Đề tài Những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin

Tài liệu Đề tài Những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin: A/ PHẦN MỞ ĐẦU I/ Lí do chọn đề tài Chủ nghĩa xã hội và con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một vấn đề lý luận và thực tiễn rất cơ bản, trọng yếu liên quan trực tiếp đến đường lối chính trị của Đảng, phương hướng phát triển của đất nước. Đó là vấn đề trung tâm, cốt lỗi trong đường lối cách mạng nước ta, nó chi phối toàn bộ các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, đối ngoại, an ninh, quốc phòng, xây dựng Đảng…của Đảng và nhà nước ta. Tuy nhiên đây là một vấn đề rất rộng và phức tạp nhiều cách tiếp cận khác nhau và hiện vẫn không ít nội dung phải tiếp tục nghiêm cứu, cắt nghĩa, lí giải, trả lời. Cuộc đấu tranh tư tương diễn ra gây gắt trong nhiều năm nay chủ yếu cũng trên vấn đề này. Thực tiễn chứng minh trong cuộc cộng xây dựng chủ nghĩa xã hội Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Những thành tựu đó luôn gắn liền với qúa trình vận dụng sáng tạo, bổ xung phát triển lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học của Mác - Lênin trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, nh...

docx32 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1450 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A/ PHẦN MỞ ĐẦU I/ Lí do chọn đề tài Chủ nghĩa xã hội và con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một vấn đề lý luận và thực tiễn rất cơ bản, trọng yếu liên quan trực tiếp đến đường lối chính trị của Đảng, phương hướng phát triển của đất nước. Đó là vấn đề trung tâm, cốt lỗi trong đường lối cách mạng nước ta, nó chi phối toàn bộ các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, đối ngoại, an ninh, quốc phòng, xây dựng Đảng…của Đảng và nhà nước ta. Tuy nhiên đây là một vấn đề rất rộng và phức tạp nhiều cách tiếp cận khác nhau và hiện vẫn không ít nội dung phải tiếp tục nghiêm cứu, cắt nghĩa, lí giải, trả lời. Cuộc đấu tranh tư tương diễn ra gây gắt trong nhiều năm nay chủ yếu cũng trên vấn đề này. Thực tiễn chứng minh trong cuộc cộng xây dựng chủ nghĩa xã hội Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Những thành tựu đó luôn gắn liền với qúa trình vận dụng sáng tạo, bổ xung phát triển lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học của Mác - Lênin trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, những thành tựu to lớn và quan trọng đó là cơ sở khẳng định sức sống mãnh liệt của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như tính đúng đắn, sáng tạo trong đường lối đổi mới của Đảng. Bất chấp thực tiễn hùng hồn đó, trong những năm qua và hiện nay vẫn có một số người hoặc do thông tin không đầy đủ hoặc do sự bất cập trong nhận thức lý luận và thực tiễn, bị những kẻ phản động dụ dỗ đã ra sức tấn công, xuyên tạc chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng. Họ phủ nhận, xuyên tạc những thành quả đổi mới, tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội, phủ nhận con đường xã hội chủ nghĩa ở nước ta, phủ nhận vai trò của Đảng, xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước ta. Để chống lại những luận điệu xuyên tạc đó Đảng và nhà nước đã thực hiện nhiều chính sách tuyên truyền, giáo dục đường lối của Đảng, tư tưởng của Hồ Chí Minh và lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin về chủ nghĩa xã hội và khẳng định sự lựa chọn con đường đúng đắn của Đảng ta. Là sinh viên, lớp trí thức trẻ, nhận thức rõ nghĩa vụ, trách nhiệm của mình đồng thời muốn góp phần công sức nhỏ bé của mình vào chính sách tuyên truyền đường lối của Đảng, tư tưởng của Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác – Lênin để xây dựng niềm tin trong nhân dân và đánh bại mọi âm mưu “diễn biến hoà bình” của những kẻ phản động. Đó là lí do chính để em chọn đề tài này. Mặc dù đây là đề tài không mới, nhưng với các tiếp cận cụ thể, rõ ràng, dễ hiểu, hy vọng đây là nguồn tư liệu cho sinh viên ĐH Quảng Nam học tốt môn học “những nguyên lí cơ bản Mác – Lênin”. II/ Mục đích nghiên cứu Nhằm trang bị cho chúng ta những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Chủ nghĩa xã hội và con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Liên hệ những quan điểm đó qua công cuộc tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Trang bị cơ sở phương pháp luận giúp chúng ta biết vận dụng, phân tích cơ sở khoa học và quán triệt sâu sắc những quan điểm cơ bản về chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa và con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam Góp phần giáo dục tư tưởng chính trị, định hướng cho mọi người dân nhận thức rõ nét hơn về quan niệm của Mác – Lênin và con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam từ đó biết tránh được sự dụ dổ của bọn phản động, chống phá, xuyên tác chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. III/ Giới hạn đề tài Phạm vi nghiên cứu của đề tài là lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin về chủ nghĩa xã hội và vận dụng lí luận đó trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. IV/ Phương pháp nghiên cứu · Phương pháp phân tích và xử lý tài liệu · Phương pháp lôgic · Phương pháp tổng hợp · Phương pháp tra cứu trông tin trên các trang web. · Phương pháp biện chứng duy vật B/ NỘI DUNG I/ CƠ SỞ LÝ LUẬN 1/ Một số quan điểm về chủ nghĩa xã hội a) Qua điểm của Mác - Lênin Chủ nghĩa xã hội bao gồm các tư tưởng chính trị ủng hộ một hệ thống kinh tế - xã hội mà trong đó các sở hữu và các tài sản là thuộc quyền điều khiển của toàn thể cộng đồng nhằm mục đích tiến đến sự công bằng trong xã hội và trong kinh tế cũng như tiến đến một sự hợp tác tốt hơn. Để có cái nhìn một cách chính xác và đầy đủ chúng ta có thể cảm nhận về Chủ nghĩa xã hội qua các quan điểm sau: Chủ nghĩa xã hội với nghĩa là phong trào đấu tranh Cách mạng của quần chúng nhân dân chống chế độ tư hữu, bóc lột áp bức, bất công để đòi giải phóng…Ở ý nghĩa này nó được ghi nhận bởi lịch sử đấu tranh giai cấp của nhân loại. Chủ nghĩa xã hội với ý nghĩa là nhu cầu hoạt động thực tiễn của nhân dân lao động trong quá trình sản xuất ngày càng xã hội hóa và thực thi dân chủ. Chủ nghĩa xã hội với tư cách là ước mơ, lý tưởng về một xã hội tốt đẹp: không còn tư hữu, giai cấp, áp bức bóc lột…Nó được xuất hiện khi những cuộc khởi nghĩa của nô lệ bị thất bại và đàn áp dã man. Nói đến chủ nghĩa xã hội là nói đến một xã hội bênh vực người lao động, một xã hội không còn tình trạng người bốc lộc người, một xã hội mà mỗi con người đều có quyền tự do. Chủ nghĩa xã hội đêm lại cho con người những điều tốt đẹp nhất cả về đời sống vật chất lẫn tinh thần. Với ý nghĩa này, chủ nghĩa xã hội là một triển vọng tất yếu của nhân loại. Dù thăng trầm, chủ nghĩa xã hội vẫn là mục tiêu phát triển của tiến bộ xã hội trong mọi thời đại. Nếu như cách mạng công nghiệp thế kỷ XVIII - XIX đã quyết định thắng lợi của chủ nghĩa tư bản đối với phong kiến, thì cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang tạo ra những tiền đề vật chất để thay thế chủ nghĩa tư bản bằng chủ nghĩa xã hội. Sự ra đời của chủ nghĩa xã hội gắn liền với sự phát triển của hình thái kinh tế. Theo học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của Mác thì lực lượng sản xuất, xét đến cùng, bao giờ cũng là cái đóng vai trò quyết định trong việc thay đổi phương thức sản xuất, dẫn đến thay đổi toàn bộ các quan hệ xã hội, thay đổi một chế độ xã hội mà Mác gọi là hình thái kinh tế - xã hội. Trên cơ sở đó, Mác đi đến kết luận: xã hội loài người phát triển trải qua nhiều giai đoạn kế tiếp nhau, ứng với mỗi giai đoạn của sự phát triển đó là một hình thái kinh tế - xã hội. Và tiến bộ xã hội chính là sự vận động theo hướng tiến lên của các hình thái kinh tế - xã hội, là sự thay thế hình thái kinh tế - xã hội này bằng hình thái kinh tế - xã hội cao hơn, tiến bộ hơn. Vận dụng quan điểm này của Mác chúng ta có thể lý giải sự ra đời của chủ nghĩa xã hội. Khi hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa ra đời, sau một thời gian quá độ lâu dài với sự chuẩn bị cần thiết về cơ sở vật chất kỉ thuật, mang sắc thái chủ nghĩa xã hội và đáp ứng mọi yêu cầu của chủ nghĩa xã hội thì chủ nghĩa xã hội – giai đoạn phát triển thấp của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa ra đời. b) Quan điểm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội: Kế thừa, vận dụng và phát triển sáng tạo di sản kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, nếu nói một cách vắn tắt, mộc mạc, thì chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân dân thoát khỏi nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và có cuộc sống hạnh phúc. Nói cách khác, mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là giải phóng nhân dân khỏi nghèo nàn, lạc hậu; là một xã hội không có chế độ người bóc lột người, mọi người được hưởng quyền bình đẳng – nghĩa là ai cũng phải lao động. Ai làm nhiều thì hưởng nhiều, làm ít thì hưởng ít, có sức lao động mà không làm thì không được ăn”. Chủ nghĩa xã hội, theo Hồ Chí Minh, là xã hội có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên sở hữu xã hội đối với tư liệu sản xuất chủ yếu. Chủ nghĩa xã hội, theo Hồ Chí Minh, còn là xã hội có văn hoá, khoa học - kỹ thuật phát triển cao; người với người là bạn; loại trừ mọi tha hoá, bất công, cường quyền... Con người trong chủ nghĩa xã hội có cuộc sống vật chất và tinh thần phong phú, được tạo điều kiện để mọi khả năng của con người đều được thể hiện và thực hiện một cách đầy đủ vì hạnh phúc của mình và của cả xã hội, nhân cách con người với tất cả tính đa dạng của nó được tôn trọng. Hồ Chí Minh cho rằng: “...chỉ có trong chế độ xã hội chủ nghĩa thì mỗi người mới có điều kiện để cải thiện đời sống riêng của mình, phát huy tính cách riêng và sở trường riêng của mình”. Chủ nghĩa xã hội là xã hội do chính nhân dân xây dựng nên, là sản phẩm nỗ lực chung của chính nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nhấn mạnh đặc trưng này, Hồ Chí Minh viết: “Chủ nghĩa xã hội là do quần chúng nhân dân tự mình xây dựng nên”, đó là công trình tập thể của quần chúng nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng. Qua đó cho thấy, trong quan niệm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội, tính xã hội chủ nghĩa thâm nhập và thể hiện trên tất cả các lĩnh vực, các phương diện cơ bản của một chế độ xã hội - từ kinh tế đến chính trị, văn hoá, con người trong đó, điểm then chốt nhất là con người, mang lại độc lập, tự do, hạnh phúc, phồn vinh về vật chất và tinh thần cho tất cả mọi người. Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng của Hồ Chí Minh vào điều kiện cụ thể của nước ta, Đảng ta khẳng định: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội không tách rời nhau. Đó là quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối cách mạng của Đảng. Việc Đảng ta luôn luôn kiên định con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội là phù hợp với xu hướng của thời đại và điều kiện cụ thể của nước ta. 2/ Đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa Trong quá trình xây dựng học thuyết của mình các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học đã phát thảo một số nét cơ bản về xã hội tương lai, trong đó có nêu những đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa – giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Thứ nhất, xã hội xã hội chủ nghĩa là một chế độ xã hội được xây dựng trên cơ sở từng bước thiết lập chế độ sở hữu chủ nghĩa xã hội về tư liệu sản xuất bao gồm sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Chế độ sở hữu này thường xuyên được cũng cố và hoàn thiện, bảo đảm luôn thích ứng với tích chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội do nhân dân làm chủ, quyền làm chủ của nhân dân lao động là đặc trưng của chủ nghĩa xã hội. Đây là đặt trưng được đặt lên hàng đầu và có ý nghĩa bao trùm. Đặc trưng này thể hiện rõ nhất sự khác nhau về chất giữa chủ nghĩa xã hội với các chế độ xã hội trước. Xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất dựa trên chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất. Xây dựng nền kinh tế pháp triển cao là đặc trưng không thể thiếu của chủ nghĩa xã hội trong đó cơ sở vật chất - kỹ thuật của xã hội xã hội chủ nghĩa là nền đại công nghiệp. Đây là điều kiện căn bản nhất để phục vụ con người và cũng chỉ khi có kinh tế cao thì chủ nghĩa xã hội mới chiến thắng được chủ nghĩa tư bản, mới đáp ứng nhu cầu nguyện vọng của nhân dân của xã hội. Đặc trưng không thể thiếu khi nói đến chủ nghĩa xã hội đó là xã hội có nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, con người phải được giải phóng khỏi áp bức bất công có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. Con người được đặt vào trung tâm của đời sống xã hội, được xem là chủ thể chân chính của mọi quá trình xã hội. Chủ nghĩa xã hội phải là xã hội tạo ra được những điều kiện cho sự phát triển tự do của mỗi người là cơ sở cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người. Xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội mà các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết giúp đở nhau cùng tiến bộ. Xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội có quan hệ hữu nghị hợp tác với nhân dân tấc cả các nước trên thế giới. Các đặc trưng nói trên bao quát một cách toàn diện mọi mặt của đời sống xã hội - từ chính trị đến kinh tế, văn hoá, xã hội, con người; từ đối nội lẫn đối ngoại. Các đặc trưng đó có mối liên hệ gắn bó hữu cơ với nhau trong một chỉnh thể thống nhất; chúng vừa là tiền đề, vừa là kết quả của nhau, được hoàn thiện dần từng bước. Mọi hoạt động lãnh đạo và quản lý đều phải chú ý đến các đặc trưng đó, làm cho những đặc trưng đó được biến thành hiện thực. Đó chính là định hướng chính trị cơ bản trong hoạt động của mọi cấp, mọi ngành. Các đặt trưng trên đã thể hiện được bản chất ưu việt của chủ nghĩa xã hội. Như vậy, đặc trưng, lý tưởng của chủ nghĩa cộng sản là đối trọng để chủ nghĩa tư bản tự điều chỉnh, học hỏi để xây dựng một xã hội công bằng hơn, dân chủ hơn, ổn định hơn và trở nên tốt đẹp hơn để được xã hội loài người chấp nhận. II/ CON ĐƯỜNG TIẾN LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI CỦA VIỆT NAM 1/ Hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa – đích nhắm trong xây dựng kinh tế - xã hội của Việt Nam. Triết học Mác Lênin đã chỉ rõ: "Hình thái kinh tế xã hội là một phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy". Hình thái kinh tế - xã hội là những nấc thang kế tiếp nhau trong quá trình phát triển của nhân loại như một quá trình phát triển lịch sử tự nhiên. C.Mác đã nghiên cứu sự thay thế nhau của các hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử: từ nguyên thủy đến nô lệ, phong kiến, tư bản, cộng sản chủ nghĩa, trong đó C.Mác đã nghiên cứu rất kỹ mô hình xã hội tư bản, vạch ra các quy luật phát sinh, phát triển và diệt vong tất yếu của nó, đồng thời dự báo về sự ra đời của một hình thái kinh tế- xã hội cao hơn – hình thái cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội. Nguyên nhân cơ bản của sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội suy tới cùng là do sự phát triển của lực lượng sản xuất đóng vai trò quyết định. Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất - kỹ thuật của mỗi hình thái kinh tế - xã hội. Hình thái kinh tế - xã hội khác nhau có lực lượng sản xuất khác nhau, sự phát triển của lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành, phát triển và thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội. Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên, tức diễn ra theo các quy luật khách quan chứ không phải theo ý muốn chủ quan. Trong các hình thái kinh tế xã hội nói trên hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa là một hình thái kinh tế “tốt đẹp” nhất mà con người đang hướng tới. Chủ nghĩa duy vật lịch sử chỉ ra quá trình phát triển từ thấp đến cao của các hình thái kinh tế - xã hội tất yếu dẫn tới sự ra đời của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, với sự ra đời và phát triển của nền đại công nghiệp của khoa học va công nghệ ngày càng hiện đại, lực lượng sản xuất mang tính xã hội hoá cao vượt ra ngoài khuôn khổ của quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Sự phát triển đó của lực lượng sản xuất đòi hỏi phải xoá bỏ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa mặt khác nó tạo ra tiền đề vật chất kỹ thuật cho sự ra đời hình thái kinh tế - xã hội mới dựa trên chế độ sở hữu xã hội – hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Trên cơ sở khái niệm chung về hình thái kinh tế - xã hội, chúng ta có khái niệm cụ thể hơn về hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa: Hình thái kinh tế xã hội chủ nghĩa cộng sản là chế độ xã hội phát triển cao nhất, có quan hệ sản xuất dựa trên sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất, thích ứng với lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, tạo thành cơ sở hạ tầng có trình độ cao hơn so với cơ sở hạ tầng của chủ nghĩa tư bản; có kiến trúc thượng tầng tương ứng thực sự là của nhân dân với trình độ xã hội hoá ngày càng cao. Những điều kiện cơ bản của sự ra đời hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa ra đời khi những lực lượng sản xuất, đặc biệt là nền công nghiệp hiện đại, dựa trên các thành tựu khoa học - kỹ thuật đã phát triển cao của chủ nghĩa tư bản, càng phát triển cao thì trình độ xã hội hoá cũng càng cao. Sự phát triển đó tất yếu tạo ra mâu thuẫn ngày càng gay gắt với quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất chủ yếu, đồng thời sự phát triển đó làm cho mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất với sự kìm hãm của quan hệ sản xuất mang tính tư nhân tư bản chủ nghĩa càng thêm sâu sắc. Chủ thể làm ra những thành quả lực lượng sản xuất chủ yếu là giai cấp công nhân và nhân dân lao động, trong khi đó chủ thể chiếm hữu tư liệu sản xuất và sản phẩm của sản xuất lại chủ yếu là giai cấp tư sản thống trị xã hội. Chủ nghĩa đế quốc xuất hiện đưa tới những mâu thuẫn mới: đó là mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Mâu thuẫn chủ nghĩa đế quốc với các quốc gia dân tộc bị xâm lược và đô hộ. Mâu thuẫn giữa các đế quốc với nhau. Trong chủ nghĩa tư bản có hai giai cấp cơ bản, tiêu biểu nhất, đối lập nhau về lợi ích cơ bản đó là giai cấp công nhân đại biểu cho lực lượng sản xuất hiện đại, xã hội hoá cao và giai cấp tư sản thống trị xã hội, đại biểu cho quan hệ sản xuất tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Hai giai cấp này mâu thuẫn với nhau ngày càng rõ rệt, sâu sắc và gay gắt. Các cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân (gắn với nhân dân lao động bị áp bức bóc lột) chống giai cấp tư sản áp bức bóc lột phát triển từ trình độ thấp, quy mô nhỏ, tự phát tiến tới trình độ cao hơn, quy mô lớn hơn và tính tự giác ngày càng thể hiện rõ hơn. Đến độ chín muồi của sự phát triển, phong trào công nhân hình thành đảng chính trị của mình với hệ tư tưởng và tổ chức tiên phong để lãnh đạo giai cấp công nhân và nhân dân lao động chống lại, lật đổ ách thống trị của giai cấp tư sản. Khi đảng cộng sản ra đời, toàn bộ hoạt động của đảng đều hướng đến lật đổ nhà nước của giai cấp tư sản, thiết lập nhà nước của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Việc thiết lập nhà nước của giai cấp công nhân và nhân dân lao động là sự mở đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Với những đặc trưng trên hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa là hình thái kinh tế - xã hội ưu việt là cái đích nhắm tới của tấc cả các nước trên thế giới trong đó có Việt Nam. 2/ Tính tất yếu, khách quan xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Năm 1945, sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Việt Nam đã đi theo con đường XHCN, nhưng đến năm 1954, Việt Nam mới thật sự xây dựng CNXH ở miền Bắc. Sau 30/4/1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, cả nước bắt tay vào công cuộc xây dựng CNXH. Xét vấn đề từ góc độ lý luận, chúng ta cũng thấy vấn đề bộc lộ ra hết sức rõ ràng. Sự lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa của dân tộc Việt Nam là sự lựa chọn duy nhất đúng. Phải thừa nhận rằng, chủ nghĩa tư bản là một giai đoạn phát triển kỳ diệu, là thành tựu của văn minh nhân loại. Chủ nghĩa tư bản vẫn đang có không ít những cám dỗ và sự hấp dẫn bề ngoài của nó. Mặc dù chủ nghĩa tư bản hiện đang nắm ưu thế về vốn, khoa học và công nghệ, thị trường, song nó không thể khắc phục nổi những mâu thuẫn vốn có của xã hội tư bản, đặc biệt là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hoá ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, mâu thuẫn giữa các nước tư bản phát triển và các nước đang phát triển… Theo quy luật tiến hoá của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội. Qua trình quá độ lên chủ nghĩa luân phù hợp với mọi thời đại. Theo quy luật phát triển của xã hội, chủ nghĩa tư bản không thể không bị phủ định. Đó là su thế khách quan, là dòng chảy của lịch sử. Bản chất của chủ nghĩa tư bản là hoang sơ, là dồn dân cướp đất, tướt đạt giá trị thặng dư của người lao động nghèo khổ. Chủ nghĩa tư bản không phải là tương lai của lòai người, nó không phù hợp với nguyện vọng của loài người với quy luật phát triển của xã hội. Chính vì thế quá độ lên chủ nghĩa là xu hướng khách quan thích hợp với lịch sử. Ở Việt Nam, Lịch sử đã minh chứng rõ ràng và cụ thể con đường mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn là đúng đắn và phù hợp với đất nước với tâm tư nguyện vọng của nhân dân. Bởi lẽ: chỉ có CNXH mới giải phóng được nhân dân lao động khỏi mọi áp bức, bất công, mới đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Toàn bộ lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh: quy luật của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Chỉ có đi lên CNXH mới giữ được độc lập, tự do cho dân tộc, vì theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc, giữa cách mạng giải phóng dân tộc với cách mạng vô sản, Bác Hồ đã chỉ ra rằng: muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản. Chỉ có CNXH mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ. Sự lựa chọn đúng con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội thực tế đã đem đến cho dân tộc ta sức mạnh tổng hợp, là nhân tố đảm bảo thắng lợi của cách mạng Việt Nam cho tới nay. Cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo dành được thắng lợi đã tạo ra những tiền đề khách quan cho sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Sự thắng lợi của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ ở nước ta đã có đủ điều kiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Quá độ lên CNXH không những phù hợp với qui luật phát triển của lịch sử mà còn phù hợp với nguyện vọng của nhân dân, những người đã chiến đấu hi sinh thân mình vì độc lập tự do của dân tộc, vì sự ấm no của mọi người, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ văn minh mà những yêu cầu ấy chỉ có XHCN mới đáp ứng được. Sau khi dành độc lập, nền kinh tế ở trạng thái kiệt quệ, bộ máy nhà nước cồng kềnh, kém năng động, sáng tạo, hệ thống vật chất kĩ thuật còn thô sơ lạc hậu, đời sống người dân nghèo nàn, nhiều tàn dư của chế độ xã hội cũ và chiến tranh để lại. Công cuộc đi lên công cuộc đi lên chủ nghĩa xã hội để thay đổi bộ mặt xã hội, đáp ứng nhu cầu của nhân dân được Đảng và nhân dân ta gấp rút tiến hành mặt dù gặp vô vàng khó khăn và thử thách. Việt Nam tiến lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, từ một xã hội vốn là thuộc đại nửa thuộc đại phong kiến, lực lượng sản xuất phát triển rất thấp nên không được nhanh chóng khắc phục sẽ khó đuổi kịp trình độ thậm chí dễ bị tụt hậu. Đất nước trải qua hàng chục năm chiến tranh tàn phá nặng nề. Những tàn dư của chủ nghĩa thực dân, phong kiến còn nhiều. Chủ nghĩa xã hội thế giới đang lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng. Song, chúng ta cũng có những thuận lợi cơ bản. Đất nước còn nhiều tiềm năng thuận lợi về tài nguyên, vị trí địa lý, lao động, và đặc biệt là tiềm năng tinh thần, truyền thống, trí tuệ của người Việt Nam. Hiện nay, trong khi đánh giá đầy đủ những khó khăn đang gặp phải, nước ta vẫn kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa và thực hiện công cuộc đổi mới của Đại hội VI, Đại hội VII và Đại hội VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam. Những thành tựu của quốc tế về đổi mới đã tạo ra thế lực của Đất nước về nhiều mặt: đời sống vật chất của người dân được nâng lên, chính trị ổn định, đất nước hòa bình và có quan hệ quốc tế rộng mở. Sự giúp đỡ to lớn của các nước xã hội chủ nghĩa, các Đảng Cộng sản, giai cấp công nhân, các lực lượng tiến bộ trên thế giới. Chính quyền nhân dân trong nước ngày càng được cũng cố và tăng cường. Chế độ chính trị ổn định. Dân tộc ta anh hùng và sáng tạo. Cuộc cách mạng khoa học và công nghiệp hiện đại cùng với xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới đang tạo ra thời cơ lớn cho dân tộc ta phát triển. Như vậy: Điều kiện lịch sử và những tiền đề nói trên khẳng định quá độ lên CNXH ở nước ta là không gì có thể ngăn cản nổi, là một tất yếu lịch sử, là sự lựa chọn duy nhất đúng. Những thành tựu về kinh tế, chính trị , khoa học xã hội đã chứng minh một cách hùng hồn nhất về sự lựa chọn của nhân dân ta , của đảng ta là đúng đắn và khẳng định sự lựa chọn con đường xây dựng đất nước theo CNXH là một tất yếu khách quan. 3/ Qúa độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn chủ nghĩa tư bản ở Việt Nam Muốn có chủ nghĩa xã hội tất yếu phải trải qua một thời kì quá độ lâu dài để xây dựng cả cơ sở hạ tầng lẫn kiến trúc thượng tầng mới mà trọng tâm là xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Cần có thời gian mới thay đổi căn bản trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và phải trải qua một cuộc đấu tranh quyết liệt mới có thể thắng được sức mạnh to lớn của thói quen quản lý theo kiểu cũ. Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia…là một thời kỳ quá độ chính trị mà công cụ cải biến đó là chuyên chính vô sản. Mác gọi đó là cơn đau đẻ kéo dài để loại bỏ dần những cái cũ, xây dựng dần những cái mới, tạo ra tiền đề vật chất và tinh thần để hình thành xã hội cao hơn. Thời kỳ quá độ này bắt đầu từ khi giai cấp vô sản giành lại chính quyền và kết thúc khi xây dựng xong cơ bản, cơ sở vật chất kĩ thuật của CNXH mang bản chất của CNXH , cả về mặt lực lượng sản xuất lẫn quan hệ sản xuất cả cơ sở kinh tế lẫn kiến trúc thượng tầng cả sự tồn tại xã hội và ý thức xã hội, tấc cả yếu tố này phải đáp ứng mọi nhu cầu của CNXH. Con đường phát triển của mỗi dân tộc không chỉ bị chi phối bởi các quy luật chung, mà còn bị tác động bởi các điều kiện về tự nhiên, về chính trị, về truyền thống văn hóa, về điều kiện quốc tế v.v.. Chính vì vậy, lịch sử phát triển của nhân loại hết sức phong phú, đa dạng. Mỗi dân tộc đều có nét độc đáo riêng trong lịch sử phát triển của mình. Có những dân tộc lần lượt trải qua các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến cao; nhưng cũng có những dân tộc bỏ qua một hay một số hình thái kinh tế - xã hội nào đó. Tuy nhiên, việc bỏ qua đó cũng diễn ra theo một quá trình lịch sử - tự nhiên chứ không phải theo ý muốn chủ quan.V.I. Lênin viết: tất cả các dân tộc đều sẽ đi lên chủ nghĩa xã hội, đó là điều không thể tránh khỏi, nhưng các dân tộc tiến tới chủ nghĩa xã hội không phải hoàn toàn giống nhau. Có hai kiểu quá độ lên chủ nghĩa xã hội: Qúa độ trực tiếp từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và quá độ gián tiếp từ những xã hội tiền tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội. Dù là trực tiếp hay gián tiếp đều phải trải qua một quá trình gay go, phức tạp và lâu dài. Quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng TBCN, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ TBCN, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại. Qúa độ lên CNXH là một tất yếu lịch sử. Đó là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia, là một thời kỳ “đau để” kéo dài và đâu đớn. Cần phải có một thời kỳ quá độ lâu dài để đổi mới nền sản xuất xã hội. Qúa độ bỏ qua chủ nghĩa tư bản là kiểu quá độ "đặc biệt của đặc biệt" tất nhiên là phải trải qua rất nhiều khó khăn, phức tạp, lâu dài, chủ yếu vì chưa qua "trường học dân chủ tư sản" và chưa có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại. Thời kỳ quá độ là thời kỳ mà trình độ kinh tế - xã hội chưa vượt ra khỏi tiến trình phát triển của CNTB, tiến trình đó phải được tiếp tục đẩy mạnh dưới chính quyền của giai cấp công nhân, mà hình thức thích hợp nhất là CNTB nhà nước và kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Như vậy, việc nước ta tiến thẳng lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, mặc dù là một trường hợp đặc biệt, vẫn là một hiện tượng phù hợp quy luật phát triển lịch sử. Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, từ nền nông nghiệp lạc hậu, mang nặng tính chất tự cung tự cấp, nền kinh tế nước ta nảy sinh một yêu cầu khách quan là: chuyển kinh tế tự nhiên lên kinh tế hàng hóa và thúc đẩy sản xuất hàng hóa nhỏ phát triển lên thành sản xuất lớn dựa trên cơ sở kỹ thuật hiện đại. Để đáp ứng yêu cầu khách quan trên, nền kinh tế nước ta chứa đựng trong mình hai khả năng phát triển, hai xu hướng vận động. Và nền kinh tế nước ta có thể lựa chọn một trong hai hướng sau đây: Hướng thứ nhất, để nền kinh tế phát triển tự phát chuyển thành nền kinh tế TBCN, trên cơ sở phân hóa những người sản xuất hàng hóa nhỏ, do tác động của quy luật giá trị. Nhưng, đi theo hướng này, CNTB ra đời, thì dẫn đến những hậu quả sau: Chính quyền do chính nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đã phải tốn bao xương máu mới giành được, sẽ mất; và chính nhân dân lao động lại rơi xuống địa vị người làm thuê và bị bóc lột. Đi theo con đường TBCN thì không thể thực hiện được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Chúng ta không đi theo con đường TBCN vì thời đại ngày nay không phải là thời đại của CNTB. Theo quy luật phát triển của lịch sử thì CNTB không thể không bị phủ định. Đó là xu thế khách quan. Thực hiện quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN dựa trên cơ sở củng cố chính quyền của dân, do dân và vì dân; dựa vào khối liên minh công - nông - trí thức để tổ chức và huy động mọi tiềm lực của các tầng lớp nhân dân, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, tạo lập cơ sở vật chất - kỹ thuật cho CNXH. Con đường này hoàn toàn mới mẻ và không ít khó khăn, nhưng giảm bớt được đau khổ cho nhân dân lao động. Những thành tựu đã đạt được hơn hai mươi năm đổi mới đã chứng minh: chọn con đường thứ hai này là đúng hướng, phù hợp với lợi ích của cả dân tộc và hoàn cảnh lịch sử cụ thể của nước ta, phù hợp với tiến trình phát triển của thời đại chúng ta. Quá trình cách mạng do Đảng ta lãnh đạo đã tạo những tiền đề cả vật chất và tinh thần để có thể “rút ngắn” quá trình phát triển lịch sử - tự nhiên của xã hội. Vì thế, trong sự lựa chọn con đường đi lên cho mình, dân tộc ta đã chọn con đường quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN. Đó là con đường phù hợp cả về lý luận và thực tiễn, cả về đặc điểm lịch sử - cụ thể trong nước và hoàn cảnh quốc tế. Thực tế đã chứng minh quá độ bỏ qua chế độ TBCN ở nước ta không phải là đốt cháy giai đoạn bỏ qua sự phát triển lực lượng sản xuất TBCN, không phải là xóa bỏ kinh tế tư nhân như trước đây chúng ta đó thực hiện mà bỏ qua sự thống trị của quan hệ sản xuất TBCN sự thống trị của kinh tế tư bản tư nhân, sự thống trị của kiến trúc thượng tầng TBCN trong nền kinh tế xó hội nước ta. Bỏ qua ở đây về thực chất chính là rút ngắn một cách đáng kể quá trình đi lên CNXH ở nước ta đưa nhanh nền kinh tế nước ta lên sản xuất lớn XHCN. Bỏ qua ở đây là chúng ta phải biết tiếp thu, tranh thủ, tận dụng những thành tựu của nhân loại dưới TBCN, đặc biệt là vốn, công nghệ hiện đại để phát triển nhanh nền kinh tế trong nước. Bỏ qua ở đây là chúng ta phải biết phát huy khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng kinh tế trong nước để phát triển nhanh nền kinh tế. Thông qua những hình thức tổ chức kinh tế, qúa độ trung gian, thích hộ với mọi nguồn lực. Vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về thời kỳ quá độ lên CNXH vào điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam Đảng ta đó đề ra mục tiêu tổng quát, phương hướng và bước đi thích hợp nhằm thực hiện sự quá độ lên CNXH ở nước ta qua các Đại Hội và tập trung nhất trong “ Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ” do Đại hội VI thông qua và được cụ thể hóa trong các nghị quyết trung ương khóa VI và khóa VII. Hiện nay, sức sản xuất của ta đang yếu kém, yếu kém rất nhiều so với các nước tư bản phát triển, nhưng chúng ta có chính quyền tiên tiến, có Đảng lãnh đạo, lại đang ở vào thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Biết rằng đây lại một sự nghiệp khó khăn đặc biệt đối với một nước đi lên từ một nền nông nghiệp lạc hậu, kinh tế, kĩ thuật chậm phát triển, nhưng chúng ta có điều kiện bỏ qua. Bỏ qua chế độ bốc lột mà không bỏ qua việc phát triển sức sản xuất. Chúng ta có những tiền đề bên ngoài là thời đại phát triển, cách mạng khoa học kĩ thuật rất nhanh, thế giới đang đi vào su hướng toàn cầu hoá, đa phương hoá, nhiều bạn bè sẳn sàn chia sẽ, giúp đở, chúng ta lại có những tiền đề bên trong về kinh tế, chính trị, văn hoá…việc quá độ bỏ qua chủ nghĩa tư bản tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hứa hẹn nhiều thành công rực rỡ. Như vậy, việc tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế đọ tư bản chủ nghĩa, mặc dù là một trường hợp đặc biệt, vẫn là một hiện tượng phù hợp với quy luật phát triển lịch sử. Trong tình hình thế giới có những biến động như hiện nay, trong khi đánh giá đầy đủ những khó khăn đang gặp phải, nước ta vẫn kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa và thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện sự nghiệp xây dựng đất nước. Đường lối đổi mới của Đại hội VI, Đại hội VII, Đại hội VIII của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Hiến pháp 1992 của nước ta đã thể hiện sâu sắc ý chí đó của Đảng, toàn dân tộc ta trong sự nghiệp phát triển đất nước. 4/ Đặc điểm kinh tế - xã hội của Việt Nam trong thời kỳ quá độ. Mác – Lênnin cho rằng: Đặc điểm bổi bật trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là những nhân tố của xã hội mới và những tàn dư của xã hội cũ tồn tại đan xen lẫn nhau và đấu tranh với nhau trên tấc cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, tư tưởng và phong tục tập quán. CNXH ở Việt Nam được xây dựng dựa trên mô hình của CNXH thế giới, do đó nó vừa mang những đặc trưng của CNXH thế giới, vừa mang những nét riêng biệt của xã hội Việt Nam. Trong thời kỳ quá độ nền kinh tế - xã hội của Việt Nam cũng không nằm ngoài những đặc trưng đó. Về mặt kinh tế: trong thời kỳ quá độ, kinh tế Việt Nam bao gồm những mảng, những phần, những bộ phận của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội. Nền kinh tế tồn tại nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất đồng thời tồn tại nhiều thành phần kinh tế, cả thành phần kinh tế TBCN lẫn thành phần kinh tế XHCN, thành phần kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ. Việt Nam có năm thành phần kinh tế, ứng với các hình thức sở hữu thì có các thành phần kinh tế. Với hình thức sở hữu nhà nước thì có thành phần kinh tế nhà nước, hình thức sở hữu tập thể có thành phần kinh tế tập thể, hình thức sở hữu tư nhân có thành phần kinh tế tư bản nhà nước, tư nhân và thành phần kinh tế thu hút đầu tư nước ngoài. Gắn liền với các thành phần kinh tế là cơ cấu xã hội nhiều giai cấp và tầng lớp xã hội có lợi ích căn bản khác nhau. Một đặc trưng khác dễ nhận thấy là trong thời kỳ quá độ nền kinh tế Việt Nam đang vận động theo cơ chế thị trường định hướng xã hội. Kết cấu hạ tầng được đầu tư với mức độ ngày càng tăng. Tuy nhiên, kết cấu hạ tầng vật chất và xã hội ở nước ta còn ở trình độ thấp, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Trình độ công nghệ lạc hậu, máy móc cũ kỹ, quy mô sản xuất nhỏ bé, năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất còn thấp. cơ cấu kinh tế đang tiếp tục chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tuy nhiên, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, còn mất cân đối và kém hiệu quả. Cơ cấu kinh tế nước ta còn mang nặng đặc trưng của một cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Ngành nghề chưa phát triển; sự phân công hiệp tác, chuyên môn hóa sản xuất chưa rộng, chưa sâu, giao lưu hàng hóa còn nhiều hạn chế. Nền kinh tế thị trường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa với sự quản lý vĩ mô của nhà nước. Đây là đặc điểm cơ bản nhất của kinh tế thị trường ở nước ta, làm cho nền kinh tế thị trường ở nước ta khác với nền sản xuất hàng hóa giản đơn trước đây, cũng như khác với nền kinh tế thị trường ở các nước tư bản chủ nghĩa. Đặc điểm này cũng chính là mô hình kinh tế khái quát trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Mô hình kinh tế đó có những đặc trưng riêng, làm cho nó khác với kinh tế thị trường ở các nước tư bản chủ nghĩa. Về mặt xã hội: Tương ứng với từng lọai thành phần kinh tế có những cơ cấu giai cấp-tầng lớp khác nhau ,vừa mang tính đối kháng ,vừa hỗ trợ nhau. Hiện nay vấn đề bình đẳng và công bằng xã hội cần đang được xác lập dần dần, mâu thuẫn cơ bản được giải quyết, người dân được sống hạnh phúc, được giải phóng, được tự do dân chủ, các dân tộc có sự trương tợ giúp đổ lẫn nhau khi gặp thiên tai, lũ lụt. Con người được tạo điều kiện để hoàn thiện hơn. Tuy nhiên cũng giống như các nước khác trong thời kỳ quá độ như hiện nay xã hội Việt Nam vẫn có sự khác biệt cơ bản giữa thành thị và nông thôn, đồng bằng và miền núi, lao động trí óc với lao động chân tay, xã hội Việt Nam cũng còn tồn tại nhiều tiêu cực, nhiều mặt trái do nhiều nguyên nhân khách quan khác nhau. Về mặt văn hoá, tư tưởng: Bên cạnh nền văn hoá mới, lối sống mới vừa xây dựng, Việt Nam còn tồn tại những tàn tích của nền văn hoá cũ, lối sống cũ, tư tưởng cũ lạc hậu, thậm chí phản động, gây cản trở không nhỏ cho con đường đi lên xã hội chủ nghĩa của các dân tộc sau khi mới được giải phóng. 5/ Đổi mới Từ 1975 - 1985 vận dụng việc "Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở những nước tiểu nông” chúng ta đã đạt được những thành tư khẳng định những thắng lợi bước đầu nhưng cũng mắc những sai trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là từ nguyên nhân nóng vội, chủ quan, duy ý chí, tả khuynh, hữu khuynh… dẫn đến khủng hoảng kinh tế, xã hội. Xuất phát từ thực trạng đó, cộng với tình hình thế giới có những biến động (trong thập kỷ 80 thế kỉ XX công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở tấc cả các nước xã hội chủ nghĩa đều rơi vào tình trạng trì tuệ và khủng hoảng) đòi hỏi ta phải tiến hành đổi mới cho phù hợp với tình hình mới. Phải tiến hành đổi mới tư duy, phải tìm ra biện pháp, bước đi thích hợp để đưa sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội tiến lên phía trước, phù hợp với quy luật khách quan và những điều kiện lịch sử cụ thể của nước ta, đó là mệnh lệnh của cộng sản, đó là vấn đề có ý nghĩa sống còn. Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986, Đảng ta đã thống nhất đi đến quyết định phải tiến hành “Đổi mới”. Song Đảng cũng đặt ra: “Đổi mới không phải là từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà là làm cho chủ nghĩa xã hội được nhận thức đúng đắn hơn và được xây dựng có hiệu quả hơn. Đổi mới không phải xa rời mà là nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm nền tảng tư tưởng của Đảng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng”. Không thể chủ quan, nóng vội đốt cháy giai đoạn mà phải trải qua nhiều bước quá độ... Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện cho đất nước. Đường lối đó không ngừng được bổ xung hoàn thiện qua các đại hội VII, VIII, IX… và các Hội nghị trung ưng trong những nhiệm kỳ tương ứng. Nhờ những nổ lực của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân trong việc hiện thực hoá đường lối của Đảng, đất nước đã có những bước tiến trên nhiều phương diện. Trong kinh tế: Kinh tế Việt Nam một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu. Chế độ công hữu ở nước ta không phải là sự hư cấu, mà là một thực thể kinh tế, được hình thành bằng việc quốc hữu hóa các cơ sở kinh tế của chế độ cũ và từng bước xây dựng nên các cơ sở kinh tế mới. Nó phát triển dần từ nhỏ đến lớn, từ thấp đến cao, ngày càng vững mạnh và hoàn thiện. Trước Đổi mới: Trong nhận thức trước đây về chủ nghĩa xã hội, vì không hiểu đúng mối quan hệ biện chứng giữa chủ nghĩa tư bản với chủ nghĩa xã hội nên đã đối lập chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa tư bản theo tinh thần phủ định hoàn toàn chủ nghĩa tư bản, hoặc hiểu không đúng khái niệm "bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa" nên từ đó không thấy được yêu cầu phải kế thừa những giá trị, những thành tựu mà nhân loại đạt được trong xã hội tư bản chủ nghĩa để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trước năm 1986, Trong lĩnh vực kinh tế, do coi kinh tế tập trung bao cấp là đặc trưng của kinh tế xã hội chủ nghĩa nên đã coi nhẹ hoặc phủ nhận sản xuất hàng hóa, quy luật giá trị, có thành kiến với kinh tế thị trường do đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản. Sau Đổi mới : Kinh tế Việt Nam có lực lượng sản xuất hiện đại dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu. Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa khi đã xây dựng xong được đặc trưng bằng sự đa dạng các loại hình sở hữu hỗn hợp, trong đó quan trọng nhất là sở hữu tư bản nhà nước. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có xu hướng tăng lên tương đối. Một nền kinh tế càng phát triển trong điều kiện toàn cầu hóa thì khả năng hội nhập kinh tế quốc tế càng sâu rộng. Những thành tựu đạt được: Thành tựu kinh tế rõ nét nhất của Việt Nam mà cả thế giới phải thừa nhận là từ năm 1993 tới nay, do kinh tế liên tục tăng trưởng, số người nghèo ở Việt Nam đã giảm tới 2/3. Với tốc độ tăng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) trung bình 7,8% trong thời gian từ 2001-2006 và 3 năm liên tục gần đây đạt trên 8%, Việt Nam giờ đây đang trên con đường trở thành quốc gia châu Á mới nhất chuyển từ đất nước nghèo nàn thời thuộc địa thành một quốc gia phồn thịnh. Với hơn 80 triệu người tiêu dùng và một đội ngũ công nhân trẻ, được học hành, Việt Nam giờ đang trở thành một trung tâm thu hút sự quan tâm của các tập đoàn đa quốc gia. Khối lượng đầu tư trực tiếp của nươc ngoài (FDI) vào Việt Nam năm 2006 vượt ngưỡng 10 tỷ USD và trong năm 2007, với lợi thế gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Việt Nam có thể thu hút tới 12 tỷ USD đầu tư FDI. Kinh tế phát triển không chỉ cải thiện đời sống mà còn tạo cho công nhân và người dân Việt Nam có nhiều lựa chọn hơn về công ăn việc làm với đồng lương cao hơn và điều kiện làm việc tốt hơn. Năm 2007 là một năm đáng ghi nhận của Việt Nam. Việt Nam là thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), với tư cách này, Việt Nam trở thành một địa chỉ đầu tư hấp dẫn trong cộng đồng doanh nghiệp thế giới. Có một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nước ta là một quốc gia đa dân tộc, với nhiều nền văn hoá khác nhau. Mỗi nền văn hoá mang một bản sắc riêng biệt tạo nên một bản sắc văn hoá Việt Nam. Tiến hành cách mạng XHCN trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa, làm cho thế giới quan Mác - Lê Nin và tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội. Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao. Chống tư tưởng, văn hóa phản tiến bộ, trái với những truyền thống tốt đẹp của dân tộc và những giá trị cao quý của loài người, trái với phương hướng đi lên CNXH. Trước đổi mới:Việt Nam là một quốc gia có nền văn hóa lâu đời, đã tạo dựng được bản sắc riêng của mình từ xưa đến nay. Nhưng trong thời kỳ trước đổi mới, do chúng ta thực hiện chính sách “ bế quan tỏa cảng” không chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà còn trong cả lĩnh vực văn hóa, do đó nước ta rất hạn chế trong việc giao lưu với các quốc gia bên ngoài (trừ những nước XHCN). Sau Đổi mới: Phát huy những cái vốn có của dân tộc, chúng ta càng phát triển hơn nền văn hóa đậm đà bản sắc của mình, đặc biệt là hiện nay ta đang hội nhập với thế giới, ta càng cần phải phát huy hơn nữa, giới thiệu những tinh hoa văn hóa của mình đến bè bạn thế giới. Đồng thời phải biết tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa của nhân loai, ta cần “hòa nhập nhưng không hòa tan vào dòng chảy của thời đại” . Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc... và coi đây là đặc trưng riêng có của CNXH ở Việt Nam Trước đổi mới: Sau khi có hoà bình, độc lập, thống nhất, chúng ta đã đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh, đối với tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp, đối với thương nghiệp nhỏ (ở miền Bắc sau 1954, ở miền Nam sau 30-4-1975) với hy vọng bằng cách đó sẽ có xã hội không còn người bóc lột người; mọi người đều sống trong công bằng, bình đẳng, có cuộc sống vật chất và tinh thần ngày một cao, con người hoàn toàn được giải phóng. Song, kết quả của cải tạo xã hội chủ nghĩa - đặc biệt là trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước - lại làm cho nền kinh tế rơi vào tình trạng khủng hoảng, cuộc sống của nhân dân ngày một khó khăn, những quan hệ xã hội ngày càng diễn biến phức tạp... Sau đổi mới: Sau khi nhận ra được những khuyết điểm của mình, Đảng ta đã sửa chữa. Từ khi chuyển sang cơ chế thị trường , chúng ta đã thực hiện “làm theo năng lực hưởng theo lao động”, điều đó đã thúc đẩy nền kinh tế nước ta đi lên. Đặc biệt là trong thời gian gần đây, khi Việt Nam gia nhập vào các tổ chức lớn trên thế giới, hội nhập vào nền kinh tế thế giới, nền kinh tế Việt Nam đã phát triển nhanh chóng, đời sống của người dân được nâng lên rất nhiều. Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau... Trước đổi mới: Từ trong chiến tranh nhân dân ta đã phát huy sức mạnh của toàn thể dân tộc để giành thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến chống lại hai đế quốc hung mạnh Mỹ và Pháp, điều đó đã chứng tỏ sức mạnh đoàn kết của toàn thể dân tộc. Hiện nay: Khi đất nước đã độc lập thì sức mạnh đoàn kết đó càng được phát huy. Nhà nước ta đã có rất nhiều chính sách quan tâm đến các dân tộc thiểu số như các chương trình 134, 135…Gần đây , có một số vụ bạo động xảy ra ở vùng núi và Tây Nguyên, đã gây ảnh hưởng đến an ninh quốc gia. Nhờ những chính sách của Đảng và nhà nước mà các vụ bạo động đã được dẹp yên, vẫn giữ vững được mối đoàn kết của toàn dân tộc. Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với tất cả các nước trên thế giới! Trước đổi mới: do chính sách “ bế quan tỏa cảng”, nước ta chỉ giao lưu với các nước XHCN, nên mối quan hệ đối ngoại giữa nước ta với các nước trên thế giới rất hạn chế. Đặc biệt trong thời gian này, Mỹ thực hiện chính sách cấm vận kinh tế đối với Việt Nam, điều này cũng một phần làm cho mới quan hệ đối ngoại giữa Việt Nam với các nước bị hạn chế nhiều. Sau đổi mới: khi Mỹ đã bình thường hóa quan hệ với Việt Nam, và sau đó lần lượt các nước lớn đặt mối quan hệ bang giao với nước ta thì mối quan hệ này được cải thiện nhiêu. Và hiện nay, chúng ta đã mở rộng quan hệ quốc tế đa phương, đa dạng, chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, với chiến lược đúng đắn và lộ trình thích hợp, theo tinh thần "Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước, vì hòa bình, độc lập, và phát triển". Trong xây dựng kinh tế, phải dựa vào nguồn lực bên trong là chính, đồng thời tranh thủ tối đa những nguồn lực từ bên ngoài. Qua những thành tựu trong công cuộc đổi mới, con đường xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa lại càng được khẳng định, cuộc sống thay đổi từng ngày, nhân dân càng tin vào Đảng, vào con đường xã hội chủ nghĩa đã lựa chọn. 6/ Những giải pháp để rút ngắn thời gian quá độ lên chủ nghĩa tư bản. Công cuộc quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta mặc dù gặp nhiều thuận lợi từ tiềm lực bên trong đến sự giúp đở của bên ngoài nhưng thử thách và khó khăn đặt ra cho Việt Nam không phải là không có. Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ TBCN, từ một xã hội vốn là nữa thực dân, nữa phong kiến, lực lượng sản xuất rất thấp, trình độ nghèo nàn. Đất nước trải qua hàng chục năm chiến tranh đã để lại hậu qủa nặng nề, những tàn dư của thực dân phong kiến, chế độ cũ để lại còn nhiều. Các thế lực thường xuyên tìm cách chống phá chế độ XHCN nền độc lập dân tộc của nhân dân ta. Trong cuộc họp đại biểu giữa nhiệm kỳ VII đã xác định các vấn đề quan trọng đáng quan tâm: Nguy cơ bị tụt hậu xa về kinh tế so với các nước trên thế giới, nguy cơ lệch khỏi định hướng XHCN, tệ nạn tham nhũng, quan liêu ở các cơ quan nhà nước, nguy cơ về các “diễn biến hòa bình” của thế lực thù địch ngày càng phức tạp tinh vi nhằm phá hoại công cuộc cách mạng của Đảng và nhà nước. Tuy đạt được nhiều thành tựu, nhưng tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với khả năng. Sức cạnh tranh của nền kinh tế còn kém. Nhiều vấn đề xã hội bức xúc chưa được giải quyết tốt: Đất nước đang gặp nhiều khó khăn, thách thức không thể xem thường. Để quá trình quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội được rút ngắn, những mục tiêu đặt ra nhanh chóng được hiện thực hoá Đảng và nhà nước ta đã đề ra nhiều biện pháp thiết thực dựa trên việc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tường Hồ Chí Minh. Các nhiệm vụ đặt ra là: Qua suốt 20 năm đổi mới, hoàn thiện trên con đường đi lên XHCN, Đảng đã xác định là con đường mà thời kỳ quá độ đất nước còn dài, có nhiều khó khăn, phải trải qua nhiều chặn đường. Đảng ta xác định bỏ qua nhưng phải tôn trọng lịch sử - tự nhiên, tính tuần tự không chủ quan, nóng vội. Bỏ qua những khâu trung gian những hình thái quá độ, không bỏ quan nền sản xuất hàng hóa. Bỏ qua nhưng phải kế thừa, sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước. Bỏ qua lực lượng sản xuất nhưng không lặp lại quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa vừa rút ngắn quá trình ấy. Bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa với tư cách nó giữ vai trò thống trị xã hội chứ không xóa sạch các hình thức kinh tế tư bản chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ. Phát triển nhanh mạnh lực lượng sản xuất, nhằm xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật của CNXH. Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá đất nước theo hướng hiện đại, gắn liền với phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN, Nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, lao động thủ công là phổ biến. Cái thiếu thống nhất của chúng ta là một nền đại công nghiệp. Chính vì vậy, chúng ta phải tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong thời đại ngày nay, công nghiệp hóa phải gắn liền với hiện đại hóa. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta là nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Đó là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng ta đã chỉ ra: "Con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta cần vừa có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt. Phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức. Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam; coi phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa tiến lên CNXH, tiến hành CNH XHCN để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của XHCN là một tất yếu khách quan. Không tiến hành CNH thì không thể xây dựng được cơ sở vật chất kỹ thuật, không thể thực hiện phân công lao động xã hội, không có CNXH. Đảng khẳng định lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động. Xây dựng hệ thống chính trị XHCN. Tiến hành cách mạng XHCN trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa, làm cho thế giới quan Mác-Lênin, tư tưởng Hồ chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội. Kế thừa, phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của các dân tộc trong nước, tiếp thu những tri thức văn hóa nhân loại xây dựng một xã hội dân chủ văn minh vì lợi ích và phẩm giá con người. Thực hiện chính sách đối ngoại hoà bình hữu nghị và hợp tác với tất cả các nước nhằm tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng đất nước. Xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc XHCN là hai nhiệm vụ không thể tách rời nhau đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, phải luôn cảnh giác củng cố quốc phòng giữ vững an ninh chính trị, an toàn xã hội bảo vệ vững chắc mọi thành quả cách mạng. Đồng thời với phát triển kinh tế, phải phát triển văn hóa, xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc nhằm không ngừng nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân; phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài; giải quyết tốt các vấn đề xã hội, thực hiện công bằng xã hội nhằm thực hiện mục tiêu: "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Những mục tiêu phương hướng cơ bản trên vừa đảm bảo tính nguyên tắc, đảm bảo không chệch hướng XHCN vừa quán triệt tinh thần đổi mới, cải tạo nhằm xây dựng thành công CNXH ở nước ta. C/ KẾT LUẬN Bất chấp thăng trầm của lịch sử, từ khi ra đời đến nay, chủ nghĩa Mác-Lênin luôn luôn tỏ rõ sức sống mãnh liệt của mình. Thực tiễn thành công và thất bại của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cũng như trên thế giới đã minh chứng hùng hồn: bản chất khoa học, cách mạng là nguồn gốc sức mạnh của chủ nghĩa Mác-Lênin. Từ khi ra đời cho đến nay, nhờ nắm vững và vận dụng sáng tạo bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin mà Đảng ta đã dẫn dắt cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Chủ nghĩa xã hội đổi mới Việt Nam đã chứng tỏ sức sống mãnh liệt của mình và ngày càng thu được những thành tựu to lớn. Điều đó trước hết bắt nguồn từ bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin. Trung thành với bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, vận dụng một cách sáng tạo trong điều kiện cụ thể của nước ta, vạch ra đường lối đúng đắn cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Với quyết tâm khắc phục khó khǎn, với tinh thần kiên trì và tích cực trong tìm tòi thử nghiệm, nhân dân ta vẫn không nao núng trước những biến động về kinh tế - xã hội. Đảng ta vẫn quyết tâm làm chuyển biến tư duy, nhận thức và tư tưởng, xác định nhiều quan điểm, chủ trương, chính sách mới, nhằm khắc phục khủng hoảng và tìm mọi cách đưa đất nước phát triển theo con đường XHCN. Nhất định Đảng ta sẽ lãnh đạo nhân dân ta xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội của thời kỳ đổi mới gắn với dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. A/ PHẦN MỞ ĐẦU I/ Lí do chọn đề tài Chủ nghĩa xã hội và con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một vấn đề lý luận và thực tiễn rất cơ bản, trọng yếu liên quan trực tiếp đến đường lối chính trị của Đảng, phương hướng phát triển của đất nước. Đó là vấn đề trung tâm, cốt lỗi trong đường lối cách mạng nước ta, nó chi phối toàn bộ các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, đối ngoại, an ninh, quốc phòng, xây dựng Đảng…của Đảng và nhà nước ta. Tuy nhiên đây là một vấn đề rất rộng và phức tạp nhiều cách tiếp cận khác nhau và hiện vẫn không ít nội dung phải tiếp tục nghiêm cứu, cắt nghĩa, lí giải, trả lời. Cuộc đấu tranh tư tương diễn ra gây gắt trong nhiều năm nay chủ yếu cũng trên vấn đề này. Thực tiễn chứng minh trong cuộc cộng xây dựng chủ nghĩa xã hội Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Những thành tựu đó luôn gắn liền với qúa trình vận dụng sáng tạo, bổ xung phát triển lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học của Mác - Lênin trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, những thành tựu to lớn và quan trọng đó là cơ sở khẳng định sức sống mãnh liệt của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như tính đúng đắn, sáng tạo trong đường lối đổi mới của Đảng. Bất chấp thực tiễn hùng hồn đó, trong những năm qua và hiện nay vẫn có một số người hoặc do thông tin không đầy đủ hoặc do sự bất cập trong nhận thức lý luận và thực tiễn, bị những kẻ phản động dụ dỗ đã ra sức tấn công, xuyên tạc chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng. Họ phủ nhận, xuyên tạc những thành quả đổi mới, tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội, phủ nhận con đường xã hội chủ nghĩa ở nước ta, phủ nhận vai trò của Đảng, xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước ta. Để chống lại những luận điệu xuyên tạc đó Đảng và nhà nước đã thực hiện nhiều chính sách tuyên truyền, giáo dục đường lối của Đảng, tư tưởng của Hồ Chí Minh và lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin về chủ nghĩa xã hội và khẳng định sự lựa chọn con đường đúng đắn của Đảng ta. Là sinh viên, lớp trí thức trẻ, nhận thức rõ nghĩa vụ, trách nhiệm của mình đồng thời muốn góp phần công sức nhỏ bé của mình vào chính sách tuyên truyền đường lối của Đảng, tư tưởng của Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác – Lênin để xây dựng niềm tin trong nhân dân và đánh bại mọi âm mưu “diễn biến hoà bình” của những kẻ phản động. Đó là lí do chính để em chọn đề tài này. Mặc dù đây là đề tài không mới, nhưng với các tiếp cận cụ thể, rõ ràng, dễ hiểu, hy vọng đây là nguồn tư liệu cho sinh viên ĐH Quảng Nam học tốt môn học “những nguyên lí cơ bản Mác – Lênin”. II/ Mục đích nghiên cứu Nhằm trang bị cho chúng ta những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Chủ nghĩa xã hội và con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Liên hệ những quan điểm đó qua công cuộc tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Trang bị cơ sở phương pháp luận giúp chúng ta biết vận dụng, phân tích cơ sở khoa học và quán triệt sâu sắc những quan điểm cơ bản về chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa và con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam Góp phần giáo dục tư tưởng chính trị, định hướng cho mọi người dân nhận thức rõ nét hơn về quan niệm của Mác – Lênin và con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam từ đó biết tránh được sự dụ dổ của bọn phản động, chống phá, xuyên tác chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. III/ Giới hạn đề tài Phạm vi nghiên cứu của đề tài là lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin về chủ nghĩa xã hội và vận dụng lí luận đó trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. IV/ Phương pháp nghiên cứu · Phương pháp phân tích và xử lý tài liệu · Phương pháp lôgic · Phương pháp tổng hợp · Phương pháp tra cứu trông tin trên các trang web. · Phương pháp biện chứng duy vật B/ NỘI DUNG I/ CƠ SỞ LÝ LUẬN 1/ Một số quan điểm về chủ nghĩa xã hội a) Qua điểm của Mác - Lênin Chủ nghĩa xã hội bao gồm các tư tưởng chính trị ủng hộ một hệ thống kinh tế - xã hội mà trong đó các sở hữu và các tài sản là thuộc quyền điều khiển của toàn thể cộng đồng nhằm mục đích tiến đến sự công bằng trong xã hội và trong kinh tế cũng như tiến đến một sự hợp tác tốt hơn. Để có cái nhìn một cách chính xác và đầy đủ chúng ta có thể cảm nhận về Chủ nghĩa xã hội qua các quan điểm sau: Chủ nghĩa xã hội với nghĩa là phong trào đấu tranh Cách mạng của quần chúng nhân dân chống chế độ tư hữu, bóc lột áp bức, bất công để đòi giải phóng…Ở ý nghĩa này nó được ghi nhận bởi lịch sử đấu tranh giai cấp của nhân loại. Chủ nghĩa xã hội với ý nghĩa là nhu cầu hoạt động thực tiễn của nhân dân lao động trong quá trình sản xuất ngày càng xã hội hóa và thực thi dân chủ. Chủ nghĩa xã hội với tư cách là ước mơ, lý tưởng về một xã hội tốt đẹp: không còn tư hữu, giai cấp, áp bức bóc lột…Nó được xuất hiện khi những cuộc khởi nghĩa của nô lệ bị thất bại và đàn áp dã man. Nói đến chủ nghĩa xã hội là nói đến một xã hội bênh vực người lao động, một xã hội không còn tình trạng người bốc lộc người, một xã hội mà mỗi con người đều có quyền tự do. Chủ nghĩa xã hội đêm lại cho con người những điều tốt đẹp nhất cả về đời sống vật chất lẫn tinh thần. Với ý nghĩa này, chủ nghĩa xã hội là một triển vọng tất yếu của nhân loại. Dù thăng trầm, chủ nghĩa xã hội vẫn là mục tiêu phát triển của tiến bộ xã hội trong mọi thời đại. Nếu như cách mạng công nghiệp thế kỷ XVIII - XIX đã quyết định thắng lợi của chủ nghĩa tư bản đối với phong kiến, thì cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang tạo ra những tiền đề vật chất để thay thế chủ nghĩa tư bản bằng chủ nghĩa xã hội. Sự ra đời của chủ nghĩa xã hội gắn liền với sự phát triển của hình thái kinh tế. Theo học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của Mác thì lực lượng sản xuất, xét đến cùng, bao giờ cũng là cái đóng vai trò quyết định trong việc thay đổi phương thức sản xuất, dẫn đến thay đổi toàn bộ các quan hệ xã hội, thay đổi một chế độ xã hội mà Mác gọi là hình thái kinh tế - xã hội. Trên cơ sở đó, Mác đi đến kết luận: xã hội loài người phát triển trải qua nhiều giai đoạn kế tiếp nhau, ứng với mỗi giai đoạn của sự phát triển đó là một hình thái kinh tế - xã hội. Và tiến bộ xã hội chính là sự vận động theo hướng tiến lên của các hình thái kinh tế - xã hội, là sự thay thế hình thái kinh tế - xã hội này bằng hình thái kinh tế - xã hội cao hơn, tiến bộ hơn. Vận dụng quan điểm này của Mác chúng ta có thể lý giải sự ra đời của chủ nghĩa xã hội. Khi hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa ra đời, sau một thời gian quá độ lâu dài với sự chuẩn bị cần thiết về cơ sở vật chất kỉ thuật, mang sắc thái chủ nghĩa xã hội và đáp ứng mọi yêu cầu của chủ nghĩa xã hội thì chủ nghĩa xã hội – giai đoạn phát triển thấp của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa ra đời. b) Quan điểm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội: Kế thừa, vận dụng và phát triển sáng tạo di sản kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, nếu nói một cách vắn tắt, mộc mạc, thì chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân dân thoát khỏi nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và có cuộc sống hạnh phúc. Nói cách khác, mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là giải phóng nhân dân khỏi nghèo nàn, lạc hậu; là một xã hội không có chế độ người bóc lột người, mọi người được hưởng quyền bình đẳng – nghĩa là ai cũng phải lao động. Ai làm nhiều thì hưởng nhiều, làm ít thì hưởng ít, có sức lao động mà không làm thì không được ăn”. Chủ nghĩa xã hội, theo Hồ Chí Minh, là xã hội có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên sở hữu xã hội đối với tư liệu sản xuất chủ yếu. Chủ nghĩa xã hội, theo Hồ Chí Minh, còn là xã hội có văn hoá, khoa học - kỹ thuật phát triển cao; người với người là bạn; loại trừ mọi tha hoá, bất công, cường quyền... Con người trong chủ nghĩa xã hội có cuộc sống vật chất và tinh thần phong phú, được tạo điều kiện để mọi khả năng của con người đều được thể hiện và thực hiện một cách đầy đủ vì hạnh phúc của mình và của cả xã hội, nhân cách con người với tất cả tính đa dạng của nó được tôn trọng. Hồ Chí Minh cho rằng: “...chỉ có trong chế độ xã hội chủ nghĩa thì mỗi người mới có điều kiện để cải thiện đời sống riêng của mình, phát huy tính cách riêng và sở trường riêng của mình”. Chủ nghĩa xã hội là xã hội do chính nhân dân xây dựng nên, là sản phẩm nỗ lực chung của chính nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nhấn mạnh đặc trưng này, Hồ Chí Minh viết: “Chủ nghĩa xã hội là do quần chúng nhân dân tự mình xây dựng nên”, đó là công trình tập thể của quần chúng nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng. Qua đó cho thấy, trong quan niệm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội, tính xã hội chủ nghĩa thâm nhập và thể hiện trên tất cả các lĩnh vực, các phương diện cơ bản của một chế độ xã hội - từ kinh tế đến chính trị, văn hoá, con người trong đó, điểm then chốt nhất là con người, mang lại độc lập, tự do, hạnh phúc, phồn vinh về vật chất và tinh thần cho tất cả mọi người. Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng của Hồ Chí Minh vào điều kiện cụ thể của nước ta, Đảng ta khẳng định: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội không tách rời nhau. Đó là quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối cách mạng của Đảng. Việc Đảng ta luôn luôn kiên định con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội là phù hợp với xu hướng của thời đại và điều kiện cụ thể của nước ta. 2/ Đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa Trong quá trình xây dựng học thuyết của mình các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học đã phát thảo một số nét cơ bản về xã hội tương lai, trong đó có nêu những đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa – giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Thứ nhất, xã hội xã hội chủ nghĩa là một chế độ xã hội được xây dựng trên cơ sở từng bước thiết lập chế độ sở hữu chủ nghĩa xã hội về tư liệu sản xuất bao gồm sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Chế độ sở hữu này thường xuyên được cũng cố và hoàn thiện, bảo đảm luôn thích ứng với tích chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội do nhân dân làm chủ, quyền làm chủ của nhân dân lao động là đặc trưng của chủ nghĩa xã hội. Đây là đặt trưng được đặt lên hàng đầu và có ý nghĩa bao trùm. Đặc trưng này thể hiện rõ nhất sự khác nhau về chất giữa chủ nghĩa xã hội với các chế độ xã hội trước. Xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất dựa trên chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất. Xây dựng nền kinh tế pháp triển cao là đặc trưng không thể thiếu của chủ nghĩa xã hội trong đó cơ sở vật chất - kỹ thuật của xã hội xã hội chủ nghĩa là nền đại công nghiệp. Đây là điều kiện căn bản nhất để phục vụ con người và cũng chỉ khi có kinh tế cao thì chủ nghĩa xã hội mới chiến thắng được chủ nghĩa tư bản, mới đáp ứng nhu cầu nguyện vọng của nhân dân của xã hội. Đặc trưng không thể thiếu khi nói đến chủ nghĩa xã hội đó là xã hội có nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, con người phải được giải phóng khỏi áp bức bất công có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. Con người được đặt vào trung tâm của đời sống xã hội, được xem là chủ thể chân chính của mọi quá trình xã hội. Chủ nghĩa xã hội phải là xã hội tạo ra được những điều kiện cho sự phát triển tự do của mỗi người là cơ sở cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người. Xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội mà các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết giúp đở nhau cùng tiến bộ. Xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội có quan hệ hữu nghị hợp tác với nhân dân tấc cả các nước trên thế giới. Các đặc trưng nói trên bao quát một cách toàn diện mọi mặt của đời sống xã hội - từ chính trị đến kinh tế, văn hoá, xã hội, con người; từ đối nội lẫn đối ngoại. Các đặc trưng đó có mối liên hệ gắn bó hữu cơ với nhau trong một chỉnh thể thống nhất; chúng vừa là tiền đề, vừa là kết quả của nhau, được hoàn thiện dần từng bước. Mọi hoạt động lãnh đạo và quản lý đều phải chú ý đến các đặc trưng đó, làm cho những đặc trưng đó được biến thành hiện thực. Đó chính là định hướng chính trị cơ bản trong hoạt động của mọi cấp, mọi ngành. Các đặt trưng trên đã thể hiện được bản chất ưu việt của chủ nghĩa xã hội. Như vậy, đặc trưng, lý tưởng của chủ nghĩa cộng sản là đối trọng để chủ nghĩa tư bản tự điều chỉnh, học hỏi để xây dựng một xã hội công bằng hơn, dân chủ hơn, ổn định hơn và trở nên tốt đẹp hơn để được xã hội loài người chấp nhận. II/ CON ĐƯỜNG TIẾN LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI CỦA VIỆT NAM 1/ Hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa – đích nhắm trong xây dựng kinh tế - xã hội của Việt Nam. Triết học Mác Lênin đã chỉ rõ: "Hình thái kinh tế xã hội là một phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy". Hình thái kinh tế - xã hội là những nấc thang kế tiếp nhau trong quá trình phát triển của nhân loại như một quá trình phát triển lịch sử tự nhiên. C.Mác đã nghiên cứu sự thay thế nhau của các hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử: từ nguyên thủy đến nô lệ, phong kiến, tư bản, cộng sản chủ nghĩa, trong đó C.Mác đã nghiên cứu rất kỹ mô hình xã hội tư bản, vạch ra các quy luật phát sinh, phát triển và diệt vong tất yếu của nó, đồng thời dự báo về sự ra đời của một hình thái kinh tế- xã hội cao hơn – hình thái cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội. Nguyên nhân cơ bản của sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội suy tới cùng là do sự phát triển của lực lượng sản xuất đóng vai trò quyết định. Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất - kỹ thuật của mỗi hình thái kinh tế - xã hội. Hình thái kinh tế - xã hội khác nhau có lực lượng sản xuất khác nhau, sự phát triển của lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành, phát triển và thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội. Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên, tức diễn ra theo các quy luật khách quan chứ không phải theo ý muốn chủ quan. Trong các hình thái kinh tế xã hội nói trên hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa là một hình thái kinh tế “tốt đẹp” nhất mà con người đang hướng tới. Chủ nghĩa duy vật lịch sử chỉ ra quá trình phát triển từ thấp đến cao của các hình thái kinh tế - xã hội tất yếu dẫn tới sự ra đời của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, với sự ra đời và phát triển của nền đại công nghiệp của khoa học va công nghệ ngày càng hiện đại, lực lượng sản xuất mang tính xã hội hoá cao vượt ra ngoài khuôn khổ của quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Sự phát triển đó của lực lượng sản xuất đòi hỏi phải xoá bỏ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa mặt khác nó tạo ra tiền đề vật chất kỹ thuật cho sự ra đời hình thái kinh tế - xã hội mới dựa trên chế độ sở hữu xã hội – hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Trên cơ sở khái niệm chung về hình thái kinh tế - xã hội, chúng ta có khái niệm cụ thể hơn về hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa: Hình thái kinh tế xã hội chủ nghĩa cộng sản là chế độ xã hội phát triển cao nhất, có quan hệ sản xuất dựa trên sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất, thích ứng với lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, tạo thành cơ sở hạ tầng có trình độ cao hơn so với cơ sở hạ tầng của chủ nghĩa tư bản; có kiến trúc thượng tầng tương ứng thực sự là của nhân dân với trình độ xã hội hoá ngày càng cao. Những điều kiện cơ bản của sự ra đời hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa ra đời khi những lực lượng sản xuất, đặc biệt là nền công nghiệp hiện đại, dựa trên các thành tựu khoa học - kỹ thuật đã phát triển cao của chủ nghĩa tư bản, càng phát triển cao thì trình độ xã hội hoá cũng càng cao. Sự phát triển đó tất yếu tạo ra mâu thuẫn ngày càng gay gắt với quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất chủ yếu, đồng thời sự phát triển đó làm cho mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất với sự kìm hãm của quan hệ sản xuất mang tính tư nhân tư bản chủ nghĩa càng thêm sâu sắc. Chủ thể làm ra những thành quả lực lượng sản xuất chủ yếu là giai cấp công nhân và nhân dân lao động, trong khi đó chủ thể chiếm hữu tư liệu sản xuất và sản phẩm của sản xuất lại chủ yếu là giai cấp tư sản thống trị xã hội. Chủ nghĩa đế quốc xuất hiện đưa tới những mâu thuẫn mới: đó là mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Mâu thuẫn chủ nghĩa đế quốc với các quốc gia dân tộc bị xâm lược và đô hộ. Mâu thuẫn giữa các đế quốc với nhau. Trong chủ nghĩa tư bản có hai giai cấp cơ bản, tiêu biểu nhất, đối lập nhau về lợi ích cơ bản đó là giai cấp công nhân đại biểu cho lực lượng sản xuất hiện đại, xã hội hoá cao và giai cấp tư sản thống trị xã hội, đại biểu cho quan hệ sản xuất tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Hai giai cấp này mâu thuẫn với nhau ngày càng rõ rệt, sâu sắc và gay gắt. Các cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân (gắn với nhân dân lao động bị áp bức bóc lột) chống giai cấp tư sản áp bức bóc lột phát triển từ trình độ thấp, quy mô nhỏ, tự phát tiến tới trình độ cao hơn, quy mô lớn hơn và tính tự giác ngày càng thể hiện rõ hơn. Đến độ chín muồi của sự phát triển, phong trào công nhân hình thành đảng chính trị của mình với hệ tư tưởng và tổ chức tiên phong để lãnh đạo giai cấp công nhân và nhân dân lao động chống lại, lật đổ ách thống trị của giai cấp tư sản. Khi đảng cộng sản ra đời, toàn bộ hoạt động của đảng đều hướng đến lật đổ nhà nước của giai cấp tư sản, thiết lập nhà nước của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Việc thiết lập nhà nước của giai cấp công nhân và nhân dân lao động là sự mở đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Với những đặc trưng trên hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa là hình thái kinh tế - xã hội ưu việt là cái đích nhắm tới của tấc cả các nước trên thế giới trong đó có Việt Nam. 2/ Tính tất yếu, khách quan xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Năm 1945, sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Việt Nam đã đi theo con đường XHCN, nhưng đến năm 1954, Việt Nam mới thật sự xây dựng CNXH ở miền Bắc. Sau 30/4/1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, cả nước bắt tay vào công cuộc xây dựng CNXH. Xét vấn đề từ góc độ lý luận, chúng ta cũng thấy vấn đề bộc lộ ra hết sức rõ ràng. Sự lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa của dân tộc Việt Nam là sự lựa chọn duy nhất đúng. Phải thừa nhận rằng, chủ nghĩa tư bản là một giai đoạn phát triển kỳ diệu, là thành tựu của văn minh nhân loại. Chủ nghĩa tư bản vẫn đang có không ít những cám dỗ và sự hấp dẫn bề ngoài của nó. Mặc dù chủ nghĩa tư bản hiện đang nắm ưu thế về vốn, khoa học và công nghệ, thị trường, song nó không thể khắc phục nổi những mâu thuẫn vốn có của xã hội tư bản, đặc biệt là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hoá ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, mâu thuẫn giữa các nước tư bản phát triển và các nước đang phát triển… Theo quy luật tiến hoá của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội. Qua trình quá độ lên chủ nghĩa luân phù hợp với mọi thời đại. Theo quy luật phát triển của xã hội, chủ nghĩa tư bản không thể không bị phủ định. Đó là su thế khách quan, là dòng chảy của lịch sử. Bản chất của chủ nghĩa tư bản là hoang sơ, là dồn dân cướp đất, tướt đạt giá trị thặng dư của người lao động nghèo khổ. Chủ nghĩa tư bản không phải là tương lai của lòai người, nó không phù hợp với nguyện vọng của loài người với quy luật phát triển của xã hội. Chính vì thế quá độ lên chủ nghĩa là xu hướng khách quan thích hợp với lịch sử. Ở Việt Nam, Lịch sử đã minh chứng rõ ràng và cụ thể con đường mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn là đúng đắn và phù hợp với đất nước với tâm tư nguyện vọng của nhân dân. Bởi lẽ: chỉ có CNXH mới giải phóng được nhân dân lao động khỏi mọi áp bức, bất công, mới đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Toàn bộ lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh: quy luật của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Chỉ có đi lên CNXH mới giữ được độc lập, tự do cho dân tộc, vì theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc, giữa cách mạng giải phóng dân tộc với cách mạng vô sản, Bác Hồ đã chỉ ra rằng: muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản. Chỉ có CNXH mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ. Sự lựa chọn đúng con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội thực tế đã đem đến cho dân tộc ta sức mạnh tổng hợp, là nhân tố đảm bảo thắng lợi của cách mạng Việt Nam cho tới nay. Cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo dành được thắng lợi đã tạo ra những tiền đề khách quan cho sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Sự thắng lợi của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ ở nước ta đã có đủ điều kiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Quá độ lên CNXH không những phù hợp với qui luật phát triển của lịch sử mà còn phù hợp với nguyện vọng của nhân dân, những người đã chiến đấu hi sinh thân mình vì độc lập tự do của dân tộc, vì sự ấm no của mọi người, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ văn minh mà những yêu cầu ấy chỉ có XHCN mới đáp ứng được. Sau khi dành độc lập, nền kinh tế ở trạng thái kiệt quệ, bộ máy nhà nước cồng kềnh, kém năng động, sáng tạo, hệ thống vật chất kĩ thuật còn thô sơ lạc hậu, đời sống người dân nghèo nàn, nhiều tàn dư của chế độ xã hội cũ và chiến tranh để lại. Công cuộc đi lên công cuộc đi lên chủ nghĩa xã hội để thay đổi bộ mặt xã hội, đáp ứng nhu cầu của nhân dân được Đảng và nhân dân ta gấp rút tiến hành mặt dù gặp vô vàng khó khăn và thử thách. Việt Nam tiến lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, từ một xã hội vốn là thuộc đại nửa thuộc đại phong kiến, lực lượng sản xuất phát triển rất thấp nên không được nhanh chóng khắc phục sẽ khó đuổi kịp trình độ thậm chí dễ bị tụt hậu. Đất nước trải qua hàng chục năm chiến tranh tàn phá nặng nề. Những tàn dư của chủ nghĩa thực dân, phong kiến còn nhiều. Chủ nghĩa xã hội thế giới đang lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng. Song, chúng ta cũng có những thuận lợi cơ bản. Đất nước còn nhiều tiềm năng thuận lợi về tài nguyên, vị trí địa lý, lao động, và đặc biệt là tiềm năng tinh thần, truyền thống, trí tuệ của người Việt Nam. Hiện nay, trong khi đánh giá đầy đủ những khó khăn đang gặp phải, nước ta vẫn kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa và thực hiện công cuộc đổi mới của Đại hội VI, Đại hội VII và Đại hội VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam. Những thành tựu của quốc tế về đổi mới đã tạo ra thế lực của Đất nước về nhiều mặt: đời sống vật chất của người dân được nâng lên, chính trị ổn định, đất nước hòa bình và có quan hệ quốc tế rộng mở. Sự giúp đỡ to lớn của các nước xã hội chủ nghĩa, các Đảng Cộng sản, giai cấp công nhân, các lực lượng tiến bộ trên thế giới. Chính quyền nhân dân trong nước ngày càng được cũng cố và tăng cường. Chế độ chính trị ổn định. Dân tộc ta anh hùng và sáng tạo. Cuộc cách mạng khoa học và công nghiệp hiện đại cùng với xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới đang tạo ra thời cơ lớn cho dân tộc ta phát triển. Như vậy: Điều kiện lịch sử và những tiền đề nói trên khẳng định quá độ lên CNXH ở nước ta là không gì có thể ngăn cản nổi, là một tất yếu lịch sử, là sự lựa chọn duy nhất đúng. Những thành tựu về kinh tế, chính trị , khoa học xã hội đã chứng minh một cách hùng hồn nhất về sự lựa chọn của nhân dân ta , của đảng ta là đúng đắn và khẳng định sự lựa chọn con đường xây dựng đất nước theo CNXH là một tất yếu khách quan. 3/ Qúa độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn chủ nghĩa tư bản ở Việt Nam Muốn có chủ nghĩa xã hội tất yếu phải trải qua một thời kì quá độ lâu dài để xây dựng cả cơ sở hạ tầng lẫn kiến trúc thượng tầng mới mà trọng tâm là xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Cần có thời gian mới thay đổi căn bản trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và phải trải qua một cuộc đấu tranh quyết liệt mới có thể thắng được sức mạnh to lớn của thói quen quản lý theo kiểu cũ. Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia…là một thời kỳ quá độ chính trị mà công cụ cải biến đó là chuyên chính vô sản. Mác gọi đó là cơn đau đẻ kéo dài để loại bỏ dần những cái cũ, xây dựng dần những cái mới, tạo ra tiền đề vật chất và tinh thần để hình thành xã hội cao hơn. Thời kỳ quá độ này bắt đầu từ khi giai cấp vô sản giành lại chính quyền và kết thúc khi xây dựng xong cơ bản, cơ sở vật chất kĩ thuật của CNXH mang bản chất của CNXH , cả về mặt lực lượng sản xuất lẫn quan hệ sản xuất cả cơ sở kinh tế lẫn kiến trúc thượng tầng cả sự tồn tại xã hội và ý thức xã hội, tấc cả yếu tố này phải đáp ứng mọi nhu cầu của CNXH. Con đường phát triển của mỗi dân tộc không chỉ bị chi phối bởi các quy luật chung, mà còn bị tác động bởi các điều kiện về tự nhiên, về chính trị, về truyền thống văn hóa, về điều kiện quốc tế v.v.. Chính vì vậy, lịch sử phát triển của nhân loại hết sức phong phú, đa dạng. Mỗi dân tộc đều có nét độc đáo riêng trong lịch sử phát triển của mình. Có những dân tộc lần lượt trải qua các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến cao; nhưng cũng có những dân tộc bỏ qua một hay một số hình thái kinh tế - xã hội nào đó. Tuy nhiên, việc bỏ qua đó cũng diễn ra theo một quá trình lịch sử - tự nhiên chứ không phải theo ý muốn chủ quan.V.I. Lênin viết: tất cả các dân tộc đều sẽ đi lên chủ nghĩa xã hội, đó là điều không thể tránh khỏi, nhưng các dân tộc tiến tới chủ nghĩa xã hội không phải hoàn toàn giống nhau. Có hai kiểu quá độ lên chủ nghĩa xã hội: Qúa độ trực tiếp từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và quá độ gián tiếp từ những xã hội tiền tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội. Dù là trực tiếp hay gián tiếp đều phải trải qua một quá trình gay go, phức tạp và lâu dài. Quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng TBCN, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ TBCN, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại. Qúa độ lên CNXH là một tất yếu lịch sử. Đó là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia, là một thời kỳ “đau để” kéo dài và đâu đớn. Cần phải có một thời kỳ quá độ lâu dài để đổi mới nền sản xuất xã hội. Qúa độ bỏ qua chủ nghĩa tư bản là kiểu quá độ "đặc biệt của đặc biệt" tất nhiên là phải trải qua rất nhiều khó khăn, phức tạp, lâu dài, chủ yếu vì chưa qua "trường học dân chủ tư sản" và chưa có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại. Thời kỳ quá độ là thời kỳ mà trình độ kinh tế - xã hội chưa vượt ra khỏi tiến trình phát triển của CNTB, tiến trình đó phải được tiếp tục đẩy mạnh dưới chính quyền của giai cấp công nhân, mà hình thức thích hợp nhất là CNTB nhà nước và kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Như vậy, việc nước ta tiến thẳng lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, mặc dù là một trường hợp đặc biệt, vẫn là một hiện tượng phù hợp quy luật phát triển lịch sử. Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, từ nền nông nghiệp lạc hậu, mang nặng tính chất tự cung tự cấp, nền kinh tế nước ta nảy sinh một yêu cầu khách quan là: chuyển kinh tế tự nhiên lên kinh tế hàng hóa và thúc đẩy sản xuất hàng hóa nhỏ phát triển lên thành sản xuất lớn dựa trên cơ sở kỹ thuật hiện đại. Để đáp ứng yêu cầu khách quan trên, nền kinh tế nước ta chứa đựng trong mình hai khả năng phát triển, hai xu hướng vận động. Và nền kinh tế nước ta có thể lựa chọn một trong hai hướng sau đây: Hướng thứ nhất, để nền kinh tế phát triển tự phát chuyển thành nền kinh tế TBCN, trên cơ sở phân hóa những người sản xuất hàng hóa nhỏ, do tác động của quy luật giá trị. Nhưng, đi theo hướng này, CNTB ra đời, thì dẫn đến những hậu quả sau: Chính quyền do chính nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đã phải tốn bao xương máu mới giành được, sẽ mất; và chính nhân dân lao động lại rơi xuống địa vị người làm thuê và bị bóc lột. Đi theo con đường TBCN thì không thể thực hiện được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Chúng ta không đi theo con đường TBCN vì thời đại ngày nay không phải là thời đại của CNTB. Theo quy luật phát triển của lịch sử thì CNTB không thể không bị phủ định. Đó là xu thế khách quan. Thực hiện quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN dựa trên cơ sở củng cố chính quyền của dân, do dân và vì dân; dựa vào khối liên minh công - nông - trí thức để tổ chức và huy động mọi tiềm lực của các tầng lớp nhân dân, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, tạo lập cơ sở vật chất - kỹ thuật cho CNXH. Con đường này hoàn toàn mới mẻ và không ít khó khăn, nhưng giảm bớt được đau khổ cho nhân dân lao động. Những thành tựu đã đạt được hơn hai mươi năm đổi mới đã chứng minh: chọn con đường thứ hai này là đúng hướng, phù hợp với lợi ích của cả dân tộc và hoàn cảnh lịch sử cụ thể của nước ta, phù hợp với tiến trình phát triển của thời đại chúng ta. Quá trình cách mạng do Đảng ta lãnh đạo đã tạo những tiền đề cả vật chất và tinh thần để có thể “rút ngắn” quá trình phát triển lịch sử - tự nhiên của xã hội. Vì thế, trong sự lựa chọn con đường đi lên cho mình, dân tộc ta đã chọn con đường quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN. Đó là con đường phù hợp cả về lý luận và thực tiễn, cả về đặc điểm lịch sử - cụ thể trong nước và hoàn cảnh quốc tế. Thực tế đã chứng minh quá độ bỏ qua chế độ TBCN ở nước ta không phải là đốt cháy giai đoạn bỏ qua sự phát triển lực lượng sản xuất TBCN, không phải là xóa bỏ kinh tế tư nhân như trước đây chúng ta đó thực hiện mà bỏ qua sự thống trị của quan hệ sản xuất TBCN sự thống trị của kinh tế tư bản tư nhân, sự thống trị của kiến trúc thượng tầng TBCN trong nền kinh tế xó hội nước ta. Bỏ qua ở đây về thực chất chính là rút ngắn một cách đáng kể quá trình đi lên CNXH ở nước ta đưa nhanh nền kinh tế nước ta lên sản xuất lớn XHCN. Bỏ qua ở đây là chúng ta phải biết tiếp thu, tranh thủ, tận dụng những thành tựu của nhân loại dưới TBCN, đặc biệt là vốn, công nghệ hiện đại để phát triển nhanh nền kinh tế trong nước. Bỏ qua ở đây là chúng ta phải biết phát huy khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng kinh tế trong nước để phát triển nhanh nền kinh tế. Thông qua những hình thức tổ chức kinh tế, qúa độ trung gian, thích hộ với mọi nguồn lực. Vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về thời kỳ quá độ lên CNXH vào điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam Đảng ta đó đề ra mục tiêu tổng quát, phương hướng và bước đi thích hợp nhằm thực hiện sự quá độ lên CNXH ở nước ta qua các Đại Hội và tập trung nhất trong “ Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ” do Đại hội VI thông qua và được cụ thể hóa trong các nghị quyết trung ương khóa VI và khóa VII. Hiện nay, sức sản xuất của ta đang yếu kém, yếu kém rất nhiều so với các nước tư bản phát triển, nhưng chúng ta có chính quyền tiên tiến, có Đảng lãnh đạo, lại đang ở vào thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Biết rằng đây lại một sự nghiệp khó khăn đặc biệt đối với một nước đi lên từ một nền nông nghiệp lạc hậu, kinh tế, kĩ thuật chậm phát triển, nhưng chúng ta có điều kiện bỏ qua. Bỏ qua chế độ bốc lột mà không bỏ qua việc phát triển sức sản xuất. Chúng ta có những tiền đề bên ngoài là thời đại phát triển, cách mạng khoa học kĩ thuật rất nhanh, thế giới đang đi vào su hướng toàn cầu hoá, đa phương hoá, nhiều bạn bè sẳn sàn chia sẽ, giúp đở, chúng ta lại có những tiền đề bên trong về kinh tế, chính trị, văn hoá…việc quá độ bỏ qua chủ nghĩa tư bản tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hứa hẹn nhiều thành công rực rỡ. Như vậy, việc tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế đọ tư bản chủ nghĩa, mặc dù là một trường hợp đặc biệt, vẫn là một hiện tượng phù hợp với quy luật phát triển lịch sử. Trong tình hình thế giới có những biến động như hiện nay, trong khi đánh giá đầy đủ những khó khăn đang gặp phải, nước ta vẫn kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa và thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện sự nghiệp xây dựng đất nước. Đường lối đổi mới của Đại hội VI, Đại hội VII, Đại hội VIII của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Hiến pháp 1992 của nước ta đã thể hiện sâu sắc ý chí đó của Đảng, toàn dân tộc ta trong sự nghiệp phát triển đất nước. 4/ Đặc điểm kinh tế - xã hội của Việt Nam trong thời kỳ quá độ. Mác – Lênnin cho rằng: Đặc điểm bổi bật trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là những nhân tố của xã hội mới và những tàn dư của xã hội cũ tồn tại đan xen lẫn nhau và đấu tranh với nhau trên tấc cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, tư tưởng và phong tục tập quán. CNXH ở Việt Nam được xây dựng dựa trên mô hình của CNXH thế giới, do đó nó vừa mang những đặc trưng của CNXH thế giới, vừa mang những nét riêng biệt của xã hội Việt Nam. Trong thời kỳ quá độ nền kinh tế - xã hội của Việt Nam cũng không nằm ngoài những đặc trưng đó. Về mặt kinh tế: trong thời kỳ quá độ, kinh tế Việt Nam bao gồm những mảng, những phần, những bộ phận của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội. Nền kinh tế tồn tại nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất đồng thời tồn tại nhiều thành phần kinh tế, cả thành phần kinh tế TBCN lẫn thành phần kinh tế XHCN, thành phần kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ. Việt Nam có năm thành phần kinh tế, ứng với các hình thức sở hữu thì có các thành phần kinh tế. Với hình thức sở hữu nhà nước thì có thành phần kinh tế nhà nước, hình thức sở hữu tập thể có thành phần kinh tế tập thể, hình thức sở hữu tư nhân có thành phần kinh tế tư bản nhà nước, tư nhân và thành phần kinh tế thu hút đầu tư nước ngoài. Gắn liền với các thành phần kinh tế là cơ cấu xã hội nhiều giai cấp và tầng lớp xã hội có lợi ích căn bản khác nhau. Một đặc trưng khác dễ nhận thấy là trong thời kỳ quá độ nền kinh tế Việt Nam đang vận động theo cơ chế thị trường định hướng xã hội. Kết cấu hạ tầng được đầu tư với mức độ ngày càng tăng. Tuy nhiên, kết cấu hạ tầng vật chất và xã hội ở nước ta còn ở trình độ thấp, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Trình độ công nghệ lạc hậu, máy móc cũ kỹ, quy mô sản xuất nhỏ bé, năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất còn thấp. cơ cấu kinh tế đang tiếp tục chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tuy nhiên, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, còn mất cân đối và kém hiệu quả. Cơ cấu kinh tế nước ta còn mang nặng đặc trưng của một cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Ngành nghề chưa phát triển; sự phân công hiệp tác, chuyên môn hóa sản xuất chưa rộng, chưa sâu, giao lưu hàng hóa còn nhiều hạn chế. Nền kinh tế thị trường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa với sự quản lý vĩ mô của nhà nước. Đây là đặc điểm cơ bản nhất của kinh tế thị trường ở nước ta, làm cho nền kinh tế thị trường ở nước ta khác với nền sản xuất hàng hóa giản đơn trước đây, cũng như khác với nền kinh tế thị trường ở các nước tư bản chủ nghĩa. Đặc điểm này cũng chính là mô hình kinh tế khái quát trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Mô hình kinh tế đó có những đặc trưng riêng, làm cho nó khác với kinh tế thị trường ở các nước tư bản chủ nghĩa. Về mặt xã hội: Tương ứng với từng lọai thành phần kinh tế có những cơ cấu giai cấp-tầng lớp khác nhau ,vừa mang tính đối kháng ,vừa hỗ trợ nhau. Hiện nay vấn đề bình đẳng và công bằng xã hội cần đang được xác lập dần dần, mâu thuẫn cơ bản được giải quyết, người dân được sống hạnh phúc, được giải phóng, được tự do dân chủ, các dân tộc có sự trương tợ giúp đổ lẫn nhau khi gặp thiên tai, lũ lụt. Con người được tạo điều kiện để hoàn thiện hơn. Tuy nhiên cũng giống như các nước khác trong thời kỳ quá độ như hiện nay xã hội Việt Nam vẫn có sự khác biệt cơ bản giữa thành thị và nông thôn, đồng bằng và miền núi, lao động trí óc với lao động chân tay, xã hội Việt Nam cũng còn tồn tại nhiều tiêu cực, nhiều mặt trái do nhiều nguyên nhân khách quan khác nhau. Về mặt văn hoá, tư tưởng: Bên cạnh nền văn hoá mới, lối sống mới vừa xây dựng, Việt Nam còn tồn tại những tàn tích của nền văn hoá cũ, lối sống cũ, tư tưởng cũ lạc hậu, thậm chí phản động, gây cản trở không nhỏ cho con đường đi lên xã hội chủ nghĩa của các dân tộc sau khi mới được giải phóng. 5/ Đổi mới Từ 1975 - 1985 vận dụng việc "Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở những nước tiểu nông” chúng ta đã đạt được những thành tư khẳng định những thắng lợi bước đầu nhưng cũng mắc những sai trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là từ nguyên nhân nóng vội, chủ quan, duy ý chí, tả khuynh, hữu khuynh… dẫn đến khủng hoảng kinh tế, xã hội. Xuất phát từ thực trạng đó, cộng với tình hình thế giới có những biến động (trong thập kỷ 80 thế kỉ XX công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở tấc cả các nước xã hội chủ nghĩa đều rơi vào tình trạng trì tuệ và khủng hoảng) đòi hỏi ta phải tiến hành đổi mới cho phù hợp với tình hình mới. Phải tiến hành đổi mới tư duy, phải tìm ra biện pháp, bước đi thích hợp để đưa sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội tiến lên phía trước, phù hợp với quy luật khách quan và những điều kiện lịch sử cụ thể của nước ta, đó là mệnh lệnh của cộng sản, đó là vấn đề có ý nghĩa sống còn. Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986, Đảng ta đã thống nhất đi đến quyết định phải tiến hành “Đổi mới”. Song Đảng cũng đặt ra: “Đổi mới không phải là từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà là làm cho chủ nghĩa xã hội được nhận thức đúng đắn hơn và được xây dựng có hiệu quả hơn. Đổi mới không phải xa rời mà là nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm nền tảng tư tưởng của Đảng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng”. Không thể chủ quan, nóng vội đốt cháy giai đoạn mà phải trải qua nhiều bước quá độ... Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện cho đất nước. Đường lối đó không ngừng được bổ xung hoàn thiện qua các đại hội VII, VIII, IX… và các Hội nghị trung ưng trong những nhiệm kỳ tương ứng. Nhờ những nổ lực của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân trong việc hiện thực hoá đường lối của Đảng, đất nước đã có những bước tiến trên nhiều phương diện. Trong kinh tế: Kinh tế Việt Nam một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu. Chế độ công hữu ở nước ta không phải là sự hư cấu, mà là một thực thể kinh tế, được hình thành bằng việc quốc hữu hóa các cơ sở kinh tế của chế độ cũ và từng bước xây dựng nên các cơ sở kinh tế mới. Nó phát triển dần từ nhỏ đến lớn, từ thấp đến cao, ngày càng vững mạnh và hoàn thiện. Trước Đổi mới: Trong nhận thức trước đây về chủ nghĩa xã hội, vì không hiểu đúng mối quan hệ biện chứng giữa chủ nghĩa tư bản với chủ nghĩa xã hội nên đã đối lập chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa tư bản theo tinh thần phủ định hoàn toàn chủ nghĩa tư bản, hoặc hiểu không đúng khái niệm "bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa" nên từ đó không thấy được yêu cầu phải kế thừa những giá trị, những thành tựu mà nhân loại đạt được trong xã hội tư bản chủ nghĩa để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trước năm 1986, Trong lĩnh vực kinh tế, do coi kinh tế tập trung bao cấp là đặc trưng của kinh tế xã hội chủ nghĩa nên đã coi nhẹ hoặc phủ nhận sản xuất hàng hóa, quy luật giá trị, có thành kiến với kinh tế thị trường do đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản. Sau Đổi mới : Kinh tế Việt Nam có lực lượng sản xuất hiện đại dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu. Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa khi đã xây dựng xong được đặc trưng bằng sự đa dạng các loại hình sở hữu hỗn hợp, trong đó quan trọng nhất là sở hữu tư bản nhà nước. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có xu hướng tăng lên tương đối. Một nền kinh tế càng phát triển trong điều kiện toàn cầu hóa thì khả năng hội nhập kinh tế quốc tế càng sâu rộng. Những thành tựu đạt được: Thành tựu kinh tế rõ nét nhất của Việt Nam mà cả thế giới phải thừa nhận là từ năm 1993 tới nay, do kinh tế liên tục tăng trưởng, số người nghèo ở Việt Nam đã giảm tới 2/3. Với tốc độ tăng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) trung bình 7,8% trong thời gian từ 2001-2006 và 3 năm liên tục gần đây đạt trên 8%, Việt Nam giờ đây đang trên con đường trở thành quốc gia châu Á mới nhất chuyển từ đất nước nghèo nàn thời thuộc địa thành một quốc gia phồn thịnh. Với hơn 80 triệu người tiêu dùng và một đội ngũ công nhân trẻ, được học hành, Việt Nam giờ đang trở thành một trung tâm thu hút sự quan tâm của các tập đoàn đa quốc gia. Khối lượng đầu tư trực tiếp của nươc ngoài (FDI) vào Việt Nam năm 2006 vượt ngưỡng 10 tỷ USD và trong năm 2007, với lợi thế gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Việt Nam có thể thu hút tới 12 tỷ USD đầu tư FDI. Kinh tế phát triển không chỉ cải thiện đời sống mà còn tạo cho công nhân và người dân Việt Nam có nhiều lựa chọn hơn về công ăn việc làm với đồng lương cao hơn và điều kiện làm việc tốt hơn. Năm 2007 là một năm đáng ghi nhận của Việt Nam. Việt Nam là thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), với tư cách này, Việt Nam trở thành một địa chỉ đầu tư hấp dẫn trong cộng đồng doanh nghiệp thế giới. Có một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nước ta là một quốc gia đa dân tộc, với nhiều nền văn hoá khác nhau. Mỗi nền văn hoá mang một bản sắc riêng biệt tạo nên một bản sắc văn hoá Việt Nam. Tiến hành cách mạng XHCN trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa, làm cho thế giới quan Mác - Lê Nin và tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội. Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao. Chống tư tưởng, văn hóa phản tiến bộ, trái với những truyền thống tốt đẹp của dân tộc và những giá trị cao quý của loài người, trái với phương hướng đi lên CNXH. Trước đổi mới:Việt Nam là một quốc gia có nền văn hóa lâu đời, đã tạo dựng được bản sắc riêng của mình từ xưa đến nay. Nhưng trong thời kỳ trước đổi mới, do chúng ta thực hiện chính sách “ bế quan tỏa cảng” không chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà còn trong cả lĩnh vực văn hóa, do đó nước ta rất hạn chế trong việc giao lưu với các quốc gia bên ngoài (trừ những nước XHCN). Sau Đổi mới: Phát huy những cái vốn có của dân tộc, chúng ta càng phát triển hơn nền văn hóa đậm đà bản sắc của mình, đặc biệt là hiện nay ta đang hội nhập với thế giới, ta càng cần phải phát huy hơn nữa, giới thiệu những tinh hoa văn hóa của mình đến bè bạn thế giới. Đồng thời phải biết tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa của nhân loai, ta cần “hòa nhập nhưng không hòa tan vào dòng chảy của thời đại” . Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc... và coi đây là đặc trưng riêng có của CNXH ở Việt Nam Trước đổi mới: Sau khi có hoà bình, độc lập, thống nhất, chúng ta đã đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh, đối với tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp, đối với thương nghiệp nhỏ (ở miền Bắc sau 1954, ở miền Nam sau 30-4-1975) với hy vọng bằng cách đó sẽ có xã hội không còn người bóc lột người; mọi người đều sống trong công bằng, bình đẳng, có cuộc sống vật chất và tinh thần ngày một cao, con người hoàn toàn được giải phóng. Song, kết quả của cải tạo xã hội chủ nghĩa - đặc biệt là trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước - lại làm cho nền kinh tế rơi vào tình trạng khủng hoảng, cuộc sống của nhân dân ngày một khó khăn, những quan hệ xã hội ngày càng diễn biến phức tạp... Sau đổi mới: Sau khi nhận ra được những khuyết điểm của mình, Đảng ta đã sửa chữa. Từ khi chuyển sang cơ chế thị trường , chúng ta đã thực hiện “làm theo năng lực hưởng theo lao động”, điều đó đã thúc đẩy nền kinh tế nước ta đi lên. Đặc biệt là trong thời gian gần đây, khi Việt Nam gia nhập vào các tổ chức lớn trên thế giới, hội nhập vào nền kinh tế thế giới, nền kinh tế Việt Nam đã phát triển nhanh chóng, đời sống của người dân được nâng lên rất nhiều. Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau... Trước đổi mới: Từ trong chiến tranh nhân dân ta đã phát huy sức mạnh của toàn thể dân tộc để giành thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến chống lại hai đế quốc hung mạnh Mỹ và Pháp, điều đó đã chứng tỏ sức mạnh đoàn kết của toàn thể dân tộc. Hiện nay: Khi đất nước đã độc lập thì sức mạnh đoàn kết đó càng được phát huy. Nhà nước ta đã có rất nhiều chính sách quan tâm đến các dân tộc thiểu số như các chương trình 134, 135…Gần đây , có một số vụ bạo động xảy ra ở vùng núi và Tây Nguyên, đã gây ảnh hưởng đến an ninh quốc gia. Nhờ những chính sách của Đảng và nhà nước mà các vụ bạo động đã được dẹp yên, vẫn giữ vững được mối đoàn kết của toàn dân tộc. Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với tất cả các nước trên thế giới! Trước đổi mới: do chính sách “ bế quan tỏa cảng”, nước ta chỉ giao lưu với các nước XHCN, nên mối quan hệ đối ngoại giữa nước ta với các nước trên thế giới rất hạn chế. Đặc biệt trong thời gian này, Mỹ thực hiện chính sách cấm vận kinh tế đối với Việt Nam, điều này cũng một phần làm cho mới quan hệ đối ngoại giữa Việt Nam với các nước bị hạn chế nhiều. Sau đổi mới: khi Mỹ đã bình thường hóa quan hệ với Việt Nam, và sau đó lần lượt các nước lớn đặt mối quan hệ bang giao với nước ta thì mối quan hệ này được cải thiện nhiêu. Và hiện nay, chúng ta đã mở rộng quan hệ quốc tế đa phương, đa dạng, chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, với chiến lược đúng đắn và lộ trình thích hợp, theo tinh thần "Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước, vì hòa bình, độc lập, và phát triển". Trong xây dựng kinh tế, phải dựa vào nguồn lực bên trong là chính, đồng thời tranh thủ tối đa những nguồn lực từ bên ngoài. Qua những thành tựu trong công cuộc đổi mới, con đường xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa lại càng được khẳng định, cuộc sống thay đổi từng ngày, nhân dân càng tin vào Đảng, vào con đường xã hội chủ nghĩa đã lựa chọn. 6/ Những giải pháp để rút ngắn thời gian quá độ lên chủ nghĩa tư bản. Công cuộc quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta mặc dù gặp nhiều thuận lợi từ tiềm lực bên trong đến sự giúp đở của bên ngoài nhưng thử thách và khó khăn đặt ra cho Việt Nam không phải là không có. Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ TBCN, từ một xã hội vốn là nữa thực dân, nữa phong kiến, lực lượng sản xuất rất thấp, trình độ nghèo nàn. Đất nước trải qua hàng chục năm chiến tranh đã để lại hậu qủa nặng nề, những tàn dư của thực dân phong kiến, chế độ cũ để lại còn nhiều. Các thế lực thường xuyên tìm cách chống phá chế độ XHCN nền độc lập dân tộc của nhân dân ta. Trong cuộc họp đại biểu giữa nhiệm kỳ VII đã xác định các vấn đề quan trọng đáng quan tâm: Nguy cơ bị tụt hậu xa về kinh tế so với các nước trên thế giới, nguy cơ lệch khỏi định hướng XHCN, tệ nạn tham nhũng, quan liêu ở các cơ quan nhà nước, nguy cơ về các “diễn biến hòa bình” của thế lực thù địch ngày càng phức tạp tinh vi nhằm phá hoại công cuộc cách mạng của Đảng và nhà nước. Tuy đạt được nhiều thành tựu, nhưng tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với khả năng. Sức cạnh tranh của nền kinh tế còn kém. Nhiều vấn đề xã hội bức xúc chưa được giải quyết tốt: Đất nước đang gặp nhiều khó khăn, thách thức không thể xem thường. Để quá trình quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội được rút ngắn, những mục tiêu đặt ra nhanh chóng được hiện thực hoá Đả

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxchu_nghia_xa_hoi_va_con_duong_tien_len_chu_nghia_xa_hoi_o_viet_nam_9617.docx
Tài liệu liên quan