Tài liệu Đề tài Những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh tiến trình cổ phần hoá của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam: Lời cám ơn
Với lòng biết ơn sâu sắc em xin trân trọng cám ơn cô giáo TS. Vũ Thị Kim Oanh đã hướng dẫn và giúp đỡ em rất tận tình trong suốt thời gian em làm khoá luận. Em cũng xin gửi lời cám ơn tới thầy giáo TS. Vũ Sỹ Tuấn; các thầy cô giáo khoa Kinh tế Ngoại thương; khoa Tại chức; các cán bộ công tác tại Tổng công ty Dầu khí Việt Nam, công ty Bảo hiểm Dầu khí, công ty Dung dịch khoan và Hoá phẩm Dầu khí; các bạn sinh viên lớp A2CN9 đã giúp đỡ em hoàn thành bản khoá luận tốt nghiệp này.
Hà Nội, ngày 24 tháng 5 năm 2003
Lê Thị Thu Hường
Lời mở đầu
Cổ phần hoá là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường. Mục tiêu của cổ phần hoá trước hết là nhằm thay đổi phương thức quản lý; huy động thêm vốn của cả bên trong lẫn bên ngoài doanh nghiệp để đổi mới công nghệ, tạo thêm việc làm và nâng cao sức cạnh tranh; tạo điều kiện để người lao động và những người khác có cổ phần; tạo động lực thúc đẩy doanh n...
91 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1044 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh tiến trình cổ phần hoá của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời cám ơn
Với lòng biết ơn sâu sắc em xin trân trọng cám ơn cô giáo TS. Vũ Thị Kim Oanh đã hướng dẫn và giúp đỡ em rất tận tình trong suốt thời gian em làm khoá luận. Em cũng xin gửi lời cám ơn tới thầy giáo TS. Vũ Sỹ Tuấn; các thầy cô giáo khoa Kinh tế Ngoại thương; khoa Tại chức; các cán bộ công tác tại Tổng công ty Dầu khí Việt Nam, công ty Bảo hiểm Dầu khí, công ty Dung dịch khoan và Hoá phẩm Dầu khí; các bạn sinh viên lớp A2CN9 đã giúp đỡ em hoàn thành bản khoá luận tốt nghiệp này.
Hà Nội, ngày 24 tháng 5 năm 2003
Lê Thị Thu Hường
Lời mở đầu
Cổ phần hoá là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường. Mục tiêu của cổ phần hoá trước hết là nhằm thay đổi phương thức quản lý; huy động thêm vốn của cả bên trong lẫn bên ngoài doanh nghiệp để đổi mới công nghệ, tạo thêm việc làm và nâng cao sức cạnh tranh; tạo điều kiện để người lao động và những người khác có cổ phần; tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả; tăng tài sản của Nhà nước; nâng cao thu nhập của người lao động và góp phần tăng trưởng kinh tế, v.v… và tiến trình cổ phần hoá là một yếu tố quan trọng đối với sự thành công và phát triển của thị trường chứng khoán. Vì vậy, cổ phần hoá là một xu thế tất yếu khách quan.
Tổng công ty Dầu khí Việt Nam là một doanh nghiệp lớn của Nhà nước, xu hướng trong tương lai còn là tập đoàn dầu khí Việt Nam. Về phương diện cơ cấu, tập đoàn sẽ là một tổ chức đa ngành, đa chức năng thì việc đa dạng hoá phương thức quản lý xem như một nhu cầu cấp bách. Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước, từ năm 1997, Tổng công ty Dầu khí Việt Nam đã thành lập Ban Đổi mới doanh nghiệp nhằm thúc đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá ở Tổng công ty. Tuy nhiên, cho đến nay kết quả còn dừng lại ở việc một số đơn vị thành viên đang hoàn chỉnh phương án để trình Ban Đổi mới doanh nghiệp Tổng công ty trình lên Ban Đổi mới doanh nghiệp Trung ương. Vì vậy, việc nghiên cứu tìm những giải pháp tích cực cho việc đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá ở Tổng công ty Dầu khí Việt Nam trong giai đoạn tới là cần thiết. Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích và đánh giá thực tiễn và kinh nghiệm cổ phần hoá trong và ngoài nước, thực trạng công tác cổ phần hoá ở Tổng công ty Dầu khí Việt Nam, em đã lựa chọn đề tài: “Những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh tiến trình cổ phần hoá của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam” làm khoá luận tốt nghiệp.
chương I
cơ sở lý luận và thực tiễn về cổ phần hoá
Cơ sở lý luận về cổ phần hoá
1. Công ty cổ phần và việc cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước
1.1. Công ty cổ phần
1.1.1. Sự ra đời của công ty cổ phần là tất yếu khách quan:
Công ty cổ phần là doanh nghiệp trong đó các cổ đông góp vốn kinh doanh và chịu trách nhiệm trong phạm vi phần góp vốn của mình trên cơ sở tự nguyện để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm thu lợi nhuận.
Loại hình công ty cổ phần ra đời từ cuối thế kỷ XVI ở một số nước châu Âu, đến nay đã có lịch sử phát triển mấy trăm năm. Công ty cổ phần là sự hình thành một kiểu tổ chức doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Nó ra đời không nằm trong ý muốn chủ quan của bất cứ lực lượng nào mà là một quá trình kinh tế khách quan do các nguyên nhân sau:
Quá trình xã hội hoá tư bản, tăng cường và tích tụ tập trung tư bản ngày càng cao là nguyên nhân thúc đẩy công ty cổ phần ra đời:
Trong nền sản xuất hàng hoá, quy luật giá trị tác động mạnh đến sự cạnh tranh khốc liệt giữa các nhà tư bản, buộc họ tìm cách cải tiến nâng cao trình độ kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất nhằm sao cho giá trị hàng hoá cá biệt của mình thấp hơn hoặc bằng mức giá trị hàng hoá xã hội, thì mới có thể tiếp tục tồn tại và phát triển. Điều này thường chỉ những nhà tư bản lớn có quy mô sản xuất ở mức độ cao nhất định mới có đủ khả năng để trang bị kỹ thuật hiện đại, làm cho năng suất lao động tăng lên, do đó mới có thể giành thắng lợi trong cạnh tranh. Còn các nhà tư bản nào có giá trị hàng hoá cá biệt cao hơn mức giá trị hàng hoá xã hội thì sẽ bị thua lỗ và bị phá sản. Để tránh những kết cục bi thảm có thể xảy ra trong cạnh tranh, các nhà tư bản vừa và nhỏ phải tự tích tụ vốn để mở rộng quy mô sản xuất và hiện đại hoá các trang thiết bị, tạo điều kiện nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm. Song đây là biện pháp hết sức khó khăn, và hơn nữa việc tích tụ vốn và phải mất một thời gian dài mới có thể thực hiện được. Một lối thoát nhanh hơn, có hiệu quả hơn là các nhà tư bản vừa và nhỏ có thể thoả hiệp và liên minh với nhau, tập trung các tư bản cá biệt của họ lại thành một tư bản lớn đủ sức cạnh tranh và dành ưu thế với các nhà tư bản khác. Từ hình thức tập trung vốn như vậy các công ty cổ phần dần dần hình thành và phát triển ngày càng mạnh mẽ.
Tác động của quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất tạo động lực thúc đẩy công ty cổ phần ra đời và phát triển:
Sự phát triển lực lượng sản xuất và do trình độ kỹ thuật ngày càng cao, đòi hỏi tư bản cố định tăng lên, và vì thế quy mô tối thiểu mà một tư bản phải có để có thể kinh doanh dù trong điều kiện bình thường ngày càng lớn hơn. Mặt khác, do kỹ thuật ngày càng phát triển, làm xuất hiện ngày càng nhiều ngành, nhiều lĩnh vực kinh doanh và những mặt hàng mới có hiệu quả hơn, đã thu hút các nhà tư bản đổ xô vào các ngành, lĩnh vực và các mặt hàng mới này, bằng cách di chuyển tư bản từ các ngành, lĩnh vực và các mặt hàng kinh doanh kém hiệu quả. Điều này càng gây ra nhiều khó khăn cho các nhà tư bản khi thực hiện di chuyển vốn, bởi họ không thể bỗng chốc xoá bỏ ngay các xí nghiệp cũ để thu hồi và chuyển vốn sang xây dựng ngay một doanh nghiệp mới, mà chỉ có thể rút bớt và chuyển dần từng bộ phận mà thôi. Quá trình đó có thể kéo dài và do vậy họ có thể mất thời cơ. Mâu thuẫn như vậy chỉ được giải quyết bằng cách các nhà tư bản cá biệt liên minh với nhau, cùng nhau góp vốn để xây dựng các doanh nghiệp lớn. Cùng chung mục đích đi tìm lợi nhuận cao hơn, họ đã gặp nhau và thoả thuận cùng nhau góp vốn thành lập các công ty cổ phần để cùng kinh doanh.
Sự phân tán tư bản để tránh rủi ro trong cạnh tranh và tạo thế mạnh về quản lý:
Sản xuất ngày càng phát triển, trình độ kỹ thuật càng cao, cạnh tranh càng khốc liệt thì sự rủi ro trong kinh doanh, đe doạ phá sản đối với các nhà tư bản càng lớn. Để tránh gặp phá sản, các nhà tư bản đã phải phân tán tư bản của mình để tham gia vào nhiều tư bản khác biệt, nghĩa là tham gia đầu tư kinh doanh ở nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, nhiều công ty khác nhau. Với cách làm này, một mặt các nhà tư bản tìm cách chia sẻ thiệt hại cho nhiều người khi gặp rủi ro. Nhưng mặt khác do cùng một số đông người tham gia quản lý, tập trung được trí tuệ của nhiều người, công ty cổ phần hạn chế được rủi ro trong kinh doanh. Cho đến nay, công ty cổ phần là hình thức tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh được các nhà tư bản ưa chuộng nhất nên nó được hình thành và ngày càng phát triển mạnh mẽ.
Sự ra đời và phát triển rộng rãi của của các định chế tài chính tạo động lực thúc đẩy công ty cổ phần ra đời và phát triển:
Sự ra đời và phát triển của tín dụng là kết quả tất yếu của quá trình phát triển kinh tế hàng hoá.
Trong nền kinh tế thị trường, tín dụng có vai trò to lớn trong quá trình cạnh tranh, làm giảm chi phí lưu thông và đẩy nhanh quá trình tái sản xuất. Tín dụng còn có vai trò động lực thúc đẩy việc hình thành và phát triển các công ty cổ phần, bởi vì:
Việc phát hành cổ phiếu trong công ty cổ phần không thể nào thực hiện nếu không có thị trường tiền tệ phát triển, nếu không có những doanh nghiệp và dân cư có nhu cầu sử dụng vốn tiền tệ trên thị trường.
Thực tiễn lịch sử ra đời và phát triển của các công ty cổ phần trên thế giới đều chứng tỏ việc phát hành cổ phiếu chỉ được thực hiện thông qua các ngân hàng, đôi khi còn do bản thân ngân hàng tiến hành. Chẳng hạn ở Đức năm 1896, trong ngành công nghiệp điện lực, có 39 công ty cổ phần. Hầu hết các công ty này đều nảy sinh từ sự giúp đỡ của các ngân hàng.
Như vậy, về lịch sử cũng như về logic, tín dụng có trước khi thành lập công ty cổ phần, tín dụng là cơ sở trực tiếp, là động lực thúc đẩy công ty cổ phần ra đời và phát triển.
1.1.2. Những vấn đề chung về công ty cổ phần:
Công ty cổ phần là hình thức tổ chức doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường nó có những đặc trưng cơ bản sau:
Công ty cổ phần là một hình thức tổ chức kinh doanh có tư cách pháp nhân và các cổ đông chỉ có trách nhiệm pháp lý hữu hạn trong phần góp vốn của mình. Điều này cho phép công ty có tư cách pháp lý đầy đủ để huy động những lượng vốn lớn nhằm rải rác thuộc nhiều cá nhân trong xã hội. Vốn của công ty được chia làm nhiều phần bằng nhau gọi là các cổ phần. Cổ phần là phần vốn cơ bản thể hiện một khoản giá trị thực tế tính bằng tiền. Cổ phiếu chứng minh tư cách thành viên của người góp vốn vào công ty cổ phần, những thành viên này gọi là cổ đông.
Như vậy vốn cổ phần là do các cổ đông đóng góp bất cứ ai kể cả tư nhân, Nhà nước và cá nhân dù chỉ mua một cổ phiếu thôi cũng trở thành người chủ sở hữu chung tài sản hợp nhất của công ty cổ phần. Công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ đồng sở hữu. Quyền trách nhiệm và lợi ích của mỗi chủ sở hữu phụ thuộc vào số lượng cổ phiếu của họ trong công ty. Cổ đông nắm được số lượng cổ phiếu khống chế thì có quyền chi phối hoạt động của công ty. Khi muốn thu hồi vốn nhanh, các cổ đông chỉ có cách là bán các cổ phiếu của mình trên thị trường chứng khoán.
Cơ cấu tổ chức và điều hành công ty cổ phần:
Do đặc điểm nhiều chủ sở hữu trong công ty cổ phần, nên các cổ đông không thể trực tiếp thực hiện vai trò chủ sở hữu của mình, mà phải thông qua tổ chức đại diện làm nhiệm vụ trực tiếp quản lý công ty, bao gồm: Đại hội cổ đông, Hội đồng quản trị, Giám đốc điều hành và Ban kiểm soát.
Đại hội cổ đông là cơ quan quyết định cao nhất của công ty là đại hội của những người đồng sở hữu đối với công ty cổ phần.
Hội đồng quản trị là bộ máy quản lý của công ty cổ phần. Hội đồng quản trị bao gồm những thành viên có trình độ chuyên môn cao và quản lý giỏi, để có khả năng hoàn thành tốt các nhiệm vụ do Đại hội đồng cổ đông giao phó. Số thành viên của Hội đồng quản trị do Đại hội cổ đông quyết định và ghi vào Điều lệ công ty.
Giám đốc điều hành là người điều hành hoạt động hàng ngày của công ty và chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị về việc thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn được giao. Về thực chất, Giám đốc điều hành công ty là người làm thuê cho Chủ tịch Hội đồng quản trị, Giám đốc không làm việc theo nhiệm kỳ mà làm việc theo thời hạn hợp đồng ký kết với Chủ tịch hội đồng quản trị.
Công ty cổ phần là hình thức tổ chức kinh doanh dựa trên cơ sở xã hội hoá sản xuất:
Công ty cổ phần là hình thức tổ chức kinh tế thích ứng đòi hỏi của nền sản xuất xã hội hoá. Nó là sự xác định và xác nhận quyền sở hữu tài sản của doanh nghiệp bằng hình thức cổ phần và phân phối lợi tức cổ phần theo mức doanh lợi của công ty. Công ty cổ phần là sự biểu hiện xã hội hoá về mặt kinh tế xã hội, nó phù hợp với tính chất và trình độ xã hội hoá về mặt kinh tế kỹ thuật.
1.1.3. Điều kiện để hình thành công ty cổ phần:
Muốn thành lập công ty cổ phần cần phải có một số điều kiện nhất định, trong đó nhất thiết phải có được các điều kiện:
Tồn tại sở hữu khác nhau về vốn:
Công ty cổ phần thực chất là công ty hợp danh do nhiều thành viên (tức là các cổ đông) tham gia góp vốn để cùng kinh doanh. Các cổ đông của công ty cổ phần có thể là thể nhân hay pháp nhân nghĩa là có thể do các cá nhân hay các tổ chức kinh tế, xã hội có tư cách pháp nhân tham gia. Nhưng các cá nhân hay các tổ chức đó phải độc lập có quyền tự quyếtt định đối với phần vốn của mình. Để có quyền quyết định họ phải là người chủ sở hữu của phần vốn đó, hay nói cách khác họ là những người sở hữu độc lập. Như vậy công ty cổ phần là công ty có nhiều người đồng sở hữu.
Những người có vốn muốn tham gia đầu tư để kinh doanh thu lợi nhuận:
Trong xã hội có thể có nhiều người có vốn nhàn rỗi và ai cũng muốn dùng nó để thu lợi nhuận, nhưng do kinh doanh có nhiều may rủi nên không phải bất cứ ai cũng dám bỏ vốn đầu tư vào kinh doanh. Chỉ có một số người có vốn dám “mạo hiểm” mới góp vốn hình thành công ty cổ phần, và họ trở thành cổ đông. Đây là hình thức đầu tư mạo hiểm nhất so với đầu tư như là: mua công trái, trái phiếu, tiền gửi tiết kiệm v.v.., do kinh doanh có khả năng bị phá sản, nhưng lại là dạng đầu tư có hứa hẹn cao nhất và không bị lạm phát làm sói mòn tiền vốn.
Lợi nhuận thu được phải đủ sức hấp dẫn người có vốn tham gia kinh doanh:
Những người có vốn luôn tìm nơi nào đầu tư có lợi nhất, nên khi có ý định góp vốn vào công ty cổ phần để kinh doanh thu lợi nhuận bao giờ họ cũng so sánh giữa lợi nhuận có thể thu được khi góp vốn vào công ty cổ phần với khoản lợi tức họ thu được, nếu đem số tiền đó gửi vào ngân hàng, hoặc đầu tư lĩnh vực khác. Nếu doanh thu do kinh doanh lớn hơn lợi tức ngân hàng hoặc lợi tức ngân hàng hoặc lợi tức đầu tư vào lĩnh vực khác, lớn hơn đủ mức cần thiết thì người có vốn mới sẵn sàng góp vốn vào công ty cổ phần để tham gia kinh doanh. Nếu ngược lại thì họ sẽ gửi tiền vào ngân hàng hoặc đầu tư vào lĩnh vực khác mà không góp vốn vào công ty cổ phần, do đó công ty cổ phần không thể hình thành được. Như vậy trong kinh doanh, yếu tố rủi ro thường hay xảy ra, làm cho những người có vốn góp vào công ty không thu được doanh lợi mà còn có khi mất cả vốn (trường hợp công ty bị phá sản), còn nếu gửi vào ngân hàng thì chỉ phải chịu ảnh hưởng của yếu tố lạm phát, nhưng ổn định và an toàn cả vốn lẫn lãi.
Phải có sự nhất trí thành lập công ty:
Những người có vốn muốn tham gia kinh doanh phải thoả thuận được với nhau để cùng góp vốn và đứng ra thành lập công ty cổ phần trên cơ sở những quy định của pháp luật. Trong trường hợp những người có vốn muốn tham gia đầu tư để kinh doanh thu lợi nhuận, song họ không thống nhất được với nhau về phương thức góp vốn, phương thức kinh doanh của công ty, phương hướng chiến lược phát triển công ty, quyền đại diện trong bộ máy quản lý, điều hành công ty, phương thức phân phối lợi nhuận v.v... thì công ty không thành lập được.
Vai trò của công ty cổ phần:
Công ty cổ phần là một hình thức tổ chức doanh nghiệp phổ biến trong nền kinh tế thị trường, có vai trò to lớn trong quá trình phát triển kinh tế, góp phần hoàn thiện cơ chế thị trường. Kiểu tích tụ theo kiểu công ty cổ phần bằng cách thu hút được các nguồn vốn của đông đảo các nhà đầu tư và tiết kiệm của quảng đại quần chúng, lại cho phép tăng quy mô rất nhanh. Mác đánh giá vai trò này của công ty cổ phần: “Nếu như cứ phải chờ cho đến khi tích luỹ làm cho một nhà tư bản riêng lẻ lớn lên đến mức có thể đảm đương việc xây dựng đường sắt thì có lẽ đến ngày nay thế giới vẫn chưa có đường sắt. Ngược lại, qua công ty cổ phần sự tập trung đã thực hiện việc đó trong nháy mắt”.
Công ty cổ phần có thời gian tồn tại là vô hạn (nếu không có quy định thời gian hoạt động và loại trừ trường hợp bị phá sản) vì vốn góp cổ phần có sự độc lập nhất định đối với các cổ đông. Người bỏ tiền ra mua cổ phiếu của công ty cổ phần không có quyền rút vốn mà chỉ có quyền sở hữu cổ phiếu. Các cổ phiếu có thể tự do mua bán trên thị trường và được thừa kế. Vì vậy, khác với loại công ty khác, vốn cổ phiếu đã được góp tồn tại với quá trình “sống” của công ty, còn chủ sở hữu có thể thay đổi. Sự tồn tại của công ty cổ phần không bị ảnh hưởng bởi các cổ đông chết hay tù tội.
Công ty cổ phần tạo điều kiện tập hợp được nhiều lực lượng khác nhau vào hoạt động chung nhưng vẫn tôn trọng sở hữu riêng về quyền, trách nhiệm và lợi ích của các cổ đông theo mức góp vốn. Mở rộng sự tham gia của các cổ đông vào công ty cổ phần, đặc biệt là người lao động là cách để họ tham gia vào hoạt động của công ty với tư cách là người chủ sở hữu đích thực chứ không phải với tư cách là người làm thuê. Đây là vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong công tác quản lý.
1.1.4. Lịch sử và con đường hình thành công ty cổ phần
Lịch sử hình thành công ty cổ phần:
Công ty cổ phần ra đời trên cơ sở nền sản xuất xã hội hoá đặc biệt là xã hội hoá về vốn, quan hệ tín dụng phát triển, quan hệ thị trường hình thành đầy đủ. Trải qua vài trăm năm, công ty cổ phần đã phát triển ở hầu hết các nước tư bản theo xu hướng từ giản đơn đến phức tạp, từ quy mô nhỏ đến quy mô lớn, từ một lĩnh vực đến nhiều lĩnh vực, từ một ngành đến đa ngành, từ một quốc gia đến các công ty xuyên quốc gia.
Con đường hình thành công ty cổ phần:
Công ty cổ phần là một tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân do nhiều người cùng thoả thuận lập nên, trên cơ sở tự nguyện góp tài sản hoặc khả năng của mình để tiến hành các hoạt động chung nhằm thu lợi nhuận. Có hai hướng để thành lập công ty cổ phần:
- Thành lập công ty cổ phần mới
- Cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước để hình thành công ty cổ phần.
I.1.5. Tính tất yếu của việc cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước
Việc đề ra những mục tiêu nhằm đưa đến thực hiện đa dạng hoá sở hữu về tư liệu sản xuất gắn liền với sự phát triển của lực lượng sản xuất, của phân công lao động trong xã hội là điều tất yếu, là quá trình “lịch sử - tự nhiên” và là một quy luật phát triển của xã hội. Đó cũng là quá trình xã hội hoá sản xuất cả về mặt lực lượng sản xuất lẫn quan hệ sản xuất. Quá trình xã hội hoá về mặt lực lượng sản xuất, chính là quá trình phân công lao động xã hội ngày càng sâu sắc trong mỗi nước cũng như trên phạm vi quốc tế và khu vực. Còn xã hội hoá về quan hệ sản xuất (quan hệ sở hữu) là quá trình ngày càng đa dạng hoá các hình thức sở hữu. Tiến hành cổ phần hoá về thực chất là quá trình chuyển đổi sở hữu để thực sự đưa các doanh nghiệp Nhà nước có chỗ đứng vững và tồn tại trong cơ chế thị trường. Đa dạng hoá sở hữu tạo động lực mạnh mẽ cho các nhà đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi để cơ cấu lại nền kinh tế, thực hiện quyền làm chủ thật sự của người lao động trong xí nghiệp, khuyến khích cạnh tranh đặc biệt là nâng cao hiệu quả hoạt động kinh tế và phát triển kinh tế thị trường.
Chính vì vậy, Nghị định số 44 - 1998/NĐ - CP ngày 29/6/1998 của Chính phủ nêu rõ: Chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần nhằm các mục tiêu sau:
Huy động vốn của toàn bộ xã hội, bao gồm cá nhân, các tổ chức kinh tế tổ chức xã hội trong nước và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ, tạo thêm việc làm, phát triển doanh nghiệp, nâng cao sức cạnh tranh, thay đổi cơ cấu doanh nghiệp nhà nước.
Tạo điều kiện để người lao động trong doanh nghiệp có cổ phần và những người đã góp vốn được làm chủ thực sự; thay đổi phương thức quản lý tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, tăng tài sản Nhà nước, nâng cao thu nhập của người lao động, góp phần tăng trưởng kinh tế đất nước.
2. Cổ phần hoá và thị trường chứng khoán
2.1. Thị trường tài chính
Khái niệm, cấu trúc của thị trường tài chính:
Khái niệm thị trường tài chính:
Thị trường tài chính là thị trường trong đó nguồn tài chính được chuyển từ người có vốn dư thừa sang người thiếu vốn. Thị trường tài chính là tổng hoà các quan hệ cung cầu về vốn.
Chức năng cơ bản nhất của thị trường tài chính là dẫn vốn từ người dư thừa vốn tới người cần vốn, ngoài ra nó còn thể hiện chức năng giám sát thông qua sự vận động của các nguồn tài chính.
Phân loại thị trường tài chính:
Dựa vào các tiêu thức khác nhau ta có thể phân loại thị trường tài chính như sau:
Dựa vào việc mua bán chứng khoán lần đầu (chứng khoán mới) và mua bán chứng khoán sau khi phát hành lần đầu người ta chia làm thị trường cấp 1 và thị trường cấp 2.
Thị trường cấp 1 (thị trường sơ cấp): là thị trường tài chính trong đó những phát hành mới của chứng khoán được tổ chức phát hành bán cho người mua đầu tiên.
Thị trường cấp 2 (thị trường thứ cấp): là thị trường tài chính nơi diễn ra các hoạt động mua bán lại các chứng khoán đã được phát hành trên thị trường cấp 1.
Dựa vào phương thức giao dịch trên thị trường tài chính, thị trường cấp 2 được chia làm hai loại: Sở giao dịch và thị trường phi tập trung.
Căn cứ vào bản chất, chức năng và phương thức hoạt động của các chủ thể tài chính và các công cụ tài chính giao dịch trên đó, hệ thống tài chính được phân làm 3 thị trường cơ bản: Thị trường tiền tệ, thị trường hối đoái và thị trường vốn.
Thị trường tiền tệ: Là thị trường phát hành và mua bán lại các công cụ tài chính ngắn hạn, thông thường dưới 1 năm như tín phiếu kho bạc, khoản vay ngắn hạn giữa các ngân hàng, thoả thuận mua bán lại, chứng chỉ tiền gửi, thương phiếu v.v...
Thị trường hối đoái: Là nơi giao dịch các công cụ tài chính tương đối ngắn hạn, nhưng chúng được định giá bằng các loại đồng tiền khác nhau, và ở thị trường hối đoái cũng chỉ có các giao dịch giữa các đồng tiền khác nhau mới được thực hiện.
Thị trường vốn (thị trường chứng khoán): Là thị trường phát hành và mua bán lại các công cụ tài chính có kỳ hạn trên 1 năm hay chính là nơi giải quyết quan hệ cung cầu về vốn dài hạn.
2.1.2. Tiết kiệm, đầu tư và lưu chuyển vốn trên thị trường tài chính
Đầu tư là việc sử dụng một khoản tiền nhất định vào một việc nhất định nhằm mục đích thu lại một khoản tiền lớn hơn.
Tiết kiệm là một phần thu nhập quốc dân chưa cần sử dụng cho nhu cầu hiện tại.
Thị trường tài chính có ý nghĩa quan trọng trong việc phân phối các nguồn tài chính. Thông qua hoạt động của các chủ thể trên thị trường tài chính, các nguồn tài chính được luân chuyển để cung và cầu về vốn gặp nhau. Quá trình luân chuyển vốn trên thị trường tài chính làm tăng quá trình chuyển tiết kiệm thành đầu tư. Quá trình luân chuyển vốn trên thị trường tài chính thể hiện ở Sơ đồ 1:
tài chính gián tiếp
Những trung gian tài chính
Những người cho vay
(Người tiết kiệm)
1. Các gia đình
2. Các hãng kinh doanh
3. Chính phủ
4. Người nước ngoài
Những người đi vay (người chi tiêu)
1. Các hãng kinh doanh
2. Chính phủ
3. Các gia đình
4. Người nước ngoài
Các
thị trường tài chính
Vốn
Vốn
Vốn
Vốn
Vốn
Vốn
Những trung gian tài chính
Vốn
tài chính trực tiếp
Sơ đồ 1: Những dòng vốn đi qua hệ thống tài chính
2.2. Thị trường chứng khoán
Khái niệm
Thị trường chứng khoán là một bộ phận của thị trường tài chính mà tại đó diễn ra việc mua bán các công cụ tài chính dài hạn.
Vai trò của thị trường chứng khoán trong nền kinh tế thị trường
Huy động vốn cho nền kinh tế:
Khi các nhà đầu tư mua chứng khoán do các công ty phát hành, số tiền nhàn rỗi của họ được đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh và qua đó góp phần mở rộng sản xuất xã hội. Bằng cách hỗ trợ các hoạt động đầu tư của công ty, thị trường chứng khoán đã có những tác động hỗ trợ quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Thông qua thị trường chứng khoán, Chính phủ và chính quyền ở các địa phương cũng huy động được các nguồn vốn cho mục đích sử dụng và đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế, phục vụ các nhu cầu chung của toàn xã hội.
Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng:
Thị trường chứng khoán cung cấp cho công chúng một môi trường đầu tư lành mạnh và các cơ hội lựa chọn phong phú. Có nhiều loại chứng khoán trên thị trường với các mức độ rủi ro hết sức khác nhau để các nhà đầu tư có thể lựa chọn cho phù hợp với khả năng và sở thích của mình. Chính vì vậy, thị trường chứng khoán góp phần đáng kể làm tăng mức tiết kiệm quốc gia.
Cung cấp khả năng thanh khoản cho các chứng khoán:
Nhờ có thị trường chứng khoán các nhà đầu tư có thể chuyển đổi các chứng khoán họ sở hữu thành tiền mặt hoặc các loại chứng khoán khác khi họ muốn. Khả năng thanh khoản (khả năng chuyển đổi thành tiền mặt) là một trong những yếu tố cho thấy tính linh hoạt, an toàn của vốn đầu tư. Chức năng cung cấp khả năng thanh khoản cho các chứng khoán là chức năng quan trọng đảm bảo cho thị trường chứng khoán hoạt động một cách năng động và có hiệu quả.
Đánh giá giá trị của doanh nghiệp và của nền kinh tế:
Thị trường chứng khoán là nơi đánh giá giá trị của doanh nghiệp và của cả nền kinh tế một cách tổng hợp và chính xác (kể cả giá trị hữu hình và vô hình) thông qua chỉ số giá chứng khoán trên thị trường. Từ đó tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, kích thích áp dụng công nghệ mới, cải tiến sản phẩm.
Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô:
Thị trường chứng khoán là thị trường nơi cung và cầu vốn dài hạn gặp nhau. Trên thị trường chứng khoán giá cả các chứng khoán phản ánh sự phát triển của các doanh nghiệp nói riêng và các ngành kinh tế nói chung, giá cả chứng khoán tăng lên cho thấy đầu tư đang mở rộng, nền kinh tế tăng trưởng; và ngược lại giá chứng khoán giảm sẽ cho thấy các dấu hiệu tiêu cực của nền kinh tế. Chính vì vậy, thị trường chứng khoán được gọi là phong vũ biểu của nền kinh tế và là một công cụ quan trọng giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô. Thông qua thị trường chứng khoán, Chính phủ có thể mua và bán trái phiếu Chính phủ để tạo ra nguồn thu bù đắp thâm hụt ngân sách và quản lý lạm phát. Ngoài ra, Chính phủ cũng có thể sử dụng một số chính sách, biện pháp tác động vào thị trường chứng khoán nhằm định hướng đầu tư đảm bảo cho sự phát triển cân đối nền kinh tế.
2.3. Quan hệ tác động qua lại giữa tiến trình cổ phần hoá với sự phát triển thị trường chứng khoán
Việc ra đời các công ty cổ phần với việc phát hành các loại chứng khoán và cùng với việc chuyển nhượng, mua bán chứng khoán đến một mức độ nhất định sẽ tạo điều kiện cho sự ra đời thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán ra đời là nơi để cho các nhà kinh doanh có thể tìm kiếm được các nguồn tài trợ cho hoạt động đầu tư sản xuất kinh doanh; là nơi khai thông nguồn tiết kiệm của những người tích luỹ đến các nhà đầu tư; là cơ chế phân bổ các nguồn đầu tư theo yêu cầu của nền kinh tế thị trường; và là cơ sở quan trọng để Nhà nước thông qua đó để sử dụng các chính sách tiền tệ can thiệp vào hoạt động của nền kinh tế nhằm đạt được những mục tiêu lựa chọn. Thiếu thị trường chứng khoán không có nền kinh tế thị trường phát triển. Song sự ra đời của thị trường chứng khoán không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người, mà kết quả của sự phát triển chung về kinh tế xã hội, trong đó sự ra đời và phát triển, hoạt động hoàn hảo của các công ty cổ phần giữ vai trò quyết định.
Chương trình cổ phần hoá tạo ra hàng hoá đáp ứng được các yêu cầu về số lượng và chất lượng để giao dịch trên thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán tạo ra môi trường không thể thiếu cho chương trình cổ phần hoá thành công vững chắc đồng thời việc cổ phần hoá cũng tạo động lực phát triển thị trường chứng khoán. Sự hình thành thị trường chứng khoán và chương trình cổ phần hoá có mối quan hệ mật thiết với nhau. Một mặt cần đẩy nhanh tốc độ cổ phần hoá các DNNN thuộc diện cổ phần hoá, mặt khác cần lựa chọn một số doanh nghiệp có quy mô vốn lớn, kinh doanh có lãi, có định hướng phát triển trong tương lai để phát hành cổ phiếu hoặc trái phiếu dài hạn nhằm huy động vốn.
II. Vai trò cổ phần hoá đối với sự phát triển của Việt Nam và Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam
1. Vai trò cổ phần hoá đối với sự phát triển của Việt Nam
1.1. Tổng quan về nền kinh tế Việt Nam
1.1.1.Tình hình kinh tế - xã hội qua 10 năm 1991 - 2000:
Nền kinh tế có bước phát triển mới về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và hội nhập kinh tế, tăng được thế và lực hơn hẳn 10 năm trước, khắc phục được một tình trạng nước nghèo và kém phát triển, nâng cao khả năng độc lập tự chủ, tạo thêm điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Đánh giá chung 10 năm thực hiện Chiến lược 1991 - 2000, chúng ta đã giành được những thành tựu to lớn và rất quan trọng:
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) sau 10 năm tăng gấp đôi; Giá trị sản lượng các ngành sản xuất đều đạt và vượt chỉ tiêu phấn đấu, đặc biệt là nông nghiệp trong cả hai kỳ kế hoạch 5 năm 1991 - 1995 và 1996 - 2000 đều tăng trưởng cao hơn chỉ tiêu đề ra. Sản lượng lương thực bình quân đầu người từ 330 kg năm 1990 tăng lên 370 kg năm 1995; 435 kg năm 2000. Từ tình trạng khan hiếm, sản xuất không đáp ứng đủ nhu cầu thiết yếu, nay bảo đảm đủ lương thực, thực phẩm, nhiều loại hàng tiêu dùng, có dự trữ xuất khẩu ngày càng tăng; cung cấp đủ năng lượng và phần lớn vật liệu xây dựng.
Tích luỹ nội bộ của nền kinh tế - xã hội được tăng cường rõ rệt. Năng lực của hầu hết các ngành sản xuất, dịch vụ đều tăng. Cơ cấu nền kinh tế có bước chuyển dịch tích cực; nền nông nghiệp đã chuyển sang sản xuất hàng hoá trên hầu hết khắp các vùng; trong GDP, tỷ trọng nông nghiệp từ 38,7% giảm xuống còn 25%, công nghiệp tăng từ 22,7% lên 34,5%, dịch vụ tăng từ 38,6% lên 40,5%. Các vùng kinh tế trọng điểm, các khu công nghiệp bước đầu phát huy tác dụng; các vùng nghèo, có nhiều khó khăn được hỗ trợ phát triển khá hơn.
Quan hệ sản xuất có bước chuyển quan trọng trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế nhà nước giữ được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế; DNNN đã có bước sắp xếp, đổi mới và phát triển, hình thành các tổng công ty lớn trong nhiều lĩnh vực then chốt. Các thành phần kinh tế khác phát triển khá nhanh. Thể chế quản lý và phân phối được chuyển đổi phù hợp hơn với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Kim ngạch xuất khẩu sau 10 năm tăng gấp 6 lần, nhanh gấp 3 tốc độ tăng GDP; một số sản phẩm như gạo, cà phê, thuỷ sản đã giành được thị phần đáng kể trên thị trường thế giới. Đầu tư trực tiếp của nước ngoài đã được thực hiện trong 10 năm khoảng 15 tỷ USD, chiếm 1/4 tổng đầu tư toàn xã hội, thu hút trên 30 vạn lao động trực tiếp, năm 2000 tạo ra 22% kim ngạch xuất khẩu, 10% GDP. Trong 5 năm 1996 - 2000, nguồn tài trợ (đại bộ phận là cho vay ưu đãi) của Chính phủ các nước và các tổ chức quốc tế đã giải ngân được 6,1 tỷ USD, tập trung chủ yếu cho việc xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội.
Bên cạnh những thành tựu, vẫn còn những mặt yếu kém, bất cập, chưa đáp ứng tốt yêu cầu phát triển, chưa tương xứng với tiềm năng của nhân dân, đất nước. Cụ thể là:
Nhịp độ tăng trưởng kinh tế mấy năm gần đây chậm dần; năm 2000 chiều hướng tăng lên nhưng chưa đạt mức tăng trưởng cao như giữa thập kỷ 90. Nền kinh tế còn kém hiệu quả và sức cạnh tranh, chất lượng tăng trưởng còn thấp. Một số sản phẩm khó tiêu thụ, không phát huy được năng lực sản xuất. Tích luỹ nội bộ nền kinh tế và sức mua trong nước còn thấp. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm. Cơ cấu đầu tư còn nhiều bất hợp lý. Xu hướng bao cấp và bảo hộ còn nặng.
Môi trường đầu tư, kinh doanh còn nhiều vướng mắc. Lực lượng sản xuất chưa được giải phóng triệt để và chưa phát triển mạnh. Các yếu tố của kinh tế thị trường chưa được tạo lập đồng bộ. Chưa tạo được chuyển biến lớn trong việc đổi mới và phát triển DNNN. Sự phát triển kinh tế hợp tác còn yếu. Các thành phần kinh tế khác chưa thực sự yên tâm đầu tư lâu dài vào sản xuất. Đầu tư nước ngoài mấy năm gần đây giảm mạnh.
Một số cân đối tổng thể nền kinh tế còn thiếu vững chắc. Hệ thống kế hoạch, tài chính, ngân hàng đổi mới và phát triển chậm, chất lượng thấp, chưa tạo điều kiện và hỗ trợ tốt các thành phần kinh tế phát triển sản xuất, kinh doanh. Cơ chế, chính sách phân phối còn nhiều mặt chưa hợp lý, chưa tạo động lực thúc đẩy tiết kiệm, đầu tư phát triển.
Mục tiêu và định hướng phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 -2010:
Mục tiêu: Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tập trung xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng quan trọng với công nghệ cao, sản xuất tư liệu sản xuất cần thiết để trang bị và trang bị kỹ thuật, công nghệ tiên tiến cho các ngành nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ và đáp ứng nhu cầu quốc phòng, đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển và xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Chất lượng đời sống vật chất, văn hoá và tinh thần của nhân dân dược nâng lên một mức đáng kể. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được định hình về cơ bản. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường. Vị thế trong quan hệ quốc tế được củng cố và nâng cao.
Định hướng phát triển:
Phát triển nhanh chóng và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường.
Xây dựng nền tảng cho một nước công nghiệp là nhiệm vụ trọng tâm trong thời kỳ chiến lược.
Đẩy mạnh công cuộc đổi mới, tạo động lực phát huy cao độ mọi nguồn lực.
Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Kết hợp chặt chẽ kinh tế xã hội với quốc phòng, an ninh.
1.2. Vai trò và thực trạng của DNNN
Sự tồn tại của DNNN ở Việt Nam cũng như các nước trên thế giới chứng tỏ sự cần thiết khách quan của nó đối với nền kinh tế và do đó DNNN trở thành một bộ phận quan trọng và cần thiết trong cơ cấu kinh tế của mỗi nước.
Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, trong đó có DNNN, trước hết phản ánh tính lịch sử trong việc hình thành và phát triển của kinh tế Việt Nam sau ngày miền Bắc được giải phóng với đặc trưng sự phát triển ồ ạt các DNNN. ở Việt Nam trong những năm đổi mới, chính sách kinh tế nhiều thành phần đã mở đường cho sự phát triển mạnh mẽ của loại hình doanh nghiệp thuộc các hình thức sở hữu khác nhau. Song thực tiễn cho hay rằng, DNNN vẫn giữ vị trí quan trọng và trên một số lĩnh vực thì chưa có thành phần tư nhân nào thay thế được DNNN. Xét về góc độ tăng trưởng trong 5 năm qua, tốc độ tăng trưởng của GDP của kinh tế quốc doanh tăng gần gấp rưỡi tốc độ tăng trưởng bình quân toàn nền kinh tế và gần gấp đôi kinh tế ngoài quốc doanh. Tỷ trọng giá trị tổng sản lượng của DNNN trong GDP tăng từ 36,5% năm 1991 lên 41,9% năm 1995. Doanh nghiệp nhà nước vẫn là nguồn thu quan trọng của ngân sách nhà nước, chiếm tỷ trọng khoảng 60% tổng thu ngân sách Nhà nước và khoảng 70% tổng thu ngân sách từ các loại hình doanh nghiệp.
Tuy nhiên, sau khi nghiên cứu các số liệu thống kê về tình hình DNNN và xem xét các nguyên nhân khách quan cũng như chủ quan có thể rút ra kết luận về thực trạng DNNN ở nước ta hiện nay:
- Thiếu vốn;
- Số lượng các doanh nghiệp còn quá nhiều và bố trí không hợp lý;
- Quy mô các doanh nghiệp còn nhỏ bé;
- Trình độ kỹ thuật và công nghệ ở các doanh nghiệp còn lạc hậu;
- Hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước còn thấp.
1.3. Sự cần thiết phải cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước:
Cổ phần hoá DNNN là một trong những giải pháp cơ bản để đổi mới DNNN. Cổ phần hoá DNNN sẽ giải quyết những vấn đề cơ bản sau:
Cổ phần hoá DNNN nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của DNNN:
Tình trạng hiệu quả kinh doanh thấp của DNNN là do cơ chế quản lý doanh nghiệp đã có đổi mới nhưng chưa thích ứng với điều kiện chuyển sang kinh tế thị trường. Các doanh nghiệp vẫn được hình thành và phát triển trên cơ sở nguồn vốn cấp phát của ngân sách Nhà nước và do đó, tất cả các hoạt động vẫn chịu sự kiểm soát và chi phối trực tiếp của Nhà nước. Cổ phần hoá DNNN được xem là giải pháp cơ bản để giải quyết vấn đề kém hiệu quả của khu vực kinh tế nhà nước. Lợi ích của Nhà nước trong việc cổ phần hoá DNNN được thể hiện ở một số mặt sau:
Công ty cổ phần hoạt động sản xuất kinh doanh cao hơn DNNN vì vậy phần lợi nhuận thu được từ đồng vốn đầu tư của Nhà nước sẽ cao hơn trước.
Bằng việc bán một phần sở hữu của mình mà Nhà nước có thể thu hồi vốn để đầu tư vào lĩnh vực khác.
Nhờ việc tham gia vào quản lý công ty cổ phần mà Nhà nước đào tạo được một đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế của Nhà nước ngày càng thích ứng với cơ chế thị trường.
Cổ phần hoá để đổi mới phương thức tạo vốn:
ở nước ta, kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước đã từng bước thay thế nền kinh tế bao cấp. Đặc trưng của nền kinh tế Việt Nam khi chuyển sang kinh tế thị trường là: Khu vực kinh tế quốc doanh chiếm tỷ trọng lớn nhưng việc chuyển đổi còn chậm. Thời gian qua ngân sách Nhà nước đã phải đầu tư một tỷ trọng vốn lớn cho DNNN nhưng hiệu quả thu lại rất thấp trong khi ngân sách Nhà nước lại có hạn và dàn trải cho nhiều khoản chi tiêu khác. Để xử lý tình trạng thiếu vốn và tạo cơ chế quản lý tài chính có hiệu lực, thực sự ràng buộc trách nhiệm trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNNN thì giải pháp cần làm là thực hiện cổ phần hoá một số DNNN.
Nhờ cổ phần hoá sẽ huy động các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội một cách nhanh chóng để phát triển sản xuất kinh doanh. Khi doanh nghiệp làm ăn có lãi thì nguồn vốn dồi dào trong dân cư sẽ đổ vào nơi có lợi nhuận cao, làm cho các doanh nghiệp cổ phần hoá ngày càng có vốn lớn, từ đó điều kiện trang bị kỹ thuật hiện đại hơn, mở rộng sản xuất.
Như vậy, có thể thấy rõ ưu thế của công ty cổ phần trong việc huy động vốn. Trong quá trình hoạt động, công ty cổ phần được phát hành các loại chứng khoán như cổ phiếu, trái phiếu ra công chúng để huy động vốn. Các cổ phiếu và trái phiếu của công ty cổ phần được chuyển nhượng dễ dàng trên thị trường chứng khoán, do đó doanh nghiệp vẫn được duy trì, đồng thời tạo nên sự di chuyển linh hoạt các nguồn vốn xã hội.
Nâng cao vai trò làm chủ thực sự của người lao động trong doanh nghiệp:
Thực tế cho thấy ở các DNNN trước đây vai trò làm chủ của người lao động rất hạn chế. Dân chủ chỉ là hình thức. Sở hữu toàn dân trong các doanh nghiệp đã hình thành một cơ cấu phức tạp có tính chất thứ bậc mà người lao động có thứ bậc thấp nhất, họ không có vai trò gì trong quản lý và điều hành doanh nghiệp.
Khi mua cổ phiếu của công ty, người lao động sẽ trở thành cổ đông và có quyền tham gia quản lý doanh nghiệp như tham dự Đại hội cổ đông để bầu các thành viên Hội đồng quản trị và thành viên Ban kiểm soát, tham gia biểu quyết các vấn đề liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh thuộc thẩm quyền Đại hội cổ đông. Do vậy, với mô hình công ty cổ phần, vai trò làm chủ của người lao động sẽ được khẳng định. Người lao động cũng là người sở hữu phần vốn của mình trong doanh nghiệp.
Cổ phần hoá DNNN sẽ làm thay đổi phương thức quản lý điều hành doanh nghiệp:
Khi chuyển sang hình thức công ty cổ phần, công việc quản lý kinh doanh của công ty được tách ra và giao cho những chuyên gia có kinh nghiệm trong quản lý và điều hành công ty. Theo Luật Doanh nghiệp, tổ chức trong nội bộ công ty cổ phần bao gồm Đại hội cổ đông, Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát công ty. Mô hình quản lý tổ chức này đã thể hiện sự phân định rõ quyền hạn và trách nhiệm của người sở hữu và người sử dụng tài sản của công ty để kinh doanh, mà còn tạo điều kiện để thực sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ các hoạt động kinh doanh của công ty.
Tạo cơ sở thúc đẩy quá trình ra đời, hoàn thiện và phát triển thị trường tiền tệ, chứng khoán ở Việt Nam:
Việc tạo hàng hoá cho thị trường chứng khoán đang là vấn đề hết sức khó khăn trong thời điểm hiện nay khi mà phần lớn các công ty cổ phần ở nưóc ta có quy mô nhỏ không đáp ứng được điều kiện niêm yết. Sự thành công và phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam phụ thuộc vào một yếu tố rất quan trọng đó là tiến trình cổ phần hoá DNNN - tiến trình tạo ra hàng hoá đủ tiêu chuẩn và chất lượng cho hoạt động của thị trường chứng khoán.
2. Vai trò cổ phần hoá đối với sự phát triển của Tổng Công ty Dầu khí VN
2.1. Mục tiêu và chiến lược phát triển của Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam:
Mục tiêu phát triển của ngành Dầu khí Việt Nam từ nay cho đến năm 2020 là: Phấn đấu xây dựng Ngành Dầu khí Việt Nam phát triển toàn diện, đưa Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam trở thành một tập đoàn kinh tế mạnh, hoat động đa ngành, tham gia tích cực và bình đẳng vào quá trình hội nhập khu vực và quốc tế, đảm bảo an ninh nhiên liệu, năng lượng, cung cấp phần lớn các sản phẩm hoá dầu cho đất nước, đồng thời tích cực góp phần bảo vệ chủ quyền quốc gia, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường sinh thái.
Để đạt được các mục tiêu đó, những định hướng lớn đến năm 2020 của Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam là:
Tiếp tục đẩy mạnh công tác tìm kiếm thăm dò dầu khí nhằm sớm xác định tiềm năng dầu khí của đất nước, làm cơ sở cho việc hoạch định chiến lược phát triển ngành Dầu khí.
Tích cực gia tăng sản lượng khai thác dầu khí, góp phần đảm bảo cân đối quốc gia, đồng thời tạo tiền đề phát triển toàn diện ngành công nghiệp dầu khí của đất nước.
Đẩy mạnh khâu chế biến dầu khí nhằm từng bước đảm bảo nhiên liệu cho phát triển đất nước, đồng thời cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp hoá dầu, đặc biệt là nguyên liệu sản xuất sợi tổng hợp cho ngành công nghiệp dệt và may mặc, sản xuất phân đạm, chất nổ, chất dẻo, nguyên liệu cho các ngành công nghiệp như dầu nhờn, nhựa đường, chất tổng hợp v.v...
Phát triển công tác dịch vụ dầu khí nhằm đảm bảo cung cấp 60 - 70% dịch vụ cho nhu cầu công nghiệp dầu khí. Song song với phát triển dịch vụ kỹ thuật trong ngành, Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam tích cực hỗ trợ các bộ, ngành, địa phương tham gia ngày càng nhiều vào cung cấp dịch vụ cho dầu khí từ khâu tìm kiếm thăm dò đến chế biến, vận chuyển dầu khí.
Từng bước phát triển ra nước ngoài cả về thăm dò khai thác, dịch vụ và thương mại nhằm đảm bảo nguồn cung cấp dầu khí lâu dài cho đất nước.
Phát huy nội lực, kết hợp khéo léo với hợp tác đầu tư nước ngoài, hội nhập bình đẳng vào cộng đồng khu vực và quốc tế.
2.2. Xây dựng hệ thống các công ty cổ phần dầu khí là yêu cầu khách quan trong việc xây dựng Tập đoàn Dầu khí Việt Nam:
Với chiến lược xây dựng tập đoàn kinh tế dầu khí đa ngành và đa sở hữu mà Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam giữ vai trò chủ đạo, hệ thống các ông ty cổ phần sẽ là một bộ phận quan trọng.
Trong tính chất đa ngành, đa chức năng của một tập đoàn kinh tế có những chức năng chủ yếu và trọng yếu đòi hỏi phải tập trung đầu tư, đồng thời còn chức năng hỗ trợ và dịch vụ có vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ cho các hoạt động chính và gia tăng hiệu quả hoạt động của Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam cũng như đem lại lợi ích chung cho nền kinh tế quốc dân mà nhu cầu về vốn đầu tư không nhỏ. Không thể dàn trải nguồn vốn tự tích luỹ còn rất hạn chế cũng như lạm dụng nguồn vốn vay tín dụng làm gia tăng quá mức tỷ lệ nợ/ vốn chủ sở hữu của Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam lên trên mức an toàn cho phép để đảm bảo nhu câù đầu tư của tất cả các mục tiêu. Vì lẽ đó, việc cổ phần hoá và gọi vốn cổ phần cho đầu tư phát triển tập đoàn dầu khí cũng như việc đầu tư tham gia cổ phần trong các doanh nghiệp khác theo mục tiêu của mình là một đòi hỏi tất yếu.
Cổ phần hoá một bộ phận các doanh nghiệp của Tổng Công ty Dầu khí Việt nam vừa là để tạo thêm nguồn vốn cho đầu tư vừa là sáng tạo ra sản phẩm có sức thu hút cao cho thị trường chứng khoán để tiếp tục tạo ra các nguồn vốn bổ sung không chỉ cho lĩnh vực doanh nghiệp cổ phần hoá, mà còn tập trung đưa thêm vốn cho các lĩnh vực đầu tư trọng yếu.
Trong điều kiện thiếu vốn, muốn đẩy mạnh sự tăng trưởng thì việc thu hút các doanh nghiệp khác vào mình thông qua sáp nhập, tham gia cổ phần lẫn nhau là một cách làm nhanh nhất và phải thừa nhận rõ ràng vừa có khả năng đáp ứng nhanh về nguồn vốn, vừa là quan điểm chia sẻ, hỗ trợ ngành Dầu khí đối với sự phát triển của nền kinh tế. Đây là phương thức riêng của Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam trong việc sử dụng vị thế tài chính và kinh doanh của mình để thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước về cổ phần hoá, đổi mới DNNN và xây dựng Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam thành Tập đoàn Dầu khí.
III. thực tiễn và kinh nghiệm triển khai cổ phần hoá ở một số nước trên thế giới
1. Thực tiễn và kinh nghiệm cổ phần hoá và tư nhân hoá ở các nước có nền kinh tế phát triển ở phương Tây và Nhật Bản (1947 - 2000)
Tham khảo kinh nghiệm của các nước phương Tây là việc rất tế nhị - các nền kinh tế phương Tây đi theo con đường tư bản chủ nghĩa, có trình độ phát triển thị trường cao, từ sau chiến tranh thế giới lần II, đã chuyển biến liên tục sang hướng phát triển tư bản chủ nghĩa hiện đại, với một loạt vấn đề thực tiễn và lý luận chưa được nghiên cứu đẩy đủ ngay cả ở phương Tây. Kinh nghiệm đã xảy ra khá lâu trước đây (và kinh nghiệm từ các cơ cấu kinh tế hoàn toàn khác với kinh tế Việt Nam hiện nay) cũng đặt ra các vấn đề thời gian, hoàn cảnh, trình độ và các hình thái phát triển cần được đối chiếu, so sánh nhằm phát hiện các điểm có ích cho hoàn cảnh hiện tại. Trình độ cổ phần hoá và tư hữu hoá hiện nay tại các nền kinh tế phát triển nhất không còn mang bản chất kinh tế học tân cổ điển - Keynesian nữa: Các nhân tố của nền kinh tế mới (kinh tế tri thức) đã trở thành cơ sở mới cho quá trình tư hưũ hoá và cổ phần hoá. Các chính phủ Mỹ, Đức, Pháp, Nhật có quyền can thiệp vào một số hoạt động của các doanh nghiệp tư nhân, ví dụ can thiệp vào các kế hoạch mua, bán cổ phần, sáp nhập v à giải thể doanh nghiệp. Về lý luận và thực tiễn, người ta đã từng biết tới các nguyên tắc và thực tiễn quá độ từ chủ nghĩa tư bản sang chủ nghĩa xã hội, chứ chưa biết nhiều về lý luận và nguyên tắc chuyển đổi từ chủ nghĩa xã hội sang kinh tế thị trường, nhất là kinh tế thị trường mang các đặc trưng của chủ nghĩa tư bản hiện đại.
Tư hữu hoá và cổ phần hoá ở phương Tây diễn ra trong các khung cảnh phát triển, không hoàn toàn bao hàm các điều kiện chuyển đổi hoặc quá độ - bản chất chung nhất của hệ thống chính trị của các nền kinh tế phương Tây không hề thay đổi trong các quá trình cổ phần hoá, tư hữu hoá và tái quốc hữu hoá.
Kinh nghiệm chỉ có thể được tham khảo, học tập và vận dụng khi chúng hàm chứa giá trị cho quá trình cải cách doanh nghiệp sắp tới của Việt Nam, và giá trị này được nhận biết thông qua đối chiếu, cân nhắc, thảo luận, v.v…
Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai (1939-1945), các nước Tây Âu đã xây dựng và phát triển quản lý Nhà nước về mặt kinh tế, xây dựng và củng cố kỷ luật thị trường, đặc biệt là kỷ luật tài chình. Cộng hoà Liên bang Đức là ví dụ rõ rệt nhất về quản lý Nhà nước đối với nền kinh tế. Trong chiến tranh cơ sở vật chất, kinh tế, công nghiệp của Đức bị phá huỷ nặng nề, công cuộc xây dựng lại nền kinh tế mới chỉ được thực sự bắt đầu từ tháng 1 năm 1947, sau hai năm thắt lưng buộc bong, Tây Đức đã chặn đứng lạm phát nghiêm trọng, năm 1949 bắt đầu có tăng trưởng. Năm 1953, về căn bản Nhật Bản đã bắt đầu có dấu hiệu tăng trưởng bền vững, một phần do kiếm được lợi nhuận lớn trong cuộc chiến tranh Triều Tiên, song chủ yếu, giống như Tây Đức, đã nâng cao được vai trò Nhà nước và doanh nghiệp trong quản lý và phát triển kinh tế.
Tại các nền kinh tế thị trường, vai trò quản lý Nhà nước đối với nền kinh tế luôn luôn được xem xét dưới góc độ hiệu quả kinh tế và giá trị. Nếu quốc hữu hoá một ngành hay một doanh nghiệp mang lại lợi ích, chính phủ không ngần ngại quốc hữu hoá, nếu tư hữu hoá hoặc cổ phần hoá mang lại giá trị và hiệu quả, chính phủ tiến hành ngay tư hữu hoá và cổ phần hoá. Nếu cùng một lúc quốc hữu hoá một số ngành, một số doanh nghiệp mang lại hiệu quả và tư hữu hoá một số doanh nghiệp, ngành khác, v.v… mang lại hiệu quả, chính phủ cũng có các biện pháp cụ thể. Tương tác qua lại giữa cổ phần hoá và tái quốc hữu hoá xảy ra tại Pháp, Đức, Thuỵ Điển trong suốt 2 thập kỷ 50 và 60, về sau trở nên ít đi và hầu như dừng lại, do các nền kinh tế này đạt tới các trình độ phát triển và ổn định cao.
Nhìn chung, giữa các năm 1947-1960, các nền kinh tế phương Tây đã áp dụng các phương pháp cổ phần hoá, tư hữu hoá dựa trên các lý luận cổ điển về vốn: Coi trọng vốn tài chính bất kỳ loại vốn khác (Ví dụ: vốn xã hội, vốn con người, v.v…)
Từ sau năm 1972, các nền kinh tế phát triển trải qua cuộc khủng hoảng về năng lượng (do OPEC giảm sản lượng khai thác dầu, tăng giá dầu), buộc phải thích nghi hoá bằng cách đẩy mạnh áp dụng các thành tựu khoa học, công nghệ, trí tuệ bắt đầu được tính đến như là loại vốn quan trọng. Hiện nay, trí tuệ - phần vô hình trong doanh nghiệp và trong bản thân nền kinh tế, được đánh giá cao, trong nhiều trường hợp, có giá trị cao hơn nhiều so với lượng giá trị vô hình và hữu hình mà vốn tài chính hàm chứa. Vào thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX, các nền kinh tế phát triển đã truyền bá kinh nghiệm và hiểu biết về phát triển doanh nghiệp sau chiến tranh thế giới của mình cho các nền kinh tế chuyển đổi Đông Âu, hỗ trợ các nền kinh tề này về tư hữu hoá và cổ phần hoá.
Nhìn chung tại Tây Âu và Nhật Bản, tư hữu hoá trong thời kỳ 1947-1955 nhấn mạnh tới quá trình phát triển khu vực tư nhân, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, vì mỗi nền kinh tế có số lượng các doanh nghiệp và công ty Nhà nước không lớn. Bản chất của chủ nghĩa tư bản (cho tới năm 1990), là dựa trên nền tảng sở hữu tư nhân, lợi nhuận được tạo trên cơ sở các loại hình tư hữu. Sau năm 1955, việc một số DNNN tại Pháp, Anh, Tây Đức, v.v… đã có quy mô lớn, tăng trưởng và hiệu quả bắt đầu giảm, buộc các chính phủ tiến hành các đợt tư hữu hoá và cổ phần hoá. Các nước này trước hết đã tư hữu hoá và cổ phần hoá các xí nghiệp công nghiệp, các công ty dịch vụ công như cấp thoát nước, xây dựng hạ tầng cơ sở, giao thông đường biển và đường bộ. Riêng tại các công ty cấp nước sạch và đường sắt, chính phủ đều giữ các tỷ lệ cổ phần thích hợp nhằm đảm bảo an ninh và quốc phòng.
Pháp:
Sau chiến tranh, Pháp không nhận được nhiều tài trợ trong khuôn khổ kế hoạch Marshall, tuy vậy chính phủ nước này đã mau chóng nắm lại toàn bộ các doanh nghiệp lớn nhất trong các hoàn cảnh bị phe đối lập trong quốc hội chống đối quyết liệt. Để giảm áp lực quốc hữu hoá, chính phủ Pháp đã khuyến khích phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa, phát triển công nghiệp hàng tiêu dùng, công nghiệp thực phẩm. Hãng ô tô Renault, hãng hàng không Air France là hãng mạnh mà chính phủ Pháp nắm chắc cùng với một số hãng dầu mỏ lớn như Elf. Ngành điện lực được chính phủ cho phép tư hữu hoá từ năm 1962, tuy nhiên các dự án xây dựng và quản lý các nhà máy điện nguyên tử vẫn thuộc công hữu cho tới năm 1980 mới bắt đầu chuyển đổi sang cơ cấu cổ phần hoá trong đó chính phủ nắm giữ một số bộ phận quan trọng đối với an ninh và quốc phòng. Quá trình loại trừ chủ nghĩa thực dân cổ điển của Pháp đối với châu Phi (1947 - 1962) tạo điều kiện tư hữu hoá một loạt các công ty tư doanh Pháp sống nhờ chủ nghĩa thực dân này: Các công ty dầu mỏ lớn nhỏ của chính phủ tại Algerie, Tunisie, Maroc, v.v... thay nhau tư hữu hoá hoặc chia nhỏ và cuối cùng cũng dẫn tới tư hữu hoá vào năm 1963.
Trong quá trình thay đổi cơ cấu của Bộ Ngân khố và Ngân hàng Trung ương những năm 1965 - 1969, chính phủ Pháp đã giảm 60% biên chế của hai cơ quan này, mặc dù Ngân hàng Trung ương về mặt hiến pháp không thuộc quyền điều khiển của chính phủ Pháp. Nhiều dịch vụ tài chính đã được chuyển sang khu vực tư nhân, tương đương với các quá trình tư hữu hoá. Cho tới năm 1967, Bộ Ngân khố Pháp nắm một số nghiệp vụ và cơ cấu bảo hiểm, sau đó đã tư hữu hoá hoàn toàn các cơ cấu này, chuyển bảo hiểm và tái bảo hiểm ra khỏi hạng mục chức năng doanh nghiệp chính phủ.
Bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế là khu vực luôn được chính phủ Pháp quan tâm về cơ cấu sở hữu: Sau chiến tranh luôn có hai hình thức bảo hiểm xã hội và y tế cùng tồn tại: công cộng và tư nhân. Hình thức bảo hiểm công cộng áp dụng cho công chức Pháp tại các cơ quan của chính phủ tại trung ương và địa phương, hình thức này gọn nhẹ, hiệu quả cao, đã thu hút được công dân tư nhân sử dụng các dịch vụ bảo hiểm xã hội của mình. Vào các năm 1978, 1986, 1998, chính phủ đã tiến hành quốc hữu hoá một số dịch vụ và cơ cấu tổ chức bảo hiểm y tế tư nhân. Vào các năm 1979, 1985, 1996, chính phủ Pháp tư hữu hoá một số cơ cấu bảo hiểm xã hội và y tế.
Từ năm 1975, chính phủ Pháp tiến hành tư hữu hoá một số doanh nghiệp công nghiệp đóng tàu, bưu chính, viễn thông, điện thoại.
Các chính sách tư hữu hoá về mặt giá trị kinh tế nói chung không có thay đổi lớn, song trong từng thời kỳ, mang ảnh hưởng chính trị của các đảng và các liên minh cầm quyền. Ví dụ, thời kỳ do Charles De Gaule cầm quyền, tư hữu hoá dường như được tiến hành chậm lại, trong khi các doanh nghiệp nhỏ và vừa được phát triển mạnh; Giscard D'Esteing cũng áp dụng chính sách tư hữu hoá tương đối chậm rãi và cẩn thận. Bản thân chính phủ xã hội chủ nghĩa của tổng thống Francois Mitteran đã kết hợp giữa tư hữu hoá, tái quốc hữu hoá và cổ phần hoá. Ví dụ, Air France đã trải qua tư hữu hoá vào năm 1975, tái quốc hữu hoá năm 1983, cổ phần hoá năm 1989, và lại tái quốc hữu hoá năm 1994. Năm 1999, hãng này lại cổ phần hoá trong đó chính phủ chủ động giữ cổ phần quyết định.
Trong khi không có số liệu để tính toán tổng giá trị tài sản được tư hữu hoá tại Pháp từ năm 1947 - 2000, số liệu phỏng đoán cho thấy tổng tài sản này không lớn. Tuy nhiên, ý nghĩa của tư hữu hoá (kết hợp với cổ phần hoá, tái quốc hữu hoá) ở Pháp là vô cùng to lớn: nó làm thay đổi căn bản bộ mặt kinh tế và xã hội Pháp - làm cho chính phủ năng động hơn, bớt quan liêu giấy tờ, làm cho công dân Pháp năng động hơn, chăm chỉ hơn, hướng ra bên ngoài nhiều hơn về kinh tế, mậu dịch, ngôn ngữ, văn hoá, làm cho thành thị và nông thôn Pháp hiện đại hơn, thay đổi hầu như hoàn toàn phong cách quản lý doanh nghiệp Pháp. Với tư hữu hoá, nước Pháp lần đầu tiên có hệ thống viễn thông, truyền tin hiệu quả truớc khi người Mỹ đưa ra Internet, cũng với tư hữu hoá, nước Pháp tiến rất nhanh trên con đường kinh tế tri thức.
Trong nhiều nhân tố thành công kinh tế, tư hữu hoá hợp lý là thành công nổi trội của nền kinh tế Pháp, khẳng định trí tuệ của chính phủ và công dân Pháp.
Cộng hoà Liên bang Đức:
Trước chiến tranh thế giới lần thứ hai, Đức là một nước công nghiệp phát triển nhanh: Từ năm 1930 tới năm 1933, công nghiệp Đức đã tăng trưởng 7 lần, và cho tới năm 1939, năm Đức gây ra cuộc chiến tranh thế giới, công nghiệp Đức chiếm 70 phần trăm tổng thu nhập quốc nội, với cơ cấu công nghiệp nặng khá cao (41% công nghiệp). Nước Đức đã xây dựng được truyền thống lao động kỷ luật cao, hợp tác liên ngành rất tốt, đây là một trong những nhân tố quan trọng nhất để sau chiến tranh, từ một nước thua trận, Đức đã trở thành cường quốc mạnh nhất Tây Âu chỉ trong vòng 11 năm (1946 - 1957).
Ngay sau chiến tranh, chính phủ Tây Đức không có doanh nghiệp của mình, đã tiến hành kêu gọi và sau đó chỉ định một số doanh nghiệp có truyền thống nhất trở thành DNNN, đó là các doanh nghiệp Krupp, Thyssen, v.v... vốn trước chiến tranh là các tập đoàn công nghiệp mạnh nhất cung cấp trang thiết bị quân sự cho quân đội Đức. Một số nhân vật tài năng ra tư nhân, thành lập các công ty công nghiệp, được chính phủ hỗ trợ và ưu tiên, mau chóng trở thành các nhà doanh nghiệp thành công. Chính phủ nắm chặt chẽ mọi hoạt động tài chính, ngân hàng, đầu tư từ năm 1947 tới năm 1953, áp dụng chính sách tiết kiệm nghiêm ngặt nhất trong lịch sử nước Đức hiện đại.
Từ năm 1953, chính phủ cho phép tư hữu hoá một loạt các doanh nghiệp tài chính, ngân hàng, bảo hiểm. Các ngân hàng thương mại như Frankfurter Bank, Dresner Bank, Deutsch Bank, Volker Bank, v.v... dần dần cố giảm tỷ lệ cổ phần của chính phủ, chuyển nhượng sang sở hữu tư nhân Đức. Quá trình tư hữu hoá khu vực tài chính, ngân hàng Tây Đức diễn ra trong hơn 5 năm, cho tới năm 1958, 100% các định chế tài chính đã được tư hữu hoá, trong đó hơn 97% sở hữu thuộc về công dân Cộng hoà Liên bang Đức. Bản thân người Đức không muốn người Mỹ hoặc người nước ngoài mua sở hữu trong khu vực tài chính, và họ đã đạt được sự mong muốn này do những nỗ lực vượt bậc về phát triển kinh tế cộng đồng và kinh tế tư nhân.
Việc chính phủ Đức đề đạt ý tưởng liên kết các hãng hàng không vũ trụ của các nước Đức, Pháp, Anh, Tây Ban Nha thành hãng Airbus biến hãng này tổ thành một tập đoàn lớn, tư hữu, hưởng những ưu đãi và hỗ trợ hợp lý của các chính phủ, đủ sức cạnh tranh với Boeing (Mỹ) không chỉ là một kế hoạch tư hữu hoá phức hợp, mà còn là một chiến lược tiếp tục triển khai tư tưởng chính phủ và tư nhân hợp tác vì các mục tiêu kinh tế cơ bản nhất của một quốc gia, và của sự hợp tác kinh tế, kỹ thuật toàn Tây Âu. Cơ quan hàng không vũ trụ châu Âu (ESA) do Đức, Pháp, Anh các thành viên sáng lập đã hỗ trợ về mặt chính sách cho quá trình tư hữu hoá phức hợp này. Cố tổng thống Pháp Francois Mitteran và nguyên thủ tướng Đức Helmut Kohl đã phát triển ý tưởng này thành nền tảng cho liên minh châu Âu hùng mạnh của thời kỳ hậu chiến tranh lạnh.
Có hai sự kiện quan trọng nữa gần đây về cổ phần hoá và tư hữu hoá ở Cộng hoà Liên bang Đức, đó là: (1) Tư hữu hoá xung quanh quá trình thống nhất nước Đức, (2) Tư hữu hoá ngành viễn thông Đức. Tư hữu hoá trong quá trình thống nhất nước Đức bắt đầu xảy ra ngay sau khi bức tường Berlin sụp đổ, chính phủ Cộng hoà Liên bang Đức lúc bấy giờ đứng đầu bởi thủ tướng Kohl đã dự chi hơn ba nghìn tỷ DM cho việc thống nhất đất nước trong đó chi phi riêng cho tư hữu hoá và phát triển khu vực tư nhân tại phần lãnh thổ phía Đông (nguyên là Cộng hoà dân chủ Đức) chiếm tới xấp xỉ một nghìn tỷ DM. Năm 1996, khi quá trình tư hữu hoá ở Đông Đức hoàn tất, chi phí thực cho quá trình này đã lên tới gần hai nghìn tỷ DM, trong tổng số hơn bốn tỷ cho quá trình thống nhất và tạo mặt bằng kinh tế cơ bản. Một trăm phần trăm doanh nghiệp quốc doanh của nguyên cộng hoà dân chủ Đức trở thành tài sản của nước Đức thống nhất giao cho chính phủ Đức quản lý. Sau năm năm, 100% đã được tư hữu hoá, trong đó tỷ lệ vốn nước ngoài (Mỹ, Nhật, Pháp, Bắc Âu, v.v...) chỉ chiếm dưới 12%, chứng tỏ các doanh nghiệp Tây Đức, mặc dù hoàn toàn có thể mua mọi cổ phần, đã thay đổi cách nhìn, để cho một số doanh nghiệp tư nhân nước ngoài mua cổ phần tại các doanh nghiệp tư hữu hoá ở Đông Đức. Số tiền khổng lồ hai nghìn tỷ DM cho tư hữu hoá chủ yếu là để tăng giá trị cho các doanh nghiệp được tư hữu hoá, đào tạo lại và nâng cấp trình độ lao động và quản lý của mọi người lao động Đông Đức. Trong quá trình đấu thầu về cổ phần và các dự án hỗ trợ tư hữu hoá, nước Đức thống nhất đã cố gắng hết sức để mọi việc được minh bạch, duy chỉ có việc tập đoàn Thyssen đã bị truy tố về tội giả mạo về giá đào tạo lại người lao động Đông Đức, biển thủ hơn 50 triệu DM. Về mặt xã hội, tư hữu hoá tại Đông Đức đã gây ra một xáo trộn đã được các nhà chính trị và các nhà xã hội học chính trị tiên liệu: một tỷ lệ không lớn (dưới 15%) số người lao động, do trước đây được thụ hưởng quá khả năng của họ, đã trở nên lười biếng và kém năng động, chậm thích nghi với hoàn cảnh mới. Cộng hoà dân chủ Đức trước đây đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng về kinh tế là nhờ có Liên Xô cáng đáng hoàn toàn các chi phí quân sự và an ninh. Người lao động miền Đông phần nhiều đã được hưởng các loại phúc lợi rất cao không một nền kinh tế nào lúc đó (và thậm chí hiện nay) có thể sánh kịp, bởi khi những hành vi kinh tế thị trường buộc họ thay đổi, một số trong họ đã gặp khó khăn. May thay nước Đức thống nhất là quốc gia của những công dân trí tuệ cao, của các nhà lãnh đạo có tầm nhìn sáng suốt, của các luật sư có phán quyết vượt lên trên các ràng buộc phức tạp và hẹp hòi về chính trị và định kiến, đã đưa tư hữu hoá miền Đông đi đúng hướng, thành công cả về mặt kinh tế, văn hoá, cộng đồng và nhân bản.
Tư hữu hoá tập đoàn viễn thông Đức là sự kiện quan trọng cuối cùng của thế kỷ 20 ở Đức. Deutsch Telekom là tập đoàn viễn thông độc quyền nhà nước ở Cộng hoà Liên bang Đức ngay từ năm 1947. Tập đoàn này đã phát triển rất mạnh cho tới đầu thập kỷ 80, bắt đầu chậm lại do các nguyên nhân: (1) Cơ cấu cồng kềnh; (2) Quản lý yếu dần; (3) Sản phẩm và dịch vụ ngày càng kém cạnh tranh so với các công ty viễn thông nhỏ hơn rất nhiều tại các nước láng giềng.
Cho đến nay chúng ta cũng có cách lý giải chính thức tại sao chính phủ Đức lại để chậm lại việc cổ phần hoá Deutsch Telekom cho tới năm 1996. Đức đã viện trợ rất nhiều tiền cho quá trình chuyển đổi kinh tế của Balan, Hung, Cộng hoà Séc, Slovenia, Nga, Ucraine và các quốc gia Baltic (thuộc Liên Xô cũ) là "bạn chiến đấu cũ" của Đức. Tại hầu hết các nước này, để đổi lại, nước Đức thống nhất đã nhận được mọi ưu đãi về viễn thông tại các nước này, thế nhưng chỉ sau hơn hai năm chiếm lĩnh thị trường tại các nước này, Deutsch Telekom gần như thất bại đồng loạt, bị các hãng viễn thông khác nhỏ hơn, nhanh hơn, tốt và rẻ hơn đẩy ra bằng các thủ pháp cạnh tranh thật đơn giản thông qua chất lượng và giá. Chính phủ Đức có lẽ ngay từ năm 1994 đã nhận ra các dấu hiệu này, và năm 1996, Deutsch Telekom chính thức được cổ phần hoá. Hiện nay tỷ lệ cổ đông tư nhân tại Deutsch Telekom là gần 90%, sau gần bốn năm cổ phần hoá, Deutsch Telekom tăng trưởng gấp ba lần, con số chưa từng bao giờ xảy ra tại Deutsch Telekom kể cả thời kỳ tái thiết sau chiến tranh.
Cổ phần hoá tại Deutsch Telekom cho phép các nhân tố tích cực về sở hữu, về quản lý và hiệu quả được phát triển, các chủ nhân mới của Deutsch Telekom đã ra sức cải tiến quản lý, chia nhỏ Deutsch Telekom ra thành các bộ phận khác nhau, giải thể các bộ phận không nằm trong chiến lược phát triển mới của Deutsch Telekom, cơ cấu lại nhân sự, đào tạo lại đội ngũ, tiêu chuẩn hoá mọi khâu kinh doanh, tung ra các loại sản phẩm, dịch vụ mới với chất lượng cao, lấy lại được uy tín của công dân Đức sau nhiều năm bê trễ, tạo được thế cạnh tranh ra Tây Âu và Đông Âu đúng lúc Tây Âu công bố lập ra liên minh châu Âu.
1.3. Anh:
Tư hữu hoá tại Anh bộc lộ nhiều mâu thuẫn và bất hợp lý v.v… nước Anh sau chiến tranh thế giới lần thứ hai trở nên chậm trễ, cố chấp, bảo thủ. Nước Anh có truyền thống “tham gia cuộc vui đúng lúc có lợi cho bản thân” (ví dụ, tham chiến trong thế chiến thứ hai đúng lúc, tham gia liên minh châu Âu với các điều kiện có lợi cho Anh và bất lợi cho Đức, Pháp, v.v…). Các loại dịch vụ tài chính cổ điển do nước Anh “xuất khẩu” ra ngoài chỉ chứa các sự kiện lịch sử, bản thân hoạt động tài chính của Anh từ những thập kỷ 70 thế kỷ trước đã bộc lộ nhiều điều lạc hậy. Các doanh nghiệp tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, v.v… ít trải qua đổi mới, bởi vậy, trong thập kỷ 90, các doanh nghiệp này trở nên thua lỗ, tai tiếng nhiều hơn là thành công. Ngân hàng Trung ương Anh do không chịu nghe ý kiến đúng của các c huyên gia tài chính “thê hệ mới”, chỉ trong một tuần tháng 6 năm 1992, đã làm giảm gần 100% giá trị đồng Bảng, làm cho nước Anh trong một tuần, mất đi hơn 11 tỷ Bảng Anh thị trường giao dịch ngoại hối và thị trường vốn. Ngân hàng Baring do quản lý sai lầm, gây, gây thiệt hại lớn tại Singapore, đã phá sản (tài sản thanh lý thuộc sở hữu của AMRO - Hà Lan).
Hai Chính phủ liên tiếp sau Churchill (1956-1964) đã tiến hành quốc hữu hoá ồ ạt, đồng thời trong chừng mực nào đó đã không khuyến khích đúng mức sự phát triển của khu vực tư nhân. Chính phủ Thatcher vào giai đoạn cuối đã chủ trương tái tư hữu hoá: bán hầm mỏ, đường sắt, giao thông công cộng cho tư nhân. Tái tư hữu hoá xảy ra chậm cả về thời điểm lẫn lịch trình, góp phần làm chậm nền kinh tế Anh trong thời kỳ 1992-1999.
Nhật Bản:
Lợi nhuận người Nhật thu được trong cuộc chiến tranh Triều Tiên lúc đó chủ yếu là nhờ bán quân trang, lương thực, dịch vụ hậu cầu, lượng tiền thu lại là vào khoảng hơn 40 tỷ USD (nếu tính ra giá trị hiện nay, có giá trị khoảng 600 tỷ USD). Lượng tiền này đã được đầu tư vào phát triển nền kinh tế Nhật Bản, đầu tư rất đúng đắn vào phát triển doanh nghiệp tư nhân. Sau chiến tranh, giới quân sự Nhật trong một thời kỳ khoảng gần năm năm, đã bị giới dân sự lấn át, chủ yếu là do áp lực của Mỹ. Nhưng những thành phần hiếu chiến nhất, cũng là ưu việt nhất trong quân sự đã chuyển dần ra ngoài, chuẩn bị cho công cuộc xây dựng kinh tế với tư tưởng phục thù thất bại quân sự bằng nỗ lực thành công kinh tế. Giới doanh nghiệp ọp ẹp đều được khuyến khích cải tổ bởi các nỗ lực tư nhân, chính phủ mặc dù đã chấn hưng công nghiệp nặng do mình làm chủ, nhưng công nghiệp của chính phủ nặng nề, chậm tăng trưởng, làm cho tư nhân đã đứng ra tổ chức các tập đoàn với năng suất cao hơn, năng động hơn, góp phần chống lại sự hạn chế của chính phủ trong khu vực sản xuất ô tô, tàu biển, hàng quân dụng, hàng tiêu dùng.
Con số bí mật được giữ kín trong một thời gian lâu dài, gần đây mới được công bố là: cả chính phủ và tư nhân đều khuyến khích và đầu tư tiền vào việc thu thập các bí quyết công nghệ, kỹ thuật cao bằng mọi giá, vì bản thân người Nhật cho tới trước chiến tranh, "học nhiều mà làm ít", (tri thức học được lúc đó chưa thực sự biến thành giá trị hàng hoá, sản phẩm). Tỷ lệ chi phí cho việc thu thập, mua, xử lý, áp dụng tri thức của nền kinh tế Nhật trong các năm 1947 - 1967 chiếm tới hơn 12% chi phí chung cho sản xuất và phát triển kinh tế. Đây chính là yếu tố thành công đặc trưng của Nhật.
Người Nhật vốn từ thời Minh Trị (bắt đầu từ 1860) đã nhận thức rõ ràng rằng họ là dân tộc cần cù song thiếu tri thức cơ khí và trí tuệ tư tưởng phát triển vật chất, với nhận thức này chính phủ Nhật, hoàng gia Nhật đã khích lệ người dân Nhật vượt biển vào châu Âu học tập, mang tri thức, kinh nghiệm và bí quyết công nghiệp về phụng sự tổ quốc. Cho tới ngay năm 1990, người Nhật vẫn bị phương Tây coi là không có tư tưởng, không có lý luận và phương pháp luận kinh tế học và xã hội học, cho dù Nhật đã từ một nước có trình độ phát triển công nghiệp yếu nhất trong ba nước theo trục phát xít tại thời điểm năm 1939, vươn lên thành một nước công nghiệp mạnh nhất thế giới, sánh vai cùng Mỹ và Cộng hoà Liên bang Đức. Theo các quan điểm của kinh tế học tri thức, như vậy người Nhật đã đạt chỉ số "quay vòng" tri thức cao nhất (biến tri thức và kinh nghiệm trên giấy, trên mô tả, trong não bộ của con người thành hàng hoá hữu hình, thành vốn tư bản, thành tích lũy quốc gia, thành nền trí tuệ của các cộng đồng và của cả một nền kinh tế).
Cũng vào thập kỷ 90 của thế kỷ 20, người Nhật đã tự nhận biết là họ đã "đụng trần" tri thức công nghiệp và quản lý doanh nghiệp, hệ thống doanh nghiệp tư nhân và chính phủ trở nên đình trệ, hiệu quả suy giảm, hệ thống tài chính, tiền tề trở nên không minh bạch, thiếu kỷ luật, mức độ sinh lời giảm mạnh dẫn tới làm suy yếu nghiêm trọng đồng Yên. May thay đã có các nhà khoa học và nhà chính sách tiếp tục phát huy truyền thống học hỏi, đã du nhập nhanh chóng vào Nhật một học thuyết tạo sinh tri thức do một nhà triết học Hung-ga-ri lưu vong tại London viết ra vào năm 1947. Học thuyết này cho phép Nhật Bản cải cách doanh nghiệp từ loại hình doanh nghiệp sản xuất trí tuệ thấp sang loại hình doanh nghiệp luôn luôn học tập (learning enterprises). Các doanh nghiệp tài chính Nhật đạt sự chuyển biến này trước, sau đó tới các công ty xe hơi, vũ trụ, tin học.
Ví dụ thành công nhất về chuyển đổi doanh nghiệp doanh nghiệp tri thức thấp thành doanh nghiệp tri thức cao - luôn luôn học tập là hệ thống ngân hàng của Nhật: hệ thống này đã trải qua các cuộc khủng hoảng trí tuệ nặng nề trong thời kỳ 1995-1998, song chỉ với việc áp dụng hai công nghệ quản lý mới (quản lý các mối quan hệ khách hàng, quản lý thống nhất các quá trình vĩ mô và vi mô), nay hệ thống này lại đạt và duy trì được các lợi thế cạnh tranh quan trọng trên thị trường toàn cầu.
Nhân tố thành công quan trọng về chính sách là sau một thời kỳ "bất hợp lý", các đời chính phủ Nhật đã bắt đầu tạo ra được một cơ chế chính phủ hợp tác với tư nhân trong sản xuất và thương mại: Bộ Công thương Nhật trở thanh siêu bộ kinh tế, nắm quyền điều phối mọi hoạt động chính sách và tương tác giữa chính phủ và tư nhân, giữa chính phủ và thị trường bên ngoài nước Nhật.
Cổ phần hoá và tư hữu hoá tại các nước phát triển đã ảnh hưởng thế nào tới các nền kinh tế chuyển đổi?
Kinh nghiệm cổ phần hoá và tư hữu hoá của các nước phát triển đã được áp dụng gần như là trực tiếp đối với các nước kinh tế chuyển đổi tại Đông Âu. Tất cả các nước kinh tế chuyển đổi Đông Âu, sớm hơn hay muộn hơn năm 1992, đều đã từ bỏ con đường phát triển kinh tế xã hội chủ nghĩa theo các lý luận của các thập kỷ 50 - 80, vấn đề không nằm ở chỗ các lý luận và thực hành nhà nước trong giai đoạn đó là sai hay đúng, mà do kết quả thực tiễn của các quá trình phát triển không được như mong muốn đối với các nền kinh tế Đông Âu. Sau một thời kỳ tăng trưởng tuyệt vời, hành vi cộng đồng phát triển bắt đầu kém tích cực, chi tiêu nhiều hơn cái mình có thể làm ra, tình trạng kéo dài dẫn tới suy thoái, mất niềm tin, và dẫn tới sự tan rã của hệ thống kinh tế xã hội chủ nghĩa Đông Âu.
Các nền kinh tế phát triển đã giúp các nền kinh tế chuyển đổi Đông Âu tiến hành mau chóng sự thay đổi cấu trúc sở hữu. Nói chung chỉ còn cấu trúc sở hữu trong nông nghiệp là thay đổi tuần tự (từ nông trang sang cá thể và sau đó ổn định hoá tại cơ cấu nông trại, hợp tác xã kiểu Tây Âu), còn cơ cấu sở hữu công nghiệp và dịch vụ thì đã được mau chóng chuyển đổi theo hướng tư hữu và cổ phần, trong đó cổ phần nước ngoài không mấy bị hạn chế về tỷ lệ và các ràng buộc khác.
Cộng hoà Liên bang Đức đã đóng góp chủ yếu vào các dự án chiến lược cổ phần hoá và tư hữu hoá tại Đông Âu, nhất là tại Ba-lan, Hung, cộng hoà Séc, khối Ban-tích.
Pháp đã góp phần lớn vào cổ phần hoá và tư hữu hoá tại các nước như Ru-ma-ni, Ban-căng, v.v...
Trái với mong đợi của Anh và một số nước Đông Âu, Mỹ không có ý định triển khai kế hoạch Marshall II cho việc chuyển đổi kinh tế tại Đông Âu. Một phần là do chính sách của Mỹ đã tiên liệu về ảnh hưởng của Mỹ tại châu Âu không thể lớn như ảnh hưởng của chính các nước Tây Âu cộng lại, nên Mỹ không chịu bỏ nhiều tiền vào quá trình chuyển đổi. Mặt khác, sự hình thành liên minh châu Âu đã kèm theo một xu hướng thành văn là các nước Đông Âu sẽ trở thành bộ phận của liên minh châu Âu trong tương lai gần, do vậy Đức và Pháp đã hiệp lực ngăn cản những ảnh hưởng bất lợi từ Mỹ tới Đông Âu. Cho đến nay, phong cách quản lý Mỹ, cơ cấu hệ thống ngân hàng, các tổ chức tài chính Đông Âu, kể cả các hình thức tổ chức nhà nước, đều rất ít mang ảnh hưởng Mỹ.
2. Thực tiễn và kinh nghiệm triển khai cổ phần hoá ở các nước có nền kinh tế chuyển đổi, đặc biệt là Trung Quốc
Các nước có nền kinh tế chuyển đổi là các nước đang có nền kinh tế hoạt động theo cơ chế kế hoạch tập trung chuyển sang nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường. Quá trình chuyển đổi nền kinh tế là quá trình cải cách làm thay đổi về thể chế, chính sách kinh tế sao cho phù hợp với yêu cầu khách quan của thị trường.
Việc chuyển đổi nền kinh tế của một quốc gia nó không chỉ mang ý nghĩa thuần tuý về kinh tế mà nó luôn gắn liền với ý nghĩa chính trị và xã hội. Vào những năm cuối của thập kỷ 80 khi mà chính sách mở cửa của các nước Xã hội chủ nghĩa (XHCN) đang lan rộng cũng là lúc xuất hiện mầm mống của việc chuyển đổi nền kinh tế. Đặc biệt sau sự kiện chính trị tan rã, sụp đổ của Liên Xô và các nước Đông âu (năm 1989 - 1990), xu hướng chuyển đổi nền kinh tế ở các nước XHCN càng trở nên rõ rệt hơn.
Thực thể nền kinh tế XHCN được tạo nên bởi các doanh nghiệp nhà nước (DNNN), các Công ty tư nhân và các thành phần kinh tế khác; trong đó DNNN luôn giữ vai trò chủ đạo của nền kinh tế. Vì vậy muốn chuyển đổi nền kinh tế XHCN vấn đề cực kỳ quan trọng quyết định sự thành công cho tiến trình là phải tiến hành cải cách DNNN. Nội dung chủ yếu của cải cách doanh nghiệp là cải cách về cơ cấu tổ chức; cơ chế quản lý điều hành và sở hữu doanh nghiệp, v.v...
Quá trình chuyển đổi DNNN thành công ty cổ phần, công ty tư nhân đặc thù mỗi nước khác nhau nhưng đều gặp một khó khăn chung là việc xác định vai trò của nhà nước với tư cách là chủ sở hữu và vai trò nhà nước với tư cách điều tiết của nền kinh tế thị trường như thế nào? Chính vì vậy nên phương pháp chủ đạo của Đảng và nhà nước của mỗi nước càng rất khác nhau: ở Trung Quốc thành lập Ban chỉ đạo cải cách Doanh nghiệp trung ương trực thuộc Uỷ ban Kế hoạch và Đào tạo - phương pháp đi từ khoán lợi nhuận - khoán thuế - khoán sản phẩm đến cổ phần hoá doanh nghiệp. ở Hungari thành lập Bộ Tư nhân hoá phương pháp tiến hành tư hữu hoá đi đôi với cải cách tài chính - ngân sách. ở Balan, Tiệp khắc, Cộng hoà Séc diễn biến gần giống Hungari là tiến hành Tư nhân hoá. ở Việt Nam thành lập Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp - phương pháp vừa cải cách vừa cổ phần hoá DNNN.
Như vậy nhìn từ góc độ chủ trương và phương pháp tiến hành cải cách hay đổi mới DNNN; cổ phần hoá DNNN thì Việt Nam và Trung Quốc có những nét tương đồng (tuy nhiên Trung Quốc thực hiện trước Việt Nam khoảng 8 năm). Còn chủ trương và phương pháp cải cách DNNN; tư nhân hoá của các nước Đông Âu có nhiều điểm khác biệt. Do đó trong phần này sẽ đề cập và nghiên cứu một cách tổng quát về thực tiễn cổ phần hoá và cải cách DNNN ở Trung Quốc.
2.1. Thực tiễn cổ phần hoá và cải cách DNNN ở Trung Quốc - Vai trò thị trường chứng khoán đối với cổ phần hoá và cải cách DNNN ở Trung Quốc
DNNN là trụ cột của nền kinh tế quốc dân Trung Quốc. Cải cách DNNN là khâu trọng tâm của cả cuộc cải cách thể chế kinh tế, thúc đẩy cải cách và phát triển DNNN, thực hiện việc kết hợp một cách hữu cơ giữa DNNN với nền kinh tế thị trường, làm tăng sức sống cạnh tranh của DNNN, là cơ sở quan trọng để tăng sức sản xuất xã hội, v.v...Thực chất của cải cách DNNN tạo ra một chế độ doanh nghiệp hiện đại. Chế độ doanh nghiệp hiện đại đã được đề cập trong văn kiện hội nghị toàn thể lần 3 Ban chấp hành TW Đảng Cộng sản Trung Quốc khoá 14 họp tháng 11/1993, chỉ rõ “Quyền sở hữu phải minh bạch, trách nhiệm và quyền hạn phải rõ ràng, hành chính và doanh nghiệp phải tách nhau, quản lý phải khoa học”. Thực hiện Nghị quyết 3- khoá 14 trong bối cảnh “nền kinh tế thị trường XHCN", năm 1994 nhà nước Trung Quốc ban hành Luật công ty đã thực sự trở thành phương tiện để “tách” chức năng quản lý Nhà nước và chức năng kinh doanh nhằm bảo toàn và phát triển tài sản của Nhà nước. Đồng thời tạo ra môi trường pháp lý thuận lợi cho các DN trong quá trình cải cách. Đến tháng 9/1999 tại đại hội BCH TW Đảng Cộng sản lần thứ 15 đã khẳng định “Xây dựng chế độ doanh nghiệp hiện đại là yêu cầu tất yếu để phát triển sản xuất lớn xã hội hoá và kinh tế thị trường, là con đường có hiệu quả để kết hợp chế độ công hữu với nền kinh tế thị trường, là phương hướng cải cách DNNN".
Từ một nền kinh tế kế hoạch, tập trung chuyển đổi sang nền kinh tế phát triển xã hội hoá và kinh tế thị trường đa thành phần, đa sở hữu, v.v... là quá trình cải cách thể chế hoá, định hướng cho một nền kinh tế thị trường phát triển. Một trong những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường là thị trường chứng khoán vì vậy sự ra đời và phát triển của thị trường chứng khoán trong thời kỳ cải cách doanh nghiệp ở Trung Quốc giữ một vai trò cực kỳ quan trọng. Sự hoạt động tích cực và lớn mạnh của thị trường chứng khoán là tấm gương phản chiếu cho sự thành công của sự nghiệp cải cách DNNN mà trong đó rõ nét nhất phải kể đến thành tựu cổ phần hoá ở Trung Quốc.
Có thể nói thành tựu cổ phần hoá cũng chính là kết quả của sự nghiệp cải cách DNNN ở Trung Quốc. Bởi lẽ sau khi DNNN cổ phần hoá không những đạt được mục tiêu huy động vốn từ bên ngoài xã hội, đa dạng hoá sở hữu, đổi mới DN, đổi mới quản lý, v.v... mà còn xác định rõ vai trò quản lý, điều tiết, sở hữu của Nhà nước.
Vì vậy việc xem xét nghiên cứu thành tựu cổ phần hoá cũng chính là đánh giá kết quả của quá trình cải cách DNNN và mối quan hệ của chúng với tác động ảnh hưởng của sự phát triển thị trường chứng khoán ở Trung Quốc.
Thực tiễn cổ phần hoá và cải cách DNNN ở Trung Quốc:
Những đặc trưng cơ bản của chế độ cổ phần hoá và cải cách DN ở Trung Quốc:
Trong thời kỳ xây dựng CNXH - nền kinh tế Trung Quốc và các nước XHCN thực hiện theo cơ chế kế hoạch tập trung. Nghĩa là doanh nghiệp (DN) tập trung trong tay Nhà nước - mọi trách nhiệm nghĩa vụ, quyền hạn của các DNNN đều do Nhà nước phải gánh chịu mà dường như quyền sở hữu không minh bạch rõ ràng, còn lẫn lộn giữa hành chính và DN đó là một trong các nguyên nhân làm cho nền kinh tế bị kìm hãm phát triển, hiệu quả sản xuất, kinh doanh ở các DN thấp v.v... Vì vậy phải tiến hành cải cách DN.
Công cuộc cải cách DNNN ở Trung Quốc nhằm đạt được mục tiêu là xây dựng một chế độ doanh nghiệp hiện đại - mà trong đó chế độ cổ phần là hình thức tổ chức cơ sở và điển hình. Chế độ công ty hiện đại lấy quyền sở hữu phải minh bạch làm cơ sở, lấy chế độ pháp nhân hoàn thiện làm hạt nhân, lấy chế độ trách nhiệm hữu hạn xác định quyền lợi và nghĩa vụ v.v...
Do đó việc xây dựng chế độ công ty cổ phần trong công cuộc cải cách DNNN mang những đặc trưng cơ bản :
Một là: Minh bạch giữa các quyền sở hữu pháp nhân, quyền cổ phần và quyền kinh doanh. Công cuộc cải cách DNNN thời kỳ đầu tiên (từ 1984) là thời kỳ mò mẫm, thể nghiệm. Phương pháp cải cách DNNN của Trung Quốc là duy trì sở hữu nhà nước đối với các DN chủ chốt và cố gắng nâng cao hiệu quả của các DN đó bằng cách tạo ra các khuyến khích theo cơ chế thị trường. Phần lớn các nước khác đặc biệt là ở Đông Âu chuyển đổi cơ chế kinh tế đều áp dụng biện pháp tư nhân hoá một cách có hệ thống rộng rãi các DNNN. Còn ở Trung Quốc Nhà nước hay các cơ quan nhà nước thực hiện chức năng giống như chủ tư nhân trong các nền kinh tế thị trường. Người ta có thể cảm nhận đó là "sự thay đổi về phương thức quản lý tài sản Nhà nước, chứ không phải là thay đổi hình thức sở hữu". Tuy nhiên các thí điểm của Trung Quốc trong việc cải cách tài sản của Nhà nước rất rộng lớn, bao gồm cả hình thức khoán; dành cho những người quản lý DNNN nhiều quyền tự chủ hơn; đa dạng hoá sở hữu DNNN; "công ty hoá" các DNNN và chuyển DNNN thành các công ty cổ phần. Trọng tâm của các cuộc thí điểm này là phân cấp quản lý, giao toàn bộ DNNN từ hai đến ba ngàn DN công nghiệp cho các chính quyền địa phương giám sát thay cho chính quyền trung ương. Một mạng lưới tổ chức nhiều cấp gồm các văn phòng quản lý tài sản Nhà nước, các công ty sử dụng tài sản nhà nước, đã được hợp nhất. Đồng thời các tập đoàn lớn hay các công ty mẹ thành lập trực tiếp để quản lý tài sản Nhà nước. Các thực thể này sẽ đại diện cho Nhà nước làm chủ sở hữu các DNNN trong khi các bộ và các cơ quan chủ quản, dấu ấn truyền thông của nền kinh tế kế hoạch hoá, đang bị loại bỏ hay giới hạn vào việc thực hiện các chức năng như các "hiệp hội thương mại" hay quản lý nhà nước không mang tính sở hữu. Sau khi xác định được tài sản Nhà nước tại DNNN không chỉ là để quản lý, giám sát mà có ý nghĩa lớn trong việc hoạch định quyền sở hữu cổ phần pháp nhân tại DN; phần vốn cổ phần còn lại huy động từ người lao động và ngoài xã hội. Các quyền cổ phần nhà nước hay người lao động, người ngoài xã hội có giá trị ngang nhau về quyền lợi và nghĩa vụ. Rõ ràng việc phân chia tài sản hữu hình của DN và tài sản giá trị của DN có ý nghĩa là: tài sản hữu hình của DN thuộc sở hữu pháp nhân, còn cổ đông nắm lấy cổ phiếu thuộc tài sản giá trị của DN. Quyền của cổ đông thông qua quyền nắm giữ cổ phần pháp nhân còn quyền kinh doanh được thực hiện theo chế độ chuyên gia quản lý. Cổ đông nắm giữ cổ phần pháp nhân với tư cách chủ sở hữu tham gia đại hội cổ đông (ĐHCĐ) hoạch định phương hướng chiến lược kinh doanh và giao quyền kinh doanh cho chuyên gia có trình độ quản lý DN. Người được giao quyền kinh doanh có quyền tự chủ thực hiện phương hướng chiến lược kinh doanh của DN một cách có hiệu quả nhất.
Hai là: Chế độ trách nhiệm hữu hạn - tức là trách nhiệm của cổ đông đối với DN là giới hạn theo mức khoản vốn đầu tư, có lợi cho việc bảo vệ quyền lợi của chủ đầu tư. Khi góp vốn đầu tư vào DN, các cổ đông hàng năm được chia cổ tức theo kết quả kinh doanh của DN. Trong trường hợp quá trình kinh doanh của DN xẩy ra rủi ro hụt vốn, bị lỗ hoặc phá sản thì các cổ đông cùng nhau chia sẻ phần tổn thất chung hữu hạn theo số vốn cổ phần của mình mà không có quyền đòi hỏi quyền lợi khác hoặc thoái thác nghĩa vụ.
Ba là: Mang tính xã hội hoá, thị trường hoá, tiền tệ hoá; chứng khoán hoá quyền sở hữu. Thực hiện cải cách DN hay chế độ cổ phần làm cho khu vực phi Nhà nước tăng lên, tính tự do hoá thị trường tăng lên, xoá bỏ việc kiểm soát giá cả, giảm bớt các hạn chế về đầu tư, tăng cường sự công bằng về thuế giữa các hình thái DN khác nhau. Giành được các lợi thế nêu trên các DN đã tăng cường được tính tự chủ trong kinh doanh nhưng cũng đồng nghĩa với việc phải chấp nhận tính cạnh tranh trên thị trường. Một DN muốn đảm bảo khả năng cạnh tranh “sòng phẳng” trên thị trường thì DN đó thực sự phải là DN mang tính xã hội hoá cao - Nghĩa là phải công bố định kỳ những thông tin về tình hình kinh doanh, tình hình tài chính và tình hình xoay chuyển tài sản của DN trước xã hội, v.v... bằng chứng là phải được thông qua một công ty kiểm toán độc lập xác nhận; nói một cách khác DN luôn phải ở vào trạng thái dưới sự giám sát và sức ép của xã hội. Quyền sở hữu của DN cổ phần có thể giao dịch mua bán trên thị trường sơ cấp hoặc thị trường thứ cấp (thị trường chứng khoán). DN có hai loại quyền sở hữu có thể đem ra giao dịch, một là quyền sở hữu tài sản pháp nhân của DN, hai là quyền cổ phần của cổ đông. Giao dịch quyền sở hữu là hình thức phân phối tài nguyên xã hội bằng biện pháp thị trường một cách có hiệu quả.
Với các đặc trưng nêu trên chúng ta dễ dàng thấy rằng một DN muốn tồn tại và phát triển đều phải chịu các yếu tố tác động khuyến khích từ bên trong và từ bên ngoài:
Các yếu tố khuyến khích bên trong bao gồm việc xác định rõ quyền sở hữu, bản chất cơ cấu tổ chức; mối quan hệ giữa chủ sở hữu và người quản lý; các quyết sách chiến lược của ban lãnh đạo tăng giảm vốn cổ phần, phân chia lợi nhuận, v.v...
Các yếu tố khuyến khích từ bên ngoài: Yếu tố cạnh tranh trên thị trường, khả năng thực hiện các nghĩa vụ vay trả, các nghĩa vụ pháp lý như việc giám sát các tài khoản tài chính thông qua kiểm tra, thực hiện các chức năng dịch vụ xã hội, cạnh tranh trong thị trường lao động, v.v...
Xem xét theo khía cạnh này thì công cuộc cải cách DNNN là nhằm xây dựng chế độ công ty hiện đại - Các tiêu chí của công ty hiện đại hội tụ đầy đủ các yếu tố khuyến khích bên trong và bên ngoài chứng tỏ sự ưu việt hơn so với DNNN (xem Sơ đồ 2: Mô hình của Trung Quốc cho công ty hiện đại).
Sơ đồ 2: Mô hình của Trung Quốc cho công ty hiện đại
Chủ sở hữu Động lực bên trong Động lực bên ngoài
Chính phủ
Quản lý
Các chức năng XH
Phá sản
Các thị trường
. Sản phẩm
. Lao động
. Kiểm soát Công ty
Các bộ phận chính
Phụ
Phụ
Phụ
Phụ
Khu vực Tài chính
. Nợ
. Tài sản
Chủ sở hữu Động lực bên trong Các động lực bên ngoài
Bổ nhiệm&
trao đổi
Tác nghiệp
Hội đồng
Giám sát
Các bộ phận chính
Nhà nước
Các chức năng XH Thông qua
hợp đồng
Các quỹ BH XH
Ban Quản lý
Các cổ đông
Lao động
Phá sản
Khu vực Tài chính
. Nợ
. Tài sản
Các thị trường
. Sản phẩm
. Lao động
. Kiểm soát Công ty
Báo cáo lên
Tình hình cơ bản của cổ phần hoá hay cải cách chế độ cổ phần ở Trung Quốc:
Đảng cộng sản và Chính phủ Trung Quốc nhận thức rõ là suốt một thời gian dài duy trì nền kinh tế kế hoạch tập trung đem lại nhiều bất cập trong quản lý kinh tế. Một trong những điểm nổi lên là vấn đề không xác định rõ ràng vai trò Nhà nước với tư cách chủ sở hữu và vai trò Nhà nước với tư cách là cơ quan điều tiết - kể cả khi xác định "chủ đầu tư" của một DNNN theo các khoản của luật công ty cũng rất khó khăn, bởi vì đây không chỉ đơn thuần là xác định nguồn vốn; mà là một vấn đề kinh tế chính trị của việc giao quyền sở hữu đối với DN. Các cơ quan khác nhau của Chính phủ, kể cả các cơ quan chủ quản - thường không nhất trí được coi là (hoặc sẽ là) "chủ đầu tư". Vấn đề giao quyền sở hữu này càng phức tạp hơn trong hầu hết các trường hợp mà DNNN có các khoản nợ (công khai hoặc không công khai) lớn. Người nào cũng muốn có các khoản tài sản có giá trị nhưng không ai muốn nhận các món nợ. Do việc giao quyền sở hữu không rõ ràng đã dẫn đến việc phân bổ không rõ ràng quyền lợi và trách nhiệm đối với các khoản tài sản. Hệ quả quản lý không rõ ràng giữa các cơ quan này là sự chồng chéo lên nhau kể cả chiều ngang và chiều dọc; xảy ra tình trạng việc thực hiện chức năng chủ sở hữu bị xé lẻ và không hoàn chỉnh, không có một cơ quan duy nhất nào chịu trách nhiệm về "Dùng ngân sách cuối cùng" của một DN. Tóm lại vấn đề mấu chốt là xác định quyền sở hữu muốn vậy phải thiết lập một chế độ DN hiện đại cũng có nghĩa là phải phát triển chế độ công ty, phải cải tạo, tổ chức lại DN Trung Quốc bằng chế độ cổ phần, thực hiện sự chuyển biến kinh doanh. Chế độ cổ phần Trung Quốc bắt đầu xuất hiện sau cải cách mở cửa, nó phát triển song song với việc đi sâu cải cách và phát triển nền kinh tế thị trường và cải cách chế độ quyền sở hữu tài sản.
Phương pháp tiến hành chế độ cổ phần ở Trung Quốc:
Thành lập mới:
Nguyên tắc chung: Thành lập công ty cổ phần có ít nhất 5 thành viên. Thông thường ở các tập đoàn lớn hay các Tổng công ty việc thành lập một công ty cổ phần: công ty mẹ khởi xướng - phác thảo chương trình, phương án thành lập, phương thức đầu tư, tỷ lệ đầu tư, cổ phần nhận mua của mình, v.v... đưa cho 4 đơn vị thành viên khác và gặp gỡ thương lượng cụ thể với nhau đi đến thống nhất phương án thành lập công ty cổ phần. Sau đó phát hành cổ phiếu huy động vốn từ ngoài xã hội.
Ví dụ: Công ty Hoàng Sơn Kim Mã. Khi thành lập cổ phần của tập đoàn Hoàng Sơn Kim Mã chiếm tới 98,6% gọi 4 đơn vị thành viên tham gia với tỷ lệ vốn góp: 0.45%, 0.37%, 0.3%, 0.28%, giá trị khi phát hành 5.49 tệ. Số lượng phát hành >20% vốn điều lệ. Cổ tức hàng năm đạt: 20,15%.
Cổ phần hoá có các hình thức:
Chuyển 100% sang thành công ty cổ phần, áp dụng cho các DN như có quy trình sản xuất đơn giản - nghĩa là bán toàn bộ DN cho các cổ đông nắm giữ.
Tách tài sản kinh doanh và phi kinh doanh của DN - tiến hành cổ phần hoá phần kinh doanh (thường Nhà nước nắm cổ phần chi phối "khống cổ") phần phi kinh doanh thành lập DN hành chính hoặc giải thể.
Tổ chức lại toàn bộ từ cũ đầu tư vào mới và phát hành thêm cổ phần, các đơn vị thành viên tham gia (thường Nhà nước nắm cổ phần chi phối).
Thực hiện chế độ cổ phần dù theo hình thức thành lập mới hay cổ phần hoá thì phương án chung đều là tiến hành việc cải tổ DN - loại trừ các yếu tố bất hợp lý - tiến hành tổ chức lại DN trên cở sở phải tổ chức lại tài sản nhằm tách tài sản phi kinh doanh ra khỏi DN - phần còn lại thuộc tài sản kinh doanh do Nhà nước sở hữu, đề ra phương án sản xuất kinh doanh cho DN cổ phần mới, tiến hành tổ chức lại lao động cho hợp lý, thực hiện thay 3 hội cũ: (Đảng - Công đoàn - Đại hội CNVC) bằng cơ chế mới: ( Hội đồng Quản trị - Đại hội cổ đông - Ban kiểm soát).
Một số tồn tại - khó khăn trong việc cải tổ chế độ cổ phần DNNN- những biện pháp và phương pháp cải tạo chế độ cổ phần DNNN ở Trung Quốc:
Một số tồn tại khó khăn:
Quá trình cải tổ chế độ cổ phần DNNN là quá trình đấu tranh gay go phức tạp giữa cái mới và cái cũ. Trước hết là yếu tố con người: Đối với những người làm công tác quản lý như ở các bộ, các ngành họ có nhận thức và hiểu biết rõ về chế độ cổ phần và họ cũng hiểu rằng dường như bị bớt “quyền” khi thực hiện chế độ cổ phần; đây là một trong những nguyên nhân làm chậm tiến độ triển khai cổ phần hoá.
ở Trung Quốc trong thời gian qua: Đối với người lao động họ phấn khởi khi được quyền sở hữu cổ phần nhưng cũng e ngại khi phải chứng tỏ năng lực của mình trước những yêu cầu mới của công việc; ý thức phấn đấu nâng cao trình độ chuyên môn hoàn toàn tự giác, v.v... nếu không tốt họ có thể bị đào thải, mất việc làm, v.v...
Về khía cạnh kinh tế: Trong quá trình cải tạo chế độ cổ phần thường xuất hiện những khó khăn rất phức tạp, dù Chính phủ Trung Quốc đề ra những biện pháp khắc phục tình thế nhưng cũng không thể tránh khỏi những thất thoát tài sản Nhà nước, hoặc hiện tượng tư nhân hoá tài sản nhưng lại xã hội hoá các khoản nợ, trốn thuế, mất vốn hoặc lợi dụng chế độ tiền lương. Đa số các DNNN hay gặp phải chính là gánh nợ quá nặng; chủ yếu là tỷ lệ nợ tài sản của DN quá cao, kết cấu nợ của DN không hợp lý; tỷ trọng các khoản nợ khó đòi lớn.
Một khó khăn nữa là trong việc xác định giá trị DNNN nhiều khi thiếu khách quan và thiếu chính xác; bao gồm khâu cách ly những tài sản không thuộc phạm vi kinh doanh nhằm nâng cao hiệu suất kinh doanh của DN; khâu xác định vốn của NN tại DN để định giới quyền sở hữu cổ phần của NN sao cho bảo vệ được lợi ích của nhà nước bảo đảm cho tài sản Nhà nước được giữ nguyên giá trị hoặc tăng giá trị trong quá trình cải tạo chế độ cổ phần; cơi thông mối quan hệ sở hữu trong DN, khiến cho quyền sở hữu trong doanh nghiệp trở nên rõ ràng. Sau đó tiến hành tổ chức lại tài sản: là tiến hành sắp xếp lại tài sản theo "Luật công ty" và pháp luật, pháp quy hữu quan, khiến kết cấu tài sản, kết cấu tổ chức và mô thức quản lý của DNNN phù hợp với yêu cầu vận hành của DN cổ phần nâng cao hiệu quả kinh doanh tài sản và nâng cao trình độ quản lý của DN.
Những biện pháp và phương thức cải tạo chế độ cổ phần DNNN:
Để đảm bảo cho tiến trình cải tạo chế độ cổ phần được thành công, Nhà nước Trung Quốc đã đề ra những biện pháp và phương thức cải tạo một cách tích cực và triệt để hơn.
Một là: Đề ra điều kiện để DNNN hiện có cải tạo thành DN cổ phần:
DN phải kinh doanh có lãi liên tiếp 3 năm trở lên và có uy tín về nguồn vốn tốt.
Điều kiện của người khởi xướng cần phải phù hợp với luật công ty.
Quy mô của DN (tuỳ ngành nghề, đối phương có tiêu chí về quy mô doanh nghiệp khác nhau).
Việc chỉ đạo DN được xuyên suốt từ Chính phủ làm cho việc tiến hành có trọng điểm đảm bảo chất lượng, nhanh chóng hơn.
Hai là: Hình thức tổ chức lại DNCP Nhà nước là: Công ty hữu hạn cổ phần (kể cả công ty phát hành cổ phiếu, công ty huy động vốn xã hội và công ty huy động vốn định hướng), công ty TNHH, công ty 100% vốn Nhà nước.
Quy định về những lĩnh vực được phép thành lập công ty hữu hạn cổ phần và những lĩnh vực cổ phần Nhà nước cần nắm cổ phần chi phối (khống cổ).
Ba là: Phương thức tổ chức lại chế độ cổ phần DNNN
Trong khi tổ chức lại hoặc xây dựng lại DN có thể chuyển những kim ngạch đầu tư của nhiều phía thành cổ phần.
Sát nhập DN; giữa các DN với nhau hoặc thông qua việc khống cổ để sát nhập, những người có tài sản trong doanh nghiệp có thể duy trì đầu tư cổ phần của mình vào phía DN sát nhập.
Kết hợp việc định giá tài sản DN quy ra cổ phần với phát hành cổ phiếu rồi tổ chức lại DNCP.
Tăng cường thay đổi kết cấu vốn bằng cách chuyển nợ thành cổ phần.
Mở rộng lưu thông cổ phần Nhà nước, đây là biện pháp rất cần thiết và quan trọng vì phần lớn các DNCPH Nhà nước đều nắm cổ phần chi phối (khống cổ) lớn.
Các biện pháp nêu trên nhằm thực hiện chế độ cổ phần một cách có hiệu quả nhất để tổ chức lại DNNN thành công ty hữu hạn cổ phần dưới các hình thức cụ thể sau:
Hình thức khởi xướng tổ chức lại toàn bộ: Đem toàn bộ tài sản của DN đầu tư vào công ty cổ phần khởi xướng thành lập, lấy đó làm vốn cổ phần rồi mở rộng vốn cổ phần, phát hành cổ phiếu, v.v...
Hình thức tổ chức lại toàn bộ: Là chỉ lấy một khoản đầu tư của một DN được tổ chức lại và được tiếp thu các quyền lợi khác với danh nghĩa là bên khởi xướng chung để thành lập công ty cổ phần sau đó lấy đó làm vốn cổ phần, phát hành và giao dịch cổ phiếu.
Hình thức tổ chức lại “lấy một chia hai” là hình thức tách một khâu sản xuất chuyên ngành và hệ thống quản lý khỏi DN để thành lập một (hoặc nhiều) DN độc lập trực thuộc sở hữu DN có vốn sau đó phát hành cổ phiếu ra thị trường.
Hình thức tổ chức lại và cách ly chủ thể: Thành lập công ty cổ phần trên cơ sở các bộ phận sản xuất kinh doanh của DN cũ; tách hệ thống phi sản xuất cũ của DN thành công ty con của công ty khống cổ.
Hình thức tổ chức lại sát nhập chủ thể: Là hình thức sau khi đã sát nhập tổ chức lại thành công ty cổ phần.
Bốn là: Biện pháp khuyến khích người lao động trong doanh nghiệp.
Các DN tổ chức lại đồng thời sắp xếp lao động dư dôi một cách hợp lý, đào tạo lại cho phù hợp công việc; trường hợp không bố trí được việc người lao động được hưởng chế độ trợ cấp 200 tệ/ tháng (Bắc Kinh), các DN ở các địa phương tự thu xếp mức trợ cấp cho phù hợp.
Thành lập các quỹ bảo trợ: gồm Nhà nước, DN và người lao động đóng góp, người lao động được hưởng chế độ bảo hiểm như người trong DNNN.
Cải thiện chế độ lương - thưởng tính theo năm.
Người lao động trong DN được tham gia mua cổ phần ưu tiên hơn người ngoài DN: tỷ lệ cổ phần bán cho người trong DN: 10% - người lao động có quyền mua bán cổ phần của mình cùng việc niêm yết trên thị trường chứng khoán của công ty.
Vai trò của thị trường chứng khoán với cổ phần hoá và cải cách Doanh nghiệp:
Chế độ DN hiện đại là hình thức tổ chức DN liên quan đến nền kinh tế thị trường hiện đại, hình thức chủ yếu là công ty hữu hạn cổ phần mà thị trường cổ phiếu lại gắn liền với chế độ cổ phần. Bởi vậy, việc thiết lập chế độ DN hiện đại và thị trường cổ phiếu có mối liên quan mật thiết tự nhiên, hai thứ đó thúc đẩy và xúc tiến lẫn nhau. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, tại Trung Quốc nó được thể hiện một cách rõ ràng hơn.
Chính sách về phát hành cổ phiếu ở Trung Quốc là điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện chế độ cải cách DN:
Nhà nước Trung Quốc cho phép phát hành các loại cổ phiếu:
Loại A: Chỉ phát hành trong nước mua bán bằng đồng NDT
Loại B: Mua bán trong nước bằng ngoại tệ USD, HK USD
Loại H: Phát hành ngoài nước chủ yếu giao dịch ở HK
Loại N: Phát hành ở Mỹ (NewYork)
Với cơ chế phát cổ phiếu ưu việt như vậy, các DN phát hành cổ phiếu đã nhanh chóng thu hút vốn đầu tư ngoài xã hội, nước ngoài, tăng vốn, tăng khả năng đổi mới trang thiết bị, công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm và tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế.
Đến năm 1998, kết quả đạt được ở Trung Quốc như sau:
- 851 DN phát hành cổ phiếu loại A
- 727 DN phát hành cổ phiếu loại A và H
- 18 DN phát hành cổ phiếu loại A và B
- 80 DN chỉ phát hành cổ phiếu loại N
Sự ra đời và phát triển của thị trường chứng khoán là động lực to lớn cho công cuộc cải cách DN ở Trung Quốc:
Cho phép công ty hữu hạn cổ phần có điều kiện phát hành cổ phiếu ra thị trường, là một trong những biện pháp quan trọng thúc đẩy việc thiết lập chế độ DN hiện đại. Thị trường chứng khoán ra đời từ năm 1986 bắt đầu từ Thượng Hải, Thẩm Quyến, đến năm 1990 có 10 công ty phát hành cổ phiếu, đến cuối 1999 có khoảng 1000 công ty phân bố ở các tỉnh, khu tự trị, thành phố trực thuộc trung ương. Kết cấu ngành nghề chuyển hướng sang các ngành công nghiệp vật liệu cơ sở như: cơ khí, luyện kim, công nghiệp hoá chất, điện tử, v.v... ngành trụ cột và các ngành chủ đạo cơ sở hạ tầng; giao thông, năng lượng, v.v... sức cạnh tranh thị trường và trình độ kinh tế quy mô của các công ty phát hành cổ phiếu không ngừng được nâng cao, đã giúp cho việc nghiên cứu, thăm dò một cách có ích cho cải cách và phát triển DNNN. Thị trường cổ phiếu có thể vừa đồng thời thúc đẩy việc cải cách DNNN và cải tạo chế độ công ty từ huy động vốn, cơ chế hoạt động để tổ chức lại công ty:
Một là: DNNN có thể thông qua cải tạo để trở thành công ty được phép phát hành cổ phiếu, giành con đường huy động vốn trực tiếp trên thị trường, cải cách kết cấu tài chính DN, còn có thể tăng nhanh nhịp bước cải tạo công nghệ kỹ thuật tăng phát triển quy mô DN để DN có thể tham gia cạnh tranh quốc tế ngày càng có hiệu quả.
Hai là: Việc phát hành cổ phiếu có lợi cho DN thực sự trở thành thực thể pháp nhân và chủ thể cạnh tranh thị trường tự chủ kinh doanh, lãi ăn lỗ chịu, tự mình phát triển và tự chế ước. Việc thiết lập cơ chế quản lý công ty theo chế độ công ty hữu hạn cổ phần đã đẩy nhanh nhịp độ xây dựng chế độ DN hiện đại.
Ba là: Thị trường cổ phiếu đã cung cấp vũ đài rộng hơn cho tổ chức lại DNNN. Triển khai hoạt động tổ chức lại tài sản, đã thúc đẩy việc tổ chức mang tính chiến lược DNNN. Quá trình tổ chức lại là quá trình chọn lọc, thực hiện cái tốt giữ lại, cái xấu bỏ đi đã ưu hoá kết cấu tổ chức của DN, cải thiện cơ chế phát triển DN, nâng cao khả năng tổng hợp của DN khiến DN đi lên phát triển không ngừng. Ngoài ra thông qua các hoạt động tổ chức lại vốn trên thị trường cổ phiếu và hướng cho tiền vốn chảy vào các ngành có ưu thế, đã đóng vai trò tích cực trong việc nâng cao kết cấu của các ngành DNNN Trung Quốc.
Bốn là: Giá cổ phiếu là thước đo giá trị của công ty phát hành cổ phiếu đó. Một công ty sau khi đã tiến hành giao dịch trên thị trường và muốn duy trì giá cổ phiếu luôn không ngừng tăng lên thì phải duy trì nhịp độ tăng trưởng sản xuất kinh doanh mang tính chiến lược lâu dài.
Năm là: ở các nước đều ấn định tiêu chuẩn rõ ràng đối với công ty phát hành cổ phiếu. Công ty có tư cách phát hành có phiếu, chứng tỏ chủ đầu tư có sự đánh giá tích cực đối với việc quản lý kinh doanh cũng như tương lai phát triển của công ty. Đồng thời những thông tin về tình hình giao dịch của công ty liên tiếp được công bố trước xã hội qua môi giới trung gian, báo chí, truyền hình, v.v... mở rộng tiếng tăm của công ty, nâng cao địa vị và sự ảnh hưởng của công ty, rất có lợi cho việc gây dựng hình tượng mẫu mã cho sản phẩm của mình, làm tăng số lượng tiêu thụ sản phẩm trên thị trường, nâng cao khả năng mở rộng nghiệp vụ của công ty.
Nói tóm lại, thông qua thị trường chứng khoán việc công ty hoá, đa dạng hoá sở hữu, thực hiện chế độ cổ phần, v.v... mới trở thành hiện thực và tính hiệu quả của cơ chế quản lý mới được cải thiện và phát huy. Qua số liệu khảo sát 156 DNNN do Ngân hàng thế giới thực hiện cuối 1994, trong số 44 DNNN đã trở thành công ty theo luật công ty, tỷ lệ sở hữu trung bình của Nhà nước là 53%, của các chủ ngoài khu vực Nhà nước (các công ty ngoài quốc doanh, công nhân viên, cán bộ quản lý lương các cá nhân khác) là 34% và của các nhà đầu tư nước ngoài là 13%. Điều đó cũng nói lên rằng công ty hữu hạn cổ phần hoạt động theo chế độ công ty hiện đại là công ty mang tính xã hội hoá, thị trường hoá, chứng khoán hoá, v.v... Ngược lại những vấn đề đó là yêu cầu tất yếu khách quan đối với công ty hữu hạn cổ phần.
Những vấn đề chủ yếu còn tồn tại hiện nay:
Thực hiện công cuộc cải cách DNNN là một nhiệm vụ quan trọng và rất gian nan, phức tạp. Thay đổi hình thức sở hữu là thay đổi cơ chế quản lý, là thay đổi nếp nghĩ, cách làm, v.v... Thế nhưng nhiều địa phương hiểu biết một cách quá đơn giản đối với việc cải tạo công ty cổ phần, việc cải tạo chế độ cổ phần thường được biểu hiện ở hình thức bên ngoài, dẫn đến hiện tượng “đi giầy mới, bước đường cũ”, không đạt được kết quả như mong muốn. Chủ yếu biểu hiện như sau:
Sự sai lệch giữa nhận thức và việc làm, nhiều DNNN khi cải tạo chế độ cổ phần thường tồn tại khuynh hướng “nặng nề huy động vốn, nhẹ về chuyển đổi cơ chế”, nhiều DN không hoạch định chiến lược kinh doanh để nâng cao hiệu quả kinh tế, mà dựa vào việc thao túng lợi nhuận; “đóng gói” DN để phát hành cổ phiếu.
Kết cấu cổ phần không hợp lý, quyền khống chế cổ phần của công ty mẹ quá tập trung, không có lợi cho các cổ đông trung bình và nhỏ. Thông thường kết cấu vốn của công ty cổ phần: cổ phần Nhà nước: 32%, cổ phần pháp nhân (công ty phát hành): 30%, cổ phần lưu thông: khoảng 35% (phần huy động bên ngoài). Song cần phải thấy rằng cơ cấu thực hiện cổ phần Nhà nước thường không phải là cơ cấu Chính phủ mà là công ty mẹ của các công ty phát hành. Do đó, lợi ích của chủ đầu tư trung bình và nhỏ của công ty phát hành sẽ không được đảm bảo.
Trong quá trình tổ chức lại tài sản, hiện tượng “gán ghép” và đa nguyên hoá một cách quá đáng tương đối phổ biến - Đó là hiện tượng “vứt bỏ gánh nặng” hoặc “lấy giầu dẫn dắt nghèo” một số cơ cấu Nhà nước đưa một số DN yếu kém làm ăn thua lỗ, nợ nần chồng chất nhưng vẫn cố khoác lên mình tư cách là công ty phát hành cổ phiếu để các công ty khác sáp nhập hoặc mua tư cách. Cũng có nhiều công ty tham gia cổ phần của nhiều công ty khác thuộc các lĩnh vực ngành nghề khác, kết quả là các gánh nặng quản lý DN quá nặng đã kìm hãm sự phát triển của bản thân mình.
Cải cách thiếu đồng bộ có nơi vẫn áp dụng cơ chế quản lý cũ cho công ty hữu hạn cổ phần do đó dẫn đến việc chuyển đổi cơ chế kinh doanh của DN khó mà thu được tiến triển về thực chất.
Những biện pháp cải tiến:
Để khắc phục những tồn tại nêu trên Chính phủ Trung Quốc đã ra một số biện pháp hữu hiệu:
Một là: Cần phải cải tạo quyền cổ phần vào phương thức thi hành quyền cổ phần: Trước hết cần phải phân loại những DNNN nào Nhà nước thực sự cần giữ khống cổ - sau đó mở rộng các quy chế để tăng khả năng lưu thông cổ phần Nhà nước - là lưu thông tài nguyên quốc gia. Đối với các DN này Nhà nước giảm thiểu quyền sở hữu, chỉ cần giữ vai trò điều tiết thông qua các chính sách quản lý kinh tế. Cũng chính là việc tăng quyền cổ phần của pháp nhân để họ tự chủ hơn, trách nhiệm hơn với quyền của mình mặt khác cũng làm tăng các yếu tố tác động từ bên ngoài thông qua quyền cổ phần của họ mua được cổ phần của Nhà nước. Giảm thiểu quyền cổ phần áp đặt của những cổ đông lớn (Nhà nước và pháp nhân) sẽ làm tăng quyền của các cổ đông trung bình và nhỏ. Sự bình đẳng giữa các cổ đông với nhau sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho mọi cổ đông thi hành quyền cổ phần của mình một cách tốt nhất. Rõ ràng khi ưu hoá quyền cổ phần công ty sẽ thu được ảnh hưởng đi vào trong nội bộ công ty, tham gia vào sự vận hành của công ty và khi công ty bán cổ phần trên thị trường cổ phiếu sẽ thu được những ảnh hưởng đến quyết sách và vận hành của công ty từ bên ngoài.
Hai là: Cải thiện cơ chế quản lý, khiến nó phát huy vai trò quản trị một cách có hiệu quả.
Thực chất việc cải thiện cơ chế quản lý là diễn biến của “công ty hoá” nhằm mục đích l
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- KLTN.doc