Đề tài Những hình thức cơ bản trong quản lý tài nguyên môi trường ở Việt Nam

Tài liệu Đề tài Những hình thức cơ bản trong quản lý tài nguyên môi trường ở Việt Nam: Phần 1. MỞ ĐẦU 1.1. ĐẶT VẤN ĐỀ Người nghèo luôn luôn phải chịu tác động nhiều  hơn bởi tình trạng xuống cấp về môi trường. 70% dân số Việt Nam kiếm sống từ đất đai, điều đó làm cho họ bị phụ thuộc trực tiếp vào chất lượng và sự sẵn có của tài nguyên thiên nhiên. Đồng thời, sự phát triển nhanh chóng về dân số, đô thị hóa và kinh tế cũng tạo nên sức ép ngày càng tăng đối với môi trường và người dân, những người vốn phải dựa vào môi trường để kiếm sống. Chất lượng rừng tiếp tục xuống cấp và 700 loài động vật được xem là có nguy cơ tiệt chủng. Tình trạng ô nhiễm môi trường công nghiệp và đô thị thường xuyên vượt quá mức độ cho phép, trong khi bụi ở các vùng đô thị đã vượt quá mức độ tối đa ít nhất hai lần. Bảo đảm sự bền vững về môi trường là một chỉ tiêu quan trọng của Việt Nam và là một trong tám Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ mà Việt Nam đã cam kết thực hiện đến năm 2015. Xét mức độ rộng lớn của chỉ tiêu này, thật khó có thể đo lường. Các chỉ số thông thường cơ bản cho thấy Việt ...

doc29 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1671 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Những hình thức cơ bản trong quản lý tài nguyên môi trường ở Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần 1. MỞ ĐẦU 1.1. ĐẶT VẤN ĐỀ Người nghèo luôn luôn phải chịu tác động nhiều  hơn bởi tình trạng xuống cấp về môi trường. 70% dân số Việt Nam kiếm sống từ đất đai, điều đó làm cho họ bị phụ thuộc trực tiếp vào chất lượng và sự sẵn có của tài nguyên thiên nhiên. Đồng thời, sự phát triển nhanh chóng về dân số, đô thị hóa và kinh tế cũng tạo nên sức ép ngày càng tăng đối với môi trường và người dân, những người vốn phải dựa vào môi trường để kiếm sống. Chất lượng rừng tiếp tục xuống cấp và 700 loài động vật được xem là có nguy cơ tiệt chủng. Tình trạng ô nhiễm môi trường công nghiệp và đô thị thường xuyên vượt quá mức độ cho phép, trong khi bụi ở các vùng đô thị đã vượt quá mức độ tối đa ít nhất hai lần. Bảo đảm sự bền vững về môi trường là một chỉ tiêu quan trọng của Việt Nam và là một trong tám Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ mà Việt Nam đã cam kết thực hiện đến năm 2015. Xét mức độ rộng lớn của chỉ tiêu này, thật khó có thể đo lường. Các chỉ số thông thường cơ bản cho thấy Việt Nam có thể đang trên đường tiến tới việc chấm dứt tình trạng hủy hoại môi trường, nhưng còn lâu mới có thể đảo ngược được tình trạng xuống cấp về môi trường của thập kỷ vừa qua. Chính phủ Việt Nam đã xây dựng được một khuôn khổ pháp lý tốt cho công tác quản lý môi trường, bắt đầu bằng những sửa đổi đối với Hiến pháp năm 1992 và ban hành Luật Bảo vệ môi trường năm 1994. Gần đây Bộ Tài nguyên & môi trường được thiết lập, trong đó có Cục Môi trường quốc gia, Tổng cục quản lý đất đai và Tổng cục Khí tượng thủy văn. Chiến lược Quốc gia về bảo vệ môi trường 2001-2010 của Việt Nam đã xác định ba mục tiêu chung cho chính sách quốc gia về môi trường, đó là: Ngăn chặn và kiểm soát tình trạng ô nhiễm. Bảo vệ, bảo tồn và sử dụng bền vững nguồn tài nguyên thiên nhiên. Cải thiện chất lượng môi trường ở các khu vực đô thị, công nghiệp và nông thôn. Kế hoạch Hành động quốc gia về môi trường (2001-2005) đã đi thêm một bước bằng cách đặt ra các ưu tiên về: phát triển bền vững; quản lý nước thải và chất thải rắn; quản lý rừng; tăng cường các định chế về môi trường; giáo dục môi trường; và sự tham gia của cộng đồng trong công tác quản lý môi trường. Hiện nay, thế giới mà chúng ta sống đang phải đương đầu với rất nhiều thử thách. Xét trên các yếu tố của thế giới tự nhiên như nước, rừng, không khí, đất trồng, đại dương và động vật thì hơn 6 tỷ người tiêu dùng đang làm cạn kiệt “máu của hành tinh”, làm mờ “những lá phổi của trái đất”, làm cho “bầu trời đen, khí hậu xấu đi”, làm đất trồng “xơ xác”, làm “ô nhiễm trái tim của trái đất” và hủy diệt các loài động vật của hành tinh. Những thách thức trên đang gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh đối với con người. Đòi hỏi con người phải trả lời được câu hỏi: Vì sao phải quản lý môi trường? Phải quản lý môi trường như thế nào?... Xét theo tiềm năng và vốn tri thức khổng lồ hiện có của loài người thì chúng ta hoàn toàn có thể tìm ra được những phương sách thích hợp để giải quyết những vấn đề trên. Từ những vấn đề đặt ra như trên, nhóm tác giả chúng tôi xin đề cập đến vấn đề: “Những hình thức cơ bản trong quản lý tài nguyên môi trường ở Việt Nam”. Trong quá trình thực hiện đề tài, mặc dù đã có nhiều cố gắng song không thể tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong sự đóng góp ý kiến của quý thầy cô giáo và các bạn. 1.2. PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN VÀ PHẠM VI ĐỀ TÀI 1.2.1. Phương pháp tiếp cận: Sưu tầm tài liệu từ các nguồn khác nhau. Trên cơ sở phân tích, so sánh giữa các nguồn tài liệu, chúng tôi đã tổng hợp được những hình thức quản lý môi trường phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của nước ta trong tình hình hiện nay và một số thành tựu của nó. 1.2.2. Phạm vi đề tài: Trong giới hạn cho phép chúng tôi chỉ xin đề cập đến những hình thức quản lý tài nguyên môi trường và những thành tựu của nó trên cơ sở những nghiên cứu về vấn đề tài nguyên môi trường ở Việt Nam PHẦN 2: NỘI DUNG 2.1. Những khái niệm chung 2.1.1. Khái niệm quản lý môi trường "Quản lý môi trường là tổng hợp các biện pháp, luật pháp, chính sách kinh tế, kỹ thuật, xã hội thích hợp nhằm bảo vệ chất lượng môi trường sống và phát triển bền vững kinh tế xã hội quốc gia". Các mục tiêu chủ yếu của công tác quản lý về môi trường bao gồm: - Khắc phục và phòng chống suy thoái, ô nhiễm môi trường phát sinh trong hoạt động sống của con người. - Phát triển bền vững kinh tế và xã hội quốc gia theo 9 nguyên tắc của một xã hội bền vững do hội nghị Rio-92 đề xuất. Các khía cạnh của phát triển bền vững bao gồm: Phát triển bền vững kinh tế, bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên, không tạo ra ô nhiễm và suy thoái chất luợng môi trường sống, nâng cao sự văn minh và công bằng xã hội. - Xây dựng các công cụ có hiệu lực quản lý môi trường quốc gia và các vùng lãnh thổ. Các công cụ trên phải thích hợp cho từng ngành, từng địa phương và cộng đồng dân cư. Nguyên lý về tính thống nhất vật chất thế giới gắn tự nhiên, con người và xã hội thành một hệ thống rộng lớn "Tự nhiên - Con người - Xã hội", trong đó yếu tố con người giữ vai trò rất quan trọng. Tính thống nhất của hệ thống "Tự nhiên - Con người - Xã hội" đòi hỏi việc giải quyết vấn đề môi trường và thực hiện công tác quản lý môi trường phải toàn diện và hệ thống. Con người nắm bắt cội nguồn sự thống nhất đó, phải đưa ra các phương sách thích hợp để giải quyết các mâu thuẫn nảy sinh trong hệ thống đó. Vì chính con người đã góp phần quan trọng vào việc phá và tất yếu khách quan là sự thống nhất giữa tự nhiên - con người - xã hội. Sự hình thành những chuyên ngành khoa học như quản lý môi trường, sinh thái nhân văn là sự tìm kiếm của con người nhằm nắm bắt và giải quyết các mâu thuẫn, tính thống nhất của hệ thống "Tự nhiên - Con người - Xã hội". 2.1.2. Khái niệm hình thức quản lý tài nguyên môi trường Là các phương sách trong quản lý tài nguyên môi trường nhằm đem lại những lợi ích to lớn cho con người, tạo điều kiện cho sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia. Theo Arnstein (1969), các hình thức quản lý khác nhau nằm trong hai hình thức cơ bản là quản lý hành chính nhà nước và quản lý cộng đồng. Ngoài ra đồng quản lý hay quản lý nguồn lợi dựa vào cộng đồng (QLNLDVCĐ) là hình thức quản lý trung gian giữa hai hình thức trên. QLNLDVCĐ là một hình thức hợp tác giữa cộng đồng và nhà chức trách trong việc chia sẻ quyền và trách nhiệm trong quản lý và lợi ích (Pomerroy, 1995). Cả hai hình thức quản lý và quản lý cộng đồng thuần tuý đều có lợi ích và hạn chế riêng, đôi khi không thể dung hoà hay đánh đổi được. Vì thế, cần một hình thức quản lý kết hợp hài hòa các lợi ích, sự phối hợp và khả năng của cộng đồng cũng như các kỹ năng về khoa học kỹ thuật, công nghệ và quản lý của các tổ chức nhà nước. Đó là hình thức quản lý dựa vào cộng đồng. Hiệu quả quản lý sẽ được nâng cao khi có sự tham gia của người sử dụng nguồn lợi và các bên liên quan trong việc quản lý (Pomeroy, 2000 và VEEM, 2002). Qua quá trình tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy có 4 hình thức quản lý tài nguyên môi trường cơ bản sau: - Quản lý nhà nước - Quản lý tư nhân - Quản lý cộng đồng - Quản lý dựa vào cộng đồng 2.2. Các hình thức quản lý tài nguyên môi trường 2.2.1. Quản lý nhà nước Hình thức quản lý nhà nước là quản lý tài nguyên môi trường thông qua các công cụ luật pháp, chính sách về môi trường trên phương diện quốc tế và quốc gia. Luật quốc tế về môi trường là tổng thể các nguyên tắc, quy phạm quốc tế điều chỉnh mối quan hệ giữa các quốc gia, giữa quốc gia và các tổ chức quốc tế trong việc ngăn chặn, loại trừ thiệt hại gây ra cho môi trường của từng quốc gia và môi trường ngoài phạm vi tàn phá quốc gia. Các văn bản luật quốc tế về môi trường được hình thành một cách chính thức từ thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, giữa các quốc gia châu Âu, châu Mỹ, châu Phi. Từ hội nghị quốc tế về "Môi trường con người" tổ chức năm 1972 tại Thuỵ Điển và sau Hội nghị thượng đỉnh Rio - 92 có rất nhiều văn bản về luật quốc tế được soạn thảo và ký kết. Cho đến nay đã có hàng nghìn các văn bản luật quốc tế về môi trường, trong đó nhiều văn bản đã được chính phủ Việt Nam tham gia ký kết. Trong phạm vi quốc gia, vấn đề môi trường được đề cập trong nhiều bộ luật, trong đó Luật Bảo vệ Môi trường được quốc hội nước Việt Nam thông qua ngày 27/12/1993 là văn bản quan trọng nhất. Chính phủ đã ban hành Nghị định 175/CP ngày 18/10/1994 về hướng dẫn thi hành Luật Bảo vệ Môi trường và Nghị định 26/CP ngày 26/4/1996 về Xử phạt vi phạm hành chính về bảo vệ môi trường. Bộ Luật hình sự, hàng loạt các thông tư, quy định, quyết định của các ngành chức năng về thực hiện luật môi trường đã được ban hành. Một số tiêu chuẩn môi trường chủ yếu được soạn thảo và thông qua. Nhiều khía cạnh bảo vệ môi trường được đề cập trong các văn bản khác như Luật Khoáng sản, Luật Dầu khí, Luật Hàng hải, Luật Lao động, Luật Đất đai, Luật Phát triển và Bảo vệ rừng, Luật Bảo vệ sức khoẻ của nhân dân, Pháp lệnh về đê điều, Pháp lệnh về việc bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản, Pháp luật bảo vệ các công trình giao thông. Các văn bản trên cùng với các văn bản về luật quốc tế được nhà nước Việt Nam phê duyệt là cơ sở quan trọng để thực hiện công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường. Ngày 15 tháng 11 năm 2004, Bộ Chính trị (khóa IX) đã ban hành Nghị quyết số 41-NQ/TW “Về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Sau hơn 4 năm triển khai thực hiện Nghị quyết, công tác bảo vệ môi trường đã đạt được một số kết quả nhất định. Luật Bảo vệ môi trường (năm 2005) và Luật Đa dạng sinh học (năm 2008) đã được Quốc hội thông qua, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về môi trường tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện và bước đầu đáp ứng được nhu cầu thực tiễn. Nhận thức, ý thức về công tác bảo vệ môi trường trong các cấp uỷ đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể, của các tầng lớp nhân dân được nâng lên một bước. Lần đầu tiên nhóm chỉ tiêu về môi trường đã được xây dựng dựa vào các chỉ tiêu định hướng phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010 và hình thành mục chi ngân sách cho sự nghiệp môi trường với mức chi hàng năm không dưới 1% tổng chi ngân sách nhà nước. Hệ thống các cơ quan quản lý môi trường từ Trung ương đến cơ sở được tăng cường, lực lượng cảnh sát môi trường đã được thành lập và đi vào hoạt động. Những vấn đề bức xúc và các điểm nóng về môi trường đang từng bước được giải quyết. Tuy nhiên, việc thực hiện các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp Nghị quyết số 41-NQ/TW đã đề ra còn nhiều thiếu sót, công tác bảo vệ môi trường còn nhiều hạn chế, yếu kém. Phân tích mô hình quản lý tài nguyên môi trường theo hình thức quản lý nhà nước: Chương trình 327 tiến hành tại 3 huyện thuộc lưu vực Sông Cả là Kỳ Sơn, Tương Dương ở Nghệ An và Con Cuông - một ví dụ về quản lý tài nguyên theo hình thức nhà nước. Các quyết định quan trọng về hưởng dụng tài nguyên và luật lệ trong quản lý tài nguyên đều do chính quyền trung ương quyết định. Các chính quyền địa phương chủ yếu chỉ được trao quyền tổ chức triển khai thực hiện các chương trình, chính sách của nhà nước trên địa bàn của địa phương mình mà không được quyền ra quyết định trong việc sử dụng tài nguyên. Chính quyền địa phương phụ thuộc về tài chính đối với chính quyền cấp trên vì nguồn kinh phí cho việc quản lý bảo vệ rừng, xây dựng vốn rừng và việc thực hiện các chương trình dự án của chính phủ ở các địa phương đều trông chờ vào sự phân bổ kế hoạch và kinh phí hàng năm của nhà nước cho các địa phương. Nguồn kinh phí này thường rất khiêm tốn, không thể đáp ứng nhu cầu cần thiết của các địa phương. Do chính quyền địa phương cấp cơ sở khi được trao quyền mà không có khả năng về tài chính nên khó có thể có khả năng ra quyết định. Người dân được giao đất lâm nghiệp nhưng vì chính sách hưởng lợi không rõ ràng và thù lao ít ỏi đã không thu hút được sự đầu tư trồng và bảo vệ rừng một cách có hiệu quả. Việc cấp phát cây giống không dựa vào nhu cầu của người dân, cây giống kém chất lượng, không đúng thời vụ gieo trồng, không hướng dẫn kỹ thuật cần thiết trước khi trồng là nguyên nhân tất yếu dẫn đến tình trạng tỉ lệ cây sống thấp, bị chặt bỏ vì chất lượng kém, không được trồng vì không có nhu cầu. Có thể thấy rõ cách tiếp cận áp đặt từ trên xuống của các dự án thuộc CT 327. Đánh giá về sự tham gia vào các dự án 327, phần lớn cán bộ và dân địa phương đều cho rằng họ không có cơ hội được tham gia góp ý kiến mà mọi quyết định đều áp đặt từ trên xuống. Hơn nữa việc hỗ trợ cây giống và vật tư của các dự án này mang tính chất “ban phát” cho người dân hơn là giúp họ phát triển các hoạt động sản xuất một cách có hiệu quả và lâu bền. Sự ban phát này cùng với việc cung cấp thông tin không đầy đủ cho người dân về dự án đã làm cho người hưởng lợi từ dự án coi nhẹ sự hỗ trợ của nhà nước dẫn đến tình trạng lãng phí cây giống và chăn thả gia súc bừa bãi gây thiệt hại lớn cho việc trồng và bảo vệ rừng. " Chương trình 327, dân chúng tôi chẳng được gì. Họ đưa cây xuống và trừ vào tiền khoanh nuôi bảo vệ. Chúng tôi lại không biết chuyện này từ trước, chúng tôi không được tập huấn. Dân được nhận trồng cây để lấy tiền, nhưng không đuợc tập huấn, cây nhận về kém lại không đúng thời vụ nên tỷ lệ sống thấp nên Lâm trường không thanh toán cho đồng nào!" (Phụ nữ bản Quang Yên xã Tam Đình huyện Tương Dương). Sự hưởng lợi đối với các cán bộ các cấp các ngành tham gia triển khai thực hiện các chính sách, chương trình, dự án không có, nếu có thì không đáng kể, vì vậy chưa tạo ra động lực thúc đẩy họ làm tốt công việc được giao. Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng thiếu trách nhiệm trong khi thực hiện các chương trình dự án như các dự án thuộc Chương trình 327, Giao đất giao rừng, Xoá đói giảm nghèo... ở một số địa phương. Kết quả thực hiện các chính sách và chương trình dự án tại các địa phương phụ thuộc một phần vào tinh thần trách nhiệm của các cơ quan và cán bộ được trao quyền. Sự buông lỏng quản lý, thiếu sự kiểm tra giám sát cần thiết của các cấp có thẩm quyền là tình trạng chung giải thích cho kết quả nghèo nàn của một số chương trình, dự án thực hiện trên địa bàn nghiên cứu. Phân tích đặc điểm của chương trình 327 ở 3 huyện thuộc lưu vực Sông Cả là Kỳ Sơn, Tương Dương ở Nghệ An và Con Cuông có thể thấy những được nguyên nhân thất bại của dự án. Qua tìm hiểu về hình thức quản lý Nhà nước, chúng tôi rút ra một số ưu và nhược điểm sau: Mặt tích cực Quản lý môi trường trên phạm vi vĩ mô. Đánh giá được hiệu quả một cách tổng hợp. Định hướng được mục tiêu, chương trình hành động. Đảm bảo tính thống nhất giữa các tổ chức, cá nhân, giữa các ban ngành chức năng và giữa các địa phương. Mặt hạn chế Việc quản lý nhà nước chủ yếu dựa trên công cụ luật pháp, các chế tài vì thế việc thực hiện tỏ ra cứng nhắc, chưa đồng bộ và phù hợp với nhu cầu của cộng đồng và quốc gia. Việc hoàn thiện cơ chế, chính sách và hệ thống tổ chức quản lý nhà nước về bảo vệ tài nguyên môi trường còn chậm, chưa đồng bộ. Đội ngũ cán bộ quản lý môi trường còn thiếu về số lượng, hạn chế về năng lực và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Trình độ khoa học - công nghệ bảo vệ môi trường, xử lý, giải quyết ô nhiễm môi trường còn thấp. Nhận thức về bảo vệ môi trường và phát triển bền vững của nhiều cấp ủy, lãnh đạo các cấp, các ngành, doanh nghiệp và nhân dân chưa đầy đủ; ý thức bảo vệ môi trường nhìn chung còn thấp. Nguồn vốn đầu tư và chi thường xuyên cho bảo vệ tài nguyên môi trường chưa đáp ứng được yêu cầu. Nhiều địa phương còn sử dụng kinh phí sự nghiệp môi trường cho các mục đích khác hoặc sử dụng không hiệu quả. Trang thiết bị phục vụ công tác bảo vệ tài nguyên môi trường còn thiếu và lạc hậu. Nhiều nơi trong chỉ đạo, điều hành chỉ quan tâm tới các chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế, coi nhẹ các yêu cầu bảo vệ môi trường; có biểu hiện buông lỏng công tác quản lý nhà nước, thiếu kiên quyết trong việc xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường; chưa giải quyết dứt điểm các điểm nóng, bức xúc về ô nhiễm môi trường. Tình trạng vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường diễn ra khá phổ biến. Nhiều vi phạm có tổ chức, tinh vi, một số hành vi có dấu hiệu tội phạm. Nhiều tổ chức, cá nhân khi vi phạm nhưng không nhận trách nhiệm. Tuy vậy, nhà nước vẫn chưa có biện pháp xử lý hiệu quả, để lại những hậu quả nặng nề cho môi trường. Các hình thức xử lý vi phạm còn mang tính chiếu lệ, chưa đủ sức răn đe, ngăn ngừa. Việc quản lý môi trường chưa thực sự mang lại hiệu quả đối với chất lượng cuộc sống của người dân do đó trong quá trình thực hiện gặp nhiều khó khăn, trở ngại như người dân tiếp tay, bảo vệ cho lâm tặc, … 2.2.2. Quản lý tư nhân Quản lý tư nhân (cá nhân, hộ gia đình) là hình thức quản lý thấp nhất về quy mô. Trong đó, mỗi cá thể là một chủ thể được giao trách nhiệm quản lý chất lượng tài nguyên môi trường ở một khu vực trong một lĩnh vực nào đó. Ví dụ như: Quản lý đất, quản lý rừng, quản lý nguồn lợi thủy sản,… Nhà nước khẳng định quyền quản lý tài nguyên tập trung vào nhà nước, nhưng lại không đủ lực để thực hiện quyền này. Nhà nước giao cho chính quyền địa phương chi phối, nhưng quyền lực của địa phương thì có hạn (Bruce, 1989). Như phân tích quản lý tài nguyên rừng theo hình thức nhà nước đã thấy rõ việc tối đa hoá hệ quản lý rừng nhà nước đã dẫn đến tình trạng tài nguyên rừng bị suy thoái. Thất bại đó là một trong những bài học quan trọng nhất về phát triển trong nửa thế kỷ qua ở các nước đang phát triển (Bromlay và Cernea, 1989). Từ sự không thành công của quản lý rừng nhà nước đã dẫn đến người ta hy vọng rằng việc trao quyền quản lý rừng cho tư nhân là một giải pháp tốt để có thể bảo vệ và phát triển rừng. Quản lý tư nhân là một loại hình quản lý có hiệu quả, vì chủ thể được xác định rõ ràng, họ biết chắc chắn sẽ được hưởng lợi những gì. Thực tiễn phát triển của các trang trại trên thế giới trong những năm qua đã minh chứng rõ ràng nhất cho loại hình quản lý này. Trang trại phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng, theo hướng mở rộng diện tích, sản xuất hàng hoá, tạo việc làm và tăng thu nhập cho người dân. Nhưng nếu quá nhấn mạnh đến hình thức quản lý tư nhân lại dẫn đến những hậu quả xã hội khác. Như ở Philippin người ta chỉ coi trọng quản lý tư nhân và đã gây nên hậu quả xã hội: phân hoá giàu nghèo mãnh liệt, Nhà nước mất quyền lợi, không kiểm soát được hoạt động sản xuất kinh doanh của tư nhân. Sơ đồ sau đây ví dụ cho hình thức quản lý nguồn tài nguyên rừng ở nông hộ: Trên cơ sở phân tích sơ đồ trên chúng tôi nhận thấy hình thức quản lý tài nguyên rưng theo hình thức tư nhân có những ưu điểm cũng như hạn chế sau: Mặt tích cực - Phù hợp với chính sách giao đất giao rừng hiện hành nên dễ thực hiện. - Người dân có chủ quyền trên nguồn tài nguyên được giao nên có điều kiện vay vốn ngân hàng để đầu tư, phát triển, chủ động kế thừa, chuyển nhượng. - Gắn được trách nhiệm với quyền lợi của người dân địa phương. - Phát huy được sự năng động của nông hộ trong việc quản lý phát triển tài nguyên. Mặt hạn chế: - Phân chia đất rừng cụ thể về mặt pháp lý đến từng hộ có nguy cơ làm mất truyền thống quản lý tài nguyên thiên nhiên dựa vào cộng đồng, dòng họ. Đây là tập quán truyền thống quý báu của người dân bản địa, họ thường coi tài sản từ thiên nhiên là của cả cộng đồng, mọi người đều có quyền hưởng. - Thời gian nhận đất nhận rừng khá dài (thường từ 20 - 50 năm) nên khi gia đình tách hộ sẽ có nguy cơ phát sinh mâu thuẫn, xé lẻ rừng vốn diện tích đã nhỏ bé. - Có khả năng phát sinh mâu thuẫn giữa các hộ trong phân chia lợi ích, phân chia các loại rừng giàu nghèo, vị trí xa gần khác nhau. Trong một buôn vẫn có hộ không được nhận đất nhận rừng. - Khó thúc đẩy các phương thức hợp tác trong quản lý, phát triển rừng. - Trình độ các hộ khác nhau nên việc nhận thức và thực hiện việc quản lý phát triển rừng sẽ không đồng đều. - Dễ mất rừng do một số hộ quá khó khăn hoặc vì tham lợi trước mắt mà sang nhượng rừng trái phép cho những người sản xuất nông nghiệp. 2.2.3. Quản lý cộng đồng Quản lý cộng đồng (thôn, bản, nhóm hộ, nhóm người cùng hưởng lợi). Mặc dù cộng đồng không phải là một chủ thể kinh tế, nhưng đây là một loại hình tập thể rất phù hợp với phong tục tập quán của người dân. công đồng cũng là một chủ thể sở hữu tư liệu sản xuất. Hình thức này cũng có mặt mạnh, mặt yếu của nó. Phân tích hình thức quản lý tài nguyên rừng cộng đồng để thấy rõ hơn những ưu điểm và hạn chế của hình thức này trong quản lý rừng nói riêng và trong quản lý tài nguyên môi trường nói chung. Trên thực tế, không phải bất cứ khu rừng nào Nhà nước cũng quản lý được (những khu rừng nhỏ, phân tán, ít giá trị) và quản lý tư nhân cũng không thể phủ hết những phần rừng còn lại. Hiện tại, trong tổng số khoảng 10 triệu ha đất có rừng của cả nước, đã giao được 6 triệu ha cho tổ chức kinh tế (lâm trường, đơn vị kinh tế) và 2 triệu ha cho nông hộ (năm 1998), cùng với khoảng 1 triệu ha rừng đặc dụng; số rừng/đất rừng còn lại (khoảng 1 triệu ha) vẫn chưa có chủ quản lý. Vậy thì, phần đất còn lại ai sẽ là người quản lý của những “khu rừng vô chủ” đó ? Nên chăng cùng với giao rừng/đất rừng cho tư nhân hãy trao lại những khu rừng chưa có chủ này cho các cộng đồng vốn trước kia đã là “chủ” của nó? Trên thực tế, cho đến nay ở Việt Nam đã và đang chỉ tập trung tới hệ quản lý rừng nhà nước, hiện đang trong quá trình tư nhân hóa rừng và đất rừng, mà chưa chú ý tới hệ quản lý rừng cộng đồng. Thực tế việc giao đất rừng cho cộng đồng địa phương quản lý có hiệu quả hơn là giao đất rừng cho các cá nhân, vì nhiều sáng kiến quan trọng, đặc biệt là để bảo vệ rừng, đòi hỏi hoạt động ngoài quy mô hộ gia đình. Những giải pháp thích hợp luôn gắn bó với văn hóa - xã hội địa phương, đánh giá cao và sử dụng kiến thức bản địa về hệ sinh thái rừng của người dânkhuyến khích và trao quyền quản lý và hưởng lợi tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là tài nguyên rừng cộng đồng; tạo được những đòn bẩy thích đáng thúc đẩy sự tham gia lâu dài của người dân địa phương (Messersmidt và nnk, 1996). Xét về mặt lịch sử, ở Việt Nam, rừng cộng đồng đã tồn tại từ lâu đời, gắn liền với sự sinh tồn và tín ngưỡng của các cộng đồng dân cư sống dựa vào rừng. Hình thức này đã tạo nên các phương thức sử dụng tài nguyên lâu bền và gắn liền với vốn kiến thức bản địa về hệ sinh thái rừng của người dân địa phương. Quản lý rừng cộng đồng gắn liền với người dân địa phương miền núi. Kiểu quản lý này phổ biến và đã tồn tại trong một thời gian rất dài, khi mà tài nguyên rừng đang còn dồi dào và khi Nhà nước chưa đủ sức quản lý ở những vùng xa xôi. Có thể nêu lên những ví dụ điển hình của hệ quản lý rừng cộng đồng, như hệ turf, hệ Chipko,... ở Ấn Độ, hệ panchayat ở Nê Pan, hệ umunnu ở Nigeria, hệ sagia ở Sudan,... Việc quản lý rừng bằng phương thức này thường gắn bó chặt chẽ với vốn kiến thức bản địa cùng các yếu tố văn hoá địa phương và nhiều trong số đó có những yếu tố có tính chất truyền thống. Việc tìm hiểu, kế thừa một cách có chọn lọc thông qua tham khảo các hình thức quản lý rừng cộng đồng khác nhau là cần thiết và có ý nghĩa thiết thực, nếu chúng ta muốn thực sự tiếp cận để tìm kiếm những giải pháp cho sự phát triển các thể chế cộng đồng trong quản lý tài nguyên địa phương Hiện nay, tại nhiều địa phương có những khu rừng cộng đồng cổ truyền hiện vẫn tồn tại và phát triển. Như ở vùng đệm Pù Mát (Nghệ An) hiện vẫn có 6 khu rừng cộng đồng của người Thái, Đan Lai (Trần Ngọc Lân và nnk, 1999). Luật tục và quy ước là đỉnh cao của ý thức, trách nhiệm của cộng đồng bản làng. Nó đảm bảo cho cuộc sống hiện tại của họ và sự bền vững của cuộc sống con cháu. Quy ước quản lý tài nguyên (rừng, đất, nước) luôn gắn liền với những quy ước của sản xuất (trồng trọt, chăn nuôi) thuộc mảng quy ước về nguồn sinh sống của cộng đồng. Cùng với những luật pháp chung của nhà nước, quy ước bản làng rất cần thiếtvà hữu ích đói với cộng đồng dân cư địa phương, Quy ước mang tính cộng đồng cao, gắn liền lợi ích và trách nhiệm trong quản lý tài nguyên. Nội dung của quy ước thường là những vấn đề rất thiết thực trong quản lý tài nguyên. Mỗi quy ước thường có 3 phần: quyền lợi, trách nhiệm, hình phạt. Cùng với sự biến động của tự nhiên và xã hội cộng đồng người Thái có những cách ứng xử phù hợp, vì vậy hàng năm quy ước được cộng đồng tham gia thảo luận, bàn bạc, bổ sung sửa đổi (nếu cần). Chính sự mềm dẻo đảm bảo tính thiết thực của quy ước bản làng. Sức mạnh của các quy ước còn phụ thuộc một phần tác động của hệ thống luật pháp của nhà nước. Hiệu lực của các quy ước đòi hỏi sự hỗ trợ của nhà nước. Hiệu lực của các quy ước đòi hỏi sự hỗ trợ tích cực của các cấp chính quyền địa phương (như việc xử phạt đối vớinhững ngươì ngoài cộng đồng vi phạm quy ước). Cùng với luật pháp của nhà nước, luật tục và quy ước của bản làng về quản lý tài nguyên đã gióp phần vào việc phát triển kinh tế - xã hội nông thôn và bảo vệ tài nguyên môi trường. Thực tiễn một số nơi đã chỉ rõ quản lý rừng với sự tham gia của các cộng đồng địa phương sống gần rừng là mô hình quản lý rừng có tính khả thi về kinh tế - xã hội, phù hợp với tập quán sản xuất truyền thống của nhiều dân tộc ở Việt Nam. Trên cơ sở điều tra tại tỉnh Thừa Thiên Huế, có thể phân chia thành 5 hình thức rừng cộng đồng sau: Rừng được nhà nước giao cho cộng đồng dân cư thôn quản lý, Rừng do cộng đồng quản lý theo luật tục/ hương ước, Rừng giao cho nhóm sở thích (câu lạc bộ quản lý). Rừng được nhà nước giao cho nhóm hộ quản lý, Rừng giao cho cộng đồng liên thôn quản lý, Trong 5 hình thức trên thì hình thức 1, 3, 4 và 5 được nhà nước công nhận chính thức và ở hình thức 2 rừng cộng đồng được quản lý theo hương ước, chưa được nhà nước chính thức công nhận nhưng mặc nhiên được thừa nhận. Từ 5 hình thức trên có thể chia thành 3 hình thức quản lý rừng cộng đồng chính: Hình thức tổ chức quản lý rừng theo dòng tộc (dòng họ), theo dân tộc Cộng đồng tổ chức quản lý rừng và đất rừng theo dòng họ, theo dân tộc nơi có diện tích rừng và đất rừng nhỏ, do họ tự thừa nhận hay đã mặc nhiên công nhận từ các thế hệ trước. Những khu rừng này, thường nằm gần nơi cư trú của các cộng đồng với các tên gọi như: rừng thiêng (tôn thờ thần thánh theo tín ngưỡng), rừng ma (khu rừng chôn cất người chết - nghĩa địa), rừng mó nước (khu vực bảo vệ nguồn nước cung cấp trực tiếp cho cộng đồng), rừng gỗ gia dụng (nơi cung cấp lâm sản và LSNG cho cộng đồng) Việc tổ chức bảo vệ rừng gắn bó chặt chẽ với những tập quán truyền thống và hệ thống tư tưởng của cộng đồng, vai trò của người trưởng tộc hoặc già làng rất quan trọng. Hầu hết các công việc quản lý rừng của họ đều có sự phân công rõ ràng, các thành viên thực hiện tự giác và nghiêm túc. Hình thức tổ chức quản lý rừng theo thôn, làng, buôn, bản, ấp Đây là hình thức tổ chức quản lý rừng cộng đồng chủ yếu hiện nay. Hình thức tổ chức này dựa trên cơ sở vị trí địa lý và khu vực người dân sinh sống. Phần lớn các thôn đều xây dựng quy ước/hương ước quản lý và bảo vệ rừng cộng đồng, tổ chức lực lượng tuần tra rừng chuyên trách hoặc phân công luân phiên các hộ gia đình trong thôn. Trưởng thôn điều hành các công việc chung liên quan đến bảo vệ rừng cộng đồng. Ở một số địa phương, đây là các loại rừng và đất rừng của làng xã được quản lý từ lâu đời, rừng trồng của các HTX, rừng tự nhiên đã được giao cho các HTX trước đây sau khi chuyển đổi HTX đã giao lại cho thôn quản lý. Tuy Nhà nước chưa cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và công nhận quyền hưởng lợi cho cộng đồng, song thực chất cộng đồng đang tự quản lý và toàn quyền sử dụng các sản phẩm đó. Cộng đồng tham gia quản lý rừng tự nhiên của nhà nước theo chế độ khoán bảo vệ. Đây là loại rừng tự nhiên thường được quy hoạch là rừng phòng hộ. Nhà nước khoán cho cộng đồng thôn xóm bảo vệ và sử dụng ngân sách để chi trả công bảo vệ rừng, các thành viên trong cộng đồng được hưởng lợi từ rừng. Hình thức quản lý rừng theo nhóm hộ/nhóm sở thích Hình thức quản lý rừng này được thực hiện ở một số nơi. Nhóm hộ có thể hình thành từ một số hộ gia đình cư trú liền nhau trong phạm vi một thôn, một xóm hoặc gồm một số hộ gia đình có quan hệ huyết thống hoặc họ hàng; cũng có trường hợp là những cá nhân cùng lứa tuổi, cùng có mong muốn được tham gia quản lý rừng. Nhóm hộ này tự phân công để bảo vệ rừng, có thể cả nhóm cùng tham gia tuần tra rừng hàng ngày, hàng tuần hoặc luân phiên nhau; một số nhóm hộ có rừng gần nhau liên kết bảo vệ rừng. Có thể so sánh khái quát các hình thức quản lý rừng cộng đồng như sau: Bảng 1. Khái quát các hình thức quản lý rừng cộng đồng Hình thức Điểm mạnh Điểm yếu Thôn, bản - Có nhiều tiềm năng về các mặt: Vị trí địa lý (tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên) - Kinh tế (tài chính, sản xuất) - Xã hội (Truyền thống, tổ chức, quy ước nội bộ, quan hệ..) - Nguồn nhân lực (lao động, lãnh đạo). - Có khả năng quản lý tất cả các loại rừng - Chưa có ranh giới rõ ràng - Chưa có đủ tư cách pháp nhân - Vai trò trưởng thôn mang tính hành chính và chưa có trách nhiệm pháp lý - Trình độ quản lý thấp - Chưa có cơ chế tài chính, nguồn thu hạn chế - Phụ thuộc vào các cấp chính quyền cao hơn Nhóm hộ/nhóm sở thích - Quy mô nhỏ, dễ dàng tổ chức, quản lý, thống nhất - Phù hợp với trình độ hiện nay của dân - Phù hợp với yêu cầu đầu tư của dân - Có tiềm năng trở thành cấp thôn hoặc HTX kiểu mới - Chi phí phù hợp với quy mô nhỏ. - Khó bảo vệ rừng ở các vùng sâu, vùng xa. Dòng tộc Thuận lợi tương tự như nhóm hộ - Khó được chấp nhận về mặt pháp lý. - Có thể tạo nên mâu thuẫn cục bộ trong cộng đồng thôn. Từ kinh nghiệm thực tiễn cho thấy, quy mô thôn là phù hợp cho quản lý rừng cộng đồng vì: - Thích hợp đối với vùng sâu, vùng xa. - Phù hợp với truyền thống tập quán của nhiều nhóm dân tộc. - Phù hợp với điều kiện sản xuất hiện nay của dân khi nền kinh tế đang phát triển. - Phù hợp đối với quản lý tất cả các loại rừng, kể cả rừng phòng hộ và đặc dụng. - Phù hợp với trình độ quản lý của người dân cấp thôn. Một số ví dụ về quản lý rừng cộng đồng cổ truyền: Khu rừng Tạ Bó - Pù Cành/ “Suối nước mọc”, cộng đồng dân tộc Thái, bản Tân Hương, xã Yên Khê, huyện Con Cuông. Đây là một khu rừng không lớn, diện tích hiện nay chỉ khoảng 4 ha nằm ngay giữa bản, cạnh khe “nước mọc”, tại đây có những cây gỗ lớn đường kính 50 - 60 cm với các thành phần khác nhau: trám, hoàn linh, ngát, thôi thôi, si, sung, mỡ, dẻ, .... Rừng được khoanh vùng bảo vệ từ khi những gia đình đầu tiên đến lập bản (vào khoảng 100 năm trước). Trãi qua nhiều thế hệ người dân nơi đây vẫn tự giác tôn trọng các quy ước bất thành văn: không sử dụng sản phẩm. Người ta truyền rằng đây là vùng đất thiêng với đôi mắt rồng và khe nước mọc, nếu ai tắm ở đây hoặc bắt cá (cá lấu) để ăn thì sẽ bị phù thũng, ăn nhiều ngứa nhiều, ăn ít ngứa ít và có những trường hợp tử vong. Cộng đồng cũng lập ở đây “Đền miệu” để thờ cúng giữ yên mảnh đất và việc giữ rừng có liên quan đến giữ sạch nguồn nước Suối nước mọc. Khu rừng dành cho nhóm hộ nghèo, cộng đồng người Thái, bản Khe Rạn, xã Bồng Khê, huyện Con Cuông. Trong quá trình giao đất giao rừng bản Khe Rạn có 15 hộ nghèo không có điều kiện nhận rừng, cộng đồng dành khoảng 30 ha làm rừng bản cho họ. Đây là khu rừng cách bản khoảng 3km, chỉ có một con đường độc đạo đi qua bản để ra bến sông. Quy ước của cộng đồng: mọi người dân bản đều được sử dụng rừng này để chăn thả trâu bò. Riêng 15 hộ nghèo được vào khai thác củi để bán với số lượng bằng phương thức vận chuyển (gánh hoặc vác mà không được sử dụng sức kéo khác). Quy ước đã được cộng đồng chấp nhận,việc kiểm tra được duy trì bởi toàn cộng đồng có sự hỗ trợ của thôn bản nhưng về cơ bản mọi thành viên đều tự giác thực hiện. Người Tà Ôi, Vân kiều, vùng miền Trung (Thừa Thiên - Huế Luật tục quy định không được phát rẫy tại các khu rừng Kốh Sã: Là khu rừng thuộc sở hữu chung của nhiều làng. Đây là khu rừng dùng vào thờ cúng thường xuyên. Vì vậy, cấm không được phát rẫy, không được nói tục trong rừng này. Ai vi phạm phải nộp phạt bằng trâu bò. Không cấm săn bắn và khai thác lâm sản ngoài gỗ. Kôh tâng Kỉn: Cũng là khu rừng thuộc sở hữu chung của nhiều làng. Không được phát rẫy, săn bắn, khai thác lâm sản, không được đại tiểu tiện. Ai vi phạm phải nộp phạt bằng trâu bò. Khi săn được cọp hoặc khi hai làng có xích mích cần hòa giải, đồng bào thường tổ chức lễ cúng rất lớn, lễ vật có lợn gà, rượu thịt. Ví dụ về quản lý rừng cộng đồng mới Toàn tỉnh Thừa Thiên Huế hiện có 18.999,5 ha rừng tự nhiên đã giao cho cộng đồng thôn bản, nhóm hộ gia đình quản lý và hưởng lợi lâu dài với thời hạn sử dụng trong vòng 50 năm tại địa bàn 4 huyện là Phú Lộc, Nam Đông, Phong Điền, và A Lưới. Mô hình giao rừng cho cộng đồng quản lý và hưởng lợi đầu tiên tại Thừa Thiên Huế được Hạt Kiểm lâm Phú Lộc thực hiện tại Thôn Thủy Yên Thượng (huyện Phú Lộc) vào năm 1999. Việc giao rừng cho cộng đồng quản lý với cơ chế hưởng lợi theo lượng tăng trưởng của rừng hoàn toàn là sáng kiến của ngành lâm nghiệp tỉnh Thừa Thiên Huế với sự hậu thuẫn tích cực của chính quyền tỉnh. Qua đánh giá hiệu quả thực hiện mô hình này đã khẳng định việc giao rừng cho cộng đồng địa phương quản lý có tác dụng tích cực đến việc giữ rừng cũng như phát triển vốn rừng đã giao. Cộng đồng địa phương chủ động trong việc phòng cháy chữa cháy rừng, tuần tra để xử lý nghiêm các vụ phá rừng trái phép, cũng như đầu tư kinh phí để phát triển vốn rừng thông qua trồng cây bản địa hoặc khoanh nuôi tái sinh rừng. Tiếp sau mô hình khá thành công này, chính quyền huyện Phú Lộc đã tiếp tục xúc tiến giao rừng cho cộng đồng ở các xã khác như ở xã Lộc Vĩnh, Lộc Tiến tương tự như hình thức giao rừng tại thôn Thủy Yên Thượng. Cách quản lý rừng cộng đồng có những mặt tích cực và hạn chế sau: Mặt tích cực: - Trong khi phần lớn người dân có hiểu biết thấp về chủ trương chính sách và kỹ thuật thì Ban lâm nghiệp buôn được chọn là những người có am hiểu nên dễ dàng tiếp cận chủ trương chính sách, kỹ thuật để lập kế hoạch và hướng dẫn người dân.Chính những người trong Ban lâm nghiệp là đầu mối liên lạc giữa người dân và nhóm tư vấn, các tổ chức quản lý cấp trên. - Cả buôn coi như đều được giao đất giao rừng nên mọi người đều có trách nhiệm bảo vệ và phát triển vốn rừng, các nghiệp vụ kỹ thuật lâm nghiệp như vệ sinh rừng, phát dọn dây leo, cây không tác dụng, phòng chống cháy...được tiến hành nhanh vì có số đông người tham gia. - Hạn chế được tình trạng xâm lấn rừng của những đối tượng ngoài cộng đồng, đặc biệt là của những người di dân tự do nhờ sớm được phát hiện và có áp lực đủ mạnh để trấn áp. - Không phát sinh mâu thuẫn giữa người được nhận đất nhận rừng và những người không được nhận ngay trong cộng đồng. - Rừng và đất rừng không bị chia manh mún. Mặt hạn chế : - Không phù hợp với chính sách hiện hành là giao đất giao rừng đến tận người dân, rừng phải có người chủ thực sự chứ không phải chủ chung chung. - Nhận thức về vai trò của rừng cũng như vai trò của người dân đến việc bảo vệ và phát triển rừng trong cộng đồng không đồng đều. Vẫn còn một bộ phận người dân chưa coi rừng là tài sản của chính họ, vì vậy trách nhiệm của họ đối với rừng chưa cao, vẫn duy trì thói quen ỷ lại. - Sự phân chia các sản phẩm ngoài gỗ, nhất là những sản phẩm nhỏ lẻ như mật ong, nấm, thú rừng, song mây... khó đảm bảo sự đồng đều, từ đó dễ phát sinh mâu thuẫn ngay trong cộng đồng. - Dễ tạo ra hình thức “cai đầu dài” trong quản lý bảo vệ rừng, nếu như không hướng dẫn, uốn nắn Ban lâm nghiệp xã (hoặc buôn). 2.2.4. Quản lý dựa vào cộng đồng Khái niệm quản lý môi trường dựa vào cộng đồng (CBEM) Là phương thức bảo vệ môi trường trên cơ sở một vấn đề môi trường cụ thể ở địa phương, thông qua việc tập hợp các cá nhân và tổ chức cần thiết để giải quyết vấn đề đó. Phương pháp này sử dụng các công cụ sẵn có để tập trung cải tạo hoặc bảo vệ một tài nguyên nào đó hay tạo ra lợi ích về môi trường như dự án tái tạo năng lượng, phục hồi lưu vực,... Và đồng quản lý tài nguyên đó thông qua sự hợp tác giữa các đối tác chính quyền, doanh nghiệp, các tổ chức phi chính phủ và cộng đồng dân cư . (QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG – MỘT CÁCH TIẾP CẬN HƯỚNG TỚI PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG - Đỗ Thị Kim Chi*) Đồng quản lý hay quản lý nguồn lợi dựa vào cộng đồng (QLNLDVCĐ) là hình thức quản lý trung gian giữa hai hình thức quản lý cộng đồng và quản lý nhà nước. QLNLDVCĐ là một hình thức hợp tác giữa cộng đồng và nhà chức trách trong việc chia sẻ quyền và trách nhiệm trong quản lý và lợi ích (Pomerroy,1995) [6]. Quản lý tài nguyên thiên nhiên dựa vào cộng đồng là một khái niệm rộng và đa nghĩa theo tính ứng dụng của nó trong thực tiễn, đề cập sự tham gia của các cộng đồng có lợi ích liên quan trong quản lý tài nguyên đất và nước, rừng và động vật hoang dã và nguồn lợi thủy sản [4]. Về mặt lý luận, cộng đồng địa phương đóng vai trò rất quan trọng đối với quá trình thực hiện và giám sát quá trình thực hiện các quy định của quy ước. Tuy nhiên, theo truyền thống, họ coi công tác bảo vệ và phát triển môi trường là nhiệm vụ của các cơ quan chức năng đóng trên địa bàn. Đây cũng chính là lý do giải thích tại sao việc thực hiện các quy ước bảo vệ và phát triển môi trường tại cộng đồng còn chưa thực sự có hiệu quả. Điều này đòi hỏi phải có sự phối kết hợp nhịp nhàng giữa chính quyền các cấp, đoàn thể của địa phương để việc thực hiện các quy định của quy ước thực sự có hiệu quả. Những điều kiện để cộng đồng tham gia vào công tác quản lý môi trường: - Điều kiện tiên quyết để cộng đồng cùng tham gia vào công tác quản lý là cộng đồng phải được biết họ tham gia kiểm tra, giám sát việc gì; họ có thể được hưởng lợi những gì và sẽ phải chịu những chi phí, rủi ro gì v.v... Các câu trả lời phải được thể hiện và làm rõ một cách công khai, minh bạch. - Để đạt được điều đó, người quản lí và các nhà khoa học phải có nhiệm vụ tuyên truyền, phổ biến những vai trò và ý nghĩa của nguồn tài nguyên đối với đời sống của cộng đồng, đồng thời làm cho họ nhận thức được trách nhiệm phải bảo tồn nguồn tài nguyên thiên nhiên vốn có của họ để họ tự giác thực hiện công tác bảo tồn. Từ các nhận thức đó con người phải thay đổi thói quen khai thác tuỳ tiện, khai thác theo kiểu “tận thu- tận diệt” làm suy giảm nguồn tài nguyên và sự nghèo đói lại quay về với cộng đồng. - Tất cả những nỗ lực trên đều nhằm đạt được sự độc lập và dựa vào chính các tổ chức do cộng đồng xây dựng cũng như toàn bộ cộng đồng để quản lý tài nguyên một cách hiệu quả. Cộng đồng chỉ có thể cùng tham gia kiểm tra, giám sát thực thi pháp luật có hiệu quả, bền vững các nguồn tài nguyên khi cộng đồng đó là một cộng đồng giác ngộ, am hiểu các vấn đề về pháp luật và nhận thức được đầy đủ rằng giám sát thực thi pháp luật cũng đồng nghĩa với công tác bảo tồn và bảo vệ các nguồn tài nguyên trên chính địa bàn nơi cộng đồng đang sống. Một số mô hình quản lý tài nguyên dựa vào cộng đồng: Đối với quản lý tài nguyên rừng, cách tiếp cận từ dưới lên của dự án Lâm nghiệp xã hội và bảo tồn thiên nhiên Pù mát (LNXH&BTTN) cùng thực hiện trên địa bàn của lưu vực Sông Cả là mô hình quản lý rừng dựa vào cộng đồng. Khác với CT 327 dự án LNXH&BTTH đã tạo điều kiện để già làng, trưởng bản tham gia vào ban quản lý dự án. Hệ thống khuyến nông viên thôn bản cũng được hình thành để giúp bà con tham gia dự án thực hiện tốt các mô hình sản xuất mà họ được lựa chọn. Hoạt động sản xuất được dự án hỗ trợ khá phong phú và được xây dựng dựa vào nhu cầu đăng ký của từng hộ gia đình ở các thôn bản trong vùng dự án, trên cơ sở đó dự án lập kế hoạch cho các hoạt động của mình tại từng thôn bản. Qua đó có thể thấy sự tham gia tích cực và chủ động của cán bộ và nhân dân địa phương, những người hưởng lợi từ chương trình dự án trong quá trình lập kế hoạch cho các hoạt động của dự án. Tuy mới triển khai được 2 năm nhưng dự án được người dân địa phương đánh giá rất cao về cách làm và hiệu quả của nó trong việc cải thiện điều kiện và tập quán sản xuất và thu nhập cho nhân dân trong vùng đệm. Hà Xuân Thông (2001) khi nghiên cứu đồng quản lý nghề cá trong bối cảnh Việt Nam nhận thấy một trong những đặc điểm cơ bản của đồng quản lý là tạo ra sự bình đẳng trong quản lý. Đối với nghề cá ven biển, phá Tam Giang là một trong những điểm đầu tiên có hình thức quản lý dựa vào cộng đồng được áp dụng (Tôn Thất Pháp, 2002; Nguyễn Quan Vinh Bình, 2000 và Trương Văn Tuyển, 2000). Nuôi thủy sản ở các nước đang phát triển chỉ có thể bền vững khi người sử dụng nguồn lợi hiểu được vai trò của nó đối với cuộc sống lâu dài của cả cộng đồng từ thế hệ này sang thế hệ khác (Nguyễn Thị Bích Thủy và Lê Văn Chí, 2000). Thông qua việc tham gia vào công tác quản lý nguồn tài nguyên, nhận thức của người sử dụng tài nguyên về những tác động môi trường đối với sự phát triển trong các vùng nuôi trồng thủy sản được nâng cao (VEEM, 2002). Kết quả thực hiện quản lý môi trường dựa vào cộng đồng + Hiệu quả kinh tế: nhờ hoạt động quản lý tốt, hình thức quản lý dựa vào cộng đồng đã được người nuôi quan tâm, thấy được trách nhiệm và lợi ích của mình nên hiệu quả nuôi trồng thủy sản đã đạt được kết quả cao, năng suất trung bình đạt từ 2,5- 3 tấn/ha. + Quản lý dịch bệnh: dịch bệnh trong khu nuôi công nghiệp đã giảm, trong các cuộc họp mọi người đã trao đổi kinh nghiệm và cách dùng thuốc cho nhau vì vậy bệnh dịch đã không xảy ra trên toàn vùng. + Vệ sinh môi trường: hầu hết các hộ đều ý thức tác hại của nguồn nước thải ra trong quá trình nuôi nên tuân thủ các biện pháp phòng tránh không lấy nước vào ao từ các kênh thải, nước cấp vào qua ao chứa và xử lý trước khi đưa vào ao nuôi. Nhóm cộng đồng kết hợp chặt chẽ cới cán bộ quản lý môi trường của dự án để kiểm tra ao nuôi mỗi tháng 2 lần nhằm cảnh báo môi trường chung. + Tổ chức cộng đồng đã thực sự phát huy hiệu quả, thu hút sự tham gia của người nuôi tôm, các tổ chức chính quyền các cấp liên quan. Mọi người đều nhận thấy lợi ích của quản lý dựa vào cộng đồng để cải thiện môi trường vùng nuôi. + Phối hợp với các cơ quan chức năng trên địa bàn: bước đầu dung hòa được mâu thuẫn giữa chính quyền địa phương với cộng đồng nuôi tôm trong vấn đề quản lý và điều tiết nước. + Nâng cao trình độ kỹ thuật nuôi: ngoài việc sinh hoạt cộng đồng, các cán bộ thực địa thường xuyên tư vấn kỹ thuật, cùng hộ nuôi giải quyết các khó khăn trong kỹ thuật quản lý chăm sóc ao nuôi. + Nâng cao ý thức bảo vệ môi trường + Các chính sách: xây dựng được điều lệ, quy chế hoạt động của nhóm cộng đồng. 2.3. Những bài học kinh nghiệm - Cách tiếp cận áp đặt “từ trên xuống” đã không tạo ra sự tham gia tích cực của cán bộ và người dân địa phương vào việc quản lý tài nguyên cùng với sự quản lý yếu kém, sự thụ động trong việc lập kế hoạch và sự phụ thuộc về tài chính của chính quyền địa phương vào chính quyền trung ương là những nguyên nhân chính hạn chế thành công của các chương trình, chính sách quản lý tài nguyên của chính phủ trong thời gian qua. - Chính quyền địa phương cấp cơ sở cần được trao nhiều quyền hơn và cần được đảm bảo các điều kiện cần thiết về các nguồn lực, khả năng tiếp cận thông tin và hành lang pháp lý thuận lợi để thực thi các quyền được trao. - Để sự tham gia thực sự có hiệu quả cần xác định sự hưởng lợi rõ ràng cho các bên có liên quan trong quản lý tài nguyên, kể cả các cán bộ được trao quyền và người dân địa phương, có như vậy mới tạo ra động lực cho sự tham gia. - Người dân cần được thông tin đầy đủ về các chương trình dự án của chính phủ để họ có thể ra các quyết định đúng đắn và phù hợp về việc tham gia của họ vào các chương trình chính sách này. - Cần có cơ chế thích hợp cho việc kiểm tra, giám sát các hoạt động của các tổ chức và cá nhân được trao quyền trong quá trình thực thi các nhiệm vụ được giao, từ đó đưa ra những biện pháp thích hợp nâng cao trách nhiệm giải trình đối với cấp trên và cả đối với người dân địa phương của các cá nhân, tổ chức được trao quyền. Phần III. KẾT LUẬN Có 4 hình thức cơ bản trong công tác quản lý tài nguyên – môi trường Mỗi hình thức quản lý có ưu điểm và nhược điểm khác nhau, có tính chất bổ sung cho nhau trong quá trình quản lý. Vì vậy, tùy từng điều kiện cụ thể, cần có sự phối hợp các hình thức khác nhau trong công tác quản lý nhằm thu được hiệu quả cao. Qua quá trình tìm hiểu chúng tôi nhận thấy hình thức quản lý tài nguyên môi trường dựa vào cộng đồng là hình thức tối ưu nhất, Quản lý môi trường dựa vào cộng đồng (CBEM) là phương pháp tiếp cận có hiệu quả trong giải quyết các vấn đề môi trường một cách bền vững và được áp dụng ở nhiều quốc gia trên thế giới. Phương pháp này đưa cộng đồng tham gia trực tiếp vào hệ thống quản lý môi trường (QLMT), họ trực tiếp tham gia trong nhiều công đoạn của quá trình quản lý, từ khâu bàn bạc ban đầu tới việc lên kế hoạch thực hiện, triển khai các hoạt động và nhận xét, đánh giá sau khi thực hiện. Đây là hình thức quản lý đi từ dưới lên, thực hiện theo nguyện vọng, nhu cầu thực tế và ý tưởng của chính cộng đồng. Từ việc phân tích các hình thức quản lý tài nguyên môi trường đã rút ra được nhiều bài học bổ ích cho công tác quản lý môi trường ở nước ta trong giai đoạn sắp tới. TÀI LIỆU THAM KHẢO GS.TS. Lê Văn Khoa (Đại học Quốc gia Hà Nội) THS. Lê Thị Minh Ánh (Cục bảo vệ môi trường). Mô hình kiểm tra giám sát việc thực thi pháp luật bảo vệ môi trường theo cơ chế tự giám sát tại cộng đồng. Đỗ Thị Kim Chi. Quản lý môi trường dựa vào cộng đồng- Một cách tiếp cận hướng tới bền vững. URL: Nhóm nghiên cứu Nguyễn Việt Dũng- Nguyễn Danh Tĩnh, 2006. Quản lý tài nguyên nước dựa vào cộng đồng ở Việt Nam Nguyễn Hoàng. Môi trường trong mô hình tiếo cận quản lý vùng nuôi tôm dựa vào cộng đồng- Những vấn đề đặt ra. Mai Văn Tài- Viên nghiên cứu nuôi trồng thủy sản 1. Quản lý môi trường dựa vào cộng đồng trong nuôi trồng thủy sản ở xã Quỳnh Bảng- Quỳnh Lưu- Nghê An. Trương Văn Trưởng, Giải pháp quản lý rừng cộng đồng ở Đắk Lắk. Lê Vui, 2006. Dựa vào cộng đồng để bảo vệ rừng ở Vườn Quốc gia Xuân Sơn Văn minh chợ... hãy bắt đầu từ vấn đề rác thải. Khoa học và công nghệ, số 36 ngày 4/9/2003, tr. 13 Phân tích từ góc độ so sánh: Đồng quản lý và quản lý dựa vào cộng đồng ThS. Lê Thị Diên, ThS. Lê Doãn Anh - Bước đầu tìm hiểu vai trò của Quy ước bảo vệ và phát triển rừng của cộng đồng thôn khe su thuộc vùng đệm Vườn Quốc gia Bạch Mã. UBND xã Lộc Trì, thôn Khe Su, 2001. Quy ước Bảo vệ và phát triển rừng của cộng đồng thôn Khe Su. Đinh Ngọc Lan, 2002. Quản lý rừng cộng đồng trong phát triển bền vững nông thôn miền núi phía Bắc Việt Nam (trường hợp ở Thái Nguyên và Bắc Kạn). Chương trình nghiên cứu Việt Nam - Hà Lan, NXB Nông nghiệp, Hà Nội. TS. Phạm Văn Hiền - Chương trình nghiên cứu Việt Nam - Hà Lan (VNRP) - Tài nguyên rừngvà các hình thức quản lý sau giao đất giao rừng được thực hiện bởi người dân Báo cáo Ngành Lâm nghiệp - Các chỉ tiêu về Chương trình quản lý và phát triển rừng bền vững, 2005. Chương trình hỗ trợ ngành lâm nghiệp & đối tác - cẩm nang ngành lâm nghiệp – 2006. Khoa học môi trường – lê văn khoa chủ biên nxb gd tái bản lần thứ 6, 2009

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNh7919ng hnh th7913c c417 b7843n trong qu7843n l ti nguyn.doc
Tài liệu liên quan