Tài liệu Đề tài Những cơ hội và thách thức của các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam trong quá trình gia nhập WTO: LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay, xu thế toàn cầu hóa đang bao trùm cả thế giới, khi toàn cầu hóa về nền kinh tế đang trở thành một xu hướng khách quan thì yêu cầu hội nhập nền kinh tế quốc tế càng trở nên cấp bách. Toàn cầu hóa đòi hỏi mỗi nước phải liên kết với các quốc gia khác để cùng phát triển.Và Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế chung đó. Là một nước đang phát triển, việc tham gia vào quá trình hội nhập và toàn cầu hóa thế giới làm cho Việt Nam phải đẩy mạnh khả năng cạnh tranh với các nước trên thế giới cũng như nó đã và đang đặt ra cho chúng ta nhiều cơ hội và cả những thách thức mới.
Kinh tế thế giới phát triển, quốc tế hóa thương mại đòi hỏi các nước phải xóa bỏ các rào cản, chấp nhận tự do buôn bán, vì thế mỗi nước phải mở cửa thị trường trong nước, điều đó cũng đồng nghĩa với việc nâng cao sức cạnh tranh của nước đó phù hợp với sự phát triển của thế giới. Đang chiếm tới hơn 90% số lượng cơ sở sản xuất kinh doanh của cả nước, các doanh nghiệp bán lẻ ờ Việt Nam trở thành một nhân t...
18 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1354 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Những cơ hội và thách thức của các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam trong quá trình gia nhập WTO, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay, xu thế toàn cầu hóa đang bao trùm cả thế giới, khi toàn cầu hóa về nền kinh tế đang trở thành một xu hướng khách quan thì yêu cầu hội nhập nền kinh tế quốc tế càng trở nên cấp bách. Toàn cầu hóa đòi hỏi mỗi nước phải liên kết với các quốc gia khác để cùng phát triển.Và Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế chung đó. Là một nước đang phát triển, việc tham gia vào quá trình hội nhập và toàn cầu hóa thế giới làm cho Việt Nam phải đẩy mạnh khả năng cạnh tranh với các nước trên thế giới cũng như nó đã và đang đặt ra cho chúng ta nhiều cơ hội và cả những thách thức mới.
Kinh tế thế giới phát triển, quốc tế hóa thương mại đòi hỏi các nước phải xóa bỏ các rào cản, chấp nhận tự do buôn bán, vì thế mỗi nước phải mở cửa thị trường trong nước, điều đó cũng đồng nghĩa với việc nâng cao sức cạnh tranh của nước đó phù hợp với sự phát triển của thế giới. Đang chiếm tới hơn 90% số lượng cơ sở sản xuất kinh doanh của cả nước, các doanh nghiệp bán lẻ ờ Việt Nam trở thành một nhân tố quan trọng đưa nền kinh tế nước ta ngày càng phát triển và hội nhập. Trong xu thế này Đảng và nhà nước ta phải quan tâm hơn nữa tới các doanh bán lẻ.Vậy hiện nay các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam đang có được những cơ hội nào? Và gặp phải những thách thức gì? Và chúng ta phải có những chiến lược như thế nào nhằm giúp cho doanh nghiệp bán lẻ nước ta có thể đứng vững khi hội nhập. Chúng ta hãy tìm hiểu và phân tích đề tài:“NHỮNG CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA CÁC DOANH NGHIỆP BÁN LẺ VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH GIA NHẬP WTO”.
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
Khái quát tình hình nước ta trước khi gia nhập WTO:
Sau 11 năm kiên trì đàm phán, chúng ta đã kết thúc đàm phán cả song phương và đa phương để gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) theo phương án đề ra. Việt Nam chính thức gia nhập WTO vào ngày 7/11/2006 , trong quá tình hội nhập đó, Việt Nam đã có những bước tiến rõ rệt trên các lĩnh vực, tính đến năm 2006:
Kinh tế: Tổng sản phẩm trong nước (GDP) cả năm ước tăng 8,2% (kế hoạch là 8%). GDP bình quân đầu người đạt trên 11,5 triệu đồng, tương đương 720 USD. Giá trị tăng thêm của ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 3,4 - 3,5% (kế hoạch là 3,8%), ngành công nghiệp và xây dựng tăng 10,4 - 10,5% (kế hoạch là 10,2%), ngành dịch vụ tăng 8,2 - 8,3% (kế hoạch là 8%).Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng khoảng 20% (kế hoạch là 16,4%). Sản lượng lương thực vẫn đạt khoảng 40 triệu tấn, duy trì xuất khẩu gạo năm thứ 2 liên tiếp đạt trên 5 triệu tấn và đạt trên 1 tỷ USD trong năm 2006.
Chính trị: Tổng thu ngân sách nhà nước đạt trên 258 nghìn tỷ đồng (dự toán là 237,9 nghìn tỷ đồng), tăng 19%. Tổng chi ngân sách nhà nước đạt trên 315 nghìn tỷ đồng (dự toán là 294,4 nghìn tỷ đồng), tăng 20%. Bội chi ngân sách nhà nước trong mức 5% GDP (dự toán là 5%).
Xã hội: Quá trình gia nhập đã góp phần tạo việc làm mới cho 1,6 triệu lao động (kế hoạch là 1,6 triệu), tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới giảm xuống còn 19% (kế hoạch là 20%), tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng giảm dưới 24% (kế hoạch là 24%), tỷ lệ sinh giảm xuống 0,3% (kế hoạch là 0,4%).
Giáo dục: Việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông được triển khai tích cực. Công tác tổ chức thi tuyển ở các cấp có tiến bộ. Quy mô đào tạo bậc đại học, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề tiếp tục tăng. Cơ sở vật chất nhà trường được củng cố, tăng cường. Gần 90% địa phương đã hoàn thành chương trình kiên cố hoá trường, lớp, cải thiện điều kiện dạy và học, tạo diện mạo mới cho các cơ sở giáo dục. Các trung tâm học tập cộng đồng tiếp tục được mở rộng. Cuộc vận động chống tiêu cực trong ngành giáo dục đã có một số chuyển biến, được sự đồng thuận của xã hội.
Khái quát tình hình các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam trước khi gia nhập WTO:
Theo một tài liệu của bộ thương mại, Doanh nhân Việt Nam cả quốc doanh lẫn tư nhân tổ chức được khoảng 170 siêu thị, trung tâm thương mại và 600 cửa hàng tự chọn.
Nguồn: CBRE (11-2008)
Nhưng các hoạt động bán buôn bán lẻ theo kiểu hiện đại của Việt Nam còn nhỏ lẻ, siêu thị Việt Nam lớn nhất cũng chỉ có doanh số không quá 200 tỷ đồng một năm.
Rất nhiều mặt hàng, đa số là hàng nội địa, tỷ lệ hàng nhập rất thấp…hàng thực phẩm rất dồi dào cũng như hàng tiêu dùng gia đình…nhất là các mặt hàng mà tiệm tạp hóa có thể mua để bán lại.
Tính đến nay, mô hình phân phối hiện đại - hệ thống siêu thị đã xuất hiện tại Việt Nam hơn 10 năm và chiếm khoảng 10% tổng phân phối cả nước. Tuy phát triển khá nhanh, nhưng so với các nước vẫn chưa đáng kể. Các hệ thống siêu thị của chúng ta mới chỉ đáp ứng nhu cầu mua sắm cơ bản mà chưa thỏa mãn nhu cầu shoping-hưởng thụ ngoài mua sắm thông thường của người tiêu dùng. Trong khi các nhà phân phối chuyên nghiệp ý thức rất rõ điều này và họ sẽ ngay lập tức chiếm lấy cơ hội khi vào Việt Nam.
Một đặc điểm dễ nhận thấy nhất ở các nhà phân phối trong nước hiện nay là thiếu tính chuyên nghiệp, quản lý kém hiệu quả. Thêm vào đó, vấn đề nhân lực và đào tạo nhânlực trong lĩnh vực phân phối ở ta còn quá yếu.
Chương I: CƠ HỘI CỦA CÁC DOANH NGHIỆP BÁN LẺ VIỆT NAM
SAU KHI GIA NHẬP WTO
Cơ hội lớn cho các doanh nghiệp nhập khẩu:
Trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế, là thành viên của Tổ chức thương mại thế giới, Việt Nam có cơ hội được tiếp cận với nguồn hàng hóa phong phú, đa dạng từ vô vàn những nhà cung cấp. Nhờ sự dễ dàng giao thương mà WTO đem lại, thị trường hàng hóa thế giới sẽ trở nên cạnh trạnh hơn, và đó là thuận lợi lớn cho những nhà nhập khẩu. Các doanh nghiệp trong nước sẽ có điều kiện được chọn lựa các sản phẩm tốt nhất ở mức giá cạnh tranh nhất. Đây là nhân tố quan trọng đem lại lợi ích thiết thực cho người tiêu dùng, góp phần thúc đẩy thị trường phân phối hoạt động sôi động hơn. Một điểm nổi bật khác là khi tham gia WTO, hàng hóa từ các nước thành viên sẽ được nhập khẩu vào Việt Nam với mức thuế được cắt giảm làm cho giá các sản phẩm nhập khẩu giảm đáng kể, tăng tính hấp dẫn người tiêu dùng. Theo cam kết của WTO, các quốc gia khi gia nhập vào tổ chức, sẽ áp dụng biểu thuế quan ưu đãi với các nước thành viên. Vì vậy, thuế nhập khẩu đánh trên hàng hóa các doanh nghiệp bán lẻ nhập vào nước ta cũng được cắt giảm nếu nguồn cung ứng của nó là từ các nước trong tổ chức. Đây là một cơ hội mới cho các nhà phân phối trong nước gia tăng tính cạnh tranh về giá cho sản phẩm của mình, tạo động lực thu hút người tiêu dùng.
Cơ hội tiếp cận công nghệ mới về quản lý và phân phối. Xuất hiện những hình thức bán lẻ mới với quy mô và hiệu quả cao:
WTO có nhiều thành viên là các quốc gia có nền kinh tế hàng đầu thế giới với khoa học công nghệ, năng lực quản lý ở trình độ cao, hệ thống tài chính, tiền tệ phát triển. Gia nhập vào WTO, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có cơ hội tiếp cận với những công nghệ tiên tiến trên thế giới bằng các học bổng, chương trình đào tạo, nguồn nhân lực chất lượng cao mà các nước phát triển cung cấp. Nhất là khi nước ta mở cửa thị trường bán lẻ thì những công nghệ mới về quản lý và phân phối sẽ được đưa vào nước ta qua các công ty liên doanh hay 100% vốn nước ngoài. Một khi các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào thị trường bán lẻ Việt Nam với trình độ công nghệ, cơ chế quản lí và phân phối khoa học hiệu quả sẽ đem đến cho các doanh nghiệp bán lẻ ở trong nước góc nhìn mới về quản lý, phân phối. Đó sẽ là những công nghệ quý báu cho các doanh nghiệp trong nước vận dụng để thu được thị phần và lợi nhuận lớn hơn.Vì vậy đẩy mạnh mức đầu tư cho yếu tố công nghệ, tận dụng yếu tố nhanh chóng, chính xác và thuận tiện của công nghệ không những sẽ làm giảm tối đa chi phí mà còn đem lại hiệu quả cao trong công tác quản lý lưu chuyển hàng hóa, tồn kho, bán hàng, hạch toán thu chi.
Bên cạnh đó, theo xu thế đa dạng hóa kinh doanh, Việt Nam sẽ có nhiều tập đoàn, công ty lớn kinh doanh dưới nhiều hình thức, sẽ có những cuộc cạnh tranh ngoạn mục giữa các thương hiệu bán lẻ và thương hiệu sản phẩm. Vì thế, các hình thức bán lẻ hiện đại, chuyên nghiệp như siêu thị, trung tâm mua sắm, cửa hàng đặc chủng... sẽ không có sự phân biệt rõ ràng, ranh giới giữa bán lẻ và bán buôn ngày càng thu hẹp lại. Đặc biệt, do tác động của khoa học công nghệ - thương mại các phương thức bán lẻ mới sẽ bùng nổ, như bán hàng qua mạng Internet, TV shopping, qua mạng điện thoại di động, qua catalogue, bán hàng đa cấp.
Tăng vốn đầu tư cho doanh nghiệp qua thực hiện liên doanh, liên kết với các chủ thể nước ngoài, và tiếp cận với nguồn lực tài chính của thế giới:
Tư cách thành viên WTO sẽ làm Việt Nam trở nên hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư. Hơn nữa thị trường bán lẻ Việt Nam được đánh giá là một trong những thị trường tiềm năng nhất thế giới nên nguồn vốn đầu tư vào thị trường phân phối hàng hóa Việt Nam sẽ gia tăng đáng kể khi Việt Nam trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới. Sẽ có nhiều doanh nghiệp nước ngoài thực hiện liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam, góp phần làm tăng vốn đầu tư cho nhiều doanh nghiệp bán lẻ trong nước trên thị trường nội địa. Đây là cơ hội lớn cho các doanh nghiệp bán lẻ nước ta có điều kiện mở rộng quy mô kinh doanh, nâng cao năng lực tài chính, đáp ứng được yêu cầu của các hình thức phân phối hiện đại trên thế giới như trung tâm thương mại, chuỗi cung ứng, hệ thống siêu thị. Và trong tương lai, các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam có thể sẽ hoạt động trên toàn thế giới.
Là thành viên WTO, Việt Nam còn tranh thủ được sự hỗ trợ của các định chế tài chính quốc tế như Quỹ Tiền tệ quốc Tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB). Khi quy mô của các doanh nghiệp bán lẻ ngày càng mở rộng thì tất yếu nhu cầu về vốn sẽ rất cao cho cả nhu cầu đầu tư và khắc phục rủi ro ngày càng gia tăng. Việc tiếp cận được với các nguồn hỗ trợ toàn cầu sẽ là một động lực to lớn cho các doanh nghiệp bán lẻ trong nước phát triển mạnh mẽ hoạt động của mình.
4) So với doanh nghiệp nước ngoài các doanh nghiệp trong nước có cơ hội khai thác thị trường tốt hơn nhờ am hiểu tập quán và sở thích thị trường:
Mỗi quốc gia có những tập quán trong phân phối hàng hóa khác nhau. Đi chợ là một thói quen lâu đời của người Việt. Người dân vẫn chưa quen với hình thức mua sắm qua siêu thị, trung tâm thương mại. Thói quen đi chợ, mua sắm qua các cửa hàng dọc đường vẫn là chủ yếu. Đây là thuận lợi cho các doanh nghiệp bán lẻ trong nước xây dựng hệ thống phân phối gần với tập quán của người Việt Nam. Mặt khác người Việt có sở thích là phải được thấy tận mắt sờ tận tay hàng hóa rồi mới quyết định mua. Trong khi đó, hàng hóa bán lẻ của các doanh nghiệp nước ngoài thường được đóng gói rất cẩn thận và kiểu cách nên nhiều khách hàng tỏ ra e ngại khi muốn xem xét trực tiếp sản phẩm. Đó là một lợi thế cho các doanh nghiệp bán lẻ trong nước đã hiểu rõ tập quán thị trường. Bên cạnh đó những sở thích đối với các loại hàng hóa nhất là thực phẩm của người dân mỗi quốc gia, mỗi vùng miền đều có sự khác biệt rõ rệt. Điều này gây khó khăn cho tư bản nước ngoài khi muốn đầu tư vào thị trường bán lẻ Việt Nam. Hiểu rõ những sở thích, tập quán này là một lợi thế lớn cho các doanh nghiệp bán lẻ trong nước nâng cao khả năng cạnh tranh khi nhà đầu tư nước ngoài đổ vào nước ta.
5) Hưởng lợi từ cơ chế chính sách mới trong nước.
Cơ hội mới đối với Việt Nam khi gia nhập WTO chính là việc cải cách hành chính, thể chế pháp luật. Theo cam kết với WTO, các cơ chế chính sách của Việt Nam sẽ được cải cách theo hướng thông thoáng và thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư. Luật pháp về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp cũng được hoàn chỉnh chặt chẽ và rõ ràng hơn giúp các doanh nghiệp dễ dàng hoạt động theo đúng chủ trương của nhà nước. Khi thị trường bán lẻ trong nước được mở cửa thì hàng loạt các hình thức phân phối mới sẽ đến với Việt Nam và những cơ chế chính sách mới sẽ là cần thiết để tạo điều kiện cho các hình thức này phát triển. Hơn nữa, thủ tục hành chính đơn giản, tiện lợi sẽ giúp các doanh nghiệp giảm chi phí thời gian và tiền bạc khi tiến hành hoạt động phân phối mới hay mở rộng hệ thống phân phối của mình. Bên cạnh đó cơ chế hành chính minh bạch và pháp luật chặt chẽ sẽ làm cho các doanh nghiệp cạnh tranh bình đẳng hơn, thu hút mạnh đầu tư nước ngoài, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước phát triển.
Những thay đổi này có tác động tích cực đến các doanh nghiệp, môi trường thương mại thuận lợi, thông thoáng và bình đẳng. Bởi các quy định trong WTO về cơ bản đều hướng tới việc tự do hóa thương mại bằng việc giảm thuế quan và thủ tục, bãi bỏ hạn ngạch, đơn giản hóa thủ tục hành chính… sẽ mang lại nhiều tiện ích hơn cho tất cả các doanh nghiệp. Có chính sách, thủ tục thương mại minh bạch. Nguyên tắc minh bạch của WTO đòi hỏi các cơ quan nhà nước phải công khai các thông tin về chính sách, luật lệ, thủ tục… có liên quan đến hoạt động kinh doanh cho các doanh nghiệp.
6) Thị trường bán lẻ trong nước sẽ trở nên sôi động hơn.
Mở cửa thị trường phân phối hàng hóa là bước tiến quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, đưa kinh tế Việt Nam theo kịp trình độ phát triển của thế giới. Các hình thức bán lẻ mới với hiệu quả cao sẽ được đưa vào khai thác thị trường Việt Nam, thúc đẩy thị trường phát triển tự do. Người dân trong nước được tiếp cận với nhiều kênh phân phối, hình thức bán lẻ. Đó là nhân tố quan trọng tạo lập tư duy và tập quán mới cho người tiêu dùng trong nước, giúp các doanh nghiệp dễ dàng áp dụng những hình thức mới, đột phá trong các kênh phân phối bán lẻ của mình. Bên cạnh đó, thị trường trong nước đang trở nên sôi động hơn là nhân tố thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước không ngừng đổi mới, phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. WTO thực sự đem lại những cơ hội to lớn cho các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam. Các doanh nghiệp trong nước cần tận dụng cơ hội này để phát triển mạnh mẽ, nâng cao tiềm lực của mình.
Thứ nhất, gia nhập WTO, Việt Nam có cơ hội tiếp cận rất nhiều nguồn hàng hóa từ các nhà cung cấp trên toàn thế giới. Trong điều kiện cạnh tranh toàn cầu ngày càng gia tăng, các doanh nghiệp bán lẻ hàng nhập khẩu cần tích cực tìm kiếm nguồn hàng chất lượng tốt, giá cả cạnh tranh cho mình, nâng cao lợi thế và sức hấp dẫn của doanh nghiệp đối với người tiêu dùng trong nước. Sự hợp tác đang diễn ra dưới những hình thức và thỏa thuận hết sức linh hoạt. Do vậy các doanh nghiệp bán lẻ trong nước cần chủ động trong khâu đàm phán, tạo lập được những lợi thế cho mình, để doanh nghiệp thực sự trở thành những người mua đang hưởng lợi từ cơ chế cạnh trạnh trên thị trường hàng hóa thế giới. Song song đó, mặc dù mức thuế suất thấp được áp dụng với tất cả các quốc gia thành viên WTO, nhưng vẫn có sự khác nhau giữa các nhóm nước. Với các quốc gia trong khối ASEAN hay các quốc gia đã có hiệp định song phương với Việt Nam, mức thuế suất cũng thấp hơn rõ rệt. Do đó, các doanh nghiệp nên ưu tiên hơn các hợp đồng với các đối tác từ các nước này để trở thành những nhà phân phối sản phẩm với mức giá cạnh tranh trên thị trường hàng hóa.
Thứ hai là việc chuyển giao công nghê, học hỏi các phương thức mới trong quản lý và phân phối là vấn đề cốt yếu. Các doanh nghiệp phải nhanh chóng tận dụng sự liên doanh – liên kết hợp các đối tác nước ngoài để học hỏi các công nghệ quản lý hiệu quả và những phương thức bán hàng chuyên nghiệp. Cần thay đổi tư duy, đầu tư nhiều hơn vào hoạt động marketing. Market ing là hoạt động quan trọng giúp doanh nghiệp có chiến lược kinh doanh rõ ràng, tập trung cho quá trình phát triển hoạt động của mình.Từ nghiên cứu thị trường đến xác định sản phẩm, định vị khách hàng, hình thức phân phối, các chương trình khuyến mãi, tư vấn. Tất cả cần được tiến hành chuyên nghiệp khi doanh nghiệp muốn hoạt động ở quy mô lớn.
Thứ ba là các doanh nghiệp trong nước cần tranh thủ sự tài trợ tài chính từ thế giới cũng như cân nhắc các dự án liên doanh – liên kết.
Thứ tư là lợi thế sân nhà của các doanh nghiệp cần được phát huy. Hiểu rõ văn hóa tiêu dùng Việt Nam, các doanh nghiệp cần nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường, phát triển thế mạnh ở các lĩnh vực thực phẩm, thức ăn chế biến và những hình thức phân phối gần với tập quán mua bán Việt Nam. Bên cạnh đó các doanh nghiệp giờ không thể bình chân theo lối kinh doanh cũ, cần khẩn trương thay đổi tập quán kinh doanh theo hướng tích cực, làm đúng phương châm “vui lòng khách đến, vừa lòng khách đi”, thể hiện tác phong chuyên nghiệp trong bán hàng, đáp ứng tốt nhất nhu cầu của người mua.
Tốc độ tăng tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 1/2009 (%)
Thứ năm là chính sách thông thoáng minh bạch đã rút ngắn được thời gian thành lập doanh nghiệp và tham gia thị trường, đưa nhanh hàng hóa và dịch vụ vào kinh doanh. Đồng thời, chính sách minh bạch, pháp luật cụ thể cũng hạn chế những vụ việc nhũng nhiễu phiền hà gây khó khăn cho doanh nghiệp khi gia nhập thị trường. Các doanh nghiệp cần tận dụng cơ hội này để giảm chi phí thời gian và tiền bạc cho các thủ tục hành chính và tiếp cận những thông tin thị trường. Ngoài ra, chính sách mới sẽ rút ngắn được thời gian của doanh nghiệp dành cho việc nộp thuế, thực hiện các hoạt động kiểm tra của nhà nuớc, cơ quan chức năng giám sát thị trường. Nhờ đó việc tham gia thị truờng đã trở nên nhanh chóng và hiệu quả hơn. Và cuối cùng dưới tác động của toàn cầu hóa và lợi thế mà WTO đem lại, thị trường bán lẻ hàng hóa trong nước sẽ trở nên sôi động hơn cùng với tư duy đang dần thay đổi của người tiêu dùng. Các doanh nghiệp cần tận dụng cơ hội này để có những bước đi mới, sáng tạo trong các kênh phân phối của mình.
Chương II: THÁCH THỨC CỦA CÁC DOANH NGHIỆP BÁN LẺ VIỆT NAM
SAU KHI GIA NHẬP WTO
Các thách thức của các doanh nghiệp bán lẻ:
Thị trường trong nước:
Thách thức lớn nhất mà thị trường phân phối bán lẻ Việt Nam phải đối mặt đó là sự gia nhập ồ ạt của các doanh nghiệp nước ngoài vào thị trường trong nước theo tiến trình gia nhập WTO. Theo tiến trình này thì từ 1/1/2009, Việt Nam sẽ mở cửa cho các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài tham gia vào lĩnh vực phân phối. Điều này đồng nghĩa với việc là nhà nước ta phải xóa bỏ những hàng rào thương mại, tiến tới đảm bảo quyền thiết lập hệ thống phân phối và quyền bình đẳng trong hoạt động kinh doanh như các doanh nghiệp Việt Nam.
a.1 Năng lực canh trạnh của các doanh nghiệp trong nước:
Cạnh tranh sẽ diễn ra gay gắt hơn, với nhiều “đối thủ” hơn, trên bình diện rộng hơn, sâu hơn. Đây là sự cạnh tranh giữa sản phẩm của ta với sản phẩm các nước, giữa doanh nghiệp nước ta với doanh nghiệp các nước, không chỉ trên thị trường thế giới và ngay trên thị trường nước ta do thuế nhập khẩu phải cắt giảm từ mức trung bình 17,4% hiện nay xuống mức trung bình 13,4% trong vòng 3 đến 5 năm tới, nhiều mặt hàng còn giảm mạnh hơn. Thêm vào đó là sự chênh lệch quá lớn giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài. Tiềm lực vốn lớn của các doanh nghiệp nước ngoài đã giúp họ không ngừng xây dựng và nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng của các kênh phân phối, các hệ thống hậu cần như kho bãi, xe chuyên dùng, nguồn hàng rời rạc.. nhằm ở rộng mạng lưới phân phối khác trong nước, từ đó kích thích và làm gia tăng mạnh sức mua của người tiêu dùng trong nước. Một ví dụ điển hình là sự phát triển mạnh mẽ của các tập đoàn bán lẻ với vốn đầu tư nước ngoài như : Metro Cash, Big C, Bourbon… trong suốt thời gian qua đã và đang là những thách thức lớn cho các doanh nghiệp phân phối bán lẻ trong nước.
Cạnh tranh không chỉ diễn ra ở cấp độ sản phẩm với sản phẩm, doanh nghiệp với doanh nghiệp mà còn diễn ra giữa nhà nước và nhà nước trong việc hoạch định chính sách quản lý và chiến lược phát triển nhằm phát huy nội lực và thu hút đầu tư từ bên ngoài. Chiến lược phát triển có phát huy được lợi thế so sánh hay không, có thể hiện được khả năng “phản ánh vượt trước” trong một thế giới biến đổi nhanh chóng hay không.
a.2. Chất lượng của công tác quản lý phân phối hàng hóa:
Một đất nước với hơn 87 triệu dân, một thị trường tiêu dùng được đánh giá là một trong những thị trường hấp dẫn của nhiều quốc gia trên thế giới lại chưa được thật sự khai thác triệt để bởi các hệ thông bản lẻ của doanh nghiệp trong nước. Nguyên nhân một phần là do sự yếu kém trong năng lực quản lý khâu phân phối của các doanh nghiệp, với hệ thống phân phối “hết sức cũ nát và ọp ẹp”,thiếu tính chuyên nghiệp, từ đó dẫn đến việc chưa thu hút, kích thích mạnh nhu cầu tiêu dùng của người dân. Cụ thể như hậu cần cho hệ thống phân phối như kho bảo quản, các kho lạnh, xe tải chuyên dùng thiếu đồng bộ, chưa đạt chuẩn khu vực và quốc tế. Việc tổ chức cung ứng hàng hoá chủ yếu là có gì bán nấy, chưa xây dựng được vùng cung cấp nguồn hàng ổn định để tiêu thụ. Tính chủ động trong hợp tác liên kết, liên doanh thu mua, tiêu thụ hàng hoá còn rời rạc. Do đó làm tăng chi phí lưu chuyển hàng hóa, dẫn đến việc hiện nay các mặt hàng trong các siêu thị vẫn còn đắt so với kênh chợ và cửa hàng tạp hóa bên ngoài trong khi đó siêu thị lại có lợi thế rất lớn so với các kênh đó là tính qui mô.
Trong lúc các nhà kinh doanh bán lẻ nước ngoài chỉ tập trung vào khâu phân phối bán hàng theo hướng chuyên nghiệp, đưa ra các mức giá cạnh tranh trên thị trường thu hút người tiêu dùng, thì phần nhiều các doanh nghiệp kinh doanh bán lẻ và dịch vụ tiêu dùng trong nước lại ôm đồm thêm nhiều chức năng sản xuất,.. nên không đạt được hiệu quả cao trong kinh doanh, phân phối. Hơn thế nữa, các doanh nghiệp trong nước còn khá non trẻ, thiếu kinh nghiệm trong công tác quản lý, chưa khai thác triệt để những cơ hội từ thị trường trong nước. Giám đốc Masso Group, ông Nguyễn Trung Thắng chia sẻ: “ Các hệ thống siêu thị của chúng ta chỉ mới đáp ứng nhu cầu mua sắm cơ bản mà chưa thỏa mãn nhu cầu shopping- hưởng thụ ngoài mua sắm thông thường của nhà tiêu dùng. Trong khi các nhà phân phối chuyên nghiệp ý thức rất rõ điều này và họ sẽ lập tức chiếm lấy cơ hội khi vào Việt Nam”. Điều đó càng làm cho sự chênh lệnh trong năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước so với các doanh nghiệp nước ngoài ngày càng tăng.
a.3. Xu hướng tiêu dùng hướng ngoại của người tiêu dùng:
Một thách thức nữa mà các doanh nghiệp bán lẻ đang phải đối mặt là xu hướng tiêu dùng hàng ngoại ngày càng tăng của người dân. Người dân ngày càng tiến tới xu hướng chung là tiếp cận các kênh phân phối hiện đại như siêu thị và các cửa hàng tự chọn, tạo nên những xu hướng tiêu dùng mới hình thành tại các đô thị. Sự tăng lên về nhu cầu, chất lượng hàng hóa dịch vụ của người dân lại không đồng bộ với quá trình phát triển, cái thiện dịch vụ của các doanh nghiệp bán lẻ trong nước đã phần nào làm mất lòng tin của người dân ở những sản phẩm trong nước. Đặc biệt trong giai đoạn này, khi mà cơ hội lựa chọn nhiều sản phẩm đa dạng với mẫu mã phong phú, chất lượng tốt hơn ngày càng cao thì họ có xu hướng tiêu dùng hàng ngoại nhập. Đồng thời việc dỡ bỏ các hàng rào thuế quan thương mại sẽ làm sản phẩm ngoại ào ạt nhập vào trong nước, tạo cơ hội đầu tư phát triển mạnh cho các doanh nghiệp phân phối hàng hóa, dịch vụ của nước ngoài.
Thị trường thế giới:
b.1 Nguy cơ bị áp dụng các biện pháp tự vệ:
Việc gia nhập WTO một mặt làm tăng cơ hội đẩy mạnh xuất khẩu, đặc biệt là sang các thị trường đang áp dụng hạn ngạch đối với Việt Nam, nhưng một mặt cũng kèm theo nguy cơ bị các thành viên, đặc biệt là các thành viên lớn như Hoa Kỳ, EU áp dụng biện pháp tự vệ.
b.2 Nguy cơ bị áp dụng biện pháp chống bán phá giá:
Vụ kiện cá tra, cá basa của Hoa Kỳ đối với Việt Nam và một loạt những vụ kiện chống bán phá giá mà các thành viên phát triển thường áp dụng với các thành viên đang phát triển cho thấy một thực tế là hàng xuất khẩu từ các thành viên đang phát triển, bao gồm cả hàng dệt may Việt nam có nhiều nguy cơ bị các thành viên phát triển như Hoa Kỳ, EU... áp dụng biện pháp chống bán phá giá. Đặc biệt, dệt may là mặt hàng mà Việt Nam rất có ưu thế về giá, cho nên nguy cơ này có khả năng cao.
Biện pháp giải quyết các thách thức cho các doanh nghiệp bán lẻ:
Về tương lai lâu dài để đảm bảo cho các doanh nghiệp bán lẻ trong nước có thể cạnh tranh và phát triển thì cần thực hiện một số giải pháp chính sau:
Đứng ở góc độ các doanh nghiệp bán lẻ:
Các doanh nghiệp kinh doanh bán lẻ hiện đại cần hoạch định và thực hiện chiến lược kinh doanh, chiến lược marketing một cách chuyên nghiệp, nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, xây dựng chính sách chất lượng, tăng cường trang thiết bị hiện đại phục vụ kinh doanh, xây dựng và phát triển thương hiệu, đầu tư đào tạo nguồn nhân lực…để tạo dựng niềm tin đối với khách hàng, nâng cao hiệu quả kinh doanh, giữ vững và phát huy vị thế cạnh tranh trên thị trường.
Xây dựng chuỗi bán lẻ hiện đại với tính chuyên nghiệp cao
Ví dụ điển hình đang hoạt động rất có hiệu quả đó là chuỗi siêu thị Sài Gòn Co.op.Các doanh nghiệp trong ngành nên tiến hành nghiên cứu để xây dựng những chuỗi riêng cho mình,trên cơ sở đó nhanh chóng mở rộng thị phần bán lẻ. Phát triển doanh nghiệp kinh doanh chuỗi để thu hút nhiều nguồn vốn đầu tư khác nhau nhằm phát triển hệ thống bán lẻ hiện đại, trong đó cũng cần quan tâm phát triển chuỗi siêu thị, cửa hàng thông qua phương thức nhượng quyền thương mại. Từ kết quả thảo luận chuyên sâu với một số doanh nghiệp có họat động nhượng quyền thương mại,các đơn vị kinh doanh nhượng quyền thương mại cần thực hiện những nội dung sau:
Bảo vệ tài sản trí tuệ: đăng ký bản quyền tên công ty, logo.
Xây dựng đội ngũ nhân sự chuyên cho việc kinh doanh nhượng quyền.
Hình thành cẩm nang họat động:lập sổ tay nghiệp vụ chi tiết, cụ thể cho người mua nhượng quyền.
Chuẩn bị chương trình huấn luyện cho đối tác. Có chương trình huấn luyện cụ thể trước ngày khai trương, song song đó cho người mua nhượng quyền tham quan thực tế kinh doanh những cửa hàng đang kinh doanh dưới hình thức nhượng quyền khác.
Xây dựng lực lượng hỗ trợ cho đối tác mua nhượng quyền. Các doanh nghiệp có bộ phận (phòng) quản lý kinh doanh nhượng quyền kết hợp với phòng marketing xây dựng chương trình họat động nhằm hỗ trợ cho người mua nhượng quyền.
Các tổng công ty, công ty thương mại cần xây dựng các trung tâm logistics:
Tổng công ty, công ty thương mại xây dựng các trung tâm logistics (dịch vụ hậu cần) hoặc liên kết cùng nhau xây dựng các trung tâm logistics (như mô hình của Saigon Co.op) để đặt hàng với nhà sản xuất và nhà nhập khẩu, tập trung dự trữ, phân loại, chỉnh lý, bao gói... phân phối cho mạng lưới bán lẻ của hệ thống. Ngoài ra, các đơn vị này cũng cần quan tâm đến việc quy họach vùng nguyên liệu, cung ứng vốn, hướng dẫn kỹ thuật sản xuất…để tạo ra nguồn hàng ổn định, giá phù hợp cung ứng cho hệ thống bán lẻ của mình.
Phát huy vai trò của Hiệp hội các nhà bán lẻ Việt Nam
Hiệp hội các nhà bán lẻ VN vừa được thành lập cần được phát huy vai trò của mình trong hỗ trợ thông tin thị trường bán lẻ, phương thức kinh doanh, mở rộng thị trường, hình thành nên những liên kết, đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực bán lẻ hiện đại và đại diện cho các doanh nghiệp thuộc Hiệp hội trong bảo vệ quyền lợi chính đáng và hợp pháp.
Đứng ở góc độ nhà nước:
Thứ nhất, cần thực hiện là nâng cao năng lực hệ thống, nguồn nhân lực, cần hướng đào tạo nguồn nhân lực vào trung và cao cấp, vào các nhà quản trị doanh nghiệp phù hợp với thời cuộc hội nhập. Ở góc độ này, Nhà nước có thể hỗ trợ trong công tác đào tạo nguồn nhân lực. Nhà nước cần xây dựng một hệ thống chính sách, luật cụ thể nhằm tạo sự bình đẳng cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước cạnh tranh. . Thứ hai, thông tin thị trường, các cơ quan chức năng cần sớm xây dựng và phát triển thương hiệu cho các nhà bán lẻ Việt Nam. Đặc biệt, là cần có những biện pháp hỗ trợ về mặt bằng, địa điểm kinh doanh cho ngành công nghiệp bán lẻ Việt Nam phát triển.
Nhà nước cần sớm xây dựng định hướng, chiến lược cho sự phát triển của hệ thống phân phối cả về hạ tầng thương mại, hệ thống pháp lý, đào tạo nhân lực... tạo môi trường ổn định cho doanh nghiệp phát triển.
Bên cạnh đó, cần có chính sách ưu đãi, khuyến khích doanh nghiệp trong nước đầu tư đổi mới và mở rộng hệ thống phân phối bằng các nguồn vốn ưu đãi trong các chương trình phát triển, có chính sách ưu đãi về thuế và đất đai, đổi mới công nghệ cũng như được hỗ trợ về thông tin thị trường, dự báo giá cả và xúc tiến thương mại.
Thứ ba, nhà nước cần khuyến khích các doanh nghiệp quy mô lớn mua, sáp nhập những cửa hàng nhỏ để phát triển hệ thống bán lẻ hiện đại đủ sức cạnh tranh trên thị trường. Đẩy mạnh liên kết giữa các doanh nghiệp tạo sức mạnh cạnh tranh trên thị trường.
Thứ tư, Chính phủ và các cơ quan nhà nước cần góp phần mạnh mẽ hơn nữa trong việc xây dựng và hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp bán lẻ. Các công cụ chính sách của Nhà nước và sự hỗ trợ trên các mặt khác nhau là rất cần thiết. Môi trường kinh doanh, môi trường pháp lý và các nhân tố xã hội có ảnh hưởng rất lớn đối với doanh nhân và nền kinh tế của đất nước. Do đó, thông qua chủ trương chính sách cụ thể, Nhà nước cần tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hoạt động kinh doanh phát triển, qua đó hình thành một khu vực doanh nghiệp bán lẻ hoạt động có hiệu quả và phát triển bền vững. Sự phát triển của khu vực này sẽ góp phần đắc lực trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và sự phát triển phồn thịnh của nước nhà.
Thứ năm, hỗ trợ tư vấn về thiết bị, công nghệ mới hiện đại, thích hợp và cung cấp thông tin công nghệ, thị trường cho các doanh nghiệp bán lẻ, tạo lập và phát triển thị trường công nghệ, tạo điều kiện để các doanh nghiệp này tăng cường cạnh tranh trong sản xuất, chế biến sản phẩm. Chính phủ cần thành lập một số tổ chức hỗ trợ tư vấn (bằng những hình thức đa dạng) trong các lĩnh vực, ngành nghề khác nhau, giúp các doanh nghiệp bán lẻ nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, có thêm một tiềm lực mới trong công cuộc hội nhập quốc tế.
Chương III: TỔNG KẾT VỀ PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA CÁC DOANH NGHIỆP BÁN LẺVIỆT NAM SAU KHI GIA NHẬP WTO
Thứ nhất, mở rộng quy mô bằng cách liên kết với các doanh nghiệp trong ngành. Hầu hết các doanh nghiệp bán lẻ nước ta đều có quy mô vừa và nhỏ với nguồn vốn hạn hẹp, do đó không đủ vốn để mở rộng đầu tư. Theo báo cáo tháng 9/2007, trước sức mạnh của các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài, nếu các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam không liên kết lại thì sẽ có khoảng 80% nhà bán lẻ quy mô nhỏ và vừa sẽ phá sản ( Báo 24/7). Việc liên kết các doanh nghiệp trong một ngành một mặt sẽ nhanh chóng mở rộng quy mô của doanh nghiệp không phải tốn chi phí cho quá trình đầu tư mở rộng sản xuất. Mặt khác sẻ tận dụng những kinh nghiệm của nhau để phát triển, tận dụng được thị trường hiện có của DN mà không cần phải mất thời gian cho việc mở rộng thị trường. Với hệ thống các cơ sở mở nhiều nơi cho phép doanh nghiệp dễ dàng hơn trong việc quảng bá và phát triển thương hiệu, thu hút khách hàng về với mình. Chẳng hạn như sự hợp tác thành công giữa Vinatex và Hapro trong 6 năm qua.
Thứ hai, đẩy mạnh liên kết giữa nhà bán lẻ và nhà sản xuất. Việc tạo lập mối quan hệ chặt chẽ với nhà sản xuất giúp đảm bảo nguồn cung ứng hàng hóa vủa doanh nghiệp luôn ổn định. doanh nghiệp nên mở rộng đối tác cung ứng hàng hóa, không nên mua hàng từ một nhà sản xuất để tránh tình trạng phải phụ thuộc quá nhiều vào nhà sản xuất này.
Thứ ba, trong mối quan hệ doanh nghiệp bán lẻ với người tiêu dùng, nếu doanh nghiệp bán lẻ làm tốt mục tiêu của mình là phân phối hàng đầy đủ, giá hợp lý, chất lượng cao, thái độ phục vụ tốt, có trách nhiệm với người thì chúng ta mới có thể kêu gọi sự ủng hộ của người tiêu dùng cho hàng Việt Nam, dịch vụ Việt Nam.
Thứ tư, phát huy những thế mạnh vốn có, tận dụng những thị trường mà các nhà bán lẻ nước ngoài không có.Chúng ta không thể cạnh tranh với người nước ngoài bằng vốn liếng, công nghệ, kinh nghiệm quản lý... nhưng chúng ta có thể cạnh tranh bằng văn hoá. Văn hoá là một thứ không dễ học, là rào cản rất lớn với bất cứ với người nước ngoài, kể cả người nước ngoài sống nhiều năm ở một nước.
Thứ năm, tận dụng trên các mặt hàng có lợi thế so sánh tương đối, đặt biệt là nông sản. Mở rộng các loại thị trường, không bỏ qua các loại thị trường đặt biệt là thị trường nông thôn. Thị trường nông thôn Việt Nam chiếm 70% lượng tiêu thụ hàng hoá nói chung, số hộ gia đình cũng phân bổ trên 70% ở nông thôn, hệ thống bán hàng của DN Việt chưa bao phủ kín và hiệu quả ở thị trường này, mức độ nhận diện thương hiệu của DN Việt cũng chưa cao. Đây chính là nguyên nhân “giúp” hàng giả, hàng kém chất lượng, hàng Trung Quốc đang tập trung bán ở thị trường nông thôn Việt Nam.
Thứ sáu, đa dạng các kênh bán hàng. Không những duy trì và nâng cao hiệu quả của những kênh bán hàng truyền thống trực tiếp mà còn nâng cao chất lượng của kênh bán hàng online thông qua nắm bắt tính nhanh chóng, tín nhiệm, dễ sử dụng, tin cậy và tiện lợi. Thông qua việc quan tâm xây dựng thiết kế trang web, quy trình thanh toán phải an toàn và nhanh chóng, việc giao hàng phải chuyên nghiệp, có dịch vụ hỗ trợ, tư vấn khách hàng trực tuyến, có chế độ bảo hành tốt.
Thứ bảy, đổi mới hệ thống quản lý và đội ngũ nhân viên.Để bồi dưỡng, phát triển năng lực quản lý chiến lược và tư duy chiến lược cho đội ngũ giám đốc và cán bộ kinh doanh trong các doanh nghiệp Việt Nam, cần chú trọng đặc biệt những kỹ năng: phân tích kinh doanh, dự đoán và định hướng chiến lược, lý thuyết và quản trị chiến lược, quản trị rủi ro và tính nhạy cảm trong quản lý.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 071..doc