Tài liệu Đề tài Những đổi mới trong công tác kế hoạch hóa ở Việt Nam và những phương hướng tiếp tục đổi mới công tác kế hoạch hóa ở Việt Nam: Lời mở đầu
Một thời gian khá dài trước đây, Việt Nam đã từng duy trì một nền kinh tế tập trung bao cấp với sự điều tiết trực tiếp những hoạt động kinh tế thông qua quá trình đưa ra những quyết định mang tính pháp lệnh từ trung ương. Các hoạt động kinh tế của các cấp địa phương đều tiến hành theo những chỉ tiêu cụ thể do nhà nước giao. Trong thời kỳ này có thể nói rằng KHH nền kinh tế quốc dân là đặc trưng và là tính ưu việt riêng của cơ chế tập trung, nó đã giúp nước ta huy động được các nguồn lực phục vụ cho công cuộc kháng chiến thành công.
Tuy nhiên, việc duy trì quá lâu cơ chế tập trung đã thủ tiêu tính năng động và hiệu quả của các hoạt động kinh tế. Đặc biệt là trong cơ chế thị trường hiện nay thì một nền kinh tế mang tính cấp phát với hệ thống chỉ tiêu chằng chịt không còn phù hợp nữa. Ngày nay, trước xu thế hội nhập quốc tế diễn ra mạnh mẽ và sự biến động khôn lường của cơ chế thị trường thì Nhà nước chỉ nên giữ vai trò điều tiết vĩ mô và định hướng phát triển cho nền kinh t...
30 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1168 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Những đổi mới trong công tác kế hoạch hóa ở Việt Nam và những phương hướng tiếp tục đổi mới công tác kế hoạch hóa ở Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Một thời gian khá dài trước đây, Việt Nam đã từng duy trì một nền kinh tế tập trung bao cấp với sự điều tiết trực tiếp những hoạt động kinh tế thông qua quá trình đưa ra những quyết định mang tính pháp lệnh từ trung ương. Các hoạt động kinh tế của các cấp địa phương đều tiến hành theo những chỉ tiêu cụ thể do nhà nước giao. Trong thời kỳ này có thể nói rằng KHH nền kinh tế quốc dân là đặc trưng và là tính ưu việt riêng của cơ chế tập trung, nó đã giúp nước ta huy động được các nguồn lực phục vụ cho công cuộc kháng chiến thành công.
Tuy nhiên, việc duy trì quá lâu cơ chế tập trung đã thủ tiêu tính năng động và hiệu quả của các hoạt động kinh tế. Đặc biệt là trong cơ chế thị trường hiện nay thì một nền kinh tế mang tính cấp phát với hệ thống chỉ tiêu chằng chịt không còn phù hợp nữa. Ngày nay, trước xu thế hội nhập quốc tế diễn ra mạnh mẽ và sự biến động khôn lường của cơ chế thị trường thì Nhà nước chỉ nên giữ vai trò điều tiết vĩ mô và định hướng phát triển cho nền kinh tế, tạo một môi trường vĩ mô thuận lợi cho các hoạt động kinh tế. Vì vậy, KHH với vai trò là một trong những công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước cũng cần phải có sự đổi mới phù hợp với yêu cầu thực tế.
Tại Đại hội IX, Đảng ta cũng đã khẳng định “ cần tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường, đổi mới và nâng cao hiệu lực quản lý kinh tế của nhà nước”, đồng thời “ Tiếp tục đổi mới các công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế. Đổi mới hơn nữa công tác kế hoạch hoá, nâng cao chất lượng xây dựng các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội”.
Chính vì những lý do trên, bài nghiên cứu này không có mục đích gì khác là nhằm giúp người đọc hiểu rõ hơn vì sao cần phải đổi mới công tác KHH ở Việt Nam, thấy được những bước tiến trong công tác KHH ở nước ta, kinh nghiệm về làm KHH ở một số nước, và từ đó đưa ra những ý kiến về phương hướng đổi mới công tác KHH và từ đó đưa ra những ý kiến về phương hướng đổi mới công tác KHH ở Việt Nam.
Bài viết kết cấu gồm ba phần:
Phần I: Lời mở đầu
Phần II: Những đổi mới trong công tác KHH ở Việt Nam và những phương hướng tiếp tục đổi mới công tác KHH ở Việt Nam.
Phần II gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở của vấn đề đổi mới công tác KHH ở Việt Nam.
Chương 2: Những đổi trong công tác KHH ở Việt Nam trong thời gian qua.
Chương 3: Phương hướng tiếp tục đổi mới công tác KHH ở nước ta trong thời gia tới.
Phần III: Kết luận
Nhóm tác giả xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn của thầy giáo Ngô Thắng Lợi, đồng cảm ơn thầy Phạm Thanh Hưng đã giúp đỡ nhóm tác giả trong quá trình viết bài. Mặc dù đã có nhiều cố gắng xong không tránh khỏi những thiếu sót, nhóm tác giả rất mong có được sự đóng góp ý kiến từ phía bạn đọc. Nhóm tác giả xin chân thành cảm ơn.
Chương 1:
Cơ sở của vấn đề đổi mới công tác kế hoạch hoá ở Việt Nam.
1.1. Kế hoạch hoá ở các nước trên thế giới
Kinh nghiệm của các nướcphát triển:
KHH ở Pháp : Nước Pháp là một nước có nền kinh tế thị trường phát triển, đồng thời nước từ lâu đã có một nhà nước mạnh, giữ vai trò rất quan trọng tong đời sống kinh tế, xã hội. Và công tác KHH ở đây cũng tiến hành theo một phươg thức riêng với hai đặc điểm nổi bật là: thứ nhất, KHH chủ yếu mang tính hướng dẫn chứ không bắt buộc. Thứ hai, KHH liên tục biến đổi và phát triển.
Tuy có nhiều điểm tiến bộ nhưng theo nhận xét của nhiều học giả phương Tây, KHH của Pháp vẫn còn thuộc loại nặng nề, có phần cổ hủ, tiến triển không kịp với thời đại.
Từ năm 1975, do sự phát triển không ngừng của nền kinh tế thế giới với nhiều biến đổi to lớn, hơn thế ở Pháp lại diễn ra cuộc khủng hoảng KHH trầm trọng, nên quá tình cải cách KHH ngày càng được thúc đẩy một cách khẩn trương. Và từ thập kỷ 80, nhất là đầu thập kỷ 90, sự thay đổi trong công tác KHH ở Pháp diễn ra theo các nội dung sau:
Về nhiệm vụ và nội dung của kế hoạch tập trung chủ yếu vào công tác dự báo và cung cấp những biện pháp điều tiết uyển chuyển nhằm vận hành tốt hơn cơ chế thị trường, đồng thời thiết lập một khuôn khổ nhất quán các mục tiêu và chính sách công trung hạn, cố gắn với một tầm nhìn dài hạn.
Về phương pháp lập kế hoạch: tăng cường sự tham gia đóng góp của các viện, các tung tâm, các nhà khoa học; Nâng cao chất lượng dự báo; Vẫn đảm bảo nguyên tắc thương thảo với mọi tác nhân kinh tế; Nâng cao trình độ và nhận thức về việc đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch và các chính sách kinh tế.
KHH kinh tế vĩ mô ở Nhật Bản: Nhật Bản đã sớm xây dựng nền kinh tế thị trường ngay từ những cuộc cải cách dưới thời kỳ Minh Trị duy tân từ năm 1868, nhưng điều đó không có nghĩa là Chính phủ Nhật đã không sử dụng công cụ KHH trong quản lý kinh tế. Mà ngược lại, hệ thống KHH ở Nhật có những nét độc đáo và KHH đã đóng vai trò quan trọng trong nhiều lĩnh vực.
Điểm nổi bật trong công tác KHH ở Nhật, đó là mô hình KHH “cuốn chiếu”: mỗi kỳ kế hoạch thường được kết thúc sớm hơn dự kiến và thay thế bằng kỳ kế hoạch mới; các kế hoạch thường gối đầu lên nhau. Mô hình KHH này thể hiện tính năng động, nhạy bén và đáp ứng được sự thay đổi nhanh chóng của nền kinh tế thị trường.
KHH kinh tế của Nhật Bản chú trọng vạch ra các biện pháp chính sách mà Chính phủ định sử dụng để quản lý nền kinh tế xét từ góc độ phát triển dài hạn. Còn các kế hoạch phát triển chủ yếu là kế hoạch định hướng, tạo những tiền đề cho sự phát triển của các loại hình kinh tế.
Với mô hình KHH kiểu “ cuốn chiếu”, Nhật Bản đã đạt được nhiều thành công trong quá trình phát triển kinh tế, và đây cũng là bài học kinh nghiệm quý báu cho Việt Nam trong việc đổi mới công tác KHH thời gian tới.
KHH ở các nước đang phát triển: trong những thập niên đầu tiên của quá trình phát triển, hầu hết các nước đang phát triển đã coi kế hoạch hoá quốc gia trực tiếp là cơ chế tổ chức duy nhất giúp họ vượt qua những trở ngại to lớn đối với sự phát triển và duy trì tăng trưởng cao.
Nhưng đến thập niên 60, thì các nước đang phát triển lâm vào thời kỳ khủng hoảng KHH. Sự khủng hoảng này đã dẫn đến sự thay đổi lớn, căn bản trong công tác KHH kể từ thập niên 70: Nội dung của kế hoạch ngày càng đầy đủ hơn, bao hàm không chỉ về kinh tế mà còn cả xã hội, môi trường; Bảo đảm tính chất thực tế hơn của hệ thống KHH; Quy trình lập kế hoạch cũng được thay đổi theo hướng tăng cường chất lượng của hệ thống số liệu, thông tin, tăng cường mối quan hệ giữa các nhà kế hoạch với các nhà quản lý và các nhà chính trị. Với sự thay đổi trên thì hệ thống KHH ngày càng giữ vai trò quan trọng trong quá trình phát triển nền kinh tế của các nước này.
1.2.Cơ sở thực tiễn của vấn đề đổi mới công tác KHH ở Việt Nam.
Nghiên cứu lịch sử các học thuyết kinh tế, chúng ta thấy rằng: Vấn đề Nhà nước và thị trường là mối quan tâm hàng đầu của nhiều nhà kinh tế trong nhiều thập kỷ qua, không những ở nước ta mà còn ở nhiều nước trên thế giới, vì muốn tìm ra mô hình quản lý kinh tế vĩ mô thích hợp và có hiệu quả hơn.
ở Việt Nam, trong suốt một thời gian đã duy trì cơ chế tập trung với công cụ KHH là chủ yếu, thị trường hầu như không có vai trò gì, bởi vì toàn bộ kế hoạch sản xuất đều phụ thuộc vào các chỉ tiêu mà Nhà nước giao cho. Một nền kinh tế hoàn toàn không có sự cạnh tranh.
Với cơ chế này, chúng ta đã thực hiện thành công các mục tiêu khôi phục, cải tạo và phát triển kinh tế sau hoà bình 1954, góp phần vào sự thành công của công cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược.
Tuy vậy, sau năm 1975, tình kinh tế trong nước và thế giới có nhiều sự biến đổi to lớn. Chính từ yêu cầu của vấn đề sản xuất và hiệu quả kinh tế đã nảy sinh vấn đề cần phải đổi mới công tác KHH cho phù hợp với sự phát triển của thực tế.
Đại hội lần thứ VIII của Đảng cộng sản Việt Nam đã xác định “Cơ chế kinh tế áp dụng ở Việt Nam là cơ chế thị trường có sự điều tiết của Chính phủ theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Khác với nhiều nước có nền kinh tế chuyển đổi, đổi mới kinh tế ở Việt Nam không có nghĩa là từ bỏ hoặc coi nhẹ KHH kinh tế vĩ mô, mà yêu cầu đặt ra là phải có những những thay đổi cần thiết, đáp ứng được những đòi hỏi và điều kiện mới của nền kinh tế. Muốn đáp ứng được các yêu cầu đó, đòi hỏi phải đổi mới mạnh hơn nữa các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô, trong đó đặc biệt là phải đổi mới công tác KHH. Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương khoá VIII đã khẳng định chủ trương đổi mới quản lý nhà nước về kinh tế – xã hội là “ Chuyển mạnh sang quản lý kinh tế – xã hội bằng tổ chức, luật pháp, chính sách, chế độ, quy hoạch, giáo dục, thuyết phục, thanh tra, kiểm tra và rất quan trọng là bằng các công cụ quản lý vĩ mô và sức mạnh kinh tế của Nhà nước(…), đẩy mạnh công tác hoạch định và hướng dẫn thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phảt triển…”.
Như vậy, đối với Việt Nam, KHH là một công cụ quản lý kinh tế vĩ mô hết sức quan trọng. Vì vậy, cần phải tiến hành đổi mới công tác KHH trên tất cả các phương diện, từ tư duy, quan điểm định hướng, nội dung, phương pháp cho đến cơ cấu tổ chức và cách thức chỉ đạo kế hoạch nhằm đáp ứng được đầy đủ hơn các nhu cầu của sự phát triển kinh tế.
Chương 2:
quá trình đổi mới kế hoạch hoá ở việt nam
2.1. Thực trạng đổi mới công tác kế hoạch hoá ở Việt Nam.
Kế hoạch hoá trong cơ chế cũ được coi là công cụ chủ yếu nhất để quản ký kinh tế. Thông qua hệ thống các cơ quan kế hoạch nhà nước từ trung ương đến địa phương để xây dựng kế hoạch, giao chỉ tiêu kế hoạch cho các cơ sở kinh tế, điều hành, theo dõi và xét duyệt việc hoàn thành kế hoạch hoá mà nhà nước có thể chỉ huy được nền kinh tế. Việc thực hiện cơ chế đó đến đầu thập kỷ 80 đã trở thành lực cản đối với sự phát triển kinh tế.
Công tác kế hoạch hoá trong thời kì này được cải tiến dần theo hướng chuyển từ hoạch hoá tập trung mang tính chất pháp lệnh trực tiếp sang kế hoạch hoá gián tiếp. Nhà nước xây dựng chiến lược phát triển với các mục tiêu lớn, các chỉ tiêu kinh tế chủ yếu và điều tiết nền kinh tế bằng các chính sách, các công cụ kinh tế vĩ mô để dẫn đến nền kinh tế theo định hướng đề ra cho từng giai đoạn. Các cơ quan nhà nước chú trọng hơn vào việc nghiên cứu chiến lược, xây dựng quy hoạch, kế hoạch dài hạn, trung hạn, bảo đảm các quan hệ cân đối tổng hợp nền kinh tế và xây dựng chính sách, biện pháp để xây dựng kế hoạch nhà nước đề ra. Nhà nước cũng có thể triển khai thực hiện kế hoạch thông qua các chương trình mục tiêu, các dự án cụ thể.
2.1.1. Xây dựng chiến lược phát triển kinh tế-xã hội.
Nét nổi bật trong công tác kế hoạch hoá hơn 10 năm qua là kế hoạch hoá đã chuyển dần từ kế hoạch hoá pháp lệnh sang kế hoạch hoá định hướng với việc tập trung nỗ lực xây dựng chiến lựơc phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng quy hoạch phát triển. Việc tăng cường nghiên cứu xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển đã tạo ra cơ sở khoa học và thực tiễn cho công tác kế hoạch hoá trung hạn và kế hoạch hoá hàng năm.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của đảng (1991) lần đầu tiên đã đưa ra bản chiến lược phát triển kinh tế xã hội thời kì 1991 - 2000 với mục tiêu tổng quát là đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng khủng hoảng, ổn định tình hình chính trị – xã hội phấn đấu vượt qua tình trạng nghèo và kém phát triển, cải thiện đời sống, củng cố quốc phòng an ninh, tạo điều kiện cho đất nước phát triển nhanh hơn vào đầu thế kỷ XXI. Quan điểm phát triển của chiến lược 1991-2000:
Phát triển kinh tế xã hội theo con đường củng cố độc lập dân tộc và xây dựng CNXH ở nước ta là quá trình thực hiện dân giàu, nước mạnh, tiến lên hiện đại trong một xã hội mà nhân dân làm chủ, nhân ái, có văn hoá, có kỷ cương, xóa bỏ áp bức bất công tạo điều kiện cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc; Mọi người được tự do kinh doanh theo pháp luật, được bảo hộ quyền sở hữu và thu nhập hợp pháp. Nền kinh tế có nhiều thành phần với nhiều dạng sở hữu và hình thức tổ chức kinh doanh; Nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước; Mở rộng quan hệ kinh tế; Hiệu quả kinh tế xã hội là tiêu chuẩn quan trọng nhất; Phát triển giáo dục - đào tạo, khoa học công nghệ; Tăng trưởng kinh tế phải gắn với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hoá, bảo vệ môi trường; Dân chủ hoá đời sống xã hội; Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế xã hội với ổn định và đổi mới về chính trị, tăng cường củng cố quốc phòng an ninh, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội .
Kết quả đạt được là nền kinh tế có bước phát triển về lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất và hội nhập kinh tế quốc tế đời sống vật chất, tinh thần của nhân đân ta được cải thiện rõ rệt, văn hoá xã hội không ngừng tiến bộ; Thế và lực của đất nước hơn hẳn 10 năm trước, khả năng tự chủ được nâng lên, tạo thêm điều kiện đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước.
Nguyên nhân của những kết quả này là đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng cùng những cố gắng và tiến bộ trong công tác quản lý của nhà nước đã phát huy được nhân tố có ý nghĩa quyết định là ý chí kiên cường, tính năng động, sáng tạo và nỗ lực phấn đấu của nhân dân ta.
Chiến lược này được điều chỉnh thông qua đại hội Đảng lần thứ VIII (1996) với trọng tâm đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước. Đây là sự mở đầu giai đoạn áp dụng phối hợp chiến lược với quy hoạch, giữa quy hoạch với kế hoạch trung hạn và ngắn hạn trong hệ thống kế hoạch hoá. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đề ra mục tiêu tăng trưởng kinh tế phù hợp có nội dung đáp ứng được yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nứơc, phát huy tiềm lực trong nước và thu hút nguồn lực bên ngoài, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng các chính sách kinh tế phù hợp với điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2004) đã đề ra chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001-2010 với mục tiêu tổng quát là: Đưa nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển; Nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân; Tạo nền tảng đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường, thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN được hình thành về cơ bản; Vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao. Chiến lược phát triển KT-XH 2001-2010 đã đề ra năm quan điểm phát triển: Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường; Coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng đồng bộ nền tảng cho một nước công nghiệp là yêu cầu cấp thiết; Đẩy mạnh công cuộc đổi mới, tạo động lực giải phóng và phát huy mọi nguồn lực; Gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế xã hội với quốc phòng an ninh.
Sự xuất hiện của bản chiến lược đầu tiên đã giúp chúng ta có được cái nhìn rõ nét hơn về tương lai của đất nước, về cái đích mà đất nước ta sẽ hướng tới, từ đó, sẽ xác định được hướng đi của mình một cách có cơ sở hơn và thêm tin tưởng vào những chính sách Nhà nước đề ra.
2.1.2. Về công tác quy hoạch phát triển:
Không thể thiếu được quy hoạch trong lý thuyết và thực tiễn của KHH. Nêú chiến lược phát triển là vạch ra các đường nét hướng đạo cho sự phát triển trong một thời gian dài thì quy hoạch phát triển thể hiện tầm nhìn, sự bố trí chiến lựơc về thời gian va không gian lãnh thổ, xây dựng khung vĩ mô về tổ chức không gian để chủ động hướng tới mục tiêu, đạt hiệu quả cao, phát triển bền vững.
Trên thực tế, tập trung sức xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển, các chương trình dự án lớn trong cả nước và cho từng ngành, từng vùng, từng lĩnh vực. Thực hiện phương châm này, trong những năm qua Nhà nước đã thực hiện quy hoạch một số ngành như: điện lực, bưu chính viễn thông, giao thông vận tải các khu công nghiệp, khu chế xuất, tạo cơ sở cho sự phát triển chung của nền kinh tế, đóng góp một phần không nhỏ cho công cuộc cải cách kinh tế.
Việc hình thành các vùng kinh tế trọng điểm ở miền Bắc, miền Nam và miền Trung đã tạo ra những khu vực phát triển tập trung thu hút các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài, đã làm thay đổi không những bộ mặt KT - XH ở những vùng này mà còn góp phần quan trọng cho tăng trưởng của toàn nền kinh tế, tạo điều kiện thúc đẩy các vùng lân cận phát triển thành vệ tinh của những cực phát triển trên.
Nhìn chung công tác quy hoạch đã có những cố gắng và chuyển biến bước đầu, đã gắn được mục tiêu chiến lược vào nội dung quy hoạch, xác định được tiềm năng, định hướng phát triển cho từng vùng, từng địa phương. Tài liệu quy hoạch đã bước đầu giúp cho các cấp lãnh đạo ở trung ương và địa phương xác định mục tiêu, nhiệm vụ và tăng cường sự chỉ đạo phát triển KT-XH ở từng địa phương cũng như cả nước.
Công tác phân vùng quy hoạch đã có sự đổi mới và phát triển từ thấp đến cao. Lúc đầu, chúng ta chia cả nước thành bốn vùng và sau đó đã được thay đổi và chia cả nước thành bẩy vùng.
Sự đổi mới trong công tác quy hoạch là một trong những điểm đổi mới trong công tác làm kế hoạch ở nước ta. Từ đó góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế của đất nước, cũng như sự phát triển kinh tế của chính vùng đó thông qua thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
2.1.3. Về công tác kế hoạch phát triển.
Kế hoạch phát triển là sự cụ thể hoá của chiến lược và quy hoạch phát triển, là một công cụ định hướng được thể hiện bằng hệ thôngs các chỉ tiêu mục tiêu, các chỉ biện pháp và các giải pháp chính sách cơ bản áp dụng trong một khoảng thời gian nhất định.
2.1.3.1. Chuyển dần trọng tâm sang KHH định hướng phát triển năm năm.
Trên cơ sở chiến lược phát triển KT-XH và quy hoạch phát triển, các kế hoạch năm:1991-1995 và 1996-2000 đã được xây dựng vơí những thay đổi lớn về nội dung như: tăng cường KHH vĩ mô; Từng bước xoá bỏ KHH mệnh lệnh và giảm đến mức tối thiểu các chỉ tiêu pháp lệnh, chuyển sang KHH định hướng, chú ý hơn đến các chỉ tiêu trên các lĩnh vực xã hội, khoa học và công nghệ; Đã có nhiều cố gắng xây dựng và điều hành đảm bảo các cân đối lớn trong KHH giá trị; Xây dựng và thực hiện các chương trình dự án quốc gia; Chú trong xây dựng cơ sở hạ tầng KT-XH; Mở rộng quan hệ đối ngoại và hợp tác quốc tế.
Phương pháp xây dựng và quản lý kế hoạch năm năm bước đầu có sự đổi mới trong lĩnh vực ngân sách, chuyển từ phương pháp truyền thống hay phương pháp xây dựng và quản lý kế hoạch năm năm thời kỳ cố định sang phương pháp đổi mới hay phương pháp xây dựng và quản lý kế hoạch năm năm theo mô hình cuốn chiếu. Cụ thể:
Chuyển từ việc thời kỳ của năm năm là cố định sang thời gian của kỳ kế hoạch là năm năm nhưng thời kỳ kế hoạch có sự thay đổi tức là luân chuyển theo kiểu cuốn chiếu.
Chuyển từ việc các chỉ tiêu đựơc xây dựng là các chỉ tiêu được tính bình quân cho một năm của cả kỳ kế hoạch hoặc là tính cụ thể đích đạt được cho năm cuối cùng sang xây dựng chỉ tiêu cụ thể cho năm đầu tiên, sau đó dự tính chỉ tiêu cho năm tiếp theo và dự báo cáo chỉ tiêu cơ bản cho ba năm còn lại; Sau một năm, trên cơ sở kết quả thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch của năm đó kết hợp với những tình hình cụ thể của thị trường mà chúng ta dự kiến được; Từ đó các nhà kế hoạch sẽ xây dựng kế hoạch cụ thể cho năm thứ hai và năm thứ hai sẽ là năm đầu của thời kỳ mới và xây dựng chỉ tiêu cho năm thư ba tức là năm thứ hai của thời kỳ mới và dự báo các chỉ tiêu cơ bản cho năm cuối mới.
2.1.3.2. Về kế hoạch hàng năm.
Kế hoạch hàng năm cũng đã chú trọng đến những cân đối lớn, đặc biệt là cân đối tài chính- tiền tệ, cân đối cán cân thanh toán quốc tế, cân đối vốn đầu tư toàn xã hội. Chính sách tài khoá, tiền tệ và chinh sách tỷ giá đã được nghiên cứu hoạch định và được sử dụng tương đối hợp lý trở thành nhân tố quan trọng đối với việc duy trì ổn định kinh tế vĩ mô. Thực tế nói trên đã chứng tỏ ý tưởng chuyển dần việc điều hành kế hoạch từ can thiệp vi mô sang chú trọng các vấn đề vĩ mô, các cân đối lớn hơn ngày càng thể hiện rõ và phát huy hiệu lực thực tế.
Về trình tự của việc xây dựng kế hoạch một năm cũng đã có sự đổi mới. Nếu trước kia là quy trình ba xuống hai lên thì hiện nay quy trình này được cải tiến như sau:
Từ tháng 4 tới tháng 6: hình thành khung định hướng.
Tháng 7: tổ chức hội nghị hướng dẫn làm kế hoạch trên cơ sở khung định hướng xây dựng kế hoạch.
Tháng 8 tới tháng 9: các bộ ngành địa phương xây dựng kế hoạch và Bộ KH & ĐT tiến hành tổng hợp bản kế hoạch KTQD.
Tháng 10 tới tháng 11: bản kế hoạch tổng hợp KTQD được trình, duyệt qua chính phủ, ban chấp hành trung ương Đảng và Quốc hội duyệt.
Tháng 12: hoàn chỉnh và đưa kế hoạch xuống các cấp thực hiện.
2.1.3.2: Đổi mới hệ thống chỉ tiêu kế hoạch.
Hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh đã được rút gọn đáng kể chỉ còn chỉ tiêu thu, chi ngân sách nhà nước, phân bổ vốn đầu tư xây dựng cơ bản thuộc về nguồn vốn ngân sách nhà nước. Xoá bỏ việc giao chỉ tiêu pháp lệnh về sản xuất và chỉ duy từ một số chỉ tiêu về lưu thông vật tư, hàng hoá quan trọng nhằm ổn định cung cầu.
Phần lớn các chỉ tiêu kế hoạch hiện nay là chỉ tiêu giá trị, các chỉ tiêu kế hoạch hiện vật nói chung đã được giảm bớt đáng kể đồng thời duy trì một số cân đối hiện vật thiết yếu. Hệ thống cân đối hiện vật thiết yếu như xăng dầu, lương thực đã tỏ ra là cần thiết cho ổn định kinh tế xã hội, các bảng cân đối giá trị ngày càng được mở rộng và nâng cao.
Ngoài xu hứơng "giá trị hoá ", trọng tâm của các chỉ tiêu kế hoạch đang chuyển dần sang điều tiết kinh tế vĩ mô và các chỉ tiêu xã hội .
2.1.3.3. Đổi mới quy trình lập kế hoạch:
Trong thời gian qua, quy trình lập kế hoạch đã có nhiều thay đổi căn bản. Hình thức giao số kiểm tra đã được thay thế bằng việc cung cấp thông tin cần thiết nhằm hướng các ngành, địa phương và đơn vị cơ sở xây dựng, tổng hợp kế hoạch theo hướng mục tiêu chung của nhà nước. Bên cạnh việc cung cấp những thông tin hướng dẫn, Bộ kế hoạch và đầu tư còn cử các đoàn đến các địa phương để hỗ trợ, giúp đỡ và giải quyết các vướng mắc mà các địa phương gặp phải trong khi xây dựng kế hoạch. Quy trình lập kế hoạch mới đã hạn chế sự áp đặt hành chính chủ quan của cấp trên với cấp dưới, phát huy được tính chủ động sáng tạo của các ngành, các cấp chính quyền địa phương cũng như doanh nghiệp trong việc lập và thực hiện kế hoạch .
Trong khi xây dựng và tổng hợp kế hoạch đã chú ý nhiều hơn đến các kế hoạch KH-CN, GD-ĐT, văn hoá- thông tin, y tế, xã hội, thể dục thể thao, xoá đói giảm nghèo… mà trước đây thường bị xem nhẹ và chưa gắn với các kế hoạch phát triển kinh tế. Công tác kế hoạch hoá ở các lĩnh vực này sau một thời gian dài xuống cấp, trì trệ thì nay đã có nhiều thay đổi, đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế.
Công tác dự báo, thông tin đã bước đầu được tăng cường, phương pháp tính toán kế hoạch được sửa đổi phù hợp dần với thông lệ quốc tế.
2.1.3.4. Đổi mới phương thức điều hành kế hoạch:
Đổi mới công tác điều hành kế hoạch trong thời gian qua không chỉ được thể hiện ở tính kịp thời, mà còn được thể hiện rõ nét ở việc sử dụng các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô gián tiếp như lãi suất, tỉ giá, thuế suất, định hướng đầu tư của nhà nước … Do đó, một mặt sự có thể thiệp trực tiếp của các cơ quan nhà nước vào công việc kinh doanh của các cơ sở kinh tế đã giảm bớt; mặt khác các cơ sở kinh tế đã có nhiều cố gắng trong việc phát huy khả năng tự chủ, xác định những lợi thế cạnh tranh phù hợp với điều kiện thay đổi của thị trường .
Quá trình điều hành kế hoạch hoá (KHH) cũng đã chú ý nhiều hơn đến việc dự báo ngắn hạn, điều chỉnh kịp thời các mục tiêu cũng như các biện pháp kinh tế, sử dụng các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô cũng như sử dụng các cơ chế, chính sách và lực lượng vật chất để đảm bảo các cân đối lớn trong nền kinh tế, định hướng và thúc đẩy thực hiện kế hoạch. Nếu trước đây kế hoạch chủ yếu tập trung vào kinh tế quốc doanh với kế hoạch hoá trực tiếp là chính, thì nay đã bước đầu mở rộng kế hoạch định hướng phát triển toàn bộ nền kinh tế và xã hội, chủ yếu thông qua các KHH gián tiếp.
Công tác điều hành kế hoạch đã có những chuyển biến rõ rệt từng bước đáp ứng yêu cầu đặt ra, các công cụ pháp luật và chính sách kinh tế được phối hợp để tạo ra hành lang cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế chủ động hoạt động và hoạt động một cách có trật tự, đúng pháp luật góp phần ổn định kinh tế vĩ mô.
Việc điều hành của chính phủ trong qúa trình thực hiện mục tiêu kế hoạch hàng năm đã có hiệu quả và tác dụng thiết thực, kịp thời xử lý những diễn biến bất thường ở trong nước và quốc tế, góp phần quan trọng cho sự ổn định kinh tế đất nước .
2.2. Những vấn đề còn tồn tại trong quá trình đổi mới công tác kế hoạch hoá ở Việt Nam:
Mặc dù việc đổi mới KHH trong thời gian qua có tiến bộ đáng kể nhưng do nhiều lý do, kết quả của đổi mới KHH còn hạn chế, thậm chí cả ở trung ương và địa phương xu hướng giữ lại hoặc trở lại KHH kiểu cũ vẫn còn khá mạnh, ngay trong một bộ phận của nhà nước và một phần dư luận của công chúng không khí bao cấp còn nặng.
Những hạn chế chủ yếu là:
2.2.1. Về những cơ sở lý luận và phương pháp luận cho việc đổi mới công tác KHH:
Trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế, chúng ta chưa xây dựng được một cơ sở lý luận và phương pháp luận về KHH phù hợp với thực tế đổi mới của đất nước, do vậy không khỏi lúng túng khi thiết kế nội dung kế hoạch cũng như phương thức điều hành kế hoạch .
Vai trò của nhà nước với tư cách là người điều tiết vĩ mô nền kinh tế nhiều khi bị nhầm lẫn với vai trò nhà nước là chủ đầu tư đã dẫn tới kết quả đó là nội dung kế hoạch còn nặng về phân bổ đầu tư nhà nước mà chưa coi trọng đúng mức việc vận dụng chính sách để huy động các nguồn lực từ các thành phần kinh tế khác cũng như nguồn lực từ nước ngoài. Vì thế, KHH chưa bao quát, chưa phát huy hiệu lực đầy đủ đvới tổng thể nền kinh tế .
Công tác kế hoạch chỉ được quan tâm đến nhiều ở cấp trung ương, trong khi bộ máy kế hoạch không đủ khả năng có được hệ thống thông tin giám sát ở mọi cấp từ cơ sở, do vậy việc thực hiện nhiều khi diễn ra sai lệch với ý đồ của kế hoạch .
Mối quan hệ giữa bộ KH&ĐT với các bộ khác chưa được tăng cường và đổi mới kịp thời để đáp ứng yêu cầu đổi mới chung của nền kinh tế .
2.2.2. Về nội dung phương pháp KHH:
Việc xây dựng chiến lược phát triển và kế hoạch 5 năm thường được thực hiện nhằm phục vụ mỗi kỳ đại hội Đảng; Sau đó việc thực hiện triển khai các mục tiêu chiến lược và kế hoạch 5 năm thường bị phân cấp, phân tán và chia cắt theo từng ngành, địa phương, chưa có khâu nối đồng bộ chung. Các cấp các ngành quan tâm nhiều nhất đến chỉ tiêu vốn, các chỉ tiêu khác thường bị coi nhẹ.
Mục tiêu kế hoạch vừa nhiều vừa cao hơn khả năng đảm đương cả về năng lực thực hiện lẫn lực lượng vật chất. Nguồn lực hạn chế của nhà nước bị dàn mỏng ra, quá nhiều mục tiêu mang nặng dấu ấn bao cấp và vì vậy được sử dụng kém hiệu quả.
Nhiều nội dung của kế hoạch, đặc biệt là kế hoạch phát triển theo vùng , lãnh thổ còn chưa tính đến đầy đủ các yếu tố hội nhập, quốc tế hoá, cũng như chưa phân tích kỹ lưỡng đến thị trường tiêu thụ trong nước, ngòai nước và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp. Phần nghiên cứu và vận dụng cơ chế chính sách còn chưa thật tương xứng, chưa cụ thể hoá được chiến lược, chưa bao quát được các thành phần kinh tế, chưa chú ý đúng mức tới đặc thù của các vùng, địa phương. Nhiều vấn đề trong chính sách vĩ mô còn chưa được xác định rõ và nhất quán, các chính sách đòn bẩy còn nhiều lúng túng. Cách thức thực hiện chính sách vẫn mang nặng tính can thiệp hành chính, áp đặt mà chưa chú trọng đến cơ chế thị trường để thiết kế và thực hiện chính sách.
Và một hạn chế lớn nữa đó là sự tham gia quá ít của cộng đồng vào công tác lập kế hoạch. Do đó chưa phát huy được hết những khả năng vốn có trong dân chúng.
2.2.3. Về phối hợp và điều hoà kế hoạch:
Hệ thống kế hoạch theo ngành, theo địa phương và vùng lãnh thổ vẫn chưa liên kết và phối hợp chặt chẽ với nhau được trở thành hệ thống kế hoạch tổng thể kinh tế quốc dân. Sự phân cấp giữa trung ương và địa phương cũng như phân công giữa các ngành với nhau là chưa rõ ràng dẫn đến hậu quả khi gặp phải diễn biến bất thường thì hầu hết là đều đưa lên chính phủ, vì vậy chính phủ luôn phải xử lý công việc trong thế bị động do đó là không có lợi cho nền kinh tế nói chung.
Sự can thiệp trực tiếp thường xuyên của các cơ quan nhà nước nhiều khi lại làm giảm tính ổn định của các chính sách và gây khó khăn cho các nhà kinh doanh.
Việc xây dựng quy hoạch ở nhiều địa phương đạt chất lượng chưa cao, tính thực tế thể hiện chưa rõ nét. Sự phối hợp giữa trung ương và địa phương trong công tác quy hoạch còn kém đã làm cho nhiều địa phương làm lại quy hoạch mặt bằng của mình.
Nhiều chương trình quốc gia chưa được xây dựng chu đáo, không xác định rõ mục tiêu, đối tượng cụ thể được hưởng lợi; Chưa có cơ chế phù hợp cho việc tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát và đánh giá cụ thể. Số lượng chương trình quá nhiều, chồng chéo cả về đối tượng hưởng lợi và địa bàn thực hiện. Trong khi tính “lồng ghép” của các chương trình chưa cao thì xu hướng “chia đều” đã làm giảm đáng kể hiệu quả của các chương trình.
2.2.4. Về cơ chế điều hành xã hội :
Mọi việc trong công tác xây dựng, tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát và đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch hầu như nằm trong tay chính phủ và một số cơ quan tổng hợp, vì vậy khả năng điều hành cần được tăng cường thích đáng, nếu không thì tính khả thi một số mục tiêu sẽ bị hạn chế.
Cơ chế điều hành cân đối một số sản phẩm chủ yếu, mà thực chất là cân đối hiện vật đã tỏ ra có giới hạn rõ rệt nhất là trong xuất khẩu và kinh tế đối ngoại.
Tình hình thế giới và khu vực đang và sẽ diễn biến phức tạp hơn nhiều trong thời gian tới đòi hỏi công tác KHH, đặc biệt là khâu điều hành kế hoạch phải linh hoạt hơn, đưa ra các quyết sách kịp thời, phù hợp trên cơ sở những luận cứ khoa học và thực tiễn xác đáng.
2.2.5. Về thông tin và dự báo:
Thực tế đã chứng minh đó là có được thông tin kịp thời và chính xác là một yếu tố quyết định lớn đến thành công.
Tuy vậy nhưng hệ thông thông tin hiện nay của ta còn rất nhiều hạn chế . Đó là:Thứ nhất, các thông tin là không thống nhất. Do mỗi nơi đều có một cơ quan thu thập, xử lý và cung cấp thông tin riêng do đó dẫn tới việc tổng hợp thông tin này gặp nhiều khó khăn.Thứ hai, các thông tin là không đầy đủ. Vì hệ thống biểu mẫu báo cáo còn chưa thay đổi kịp thời và phù hợp với cơ chế mới dẫn tới việc thiếu thông tin. Thứ ba, độ chính xác của các thông tin là chưa cao. Do luồng thông tin được thu thập ở nhiều cấp và mỗi cấp có một cách xử lý riêng nên khi tổng hợp lại đã có sự khác nhau.
Hiện nay, hệ thống thông tin được hình thành từ các thông tin cục bộ nên chưa có sự phối hợp ăn khớp với nhau do đó chưa nắm bắt được các diễn biến trên thị trường trong và ngoài nước. Do cơ sở thông tin còn quá yếu đồng thời cũng chưa tìm được những mô hình phù hợp nên kết quả phân tích và dự báo chưa cao, mức độ tin cậy thấp. Mặc dù công tác phân tích và dự báo đã và đang được nhiều tổ chức quan tâm, song sự phối hợp giữa các tổ chức còn chưa tốt.
2.2.6. Về bộ máy tổ chức và cán bộ:
Nhìn chung là trình độ cán bộ và bộ máy tổ chức vẫn chưa đáp ứng được những đòi hỏi của công tác KHH trong tình hình mới. Các phòng kế hoạch huyện cũng như các sở kế hoạch tỉnh ở nhiều nơi vẫn đang gặp lúng túng trong việc xác định chức năng của mình . Kiến thức về công tác kế hoạch trong nền kinh tế thị trường của cán bộ nói chung là chưa đáp ứng được đòi hỏi mới.
Việc chuyển đổi điều hành nền kinh tế theo khiểu mệnh lệnh sang điều hành kiểu gián tiếp là một sự thay đổi rất lớn, đòi hỏi phải sử dụng nhiều phương tiện kỹ thuật và kiến thức mới. Do vậy, lực lượng cán bộ cần được nâng cao hơn cả về số lượng và chất lượng, bộ máy tổ chức cần được sắp xếp lại để có thể tạo ra sự phối hợp hài hoà giữa các ngành các cấp. Bộ máy tổ chức trong ngành kế hoạch chưa đưa ra được một hệ thống đánh giá kết quả công việc của mỗi bộ phận cũng như của mỗi thành viên phù hợp với cơ chế quản lý mới. Cơ chế xử phạt còn có xu hướng bình quân, trách nhiệm chưa rõ ràng.
2.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong đổi mới công tác KHH trong những năm qua ở Việt Nam:
2.3.1. Nguyên nhân:
Thứ nhất, những sai lầm của cơ chế quản lý sơ cứng cũ đã kéo dài trong nhiều năm, làm đứt mối liên hệ khách quan giữa sản xuất kinh doanh với thị trường.
Bộ máy quản lý vẫn rất cồng kềnh, nhiều tầng, nấc. Đây là “miếng đất ” nảy sinh lối quản lý hành chính quan liêu tham nhũng và là gánh nặng đối với các đơn vị kinh tế cơ sở. Trong những năm vừa qua, Việt Nam đã tích cực thực hiện tinh giảm biên chế gián tiếp, đổi mới bộ máy tổ chức, thực hiện cải cách hành chính nhưng kết quả chưa được là bao.
Thứ hai, Đội ngũ cán bộ lập kế hoạch có trình độ chưa cao và chưa nhạy bén với tình hình thực tế. Đội ngũ cán bộ đông đảo hiện nay ở các cấp , các ngành có nhiều người tới nay không đủ khả năng đổi mới tư duy và phương pháp công tác cho dù có được đào tạo lại. Họ không nhận thấy được sự lạc hậu của mình trong tiến trình đổi mới và xây dựng các kế hoạch mới. Còn một bộ phận khác giữ cương vị quan trọng trong quản lý nhưng do chưa được đào tạo nên kém thích ứng với cơ chế quản lý mới.
Thứ ba, một trong những công cụ quản lý nền kinh tế vĩ mô là xây dựng các kế hoạch định hướng. Nhưng cho tới nay, các kế hoạch ngắn hạn , trung han và dài hạn vạch ra vẫn còn mang nặng tính hiện vật. Một số chỉ tiêu về nguồn lực , nhất là nguồn lực từ bên ngoài còn được xây dựng trên tư duy chủ quan. Việc phân bổ vốn ngân sách và vốn tín dụng đầu tư xây dựng cơ bản vẫn theo bài bản chia phần, “xin” và “cho”, ham quy mô lớn, ít chú ý đến việc lựa chọn phương án đầu tư, phương án kỹ thuật sao cho có hiệu quả nhất.
Thứ tư, trong xây dựng các chiến lược phát triển KT-XH 10 năm có nội dung bao gồm quá nhiều các chương trình, nhiều khi các chương trình là chồng chéo lên nhau, sự lồng ghép giữa các chương trình còn hạn chế, đối tượng thụ hưởng chưa được xác định cụ thể đã dẫn tới việc thực hiện chiến lược phát triển đạt hiệu quả chưa cao.
Thứ năm, Do nền kinh tế có xuất phát điểm thấp từ một nước nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ là phổ biến đã dẫn tới cơ chế điều tiết chưa theo kịp tiến trình đổi mới, cùng với những năm dài áp dụng KHH tập trung cao độ, phân phối hiện vật , quan liêu bao cấp nên đã để lại một hậu quả nặng nề đó là về đội ngũ cán bộ quản lý, điều hành cũng như đội ngũ lao động.
Tóm lại, mặc dù vẫn tồn tại nhiều hạn chế xong những gì chúng ta đã đạt được trong đổi mới công tác KHH về cơ bản được đánh giá là thành công. Bởi kết quả thấy rõ sau những cải cách đó là nước ta đã thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế và bước đầu đạt được những thành công trong phát triển kinh tế trong thời gian qua.
Chương 3
định hướng và giải pháp đổi mới kế hoạch hoá trong những năm tiếp theo
3.1.Định hướng đổi mới kế hoạch hoá trong những năm tiếp theo
3.1.1.Kế hoạch hoá trong cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Trong nền kinh tế đang chuyển đổi ở Việt Nam, thị trường vừa là căn cứ, vừa là đối tượng của kế hoạch hoá. Nhà nước một mặt phải xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, mặt khác phải hình thành đồng bộ các yếu tố thị trường, xây dựng và hoàn thiện các công cụ pháp luật, kế hoạch, các thiết chế tài chính, tiền tệ và những phương tiện về vật chất và tổ chức cần thiết cho sự quản lý của mình, tạo điều kiện cho cơ chế thị trường hoạt động hữu hiệu.
Kế hoạch hoá chủ yếu mang tính định hướng và đặc biệt quan trọng trên bình diện vĩ mô. Thị trường có vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phương án tổ chức kinh doanh. Kế hoạch hoá kinh tế vĩ mô của nhà nước cần xác định mục tiêu, giải thích rõ ý nghĩa của mục tiêu đó đối với sự phát triển trong tương lai, xác định rõ mức độ và cách thức mà khu vực kinh tế nhà nước thực hiện mục tiêu đã định, nêu lên những lợi ích và phát triển dự định đối với khu vực kinh tế tư nhân và các thành phần kinh tế khác để họ hành động theo định hướng nhà nước mong muốn. Đối với các thành phần kinh tế khác, thì kế hoạch không có tính áp đặt, mà thông qua các biện pháp chính sách thống nhất với lợi ích để khuyến khích họ tự nguyện hành động theo hướng mục tiêu kế hoạch đã đặt ra. Như vậy, muốn các doanh nghiệp ứng xử theo kế hoạch của nhà nước thì kế hoạch hoá và chính sách phải phù hợp với lợi ích của doanh nghiệp.
Như vậy, đổi mới kế hoạch hoá phải ăn khớp với đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nói chung, phù hợp với quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc sử dụng công cụ kế hoạch hoá phải phù hợp với cơ chế thị trường, phải đảm bảo phân định giữa quản lý nhà nước và quản lý kinh doanh ở các doanh nghiệp nhà nước. Công tác điều hành kế hoạch phải được thực hiện thông qua những công cụ quản lý kinh tế vĩ mô là chủ yếu, phối hợp sử dụng những biện pháp gián tiếp và biên pháp trực tiếp.
3.1.2. Kế hoạch hoá trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế
Nhân tố quyết định thành công và hiệu quả của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là khoa học và công nghệ. Tốc độ phát triển công nghệ càng cao, số lượng sản phẩm mới, công nghệ mới ngày càng nhiều đã đặt ra một nhiệm vụ quan trọng cho công tác kế hoạch hoá la phải xây dựng những chính sách chuyển giao công nghệ thuận lợi, tìm ra được hướng “đi tắt, đón đầu” giúp cho nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao, ổn định, rút ngắn khoảng cách với các nước tiên tiến.
Kế hoạch hoá phải đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết nền kinh tế phù hợp với xu thế hội nhập, toàn cầu hoá đang ngày càng gia tăng đối với nền kinh tế Việt Nam. Trong thời gian trước mắt, việc hình thành những chính sách kinh tế để ứng phó với cuộc khủng hoảng trong khu vực là một nhiệm vụ cấp bách của công tác kế hoạch hoá.
Cân bằng cán cân thanh toán là một trong bốn mục tiêu quan trọng nhất của chinh sách kinh tế. Quá trình phát triển trong những năm qua đã để lại một số vấn đề cần phải giải quyết ngay như: các khoản nợ nước ngoài, tỷ lệ thâm hụt cán cân vãng lai tương đối cao… Tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế của nền kinh tế Việt Nam diễn ra trong bối cảnh khủng hoảng tài chính khu vực đã làm cho những vấn đề khó khăn của kinh tế đối ngoại ngày càng thêm phức tạp. Đó là những thách thức to lớn đối với điều tiết tổng thể nền kinh tế nói chung và đổi mới kế hoạch hoá nói riêng. Nó đòi hỏi phải nhanh chóng hình thành những chính sách khuyến khích đầu tư trong nước và nước ngoài theo hướng phát huy nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, hỗ trợ cho quá trình hội nhập của nền kinh tế nước ta.
3.1.3. Kế hoạch hoá phải đảm bảo mối tương quan hợp lý giữa phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội phải lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. Động viên toàn dân cần kiệm xây dựng đất nước, không ngừng tăng tích luỹ cho đầu tư phát triển. Tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hoá, giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường.
Công tác kế hoạch hoá phải đảm bảo sự thống nhất giữa yêu cầu phát triển kinh tế đảm bảo chính sách xã hội theo tinh thần:
- Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển. Công bằng xã hội phải thể hiện ở khâu phân bổ hợp lý tư liệu sản xuất lẫn ở khâu phân phối kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình.
- Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác vào kết quả kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội, đi đôi với chính sách điều tiết hợp lý, bảo hộ quyền lợi của người lao động.
- Các vấn đề chính sách xã hội đều phải giải quyết theo tinh thần xã hội hoá. Nhà nước giữ vai trò nòng cốt đồng thời động viên cho mỗi người dân, các doanh nghiệp, các tổ chức trong xã hội, các cá nhân và tổ chức nước ngoài cùng tham gia giải quyết những vấn đề xã hội.
Trong những năm trước mắt, công tác kế hoạch hoá phải góp phần thiết thực giải quyết một số vấn đề xã hội cấp bách như:
- Tập trung sức tạo việc làm: Phương hướng quan trọng nhất là nhà nước cùng toàn dân ra sức đầu tư phát triển, thực hiện tốt kế hoạch và các chương trình kinh tế – xã hội. Khuyến khích mọi thành phần kinh tế, mọi công dân, mọi nhà đầu tư mở mang ngành nghề, tạo nhiều việc làm cho người lao động. Mọi công dân đều được tự do hành nghề, thuê mướn nhân công theo pháp luật. Tiếp tục phân bố lại dân cư trên địa bàn có tính chiến lược về kinh tế , an ninh – quốc phòng. Mở rộng kinh tế đối ngoại, đẩy mạnh xuất khẩu lao động. Giảm đáng kể tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn.
- Thực hiện xóa đói, giảm nghèo: Thực hiện tốt chương trình xoá đói giảm nghèo, nhất là đối với vùng căn cứ cách mạng, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Xây dựng và phát triển quỹ xoá đói, giảm nghèo bằng nhiều nguồn vốn trong và ngoài nước; quản lý chặt chẽ, đầu tư đúng đối tượng và có hiệu quả. Tổ chức tốt đời sống xã hội trên từng địa bàn để trong điều kiện thu thập bình quân đầu người còn thấp vẫn tạo được một cuộc sống khá hơn cho nhân dân.
3.1.4. Kết hợp kế hoạch hoá theo ngành với kế hoạch hoá theo địa phương và vùng lãnh thổ
Kế hoạch hoá định hướng phát triển kinh tế – xã hội có một nội dung rất cơ bản là sự thay đổi và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, kể cả cơ cấu ngành và cơ cấu vùng lãnh thổ. Từ kinh nghiệm phát triển, có thể rút ra một số kết luận sau đây về chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
Một là, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu ngành công nghiệp nói riêng, là một quá trình tiến hoá tuần tự mang tính nội tai phải trải qua nhiều giai đoạn. Những tác động của kế hoạch hoá chỉ có thể đẩy nhanh hoặc rút ngắn quá trình chuyển dịch cơ cấu, chứ không thể bỏ qua một giai đoạn nào.
Hai là, trong thời kỳ toàn cầu hoá, kế hoạch hoá chuyển dịch cơ cấu kinh tế của quốc gia chủ yếu vẫn phải căn cứ vào điều kiện, tiềm năng, kỹ năng và lợi thế hiện tại. Với cách nhìn như trên, nhà nước cần đặc biệt lưu ý và ưu tiên hỗ trợ những ngành trọng điểm của nền kinh tế những ngành có tỷ trọng lớn và tốc độ phát triển cao trong GDP, trong tổng số lao động sử dụng và trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Đồng thời cần chú trọng khuyến khích một số ngành công nghệ cao, có sức lan toả lớn và tạo động lực phát triển bền vững trong tương lai.
Nguyên tắc phát triển kinh tế đồng đều giữa các vùng là nguyên tắc chủ đạo trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội. Đây là nhiệm vụ trước hết của nhà nước trung ương. Nhà nước trung ương thực hiện nhiệm vụ này theo hai cách. Một là, ưu tiên đầu tư của nhà nước cho các vùng kém phát triển. Hai là, dành chính sách ưu đãi ở mức cao hơn đối với khu vực kém phát triển để thu hút đầu tư tư nhân vào đó. Về đầu tư của nhà nước, do nguồn vốn có hạn nên kinh phí thực hiện phát triển vùng trong một giai đoạn cần tập trung vào một hoạch một số ít mục tiêu nhất định.
Việc phân cấp kế hoạch giữa trung ương và địa phương cần được xác định hợp lý và rõ ràng. Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội của địa phương trước hết do chính quyền địa phương quyết định. Nhà nước trung ương chỉ tập trung thực hiện những mục tiêu có tính hệ thống, cân đối, mà các cấp chính quyền địa phương không thể thực hiện được. Nguyên tắc của việc phân cấp nên là: Việc gì chính quyền cấp dưới, do tính chất của công việc, không thể thực hiện được thì mới chuyển lên trên, thay cho nguyên tắc phân cấp hiện nay trong kế hoạch chủ yếu dựa vào tính chất công việc. Việc phân cấp luôn phải đi kèm với những biện pháp kiểm tra giám sát thích hợp; vì thế việc giao quyền hạn cho các cấp chính quyền địa phương trong kế hoạch hoá, đặc biệt là kế hoạch sử dụng những khoản chi từ ngân sách cấp trên, luôn luôn đi kèm với sự giám sát chặt chẽ hơn, theo nguyên tắc: quyền hạn càng lớn, trách nhiệm càng cao.
3.1.5. Đổi mới toàn diện hệ thống kế hoạch kinh tế vĩ mô:
Để cho kế hoạch hoá thật sự trở thành công cụ cơ bản trong việc định hướng thị trường, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển có hiệu quả và bền vững, thúc đẩy nhanh công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá, công tác kế hoạch hoá phải được tiếp tục đổi mới và hoàn thiện trên các mặt chủ yếu sau đây:
Trước hết, phải coi trọng công tác dự báo, nhất là dự báo trung hạn và ngắn hạn về kinh tế – xã hội và xu thế phát triển trong và ngoài nước để có cơ sở vững chắc cho việc hoạch định các chiến lược phát triển, cũng như cho công tác điều hành tầm vĩ mô.
Hai là, tiếp tục xây dựng chiến lược 10 năm 2001-2010 và rà soát lại các quy hoạch phát triển tổng thể nền kinh tế, quy hoạch các vùng kinh tế trọng điểm đã được thông qua cho phù hợp với yêu cầu mới, xu thế phát triển và hội nhập kinh tế trong vùng và các nước.
Ba là, tổ chức xây dựng các chương trình , dự án phát triển, có hiệu quả để có thể khai thác, sử dung có hiệu quả nguồn tài nguyên, nhân lực và các lợi thế so sánh của nước ta, sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn bên ngoài theo định hướng của kế hoạch.
Bốn là, để thực hiện chức năng chủ yếu của kế hoạch hoá là thúc đẩy sự hình thành cơ cấu hợp lý, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững, phải cải tiến nội dung xây dựng kế hoạch hàng năm một cách thiết thực, giảm những khâu trung gian, giữ vững cân đối chủ yếu, nhất là cân đối giá trị, đồng thời từng bước chuyển dần trọng tâm sang kế hoạch hoá phát triển kinh tế – xã hội 5 năm với nội dung bao quát toàn bộ hoạt động của các thành phần kinh tế, xác định hệ thống các mục tiêu kinh tế vĩ mô, các yêu cầu tăng trưởng kinh tế, các cơ cấu và mối quan hệ hợp lý của nền kinh tế.
Năm là, góp phần vào việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm tạo ra môi trường kinh tế vĩ mô ổn định và kích thích tất cả các thành phần kinh tế phát triển với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.
3.2. Một số giải pháp đổi mới kế hoạch hoá kinh tế trong thời gian tiếp theo:
3.2.1.Đổi mới công tác xây dựng chiến lược phát triển kinh tế xã hội:
Kế hoạch hoá là một quá trình liên tục, bao gồm chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, quy hoạch phát triển, kế hoạch định hướng phát triển kinh tế – xã hội 5 năm, kế hoạch hàng năm và chỉ đạo, điều hành thực hiện.
Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội có nhiệm vụ hoạch định đường hướng phát triển cơ bản của đất nước trong khoảng thời gian 10 năm, là cam kết chính trị của Đảng và nhà nước được công bố trước toàn dân và cộng đồng quốc tế về đường lối và cách thức lãnh đạo phát triển đất nước. Nội dung của chiến lược bao gồm việc xác định mục tiêu định tính trên các lĩnh vực như: tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo vùng, xu hướng biến đổi chất lượng cuộc sống của dân cư trên các vùng của đất nước, xu hướng biến đổi khả năng cạnh tranh của quốc gia trong khu vực và trên thế giới, trình độ phát triển khoa học và công nghệ của đất nước, khả năng bảo đảm an ninh quốc gia; Xác định các quan điểm và nguyên tắc cơ bản nhằm thúc đẩy đất nước phát triển theo các định hướng nói trên.
Chiến lược có thời hạn 10 năm, nhưng theo chu kỳ 5 năm sẽ được xem xét, sửa đổi và điều chỉnh cho phù hợp. Như vậy, mỗi kỳ Đại hội Đảng sẽ là một lần thông qua chiến lược mới hoặc điều chỉnh chiến lược. Cụ thể là, xây dựng chiến lược phát triển kinh tế – xã hội cho thời kỳ 2001 – 2010; Đến năm 2003 bắt đầu xem xét đánh giá lại, và xây dựng chiến lược phát triển kinh tế – xã hội cho thời kỳ 2006 – 2015. Cứ tiếp tục như vậy vào khoảng năm 2008 sẽ xem xét, đánh giá lại tình hình và xây dựng chiến lược phát triển kinh tế – xã hội cho thời kỳ tiếp theo.
3.2.2. Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch phát triển:
Quy hoạch là một đề án khoa học luận chứng các phương án phát triển theo ngành và lãnh thổ các vùng, các tỉnh và thành phố, các quận và huyện nhằm đạt các mục tiêu chiến lược đã đề ra, cụ thể hoá chiến lược với những dự tính cần thiết cho sự phát triển của ngành, của địa phương đó.
Công việc xây dựng quy hoạch lãnh thổ do chính quyền địa phương chủ trì, phối hợp các ngành hữu quan và các địa phương lân cận. Trên cơ sở phân tích những điều kiện thuận lợi, khó khăn và dự báo xu thế phát triển của địa phương trong tổng thể kinh tế, quy hoạch vùng phải đưa ra được nhũng quyết sách phù hợp. Trên cơ sở đó có thể sắp xếp theo không gian sự phát triển kinh tế – xã hội của địa phương.
Quy hoạch không gian chỉ quy định khu vực cho mục tiêu chung (ví dụ khu công nghiệp), chứ không ép buộc các nhà đầu tư phải đầu tư vào một ngành cụ thể nào đó. Công cụ để đạt được những mục tiêu trong quy hoạch lãnh thổ chủ yếu là nguồn tài chính của địa phương đó và các chính sách kinh tế trong phạm vi thẩm quyền của chính quyền địa phương; chính quyền cấp trên chỉ nên hỗ trợ phát triển những lĩnh vực có tác dụng lan toả ra phạm vi lớn hơn. Để đảm bảo nguyên tắc này, cần phải xác định rõ ràng nhiệm vụ của từng cấp làm cơ sở cho việc phân bổ các nguồn thu ngân sách.
Quy hoạch ngành được xây dựng dưới sự chủ trì của bộ quản lý ngành phối hợp với những bộ có liên quan như Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, … cùng các cấp chính quyền địa phương. Quy hoạch ngành có thể được cụ thể hoá theo không gian và thời gian. Với quan điểm là nhà nước chỉ hỗ trợ gián tiếp chứ không can thiệp trực tiếp vào công việc kinh doanh của các doanh nghiệp, chỉ nên xây dựng quy hoạch tổng thể cho những ngành co tính chất hệ thống trong toàn quốc, như năng lượng, viễn thông, giao thông vận tải. Quy hoạch phát triển những ngành khác chủ yếu mang tính định hướng, dự báo. Quy hoạch ngành được thực hiện thông qua những chương trình trọng điểm quốc gia và bằng nguồn lực của cả trung ương và địa phương. Số liệu rút ra từ quy hoạch sẽ là những cơ sở quan trọng cho các doanh nghiệp trong việc xây dựng kế hoạch kinh doanh của họ.
3.2.3. Chú trọng kế hoạch hoá định hướng phát triển kinh tế – xã hội 5 năm
3.2.3.1. Nghị quyết Đại hội VIII đã đề ra yêu cầu:
“Chuyển dần sang kế hoạch 5 năm là chính, có phân ra từng năm”. Như vậy, kế hoạch 5 năm sẽ là trọng tâm trong hệ thống kế hoạch, là công cụ quản lý vĩ mô quá trình phát triển trong thời hạn 5 năm. Kế hoạch 5 năm xác định một số chỉ tiêu cơ bản định hướng cho sự phát triển của đất nước, xác định những lĩnh vực mà kinh tế nhà nước sẽ ưu tiên tập trung phát triển, xác định nguyên tắc hoạch định và xây dựng chính sách cụ thể để hướng toàn bộ nền kinh tế phát triển theo định hướng đã chọn.
Các chỉ tiêu của kế hoạch 5 năm chủ yếu mang tính định hướng phát triển. Kế hoạch 5 năm ở cấp trung ương nên đặc biệt chú ý những chỉ tiêu như: (1) mức thu nhập bình quân dầu người tại năm cuối của kỳ kế hoạch, (2) tỷ trọng công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ trong GDP, (3) tỷ trọng lực lượng lao động xã hội làm việc trong các lĩnh vực nói trên…
3.2.3.2. Để đảm bảo tính liên tục và hệ thống của kế hoạch hoá, có thể thử nghiệm phương pháp “cuốn chiếu” trong việc xây dựng kế hoạch 5 năm.
Phương pháp xây dựng kế hoạch theo kiểu “cuốn chiếu” này đã được áp dụng thành công ở một số nước như Pháp, xây dựng kế hoạch hoá phát triển ở Nhật, xây dựng kế hoạch tài chinh ở Cộng hoà Liên bang Đức. Theo phương pháp này, kế hoạch phát triển 5 năm sẽ xác định những mục tiêu tổng thể, bao gồm kế hoạch chính thức của năm hiện hành, kế hoạch dự tính cho năm tiếp đó và dự báo kế hoạch cho 3 năm còn lại. Mức độ chi tiết, cụ thể và chính xác của nội dung kế hoạch của các năm sau phụ thuộc vào số lượng và độ tin cậy của thông tin có được. Phương pháp này giúp khắc phục được tính nhất thời, sự không phù hợp giữa mục tiêu kế hoạch đề ra với điều kiện thay đổi thường xuyên của môi trường.
3.2.3.3. Nội dung nghiên cứu, xây dựng và tổng hợp kế hoạch 5 năm ở cấp trung ương bao gồm các công việc sau:
-Tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch 5 năm trước
- Dự báo khả năng phát triển trong thời kỳ kế hoạch 5 năm sau, bao gồm cả tình hình kinh tế, chính trị các nước trên thế giới và trong khu vực.
- Xác định và tính toán các cân đối vĩ mô, có phân chia ra từng năm.
- Xác định các mục tiêu và chỉ tiêu phát triển, có phân chia ra từng năm.
- Xây dựng định hướng phát triển các ngành, các lĩnh vực.
- Xây dựng hệ thống các chương trình mục tiêu phát triển.
- Xây dựng danh mục các dự án đầu tư, các công trình xây dựng cơ bản bằng tất cả các nguồn vốn.
- Xây dựng định hướng các cơ chế, chính sách, các biện pháp bảo đảm thực hiện các mục tiêu kế hoạch.
3.2.4. Hoàn thiện kế hoạch hoá hàng năm:
3.2.4.1. Kế hoạch hàng năm không chỉ tập trung vào các mục tiêu tăng trưởng, mà còn nhằm vào mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô nhằm bảo đảm sự phát triển bền vững của nền kinh tế. Theo tinh thần đó thì hệ thống kế hoạch hàng năm bao gồm:
- Kế hoạch định hướng phát triển kinh tế - xã hội hàng năm nhằm ổn định kinh tế vĩ mô và thực hiện mục tiêu phát triển của năm đó. Một nội dung quan trọng của kế hoạch hàng năm là cân đối vốn đầu tư toàn xã hội. Cân đối này gồm 3 phần: một là, kế hoạch đầu tư của nhà nước trung ương; hai là, kế hoạch đầu tư của các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Ba là, các biện pháp chính sách huy động thêm vốn của khu vực kinh tế dân doanh và vốn đầu tư nước ngoài.
- Kế hoạch đầu tư của nhà nước: Quốc hội quyết định tổng mức đầu tư cụ thể hàng năm, gồm cả tín dụng nhà nước và công trình trọng điểm khởi công trong năm kế hoạch; Thủ tướng Chính phủ quyết định dự án đầu tư và phân bổ đầu tư cụ thể hàng năm. Như vậy, về cơ bản đầu tư nhà nước trung ương sẽ tập trung chủ yếu vào các dự án quy mô lớn phát huy tác dụng trên phạm vi liên tỉnh.
- Kế hoạch ngân sách nhà nước bao gồm kế hoạch thu chi ngân sách và cân đối ngân sách hàng năm. Nên nghiên cứu thực hiện phương pháp “cuốn chiếu” cho việc xây dựng kế hoạch ngân sách trung hạn. Do thu và chi ngân sách thường không ăn khớp nhau về thời điểm, nên Chính phủ và chính quyền các cấp được phép vay tín dung để có thể bảo đảm kế hoạch chi tiêu.
- Kế hoạch cung ứng tiền tệ là một kế hoạch linh hoạt, và kế hoạch từng quý sẽ là công cụ chủ yếu điều hành cung ứng tiền tệ của nền kinh tế, bảo đảm mục tiêu kiềm chế lạm phát ổn định ở mức độ chấp nhận được. Kế hoạch xuất – nhập khẩu và quản lý cán cân thanh toán quốc tế, quản lý vay và trả nợ nước ngoài; hạn chế số lượng các mặt hàng quản bằng hạn ngạch ở mức tối thiểu cần thiết.
3.2.4.2. Kế hoạch hàng năm ở cấp trung ương bao gồm một số chỉ tiêu dự báo và một số chỉ tiêu pháp lệnh.
Sự khác biệt của các chỉ tiêu kế hoạch ở cấp trung ương, ở cấp tỉnh và huyện, đặc biệt là những chỉ tiêu về xã hội, phụ thuộc chủ yếu vào việc phân cấp nhiệm vụ giữa những cấp này. Trước tình hình những vấn đề xã hội và công nghệ ngày càng trở nên bức xúc, trong thời gian tới cần sớm nghiên cứu để đưa vào kế hoạch những chỉ tiêu hữu dụng cho việc giải quyết những vấn đề này.
Trong môi trường thường xuyên biến động, mục tiêu kế hoạch là những đích cần phấn đấu để vươn tới. Vì vậy, kế hoạch hoá chủ yếu mang tính định hướng, không nên xác định các chỉ tiêu phát triển kinh tế – xã hội một cách cứng nhắc, mà nên là một khoảng ước định.
3.2.4.3. Đối với kế hoạch hàng năm thì công tác điều hành kế hoạch có một vị trí rất quan trọng.
Mục tiêu của việc điều hành là kịp thời can thiệp gián tiếp hoặc trực tiếp vào nền kinh tế khi có xuất hiện biến động môi trường làm ảnh hưởng đến việc thực hiện các mục tiêu kế hoạch; song sự can thiệp này cung không nên diễn ra thường xuyên làm ảnh hưởng đến tính ổn định của hệ thống chính sách kinh tế. Điều hành kế hoạch luôn phải tính đến sự ảnh hưởng tổng thể vào nền kinh tế và những hệ quả mà nó đưa lại. Chính vì vậy, để nâng cao chất lượng công tác điều hành kế hoạch, trước hết cần củng cố hệ thống thông tin và xây dựng những mô hình phân tích và dự báo kinh tế có độ tin cậy cao.
3.2.5. Tăng cường công tác nghiên cứu và xây dựng chính sách
Vấn đề rất quan trọng trong quá trình đổi mới công tác kế hoạch hoálà phải nâng cao chất lượng hoạch định chính sách, trong đó cần chú ý đến các công cụ chính sách gián tiếp. Về vấn đề này, những công việc cần thực hiện ngay là:
- Nâng cao năng lực hoạch định chính sách của các cơ quan nhà nước, đặc biệt là các cơ qua như Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, ngân hàng nhà nước Việt Nam, Văn phòng chính phủ, Văn phòng Quốc hội.
- Tăng cường đối thoại giữa doanh nghiệp và các quan chức Chính phủ bằng cách thành lập diễn đàn đối thoại chính sách sinh hoạt định kỳ để thảo luận và trao đổi về chính sách, kế hoạch và điều hành thực hiện chính sách, kế hoạch.
- Mở diễn đàn trao đổi chính sách trên các phương tiện thông tin đại chúng, đặc biệt là trên các kênh truyền hình trung ương và địa phương, để thu hút sự tham gia rộng rãi của các tầng lớp dân cư vào việc trao đổi và hoạch định chính sách của Chính phủ.
Để đảm bảo sự ăn khớp, đồng bộ và linh hoạt của hệ thống chính sách, cần tăng cường phối hợp giữa các bộ, giữa trung ương và các địa phương trong việc xây dựng và thực hiện chính sách.
3.2.6. Xây dựng và phát triển công tác dự báo và phân tích kinh tế
Cho đến nay, công tác dự báo và phân tích kinh tế vẫn là khâu yếu nhất trong toàn bộ quá trình kế hoạch hoá. Vì vậy, để nâng cao độ tin cậy của kế hoạch hoá như công cụ định hướng phát triển, cần phải nâng cao chất lượng công tác dự báo và phân tích kinh tế.
Để có được một mô hình dự báo hữu dụng trong thời gian tới, việc lựa chọn mô hình dự báo ngắn hạn nên chú ý các yêu cầu sau:
- Phải đưa ra được những số liệu dự báo, phân tích theo quý.
- Phải bao gồm những thông tin kịp thời phản ánh được những nét chính tình hình kinh tế trong thời gian ngắn hạn, mức độ yêu cầu về chất lượng thông tin không cần quá nghiêm ngặt.
- Không cần phân ngành ở mức độ quá chi tiết như phân ngành của hệ thống kê, nhưng đồng thời việc nhóm gộp vẫn phải đảm bảo thể hiện những nét quan trọng nhất của cơ cấu kinh tế.
- Không cần quá nhiều phương trình, nhưng phải phản ánh được những mối quan hệ chính trong nền kinh tế.
- Phối hợp được với phương pháp dự báo khác nhau để thường xuyên phối hợp và cải tiến mô hình.
3.2.7. Đổi mới hệ thống thu thập, xử lý và sử dụng thông tin
Chất lượng và hiệu lực của kế hoạch cũng như hệ thống chính sách kinh tế phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng, tính kịp thời và đầy đủ của thông tin. Kinh nghiệm từ cuộc khủng hoảng hiện nay ở các nước trong khu vực cho thấy hệ thống thông tin và đánh giá kinh tế yếu kém và không chính xác là một trong các nguyên nhân quan trọng làm cho chính phủ các nước không đưa ra được các đối sách kịp thời nhằm ngăn chặn khủng hoảng.
Vì vậy công việc cấp bách cần phải làm là đổi mới hệ thống báo cáo và thu thập thông tin, nâng cao chất lượng thông tin. Một nội dung chính của công việc này là:
- Đánh giá lại hệ thống báo cáo và thông tin hiện hành, rút ra được những điểm yếu và điểm mạnh, sự phù phù hợp và không phù hợp với yêu cầu mới của quản lý vĩ mô.
- Xác định những thông tin báo cáo cần thu thập để đánh giá hoạt động của nền kinh tế nói chung và phục vụ đổi mới công tác kế hoạch hoá noi riêng.
- Thống nhất biểu mẫu các loại báo cáo thực hiện trên quy mô cả nước, quy định định kỳ báo cáo đối với từng loại thông tin cụ thể.
- Xác định hệ thống tổ chức bộ máy thu thập cà xử lý thông tin phù hợp với yêu cầu đổi mới công tác kế hoạch và điều hành kinh tế vĩ mô.
- Nhanh chóng đưa vào áp dụng những thành tựu của công nghệ thông tin phục vụ cho việc xử lý thông tin kế hoạch.
- Quy định quy chế cung cấp và sử dụng thông tin, khắc phục tình trạng “Thương mại hoá” thông tin phục vụ lợi ích cục bộ của một số tổ chức hoặcnhóm người; Đảm bảo cho thông tin được cung cấp nhanh, ít tốn kém và kịp thời.
- Từng bước hình thành hệ thống thu thập, xử lý, phân tích thông tin theo tiêu chuẩn quốc tế.
- Xác định rõ những thông tin mật, không được công bố. Ngoài phạm vi đó, thông tin kinh tế phải được phổ biến và sử dụng một cách rộng rãi.
3.2.8. Củng cố bộ máy tổ chức, nâng cao trình độ cán bộ kế hoạch
Việc thực hiện những định hướng và giải pháp đổi mới trên đây chỉ đạt được kết quả mong muốn khi bộ máy tổ chức kế hoạch được thay đổi phù hợp và nâng cao trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ làm công tác kế hoạch. Những việc cần thực hiện trong thời gian tới để giải quyết vấn đề này là:
- Hoàn thiện bộ máy kế hoạch ở trung ương cũng như ở địa phương theo hướng liên kết, phối hợp chặt chẽ với nhau hơn để có thể thường xuyên nắm bắt tình hình, phục vụ kịp thời cho việc điều hành thực hiện kế hoạch, cũng như giúp cho Chính phủ và chính quyền địa phương phối hợp xây dựng chính sách kinh tế ở cấp của mình một các có hiệu quả.
- Xây dựng một hệ thống tổ chức kế hoạch có “Chân rết” gọn nhẹ, có năng lực ở các ngành và các địa phương phục vụ tốt hơn cho công tác kế hoạch hoá và cung cấp thông tin theo chiều dọc và theo chiều ngang; Tổ chức thực hiện một chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ kế hoạch một cách cơ bản nhằm nâng cao trình độ của cán bộ Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cán bộ Vụ Kế hoạch các Bộ và cán bộ các Sở Kế hoạch và Đầu tư địa phương.
Phần kết luận
Từ thực tiễn phát triển KT-XH ở nứơc ta đã cho thấy vai trò quan trọng của công tác KHH và việc cần thiết phải đổi mới công tác KHH. Trong báo cáo chính trị tại Đại hội VI của đã lần đầu tiên đề cập tới đường lối đổi mới. Bản chất của KHH hoàn toàn phụ thuộc vào vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường. KHH trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN như ngày nay đã khác với KHH trước đây rất nhiều. Nếu như trước đây, kế hoạch chỉ giới hạn trong phạm vi kinh tế nhà nước, thì bây giờ kế hoạch phải bao hàm tổng thể nền kinh tế quốc dân với nhiều thành phần kinh tế và phải nhấn mạnh đến vấn đề quy hoạch, chiến lược phát triển KT-XH…Tăng trưởng và đảm bảo định hướng XHCN. Vì thế đổi mới công tác KHH từ tư duy, quan điểm định hướng, nội dung, quy trình lập và điều hành cho đến cơ cấu tổ chức và cách thức chỉ đạo kế hoạch là một nội dung cơ bản của quá trình đổi mới công tác KHH.
Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, do vậy nội dung kế hoạch không được phép chỉ giới hạn trong phạm vi khu vực kinh tế nhà nước mà phải mang tính tổng thể nền kinh tế. Việc đổi mới này sẽ tác động một cách sâu sắc đến tính dân chủ và công khai của kế hoạch. Ngay từ lúc dự thảo nội dung kế hoạch, các mục tiêu và biện pháp không nên và không cần phải giữ bí mật. Những công cụ thường được áp dụng trong nền kinh tế KHH trước đây phải được thay thế bằng những công cụ, chính sách phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Liên quan chặt chẽ với những điểm trên là những vấn đề quy hoạch. Nhưng ở nước ta vấn đề quy hoạch vẫn còn hạn chế, bất cập. Do do, công tác quy hoạch cần phải được đổi mới và phaỉ nâng cao chất lượng công tác quy hoạch.
Công tác KHH nền kinh tế quốc dân đòi hỏi phải nâng cao vai trò của Bộ KH & ĐT – là cơ quan tham mưu tổng hợp của nền kinh tế quốc dân, phải phát huy vai trò của các bộ và tổng công ty theo một phương pháp luận thống nhất.
Danh sách tài liệu tham khảo
Adam Fforde – Stefan De Vyldes: Từ Kế hoạch đến thị trường – Sự chuyển đổi kinh tế ở Việt Nam; NXB Chính trị Quốc gia.
Trần Đình Bút (chủ biên): Kết hợp kế hoạch với thị trường; NXB Đại học và trung học chuyên nghiệp.
Đặng Đức Đạm: Kế hoạch hoá vĩ mô; NXB Chính trị Quốc gia; Hà Nội 2000.
PGS.TS. Vũ Văn Phúc(chủ biên): Quan hệ thị trường và kế hoạch trong phát triển kinh tế nước ta hiện nay; NXB Chính trị Quốc gia; Hà Nội 2000.
Cao Viết Sinh: Một số suy nghĩ về Kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân trong cơ chế thị trường, Kỷ yếu Hội thảo khoa học về đổi mới kế hoạch hoá; Hà Nội 1995.
Tạp chí nghiên cứu kinh tế, số 299, tháng 4/2003.
Đảng Cộng Sản ViệtNam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII; NXB Chính trị Quốc gia; Hà Nội 1996.
Đảng Cộng Sản ViệtNam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX; NXB Chính trị Quốc gia; Hà Nội 2001.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Hội thảo): Tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng của công tác kế hoạch hoá phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước; Hà Nội 1997.
ToDaRo: Kinh tế học cho thế giới thứ 3, chương 24; NXB Giáo dục 1998.
11. Khoa kế hoạch và phát triển trường đại học Kinh tế Kinh tế Quốc dân: Giáo trình Kế hoạch hoá phát triển kinh tế – xã hội; NXB Thống Kê 2002.
Mục lục
Lời mở đầu 1
Chương 1: Cơ sở của vấn đề đổi mới công tác kế hoạch hoá ở Việt Nam 3
1.1. Kế hoạch hoá ở các nước trên thế giới 3
1.2. Cơ sở thực tiễn của vấn đề đổi mới công tác KHH ở Việt Nam 4
Chương 2: Quá trình đổi mới kế hoạch hoá ở Việt Nam 6
2.1. Thực trạng đổi mới công tác kế hoạch hoá ở Việt Nam 6
2.1.1. Xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 6
2.1.2. Về công tác quy hoạch phát triển 8
2.1.3. Về công tác kế hoạch phát triển 9
2.2. Những vấn đề còn tồn tại trong quá trình đổi mới công tác kế hoạch hoá ở Việt Nam 11
2.2.1. Về những cơ sở lý luận và phương pháp luận cho việc đổi mới công tác kế hoạch hoá 12
2.2.2. Về nội dung phương pháp KHH 12
2.2.3. Về phối hợp và điều hoà kế hoạch 13
2.2.4. Về cơ chế điều hành xã hội 13
2.2.5. Về thông tin và dự báo 14
2.2.6. Về bộ máy tổ chức và cán bộ 14
2.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong đổi mới công tác KHH trong những năm qua ở Việt Nam 14
2.3.1. Nguyên nhân 14
Chương 3: Định hướng và những giải pháp đổi mới kế hoạch hoá trong những năm tiếp theo 16
3.1. Định hướng đổi mới kế hoạch hoá trong những năm tiếp theo 16
3.1.1. Kế hoạch hoá trong cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN 16
3.1.2. Kế hoạch hoá trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế 16
3.1.3. Kế hoạch hoá phải đảm bảo mối tương quan hợop lý giữa phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội 17
3.1.4. Kết hợp kế hoạch hoá theo ngành với kế hoạch hoá theo địa phương và vùng lãnh thổ 18
3.1.5. Đổi mới toàn diện hệ thống kế hoạch kinh tế vĩ mô 19
3.2. Một số giải pháp đổi mới kế hoạch hoá kinh tế trong thời gian tiếp theo 20
3.2.1. Đổi mới công tác xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 20
3.2.2. Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch phát triển 20
3.2.3. Chú trọng kế hoạch hoá định hướng phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 21
3.2.4.Hoàn thiện kế hoạch hoá hàng năm 22
3.2.5. Tăng cường công tác nghiên cứu và xây dựng chính sách 24
3.2.6. Xây dựng và phát triển công tác dự báo và phân tích kinh tế 24
3.2.7. Đổi mới hệ thống thu thập, xử lý và sử dụng thông tin 25
3.2.8. Củng cố bộ máy tổ chức, nâng cao trình độ cán bộ kế hoạch 25
Phần kết luận 27
Tài liệu tham khảo.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- DA268.doc