Tài liệu Đề tài Những giải pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp huyện Quản Bạ- Tỉnh Hà Giang: MỤC LỤC
TÊN
TRANG
MỤC LỤC……………………………………………………
Giải thích chữ cái viết tắt trong báo cáo chuyên đề thực tập……..
LỜI NÓI ĐẦU……..........................................................................
5
Chương I: NHỮNG LÝ LUẬN CHỦ YẾU VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP……………………………..
7
I. Khái niệm, đặc trưng vai trò vị trí của cơ cấu kinh tế nông nghiệp...
7
1. Cơ cấu kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế...
7
2. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp...
3. Nội dung cơ cấu kinh tế nông nghiệp...
4. Đặc trưng của cơ cấu kinh tế nông nghiệp...
II. Sự cần thiết phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp…………
12
1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp là một tất yếu khách quan..
2. Chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp……………………………………………………
3. Yêu cầu xây dựng một nền nông nghiệp hàng hoá CNH và HĐH…
III. Những nhân tố ảnh hưởng tới sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp…………………...
57 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1000 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Những giải pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp huyện Quản Bạ- Tỉnh Hà Giang, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
TÊN
TRANG
MỤC LỤC……………………………………………………
Giải thích chữ cái viết tắt trong báo cáo chuyên đề thực tập……..
LỜI NÓI ĐẦU……..........................................................................
5
Chương I: NHỮNG LÝ LUẬN CHỦ YẾU VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP……………………………..
7
I. Khái niệm, đặc trưng vai trò vị trí của cơ cấu kinh tế nông nghiệp...
7
1. Cơ cấu kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế...
7
2. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp...
3. Nội dung cơ cấu kinh tế nông nghiệp...
4. Đặc trưng của cơ cấu kinh tế nông nghiệp...
II. Sự cần thiết phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp…………
12
1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp là một tất yếu khách quan..
2. Chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp……………………………………………………
3. Yêu cầu xây dựng một nền nông nghiệp hàng hoá CNH và HĐH…
III. Những nhân tố ảnh hưởng tới sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp……………………………………………………………………...
15
1. Nhân tố điều kiện tự nhiên…………………………………………...
2. Nhân tố kinh tế - xã hội………………………………………………
3. Nhân tố quốc tế.....................................................................
4. Nhân tố tổ chức - kỹ thuật………………………………
IV. Hệ thống chỉ tiêu phản ảnh cơ cấu, chuyển dịch cơ cấu và hiệu quả cơ cấu, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp…………………..
18
1. Nhóm chỉ tiêu phản ánh cơ cấu kinh tế và hiệu quả cơ cấu kinh tế….
2. Nhóm chỉ tiêu phản ánh chuyển dịch cơ cấu kinh tế và hiệu quả của chuyển dịch cơ cấu kinh tế…………………………………………………
3. Những kinh nghiệm chung trong chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp
Chương II: THỰC TRẠNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP Ở HUYỆN QUẢN BẠ - TỈNH HÀ GIANG………..
21
I. Những đặc điểm về điều kiện tự nhiên kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến cơ cấu kinh tế nông nghiệp của huyện…… ……………...
21
1. Đặc điểm về tự nhiên………………………………………………...
22
2. Đặc điểm về kinh tế xã hội ………………………………………….
25
3. Hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ nông nghiệp………………………..
27
4. Đánh giá về điều kiện tự nhiên kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến cơ cấu kinh tế nông nghiệp của huyện………………………………...
28
II. Thực trạng của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của huyện Quản Bạ ………………………………………………………
29
1. Khái quát thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của huyện……………………………………………………………………….
29
2. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo ngành……..
31
3. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo vùng lãnh thổ………………………………………………………………………….
III. Đánh giá chung quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở huyện Quản Bạ…………………………………………...
35
1. Những thành tựu……………………………………………………...
35
2. Những tồn tại, yếu kém và nguyên nhân……………………………..
26
Chương III: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KTNN CỦA HUYỆN
QUẢN BẠ - TỈNH HÀ GIANG...
38
I. Mục tiêu và phương hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của huyện Quản Bạ tỉnh Hà Giang……………………………………...
38
1. Phương hướng và mục tiêu phát triển nông nghiệp ở huyện Quản Bạ tỉnh Hà Giang đến năm 2010……………………………………….
38
2. Phương hướng và mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở huyện QUẢNBẠ đến năm 2010……………………………………….
40
II. Các giải pháp chủ yếu nhằm chuyển dịch cơ cấu và phát triển kinh tế nông nghiệp ở huyện Quản Bạ………………………………………..
42
1. Quy hoạch bố trí lại các ngành sản xuất sản xuất nông nghiệp theo hướng chuyên môn hoá…………………………………………………….
42
2. Giải pháp về thị trường……………………………………………….
43
3. Giải pháp về vốn……………………………………………………...
45
4. Giải pháp về ruộng đất………………………………………………..
46
5. Giải pháp áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất…………...
47
6. Đầu tư xây dựng phát triển hạ tầng cơ sở phục vụ sản xuất nông nghiệp………………………………………………………………………
47
7. Đẩy mạnh công tác khuyến nông…………………………………….
48
8. Các giải pháp về cơ chế chính sách nhằm giúp cho các hộ nông dân phát triển kinh tế hộ theo hướng sản xuất hàng hoá……………………….
49
9. Sử dụng hợp lý nguồn nhân lực lao động nông thôn…………………
50
10. Nâng cao vai trò lãnh đạo của cấp uỷ, chính quyền, các tổ chức đoàn thể tại địa phương…………………………………………………………..
11. Sự liên kết 4 chủ thể……………………………………………..
50
III. Kiến nghị………………………………………………………..
51
1. Đối với Nhà nước :.........................................................................
2. Đối với Tỉnh : .................................................................................
3. Đối với Ngành : ..............................................................................
4. Đối với Huyện : .............................................................................
Kết luận…………………………………………………………….
53
- Danh mục tài liệu tham khảo...........................................................
56
.
Giải thích chữ cái viết tắt trong chuyên đề
XH: Xã hội
DT: Diện tích
BQ: Bình quân
CN: Công nghiệp
HTX: Hợp tác xã
GDP: Giá trị tổng sản phẩm
SLLT: Sản lượng lương thực
KTNN: Kinh tế nông nghiệp
CN- XD: Công nghiệp - Xây dựng
TM-DV DL: Thương mại- Dịch vụ du lịch
CNH - HĐH: Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá
TN - KT - XH: Tự nhiên - Kinh tế - Xã hội
KH - CN - KT: Khoa học - Công nghệ - Kỹ thuật
NN - CN - DV: Nông nghiệp - Công nghiệp - Dịch vụ
CN - XD - GTVT: Công nghiệp - Xây dựng - Giao thông vận tải
lđ: Lao động
tr. đồng: Triệu đồng
đvdt: Đơn vị diện tích
LỜI NÓI ĐẦU
Một trong những vấn đề nhằm đẩy mạnh phát triền kinh tế đó là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung, cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói riêng là vấn đề quan tâm hiện nay của nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. Mấu chốt là tìm các giải pháp có hiệu quả khả thi đưa vào thực tiễn để chuyển dịch cơ cấu đạt kết quả nhanh và có tính bền vững cao. Sự hưng thịnh của mỗi quốc gia đều được lấy kinh tế làm thước đo tiêu chuẩn “dân giầu nước mạnh xã hội phồn vinh”. Trong cơ cấu nền kinh tế, nông nghiệp là một ngành quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế không chỉ đối với nước ta mà với nhiều nước trên thế giới. Muốn phát triển kinh tế thì nông nghiệp là một trong những vấn đề cần đặc biệt quan tâm và “nhận thức đúng vai trò của nó trong chiến lược phát triển kinh tế và thực hiện đồng bộ hàng loạt những vấn đề liên quan đến nông nghiệp” (1). Việt Nam là một nước nền kinh tế chủ yếu là sản xuất nông nghiệp. Năm 2000 “trong GDP tỷ trọng nông nghiệp vẫn chiếm 24,3%” (2), chiếm đến 80% dân số sống ở nông thôn và có khoảng trên 70% dân số sống, lao động làm việc trong ngành sản xuất nông nghiệp. Nên đây là một vấn đề đang được, các ngành các cấp quan tâm, coi đó là một giải pháp quan trọng, cơ bản để đẩy mạnh phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng sản xuất hàng hoá, hiện đại hoá nông thôn. Tuy nhiên trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng cao, sản xuất chủ yếu vẫn là tập trung vào trồng trọt, lĩnh vực chăn nuôi và các dịch vụ trong nông nghiệp vẫn còn chưa được chú trọng. Như vậy để nhanh chóng làm thay đổi bộ mặt của kinh tế nông nghiệp đòi hỏi cấp bách phải có các giải pháp chủ yếu nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Đây là một yêu cầu quan trọng và có tính cấp thiết trong giai đoạn hiện nay.
Cùng với sự đổi mới của cả nước, nền kinh tế của huyện Quản Bạ trong những năm qua mặc dù đã có nhiều chuyển biến, song nhìn chung cơ bản nền kinh tế của huyện còn mang nặng một nền sản xuất thuần nông, mang tính chất cá thể nhỏ lẻ, tự cung tự cấp. Theo số liệu nguồn niên giám thống kê huyện quan ba năm 2005, trong lĩnh vực ngành nông nghiệp: ngành trồng trọt chiếm 66,02%; ngành chăn nuôi chiếm 33,22%. Trong nội bộ ngành trồng trọt: tỷ trọng cây lương thực còn chiếm tới 57,4 %; cây công nghiệp ngắn ngày (đậu, lạc) chiếm 15,75%, cây công nghiệp, cây ăn quả dài ngày (chè, thảo quả,hồng... ) chiếm 15,70%. Để khai thác một cách triệt để các lợi thế của huyện, nhanh chóng thay đổi bộ mặt nông nghiệp nông thôn, từng bước hình thành các vùng chuyên canh và nguyên liệu phù hợp với điều kiện của từng tiểu vùng kinh tế trên địa bàn huyện thì chuyển dịch nền cơ cấu KTNN là một vấn đề quan trọng mang tính cấp thiết. Xuất phát từ những yêu cầu trên nhằm giúp kinh tế nông nghiệp huyện nhà tìm ra những giải pháp, bước đi trong những năm tới đạt hiệu quả cao nhất. Em đã chọn và tiến hành nghiên cứu đề tài:
" Những giải pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp huyện Quản Bạ- tỉnh Hà Giang".
Đây là một vấn đề có ý nghĩa trong việc nghiên cứu khoa học và giải quyết những vấn đề thực tiễn cấp bách đang được đặt ra trong phát triển kinh tế nông nghiệp ở nước ta nói chung và ở huyện Quản Bạ tỉnh Hà Giang nói riêng.
Mục đích nghiên cứu đề tài là:
Trên cơ sở nêu rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, phân tích đánh giá về thực trạng cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, rút ra những mặt đã đạt được, những hạn chế và những vấn đề đặt ra cần giải quyết. Từ đó đưa ra những quan điểm, phương hướng mục tiêu và các giải pháp nhằm chuyển dịch cơ cấu và phát triển kinh tế nông nghiệp của huyện Quản Bạ trong những năm tới. Nội dung chuyển dịch cơ cấu KTNN nông thôn rất đa dạng, nhưng xuất phát từ tình hình cụ thể của huyện Quan Bạ và nguồn tài liệu để nghiên cứu tham khảo. Vì vậy nhiệm vụ, phạm vi đề tài, từ những căn cứ lý luận thực tiễn, tập trung nghiên cứu các nội dung cơ cấu kinh tế nông nghiệp và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trong 5 năm (2000-2005) để có phương hướng và những giải pháp chuyển dịch cơ cấu và phát triển KTNN của huyện Quản Bạ trong giai đoạn (2006-2010). Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; phân tích hệ thống; thống kê kinh tế; tổng hợp, kế thừa những kết quả đã nghiên cứu những vấn đề có liên quan đến chuyên đề ở các cơ quan Trung ương và địa phương.
Với những kiến thức được trang bị, được sự giúp đỡ của PGS.Tiến sĩ: Phan Kim Chiến giảng viên trực tiếp hướng dẫn viết đề tài, các thầy cô trong Khoa Khoa học quản lý Trường Đại học Kinh tế quốc dân, các đồng chí lãnh đạo Uỷ ban nhân dân huyện Quản Bạ, cơ quan Văn phòng UBND huyện Quản Bạ nơi thực tập và một số Phòng ban, cơ quan chuyên môn khác trên địa bàn huyện đã tạo điều kiện và cung cấp tài liệu giúp đỡ để hoàn thành đề tài.
(1). Kinh tế nông nghiệp lý thuyết và thực tiễn. Tác giả TS. Đinh Phi Hổ, Nhà XB Thống kê - 2003, tr 3
(2). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, tr 149
Chương I : Những lý luận chủ yếu về chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp
“Nông nghiệp là một ngành sản xuất vật chất cơ bản giữ vai trò to lớn trong việc phát triển kinh tế ở hầu hết cả nước, nhất là ở các nước đang phát triển. ở những nước này còn nghèo, đại bộ phận sống bằng nghề nông. Tuy nhiên, ngay cả những nước có nền công nghiệp phát triển cao, mặc dù tỷ trọng GDP nông nghiệp không lớn, nhưng khối lượng nông sản của các nước này khá lớn và không ngừng tăng lên, đảm bảo cung cấp đủ cho đời sống con người những sản phẩm tối cần thiết đó là: lương thực, thực phẩm. Những sản phẩm này cho dù trình độ khoa học - công nghệ phát triển như hiện nay vẫn chưa có ngành nào có thể thay thế được. Lương thực, thực phẩm là yếu tố đầu tiên, có tính chất quyết định sự tồn tại phát triển của con người và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước” (1). Qua các vấn đề nêu trên đã chứng minh vai trò quan trọng của nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân, nó là một ngành không thể thiếu trong cơ cấu kinh tế của mỗi quốc gia và nhất là đối với các nước đang phát triển.
Đúng như vậy : Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam từ trước đến nay vẫn giữ vị trí, vai trò hết sức quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế của đất nước, là một nước đi lên công nghiệp hoá từ nông nghiệp. Nông nghiệp là một lĩnh vực rộng lớn của đời sống KTXH bao gồm nhiều ngành, nhiều hoạt động kinh tế của nhiều thành phần kinh tế nông nghiệp, nông thôn là nơi làm việc và sinh sống của 4/3 dân số và 3/4 lao động của cả nước. Do đó một trong những nội dung cốt lõi của việc phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn là phải xác định hoàn thiện cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Những năm gần đây, nhờ chính sách đổi mới, cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn đã có những thay đổi đáng kể theo chiều hướng tích cực, đáp ứng bước đầu những yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Tuy nhiên đứng trên quan điểm toàn diện cả nước thì cơ
cấu kinh tế nông nghiệp thay đổi chưa nhiều, tốc độ chuyển dịch chậm, tỷ lệ đạt chưa thực hợp lý để tạo ra sự thay đổi đặc biệt trong cơ cấu kinh tế quốc dân và phân công lao động xã hội.
Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, thực tiễn của chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, trên cơ sở đó để tìm ra những phương hướng và giải pháp phù hợp nhằm góp phần làm cho cơ cấu kinh tế nông nghiệp chuyển dịch đúng hướng nhanh hơn và hiệu quả hơn, đối với cả nước nói chung và từng địa phương vùng lãnh thổ nói riêng là rất quan trọng.
I. Khái niệm, đặc trưng vai trò, vị trí của cơ cấu kinh tế nông nghiệp
1.Cơ cấu kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế :
1.1. Cơ cấu kinh tế :
“Cơ cấu kinh tế là tổng thể các mối quan hệ chủ yếu về chất lượng và số lượng tương đối ổn định của các yếu tố về kinh tế hoặc các bộ phận cấu thành của nền sản xuất xã hội trong những điều kiện và thời gian nhất định.”
(1) Giáo trình chính sách kinh tế xã hội-Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Nhà XB KHKT-Hà Nội (tr273)
“Cơ cấu kinh tế của nền kinh tế quốc dân là hình thức cấu tạo bên trong của nền KTQD, đó là tổng thể các quan hệ chủ yếu về số lượng và chất lượng tương đối ổn định của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong một hệ thống tái sản xuất xã hội với những điều kiện kinh tế xã hội nhất định. Nền KTQD dưới giác độ cấu trúc là sự đan xen của nhiều loại cơ cấu khác nhau, có mối quan hệ chi phối lẫn nhau trong quá trình phát triển của nền kinh tế. Những loại cơ cấu kinh tế cơ bản quyết định sự tồn tại và phát triển của nền KTQD bao gồm: Cơ cấu ngành và nội bộ ngành sản xuất. Loại cơ cấu này phản ánh số lượng và chất lượng cũng như tỷ lệ giữa các ngành và sản phẩm trong nội bộ ngành của nền KTQD. Nền KTQD là một hệ thống sản xuất bao gồm những ngành lớn như :
Công nghiệp, nông nghiệp, thương mại, dịch vụ. Trong mỗi ngành lớn lại hình thành ngành nhỏ hơn thường gọi là các ngành kinh tế – kỹ thuật. Ví dụ trong nông nghiệp thì có lương thực, thực phẩm, cây công nghiệp....” (1).
1.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế :
“Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là sự thay đổi thành phần và quan hệ tỷ lệ giữa các mặt, các yếu tố, các bộ phận cấu thành của một hệ thống kinh tế từ trạng thái này sang trạng thái khác phù hợp với những yêu cầu của nền kinh tế xã hội. Thực chất của chuyển dịch cơ cấu kinh tế là sự biến đổi lao động xã hội theo những hướng nhất định”.
Cơ cấu kinh tế không thể cố định lâu dài, mà phải có những chuyển dịch cần thiết thích hợp với sự biến động của điều kiện TN- KT- XH. Sự duy trì quá lâu hoặc sự thay đổi nhanh chóng cơ cấu kinh tế mà không dựa vào những biến đổi của điều kiện TN- KT- XH đều gây nên những thiệt hại về kinh tế. Việc duy trì hay thay đổi cơ cấu kinh tế không chỉ là mục tiêu mà chỉ là phương tiện của việc tăng trưởng và phát triển kinh tế. Vì vậy có nên chuyển dịch cơ cấu kinh tế hay không, chuyển dịch nhanh hay chậm, không phải là sự mong muốn chủ quan mà phải dựa vào mục tiêu đạt hiệu quả kinh tế xã hội như thế nào. Điều này cần thiết cho sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của mỗi nước và riêng cho cả các vùng, các doanh nghiệp trong đó có cơ cấu KTNN.
2. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp :
2.1.Cơ cấu kinh tế nông nghiệp :
Cơ cấu KTNN là bộ phận cấu thành rất quan trọng trong cơ cấu nền kinh tế quốc dân, có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội ở nước ta. Cơ cấu KTNN là một tổng thể các quan hệ kinh tế đó là các mối quan hệ tỷ lệ về số lượng, chất lượng và các quan hệ tương tác lẫn nhau giữa các bộ phận cấu thành nền nông nghiệp bao gồm các ngành sản xuất nông lâm nghiệp, các vùng sản xuất nông nghiệp và các thành phần kinh tế trong nông nghiệp.
(1). Giáo trình Chính sách KT - Xã hội. Trường ĐH Kinh tế quốc dân. NXB KH kỹ thuật HN- 2000 tr 273
2.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp :
“Là sự thay đổi quan hệ tỷ lệ về mặt lượng các thành phần, các yếu tố và các bộ phận hợp thành kinh tế nông nghiệp theo một xu hướng nhất định”.
Cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu KTNN nói riêng không phải là bất biến mà sẽ vận động phát triển và chuyển hóa từ cơ cấu kinh tế cũ sang cơ cấu kinh tế mới. Sự chuyển dịch đó đòi hỏi phải có thời gian và phải trải qua những bậc thang nhất định của sự phát triển. Đầu tiên là sự thay đổi về lượng, khi lượng đã tích luỹ đến độ nhất định tất yếu dẫn đến sự thay đổi về chất. Đó là quá trình chuyển hóa dần từ cơ cấu kinh tế cũ thành cơ cấu kinh tế mới phù hợp và có hiệu quả hơn. Tất nhiên quá trình chuyển dịch cơ cấu KTNN nhanh hay chậm còn tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó sự tác động của con người có ý nghĩa quan trọng. Do vậy chuyển dịch cơ cấu KTNN là qúa trình làm thay đổi cấu trúc và các mối quan hệ của hệ thống KTNN theo một chủ định và định hướng nhất định, nghĩa là đưa hệ thống KTNN đến trạng thái phát triển tối ưu đạt được hiệu quả, thông qua các tác động điều khiển có ý thức, định hướng của con người, trên cơ sở nhận thức và vận dụng đúng đắn các qui luật khách quan.
Vai trò, vị trí của chuyển dịch cơ cấu KTNN nhằm đáp ứng sự phát triển của nền kinh tế thị trường, đáp ứng nhu cầu về nông sản phẩm của xã hội, nhu cầu tiêu dùng của dân cư. Là điều kiện và nhu cầu để mở rộng thị trường, tạo cơ sở cho việc thay đổi bộ mặt nông thôn nói chung và bộ mặt nông nghiệp nói riêng, đồng thời tạo ra một nền sản xuất chuyên môn hóa cao, thâm canh tiên tiến và các ngành liên kết chặt chẽ với nhau hơn.
3.Nội dung cơ cấu kinh tế nông nghiệp
Nội dung của cơ cấu KTNN bao gồm : cơ cấu ngành, cơ cấu vùng lãnh thổ, cơ cấu thành phần kinh tế, cơ cấu kỹ thuật. Sự phân công lao động theo ngành là cơ sở hình thành cơ cấu ngành, sự phân công lao động phát triển ở trình độ cao, càng tỷ mỷ thì sự phân công chia ngành càng đa dạng và sâu sắc. Trong lịch sử phát triển xã hội loài người trong thời gian dài kinh tế nông nghiệp chủ yếu là trồng trọt, chăn nuôi chưa phát triển, những nước kém phát triển tỷ trọng trong trồng trọt trong nông nghiệp chiếm rất cao, đại bộ phận nông dân chủ yếu tham gia lao động trồng trọt chỉ có số ít là kết hợp và chăn nuôi. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất và tiến bộ khoa học- kỹ thuật đặc biệt sự phát triển của nông nghiệp hiện đại, cơ cấu KTNN được cải biến nhanh chóng theo hướng sản xuất hàng hoá, CNH, HĐH.
3.1.Cơ cấu ngành
Trong nông nghiệp không chỉ bao gồm ngành trồng trọt và chăn nuôi nó còn gồm cả ngành lâm nghiệp và dịch vụ nông nghiệp. Do vậy trong cơ cấu ngành còn phải xét tới sự chuyển dịch của ngành lâm nghiệp và ngành dịch vụ. Cơ cấu nghành của KTNN bao gồm các nhóm ngành trồng trọt, chăn nuôi, dịch vụ nông nghiệp và lâm nghiệp. Trong mỗi nhóm ngành lại được chia thành những ngành hẹp hơn. Trong trồng trọt lại chia thành cây lương thực, cây công nghiệp, cây thực phẩm, cây ăn quả, cây dược liệu... Trong lĩnh vực chăn nuôi được phân chia thành: đại gia súc, tiểu gia súc, gia cầm.... Kinh nghiệm trong nước và thế giới cho thấy chuyển dịch cơ cấu KTNN mang tính qui luật: từ trồng trọt mở ra lâm nghiệp, ngư nghiệp, chăn nuôi, sản xuất hàng hoá. Trong một thời gian khu vực kinh tế nước ta chậm chuyển biến, nông nghiệp chiếm vị trí chủ yếu, cơ cấu chậm chuyển dịch nguyên nhân chủ yếu là lực lượng sản xuất kém phát triển, năng suất lao động thấp, phân công lao động chưa cụ thể sâu sắc nên tình trạng thiếu lương thực kéo dài. Từ thập kỷ 90 trở lại đây sản xuất lương thực đạt được thành tựu to lớn, dư thừa lương thực để xuất khẩu, do vậy làm cho cơ cấu KTNN chuyển dịch nhanh chóng theo hướng có hiệu quả. Những nước có trình độ kém phát triển kém nông nghiệp chiếm đại bộ phận trong nền kinh tế thì sự phát triển của lực lượng sản xuất đặc biệt là tiến bộ khoa học kỹ thuật ứng dụng vào làm cho cơ cấu kinh tế chuyển dịch nhanh chóng theo hướng CNH, HĐH.
3.2.Cơ cấu vùng lãnh thổ :
Sự phân công lao động theo ngành bao giờ cũng diễn ra trên những vùng lãnh thổ nhất định, nghĩa là cơ cấu vùng lãnh thổ chính là việc bố trí các ngành trong sản xuất nông nghiệp theo không gian cụ thể nhằm khai thác mọi ưu thế tiềm năng to lớn. ở đây, xu thế chuyển dịch cơ cấu vùng lãnh thổ đi vào chuyên môn hoá và tập trung hoá hình thành những vùng sản xuất hàng hóa lớn tập trung có hiệu quả cao mở với các vùng chuyên môn hoá khác, gắn cơ cấu của từng khu vực với cơ cấu kinh tế của cả nước. Trong từng vùng lãnh thổ coi trọng chuyên môn hoá kết hợp với phát triển tổng hợp đa dạng. Để hình thành cơ cấu vùng lãnh thổ hợp lý thì cần bố trí các ngành trên vùng lãnh thổ hợp lý, để khai thác đầy đủ tiềm năng của từng vùng. Đặc biệt cần bố trí các ngành chuyên môn hoá dựa trên những lợi thế so sánh từng vùng đó là những vùng có đất đai tốt, khí hậu thuận lợi, đường giao thông lớn và các khu công nghiệp.
3.3. Cơ cấu thành phần kinh tế
Ở nước ta trong thời kỳ bao cấp, cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp chuyển biến chậm, chỉ tồn tại hai loại hình kinh tế: kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể. Đến đại hội VI của Đảng với nội dung chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước thì nền kinh tế phát triển đa dạng và nhiều thành phần. Đáng chú ý trong qua trình chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế nổi lên các xu thế sau: đó sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế trong đó: kinh tế hộ nổi lên thành kinh tế hộ độc lập, tự chủ, đây là thành phần kinh tế năng động nhất, tạo ra sản phẩm hàng hoá phong phú đa dạng cho xã hội. Trong quá trình phát triển kinh tế hộ chuyển từ sản xuất tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hoá nhỏ tiến tới hình thành các trang trại, nông trại (sản xuất hàng hóa lớn). Thành phần kinh tế quốc doanh có xu hướng giảm mạnh. Nhà nước đang có biện pháp sắp xếp, rà soát lại, hoặc chuyển sang các chức năng khác cho phù hợp với điều kiện hiện nay. Thành phần kinh tế tập thể ( kinh tế HTX ) cũng chuyển đổi chức năng của mình sang các HTX kiểu mới làm chức năng hướng dẫn sản xuất và công tác dịch vụ phục cho nguyện vọng của các hộ nông dân mà trước đây chức năng của HTX là trực tiếp điều hành sản xuất. Như vậy sự phát triển đa dạng của các thành phần kinh tế cùng với việc chuyển đổi chức năng cuả nó làm cơ cấu thành phần kinh tế trong nông nghiệp có những chuyển biến mạnh mẽ theo hướng phát huy hiệu quả của các thành phần kinh tế.
3.4. Cơ cấu kỹ thuật :
Trong thời gian dài cũng giống như cơ cấu thành phần kinh tế, cơ cấu kỹ thuật trong nông nghiệp nước ta mang nặng tính chất cổ truyền, nông nghiệp truyền thống lạc hậu, phân tán, manh mún và có tính bảo thủ, kỹ thuật mang tính cha truyền con nối, tự đào tạo và truyền khẩu những kinh nghiệm trong phạm vi từng gia đình. Vì vậy sản xuất nông nghiệp lệ thuộc vào tự nhiên, cơ cấu kỹ thuật chậm chuyển biến. Đứng trước sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ đã tác động vào nông nghiệp làm phá vỡ tính cổ truyền, lạc hậu và trì trệ, làm cho tính truyền thống giảm mạnh, công nghiệp hoà nhập vào nông nghiệp. KTNN có sự kết hợp của kỹ thuật truyền thống đan xem với kỹ thuật tiên tiến hiện đại. Từ đó làm cho cơ cấu kỹ thuật trong nông nghiệp nước ta trong những năm qua chuyển biến mạnh mẽ.
4. Đặc trưng của cơ cấu kinh tế nông nghiệp
4.1.Mang tính khách quan :
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp tồn tại và phát triển phụ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội.
Vì vậy trong mỗi ngành, mỗi vùng đều có cơ cấu riêng của mình tuỳ theo điều kiện TN-KT-XH cụ thể. Trong phạm vi cả nước cơ cấu kinh tế hợp lý phải phản ánh sự tác động của các quy luật phát triển khách quan, bởi nó hình thành do sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động chi phối ở trong một trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất sẽ có một cơ cấu kinh tế cụ thể tương ứng.
4.2.Mang tính lịch sử và xã hội nhất định
Nó phản ánh quy luật chung của quá trình phát triển kinh tế xã hội, cơ cấu này ở mỗi nơi lại khác nhau. Trong một nước thì ở mỗi vùng, địa phương lại có một cơ cấu khác nhau, do đó ta thấy cơ cấu kinh tế mang tính “ vùng” rõ rệt. Xuất phát từ việc tôn trọng tính này để xây dựng cơ cấu kinh tế, nhất thiết không thể theo một khuôn mẫu chung mà phải có tính linh hoạt, mềm dẻo thì mới đảm bảo được hiệu quả kinh tế, phát huy tính vùng.
4.3.Luôn luôn vận động và là cả một quá trình
Trong triết học Các Mác đã nêu : “Sự vật và hiện tượng luôn luôn vận động và biến đổi không ngừng”. Thực tiễn lịch sử của sự vận động và tồn tại của xã hội, cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu KTNN nói riêng không thể cố định mà phải có sự biến đổi, điều chỉnh thích hợp với sự thay đổi của các điều kiện kinh tế xã hội và tiến bộ khoa học công nghệ, để đảm bảo quy mô và nhịp độ phát triển kinh tế, cơ cấu kinh tế. Làm thay đổi cấu trúc và mối liên hệ của một nền kinh tế theo một mục đích và phương hướng nhất định, cũng có nghĩa là sự vận động biến đổi của cơ cấu kinh tế từ giản đơn đến phức tạp. Sự chuyển dịch phải là một quá trình, nhưng không phải là tự phát mà con người có thể và nhất thiết phải tác động, thúc đẩy, thậm chí can thiệp nhằm thúc đẩy sự phát triển của quá trình này. Tất nhiên phải trên cơ sở nhận thức được quy luật khách quan của chúng để tác động đúng mục tiêu đã hoạch định. Quan trọng ở chỗ phải bắt đầu từ đâu, với những biện pháp nào, khâu nào để có thể gây phản ứng dây chuyền tạo ra bước phát triển mới tổng thể nền kinh tế quốc dân.
II. Sự cần thiết phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp là một tất yếu khách quan
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp là một yếu tố khách quan do bởi nông nghiệp có một vị trí quan trọng, là ngành sản xuất ra những sản phẩm thiết yếu cho nhu cầu tồn tại và phát triển xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp sẽ có tác động rất mạnh đến sự phát triển của nền kinh tế quốc dân.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội nó gắn liền và chi phối sự hình thành và biến đổi của cơ cấu kinh tế trong nền kinh tế tự cung tự cấp lực lượng sản xuất phân công lao động xã hội kém phát triển trì trệ nên cơ cấu KTNN chậm chuyển biến, chỉ từ khi chuyển từ nền kinh tế thuần nông sang sản xuất hàng hoá thì lực lượng sản xuất và phân công lao động mới phát
triển ở trình độ cao làm cho cơ cấu chuyển dịch mạnh mẽ, mặt khác sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội là một xu thế tất yếu khách quan của sự phát triển xã hội, do đó chuyển dịch cơ cấu KTNN cũng là một tất yếu khách quan. Ngoài ra sự chuyển dịch cơ cấu KTNN còn bắt nguồn từ thực trạng kém hiệu quả nhưng còn rất nhiều tiềm năng, vẫn mang nặng tính trồng trọt, lĩnh vực chăn nuôi chưa được chú trọng, tỷ suất hàng hoá còn thấp, cơ cấu còn kém hiệu quả. Trong điều kiện hiện nay nước ta với nguồn lao động dồi dào, điều kiện tự nhiên tương đối thuận lợi nhưng tất cả vẫn ở dạng tiềm ẩn chưa được khai thác một cách đầy đủ và hợp lý. Bởi vậy, chuyển dịch cơ cấu kinh tế chính là nhằm giải quyết vấn đề này. Mục tiêu của chuyển dịch cơ cấu là phải trên cơ sở tiềm năng sẵn có hình thành cơ cấu mới nhằm khai thác hiệu quả các tiềm năng đó tạo ra một tỷ suất hàng hoá hơn, hiệu quả kinh tế ngày càng cao góp phần đắc lực vào quá trình tăng trưởng kinh tế của cả nước. Bên cạnh đó quá trình chuyển dịch cơ cấu KTNN tất yếu lại chi phối bởi sự phát triển của thị trường. Thực hiện đường lối đổi mới kinh tế đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, nền kinh tế thị trường đang ngày một phát triển và tác động mạnh mẽ vào mọi lĩnh vực, mọi ngành kinh tế. Trên địa bàn cả nước theo cơ chế đó thì mọi khu vực sản xuất, mọi thành phần kinh tế khi tiến hành sản xuất phải nắm vững và bám sát thị trường. Trong nền kinh tế hàng hoá phát triển tất yếu các quan hệ kinh tế đều được tiền tệ hoá, các yếu tố sản xuất như: tài nguyên, sức lao động, công nghệ... các sản phẩm dịch vụ tạo ra ngay cả chất xám đều được coi là đối tượng mua bán là hàng hoá. Cơ cấu KTNN trong cơ chế thị trường cũng phải đảm bảo và tuân thủ các mối quan hệ đó. Trong nền kinh tế thị trường giá cả điều tiết hành vi của người sản xuất từ đó tạo ra một thiết chế làm nảy sinh mối quan hệ tỷ lệ nhất định trong cơ cấu kinh tế.
Vấn đề đặt ra bằng nhận thức và hành động của các nhà quản lý, các cơ quan hoạch định chính sách phải có giải pháp điều chỉnh thông qua hệ thống các chính sách kinh tế, định hướng cho sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế hiệu quả cao nhất. Chúng ta không thể phó mặc để cơ chế thị trường tự phát điều chỉnh cơ cấu kinh tế. Những vấn đề có một cơ cấu kinh tế có hiệu quả trong nền kinh tế thị trường thì cơ cấu đó phải thoả mãn được những yêu cầu của thị trường đặt ra. Như vậy chuyển dịch cơ cấu KTNN phải xuất phát từ những căn cứ mà thị trường đòi hỏi và phải thoả mãn tốt mọi nhu cầu của thị trường.
2. Chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
Với mục đích cao nhất mà Đảng và Nhà nước là phải hướng tới, đó là CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở nước ta vì :
-“ Nông nghiệp, nông thôn, nông dân là vấn đề có vị trí chiến lược, có vai trò to lớn trong sự nghiệp đổi mới đất nước.
- Phát triển KTNN nông thôn là giải pháp cơ bản để khắc phục tình trạng tự cung tự cấp, đẩy mạnh được phân công lao động, giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động.
- KTNN nông thôn vẫn còn nhiều mặt yếu kém, gây khó khăn, trở ngại lớn cho CNH, HĐH đất nước, đòi hỏi phải được khắc phục, giải quyết.
- Phát triển nông nghiệp, nông thôn để xoá dần khoảng cách giữa thành thị và nông thôn, đưa nông thôn tiến lên con đường văn minh hạnh phúc” (1) .
Đảng và Nhà nước ta có chủ trương đẩy mạnh việc đưa công nghệ sinh học vào sản xuất và đặc biệt là việc sử dụng các giống cây trồng vật nuôi có năng suất và chất lượng cao nhằm tạo ra khối lượng sản phẩm lớn và giá trị sản lượng hàng hoá cao, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu
Trong những năm qua để tạo điều kiện cho quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp được thuận lợi và nâng cao đời sống của các hộ nông dân, Đảng và Nhà nước đã ban hành chính sách đầu tư vốn phát triển kinh tế nông nghiệp phát triển sản xuất và các chính sách hỗ trợ nông dân phát triển sản xuất, thực hiện chuyển giao công nghệ tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, nâng cao dân trí và điều kiện sống trong nông thôn. Hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất đời sống ở nông thôn, đồng thời để tạo điều kiện cho việc thực hiện chuyên môn hoá, thâm canh cao trong sản xuất nông nghiệp Nhà nước cũng đã có chính sách ruộng đất đảm bảo cho nông dân yên tâm đầu tư phát triển sản xuất, chính sách đầu tư hỗ trợ phát triển và đảm bảo tiêu thụ sản phẩm, chính sách đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ cho người lao động và chính sách hỗ trợ đưa tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất. Cùng với việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi trong quá trình thực hiện chuyển dịch cơ cấu KTNN.
(1). Tìm hiểu môn học KT chính trị Mác- LêNin của PGS.TS. Vũ Văn Phúc, TS. Mai Thế Hởn. Nhà XB Lý luận chính trị - 2004 tr128
“ trong giai đoạn từ năm 1987 đến nay các Nghị quyết Đại hội VI, VII, VIII, IX Đảng ta luôn nhấn mạnh thực hiện nhất quán, lâu dài chủ trương phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chủ trương đó trong nông nghiệp được cụ thể và hoàn thiện trong các văn bản quan trọng mang tính lịch sử như: Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị khoá VI (5/4/1988), Nghị quyết 6 Trung ương khoá VI (03/1989), Luật Đất đai (1993), Nghị quyết 5 Trung ương khoá VII (6/1993), Luật Hợp tác xã (4/1996)...” (1) .
Từ các vấn đề nêu trên cho thấy Đảng và Nhà nước ta quan tâm đến nông nghiệp coi đó là một nhiệm vụ mục tiêu phát triển hàng đầu, kinh tế nông thôn vẫn giữ vị trí, vai trò quan trọng.
3. Yêu cầu xây dựng một nền nông nghiệp hàng hoá CNH và HĐH
Đại hội Đảng lần thứ VIII đã khẳng định nước ta muốn phát triển nhất thiết phải thực hiện công cuộc hiện đại hoá. Đại hội nhấn mạnh nội dung cơ bản của CNH, HĐH giai đoạn hiện nay là; đặc biệt coi trọng CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Vì nó tạo tiền đề và cơ sở vững chắc thúc đẩy toàn bộ quá trình CNH, HĐH nền kinh tế đất nước, là mũi đột phá quan trọng nhằm giải phóng sức lao động trong nông nghiệp hiện chiếm trên 70% lao động cả nước, tạo điều kiện khai thác tốt tiềm năng dồi dào về lao động đất đai. CNH, HĐH nông nghiệp tạo điều kiện giải quyết vấn đề xoá đói giảm nghèo ở nhiều vùng ở nông thôn. Tạo điều kiện để phát triển năng lực sản xuất khuyến khích mọi lực lượng lao động trong các thành phần kinh tế hướng vào việc sản xuất nông sản hàng hoá. Giải quyết tốt quan hệ giữa sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Quan hệ giữa việc hoạch định phương hướng, mục tiêu sản xuất trong từng thời kỳ.Chính việc tạo điều kiện giải quyết các mối quan hệ trên là việc tác động vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Vì chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm thực hiện giải quyết các mối quan hệ trên. Do đó CNH- HĐH nông nghiệp là cơ sở để thực hiện quá trình chuyển dịch cơ cấu. Chính vì vậy tại Văn kiện Đại hội IX của Đảng trong mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2001-2010 đã lại tiếp tục khẳng định:
“Một là: đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn theo hướng hình thành nền nông nghiệp hàng hoá lớn phù hợp với nhu cầu thị trường và điều kiện sinh thái của từng vùng….
Hai là: Xây dựng hợp lý cơ cấu sản xuất nông nghiệp…
Ba là: tăng cường tiềm lực khoa học và công nghệ trong nông nghiệp….
Bốn là: tiếp tục phát triển và hoàn thiện về cơ bản hệ thống thuỷ lợi ngăn mặn giữ ngọt, kiểm soát lũ…
Năm là: phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn….” (2)
Qua những vấn đề trên có thể thấy Đảng và Nhà nước ta đặc biệt coi trọng về lĩnh vực ngành nông nghiệp của nước nhà.
(1). Giáo trình Kinh tế nông nghiệp. Trường ĐH Kinh tế quốc dân, NXB Thống kê HN- 2004, tr 52
(2). Văn kiện Đại hội IX của Đảng. Nhà XB Chính trị quốc gia – 2001
III. Những nhân tố ảnh hưởng tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
Cơ cấu KTNN là một khái niệm mang tính khách quan, tính lịch sử xã hội, nó không những vận động, mà luôn biến đổi và phát triển. Sự chuyển dịch cơ cấu KTNN là một quá trình do vậy sự hình thành, vận động, biến đổi và phát triển của nó là kết quả của sự tác động thường xuyên và tổng hợp các nhân tố ảnh hưởng tới cơ cấu KTNN. Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến sự chuyển dịch của cơ cấu KTNN nhưng tựu chung lại thì có 3 nhân tố ảnh hưởng chủ yếu sau:
1. Nhân tố điều kiện tự nhiên
Nhân tố điều kiện tự nhiên bao gồm : vị trí địa lý của các vùng lãnh thổ điều kiện đất đai của các vùng: điều kiện khí hậu, thời tiết, các nguồn tài nguyên khác cuả vùng lãnh thổ như nguồn nước, rừng, biển... Nắm bắt được các nhân tố này nó cho phép chúng ta tránh được hai khuynh hướng trong thực tiễn đó là : Quá đề cao sự lệ thuộc của cơ cấu kinh tế vào các nhân tố tự nhiên, hoặc là quá coi nhẹ sự ảnh hưởng của các nhân tố tự nhiên với sự hình thành và phát triển của cơ cấu kinh tế. Các nhân tố tự nhiên trên tác động một cách trực tiếp tới sự hình thành, vận động và biến đổi cơ cấu KTNN. Tuy nhiên sự tác động và ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên tới mỗi nội dung của cơ cấu KTNN là không giống nhau. Trong các nội dung của cơ cấu KTNN thì cơ cấu ngành, cơ cấu vùng lãnh thổ chịu ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên nhiều nhất, còn cơ cấu các thành phần kinh tế và cơ cấu kỹ thuật chịu ảnh hưởng ít hơn. Trong các điều kiện tự nhiên nêu trên các điều kiện tự nhiên về đất đai khí hậu vị trí địa lý có ảnh hưởng rất rõ nét tới sự phát triển của nông nghiệp ( nghĩa rộng gồm: nông, lâm ngư, nghiệp) qua nông nghiệp ảnh hưởng trực tiếp tới các ngành khác. Trong mỗi quốc gia các vùng lãnh thổ có vị trí địa lý khác nhau có điều kiện khí hậu (lượng mưa, độ ẩm, nhiệt độ...) điều kiện đất đai (nông hoá, thổ nhưỡng, địa chất...) các nguồn tài nguyên tự nhiên khác (nước, rừng biển, các loại tài nguyên mỏ...) và hệ sinh thái khác nhau về số lượng và quy mô các phân ngành chuyên ngành sâu của nông lâm ngư nghiệp, giữa các vùng có sự khác nhau, dẫn tới sự khác nhau của cơ cấu ngành. Điều này được thể hiện rõ rệt từng sự phân biệt về cơ cấu các ngành kinh tế trong nông nghiệp giữa các vùng đồng bằng, trung du miền núi.
Ngay giữa các vùng cơ cấu kinh tế các ngành cũng có sự khác nhau khá rõ, do tính đa dạng và phong phú của tự nhiên nước ta và sự phát triển không đồng đều của nguồn lực. Một số vùng có điều kiện tự nhiên thuận lợi để phát triển một số ngành sản xuất tạo ra các lợi thế so với các vùng khác của đất nước. Đây là cơ sở tự nhiên để hình thành các vùng kinh tế. Ngoài sự tác động và ảnh hưởng nói trên thì điều kiện tự nhiên còn ảnh hưởng tới các cơ cấu các thành phần kinh tế và cơ cấu kỹ thuật trong kinh tế nông nghiệp. Thông thường những vùng nào có điều kiện tự nhiên thuận lợi thì các thành phần kinh tế của các vùng đó phát triển với quy mô lớn hơn tốc độ lớn hơn. Sự phát triển của các thành phần kinh tế tạo điều kiện làm nảy sinh nhu cầu ứng dụng ngày càng rộng rãi công nghệ và các khoa học kỹ thuật tiến bộ vào hoạt động sản xuất kinh doanh, làm cho ứng dụng của KH- CN- KT tiến bộ hiện đại ngày càng được nâng cao trong cơ cấu kỹ thuật.
2. Nhân tố về kinh tế - xã hội
Đây là nhân tố có tính chất quyết định đến cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn. Các nhân tố kinh tế xã hội ảnh hưởng tới cơ cấu kinh tế nông nghiệp bao gồm: thị trường (cả thị trường trong và ngoài nước) hệ thống các chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước, vốn, cơ sở hạ tầng nông thôn, sự phát triển các khu công nghiệp và đô thị; kinh nghiệm, tập quán và truyền thống sản xuất của dân cư, dân số và lao động.... Trong nền kinh tế hàng hoá, nhân tố thị trường có ảnh hưởng quyết định tới sự phát triển kinh tế nói chung và biến đổi của cơ cấu kinh tế nói riêng. Bởi suy đến cùng cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói riêng chỉ tồn tại và vận động thông qua hoạt động của con người, nhưng người sản xuất hàng hoá chỉ sản xuất và đem ra thị trường trao đổi những sản phẩm mà họ cảm thấy chúng đem lại lợi nhuận thoả đáng. Như vậy thị trường thông qua quan hệ cung cầu mà tín hiệu là giá cả hàng hoá thúc đẩy hay ngăn cản người sản xuất tham gia hay không tham gia vào thị trường. Với cơ chế đó người sản xuất tự xác định khả năng tham gia cụ thể của mình vào thị trường những loại sản phẩm hàng hoá có lợi nhất. Do đó trên thị trường sẽ xuất hiện các loai hàng hoá dịch vụ với quy mô và cơ cấu phản ánh cơ cấu kinh tế ở từng vùng, từng địa phương. Nhà nước sử dụng các chính sách kinh tế, công cụ quản lý vĩ mô khác để quản lý nền kinh tế. Chính sách kinh tế là hệ thống các biện pháp kinh tế được thực hiện bằng các văn bản quy định tác động cùng chiều vào nền kinh tế nhằm thực hiện các mục tiêu đã định. Chức năng chủ yếu của các chính sách kinh tế vĩ mô là tạo ra động lực kinh tế mà cốt lõi là lợi ích kinh tế của mình mà tiến hành các hoạt động kinh tế phù hợp với các định hướng của Nhà nước trong kế hoạch kinh tế hoạt động phù hợp với định hướng của Nhà nước đồng thời để đảm bảo lợi ích kinh tế của các chủ thể. Nhà nước thông qua pháp luật kinh doanh, xác lập hành lang và khuôn khổ cho các chủ thế kinh tế hoạt động. Để đạt được mục đích, một trong những hướng tác động quan trọng nhất của các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước là sự tác động đến cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu KTNN nói riêng. Nếu chỉ coi sự tác động của các quy luật thị trường thì cơ cấu kinh tế chỉ hình thành và vận động một cách tự phát và tất yếu dẫn đến sự lãng phí trong sử dụng các nguồn lực của đất nước. Để thực hiện chức năng điều tiết của mình Nhà nước không còn cách nào khác phải ban hành một hệ thống các chính sách kinh tế cùng với các công cụ quản lý vĩ mô khác thúc đẩy việc hình thành một cơ cấu ngành kinh tế cơ cấu các vùng kinh tế, cơ cấu các thành phần hợp lý và trình độ công nghệ, kỹ thuật ngày càng được nâng cao nhằm khai thác có hiệu quả nhất các nguồn lực và các lợi thế của đất nước nói chung và khu vực nông nghiệp nói riêng. Để hình thành hay chuyển đổi một cơ cấu kinh tế nông nghiệp đòi hỏi phải có điều kiện vật chất nhất định. Tương ứng với yêu cầu hình thành và chuyển đổi cơ cấu kinh tế để đáp ứng đòi hỏi về các điều kiện vật chất này nhất thiết phải đầu tư và phải có vốn đầu tư. Các nguồn vốn đầu tư chủ yếu để hình thành và chuyển đổi cơ cấu KTNN gồm:
Nguồn vốn của các chủ thể kinh tế trong nông nghiệp.
Nguồn vốn ngân sách.
Nguồn vốn cho vay của các ngân hàng (kể cả ngân hàng tư nhân).
Nguồn vốn vay của các tổ chức tín dụng.
Nguồn vốn đầu tư trực tiếp hay gián tiếp của nước ngoài.
Các nguồn vốn trên có ảnh hưởng trực tiếp và rất lớn tới sự hình thành và phát triển của các ngành kinh tế, các vùng kinh tế, các thành phần kinh tế và nâng cao trình độ công nghệ kỹ thuật trong nông nghiệp, qua đó ảnh hưởng tới sự hình thành và chuyển dịch cơ cấu KTNN, kinh nghiệm bước đầu ở nước ta cho thấy giải quyết tốt vấn đề vốn là một trong những điều kiện quan trọng nhất để phát triển KTNN và xây dựng cơ cấu KTNN hợp lý và phù hợp với yêu cầu khai thác tốt các nguồn lực xây dựng và tăng cường cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn bao gồm các công trình hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng kinh tế - xã hội thuộc sở hữu của nhiều thành phần kinh tế, khu vực trực tiếp hoạt động sản xuất, thương mại dịch vụ, văn hoá - xã hội của cộng đồng dân cư nông thôn. Sự phát triển của các khu công nghiệp và đô thị cũng là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới cơ cấu KTNN. Sự phát triển này tạo khả năng cung cấp kỹ thuật và công nghiệp ngày càng tiên tiến, tạo ra các nguồn vốn đầu tư ngày càng dồi dào cho khu vực KTNN, góp phần thúc đẩy quá trình hình thành, vận động và biến đổi của cơ cấu KTNN. Vấn đề dân số, lao động và trình độ của người lao động, người quản lý cũng là nhân tố có ảnh hưởng tới sự chuyển dịch cơ cấu. Ngoài ra, kinh nghiệm, tập quán truyền thống của dân cư ở các vùng cũng có ảnh hưởng tới việc hình thành và phát triển của cơ cấu KTNN.
3. Nhân tố quốc tế :
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường cần chú trọng sự tác động và ảnh hưởng của thị trường quốc tế tới cơ cấu KTNN của mỗi nước. Ngày nay, quá trình hợp tác và giao lưu kinh tế ngày càng mở rộng thì hầu hết các quốc gia đều thực hiên các chiến lược kinh tế mở. Thông qua quan hệ thương mại quốc tế, các quốc gia ngày càng tham gia sâu hơn vào quá trình hợp tác và phân công lao động quốc tế. Đây là nhân tố hết sức quan trọng ảnh hưởng tới quá trình biến đổi cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói riêng ở mỗi quốc gia. Việc tham gia ngày càng sâu vào quá trình hợp tác và phân công quốc tế sẽ làm cho các quốc gia khai thác và sử dụng mọi nguồn lực của mình có lợi nhất trên cơ sở phát huy các lợi thế so sánh. Mặt khác thông qua thị trường quốc tế mà mình tham gia thì mỗi quốc gia lại tăng thêm các cơ hội tiếp cận những thành tựu khoa học, công nghệ và kỹ thuật mới cũng như thu hút các nguồn vốn đầu tư nhằm phát triển các ngành kinh tế, nâng cao trình độ công nghệ kỹ thuật, đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
4. Nhân tố về tổ chức - kỹ thuật
Bao gồm: các hình thức tổ chức sản xuất trong nông nghiệp, sự phát triển của khoa học kỹ thuật và việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất... Cơ cấu KTNN là phạm trù khách quan nhưng lại là sản phẩm hoạt động của con người. Sự tồn tại, vận động và biến đổi và cơ cấu KTNN được quyết định bởi sự tồn tại và hoạt động của các chủ thể kinh tế trong nông nghiệp là cở sở của sự hình thành và phát triển của các ngành kinh tế, các vùng kinh tế và các thành phần kinh tế. Các chủ thể kinh tế trong nông nghiệp tồn tại và hoạt động qua các hình thức tổ chức sản xuất với các mô hình tổ chức tương ứng. Do vậy, các hình thức tổ chức trong nông nghiệp với các mô hình tương ứng là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới sự biến đổi cơ cấu KTNN. Từ năm 1990 đến nay trong nông nghiệp nước ta, kinh tế hộ được thừa nhận hộ trở thành đơn vị kinh tế tự chủ, kinh tế tư nhân được tạo điều kiện để phát triển, kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể được cải biến theo nội dung mới. Sự thay đổi về các mô hình sản xuất nêu trên đã tạo ra những điều kiện cho nông nghiệp và nông thôn phát triển mạnh mẽ tạo ra những thay đổi bước đầu đáng kể trong cơ cấu KTNN. Trong nông nghiệp tỷ trọng của ngành trồng trọt giảm xuống, tỷ trọng của ngành chăn nuôi tăng lên. Trong trồng trọt tỷ trọng cây lương thực giảm cây công nghiệp và cây ăn quả tăng lên, dần dần hình thành nhiều vùng chuyên canh tập trung cây công nghiệp dài ngày. Tỷ trọng kinh tế hộ và phát triển các trang trại ngày một tăng kỹ thuật mới và công nghệ tiến bộ ngày càng được ứng dụng rộng rãi...
Ngày nay, khoa học kỹ thuật đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, sự phát triển của khoa học kỹ thuật và việc ứng dụng chúng vào sản xuất có vai trò ngày càng to lớn đối với sự phát triển kinh tế nói chung, KTNN và cơ cấu KTNN nói riêng. ở đây vai trò của khoa học kỹ thuật được ứng dụng vào sản xuất góp phần hoàn thiện các phương pháp sản xuất nhằm khai thác sử dụng hợp lý hiệu quả hơn các nguồn lực xã hội và khu vực nông thôn. Đồng thời việc ứng dụng khoa học kỹ thuật cũng làm tăng năng lực sản xuất trong nông nghiệp, qua đó thúc đẩy sự phát triển của các ngành sản xuất, các vùng kinh tế trong nông nghiệp đặc biệt những ngành, những vùng có nhiều lợi thế.
Như vậy chúng ta thấy rằng sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố, hơn nữa các yếu tố đó lại tác động theo hai chiều có thể tích cực ( tốt) hoặc có thể tiêu cực ( xấu ) và thay đổi thường xuyên. Do vậy cần phải nhận thức đúng đắn các yếu tố, trên để có thể sử dụng chúng một cách có hiệu quả cao nhất phát huy lợi thế, giảm thiểu bất lợi, tránh sa vào chủ quan, duy ý chí.
IV. Hệ thống chỉ tiêu phản ánh cơ cấu, chuyển dịch cơ cấu và hiệu quả cơ cấu, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
1. Nhóm chỉ tiêu phản ánh cơ cấu kinh tế và hiệu quả cơ cấu kinh tế
Để phản ánh cơ cấu kinh tế thường sử dụng các chỉ tiêu như cơ cấu đầu vào, cơ cấu đầu ra.
Nhóm các chỉ tiêu biểu hiện cơ cấu đầu vào bao gồm :
- Cơ cấu đất đai
- Cơ cấu vốn đầu tư
- Cơ cấu lao động
- Cơ cấu kỹ thuật.
Nhóm các chỉ tiêu biểu hiện cơ cấu đầu ra.
- Cơ cấu giá trị các loại sản phẩm
- Cơ cấu giá trị các loại sản phẩm hàng hoá.
Nhóm các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả cơ cấu kinh tế.
Hiệu quả cơ cấu kinh tế chính là xem xét việc bố trí cơ cấu đầu vào (cơ cấu sử dụng đất đai, cơ cấu vốn, cơ cấu lao động...) đã hợp lý chưa và biểu hiện của nó chính là cơ cấu đầu ra (cơ cấu giá trị sản phẩm, cơ cấu giá trị hàng hoá).
Như vậy phản ánh hiệu quả cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp sử dụng các chỉ tiêu sau :
Năng suất đất đai
Hiệu quả sử dụng vốn
Năng suất lao động
Giá trị sản lượng/1 đơn vị diện tích (1 đvdt tạo ra bao nhiêu giá trị sản lượng)
Giá trị sản lượng/1 lao động (1 lđ tạo ra bao nhiêu giá trị sản lượng)
Giá trị hàng hoá /1 đvdt
Giá trị hàng hoá/1 lđ
Lợi nhuận
Thu nhập
Các chỉ tiêu trên có thể sử dụng để phản ánh cơ cấu kinh tế, hiệu quả cơ cấu KTNN trong cả nước, từng vùng lãnh thổ và các thành phần kinh tế. Tuỳ thuộc các phạm vi nghiên cứu mà sử dụng các chỉ tiêu, các phương pháp thích hợp.
2. Nhóm chỉ tiêu phản ánh chuyển dịch cơ cấu kinh tế và hiệu quả của chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Nhóm các chỉ tiêu phản ánh chuyển dịch cơ cấu: chính là xem xét sự thay đổi các chỉ tiêu phản ánh cơ cấu kinh tế mà cụ thể là xem xét sự thay đổi của cơ cấu đầu vào từ đó xem xét sự thay đổi cơ cấu đầu ra. Thực tế chính là việc sử dụng các chỉ tiêu phản ánh cơ cấu kinh tế nhưng đã được bố trí, sắp xếp lại từ đó đem so sánh với các chỉ tiêu phản ánh cơ cấu kinh tế trước đây để làm rõ quá trình chuyển dịch. Như vậy sự thay đổi các chỉ tiêu phản ánh cơ cấu hay sự chuyển dịch có thể là hợp lý có thể là không hợp lý mà biểu hiện của tính hợp lý hay không hợp lý phải xem xét tới sự thay đổi của cơ cấu đầu ra.
Nhóm phản ánh hiệu quả của chuyển dịch cơ cấu kinh tế : dựa trên các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả của cơ cấu kinh tế nhưng có sự so sánh giữa các năm để thấy được sự biến đổi của các chỉ tiêu này. Sự biến đổi của hiệu quả cơ cấu kinh tế chính là hiệu quả của quá trình chuyển dịch. Hiệu quả này tốt hay xấu ta phải xem xét tới từng chỉ tiêu cụ thể như: năng suất đất đai tăng hay giảm. Hiệu quả sử dụng vốn tốt hay xấu. Năng suất lao động tăng hay giảm, giá trị sản lượng sản phẩm hàng hoá /1 đvdt... tăng hay không. Ngoài ra sự chuyển dịch cơ cấu có làm cho lợi nhuận, thu nhập người dân tăng hay giảm. Như vậy để phản ánh chuyển dịch hay hiệu quả chuyển dịch ta cũng sử dụng các chỉ tiêu phản ánh cơ cấu và hiệu quả của cơ cấu nhưng xem xét chúng ở trạng thái động để thấy được sự thay đổi của cơ cấu chính là quá trình chuyển dịch và sự biến động là hiệu quả của quá trình chuyển dịch. Việc sử dụng các chỉ tiêu trên để đo lường hiệu quả chuyển dịch cơ cấu KTNN xuất phát từ yêu cầu nghiên cứu và phụ thuộc vào nội dung cơ cấu kinh tế. Để đánh giá hiệu quả của sự chuyển dịch cơ cấu KTNN có thể sử dụng phương pháp so sánh theo không gian và thời gian của các chỉ tiêu nói trên. Mức độ khác nhau về hiệu quả kinh tế sẽ phản ánh tính hợp lý hay không hợp lý cơ cấu kinh tế nông nghiệp cả nước, của từng vùng qua các thời gian khác nhau, với cơ cấu kinh tế khác nhau. Các chỉ tiêu trên được sử dụng trên cả nước và ý nghĩa so sánh với từng khoảng cách 4-5 năm trở lên. Ngoài những chỉ tiêu nói trên xuất phát từ yêu cầu sản xuất nông nghiệp nước ta, việc phân tích đánh giá hiệu quả cơ cấu sản xuất nông nghiệp hiện đại còn dựa trên một số căn cứ:
Đánh giá hiệu quả của cơ cấu sản xuất trên cơ sở bình quân các loại nông sản phẩm sản xuất trên đầu người so với nhu cầu tiêu dùng.
Khả năng cung cấp nguyên liệu của sản xuất nông nghiệp cho công nghiệp chế biến.
Cơ cấu nông nghiệp phù hợp với điều kiện sinh thái của từng vùng và giải quyết việc làm cho người lao động.
Cơ cấu nông nghiệp phải đạt hiệu quả kinh tế cao, giá trị sản lượng nông sản trên 1 ha phải tăng so với trước, tỷ trọng giá trị sản lượng hàng hoá cao.
Cơ cấu nông nghiệp phải nâng cao thu nhập cho các nông dân và hiệu qủa trên một đồng vốn bỏ ra đạt tỷ lệ cao.
KhiKhi nền kinh tế phát triển, thu nhập đầu người tăng, đời sống sẽ dần được nâng cao, con người không chỉ hướng tới ăn no, ăn đủ mà còn có nhu cầu vui chơi….đó là tất yếu nhưng con người chỉ được hưởng phúc lợi xã hội vui chơi khi có nền kinh tế phát triển, còn nền kinh tế chậm phát triển thì con người mới chỉ lo đến đủ ăn đủ mặc….cũng đã là một nhu cầu cực kỳ khó khăn, sau những năm đổi mới đặc biệt là từ thập kỷ 90 trở lại đây thì đã thay đổi hoàn toàn, người dân không phải lo ăn mà có nhu cầu tăng lên về văn hoá tinh thần như: đi du lịch, tham quan nghỉ mát…. Y tế, giáo dục, phúc lợi xã hội được quan tâm phát triển thêm nhiều cơ sở dịch vụ nâng cao, đáp ứng phần nào nhu cầu phát triển kinh tế.
3. Những kinh nghiệm chung trong chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp
Cơ cấu sản xuất ngành nông nghiệp ở mỗi vùng mỗi địa phương thường là không giống nhau nó phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của mỗi vùng mỗi địa phương, ở các nước đang phát triển, do lịch sử để lại cơ cấu nông
nghiệp mang tính thuần nông độc canh là chủ yếu như xu hướng chung của thế giới thì cơ cấu kinh tế sẽ chuyển dịch từ thuần nông độc canh sang phát triển toàn diện. Trên cơ sở nghiên cứu sự chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp của một số vùng trung du miền núi bắc bộ nước ta. Ta có thể rút ra một số xu hướng chung về chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp như sau :
Một là : Hầu hết các vùng không chỉ gói gọn trong sản xuất nông nghiệp, mà mở ra những ngành có giá trị kinh tế cao như nông nghiệp và ngư nghiệp nhưng việc sản xuất khó khăn hơn và đòi hỏi trình độ sản xuất cơ sở vật chất kỹ thuật nhất định và vốn đầu tư cao hơn. Trong quá trình phát triển tỷ trọng của ngành lâm nghiệp, ngư nghiệp tăng lên trong khi đó tỷ lệ trong ngành nông nghiệp giảm đi mặc dù ngành này vẫn tăng trưởng về giá trị sản lượng.
Hai là : Trong nông nghiệp theo nghĩa rộng, trên cơ sở phát triển trồng trọt và trước hết là sản xuất thức ăn gia súc chăn nuôi sẽ phát triển nhanh hơn và tỷ trọng của nó lớn dần nhanh hơn và trong tương lai tỷ trọng ngành chăn nuôi sẽ cao hơn tỷ trọng ngành trồng trọt, để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về dinh dưỡng trong khẩu phần của con người.
Ba là : Tất cả các nước khu vực châu Á trên cơ sở phát triển lương thực ( nhất là khi vượt qua mức an toàn lương thực ) thì đều chuyển đổi cơ cấu từ nền sản xuất lúa gạo tự cung tự cấp truyền thống sang sản xuất hàng hoá theo định hướng thị trường với việc sản xuất các loại rau đậu cao cấp, cây ăn quả, cây cảnh, cây công nghiệp có giá trị kinh tế cao.
Do đó xu thế của ngành trồng trọt là tỷ trọng cây lương thực giảm, ( tuy về giá trị tuyệt đối vẫn tăng ) tỷ trọng các loại cây thực phẩm, cây công nghiệp, cây ăn quả tăng dần.
Bốn là : Trong cơ cấu sản xuất của mỗi ngành, xu hướng chung là tăng dần tỷ trọng các loại cây trồng, vật nuôi sản phẩm có chất lượng cao, những sản phẩm đặc sản….để tăng giá trị sản lượng, tăng thu nhập cho các hộ nông dân và phù hợp với nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao của thị trường.
Năm là : Phải quán triệt sâu sắc chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước để xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh. Căn cứ vào điều kiện và yên cầu thực tiễn, để cụ thể hoá bằng các chương trình, các nhiệm vụ cụ thể ở từng thời kỳ, từng địa phương và từng lĩnh vực, để chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp cho phù hợp. Tích cực đổi mới phương pháp lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đảm bảo sâu sát cơ sở, cải cách hành chính, tập trung giải quyết những vấn đề bức xúc, những yêu cầu cấp thiết của thực tiễn; xác định rõ nhiệm vụ trọng tâm và khâu đột phá để tập trung chỉ đạo thực hiện.
Sáu là : Coi trọng việc phát huy tính sáng tạo của mọi tổ chức và cá nhân để huy động tối đa nội lực; có cơ chế, chính sách đúng đắn để thu hút ngoại lực, đồng thời phân bổ và sử dụng hợp lý các nguồn lực; nắm chắc và khai thác triệt để các lĩnh vực có lợi thế và thời cơ để nâng cao tốc độ và chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế. Phát triển kinh tế phải gắn với việc xây dựng và thực hiện tiến bộ xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh.
Bảy là : Phát hiện và xây dựng các mô hình tiên tiến, chú ý công tác tổng kết thực tiễn để kịp thời ban hành, điều chỉnh các cơ chế, chính sách thúc đẩy phát triển kinh tế -xã hội, tạo được sự đồng tình trong Đảng và quần chúng nhân dân về nghĩa vụ và quyền lợi; gắn kết chặt chẽ giữa dân chủ và kỷ cương trong từng đơn vị cơ quan, thôn bản tạo sự thống nhất trong tổ chức thực hiện các nhiệm vụ.
Chương II : Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở
huyện Quản Bạ tỉnh Hà Giang.
I. Những đặc điểm về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến cơ cấu kinh tế nông nghiệp của huyện
1. Đặc điểm về tự nhiên (1)
Quản Bạ là huyện vùng núi cao của Tỉnh Hà Giang có tiềm năng về đất đai, tài nguyên phong phú, đa dạng có điều kiện phát triên kinh tế nhiều thành phần góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy phát triển nền kinh tế toàn Tỉnh. Đây là địa bàn cư trú 14dân tộc anh em với nhiều truyền thông văn hoá,vật chất tinh thần mang nét đặc trưng,nếu được xác định đúng đắn chiến lược đầu tư và giải pháp phát triển thích hợp thì sẽ khai thác tốt thế mạnh của vùng.
Quản Bạ có 5 xã biên giới với 46 km đường biên giới có một cửa khẩu tiểu ngạch Nghĩa Thuận với nước bạn Trung Quốc là huyện có vị trí chiến lược quan trọng và có ý nghĩa to lớn cho việc giao lưu kinh tế, văn hoá xã hội và giữ vị trí về an ninh quốc phòng không chỉ đối với Hà Giang, mà đối với toàn quốc.
Mặc dù có nhiều tiềm năng thế mạnh, song nền kinh tế xã hội của huyện đang ở điểm xuất phát thấp, hàng năm thu không đủ chi, nhân dân còn thiếu đói, trình độ dân trí thấp và đây là trở ngại lớn trên con đường phát triển kinh tế - xã hội của huyện Quản Bạ.
1. Vị trí địa lý:
Huyện Quản Bạ nằm trong khoảng từ 22o 57’ đến 23o 10’ vĩ độ bắc; 104o40’30” đến 105o kinh độ đông, toàn huyện nằm trên cao nguyên đá vôi Đồng Văn. Trung tâm huyện lỵ là Thị trấn Tam Sơn cách thị xã Hà Giang về phía nam khoảng 46km.
Về địa giới của huyện:
- Phía bắc và phía tây giáp tỉnh Vân Nam Trung Quốc
- Phía đông và đông bắc giáp huyện Yên Minh
- Phía nam giáp huyện Vị Xuyên
2. Địa hình:
Huyện Quản Bạ nằm trong vùng núi cao của tỉnh Hà Giang, trên cao nguyên Đồng Văn. Địa hình phân cắt mạnh và rất khác nhau, nhưng nhìn chung huyện Quản Bạ có ba dạng địa hình chủ yếu sau:
2.1 Địa hình núi cao: Được phân bố chủ yếu ở các xã Nghĩa Thuận, Cao Mã Pờ, Tùng Vài, Tả Ván với độ cao từ 900m đến 1.800m. Địa hìng chia cắt mạng, có độ dốc lớn, phần lớn >25o, nhiều vùng có đá mẹ lộ đầu thành từng cụm.
2.2 Địa hình núi thấp: Độ cao thay đổi dưới 900m, được phân bổ chủ yếu ở các xã Quyết Tiến, Đông Hà, Quản Bạ, Thanh Vân. Loại địa hình này có độ dốc và mức độ chia cắt rất phức tạp, nhiều khu vực có độ dốc >25o, còn ở những vùng có độ dốc <25o thì có độ chia cắt yếu.
2.3 Địa hình thung lũng: Huyện Quản Bạ có những thung lũng, xung quanh là núi thấp, cao khác nhau. Loại địa hình này tuy diện tích không lớn, nhưng khá bằng phẳng, cho phép thâm canh được nhiều loại cây trồng như ở Quyết Tiến, Lùng Tám, Tùng Vài.
Ngoài ba địa hình chủ yếu trên huyện Quản Bạ còn có các loại địa hình Castơ, loại địa hình này không lớn được phân bổ ở các dãy núi đá vôi trong huyện.
(1) Trích báo cáo quy hoạch đất đai Huyện Quản Bạ năm 2010)
Tóm lại: Quản Bạ có điểm thấp nhất là Đông Hà nằm dọc theo sông Miện, có độ dốc cao trung bình khoảng <900m. Nơi cao nhất tại Cao Mã Pờ là 2.150m. Địa hình phức tạp, có độ dốc lớn, chia cắt mạnh gây rất nhiều khó khăn cho việc đi lại, sản xuất và đi lại của nhân dân. Tình trạng thiếu nước rất phổ biến đặc biệt trong những tháng mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Nhìn chung địa hình thấp dần từ tây bắc xuống đông nam.
3. Khí hậu:
Theo số liệu quan trắc của trạm khí tượng Hà Giang cho thấy:
Huyện Quản Bạ có khí hậu nhiệt đới nóng và ẩm, chịu ảnh hưởng của chế độ gió mùa, do nằm sâu trong lục địa nên ảnh hưởng của mưa bão trong mùa hè và gió mùa đông bắc trong mùa đông kém hơn các nơi khác thuộc đồng bằng bắc bộ..
Chế độ gió có độ tương phản rõ: mùa hè có gió mùa đông nam, tây nam kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10, thời tiết nóng ẩm, mưa nhiều, gió mùa đông bắc kéo dài từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau, thời tiết lanh, khô, ít mưa.
Các yếu tố đặc trưng về khí hậu như sau:
nhiệt độ trung bình :17-18oc
nhiệt độ cao trung bình :27oc
nhiệt độ thấp trung bình năm: 13oC
nhiệt độ thấp tuyệt đối: 1oC
Độ ẩm không khí bình quân năm 80%
Số giờ nắng trung bình năm :1500giơ
Số ngày có sương mù trong năm từ :43-58 ngày
Lượng mưa bình quân / năm cao : 2000- 2400mm tập trung chủ yếu từ tháng 6 đến tháng 8. Do địa hình dốc , đá vôi nên khả năng giữ nước rất hạn chế ,nguồn nước ngọn rất khan hiếm.
4. Các nguồn tài nguyên
a. Tài nguyên đất
theo số liêụ nghiên cứu về đất đai của Viện Quy hoạch và thiết kế nông nghiệp (1999) và một số tài liệu có liên quan cho thấy: Đất đai của quản bạ được hình thành do quá trình phong hoá từ đá vôi Trầm tích nâng lên phím thạch, nên đất ở đay thường có thành phần cơ giới nặng, độ phì khá ở nhữg nơi thấp hơn 25o như: Quản Bạ, Thanh vân, Quyết tiến. còn những ở vùng cao từ 26 – 45o bị sạt lở, quá trình sói mòn rửa trôi mạnh. Huyện Quản bạ có những loại đất chính như sau:
a.1. Đất bồi tụ (D) diện tích 692 ha,thườngcó độ dốc <3o ,chiếm 1.5% tổng diện tích tự nhiên, tầng đất dày, ít chua là loại đất tốt, thích hợp với cây lúa, hoa màu, cây công nghiệp hàng năm.
a.2. đất nâu đỏ vàng trên đá cát, đá mẹ sa thạch (Fq): Diện tích: 7698ha, chiếm 14% diện tích tự nhiên, đất có độ dốc 15o đến 25o, đất thường có đá lẫn, thành phần cơ giới thịt nặng, PHKCl từ 4,5 đến 5,5 đất thích hợp với cây ngô, các loại rau, màu, cây công nghiệp ngắn ngày. Được phân bổ chủ yếu ở các xã: Thái An, Quyết Tiến.
a.3. Đất nâu đỏ trên đá vôi (FV) diện tích 4241ha, chiếm 8% diện tích tự nhiên, có độ pHKCl 6 – 6,5 thích hợp với cây ăn quả, hoa màu, cây lương thực và cà phê nhưng cần có biện pháp chống xói mòn để sản xuất lâu bền. Được phân bổ chú yếu ở các xã Thanh Vân, Bát Đại Sơn.
a.4. Đất đỏ vàng trên đá sét (Fs) diện tích 22001ha chiếm 32% diện tích tự nhiên. Độ pHKCl 4,5 – 5,5 được phân bổ ở hầu hết các xã trong huyện, trừ các xã Thái An, Quyết Tiến, Lùng Tám đất thích hợp trồng cây ngô, màu, chè, cây ăn quả.
a.5. đất mùn đỏ vàng trên đá sét biến chất (Hs) diện tích 24822ha, chiếm 45,14% diện tích tự nhiên, đất có tầng dầy và độ dốc cao, pHKCl từ 4,8 – 5,2 thích hợp với cây màu, cây ăn quả, cây công nghiệp được phân bố dải trong các xã của huyện. Nhưng chủ yếu ở xã Thái An, Tả Ván, Quyết Tiến, Đông Hà.
Toàn huyện có 5 loại đất chính, chủ yếu là nhóm đất đỏ vàng dốc. Độ đốc từ 15 – 25o chiếm trên 60% diện tích tự nhiên, độ dốc từ 25o.
Độ phì của đất thuộc loại trung bình, hàm lượng mùn trong đất từ nghèo đến khá, các chất dễ tiêu trung bình, phản ứng của đất từ chua đến ít chua.
b. Tài nguyên nước:
Sông lớn nhất chảy qua địa phận huyện Quản Bạ là sông Miện bắt nguồn từ Vân Nam Trung Quốc chảy qua các xã Bát Đại Sơn, Cán Tỷ, Lùng Tám, Đông Hà, Thái An, đây là nguồn nước rất quan trọng cho sản xuất, sinh hoạt của người dân trong vùng. Các suối nhỏ tuy có nhiều nhưng đều cạn kiệt vào mùa đông.
Tuy nhiên việc khai thác nguồn nước sông Miện phục vụ sản xuất có nhiều hạn chế vì mặt nước sông vào mùa khô có độ chênh lớn so với mặt đất sản xuất nông nghiệp.
Nước ngầm hiện chưa co kết quả thăm dò .Do địa hình đồi núi dốc lớn,nên việc đàu tư khai thác rất phức tạp cho đến nay còn nhiều khó khăn và kém hiệu quả.
c. Tài nguyên rừng .
Cả 13 xã , thị trấn của Huyện Quản Bạ đều có rừng tự nhiên, chủ yếu là rừng phòng hộ, rừng đầu nguồn . Ở núi đá rừng có nhiều loại gỗ quý như:Trai ,nghiến..
Diện tích đất lâm nghiệp của toàn huỵên là 23727,35 ha,chiếm 43,15% tổng diện tích tư nhiên .Trong đó rừng tự nhiên là 22544,66 ha ,chiếm 41,00%.Tập đoàn cây rừng hiện còn chủ yếu là la gỗ tạp, kháo,dẻ và cây lùm bụi và các cây gỗ quý Trai, Nghiến, Thú rừng đã trở lên cạn kiệt do tệ nạn phá rừng làm nương rẫy của những năm trước đây.
Tóm lại Quản Bạ có tài nguyên rừng rất lớn, đặc biệt là rừng tự nhiên, cần có hướng tăng cường công tác bảo vệ rừng theo quy hoạch, có chính sách định canh định cư thảo đáng để chấm dức hiện tượng chặt phá rừng, đốt nương làm dẫy, khoanh một phần diện tích rừng tự nhirn sang đặc dụng để bảo tồn quỹ gen quý hiếm, bảo vệ rừng nguyên sinh.
d. Tài nguyên khoáng sản.
Mặc dù chưa được thăm dò và khảo sát đầy đủ, nhưng Quản Bạ có một số loại khoáng sản quý như: Quặng sắt ở Thái An, Quyết tiến.
Quặng Antimon ở xã Nghĩe Thuận, Quyết tiến; Apatít ở xã Thái An; Măng gan; Chì; Kẽm ở Cao Mã Pờ…
Khai thác đã phục vụ cho dải đường xây dựng cơ sở hà tầng đáp ứng nhu cầu tại chỗ.
2. Đặc điểm về kinh tế xã hội
2.1. Tình hình phát triển kinh tế của huyện giai đoạn 2000-2005
Cùng sự phát triển kinh tế của Nhà nước và các tỉnh phía Bắc, được sự đầu tư hỗ trợ của Trung ương và của Tỉnh thông qua các chương trình dự án về phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi, với sự phấn đấu vượt khó của Đảng bộ và nhân dân trong huyện, trong 5 năm qua Huyện Quản Bạ đã đạt được những kết quả khả quan trên các lĩnh vực. Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) hàng năm tăng khá. Năm 2000 đạt 7.5%, đến 2005 đạt 11.0%. Năm 2006 đạt 11.65%. GDP bình quân đầu người năm 2005 đạt gần 2,5 triệu đ/người/ năm ( GDP bình quân chung của tỉnh đạt 3,2 triệuđ/người /năm ) So với bình quân chung của cả nước thì GDP/ đầu người của huyện rất thấp. Cơ cấu kinh tế của Huyện đã có sự chuyển dịch, tăng tỷ trọng công nghiệp - xây dựng và dịch vụ - thương mại, giảm tỷ trọng nông - lâm nghiệp, kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng sản xuất hàng hóa đây là kết quả bước đầu đáng ghi nhận. Tuy vậy nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng cao trong GDP, công nghiệp và dịch vụ chiếm tỷ trọng còn thấp, quá trình chuyển dịch còn chậm và chưa ổn định. Cơ cấu tỷ trọng kinh tế như sau : tỷ trọng ngành tiểu thủ công nghiệp - xây dựng tăng từ 5% năm 2000 lên 21,58% năm 2005, tỷ trọng ngành thương mại dịch vụ tăng từ 15,0% năm 2000 lên 30,3,7% năm 2005, tỷ trọng ngành nông lâm nghiệp giảm từ 80,0 % năm 2000 xuống còn 48,05% năm 2005.
Biểu số 1: Tình hình phát triển kinh tế của huyện Quản Bạ giai đoạn
2000 – 2005
TT
Chỉ tiêu
Đơn vị tính
Năm 2000
Năm 2005
So sánh %
2005/2000
1
Dân số
Người
36.852
40.813
110,7
2
Tổng sản phẩm XH ( GDP)
Tr.đồng
35.009
102.030
291,4
3
Tốc độ tăng GDP
%
7.5
11
4
Cơ cấu GDP
%
100
100
- Nông – Lâm nghiệp
%
80
48.05
- Công nghiệp – Xây dựng
%
5
21.58
- Dịch vụ - Thương mại
%
15
30.37
5
GDP bình quân đầu người
triệuđồng
0.95
2.5
263,1
6
Sản lượng lương thực
Tấn
12.000
15.160
126,3
7
Bình quân lương thực
Kg/người
330
370
112,1
8
Tổng thu thuế và phí trên địa bàn
Tr.đồng
1.100
2.500
227,2
(Nguồn: Báo cáo Đại hội Đảng bộ huyện Quản Bạ)
(nhiệm kỳ 2000-2005 và 2005 – 2010 )
2.2. So sánh một số chỉ tiêu kinh tế nông nghiệp của huyện đối với tỉnh
Trong những năm qua huyện Quản bạ đã có bước chuyển biến tích cực trong phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên đặc trưng cơ bản của huyện vẫn là một địa bàn thuộc vùng miền núi biên giới, địa hình phức tạp giao thông khó khăn, khí hậu khắc nghiệt, kinh tế nông lâm nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn diễn ra chậm.Giá tri sản xuất nông nghiệp so với tỉnh chiếm tỷ lệ rất thấp. So sánh một số chỉ tiêu cụ thể giữa huyện với tỉnh năm 2005 ở một số lĩnh vực được thể hiện dưới biểu số 2 như sau:
Biểu số 2: So sánh một số chỉ tiêu kinh tế nông nghiệp của huyện Quản bạ với tỉnh Hà Giang 2005
CHỈ TIÊU
Đơn vị tính
Huyện Quản bạ
Tỉnh Hà Giang
So sánh (%) (Huyện/Tỉnh)
1.Dân số
Người
40.813
661.855
6.16
2.Diện tích tự nhiên
Ha
54.989
788.437
6.97
3.Giá trị sản xuất nông nghiệp (giá cố định 1994)
Tr.đồng
68.240
836.123
8.16
4.Bình quân gía trị sản xuất nông nghiệp/ Người
Tr.đồng
1.67
1,26
132.5
5.Cơ cấu giá trị sản xuất nông nghiệp
%
100,0
100,0
- Ngành trồng trọt
%
78,35
80,76
97.00
- Ngành chăn nuôi
%
20,73
18,77
110.4
- Ngành dịch vụ
%
0.92
0,47
219.00
6.Diện tích gieo trồng
Ha
11.347
144.479
7.83
7.Sản lượng lương thực
Tấn
15.160
239.709
6.32
8.Bình quân lương thực/Người
Kg/Người
370
362
102.2
9.Sản lượng thịt hơi các loại
Tấn
1.532
14.826,4
10.33
10.Bình quân thịt/người
Kg/Người
37.5
22,4
167.4
( Nguồn: Tính toán từ số liệu thống kê của Huyện và tỉnh Hà Giang năm 2005)
2.3. Tình hình dân số và lao động
Theo số liệu thống kê dân số huyện Quản bạ đến năm 2005 là 40.813người, mật độ dân số bình quân 91,8 người/km2 và phân bố không đồng đều nơi tập trung đông là khu vực các Thị trấn, thị tứ, cụm trung tâm các xã, các xã ven đường quốc lộ 4C . Tại các xã vùng sâu, xa và vùng cao mật độ dân số thấp như :Xã Tùng Vài, Bát Đại Sơn,Cao Mã Pờ, Tả Ván, Thái An trung bình 40 đến 45 người/km. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên dao động ở mức là : 1,68% năm. Dân số nông nghiệp 35.954 người chiếm 88,1% dân số chung của huyện. Trình độ dân trí thấp, số người mù chữ trong độ tuổi lao động chiếm 15-20%, số lượng lao động có trình độ, kỹ thuật còn rất ít. Qua số liệu khảo sát sự phân công lao động chưa phù hợp với yêu cầu của nền sản xuất. Lao động Nông lâm nghiệp giản đơn là chủ yếu, phân công lao động xã hội chưa có kế hoạch khai thác, sử dụng hợp lý. Do đó vấn đề cần quan tâm của huyện trong những năm tới đây là công tác đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực nông nghiệp bố trí sản xuất phù hợp với điều kiện của địa phương, đặc thù, bản sắc của từng dân tộc. Thể hiện dưới biểu số 3 như sau:
Biểu số 3 : Lao động đang làm việc trong các ngành KTXH năm 2005
Lao động
TT
Chỉ tiêu
Tổng số
Trong đó Nhà nước
Ghi chú
1
Nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản
16.693
49
2
Công nghiệp khai thác mỏ
47
-
3
Công nghiệp chế biến
204
-
4
Sản xuất phân phối điện khí đốt, nước
18
18
5
Xây dựng
362
6
Thương mại
521
31
7
Vận tải
22
22
8
Tài chính tín dụng
39
39
9
Quản lý NN, An ninh Quốc phòng
412
412
10
Giáo dục - Đào tạo
877
877
11
Y tế, xã hội
134
134
12
Văn hoá, thể thao
15
15
13
Đảng, Đoàn thể
70
70
14
Hoạt động khác.
19
19
Tổng số :
19.433
1.686
3. Hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ nông nghiệp
3.1. Giao thông
Đường giao thông chính là Quốc lộ 4C đã được nâng cấp do Bộ giao thông vận tải quản lý chạy suốt chiều dài qua các xã của huyện theo hướng Nam- Bắc, từ thị xã Hà Giang đi lên qua xã Quyết Tiến qua trung tâm huyện lỵ đi xã Quản Bạ, Đông Hà, Cán Tỷ và đi đến huyện Yên Minh. Đường huyện lỵ trong phạm vị thị trấn có 4 km .Đường liên xã có 5 tuyến tổng chiều dài trên 120 km, trong đó tuyến dài nhất là 25 km, tuyến có chiều dài ngắn nhất là 6km, bình quân 15 km/tuyến. Ngoài ra còn mở mới được 187 km đường giao thông các loại, làm mới 15,3 km đường bê tông. Toàn huyện có 6 cầu bê tông qua sông suối, tổng chiều dài 118 m. Nhìn chung các tuyến đường liên xã đã xuống cấp và hiện nay rất xấu, các công trình mang tính chất tạm thời, thời tiết khí hậu, địa hình phức tạp, ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng đường, mùa mưa đi lại khó khăn khả năng mở rộng, duy tu cũng hạn chế về kinh phí và kỹ thuật. Giao thông vận tải đang là một trở ngại lớn ảnh hưởng đến giao lưu trao đổi hàng hoá.
3.2. Thủy lợi
Trên địa bàn huyện có nhiều công trình thuỷ lợi : Có 2 đập bê tông quy mô tưới cho 100 ha. Có 3 kênh bê tông dẫn nước được bê tông hoá dài 15 km, có 2 công trình trung thuỷ nông, 100 công trình tạm và 1 trạm bơm điện. Nhìn chung hệ thống thuỷ lợi phục vụ cho nhu cầu tưới tiêu còn rất khó khăn, đặc biệt là không đảm bảo nước cho việc thâm canh cây trồng. Vì một số công trình thuỷ lợi phát huy hiệu quả thấp. Nhất là trạm bơm điện.
3.3. Về Điện lực :
Hiện nay toàn huyện đã được sử dụng điện lưới Quốc gia, đã có đường trục chính tới tất cả trung tâm 12 xã, thị trấn. Các thôn bản vùng sâu vùng xa chưa có điện lưới, nhân dân tự tạo thuỷ điện nhỏ để sinh hoạt. Tỷ lệ hộ được dùng điện chiếm tới 63,4 % trên tổng số hộ. Các hộ dân sống không tập trung thành cụm dân cư, việc đầu tư xây dựng đường dây tốn kém, tiêu thụ điện phụ tải phát triển còn chưa tương ứng với phát triển nguồn lưới điện nông thôn. Hiện nay nguồn điện chính đang sử dụng trong huyện nói riêng và tỉnh nói chung là nguồn điện 35 KV kéo từ Hà Giang lên Quản Bạ. Ngoài ra trên địa bàn đang được đầu tư xây dựng công trình thuỷ điện Thái An-Quản Bạ với tổng công suất là 80 MW. Công trình này có nhiều hứa hẹn cho phát triển kinh tế xã hội của huyện nói riêng và của tỉnh nói chung.
3.4. Hệ thống dịch vụ phục vụ nông nghiệp
Để thực hiện tốt nhiệm vụ, trong những năm qua với mục đích phục vụ cho KTNN. Huyện đã tập trung đầu tư xây dựng và nâng cấp hệ thống dịch vụ kỹ thuật phục vụ sản xuất nông nghiệp. Đã hình thành các mạng lưới như : Trạm thú y, Trạm bảo vệ thực vật, Trạm khuyến nông, khuyến lâm, các cửa hàng bán vật tư nông nghiệp, các đại lý, mạng lưới khuyến nông, khuyến lâm thôn bản. Ngoài ra trên địa bàn có 1 trung tâm giống cây trồng của tỉnh đặt tại xã Quyết Tiến. Đây là điều kiện hỗ trợ quan trọng cho sản xuất nông nghiệp của huyện. Trong thời gian qua, đã tự nghiên cứu cung cấp các loại giống cây trồng và một số giống cá có giá trị thương phẩm cao trên thị trường hiện nay. Hướng dẫn chuyển giao một số tiến bộ kỹ thuật cho sản xuất, cung ứng vật tư phân bón phục vụ thâm canh và đa dạng hoá cây trồng vật nuôi. Tuy nhiên, hệ thống dịch vụ nông nghiệp của huyện chưa đáp ứng được yêu cầu của sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá. Hiện tại hoạt động dịch vụ mới chủ yếu tham gia vào cung ứng vật tư và sự hoạt động tích cực của Ngân hàng Nông nghiệp & phát triển nông thôn, Ngân hàng chính sách xã hội đã góp phần rất lớn trong công tác dịch vụ cho nông dân vay vốn, hỗ trợ vốn không lãi để phát triển KTNN của huyện trong những năm qua.
4. Đánh giá chung về điều kiện tự nhiên kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến cơ cấu kinh tế nông nghiệp của huyện
4.1. Những thuận lợi và nguồn lực phát triển
Với lợi thế vị trí địa lý của huyện là cửa ngõ của 4 huyện vùng cao, lại có cửa khẩu tiểu ngạch Nghĩa Thuận với nước bạn Trung Quốc vừa là lợi thế cũng vừa là thách thức sản phẩm hàng hoá sản xuất ra phải có sức cạnh tranh lớn mới có khả năng tiếp thị tốt nhất và có thị phần trên thị trường. Xuyên suốt chiều dài của huyện lại có Quốc lộ 4C đi từ thị xã Hà Giang đi qua trung tâm Huyện nối với các huyện khác của tỉnh, và cách thị xã Hà Giang 40 km về phía nam, vừa là thị trường vừa là nhân tố tác động đặc biệt đến phát triển kinh tế của huyện nói riêng và tỉnh nói chung. Cơ sở hạ tầng trong những năm qua luôn được chú trọng quan tâm đầu tư xây dựng, trực tiếp phục vụ sản xuất đời sống cho nhân dân trong đó đáng kể là giao thông và điện. Tài nguyên đất đai khí hậu cho phép phát triển một nền nông, lâm nghiệp đa dạng và thâm canh, sinh thái bền vững, nông sản phẩm hàng hoá đạt giá trị kinh tế cao, làm cơ sở cho công nghiệp chế biến nông sản, sẽ tác động đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tăng trưởng kinh tế.
4.2 Những khó khăn hạn chế
Là huyện có điểm xuất phát thấp, GDP bình quân đầu người/năm còn ở mức thấp và dưới mức trung bình của cả nước, nếu không khai thác được tiềm năng và lợi thế sẵn có sẽ tụt hậu khá xa so với mặt bằng phát triển chung của cả nước. Cơ cấu kinh tế nặng về sản xuất nông nghiệp, chưa thoát khỏi tình trạng tự cung tự cấp, quá trình chuyển dịch chậm, tỷ trọng cơ cấu công nghiệp - dịch vụ còn thấp và chậm phát triển các lợi thế tiềm năng về nông nghiệp khai thác chưa đạt hiệu quả cao. Quỹ đất canh tác ít, sử dụng đất vào sản xuất nông nghiệp ít, phân tán (nhất là đất ruộng). Tỷ lệ tăng dân số còn cao, mật độ dân số phân bố không đồng đều, địa hình chia cắt, việc đi lại của nhân dân và lưu thông vận chuyển hàng hoá gặp nhiều khó khăn trở ngại, nguồn lao động trong nông nghiệp thừa song chất lượng lao động lại thiếu ...gây sức ép lớn về việc làm thu nhập và các vấn đề xã hội. Trình độ dân trí thấp, số ngựời mù chữ còn trên 15%, trẻ em trong độ tuổi đi học không được đến trường còn nhiều, nhất là xã, bản vùng sâu, vùng xa. GDP bình quân đầu người thấp chưa cân bằng được thu chi ngân sách …vì vậy dẫn tới tình trạng luôn luôn ở thế bị động về vốn, thiếu vốn nghiêm trọng. Cơ sở hạ tầng còn thiếu và yếu, năng lực hoạt động sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế còn ở trình độ thấp, hiệu quả kinh tế chưa cao, chưa khai thác hết tiềm năng thế mạnh hiện có, từ đó vấn đề đặt ra là phải đẩy mạnh, nâng cao được trình độ dân trí, nâng cao nguồn lực lao động có kỹ thuật cao trong các lĩnh vực kinh tế nhất là KTNN, đồng thời nâng cao hiệu lực quản lý của bộ máy chính quyền sở tại từ Huyện đến xã đề cao vai trò của bộ máy cơ sở thôn bản. Để làm được việc này khó khăn lớn nhất đó là về mặt thời gian, nguồn vốn lớn mới giải quyết được mà bản thân huyện không đáp ứng được.
II. Thực trạng của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của huyện Quản Bạ.
1. Khái quát thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của huyện
Như ta đã biết : Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp là một yếu tố quan trọng, chỉ có chuyển dịch cơ cấu mới tạo ra nhiều công ăn việc làm với nhiều loại sản phẩm hàng hoá đa dạng, đáp ứng nhu cầu thị trường. Dẫn tới tăng thu nhập cho ngựời lao động và mặt bằng xã hội, chính vì lý do to lớn đó mà Đảng và Nhà nớc luôn chú ý quan tâm tới phát triển nông nghiệp. Công cuộc đổi mới kinh tế do Đảng và Nhà nước khởi xướng và lãnh đạo đã lấy nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, là khâu đột phá đặc biệt, bắt đầu từ Chỉ thị 100 của Ban Bí thư khoá IV, Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị khoá VI được triển khai, các Chỉ thị Nghị quyết của Đại hội và Hội nghị Trung ương các khoá V; VI; VII; VIII; IX. Đã đưa đến những thành tựu to lớn trong ngành nông nghiệp nước ta, từ một nước thiếu lương thực triền miên và phải nhập khẩu gạo thì nay đã vươn lên thành nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới, lương thực trong nước được đáp ứng thoả mãn. Từ các Nghị quyết và Chỉ thị của Trung ương, của Tỉnh được HĐND và UBND huyện và các cấp các ngành trong huyện quán triệt thực hiện đưa nhanh vào đời sống của nhân dân.
Bên cạnh đó huyện cũng xây dựng đưa ra nhiều chương trình, đề án, nghị quyết kinh tế nhằm phát triển trong lĩnh vực nông nghiệp chuyển sang một cơ cấu kinh tế mới năng động, hiệu quả và ngày càng gắn với nhu cầu của thị trường. Từng bước đưa nông nghiệp phát triển với một cơ cấu kinh tế hợp lý, đáp ứng được yêu cầu của công cuộc CNH, HĐH. Quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp là xem xét tỷ lệ giữa trồng trọt với chăn nuôi và dịch vụ nông nghiệp. Trong chăn nuôi thì đưa các giống kinh tế cao vào chăn nuôi, trong trồng trọt thì chuyển đổi cơ chế loại cây trồng cho hiệu quả năng suất cao thời vụ ngắn, đẩy mạnh dịch vụ nông nghiệp, từ đó đưa ra mục tiêu để phát triển và xem ngành, loại nào có khả năng để tập trung phát triển. Kinh tế nông nghiệp của huyện Quản Bạ lĩnh vực trồng trọt vẫn là chính, tỷ trọng ngành trồng trọt hiện chiếm 66,02% giá trị sản xuất ngành nông nghiệp. Trong những năm (2001 - 2005 ) KTNN phát triển tương đối nhanh, tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 17,8% năm (cao hơn của tỉnh và cả nước) chăn nuôi là ngành có tốc độ tăng trưởng lớn nhất ( trên 17,8%năm ). Song do điểm xuất phát thấp nên tỷ trọng giá trị sản xuất ngành chăn nuôi mới chiếm 33,22% giá trị sản xuất ngành nông nghiệp, dịch vụ nông nghiệp chưa phát triển chiếm tỷ trọng rất thấp (0,76%). Sự chuyển dịch cơ cấu KTNN của huyện thời kỳ 2000- 2005 nhìn tổng thể cả giai đoạn thì sự chuyển dịch cơ cấu tương đối phù hợp với quy luật chung của cả nước ( giảm tỷ trọng ngành trồng trọt, tăng tỷ trọng ngành chăn nuôi và dịch vụ ), song sự chuyển dịch còn diễn ra hết sức chậm, mặc dù giá trị sản phẩm của ngành tăng với tốc độ cao. Xét cho cùng muốn đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp trong những năm tới huyện cần phải tập chung phát triển lĩnh vực chăn nuôi và dịch vụ nông nghiệp ở nông thôn, đồng thời khai thác có hiệu quả tiềm năng về chăn nuôi và các nguồn lực của huyện. Kết quả chuyển dịch cơ cấu theo biểu số 4 như sau :
Biểu số 4: Chuyển dịch cơ cấu giá trị sản xuất nông nghiệp huyện Quản Bạ
2001 - 2005
Chỉ tiêu
Đ.vị
2001
2001
2003
2004
2005
Tốc tăng Bq %
1. Giá trị sản phẩm :
Tr. đồng
54.160
60.361
77.430
87.729
94.677
12,2
T. đó : Ngành trồng trọt
Tr. đồng
32.371
36.936
53.109
61.382
62.503
17,8
Ngành chăn nuôi
Tr. đồng
21.654
23.173
23.901
25.897
31.454
9,7
Ngành dịch vụ NN
Tr. đồng
135
252
370
450
720
51,4
2. Cơ cấu giá trị sản phẩm :
%
100
100
100
100
100
T. đó : Ngành trồng trọt
%
59,76
61,19
68,58
69,96
66,02
Ngành chăn nuôi
%
39,98
38,39
30,86
29,51
33,22
Ngành dịch vụ NN
%
0,26
0,42
0,56
0,73
0,76
(Nguồn: Niên giám thống kê huyện Quản Bạ)
2. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo ngành
2.1. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành trồng trọt
Trong những năm qua sản xuất ngành trồng trọt của huyện quan ba đã đạt được những kết quả đáng kể, diện tích, năng suất, sản lượng, một số cây trồng đều tăng.
- Về diện tích : Diện tích gieo trồng của huyện năm 2005 là 11.334 ha tăng so với năm 2001 là 2.230 ha, tăng khá cao 21,47%. Diện tích lúa vụ xuân trên cơ sở tăng cường đầu tư xây dựng các công trình thuỷ lợi tăng vụ xuân trên đất ruộng, áp dụng các tiến bộ kỹ thuật đưa một số giống cây trồng có năng suất cao vào vụ xuân. Trong những năm gần đây do phong trào xây dựng trang trại, phát triển kinh tế hộ gia đình nên diện tích trồng cây ăn quả cũng tăng đáng kể. Cụ thể diện tích gieo trồng của từng nhóm cây trồng như sau:
+ Diện tích cây lương thực từ 5.787,0 ha ( năm 2001) lên 6.330,3 ha ( năm 2005)
+ Diện tích cây thực phẩm tăng từ 1.234 ha ( 2001) lên 1.737 ha ( 2005)
+ Diện tích cây công nghiệp ngắn ngày, loại cây trồng chính có ý nghĩa hàng hoá và tham gia vào chuyển đổi cơ cấu cây trồng của huyện tăng từ 678 ha năm 2001 lên 1.294 ha năm 2005. (Chủ yếu là đậu tương và lạc).
+ Diện tích cây công nghiệp lâu năm, chủ yếu là chè, phát triển đến nay đạt 187 ha, tăng 20 ha so với năm 2001.
+ Diện tích cây ăn quả năm 2005 đạt 371,5 ha tăng 73 ha so với năm 2001. Cây ăn quả chủ yếu gồm : Cây hồng không hạt, cây lê.
- Về năng suất, sản lượng :Trong những năm qua việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất được tăng cường nên sản xuất các loại cây trồng có sự gia tăng đáng kể. Năng suất lúa năm 2005 tăng 2 tạ/ha so với năm 2001. Năng suất ngô bình quân toàn Huyện đạt 18,5 tạ/ha, tăng 2 tạ/ha so với năm 2001. Năng suất và diện tích tăng đã làm cho sản lượng các loại cây trồng tăng theo, đặc biệt là sản lượng lương thực tăng khá nhanh. Tổng sản lượng quy thóc năm 2005 đạt 15.160 tấn so với năm 2001 là 12.017 tấn ( tăng 3.143 tấn ), tốc độ tăng trưởng bình quân thời kỳ 2001-2005 là 2,5% năm, đưa lượng lương thực sản xuất bình quân trên đầu người từ 337 kg/người/năm lên 370 kg/người/năm. Đó là cố gắng rất lớn của Đảng bộ, chính quyền huyện Quản Bạ và nhân dân khắc phục dần tình trạng thiếu lương thực và đói thời kỳ giáp hạt.
Biểu số 5: Diện tích gieo trồng và cơ cấu diện tích gieo trồng của huyện
Quản Bạ thời kỳ 2001- 2005
2001
2002
2003
2004
2005
Chỉ tiêu
DT
(ha)
Tỷ trọng %
DT
(ha)
Tỷ trọng %
DT
(ha)
Tỷ trọng %
DT
(ha)
Tỷ trọng %
DT
(ha)
Tỷ trọng %
- Tổng diện tích
8.756
100
9.910
100
10.287
100
10.689
100
11.027
100
- Cây lương thực
5.787
66,09
5.983
60,37
6.328
61,51
6.288
58,82
6.330
57,40
- Cây công nghiệp NN
678
7,74
968
9,76
1.082
10,51
1.220
11,41
1.294
11,73
- Cây rau đậu
1.234
14,09
1.440
14,53
1.583
13,38
1.727
16,15
1.737
15,75
- Cây thảo quả
220
2,51
255
2,57
280
2,72
310
2,9
807
7,31
- Cây chè
167
1,90
186
1,87
186
1,80
186
1,74
187
1,69
- Cây ăn quả (hồng,lê)
204
2,32
250
2,52
237
2,30
259
2,42
271
2,45
- Các loại cây khác
466
5,32
824
8,31
843
8,19
699
6,53
401
3,67
( Tính toán theo số liệu niên giám thống kê năm 2005)
Xét về cơ cấu diện tích gieo trồng các loại cây trồng qua biểu 5 cho thấy, chủ yếu vẫn là sản xuất lương thực tỷ trọng diện tích năm 2005 chiếm tới 57,4% tổng diện tích gieo trồng. Tỷ trọng cây công nghiệp ngắn ngày( đậu, lạc) chiếm 11,73%, cây công nghiệp dài ngày thảo quả chiếm 7,31%, cây chè chiếm 1,69%, cây ăn quả chiếm 2,45%, các loại cây ngắn ngày, cây thực phẩm chiếm tỷ trọng 15,75%. Cây công nghiệp (thảo quả, chè, đậu tương) và cây ăn quả (hồng, lê) và cây thực phẩm (rau đậu), được coi là kinh tế mũi nhọn của huyện đã hình thành vùng tập trung và bước đầu có thâm canh, đã tạo ra nguồn hàng hoá có giá trị kinh tế lớn cho huyện. Sản xuất lương thực đặc biệt là sản xuất lúa chiếm tỷ trọng cao trong sản xuất ngành trồng trọt. Giá trị sản xuất năm 2005 của cây lương thực đạt 31.864 triệu đồng chiếm 50,97%, nhóm cây công nghiệp đạt 4.013 triệu đồng chiếm 6,42%. Cây thực phẩm đạt 24.350 triệu đồng chiếm 37,07%, nhóm cây ăn quả đạt 1.020 triệu đồng chiếm 1,63%. Từ đó cho thấy tuy là một huyện miền núi song trong những năm qua sản xuất lương thực, đặc biệt là cây lúa vẫn chiếm tỷ trọng rất lớn. Trong thời gian tới để tăng giá trị sản lượng của ngành trồng trọt, tăng sản phẩm hàng hoá và để thực hiện sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trồng trọt một cách mạnh mẽ cần tập trung đầu tư phát triển các loại cây công nghiệp dài ngày, cây thực phẩm, cây rau, hoa và cây ăn quả.
2.2. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành chăn nuôi
Dựa vào cơ sở tổng hợp số liệu thống kê về tình hình phát triển đàn gia súc, gia cầm của huyện Quản Bạ từ năm 2001 - 2005 và kết quả điều tra ở các tiểu vùng nhìn chung đàn vật nuôi chính có sự gia tăng đáng kể, trừ đàn ngựa phát triển không ổn định, ngày một giảm, điều này phù hợp với thực tại của huyện. Mạng lưới giao thông phát triển việc đi lại, vận chuyển được chuyển sang phương tiện cơ giới như xe máy, ôtô, do vậy trong cơ cấu chăn nuôi đàn Ngựa có xu hướng giảm mạnh. Tuy trong những năm qua chăn nuôi có phát triển nhanh hơn trồng trọt song hiện nay tỷ trọng ngành chăn nuôi vẫn còn ở mức 33,32%.
Biểu số 6: Đàn gia súc gia cầm huyện Quản Bạ giai đoạn 2000-2005
Chủng loại
Con
Năm
2001
Năm
2002
Năm
2003
Năm
2004
Năm
2005
Tốc độ tăng trưởng bình quân
- Đàn trâu
5.857
5.968
6.102
6.080
6.246
1,3
- Đàn bò
5.378
5.341
5.692
5.790
6.405
2,6
- Đàn ngựa
2.647
2.399
2.392
2.420
2.150
-5,2
- Đàn dê
3.034
2.810
3.975
4.200
4.843
4,2
- Đàn lợn
18.000
18.267
19.661
20.810
22.520
5,7
- Đàn gia cầm
73.582
80.450
95.840
110.300
122.100
34,9
(Nguồn: Niên giám thống kê huyện Quản Bạ năm 2005)
Từ kết qủa tính về cơ cấu giá trị sản lượng ngành chăn nuôi của huyện năm 2005 cho thấy, tỷ trọng giá trị sản lượng gia súc ( trâu, bò, ngựa, dê, lợn ) chiếm 76,7%, đàn gia cầm chiếm 15,44% so với toàn ngành chăn nuôi. Như vậy chăn nuôi gia súc là ngành chủ yếu trong chăn nuôi của huyện. Cơ cấu giá trị sản xuất ngành chăn nuôi có sự chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng nuôi lợn, bò và gia cầm, xu hướng chuyển dịch này phù hợp với điều kiện phát triển chăn nuôi theo hướng sản xuất hàng hoá của huyện. Ngoài các loại vật nuôi chính như: Trâu, bò, lợn, gà,… phát huy ưu thế của huyện, chăn nuôi dê cũng được chú trọng góp phần làm tăng giá trị sản phẩm ngành chăn nuôi.
2.3. Thực trạng phát triển ngành dịch vụ nông nghiệp
Giống như tình trạng chung ở các huyện miền núi hiện nay ngành dịch vụ nông nghiệp ở huyện quan ba mới chỉ tập trung vào hoạt động dịch vụ cung ứng vật tư phân bón, giống và thực hiện một số dịch vụ khác như: tiêm phòng dịch vật nuôi, tưới tiêu. Tuy nhiên những dịch vụ này vẫn còn ở mức thấp, do đó giá trị sản phẩm ngành dịch vụ nông nghiệp năm 2005 của huyện mới đạt 720 triệu đồng, tăng hơn năm 2000 khoảng 585 đồng, tỷ trọng ngành dịch vụ nông nghiệp mới chiếm dưới 0,76% so với tổng giá trị sản phẩm của ngành nông nghiệp. Như vậy ngành dịch vụ nông nghiệp hiện còn chiếm tỷ trọng quá thấp. Trong những năm tới để đẩy mạnh tốc độ phát triển của sản xuất nông nghiệp cần chú ý đẩy mạnh hoạt động dịch vụ nông nghiệp, động viên tuyên truyền cho các hộ gia đình tự nguyện vào hoạt động dịch vụ nông nghiệp, tham gia vào các HTX dịch vụ chuyển đổi theo luật….
3. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo vùng lãnh thổ
Nếu như công nghiệp sản xuất theo phương pháp cơ lý hoá thì ngược lại sản xuất nông nghiệp có những đặc điểm riêng của nó, là chỉ sản xuất theo phương pháp sinh học. Cho nên cơ cấu sản xuất nông nghiệp chịu sự chi phối, lệ thuộc lớn và rất nghiêm ngặt của các yếu tố tự nhiên, tập quán sản xuất và điều kiện sản xuất (đất đai, dân tộc, cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất, trình độ dân trí…). Quá trình hình thành và phát triển cơ cấu sản xuất nông nghiệp thường gắn liền với bố trí sản xuất và chuyên môn hoá. Những vấn đề này lại phụ thuộc vào các điều kiện TN-KT-XH trong từng không gian cụ thể. Chỗ nào phù hợp thế mạnh loại cây trồng nào, nuôi con vật gì thì tập trung đầu tư chuyển dịch vào đó, thì sẽ đem lại nhiều hiệu quả.
3.1. Khái quát về các vùng lãnh thổ của huyện Quản Bạ :
Trên cơ sở phân tích các yếu tố tác động đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo vùng lãnh thổ, đáp ứng với khả năng thích nghi của hệ thống cơ cấu cây trồng vật nuôi theo hệ sinh thái trên địa bàn Quản Bạ hình thành 3 vùng sau :
* Tiểu vùng sinh thái thứ nhất : Là vùng động lực của huyện, gồm 4 xã nằm ở phía nam Sông Miện, đó là xã Đông Hà, Quyết Tiến, Quản Bạ, Tam Sơn. Tổng diện tích đất tự nhiên 29.330 ha chiếm 53,33 % đất tự nhiên của huyện. Trong đó tiềm năng đất nông nghiệp khoảng 834,76 ha chiếm 2,85% diện tích của vùng. Đây là vùng có ưu thế về đất đai, khí hậu ôn hoà, trình độ dân trí cao hơn các vùng khác. Vùng này tập trung trồng các loại cây lương thực, cây rau đậu, hoa xuất khẩu, có điều kiện phát triển chăn nuôi lợn, trâu, bò và gia cầm. Đây là vùng có giá trị sản lượng nông nghiệp đạt mức cao nhất huyện. Cơ cấu giá trị sản lượng năm 2005 ngành trồng trọt đạt 76,5% chăn nuôi chiếm 29,3, dịch vụ chiếm 1,2%. Nhưng năm 2003, 2005 vùng này đang tích cực đẩy mạnh sản xuất chuyển dịch theo hướng giảm dần tỷ trọng trồng trọt, tăng tỷ trọng chăn nuôi-dịch vụ.
* Tiểu vùng sinh thái thứ 2 : Diện tích đất tự nhiên 4.699 ha bằng 8,54 % diện tích toàn huyện; Trong đó diện tích canh tác lúa mùa chỉ có 28,5 ha bằng 0,6%, gồm các xã phía đông bắc của huyện như Thanh Vân, Lùng Tám, Cán Tỷ, Bát Đại Sơn. Vùng này nhiều núi đá, điều kiện canh tác khó khăn, đặt biệt là trồng cây lúa nước, cây lương thực, chủ yếu là trồng ngô; các loại cây công nghiệp : Đậu tương, cây ăn quả, hồng không hạt... Chăn nuôi chủ yếu là chăn nuôi bò. Dịch vụ phát triển mạnh là chế biến nông sản nấu rượu, dệt thổ cẩm... Do điều kiện đất đai canh tác ít, dân tộc chính là người Mông chiếm 99%. Vì vậy trong những năm qua việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp tại vùng này đang từng bước giảm dần tỷ trọng ngành trồng trọt chuyển mạnh sang chăn nuôi đại gia súc (nuôi bò, dê...) và mở rộng việc chế biến ngô nấu rượu, dệt lanh làm thổ cẩm. Cơ cấu nông nghiệp vùng này đạt tỷ trọng : trồng trọng 70%, chăn nuôi 28%, dịch vụ 2%.
* Tiểu vùng sinh thái thứ 3 : Gồm các xã nằm phía Tây tây bắc của huyện như Tả Ván, Tùng Vài, Cao Mã Pờ và xã Nghĩa Thuận. Diện tích đất tự nhiên 20.065 ha chiếm 36,48% diện tích toàn huyện; trong đó đất nông nghiệp 2.692 ha = 13,4% so với diện tích của vùng. Mật độ dân số vùng này thấp bình quân 45 người/km2. Dân tộc chủ yếu là dân tộc Mông, trình độ dân trí còn hạn chế. Với điêu kiện đất đai khó khăn, vùng này chủ yếu là vùng đầu nguồn và giao trồng một số cây công nghiệp như chè, đậu tương, thảo quả, hồng và cây lương thực chính là cây ngô, chăn nuôi bò, dê, gia cầm. Nhìn chung là vùng sản xuất nông nghiệp kém phát triển, nặng về tự cung tự cấp, cơ cấu nông nghiệp hiện tại là 85,2% trồng trọt, 14,5% là chăn nuôi, dịch vụ 0,3%.
3.2. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo vùng
Nhận xét chung trong 3 tiểu vùng trên lãnh thổ huyện Quản Bạ, thì có tiểu vùng 1 kinh tế nông nghiệp phát triển hơn cả vì địa hình thấp, đất đai tương đối bằng phẳng, ít dốc nguồn nước dồi dào, trình độ dân trí và kinh nghiệm sản xuất khá, giao thông thuận tiện hơn, lại là khu vực trung tâm huyện lỵ.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo vùng lãnh thổ ở huyện Quản Bạ trong những năm qua đã đạt được những thành tựu đáng kể, cơ cấu kinh tế dần được thay đổi phù hợp với từng vùng. Do đó có giá trị sản phẩm ngành nông nghiệp tăng nhanh, nâng cao được đời sống cho nhân dân bộ mặt kinh tế nông thôn ngày càng khởi sắc, đời sống văn hoá tinh thần ngày càng được quan tâm; nhân dân phấn khởi tin tưởng vào Đảng và Nhà nước, các cấp chính quyền địa phương từ huyện tới xã đã quan tâm sâu sát trong việc chỉ đạo thực hiện chuyển dịch cơ cấu KTNN theo hướng sản xuất hàng hoá tạo đà phát triển kinh tế chung của huyện, tỉnh cũng như của cả nước với mục tiêu CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn trong thời gian sớm nhất.
III. Đánh giá chung quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở huyện Quản Bạ.
1. Những thành tựu
Cùng với công cuộc đổi mới của đất nước trong 5 năm qua huyện Quản Bạ, nền kinh tế có sự tăng trưởng và phát triển : GDP bình quân đầu người năm 2000 mới đạt : 0,95 triệu đồng/người đến năm 2005 GDP bình quân tăng lên 2,5 triệu đồng/người. Tuy mức tăng trưởng còn thấp nhưng nông lâm nghiệp đã chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hoá sản phẩm phong phú đa dạng hơn. KTNN phát triển tương đối bền vững đã thu hẹp khoảng cách giữa các hộ khá, giàu so với hộ nghèo, giảm thiểu hộ nghèo. Chăn nuôi phát triển nhanh, tỷ lệ che phủ rừng đạt 54%, không còn nạn đốt phá rừng làm nương rẫy. Cơ sở hạ tầng được tăng cường trực tiếp phục vụ sản xuất đời sống, trong đó đáng kể nhất là giao thông xây dựng và điện lưới quốc gia. Đi liền với tăng trưởng kinh tế nghĩa vụ của nhân dân với Nhà nước đều hoàn thành tốt, thu ngân sách năm sau cao hơn năm trước, đảm bảo đáp ứng được một phần nhu cầu chi thường xuyên ngân sách huyện. Cơ cấu KTNN đang từng bước thay đổi chuyển dịch từ thuần nông sang sản xuất hàng hoá, có sự thay đổi về tỷ trọng trong nội bộ ngành nông nghiệp đó là ngành chăn nuôi ngày càng phát triển nhanh, chiếm tỷ trọng tăng dần lên so với ngành trồng trọt, gia súc, gia cầm phát triển đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của nhân dân trong huyện và toàn tỉnh. Do đó mà đời sống của nhân dân nông thôn được nâng lên bộ mặt xã hội của nông thôn cũng thay đổi.
Trong ngành trồng trọt đã đạt được tốc độ phát triển cao căn cứ theo (biểu số 4) đã tính toán trong giai đoạn từ năm 2000 đến 2005 cho ta thấy cơ cấu hàng năm có xu hướng giảm dần song giá trị sản phẩm hàng năm lại tăng lên. Ngành chăn nuôi của huyện thì lại phát triển với xu hướng cơ cấu ngành tăng giá trị sản phẩm cũng tăng năm sau cao hơn năm trước, rồi cơ cấu dịch vụ nông nghiệp của huyện cũng tăng. Điều đó chứng tỏ quá trình chuyển dịch cơ cấu KTNN, một cơ cấu chuyển dịch hợp lý, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật …tạo tiền đề cho một nền nông nghiệp toàn diện theo hướng đa ngành, đa sản phẩm hàng hoá, tạo ra sức cạnh tranh trên thị trường. Từ việc chuyển dịch cơ cấu mà thu nhập bình quân đầu người tăng lên, năng suất các loại cây trồng tăng, giải quyết được một lượng lao động thiếu việc làm. Chuyển dịch và đổi mới cơ cấu kinh tế cùng các chính sách ưu đãi của Nhà nước tạo điều kiện cho nông dân phát triển kinh tế và cải thiện đời sống qua đó phúc lợi xã hội cũng được nâng lên như: giáo dục, y tế. Chuyển dịch cơ cấu đã tạo ra sản phẩm hàng hoá đa dạng, số lượng và chất lượng được nâng lên từ đó thị trường tiêu thụ cũng được vươn rộng từ phạm vi xã, huyện cho tới tỉnh cũng như ngoài tỉnh và ngoài nước
2. Những tồn tại và nguyên nhân
2.1. Về những tồn tại.
Nhìn chung thực trạng trong những năm qua Nông nghiệp Quản Bạ :
- Việc chuyển dịch cơ cấu KTNN diễn ra vẫn còn chậm, tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế chưa vững chắc, phát huy các yếu tố nội lực còn rất nhiều hạn chế, kinh tế hàng hoá bước đầu phát triển ở quy mô nhỏ bé, việc huy động các thành phần kinh tế tham gia vào đầu tư phát triển kinh tế còn nhiều khó khăn, sản xuất nông nghiệp vẫn mang tính độc canh, chưa khai thác được những lợi thế sản xuất nông nghiệp của huyện.
- Chăn nuôi phát triển chậm, cơ cấu ngành chăn nuôi hiện tại mới chiếm 33,22% so với toàn ngành nông nghiệp. Tuy là một huyện miền núi điều kiện phát triển chăn nuôi đại gia súc thuận lợi, song hiện nay tiềm năng này vẫn chưa được khai thác, chăn nuôi lợn vẫn chiếm tỷ trọng cao. Về giá trị sản phẩm của ngành chăn nuôi đạt 31.454 triệu đồng (năm 2005). Điều kiện chăn thả thuận lợi đối với đàn đại gia súc trâu bò, song hiện tại vẫn còn rất nhiều hộ dân chưa có trâu bò dẫn đến thiếu sức cày kéo, sản phẩm phụ, nguồn phân bón….
- Chưa hình thành tiểu vùng chuyên môn hoá, sản xuất của các vùng và tiểu vùng rất phân tán. Sản xuất nông nghiệp còn phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên, ruộng đất còn manh mún.
- Các sản phẩm của nông nghiệp chủ yếu là sản phẩm thô, các dịch vụ quan trọng đối với sản xuất nông nghiệp là chế biến và tiêu thụ sản phẩm còn quá yếu. Do vậy mà lúc thời vụ sản phẩm ế thừa và trái vụ lại thiếu hụt sản phẩm, mặt khác chưa có đủ khả năng cạnh tranh trên thị trường. Chăn nuôi là thế mạnh song phát triển chưa tương xứng với quy mô, trồng trọt chưa kết hợp tận dụng sản phẩm phụ của chăn nuôi do đó còn lãng phí, không có hàng nông sản chất lượng cao phục vụ cho thị trường.
- Cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất nông nghiệp còn thiếu, mức độ đầu tư chưa thoả đáng, tính toán thiết kế hiệu quả tưới tiêu chưa cao, đầu tư còn dàn trải. Nhìn chung công trình đập tràn là chủ yếu, phần lớn còn dạng tạm thời do nhân dân tự tạo chất lượng không bảo đảm, một số xây dựng đưa vào sử dụng diện tích tưới thấp so với thiết kế.
- Một số bộ phận cán bộ, nhân dân vẫn còn có tính trông chờ ỷ lại vào Nhà nước qua các chương trình trợ cấp, trợ giá, trợ cước. Tư duy chậm đổi mới, trình độ văn hoá thấp. Chưa có ý thức vươn lên làm giàu chỉ bằng lòng đủ ăn đủ mặc.
- Trình độ cán bộ quản lý nhất là trong lĩnh vực KTNN nông thôn còn rất nhiều hạn chế, dẫn đến tình trạng khi thực hiện các chương trình kinh tế trọng tâm về nông nghiệp, cán bộ cơ sở chỉ thực hiện theo chỉ thị, nghị quyết, hướng dẫn của cấp trên chứ chưa có những ý kiến đề xuất với cấp trên những vấn đề phù hợp với thực tiễn của địa phương mình cần trồng loại cây gì cho phù hợp điều kiện đất đai, thổ nhưỡng, nuôi loại gia súc nào hợp với thế mạnh tiềm năng. Vẫn còn chung chung, lúng túng chưa cụ thể khi lựa chọn nuôi con gì, trồng cây gì.
2.2. Nguyên nhân
- Thiếu vốn đầu tư và phát triển sản xuất đặc biệt là đầu tư cho công nghiệp chế biến nông sản.
- Thị trường tiêu thụ tại địa phương và các tỉnh lân cận còn nhỏ bé, nhu cầu nông sản phẩm chế biến có nhưng không được đáp ứng. Thị trường nông nghiệp kém phát triển là yếu tố cản trở quá trình chuyển dịch cơ cấu KTNN theo hướng sản xuất hàng hoá bởi vì thị trường đầu vào và đầu ra hoạt động chưa nhịp nhàng do đó kém hiệu quả.
- Hệ thống cơ sở kênh mương, thuỷ lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp của huyện còn chưa được phát triển, nhiều công trình đã xuống cấp, chưa tạo được môi trường thuận lợi cho phát triển nông nghiệp đặc biệt là các xã vùng sâu vùng xa.
- Vẫn còn nặng tư tưởng bảo thủ trì trệ, chưa năng động sáng tạo, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp chậm.
- Chất lượng lao động nông nghiệp chưa đáp ứng kịp yêu cầu của chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp.
- Thiếu kiến thức về lĩnh vực nông nghiệp, các mô hình trình diễn, các dự án, mô hình thí điểm còn quá ít đến với người dân. Việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào thâm canh sản xuất còn gặp nhiều trở ngại như: ruộng đất manh mún, đồi núi, trình độ dân trí thấp, do đó sức mua tiêu dùng thấp ảnh hưởng đến dung lượng tiêu thụ của thị trường. Hoạt động của các trạm trại giống nghiên cứu ứng dụng các loại cây trồng, vật nuôi còn hạn chế, chủ yếu vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu phục vụ trong huyện
- Chưa có cơ chế biện pháp thích hợp để kích cầu, phát triển các làng nghề truyền thống như mây tre đan, thủ công mỹ nghệ, thêu dệt thổ cẩm…
- Tình trạng phá rừng vẫn xảy ra, tài nguyên rừng cạn kiệt, hạn hán, lũ lụt bất thường dẫn đến đất đai bị bạc màu, sói mòn, gây sạt lở ảnh hưởng đến đất canh tác nông nghiệp…
- Các cơ chế thủ tục hành chính vẫn còn rườm rà, phức tạp, chưa thu hút được sự đầu tư từ bên ngoài vào lĩnh vực KTNN. Tình trạng lao động thiếu việc làm còn nhiều, khi hết mùa vụ lãng phí lao động nông nhàn, làm cho thu nhập của xã hội giảm, bên cạnh đó tỷ lệ sinh còn cao, đội ngũ cán bộ nhất là quản lý tổ chức và chuyên môn chuyên sâu về nông nghiệp còn thiếu và trình độ năng lực thấp, vì vậy chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế hàng hoá.
Chương III : Phương hướng và những giải pháp chủ yếu
nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của huyện Quản Bạ
tỉnh Hà Giang.
I. Phương hướng và mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của huyện Quản Bạ.
Phương hướng và mục tiêu phát triển nông nghiệp ở huyện Quản Bạ đến năm 2010
Đẩy mạnh phát triển nông nghiệp theo hướng hiệu quả kinh tế và bền vững, sản xuất hàng hoá, khai thác và phát huy mọi tiềm năng thế mạnh, huy động nguồn vốn đầu tư tăng thêm trong 5 năm tới, tạo bước “đột phá” tăng trưởng kinh tế từ sản xuất nông nghiệp. Tích cực chuyển đổi cơ cấu vật nuôi, cây trồng, “dồn điền đổi thửa”, khai hoang mở rộng diện tích, đảm bảo nước tưới, đặc biệt là giải pháp đột phá áp dụng công nghệ sinh học tiên tiến vào sản xuất để hình thành vùng sản xuất chế biến tập trung quy mô lớnvới những sản phẩm chất lượng cao, giá trị kinh tế lớn có khả năng cạnh tranh thị trường. Với đặc điểm Huyện miền núi biên giới núi cao độ dốc lớn, kinh tế xã hội chậm phát triển, dân trí thấp, cơ sở hạ tầ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- QT1149.docx