa có đầu tàu để dẫn dắt người nông dân Có một điều dễ thấy, là hiện nay, những chủng loại trái cây nổi tiếng ở Đồng bằng sông Cửu Long như sầu riêng Chín hóa, Bưởi da xanh Hai Hoa, xoài cát Thanh Sơn… hầu hết đều do người nông dân tự mày mò, rồi tự nhân giống lấy, chứ không phải của các viện nghiên cứu hay các nhà khoa học tạo ra. Những thành quả đó là đáng ghi nhận, nhưng nếu thiếu sự tác động của Nhà nước là đã bỏ qua cơ hội để công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Đó là điều lý giải vì sao chỉ với 260.000ha, nhưng trái cây Thái Lan đi khắp thế giới, Tóm lại trước sức ép cạnh tranh khi hội nhập, Việt Nam chỉ có con đường duy nhất là đầu tư công nghệ cho nông dân, bên cạnh đó là có một chiến lược bài bản và bàn tay tổ chức của Nhà nước. Chiến lược trong sản xuất và xuất khẩu nông sản tốt nhất nên bắt đầu từ chính sách từ trên xuống. Chỉ có cách này mới tạo ra một nền công nghiệp thực sự trong nông nghiệp. Chính vì sự thiếu chiến lược tổng thể đó mà nền sản xuất nông nghiệp vẫn cứ manh mún, nhỏ lẻ và rời rạc như những mảnh vườn của người nông dân. Những mảnh vườn muôn màu sắc đem lắp ghép lại không thể thành bức tranh muôn màu, mà chỉ làm nổi rõ hơn sự pha tạp.  2.2. Các cam kết và Lộ trình cắt giảm thuế hàng nông sản của Việt Nam - Việt Nam cam kết không áp dụng trợ cấp xuất khẩu đối với nông sản từ thời điểm gia nhập. Tuy nhiên, ta bảo lưu quyền được hưởng một số quy định riêng của WTO dành cho nước đang phát triển trong lĩnh vực này. Đối với loại hỗ trợ mà WTO quy định phải cắt giảm nhìn chung ta duy trì được ở mức không quá 10% giá trị sản lượng. Ngoài mức này, ta còn bảo lưu thêm một số khoản hỗ trợ nữa vào khoảng 4.000 tỷ đồng mỗi năm. Các loại trợ cấp mang tính chất khuyến nông hay trợ cấp phục vụ phát triển nông nghiệp được WTO cho phép nên ta được áp dụng không hạn chế. - Thuế suất cam kết cuối cùng đối với các mặt hàng của ta trong WTO là 13,4%, giảm so với mức hiện hành là 23%. Lộ trình giảm thuế này của ta là 3-5 năm, có mặt hàng 7-11 năm. - Đối với hàng nông sản, thuế suất cam kết cuối cùng là 21%, mức cắt giảm so với hiện hành là 10,6%. So với tổng thể mức thuế tôi nói ở trên là 23%, nông sản là 10,6%, chứng tỏ đã có một sự quan tâm nhất định về bảo hộ hàng nông sản. - Mặt hàng nông sản nào hiện có thuế suất 40-50%, ví dụ một số mặt hàng nông sản chế biến thì sẽ phải giảm xuống, có mặt hàng cắt giảm ngay. Ví dụ thuế hiện hành của cá và sản phẩm cá là 29,3% thì thuế tại thời điểm gia nhập là 29,1%, còn thuế suất cam kết cuối cùng là 18,1% và thời hạn cắt giảm kéo dài tới 5 năm. Hay thịt bò giảm từ 20% xuống 14% sau 5 năm, thịt lợn từ 30% xuống 15% sau 5 năm, sữa nguyên liệu giảm khi gia nhập là 20%, nhưng thuế cuối cùng là 18% sau 2 năm, sữa thành phẩm giảm 30% xuống 25% sau 5 năm.. CHƯƠNG 3 NHỮNG THÁCH THỨC ĐỐI VỚI HÀNG NÔNG SẢN VIỆT NAM 3.1 Thách thức 3.1.1.Thách thức của việc cắt giảm thuế và mở cửa thị trưởng đối với sản xuất nông nghiệp - Việc giảm thuế nhập khẩu hàng nông sản theo thỏa thuận với Mỹ mà trước hết là thịt bò, thịt heo, thì sản phẩm trong nước cạnh tranh sẽ rất khó khăn, bởi giá thành chăn nuôi trong nước hiện rất cao. Chưa kể hàng loạt mặt hàng nông sản chế biến từ nhiều nước khác, nhất là từ Trung Quốc sẽ khiến nông sản nước ta cũng khó "địch" nổi ngay trên sân nhà. Trong lĩnh vực sản phẩm chăn nuôi có thể gặp khó khăn, nhất là các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ trong nước sẽ khó cạnh tranh lại với các sản phẩm cao cấp của Mỹ. Riêng đối với thịt gà của các doanh nghiệp trong nước sẽ thua lớn, bởi vì vì ưu thế lớn nhất của Mỹ là chỉ tiêu thụ phần ức gà, còn lại là xuất khẩu nên giá thành rẻ. Người nuôi bò, heo thì có thể "sống" cầm chừng vì người tiêu dùng hiện chưa quen với việc sử dụng thịt heo, bò đông lạnh. Tuy nhiên, không phải bây giờ chúng ta mới mở cửa thị trường, cạnh tranh. Ta đã tham gia AFTA (Khu vực mậu dịch tự do ASEAN từ năm 1996; đã ký BTA - Hiệp định thương mại Việt-Mỹ) với Mỹ; tham gia Hiệp định tự do hóa thương mại ASEAN-Trung Quốc, đặc biệt trong hiệp định này ta có những cam kết song phương với Trung Quốc để giảm thuế rất nhiều mặt hàng nông sản chưa chế biến xuống 0%. Thực tế, chưa tính đến hội nhập thì nhiều mặt hàng nông sản của các nước đã sang VN, nông sản VN cũng đã cạnh tranh được và nông sản "ngoại" chưa lấn át được. Vấn đề là giúp cho nông dân phát triển được những vùng sản xuất hàng hóa để nâng cao sức cạnh tranh, tìm thị trường cho họ, giảm chi phí khác hay giúp họ công nghệ sau thu hoạch 3.1.2 Thách thức đối với việc xoá bỏ trợ cấp đối với hàng nông sản Theo cam kết đa phương của VN trong các phiên đàm phán gia nhập WTO, các trợ cấp xuất khẩu đối với hàng nông sản sẽ phải được bỏ ngay lập tức. Tuy nhiên, với cam kết này, các mặt hàng nông sản Việt Nam cũng hầu như không có ảnh hưởng vì các hỗ trợ từ phía Nhà nước để giữ giá, trữ hàng đều đã được bỏ từ nhiều năm trước. Hình thức hỗ trợ xuất khẩu còn lại hiện nay là thưởng xuất khẩu nhằm khuyến khích doanh nghiệp tìm được thị trường mới, mặt hàng mới... cũng được Bộ Thương mại thông báo xóa bỏ trong năm nay do vậy việc cam kết bỏ trợ cấp xuất khẩu thật ra không ảnh hưởng nhiều đến các loại hàng nông sản. 3.2 Biện Pháp tháo gỡ 3.2.1 Đối với chính phủ - những biện pháp mang tầm vĩ mô Nông nghiệp là lĩnh vực nhạy cảm và dễ bị tổn thương hơn cả khi thực hiện cam kết cắt giảm thuế nông sản. Thực hiện sự chỉ đạo của Chính phủ, Đoàn đàm phán đã kiên trì và thận trọng trong việc mở cửa thị trường nông sản. Mặc dầu vậy, nông nghiệp vẫn là lĩnh vực bị sức ép cạnh tranh khá lớn, nhất là trong điều kiện nông nghiệp nước ta vẫn là nền sản xuất nhỏ, phân tán, công nghệ lạc hậu, năng suất kém, chất lượng sản phẩm không cao, bình quân đất nông nghiệp trên một lao động thấp. Để giải quyết vấn đề này phải thực hiện theo 2 hướng: Một là: Đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong đó có cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp và nông thôn, từng bước chuyển lao động nông nghiệp sang sản xuất công nghiệp và dịch vụ; đưa các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động, yêu cầu đào tạo không cao về nông thôn; phát triển các làng nghề sản xuất tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ; hình thành các thị trấn, thị tứ mới ở nông thôn. Đây là hướng phát triển quan trọng nhất. Hai là: Tăng ngân sách đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn cùng với việc dành toàn bộ các nguồn vốn hỗ trợ trước đây cho khuyến khích xuất khẩu nông sản để đầu tư phát triển thuỷ lợi, giao thông nông thôn. Nhà nước hỗ trợ việc xây dựng hệ thống kho tàng, các cơ sở bảo quản, phơi sấy nhằm giảm hao hụt, bảo đảm chất lượng sản phẩm sau thu hoạch, tạo điều kiện điều tiết lượng hàng hoá lưu thông trên thị trường nhằm ổn định giá cả, phát triển chợ nông thôn. Đầu tư mạnh vào việc phát triển, cải tạo các loại giống có năng suất cao, chất lượng tốt để cung cấp cho nông dân có sự hỗ trợ giá từ ngân sách nhà nước. Phát triển và tổ chức lại hệ thống khuyến nông trên cả 4 cấp: trung ương, tỉnh, huyện, xã và hợp tác xã. Phát triển các doanh nghiệp, các hợp tác xã cổ phần sản xuất nông nghiệp và kinh doanh dịch vụ ở nông thôn, thông qua đó mà thúc đẩy quá trình hình thành các vùng sản xuất hàng hoá lớn trong nông nghiệp, bảo đảm tiêu thụ nông sản và cung ứng vật tư cho nông dân. Khuyến khích nông dân trở thành cổ đông của các doanh nghiệp và các hợp tác xã cổ phần, là đồng sở hữu các nhà máy chế biến nông sản, bảo đảm thu nhập của nông dân và cung cấp ổn định nguyên liệu cho công nghiệp chế biến. Hỗ trợ phù hợp với quy tắc WTO Để hội nhập WTO một cách hiệu quả, trước hết, Nhà nước cần có ngay chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp. Hỗ trợ theo lối mới, phù hợp với quy tắc chung của WTO. Cụ thể, Nhà nước cần chăm lo phát triển kết cấu hạ tầng nông nghiệp và nông thôn (như đường sá, điện, thủy lợi), ứng dụng công nghệ mới, cung cấp thông tin thị trường, phát triển nguồn nhân lực... Một trong những tín hiệu khá lạc quan là đang có nhiều doanh nghiệp lập chương trình tiếp sức cho nông dân. Hệ thống siêu thị bán sỉ Metro đã ký hợp đồng tiêu thụ sản phẩm của 12 nhà sản xuất nông sản ở TP.HCM. Đây là kết quả từ đơn đặt hàng của UBND TP.HCM trong việc hỗ trợ chương trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp thành phố. Cục Bảo vệ thực vật cũng phối hợp với Công ty cổ phần bảo vệ thực vật An Giang (AGGPS) triển khai chương trình huấn luyện nông dân sản xuất rau an toàn theo quy trình sản xuất tốt (GAP) dành cho nông dân 22 tỉnh thành phía Nam, nhằm giúp nông dân nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật để sản xuất rau an toàn theo tiêu chuẩn quốc tế. Hội Nông dân VN tổ chức chương trình tôn vinh những sản phẩm nông nghiệp nhằm tạo cơ hội cho nông dân nâng cao khả năng cạnh tranh. Trong đó giải thưởng "Trâu vàng đất Việt" lần đầu tiên được xây dựng trên tất cả các lĩnh vực, sản phẩm phục vụ cho nông nghiệp được xem là bước tiến lớn trong việc tạo thương hiệu cho nông sản VN. 3.2.2 Đối với doanh nghiệp Theo lý thuyết của lợi thế sơ sánh, Các Doanh nghiệp Việt Nam nên tập chung vào các ngành có thế mạnh như cà phê, điều, hồ tiêu, chè, gạo...tiếp tục phát huy tác dụng do khả năng tiếp cận thị trường mở rộng. Tuy nhiên, vấn đề không chỉ nằm ở đó, mà là chúng ta phải chuyển từ sản xuất thô lên chế biến của các doanh nghiệp nội địa có thương hiệu riêng, tăng giá trị gia tăng trong chuỗi giá trị toàn cầu. Hiện nay chúng ta đang phải đối mặt lao động dư thừa, ứ đọng trong nông thôn. Giải quyết vấn đề này bản thân một mình nông nghiệp không làm được, mà đòi hỏi cả khu vực công nghiệp và dịch vụ phát triển để hút lao động ra, tạo thuận lợi cho tích tụ đất đai, sản xuất hàng hoá lúc đó nông nghiệp mới có thể tăng được năng lực cạnh tranh và có lợi nhuận cao. KẾT LUẬN Tóm lại, toàn cầu hoá là một tất yếu khách quan và Việt Nam không phải là ngoại lệ. Khi VN gia nhập WTO, những lợi ích tiềm năng bao gồm như mở rộng thị trường cho những mặt hàng xuất khẩu truyền thống như nông nghiệp và thuỷ sản, đồng thời VN có cơ hội tiếp cận cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO giúp tránh được những xử kiện vô lý như là cá ba sa giữa Việt Nam và Mỹ. Khi là thành viên của WTO, VN sẽ tiếp tục thu hút được đầu tư nước ngoài đồng thời cũng có tiếng nói cùng với 149 nước khác khi WTO thảo luận các quy chế mới của WTO. Tuy nhiên thách thức đối với nông nghiệp và phát triển nông thôn, đặc biệt là đối với xoá đói giảm nghèo là rất lớn. VN vẫn là một nước 69% lực lượng lao động vẫn thuộc lĩnh vực nông nghiệp và 45% dân số sống tại nông thôn sống dưới mức nghèo. Những thách thức lớn như là mức độ cạnh tranh thấp, hay phải đương đầu với trợ cấp xuất khẩu của các nước giàu, năng lực của VN thực thi các điều khoản cam kết, việc cắt giảm thuế quan và các trợ cấp nông nghiệp, việc VN không được tiếp cận đối với cơ chế tự vệ đặc biệt cho các sản phẩm chăn nuôi... là những điểm không thể một sớm một chiều giải quyết được mà cần thời gian và hỗ trợ của các bên để giảm thiểu những rủi ro này. Trong khuôn khổ bài viết này, người viết chỉ mong muốn bày tỏ những hiểu biết một cách khái quát nhất về tổ chức thương mại thế giới WTO và những thách thức mà hàng nông sản Việt Nam sẽ phải đối mặt khi tham gia từ đó chúng ta có những giải pháp thích hợp để khắc phục và chủ động hơn khi tham gia vào thị trường toàn cầu này. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxDA32.docx
Tài liệu liên quan