Đề tài Nghiên cứu việc làm của lao động qua đào tạo nghề ở Việt Nam

Tài liệu Đề tài Nghiên cứu việc làm của lao động qua đào tạo nghề ở Việt Nam: MỤC LỤC Lời mở đầu ..................................................................................................................1 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VIỆC LÀM CỦA LAO ĐỘNG QUA ĐÀO TẠO NGHỀ.................................................................................................................7 1.1. Một số khái niệm về Việc làm và việc làm của lao động qua đào tạo nghề ........7 1.2. Kết cấu việc làm và cung cầu việc làm của lao động qua đào tạo nghề ............14 1.3. Vai trò và đặc điểm của lao động qua đào tạo nghề .........................................25 1.4. Mối quan hệ giữa đào tạo và việc làm của lao động qua đào tạo nghề .............30 1.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc làm của lao động qua đào tạo nghề ..............37 1.6. Kinh nghiệm của một số quốc gia về việc làm của LĐĐTN ...........................51 Tóm tắt chương 1 ..................................................................................................56 Chương 2...

pdf203 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 974 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Nghiên cứu việc làm của lao động qua đào tạo nghề ở Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC Lời mở đầu ..................................................................................................................1 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VIỆC LÀM CỦA LAO ĐỘNG QUA ĐÀO TẠO NGHỀ.................................................................................................................7 1.1. Một số khái niệm về Việc làm và việc làm của lao động qua đào tạo nghề ........7 1.2. Kết cấu việc làm và cung cầu việc làm của lao động qua đào tạo nghề ............14 1.3. Vai trò và đặc điểm của lao động qua đào tạo nghề .........................................25 1.4. Mối quan hệ giữa đào tạo và việc làm của lao động qua đào tạo nghề .............30 1.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc làm của lao động qua đào tạo nghề ..............37 1.6. Kinh nghiệm của một số quốc gia về việc làm của LĐĐTN ...........................51 Tóm tắt chương 1 ..................................................................................................56 Chương 2: PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG VIỆC LÀM CỦA LAO ĐỘNG QUA ĐÀO TẠO NGHỀ Ở VIỆT NAM..............................................................................57 2.1. Phát triển kinh tế và vấn đề việc làm ...............................................................57 2.2. Phân tích thực trạng việc làm của lao động qua đào tạo nghề ..........................64 2.3. Các chính sách giải quyết việc làm của lao động qua đào tạo nghề................109 2.4. Chính sách và hoạt động dạy nghề ...............................................................121 Tóm tắt chương 2.................................................................................................125 Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU PHÁT TRIỂN VIỆC LÀM CỦA LAO ĐỘNG QUA ĐÀO TẠO NGHỀ Ở VIỆT NAM..............................................126 3.1. Bối cảnh và định hướng phát triển việc làm...................................................126 3.2. Một số giải pháp chủ yếu phát triển việc làm của LĐĐTN ............................137 Tóm tắt chương 3.................................................................................................176 Kết luận ..................................................................................................................178 Danh mục một số công trình của tác giả Tài liệu tham khảo Phụ lục DANH MỤC CÁC BẢNG Stt Tên bảng Trang Bảng 2.1 Hệ số co giãn việc làm giai đoạn 1996-2007 58 Bảng 2.2 Hệ số co giãn và tăng trưởng việc làm theo đầu tư 60 Bảng 2.3 Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động 61 Bảng 2.4 Trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động qua đào tạo nghề 64 Bảng 2.5 Cơ cấu việc làm của lao động qua đào tạo nghề theo vùng 65 Bảng 2.6 Việc làm của lao động qua đào tạo nghề trong các ngành kinh tế 68 Bảng 2.7 Cơ cấu việc làm của lao động theo thành phần kinh tế 70 Bảng 2.8 Vị thế việc làm của lao động qua đào tạo nghề 72 Bảng 2.9 Việc làm phân theo nghề nghiệp 74 Bảng 2.10 Tình trạng thiếu việc làm và thất nghiệp phân theo CMKT 76 Bảng 2.11 Cơ cấu CMKT trong doanh nghiệp 78 Bảng 2.12 Cơ cấu CMKT của lao động trong doanh nghiệp 80 Bảng 2.13 Trình độ CMKT của lao động trong nhóm công nghiệp chế biến 81 Bảng 2.14 Việc làm của lao động qua đào tạo nghề phân theo nhóm nghề 86 Bảng 2.15 Các nghề có nhiều việc làm của lao động qua đào tạo nghề 88 Bảng 2.16 Cách thức tuyển dụng và tìm việc làm 90 Bảng 2.17 Đánh giá của doanh nghiệp về chất lượng LĐĐTN 91 Bảng 2.18 Chi phí đào tạo và đào tạo lại trong doanh nghiệp 94 Bảng 2.19 Xác suất tìm được việc làm của lao động qua đào tạo nghề 97 Bảng 2.20 Tình trạng họat động kinh tế của HSTN 98 Bảng 2.21 Tiền lương theo học vấn và CMKT của lao động 101 Bảng 2.22 Khoảng cách tiền lương 102 Bảng 2.23 Tỷ lệ hoàn trả theo kỹ năng 2002-2004-2006 106 Bảng 2.24 Khác biệt tiền lương do các nhân tố tác động 107 Bảng 2.25 Chênh lệch tiền lương của lao động qua đào tạo nghề 108 Bảng 2.26 Kết quả tạo việc làm giai đoạn 2001-2007 110 Bảng 2.27 Việc làm mới cho lao động qua đào tạo nghề 111 Bảng 2.28 Chuyển biến cơ cấu trong khu vực nông nghiệp 112 Bảng 3.1 Kết quả dự báo việc làm giai đoạn 2010-2020 129 Bảng 3.2 Kết quả dự báo số lượng lao động qua đào tạo nghề 129 DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ Stt Tên biểu đồ Trang Biểu đồ 1.1 Quyết định số lượng việc làm của doanh nghiệp 20 Biểu đồ 1.2 Cung cầu kỹ năng trên thị trường lao động 23 Biểu đồ 1.3 Học nghề để có thu nhập cao hơn 34 Biểu đồ 2.1 Chuyển dịch cơ cấu lao động 67 Biểu đồ 2.2 Lao động bị thất nghiệp phân theo trình độ CMKT 75 Biểu đồ 2.3 Xu hướng dãn cách tiền lương giờ 103 Biểu đồ 2.4 Phân bố tiền lương theo tuổi 105 Biểu đồ 3.1 Xu hướng tăng lao động qua đào tạo nghề các cấp trình độ 130 DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ Stt Tên sơ đồ Trang Sơ đồ 1.1 Minh họa phạm vi lao động qua đào tạo nghề 13 Sơ đồ 1.2 Kết cấu một việc làm 17 Sơ đồ 1.3 Chu trình phát triển nguồn nhân lực và tích lũy vốn nhân lực 31 Sơ đồ 3.1 Giải pháp phát triển việc làm của lao động qua đào tạo nghề 137 CÁC CHỮ VIẾT TẮT Viết tắt Xin đọc là : CĐ Cao đẳng CMKT Chuyên môn kỹ thuật CN Công nghiệp CNKT Công nhân kỹ thuật CNH-HĐH Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa CNTB Chủ nghĩa tư bản CSĐT Cơ sở đào tạo DN Doanh nghiệp ĐH Đại học ĐTN Đào tạo nghề GDKT&DN Giáo dục Kỹ thuật và Dạy nghề HSTN Học sinh tốt nghiệp HSSV Học sinh – sinh viên KCN- KCX Khu công nghiệp, khu chế xuất LĐĐTN Lao động qua đào tạo nghề N-L-N Nông Lâm Ngư nghiệp TCDN Tổng cục Dạy nghề THCN Trung học chuyên nghiệp THCS Trung học cơ sở THPT Trung học phổ thông 1 Lời nói đầu 1. Lý do chọn đề tài Việt nam, 20 năm đổi mới, nền kinh tế đã phát triển mạnh mẽ, đời sống nhân dân được cải thiện, tỷ lệ nghèo đói giảm nhanh, vị thế đất nước trên trường quốc tế được nâng lên v.v.. Nền kinh tế tăng trưởng cao và tương đối ổn định, đầu tư và xuất khẩu hàng năm tăng đều đặn và có chiều hướng tích cực. Thời kỳ đầu đổi mới, những thay đổi về chính sách vĩ mô và môi trường kinh tế trong nước đã khơi dậy nguồn lực và đóng góp cho tăng trưởng, phát triển. Những thuận lợi trước đây không còn nhiều và những khó khăn, thách thức đang xuất hiện. Đến nay, các nguồn lực vốn, tài nguyên, công nghệ đang dần được sử dụng hiệu quả hơn và cạnh tranh hơn trong một nền kinh tế mở. Muốn tăng hiệu quả và phát triển bền vững, nền kinh tế phải coi trọng phát triển nguồn nhân lực và cụ thể là lực lượng lao động có kỹ năng. Vận động của nền kinh tế Việt nam trong giai đoạn hiện nay làm cho lực lượng lao động bị xáo trộn để thích nghi với những yêu cầu mới. Những thay đổi nhanh chóng này làm thay đổi hình thức, nội dung và ngay cả tên gọi của việc làm. Việc làm của lao động qua đào tạo nghề (LĐĐTN) là một bộ phận trong tổng việc làm của nền kinh tế nó góp phần vào nhóm lao động có CMKT và là nguồn nhân lực cơ bản để hiện thực hóa quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Sự thay đổi trên thị trường lao động cùng với việc đổi mới các hoạt động đào tạo đang làm cho sự phù hợp của đào tạo và việc làm trở thành vấn đề gây tranh cãi. Đào tạo để làm việc, nếu đào tạo không có việc làm thì là đầu tư lãng phí, ngược lại việc làm mà không được đào tạo, không "học suốt đời" để nâng cao thì việc làm sẽ kém đóng góp và năng suất lao động không cao. Đào tạo và việc làm tương đồng với ý nghĩa của đầu tư cho giáo dục, đào tạo và sử dụng là hai mặt của quá trình phát triển nguồn nhân lực và nâng cao vốn nhân lực của nền kinh tế. Thực tiễn của hoạt động đào tạo nghề hiện nay đang là tâm điểm của nhiều ý kiến liên quan đến vấn đề làm thế nào để đáp ứng nhu cầu nhân lực cho nền kinh tế. Việc sử dụng lao động kỹ thuật, lao động qua đào tạo nghề hiện nay cũng còn nhiều 2 bất cập, chưa thể hiện vai trò là 'cầu kéo' , 'sức hút', đầu ra 'hấp dẫn' cho đào tạo. Vấn đề việc làm của lao động qua đạo nghề không chỉ đơn thuần là việc làm hay đào tạo hoặc sử dụng, mà cả ba yếu tố này đều góp phần tạo nên. Vấn đề đặt ra là phải tạo ra và giải quyết việc làm, vừa phải phát triển đội ngũ lao động cũng như có những chính sách sử dụng và tạo môi trường cho phát triển việc làm của lao động qua đào tạo nghề. Vừa giải quyết việc làm cho đối tượng này trong sự cân đối dài hạn vừa phải đổi mới sử dụng sao cho hiệu quả đồng thời vừa thúc đẩy phát triển đào tạo đáp ứng đủ, phù hợp nhu cầu là một câu hỏi lớn đặt ra cho cả vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt nam. Cho đến nay chưa có công trình nghiên cứu khoa học nào đi sâu nghiên cứu thực trạng và đề xuất các giải pháp để phát triển việc làm cho lao động qua đào tạo nghề. Xuất phát từ nhu cầu lý luận và thực tiễn trên, đặt ra sự cần thiết để lựa chọn đề tài: "Nghiên cứu việc làm của lao động qua đào tạo nghề ở Việt nam". 2. Mục đích nghiên cứu - Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về việc làm của LĐĐTN. - Phân tích, đánh giá thực trạng, tìm hiểu những vấn đề chủ yếu hiện nay về việc làm của lao động qua đào tạo nghề. - Đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển việc làm của LĐĐTN ở Việt Nam. 3. Đối tượng nghiên cứu Việc làm của lao động qua đào tạo nghề, trong đó chủ yếu tập trung vào các vấn đề liên quan đến việc làm, sử dụng và giải quyết việc làm của LĐĐTN. 4. Tổng quan nghiên cứu 4.1. Nghiên cứu của nước ngoài Các nghiên cứu của nước ngoài về vấn đề lao động qua đào tạo nghề được nhìn nhận trên giác độ và tên gọi khác. Nghiên cứu có liên quan đến vấn đề này chủ yếu đề cập đến việc cải cách hệ thống đào tạo nghề như một liệu pháp chủ chốt để giải quyết vấn đề cung lao động qua đào tạo nghề cho các nền kinh tế. 3 Điển hình một trong những công trình đó là tác phẩm của Ngân Hàng Thế giới có tên gọi: "Cải cách Giáo dục và đào tạo nghề"[128], công trình đề cập rất nhiều kinh nghiệm của các nước phân ra làm các khối khác nhau như các nước chậm phát triển, các nước phát triển và các nước đang chuyển đổi. Trong đó vấn đề cốt lõi được giải quyết là làm thế nào để cải cách hệ thống giáo dục nghề nghiệp hiện nay phù hợp với thị trường lao động. Mỗi quốc gia, mỗi nền kinh tế có những điều kiện cụ thể khác nhau nên có những bài học khác nhau về cải cách hệ thống dạy nghề. Trong đó công trình cũng có đề cập đến những chính sách, mô hình khác nhau của các nền kinh tế trong giải quyết mối quan hệ giữa đào tạo và thị trường lao động, vấn đề việc làm cho đối tượng đầu ra của hệ thống đào tạo trong tương quan với hoạt động kinh tế. Một ấn phẩm được coi là có nhiều liên quan đến các vấn đề việc làm của lao động kỹ thuật nghề nghiệp của Ngân hàng phát triển Châu á (ADB): "Giáo dục kỹ thuật và Dạy nghề" [115] xuất bản năm 1990, về các vấn đề đào tạo nghề cho người lao động, kinh nghiệm của các nước. Trong ấn phẩm này nội dung chủ yếu đi sâu vào các chức năng, đặc điểm của hệ thống dạy nghề, các chính sách của các quốc gia trong việc đào tạo nghề. Ngoài ra có đi sâu vào việc đào tạo nghề đáp ứng các nhu cầu của các khu vực kinh tế khác nhau trong nền kinh tế. Đặc điểm cơ bản của nội dung ấn phẩm này khác với các ấn phẩm khác là đi sâu vào phân tích kết cấu hệ thống giáo dục và dạy nghề với kinh nghiệm của nhiều nước có mô hình đào tạo nghề khác nhau. Nghiên cứu của nước ngoài còn rất nhiều ấn phẩm và công trình khác đề cập đến những tính toán hiệu quả cá nhân thu được từ việc đi học và tìm việc làm đối với đối tượng theo học các chương trình giáo dục kỹ thuật và dạy nghề. Đồng thời có những nghiên cứu sâu liên quan đến cơ hội việc làm cho lao động và phân tích lựa chọn cơ hội học nghề cho người học. Tuy nhiên đến nay, chưa có công trình nào nghiên cứu sâu về việc làm của nhóm đối tượng là lao động qua đào tạo nghề. 4.2. Một số nghiên cứu trong nước Một số nghiên cứu trong nước có liên quan trực tiếp đến vấn đề lao động kỹ thuật đó là nghiên cứu của PGS.TS. Đỗ Minh Cương có tựa đề: “Phát triển lao 4 động kỹ thuật ở Việt Nam- Lý luận và thực tiễn” [30]. Nghiên cứu này đã đi sâu vào phân tích lực lượng lao động kỹ thuật nói chung trong đó có đề cập sâu đến hệ thống đào tạo nghề hiện nay và sản phẩm, kết quả của quá trình đào tạo. Nghiên cứu này tập trung vào khía cạnh cung lao động kỹ thuật trong nền kinh tế và các giải pháp chủ yếu để phát triển đào tạo nghề thúc đẩy cung lao động kỹ thuật cho nền kinh tế, trong đó đã đề cập đến việc làm như kết quả của quá trình đào tạo nhưng không tập trung vào LĐĐTN mà toàn bộ nhóm lao động kỹ thuật. Nghiên cứu thứ hai có nhiều điểm tương đồng với nghiên cứu trên đó là đề tài KX-05-10 do GS.TSKH. Nguyễn Minh Đường làm chủ nhiệm: "Thực trạng và giải pháp đào tạo lao động kỹ thuật (Từ sơ cấp đến trên đại học) đáp ứng yêu cầu chuyển dịch cơ cấu lao động trong điều kiện kinh tế thị trường, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế" [38]. Đối tượng nghiên cứu của đề tài này tập trung vào nhóm lao động kỹ thuật và nội dung cơ bản đi sâu vào nghiên cứu thực trạng và năng lực đào tạo của các cơ sở đào tạo, các chính sách đào tạo lao động kỹ thuật và những vấn đề kỹ thuật của hoạt động đào tạo (nội dung đào tạo, cơ sở vật chất, chương trình, giáo trình, giáo viên v.v...). Nghiên cứu này cũng đã đề cập đến thực trạng lực lượng lao động kỹ thuật đáp ứng nhu cầu cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhưng không giải quyết các vấn đề liên quan đến việc làm. Nghiên cứu khác có liên quan đó là Luận án Tiến sỹ của TS. Phan Chính Thức với đề tài: "Những giải pháp phát triển đào tạo nghề góp phần đáp ứng nhu cầu nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa" [85]. Công trình này đề cập đến hệ thống đào tạo nghề trên giác độ hệ thống cung ứng nhân lực lao động qua đào tạo nghề cho nền kinh tế và đi sâu vào nghiên cứu thực trạng và các vấn đề của hệ thống đào tạo nghề của Việt nam. Một số giải pháp mà công trình này đưa ra tập trung vào phát triển hệ thống dạy nghề đáp ứng nhu cầu CNH-HĐH đất nước. Một ấn phẩm khác đề cập đến vấn đề phát triển nguồn nhân lực lao động tốt nghiệp đại học của tác giả Đỗ Minh Cương và Nguyễn Thị Doan [29], trong đó đề cập nhiều đến các vấn đề hệ thống đào tạo đại học hiện nay và các vấn đề về chính sách và hoạt động đào tạo đại học nhằm phát triển đội ngũ lao động trí thức phục 5 vụ quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Một công trình trực tiếp giải quyết vấn đề việc làm đó là:"Về chính sách giải quyết việc làm ở Việt nam" của tác giả Nguyễn Hữu Dũng [32]. Nghiên cứu này đi sâu và phân tích toàn diện các chính sách giải quyết việc làm trong nền kinh tế trong những năm cuối thế kỷ 20. Tác giả đã trình bày phủ rộng hầu hết các vấn đề liên quan đến các chính sách giải quyết việc làm và đề xuất các giải pháp giải quyết việc làm ở nước ta. Tuy nhiên công trình này không đề cập riêng cho việc làm của nhóm đối tượng lao động qua đào tạo nghề và các vấn đề liên quan đến nhóm đối tượng này. Ngoài ra có một số công trình nghiên cứu khác cũng gần gũi với chủ đề việc làm của lao động qua đào tạo nghề là công trình "Về xu hướng công nhân hóa ở nước ta hiện nay" của tác giả Nguyễn An Ninh [60] đặt ra và giải quyết các vấn đề phát triển mang tính giai cấp của đội ngũ công nhân công nghiệp ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Nghiên cứu có đề cập đến số lượng, chất lượng, đào tạo, và sử dụng lao động là đội ngũ công nhân kỹ thuật nhưng chủ yếu trên giác độ phát triển và củng cố đội ngũ để giai cấp công nhân trở nên đội tiền phong vững mạnh. Có thể khẳng định, cho đến thời điểm này chưa có công trình nào, gồm cả quốc tế và trong nước, đề cập cụ thể đến vấn đề việc làm của lao động qua đào tạo nghề. Những nghiên cứu đã có có thể hoặc là tập trung vào giải quyết vấn đề việc làm nói chung hoặc là giải quyết vấn đề đào tạo nghề. Sự khác biệt của nghiên cứu này với các nghiên cứu trước đây và đang có hiện nay ở hai đặc điểm chính: (i) tiếp cận sâu về đặc điểm và cấu trúc việc làm của nhóm đối tượng lao động qua đào tạo nghề và (ii) nghiên cứu vấn đề việc làm như một kết quả đầu ra của đào tạo nghề. 5. Phạm vi nghiên cứu - Nội dung: Việc làm của lao động qua đào tạo nghề ở Việt nam. - Không gian: Trên phạm vi cả nước, có sử dụng kết quả khảo sát thực tiễn tại một số tỉnh/thành phố, Bộ/ngành, cơ sở đào tạo nghề và doanh nghiệp. - Thời gian: Thực trạng hiện nay và đề xuất giải pháp cho thời kỳ 2011-2020. 6 6. Phương pháp nghiên cứu Luận án sử dụng một số phương pháp sau đây: - Phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng. - Phương pháp thống kê, hồi cứu tài liệu, kế thừa các kết quả nghiên cứu trong và ngoài nước về việc làm, đào tạo, thị trường lao động, nguồn nhân lực; - Phương pháp khái quát hóa, quy nạp, nội suy, so sánh đối chiếu v.v.. - Phương pháp mô hình kinh tế lượng. 7. Đóng góp của luận án 7.1. Về lý luận, luận án: - trình bày một cách hệ thống lý luận về việc làm của LĐĐTN; - phân tích, tính toán cơ hội việc làm, khác biệt thu nhập của LĐĐTN và lý giải mối quan hệ biện chứng giữa việc làm với đào tạo nghề; vận dụng khái niệm vốn nhân lực phân tích việc làm của LĐĐTN. 7.2. Về thực tiễn, luận án: - phân tích và chỉ rõ thực trạng việc làm của LĐĐTN, qua đó, việc sử dụng, đào tạo và giải quyết việc làm cho đội ngũ lao động qua đào tạo nghề hết sức có ý nghĩa với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. - đề xuất những giải pháp mang tính đột phá cho việc đào tạo và giải quyết việc làm cho LĐĐTN trong giai đoạn 2011-2020. 8. Cấu trúc của Luận án Luận án gồm các phần: Lời nói đầu; nội dung; kết luận, danh mục các công trình của tác giả, tài liệu tham khảo, phụ lục. Nội dung luận án có 3 chương: - Chương 1: Cơ sở lý luận về việc làm của lao động qua đào tạo nghề - Chương 2: Phân tích thực trạng việc làm của lao động qua đào tạo nghề ở Việt Nam - Chương 3: Một số giải pháp chủ yếu phát triển việc làm của lao động qua đào tạo nghề ở Việt nam 7 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VIỆC LÀM CỦA LAO ĐỘNG QUA ĐÀO TẠO NGHỀ 1.1. Một số khái niệm liên quan đến việc làm của lao động qua đào tạo nghề 1.1.1. Việc làm a. Khái niệm Theo khái niệm được đưa ra trong từ điển tiếng Việt "Việc làm là công việc được giao cho làm và được trả công" [65, tr.1076]. Khái niệm này tương đối rộng, tuy nhiên còn một thuật ngữ chưa mang tính phổ biến đó là tính chất công việc "được giao". Người lao động hoàn toàn có thể tự tạo ra việc làm để có thu nhập mà không cần phải ai giao việc cho. Theo giáo trình Kinh tế lao động của Trường đại học Kinh tế quốc dân Hà nội, khái niệm việc làm được hiểu là: "trạng thái phù hợp về mặt số lượng và chất lượng giữa tư liệu sản xuất với sức lao động, để tạo ra hàng hóa theo nhu cầu của thị trường". Hiểu rộng ra có thể gọi việc làm là hoạt động có ích (sản xuất, dịch vụ, nghiên cứu, giáo dục, văn hóa, nghệ thuật quản lý v.v..) tạo ra/có thu nhập [71, tr.19]. Theo Đại từ điển Kinh tế thị trường: "Việc làm là hành vi của nhân viên, có năng lực lao động thông qua hình thức nhất định kết hợp với tư liệu sản xuất, để được thù lao hoặc thu nhập kinh doanh"[71]. Thực chất là người lao động và tư liệu sản xuất kết hợp. Trong chế độ Xã hội chủ nghĩa, người lao động là chủ tư liệu sản xuất, việc làm có nghĩa là thực hiện quyền làm chủ, vừa là lao động cho cá nhân người lao động, cũng lại là lao động xã hội. Khu vực làm việc có thể là các cơ sở sản xuất kinh doanh Nhà nước, tập thể, tư nhân, có vốn đầu tư nước ngoài v.v… Phân theo tính chất công việc có thể chia ra nhân công ổn định, nhân công hợp đồng, tạm thời. Theo một quan điểm khá tổng quát về việc làm: "…Việc làm là một phạm trù kinh tế, tồn tại ở tất cả mọi hình thái xã hội, đó là một tập hợp những mối quan hệ 8 kinh tế giữa con người về việc đảm bảo chỗ làm việc và tham gia của họ vào hoạt động kinh tế…." [26, tr.313]. Việc làm cũng là một phạm trù của thị trường khi thuê một chỗ làm việc nhất định và chuyển người thất nghiệp thành người lao động. Theo Bộ Luật lao động nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt nam thì việc làm được xác định là: "Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm". Từ các quan điểm trên, tác giả thống nhất với khái niệm: Việc làm là hoạt động lao động của các cá nhân trong xã hội nhằm mục đích tạo ra thu nhập (được trả công bằng tiền, hiện vật, trao đổi công; tự làm để tạo thu nhập, tạo lợi ích cho gia đình không hưởng tiền công/lương). b. Phân loại việc làm Có nhiều cách nhìn nhận và phân loại việc làm, nhưng cơ bản là đứng trên góc độ chủ thể hoạt động của việc làm là người lao động. Những hoạt động của người lao động thể hiện hình thức, tính chất, đặc điểm, yêu cầu và cả xu hướng của việc làm. Việc làm vì thế có thể phân loại theo chủ thể hoạt động lao động là người lao động và chủ thể tạo việc làm trong nền kinh tế. Người có việc làm, theo ILO: "người có việc làm là những người đang làm một việc gì đó được trả tiền công hoặc những người tham gia vào các hoạt động mang tính chất tự thỏa mãn lợi ích thay thế thu nhập của gia đình". Theo Tổng cục thống kê: "Người có việc làm là những người đang làm việc trong thời gian quan sát và những người trước đó có việc làm nhưng hiện đang nghỉ tạm thời vì các lý do như ốm đau, đình công, nghỉ hè, lễ, trong thời gian sắp xếp lại sản xuất, do thời tiết xấu, máy móc hư hỏng…" Người có việc làm là người đủ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân mà trong tuần lễ liền kề trước thời điểm điều tra (gọi tắt là tuần lễ tham khảo) có thời gian làm việc không ít hơn mức chuẩn qui định (trường hợp của Việt nam, mức chuẩn này là 8 tiếng) đối với người được coi là có việc làm. Người có việc làm có thể chia thành 2 nhóm là người đủ việc làm và người thiếu việc làm. 9 Người đủ việc làm là người có số giờ làm việc trong tuần lễ tham khảo lớn hơn hoặc bằng 36 giờ; hoặc những người có số giờ làm việc nhỏ hơn 36 giờ nhưng bằng hoặc lớn hơn giờ chế độ qui định đối với các công việc nặng nhọc, độc hại. Người thiếu việc làm là người có số giờ làm việc trong tuần lễ tham khảo dưới 36 giờ; hoặc ít hơn giờ theo chế độ qui định đối với các công việc nặng nhọc, độc hại mà vẫn có nhu cầu làm đủ giờ. Theo hoạt động của mỗi cá thể người lao động việc làm có thể chia ra thành: việc làm chính, việc làm phụ. Việc làm chính là công việc mà người thực hiện dành nhiều thời gian nhất so với công việc khác. Việc làm phụ là công việc mà người thực hiện dành nhiều thời gian nhất sau công việc chính. Trong trường hợp việc làm chính và phụ có thời gian bằng nhau thì việc làm nào có thu nhập cao hơn được xem là việc làm chính. Xét về tính chất việc làm, việc làm có thể mang tính chất ổn định hay tạm thời. Việc làm ổn định trong một năm đối với người lao động có thời gian làm việc từ 6 tháng trở lên. Việc làm tạm thời là những công việc dưới 6 tháng. Việc làm cũng có thể phân loại theo nhiều hình thức như làm công ăn lương, tự tạo việc làm. Ở nước ta, thống kê lao động có việc làm phân ra thành 5 nhóm: Việc làm được trả công khu vực công và khu vực tư nhân (người đang làm việc và người học việc hiện đang làm việc được trả công bằng tiền mặt hoặc hiện vật); việc làm tự tạo (tự tạo việc làm cho mình); những người làm việc trong gia đình không được trả công; những người tham gia sản xuất cho tiêu dùng của bản thân. Các nền kinh tế khác nhau có hình thức tổ chức khác nhau, nhưng thông thường phân theo các tổ chức thuộc khu vực nhà nước, khu vực doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, khu vực các tổ chức cộng đồng và khu vực có yếu tố nước ngoài. Theo phân loại của cuộc điều tra thực trạng việc làm và thất nghiệp hàng năm của Bộ LĐ-TB&XH phân ra, việc làm trong [18, tr.27]: + Khu vực hành chính: cơ quan tổ chức hành chính nhà nước (các cấp Bộ/Ban/Ngành ở trung ương, tỉnh, huyện, xã…), + Khu vực sự nghiệp: các đơn vị sự nghiệp (Giáo dục, y tế, văn hóa, thông tin, truyền hình, thể thao v.v..) gồm cả công lập, bán công, tư thục và dân lập; 10 + Khu vực cộng đồng: các cơ quan đảng, đoàn, tổ chức chính trị, các hiệp hội; + Khu vực sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp trong nước: các doanh nghiệp Nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân; + Khu vực hợp tác xã: hiện đang hoạt động theo luật hợp tác xã; + Khu vực kinh tế hộ: kinh tế cá thể, hộ gia đình; + Khu vực có yếu tố nước ngoài: việc làm trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và trong các cơ quan, tổ chức và cá nhân nước ngoài khác. 1.1.2. Lao động qua đào tạo nghề a. Đào tạo nghề Khái niệm đào tạo thường đi liền với giáo dục và thành một cặp đôi là giáo dục - đào tạo. Giáo dục được hiểu là các hoạt động và tác động hướng vào sự phát triển và rèn luyện năng lực (bao gồm tri thức, kỹ năng, kỹ xảo...) và phẩm chất (niềm tin, tư cách, đạo đức...) ở con người để có thể phát triển nhân cách đầy đủ nhất và trở nên có giá trị tích cực đối với xã hội. Khái niệm đào tạo, theo từ điển tiếng Việt được hiểu là việc: "làm cho trở thành người có năng lực theo những tiêu chuẩn nhất định" [65,tr.279]. Cắt nghĩa động từ đào tạo này là hoạt động trang bị cho người lao động năng lực (kiến thức, kỹ năng, thái độ) theo một tiêu chuẩn định trước để cho người lao động có năng lực và trở nên hữu ích trong một số công việc hoặc hoạt động xã hội. Từ góc nhìn của các nhà giáo dục và đào tạo Việt nam, khái niệm tương đối đầy đủ là: "Đào tạo là quá trình hoạt động có mục đích, có tổ chức nhằm đạt được các kiến thức, kỹ năng và kỹ xảo trong lý thuyết và thực tiễn, tạo ra năng lực để thực hiện thành công một hoạt động xã hội (nghề nghiệp) cần thiết [39]. Theo giáo trình Kinh tế lao động của Trường đại học Kinh tế quốc dân Hà nội, khái niệm đào tạo là: "Quá trình trang bị kiến thức nhất định về chuyên môn, nghiệp vụ cho người lao động để họ có thể đảm nhận được một công việc nhất định" [83, tr.54]. Theo một khái niệm khác về đào tạo lao động kỹ thuật: "là quá trình hoạt động đào tạo có mục đích, có tổ chức và có kế hoạch trong hệ thống đào 11 tạo kỹ thuật thực hành nhằm hình thành và phát triển kiến thức, kỹ năng, thái độ cho mỗi cá nhân người lao động ở các cấp trình độ để có thể hành nghề, làm công việc phức tạp với năng suất và hiệu quả cao, đồng thời có năng lực thích ứng với sự biến đổi nhanh chóng của kỹ thuật và công nghệ trong thực tế" [30, tr.29]. Theo ILO: "Những hoạt động nhằm cung cấp kiến thức, kỹ năng và thái độ cần có cho sự thực hiện có năng suất và hiệu quả trong pham vi một nghề hoặc nhóm nghề. Nó bao gồm đào tạo ban đầu, đào tạo lại, đào tạo nâng cao, cập nhật và đào tạo liên quan đến nghề nghiệp chuyên sâu" [94, tr.174]. Luật Dạy nghề đưa ra khái niệm như sau: "Dạy nghề là hoạt động dạy và học nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp cần thiết cho người học nghề để có thể tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm sau khi hoàn thành khóa học." [70, tr.9]. Luật cũng qui định có ba cấp trình độ đào tạo là sơ cấp nghề, trung cấp nghề, cao đẳng nghề và về hình thức của hoạt động dạy nghề bao gồm cả dạy nghề chính qui và dạy nghề thường xuyên. Theo tác giả thì khái niệm đào tạo nghề như sau: "Đào tạo nghề là hoạt động trang bị năng lực (tri thức, kỹ năng và thái độ) hành nghề cho người lao động để người lao động có thể hành nghề hoặc tự tạo việc làm". b. Lao động qua đào tạo nghề Theo khái niệm đào tạo nghề nói trên thì một lao động được tính là lao động đã qua đào tạo nghề khi lao động đó đã hoàn thành/trải qua ít nhất một hoạt động đào tạo nghề. Khi xem xét việc lao động đã từng được đào tạo (đã từng trải qua), thì không xem xét về mặt năng lực thực tế, không xem nặng vấn đề văn bằng chứng chỉ, mà chủ yếu trên góc độ người đó đã từng được/tham gia học nghề. Thông thường lao động qua đào tạo nghề là người đã trải qua (được học) lớp/khóa/chương trình đào tạo nghề với nghề thuộc danh mục nghề đào tạo được ban hành. Để đảm bảo đạt được kiến thức và kỹ năng nghề cần thiết cần qui định thời gian tối thiếu đối với một khóa đào tạo nghề để được coi là đã qua đào tạo nghề. Qua ý kiến của các chuyên gia và các nhà quản lý thì thời gian để có thể truyền đạt kiến thức và kỹ năng nghề đơn giản phải cần tối thiểu một tháng. Kết thúc khóa 12 học, người học được thi hoặc kiểm tra đánh giá về kiến thức và kỹ năng nghề và được cấp văn bằng, chứng chỉ nghề theo qui định. Thông thường có ba nhóm cung cấp lao động qua đào tạo nghề đó là đào tạo chính thức trong các trường thuộc hệ thống giáo dục kỹ thuật và dạy nghề, đào tạo nghề nghiệp trước khi làm việc và đào tạo tại chức (tại chỗ) cho công nhân [128, tr.15]. Việc xác định các khóa học, chương trình đào tạo không chỉ loại hình đào tạo chính thức, mà tất cả các loại hình đào tạo khác nhau (Luật dạy nghề công nhận các cơ sở dạy nghề bao gồm cả các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh). Lao động qua đào tạo nghề được cung cấp từ nhiều nguồn khác nhau và được hiểu rộng là đối tượng đã được trải qua học nghề dưới nhiều hình thức khác nhau. Qua các tiêu chí trên, có thể đưa ra khái niệm: "Lao động qua đào tạo nghề là những người đã hoàn thành ít nhất một chương trình đào tạo của một nghề tại một cơ sở dạy nghề (gồm cả các cơ sở sản xuất kinh doanh) và được cấp văn bằng chứng chỉ nghề hoặc được thừa nhận theo các qui định hiện hành". Như vậy, lao động qua đào tạo nghề hiện không chỉ có nhóm CNKT được đào tạo chính qui từ trường, lớp dạy nghề (quan niệm cũ), mà bao gồm lao động được đào tạo ở cả ba cấp trình độ (theo Luật Dạy nghề) trong nhà trường và được dạy nghề bởi doanh nghiệp, các cơ sở dạy nghề ngoài nhà trường hoặc tự học, được truyền nghề và được thừa nhận bởi các qui định hiện hành. Nhóm lao động chưa qua đào tạo được hiểu là những người chưa có bất kỳ một loại văn bằng hoặc chứng chỉ nghề nào và thực tế cũng không đảm nhận một công việc nào đòi hỏi chuyên môn/kỹ thuật từ 3 năm trở lên hoặc công việc đòi hỏi chuyên môn/kỹ thuật nhưng kinh nghiệm chưa đủ 3 năm [18, tr.21]. Nhóm CNKT không bằng thường là đối tượng khó xác định. Theo thống kê lao động việc làm hàng năm của Bộ LĐ-TB&XH thì CNKT không bằng, chứng chỉ là những người tuy chưa qua một trường lớp đào tạo nào nhưng do tự học, do được truyền nghề hoặc vừa làm vừa học nên họ đã có được kỹ năng, tay nghề tương đương với bậc 1 của CNKT có bằng cùng nghề và thực tế đã làm công việc đang làm từ 3 năm trở lên [18, tr.21]. 13 Theo cách phân loại trước đây, xuất phát từ nguồn gốc đào tạo, lao động được đào tạo ra gồm hai nhóm là công nhân kỹ thuật và cán bộ chuyên môn. Công nhân kỹ thuật là người được đào tạo và được cấp bằng, chứng chỉ của bậc giáo dục nghề nghiệp trong hệ thống giáo dục để có năng lực thực hành, thực hiện các công việc phức tạp do sản xuất yêu cầu. Những người được đào tạo ở cấp trình độ khác như trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học và sau đại học thì xếp vào nhóm `cán bộ chuyên môn’. Cán bộ chuyên môn là những người được đào tạo ở các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, có trình độ học vấn cao, có khả năng lãnh đạo, quản lý, chỉ đạo một chuyên môn, nghiệp vụ nào đó. Khi thống kê lao động, việc làm thường phân ra làm hai nhóm lớn là lao động chưa qua đào tạo (không có CMKT) và lao động đã qua đào tạo (đồng nghĩa với có CMKT). Lao động có chuyên môn kỹ thuật là cách gọi chung trên thị trường lao động đối với lao động đã qua đào tạo bao gồm lao động qua đào tạo nghề và lao động là cán bộ chuyên môn. Lao động có chuyên môn kỹ thuật không trùng với cán bộ chuyên môn mà rộng hơn và lao động qua đào tạo nghề không trùng với công nhân kỹ thuật mà rộng hơn. Lao động phổ thông Trung cấp nghề Cao đẳng nghề Cao đẳng THCN L Ự C L Ư Ợ N G L A O Đ Ộ N G LAO ĐỘNG có CMKT LĐ qua Đào tạo nghề Sơ cấp nghề Đại học & trên đại học Nghề không có tính chất kỹ thuật Nghề có tính chất kỹ thuật Sơ đồ 1.1: Minh họa phạm vi lao động qua đào tạo nghề 14 Thống kê lao động qua đào tạo nghề hiện nay với nhiều quốc gia có những cách thức khác nhau. Đa phần các nước gọi là công nhân kỹ thuật/công nhân lành nghề để chỉ các đối tượng làm công việc của người công nhân và có các trình độ đào tạo nghề khác nhau. Kỹ thuật viên chủ yếu chỉ đối tượng lao động là công nhân kỹ thuật được đào tạo nghề trình độ cao (tương tự cao đẳng nghề). Ở nước ta, lao động qua đào tạo nghề được thống kê cho đến năm 2007 được hiểu là những lao động thuộc lực lượng lao động có trình độ CNKT không bằng, chứng chỉ; CNKT có chứng chỉ và sơ cấp, CNKT có bằng, chứng chỉ. Hiện tại, số liệu và những tính toán đang dựa trên cách phân loại này mà chưa thay đổi dựa trên phân loại cấp trình độ đào tạo trong Luật Dạy nghề. 1.2. Kết cấu việc làm và cung-cầu việc làm của lao động qua đào tạo nghề 1.2.1. Việc làm trong các lý thuyết kinh tế Khi xem xét quan hệ cung - cầu và sự biến động của lực lượng lao động nói chung và lao động qua đào tạo nghề nói riêng có thể vận dụng các mô hình việc làm, cung cầu, dịch chuyển lao động, gia tăng và biến động việc làm. Các mô hình kinh tế có liên quan đến việc làm, thất nghiệp nổi tiếng như trường phái cổ điển (A. Smith và D. Ricardo), lý thuyết việc làm và thất nghiệp của C. Mác, lý thuyết việc làm của J.M. Keynes mà ngày nay còn ảnh hưởng đến các chính sách việc làm của các nền kinh tế. A. Smith cho rằng trong điều kiện thị trường cạnh tranh tự do, bàn tay vô hình đảm bảo quân bình và hoàn hảo trong xã hội, đạt được phúc lợi cá nhân và phúc lợi chung. Ricardo và A. Marshall cũng cùng quan điểm khi cho rằng nền kinh tế thị trường là nền kinh tế tự điều tiết và không thấy sự cần thiết điều tiết của Nhà nước [26, tr.256]. Mô hình cổ điển có 4 hướng để làm tăng việc làm, đó là (i) cải tiến tổ chức, dự báo tốt để tránh thất nghiệp cơ cấu; (ii) hạ thấp độ phi thỏa dụng biên của lao động qua tiền lương thực tế; (iii) tăng thêm năng suất biên vật chất của lao động trong các ngành sản xuất hàng hóa cho người ăn lương; và (iv) tăng giá hàng hóa không giành cho người ăn lương so với giá các hàng hóa khác [51, tr.43]. 15 Việc làm chiếm vị trí quan trọng và đầy ý nghĩa trong tác phẩm "Tư bản" của Các Mác. C.Mác dựa trên các lý luận căn bản về giá trị thặng dư, qui luật dân số và đặc biệt là cấu trúc hữu cơ của vốn. Công thức cơ bản về giá trị hàng hóa (c + v + m), được cấu thành từ tư bản cố định (c), tư bản lưu động (v) và giá trị thặng dư (m). C.Mác cho rằng cấu trúc hữu cơ của tư bản thay đổi trong quá trình tích lũy là nguyên nhân căn bản của gia tăng hay giảm dần việc làm tương đối (tư bản lưu động), so với tư bản cố định. Trong quá trình làm thay đổi cấu trúc hữu cơ của tư bản, người công nhân vô hình dung đang làm giảm việc làm và đang tự biến mình thành nhân khẩu thừa tương đối. Jonh Meynard Keynes được biết đến như một nhà kinh tế lỗi lạc với công trình nổi tiếng là Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ, xuất bản năm 1936 [51]. Keynes cho rằng tăng đầu tư làm tăng tổng cầu tăng và việc làm và Nhà nước có vai trò chủ động can thiệp đến tổng cầu, sản lượng và việc làm của nền kinh tế. Đồng thời khuynh hướng tiêu dùng biên và lãi suất cũng ảnh hưởng tới tập hợp cầu và xác định mức việc làm. Dẫn đến, để kích thích kinh tế, thứ nhất, giảm lãi suất cho phép tăng tín dụng; thứ hai, xã hội hóa đầu tư (đầu tư rộng và đúng); thứ ba, những biện pháp không ngừng tăng tiêu dùng (kích cầu) [26, tr.273]. Mô hình Harrod - Domar xây dựng mối quan hệ giữa tăng trưởng sản lượng, đầu tư và việc làm. Giữa gia tăng việc làm và sản lượng có mối quan hệ được thể hiện bằng hệ số lao động-sản lượng, sự gia tăng việc làm về bản chất là một hàm số của các mức khả năng tăng sản xuất phụ thuộc vào vốn đầu tư. Công thức phổ biến của mô hình này là g=s/k, trong đó g là tỷ lệ tăng trưởng sản lượng, k tỷ số gia tăng vốn/sản lượng, k được gọi là hệ số ICOR (hệ số gia tăng vốn đầu ra) [66, tr.83]. Về tăng trưởng và sự đóng góp của lao động, trường phái tân cổ điển (đại diện chính là Robert Solow) đã lấy hàm sản xuất của Cobb-Gouglas làm cơ sở (hàm sản xuất giản đơn: Y= KαL1-α, trong đó Y, K và L lần lượt là sản lượng, vốn và lao động). A. Samuelson cũng thống nhất với các nhà kinh tế tân cổ điển khi cho rằng tổng mức cung của nền kinh tế được xác định bởi các yếu tố đầu vào của sản xuất là vốn, lao động, tài nguyên và công nghệ. 16 Mô hình nổi tiếng nghiên cứu sự dịch chuyển việc làm từ khu vực nông thôn nghèo, lạc hậu (khu vực truyền thống) sang khu vực thành thị, công nghiệp (khu vực hiện đại) là của Arthur Lewis (sau này được Fei và Ranis hoàn thiện). Mô hình này giả định nền kinh tế có hai khu vực chính là nông nghiệp với đặc trưng lạc hậu và dư thừa lao động; và công nghiệp đại diện cho khu vực hiện đại đang thu hút lao động dịch chuyển từ nông nghiệp sang. Nhờ có quá trình dịch chuyển lao động này việc làm ở nông thôn giảm đi, việc làm trong ngành công nghiệp hiện đại tăng lên. Mô hình của H.T. Oshima coi trọng thúc đẩy việc làm ở cả hai khu vực. Quá trình phát triển chia thành ba giai đoạn phù hợp với các nước đang phát triển là giai đoạn bắt đầu, giai đoạn hướng tới việc làm đầy đủ và giai đoạn phát triển kinh tế chiều sâu. Xét về dịch chuyển lao động từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp và dịch vụ, hai mô hình cùng mang đến những chính sách phát triển kinh tế dựa căn bản trên hai khu vực. Xuất phát từ mô hình Lewis với khu vực công nghiệp là 'đầu kéo' hút lao động từ nông nghiệp sang, đến mô hình Oshima với giai đoạn đầu lấy nông nghiệp là 'đầu đẩy' làm cho lao động dư thừa ở khu vực này dẫn đến sự dịch chuyển sang khu vực công nghiệp, khu vực dịch vụ. Kinh tế học hiện đại sau này xuất hiện khái niệm mới về nguồn vốn nhân lực. Vốn nhân lực là toàn bộ trình độ chuyên môn mà một người lao động tích lũy được. Nó được đánh giá cao vì có tiềm năng đem lại thu nhập trong tương lai [31, tr.282]. Cung lao động không chỉ đơn thuần là việc người lao động có mặt trên thị trường lao động mà còn bao gồm các kỹ năng mà họ có. Những kỹ năng này người lao động thu được từ khả năng bẩm sinh, những gì người lao động được đào tạo và kinh nghiệm họ đã trải qua. Vốn nhân lực giả thiết rằng các mức chênh lệch của tiền lương phản ảnh sự chênh lệch về năng suất lao động. Người có năng suất lao động cao hơn sẽ có được thu nhập và tiền lương cao hơn. Và một lý luận cơ bản là giáo dục, đào tạo tạo ra năng suất lao động cao hơn. Thu nhập và tiền lương phụ thuộc vào hai nhân tố chính là tuổi tác và trình độ đào tạo. Những người có trình độ cao hơn có mức thu nhập cao hơn và mức chênh lệch này càng lớn cùng với tuổi tác và kinh nghiệm. 17 1.2.2. Kết cấu việc làm và việc làm của lao động qua đào tạo nghề Việc làm là phạm trù chỉ sự phù hợp giữa sức lao động với tư liệu sản xuất bao gồm cả về số lượng, chất lượng và các đặc điểm. Một đơn vị sức lao động có thể vận hành/thực hiện bao nhiêu đơn vị tư liệu sản xuất hay còn được phản ảnh bằng quan hệ hữu cơ C/V. Quan hệ hữu cơ giữa tư bản bất biến và tư bản khả biến dưới sự tác động của tiến bộ khoa học kỹ thuật dẫn đến sự thay đổi trạng thái và mức độ phù hợp giữa trang bị vốn, công nghệ, máy móc thiết bị cho một chỗ làm việc, ngoài ra còn phụ thuộc vào việc tổ chức lao động. Theo quan điểm và giả thuyết của Keynes khi tính số lượng việc làm: việc làm tương đương với đơn vị việc làm được chia nhỏ bằng các đơn vị công việc của công việc giản đơn (không có kỹ năng) và tiền lương/tiền công xác định bằng đơn vị tiền công cho một đơn vị việc làm giản đơn (w). Khi đó công thức tính tổng tiền lương sẽ là: W= N x w, trong đó N là khối lượng việc làm. Giả thuyết như vậy cho phép đo lường khối lượng việc làm mà không quan tâm đến vấn đề chất lượng lao động trình độ, kỹ năng kỹ thuật của lao động, mức độ phức tạp, trang bị vốn….. Việc làm = Chỗ làm việc (công việc) + sức lao động (lao động) Chỗ làm việc = vốn đầu tư + công nghệ + tổ chức sản xuất + điều kiện khác Sức lao động = sức khỏe thể lực + năng lực (kiến thức, kỹ năng, thái độ...) Từ góc độ đầu tư Từ góc độ lao động Chỗ làm việc/công việc Người lao động/Sức LĐ Sơ đồ 1.2: Kết cấu một việc làm 1. Người lao động 2. Sức khỏe 3. Tri thức/kỹ năng/thái độ 4. Tiền lương 5. Thời gian 6. Điều kiện lao động 1. Vốn đầu tư 2. Nhà xưởng 3. Máy móc 4. Công nghệ 5. Tổ chức SX 6. Môi trường, điều kiện làm việc 1 việc làm 18 Thống kê việc làm nếu tính theo chỗ làm việc, trong trường hợp một chỗ làm việc có 2 lao động trở lên làm thay ca. Nếu thống kê theo người lao động có việc làm có thể dẫn đến thiếu việc làm nếu một lao động làm từ 2 công việc trở lên (tính cả số việc làm bán thời gian). Tuy nhiên, các thống kê đều tính đủ theo người lao động dù họ làm 2 công việc cùng một lúc vì chủ yếu thống kê theo lao động chứ không thống kê theo chỗ làm việc. Do đó, tính số lượng việc làm theo lao động đảm bảo được các yêu cầu (i) chính xác hơn khi so với tính theo chỗ làm việc, (ii) phù hợp hơn vì nghiên cứu chủ yếu về nhóm đối tượng có kỹ năng cụ thể và (iii) thuận lợi hơn vì đo theo người lao động với các đặc tính kèm theo không phức tạp như tính các chỗ làm việc. Chất lượng việc làm dưới giác độ xã hội, yếu tố quan trọng là việc toàn dụng nhân công, mọi người đều có việc làm và có được việc làm phù hợp với luật pháp, việc làm nhân văn, việc làm tử tế v.v.... Chất lượng việc làm dưới góc độ người lao động gồm các yếu tố cơ bản là có thu nhập/tiền lương/tiền công cao (lợi ích từ việc làm lớn); các chế độ bảo đảm việc làm và linh hoạt việc làm (an ninh việc làm); sự phù hợp với năng lực và sở thích cá nhân; và có các điều kiện phát triển (đào tạo, thăng tiến nghề nghiệp). Cụ thể với một chỗ việc làm, vốn đầu tư thấp đòi hỏi người lao động phải có sức khỏe, trình độ CMKT phù hợp. Vốn đầu tư lớn, công nghệ cao, máy móc thiết bị hiện đại đòi hỏi người lao động phải có CMKT cao tương ứng. Trong ngắn hạn sự phù hợp là tương đối, có thể có những điểm chưa phù hợp hoặc từ phía chỗ việc làm hoặc từ phía người lao động. Sự phù hợp là trạng thái cân bằng dài hạn giữa yêu cầu của chỗ làm việc và năng lực người lao động. Trong dài hạn, chi phí tiền lương cho một chỗ làm việc theo lợi ích của người sử dụng lao động thì chỉ trả đúng theo yêu cầu CMKT và sức lao động cần thiết tương ứng và không trả cao hơn để đảm bảo thu được lợi ích cho đầu tư lớn nhất. Nếu lao động không đáp ứng được yêu cầu CMKT của vị trí việc làm, người chủ sẽ sớm sa thải để tìm người lao động khác phù hợp với chi phí tiền công, tiền lương bỏ ra cho chỗ làm việc đó. Ngược lại, nếu người lao động có CMKT cao hơn yêu cầu công việc và tiền lương chi trả cho chỗ làm việc (trong một thị trường lao động 19 linh hoạt), anh ta sẽ sớm rời bỏ chỗ làm đó để tìm việc làm khác đòi hỏi CMKT cao hơn để có tiền lương và thu nhập cao hơn. Điểm căn bản là trạng thái phù hợp trong kết hợp xảy ra khi người tạo ra việc làm kết hợp được tối ưu để sử dụng triệt để khả năng của người lao động với các điều kiện trang bị sẵn có/đã đầu tư với mức chi phí lao động thấp nhất. Nếu người lao động thừa năng lực thì việc làm không/chưa hiệu quả hoặc chưa tối ưu đối với người lao động, nhưng người chủ vẫn đạt được hiệu quả tối ưu nếu chi phí tiền lương và các điều kiện chi trả khác không phải tăng lên. Như vậy về dài hạn, việc làm của một nhóm lao động có kỹ năng nhất định có thể đo bằng số lượng lao động có kỹ năng đó hiện đang có việc làm. Việc làm của lao động qua đào tạo nghề là việc làm của lao động có việc làm thuộc nhóm đối tượng đã được đào tạo nghề. Điểm khác biệt là kỹ năng của người lao động thuộc về nhóm đối tượng đã được đào tạo nghề. Các nghiên cứu nói chung về lao động và việc làm đều xuất phát/tiếp cận từ góc độ lao động. Nghiên cứu việc làm chủ yếu là trên cơ sở nghiên cứu các đặc điểm làm việc của người lao động (số lượng việc làm, cơ cấu, qui mô, ngành, nghề, lĩnh vực, kỹ năng, tiền lương, thu nhập, điều kiện lao động,...). Nghiên cứu việc làm của lao động qua đào tạo nghề vì thế chủ yêú gắn với khía cạnh kỹ năng và các điều kiện làm việc của người lao động, các nội dung chủ yếu là: + Số lượng/cơ cấu theo cấp trình độ, theo ngành nghề, vùng, khu vực sở hữu + Cơ hội việc làm và việc làm phù hợp. + Chính sách và các vấn đề trong sử dụng lao động qua đào tạo nghề. + Chất lượng việc làm: tiền lương, thu nhập, điều kiện làm việc, + Đào tạo, phát triển lực lượng lao động qua đào tạo nghề; 1.2.3. Cung – cầu việc làm của lao động qua đào tạo nghề Về bản chất, cung cầu việc làm của lao động qua đào tạo nghề biểu hiện trên thị trường lao động là cung cầu kỹ năng. Sự vận động của các yếu tố cung và cầu kỹ năng cũng phải tuân theo qui luật vận động chung của thị trường. 20 a) Cung việc làm hay cầu lao động kỹ năng và các nhân tố ảnh hưởng Trên giác độ đầu tư sản xuất kinh doanh (tạo chỗ làm việc): đầu tư và tổ chức tạo ra các vị trí, chỗ làm việc. Biểu hiện là số vốn/máymóc thiết bị và các điều kiện cho một chỗ làm việc và các điều kiện khác như môi trường, tổ chức, không gian và các yếu tố điều kiện xã hội (hội, công đoàn v.v..). Trong đó yếu tố vốn đầu tư để tạo nên một chỗ làm việc (công việc) thường được quan tâm và làm cơ sở tính toán. Khi đó các biểu hiện, thông số để xem xét về việc làm sẽ là: (i) lượng vốn đầu tư tạo 1 chỗ việc làm (suất đầu tư); (ii) các điều kiện tổ chức sản xuất kinh doanh; (iii) điều kiện cần thiết để có thể thuê lao động. Điều kiện quan trọng là các yếu tố tạo nên sự kích thích đầu tư tạo chỗ làm việc đó là lợi ích của người sử dụng lao động (chủ doanh nghiệp). Việc làm tạo ra trên cơ sở theo đuổi mục tiêu lợi nhuận của người chủ thu lại được từ đầu tư và sự kết hợp với lao động (không tính toán các yếu tố thương mại để bán sản phẩm). Quyết định tạo thêm một chỗ việc làm của doanh nghiệp khi sự kết hợp tối ưu giữa C và V và khi chi phí biên cho sức lao động bằng doanh thu biên của sản phẩm đồng thời khi đó tiền công bằng sản phẩm giá trị biên của lao động. Tiền công Tiền công Wo E NSLĐ biên L* Số lượng nhân công Biểu đồ 1.1: Quyết định số lượng việc làm của doanh nghiệp Qui luật năng suất lao động biên giảm dần làm đường năng suất lao động giảm dần. Phía trái L*, việc thuê thêm nhân công có lợi cho hãng vì tăng doanh thu cao hơn là chi phí cho lao động. Phía phải L*, việc thuê thêm nhân công sẽ làm tăng chi phí hơn là tăng doanh thu. L* là mức thuê nhân công tối ưu. 21 Về cơ bản tạo chỗ việc làm hay cầu kỹ năng trên thị trường lao động sẽ do yếu tố kinh tế quyết định. Các chủ thể sản xuất là các doanh nghiệp, người sử dụng lao động sẽ là người có nhu cầu thuê/mua các kỹ năng của người lao động có kỹ năng. Nhu cầu phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, nhưng cơ bản là phụ thuộc tăng trưởng kinh tế và đầu tư sản xuất và đặc điểm công nghệ sản xuất. Các nhân tố ảnh hưởng đến tập hợp cung việc làm như: tăng trưởng và phát triển kinh tế, tăng đầu tư, thay đổi cấu trúc sản xuất trong nền kinh tế, thay đổi cấu trúc ngành, dịch chuyển lao động, thay đổi công nghệ, các yếu tố chi phí sản xuất, tư liệu sản xuất hay tiền lương thay đổi. Tập hợp cung việc làm có thể được biểu diễn bằng hàm sau: Y = f (C, V, X, ....) trong đó các nhân tố cơ bản là vốn đầu tư và công nghệ quyết định cả về số lượng và sự kết hợp giữa vốn và lao động đồng thời với các yếu tố tổng hợp khác tạo nên số lượng và kết cấu việc làm. c) Cầu việc làm hay cung lao động có kỹ năng và các nhân tố ảnh hưởng Xuất phát từ góc độ người lao động, nhu cầu làm việc của các cá nhân thông thường xuất phát từ các nhu cầu: tạo và có thu nhập, phù hợp về sức khỏe, đặc điểm và năng lực cá nhân (tri thức, kiến thức, kỹ năng, thái độ); điều kiện lao động (môi trường/luật pháp, quan hệ lao động và tổ chức lao động). Các nhân tố tác động đến tập hợp cầu việc làm gồm: Số lượng lao động (L), chất lượng hay năng lực lao động T (kiến thức, kỹ năng, sức khỏe...), tiền lương/thu nhập (S) và các điều kiện làm việc khác (O) (điều kiện học tập, thăng tiến, môi trường làm việc, tổ chức xã hội và các quyền của người lao động). Khi đó tập hợp cầu việc làm có thể được biểu diễn dưới dạng hàm sau: Y = f (L, T, S, O....). Cầu việc làm của lao động qua đào tạo nghề về cơ bản không có sự khác biệt vì cũng là cầu việc làm, nhưng chỉ khác nhóm đối tượng lao động có CMKT cụ thể là đã qua đào tạo nghề. Trong dài hạn, cầu việc làm sẽ tương ứng với lao động có việc làm với các đặc điểm việc làm hiện tại của lao động qua đào tạo nghề tương đương cung lao động qua đào tạo nghề (không tính thất nghiệp). Về cơ bản cung lao động qua đào tạo nghề do ba bộ phận chủ yếu trong nền kinh tế (gồm cả hệ thống giáo dục và khu vực sản xuất kinh doanh) đảm nhận, đó là 22 đào tạo chính thức trong các trường thuộc hệ thống giáo dục kỹ thuật và dạy nghề, đào tạo nghề nghiệp trước khi làm việc thường là ngoài nhà trường; và đào tạo tại chức (tại chỗ) cho người lao động. Cả ba bộ phận của hệ thống cung cấp có mục tiêu: (i) thu hút, hứng và đỡ những học sinh không học được lên hơn nữa và học sinh bỏ học không bị 'đào thải' ra khỏi hệ thống giáo dục, đào tạo; (ii) giữ cho người lao động tránh khỏi bị lạc hậu, không bị `bật khỏi’ thị trường lao động do thiếu kỹ năng; và (iii) cung cấp cho người sử dụng những công nhân và kỹ thuật viên có tay nghề, kỹ thuật. Ngoài ra, còn có các mục tiêu khác như đảm bảo cho học sinh, sinh viên và người học những kỹ năng nghề nghiệp phổ biến làm hành trang cho việc học tập suốt đời [128, tr.15]. Các mục tiêu nói trên, nhìn chung là để đảm bảo cung cấp kỹ năng cho thị trường lao động. Nhưng không phải bao giờ cũng đảm bảo cung ứng đầy đủ, phù hợp (số lượng, cơ cấu, chất lượng) với nhu cầu thị trường. Trên thị trường lao động với một lượng lao động hiện hữu có cùng một kỹ năng hoặc tập hợp một lượng lao động với các kỹ năng khác nhau sẽ tạo nên một lượng cung. Tương ứng với nó là tập hợp lượng cầu kỹ năng từ khu vực sản xuất và nền kinh tế. Trong ngắn hạn và trung hạn, sự vận động của cung cầu phụ thuộc chủ yếu vào mức tiền lương, tiền công trả cho người lao động ở mỗi mức kỹ năng khác nhau. Khi có sự gia tăng về cầu lao động ở một mức kỹ năng cụ thể, trong khi lượng cung dài hạn trên thị trường chưa có sự thay đổi, tiền lương sẽ là biến điều chỉnh quan hệ tương quan cung cầu này. Về dài hạn, khoảng cách và sự khác biệt về tiền lương sẽ dẫn đến tăng lượng cung cho mức và loại kỹ năng mà thị trường đang có nhu cầu cao. Trong mối tương quan với sản xuất của nền kinh tế, khi năng lực sản xuất được mở rộng, những nhu cầu lao động được mở rộng theo hướng làm dịch chuyển đường cầu từ D1 sang D2 thay vì thay đổi tiền lương, tiền công đối với điều chỉnh tạm thời trên thị trường lao động. Trong tương quan trên thị trường lao động với phân khúc việc làm có kỹ năng thì đào tạo là yếu tố cơ bản chủ yếu làm tăng cung lao động có kỹ năng ở một mức 23 kỹ năng và loại kỹ năng cụ thể. Tuy nhiên đào tạo là yếu tố cung mang tính dài hạn, không phản ứng tức thì trên thị trường lao động mà phải có quá trình và thời gian để đào tạo, thời gian để người lao động trau dồi kỹ năng, thời gian để chuyển đổi nghề nghiệp, công việc và đào tạo lại v.v..... Tiền lương D1 D2 S1 S2 W2 W1 0 L1 L2 Lao động Biểu đồ 1.2: Cung cầu kỹ năng trên thị trường lao động Trong dài hạn khi đào tạo tăng nhanh mức cung lao động có kỹ năng ra thị trường sẽ làm dịch chuyển đường cung từ S1 sang S2. Khi cân đối cung cầu đảm bảo và đào tạo đáp ứng tốt nhu cầu nền sản xuất thì về cơ bản tiền lương, tiền công (thực tế) không có sự thay đổi lớn. Về cơ bản có thể phân tích mối quan hệ đào tạo, việc làm trên thị trường lao động thông qua phân tích quan hệ cung cầu lao động có kỹ năng. Xem xét vai trò chủ động của hệ thống đào tạo nghề trong cung ứng lao động có kỹ năng, một số nhân tố chủ yếu tác động đến cung lao động qua đào tạo nghề như: (i) Đầu vào là học sinh với trình độ khác nhau (Chất lượng dân số, kết quả giáo dục và phân luồng đào tạo); và (ii) Năng lực cung đào tạo của hệ thống đào tạo nghề. Trong trường hợp một số nền kinh tế chuyển đổi (trường hợp của Cộng hòa Séc), có một hệ thống đào tạo với tỷ lệ lớn học sinh trung học (60-85%) vào luồng đào tạo nghề. Cung lao động qua đào tạo nghề quá nhiều tạo sức ép lớn về giải quyết việc làm cho người lao động. Các nền kinh tế này sẽ buộc phải cải cách thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô và cải cách thị trường lao động để gia tăng 24 sức hút, tạo việc trong khu vực tư nhân nhằm điều chỉnh cơ cấu lao động. Sau đó đa dạng hóa chương trình đào tạo, giúp người lao động thay đổi kỹ năng cho phù hợp. Khi nền kinh tế có tốc độ tăng lực lượng lao động lớn hơn nhiều so với tốc độ gia tăng việc làm, áp lực tạo việc làm gia tăng, áp lực cạnh tranh tìm kiếm việc làm cũng tăng, dẫn tới xu hướng gia tăng thất nghiệp. Một số quốc gia đã phải điều chỉnh thông qua chính sách giáo dục, đào tạo bằng cách tăng thời gian học tập THCS, THPT, tăng lượng học sinh học nghề thay vì đi làm ngay bằng cách giảm chi phí giáo dục, và tránh cho học sinh bỏ học. Thời gian đi học kéo dài hơn đối với toàn bộ lực lượng lao động sẽ giảm bớt số lượng học sinh bỏ học, nghỉ học và tham gia lao động sớm, làm giảm áp lực việc làm. Tăng thời lượng đào tạo, kéo dài thời gian học tập để giảm áp lực cung lao động và cung lao động có trình độ thấp là chính sách mà nhiều quốc gia đã áp dụng (Hy Lạp, Malaysia). Một số quốc gia điều chỉnh cơ cấu cung bằng cách tạo điều kiện tăng cung lao động qua đào tạo nghề mà giảm cung lao động có trình độ đại học (Hy lạp) bằng cách tăng chi phí đào tạo đại học để nắn dòng chảy học sinh vào học nghề. Cách thức chính phủ mở rộng đào tạo nghề thông qua chính sách tài chính không phải là mở rộng tín dụng cho đào tạo nghề, học nghề mà thắt chặt tín dụng đối với đào tạo đại học [128, tr.16]. Có quốc gia lại sử dụng chính sách tạo cơ hội tốt hơn và tăng kỳ vọng việc làm của người lao động qua đào tạo nghề. Kết quả là tăng số người đi học nghề và giảm bớt áp lực việc làm đối với lao động trẻ. Thiếu hụt cung kỹ năng cũng là trường hợp phổ biến của nhiều nền kinh tế. Các nước có tốc độ tăng trưởng nền kinh tế quá nhanh dẫn đến tăng nhu cầu lao động qua đào tạo nghề trong khi lượng cung đối tượng này trong nền kinh tế không kịp đáp ứng. Hệ quả là gia tăng mức tiền lương đối với lao động có tay nghề cao, khoảng cách tiền lương giữa lao động không có tay nghề và lao động qua đào tạo nghề tăng mạnh. Cung lao động qua đào tạo nghề và các kỹ thuật viên trên thị trường trở nên không co dãn đối với tiền lương so với nhóm chưa qua đào tạo nghề hoặc không có nghề. Một số quốc gia đã trải qua tình trạng này như Hàn quốc và Malaysia những năm 1980-1990, Chile những năm 1980, khi nhu cầu lao động qua đào tạo nghề rất lớn so với lao động không nghề. Hàn quốc đã giải quyết bằng cách 25 tăng cung của hệ thống đào tạo nghề nghiệp lên và tiền lương thực tế tăng lên nhiều trong giai đoạn 1975-1993. Khoảng cách tiền lương giữa qua đào tạo nghề và lao động không nghề giảm từ 2,5 lần xuống còn 1,5 lần. Để đáp ứng cầu lao động qua đào tạo nghề tăng nhanh như vậy việc quan trọng là phải làm sao khuyến khích, động viên và thúc đẩy đào tạo của doanh nghiệp đặc biệt là loại hình đào tạo tại chức, kèm cặp tại chỗ [128, tr.8]. 1.3. Vai trò và đặc điểm của lao động qua đào tạo nghề 1.3.1. Vai trò của lao động qua đào tạo nghề Việc làm biểu hiện chỗ, vị trí, yêu cầu kỹ năng của người lao động. Mỗi chỗ việc làm xác định bởi tập hợp các yêu cầu về hạ tầng, máy móc thiết bị, công nghệ, điều kiện làm việc, các chính sách, thiết chế ràng buộc và yêu cầu về kỹ năng của người lao động. Cơ cấu việc làm về dài hạn được phản ảnh vào kết cấu của lực lượng lao động có việc làm trong nền kinh tế. Các nền kinh tế có trình độ sản xuất, trình độ công nghệ khác nhau và mức độ công nghiệp hóa khác nhau, qui mô và vai trò của đội ngũ và việc làm của lao động qua đào tạo nghề khác nhau. Cấu trúc trình độ CMKT của lực lượng lao động có xu hướng tăng dần tỷ lệ lao động có CMKT bậc cao so với các cấp trình độ CMKT thấp hơn. Quá trình phân hóa CMKT của lực lượng lao động dần dần hình thành và phát triển nhanh đội ngũ lao động là công nhân 'cổ trắng' so với lớp công nhân 'cổ xanh'. Theo số liệu của ILO, ở các nước phát triển đội ngũ công nhân bán lành nghề chiếm khoảng 5- 15%, công nhân lành nghề chiếm khoảng 30-50%, kỹ sư kỹ thuật và công nghệ chiếm khoảng 36-40%, lao động quản lý khoảng 22%, các nhà nghiên cứu và phát minh khoảng 14%. Trong khi đó ở các nước đang phát triển tỷ lệ tương ứng là 60%, 22%, 9%, 6,5% và 2,5% [38, tr.16]. Khác biệt lớn là sự thay đổi cơ cấu ngay trong nhóm lao động qua đào tạo nghề giữa hai trình độ phát triển kinh tế khác nhau. Các nền kinh tế phát triển thì tỷ lệ công nhân lành nghề cao (50-70%) so với tỷ lệ này ở các nền kinh tế đang phát triển (20-30%). Những nền kinh tế đang trong quá trình công nghiệp hóa như Malaysia, Indonesia, Thái lan v.v... tỷ trọng lao động qua đào tạo nghề đang tăng lên nhanh chóng và chiếm khoảng 50%. 26 Việc làm của lao động qua đào tạo nghề đóng vai trò quan trọng trong tổng thể việc làm của lực lượng lao động và trong kết cấu lao động có CMKT. Biểu hiện thông qua mức độ tập trung việc làm của lao động qua đào tạo nghề ở các khu vực công nghiệp, dịch vụ, khu vực kinh tế hiện đại. Trong tương lai, khi khu vực nông nghiệp thu hẹp dần, lao động qua đào tạo nghề sẽ là lực lượng lao động chính tạo ra của cải vật chất cho nền kinh tế. Xét trên góc độ người tiêu dùng trong nền kinh tế thì lực lượng lao động qua đào tạo nghề là những công dân tầng lớp trung lưu đông đảo và là những người tiêu dùng chính trên thị trường hàng hóa, dịch vụ. Lực lượng lao động đang tham gia sản xuất chính trong nền kinh tế là đội ngũ công nhân, những người trực tiếp sản xuất trong tất cả các lĩnh vực, ngành nghề của nền kinh tế. Lao động qua đào tạo nghề vì thế sẽ là lực lượng tiên phong trong quá trình chuyển giao công nghệ, nắm bắt các công nghệ tiên tiến và là biểu tượng của giai cấp công nhân trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Lao động qua đào tạo nghề đang là nhóm được quan tâm nhiều trong cạnh tranh nguồn nhân lực giữa các nước trong khu vực có nền kinh tế phát triển tương đồng. Cạnh tranh có thể là gián tiếp thông qua hàng hóa xuất nhập khẩu hoặc cạnh tranh trực tiếp thông qua cung cấp kỹ năng trên thị trường lao động quốc tế. Các nước phát triển tỷ trọng lao động làn nghề cao lớn hơn so với lao động có trình độ tay nghề thấp và không có tay nghề. Ở nước ta, tỷ trọng lao động có trình độ CMKT bậc trung sẽ tăng nhanh. Trong đó, nhóm lao động qua đào tạo nghề sẽ là lực lượng chủ đạo, biểu trung cho chất lượng nguồn nhân lực trong thời gian tới. 1.3.2. Một số đặc điểm chủ yếu về việc làm của lao động qua đào tạo nghề a) Việc làm của lao động qua đào tạo nghề mang tính chất thực hành và gắn với hoạt động sản xuất trực tiếp Theo danh mục nghề nghiệp làm việc cho thấy một số đặc điểm cơ bản là: việc làm mang tính chất thực hành, phân bố vị trí công việc gắn với khu vực trực tiếp sản xuất kinh doanh hoặc cung ứng dịch vụ, đại bộ phận việc làm này là công việc làm thuê, trình độ kỹ năng kỹ thuật mức trung bình, thu nhập và điều kiện lao động ở mức trung bình của xã hội. 27 Việc làm của lao động qua đào tạo nghề thường là những công việc trong các công xưởng, nhà máy chế biến, chế tạo, công nhân trong các công trường xây dựng, vận hành máy móc thiết bị, lái xe trong các doanh nghiệp vận tải, công nhân sửa chữa bảo trì các thiết bị máy cơ khí, công nghệ kỹ thuật điện, điện tử v.v.... một bộ phận khác nằm trong nhóm lao động phục vụ như lái xe, kỹ thuật viên số liệu, kế toán, hành chính văn phòng, lễ tân trực điện thoại v.v... Nhóm nghề nghiệp việc làm chủ yếu của lao động qua đào tạo nghề tập trung vào nhóm việc làm có trình độ CMKT bậc trung. Trong số những công việc phân loại (theo danh mục nghề nghiệp do Tổng cục Thống kê) thì lao động qua đào tạo nghề tập trung rất nhiều vào các công việc thuộc nhóm 6,7,8 (Nhóm6: nhóm lao động có kỹ thuật trong nông nghiệp; nhóm 7: thợ thủ công có kỹ thuật và các thợ có kỹ thuật khác có liên quan và nhóm 8: thợ kỹ thuật vận hành và lắp ráp máy móc thiết bị). Tất cả những loại việc làm thuộc các nhóm này, phần lớn là loại hình công việc thực hành đúng như tên gọi của nó ví dụ: thợ sơn, thợ gia công kim loại, thợ làm khuôn đúc, thợ rèn, thợ cơ khí và lắp ráp v.v... Việc làm của lao động qua đào tạo nghề tập trung nhiều trong các khu vực công nghiệp với các nền kinh tế đang trong quá trình công nghiệp hóa. Các nước phát triển càng ngày càng rút được nhiều lao động ra khỏi khu vực sản xuất công nghiệp nhờ công nghệ tự động hóa, công nghệ thông tin để chuyển sang khu vực dịch vụ. Việc làm trong khu vực dịch vụ đòi hỏi những giao tiếp và sự hiện diện của con người khó thay thế. Với các nền kinh tế đã phát triển như các nước Mỹ, Anh, Pháp, Đức.... thì khu vực dịch vụ là khu vực thu hút nhiều lao động qua đào tạo nghề (chiếm trên 50% lực lượng lao động và 70% lao động qua đào tạo nghề). Quá trình đào tạo nghề cũng phản ảnh tính chất công việc của người lao động sau khi tốt nghiệp đó là thời lượng đào tạo lý thuyết thường ít so với thực hành (thực hành khoảng 70-80% thời lượng đào tạo). Với các loại hình đào tạo kèm cặp, đào tạo tại doanh nghiệp thời lượng thực hành thậm chí lên đến 90-95% tùy loại hình công việc và mức độ yêu cầu đối với người lao động. Những kiến thức, tri thức và kỹ năng người lao động thu nhận được trong quá trình đào tạo thông qua phương pháp quan sát, thực hành, thực tập, thử làm là chính kết hợp với lý thuyết 28 cơ bản được trang bị. Một trong những tính chất công việc thường gắn liền với việc làm của lao động qua đào tạo nghề là những việc làm trực tiếp, gián tiếp tham gia sản xuất kinh doanh và thiên về thực hành (trong sản xuất, kinh doanh dịch vụ, kỹ thuật phục vụ đời sống v.v...). b) Việc làm của lao động qua đào tạo nghề gắn với kỹ thuật và công nghệ Với các nền kinh tế hiện đại, sản xuất công nghiệp đã được tự động hóa nhiều, hàm lượng công nghệ và vốn trong sản xuất lớn thì yêu cầu về số lượng lao động ít nhưng yêu cầu về chất lượng, trình độ lao động và năng suất lao động cao. Những lĩnh vực thu hút lao động qua đào tạo nghề có kỹ thuật cao như chế tạo máy móc, lắp ráp máy, kỹ thuật viên cơ khí, điện tử trong các ngành. Những ngành nghề có việc làm đòi hỏi yêu cầu kỹ thuật thấp hơn và số lượng lao động qua đào tạo nghề nhiều hơn điển hình như ngành xây dựng, các ngành dịch vụ phục vụ cá nhân. Tùy theo mức công nghệ sử dụng thiên về lao động hay vốn, tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề được sử dụng là khác nhau. Trong nhóm ngành kinh tế công nghiệp chế biến tỷ trọng sử dụng lao động qua đào tạo nghề thường lớn nhất sau đó đến các ngành dịch vụ. Mức công nghệ khác nhau phản ảnh mức huy động lao động khác nhau. Cùng một trình độ công nghệ của một quốc gia thì sự khác biệt về tương quan công nghệ/lao động cũng rất khác nhau giữa các ngành. Thông thường ngành công nghiệp và dịch vụ có nền công nghệ cao hơn khu vực nông nghiệp. Trong đó công nghiệp sản xuất, chế tạo các thiết bị điện, linh kiện điện tử, viễn thông, tin học v.v... có tương quan công nghệ/lao động lớn hơn các ngành như xây dựng, chế biến sản phẩm nông nghiệp v.v... Khu vực, ngành nào có công nghệ sản xuất mức trung bình, sử dụng nhiều nhân công thường mang lại nhiều việc làm cho lao động qua đào tạo nghề. Những ngành sản xuất có trình độ công nghệ cao đòi hỏi ít lao động qua đào tạo nghề hơn, nhưng yêu cầu về trình độ kỹ năng, tay nghề cao hơn. Một số ngành thu hút nhiều lao động qua đào tạo nghề như công nghiệp chế biến (dệt may, giày da, chế biến thủy sản v.v...) công nghiệp khai khoáng, công nghiệp chế tạo máy móc thiết bị, xây dựng và lao động có kỹ thuật trong nông nghiệp. 29 Nhiều quốc gia, hệ thống đào tạo nghề có tên gọi là hệ thống đào tạo công nghệ kỹ thuật thực hành, các cơ sở đào tạo nghề có tên gọi như trường kỹ thuật hoặc trường cao đẳng công nghệ v.v.... Hệ thống đào tạo nhắm vào mục tiêu là đào tạo ra một đội ngũ công nhân kỹ thuật các bậc khác nhau về kỹ thuật, công nghệ. Đội ngũ lao động được đào tạo ra phân ra là công nhân kỹ thuật ’cổ xanh’ tập trung vào nhóm công việc trực tiếp sản xuất, gắn với máy móc thiết bị, gắn với nhà xưởng, công trường. Đội ngũ công nhân cổ trắng gắn với các loại hình việc làm có yếu tố công nghệ cao, các dây chuyền sản xuất tự động, các hệ thống công nghệ hiện đại. Gần đây có thuật ngữ công nhân ‘cổ vàng’ để chỉ đội ngũ lao động kỹ thuật tham gia vào quá trình nghiên cứu và phát triển (R&D). Ngoài việc trực tiếp tham gia sản xuất các chế phẩm cao cấp, sản xuất đồng thời nghiên cứu thử nghiệm, đội ngũ này thường là các kỹ thuật viên cao cấp, các kỹ sư thực hành. c) Việc làm của lao động qua đào tạo nghề thuộc nhóm dễ bị tổn thương Đặc trưng chung của việc làm của lao động qua đào tạo nghề gắn với sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bất cứ sự biến động nào của các thị trường ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đều tác động đến việc làm của lao động qua đào tạo nghề. Các tác động, ảnh hưởng có thể trực tiếp đến qui mô, số lượng việc làm hoặc chất lượng việc làm (thời gian, tiền lương, các điều kiện làm việc). Các tác động thông qua ba thị trường cơ bản là thị trường lao động (trực tiếp), thị trường hàng hóa, dịch vụ và thị trường tài chính (còn nhiều nhân tố khác như thị trường công nghệ, thị trường nguyên liệu, các vấn đề thể chế, pháp lý). Khi có những biến động trên thị trường hàn hóa và dịch vụ làm cho đình trệ sản xuất, việc làm của lao động qua đào tạo nghề bị thu hẹp. Thị trường lao động và thị trường tài chính biến động dẫn đến những thu hẹp và sa thải lao động đặc biệt lao động có tính thời vụ. Trong tất cả các cuộc khủng hoảng và đình trệ sản xuất kinh doanh, lao động có CMKT thấp hơn luôn gặp rủi ro hơn, bị tổn thương nhiều hơn. Ngoài ra lao động qua đào tạo nghề thường chiếm một tỷ trọng lớn trong lực lượng lao động công nghiệp và tập trung vào các nhóm ngành nghề chịu nhiều tác động của nền kinh tế thế giới nên dễ bị những biến động lớn mang tính xã hội và có ảnh hưởng đến nhiều tầng lớp trong xã hội. 30 Biến động kinh tế, tái cấu trúc (CNH-HĐH, cải cách doanh nghiệp nhà nước v.v...) đều tác động đến việc làm của lao động qua đào tạo nghề. Những tác động chủ yếu đó là sự tăng/giảm hay dịch chuyển việc làm từ khu vực/ngành kinh tế này sang khu vực/ngành kinh tế khác. Việc làm có thể được tạo ra nhiều hơn ở một số khu vực năng động, nhưng nhìn chung các quá trình tái cấu trúc thường dẫn đến đào thải lao động qua đào tạo nghề. Để tái hòa nhập việc làm, thường phải thông qua các chương trình việc làm kết hợp đào tạo lại tay nghề cho người lao động. Xét trên giác độ lao động, đây là nhóm lao động làm công ăn lương nguồn sống phụ thuộc chủ yếu vào thu nhập từ việc làm. Thu nhập và tiền lương đủ sống và không giàu có, không nhiều tài sản tích lũy nên những thay đổi việc làm, thu nhập dễ dẫn đến những tổn thương, ảnh hưởng đến cuộc sống của họ. 1.4. Mối quan hệ giữa đào tạo và việc làm của lao động qua đào tạo nghề 1.4.1. Mối quan hệ giữa đào tạo, việc làm và phát triển nguồn nhân lực Nguồn nhân lực, không phải là vốn, không phải thu nhập, không phải là nguồn lực vật chất mà là sự hợp nhất mang tính nền tảng cơ bản của tài nguyên của một quốc gia. Vốn và tài nguyên là những nhân tố mang tính thụ động của quá trình sản xuất, con người là nhân tố tích cực sẽ tích tụ vốn, khai thác tài nguyên thiên nhiên, xây dựng xã hội, kinh tế và tổ chức xã hội hướng tới sự phát triển và phồn thịnh của một quốc gia. Quan niệm của Liên hợp quốc cho rằng, phát triển nguồn nhân lực theo nghĩa rộng, bao gồm giáo dục, đào tạo và sử dụng tiềm năng con người nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống. Với khái niệm này, giữa đào tạo với sử dụng lao động có quan hệ mật thiết với nhau, mà kết quả là người lao động có việc làm để có thu nhập đảm bảo cuộc sống. Phát triển nguồn nhân lực, thực chất là quá trình làm thay đổi về số lượng, chất lượng và cơ cấu nguồn nhân lực đáp ứng tốt hơn yêu cầu của xã hội. Đào tạo và sử dụng lao động là cặp bộ đôi trong một thể thống nhất của quá trình phát triển nguồn nhân lực. Các hoạt động phát triển nguồn nhân lực, vốn nhân lực đều phải trải qua chu trình khép kín như sau: con người sinh ra, lớn lên phải có thời gian để 31 học tập, đây là quá trình khởi thủy để tích lũy vốn nhân lực cho cá nhân người lao động. Khi trưởng thành con người phải lao động và làm việc. Thành quả lao động, một phần được bù đắp để tái sản xuất giản đơn sức lao động, phần nữa để tái sản xuất mở rộng và hưởng thụ của người lao động. Quá trình đầu tư mở rộng cho giáo dục và học tập, tiếp tục tích lũy thêm năng lực và tham gia vào sản xuất để biến năng lực thành thành quả lao động cao hơn. Sử dụng Đầu tư Cung cấp Sơ đồ 1.3: Chu trình phát triển nguồn nhân lực và tích lũy vốn nhân lực Sử dụng và đào tạo là hai mặt của phát triển nguồn nhân lực. Trên quan điểm duy vật biện chứng đây là quá trình lặp lại, phát triển theo hình xoáy 'trôn ốc'. Năng lực cá nhân (vốn nhân lực) tích tụ qua đào tạo  đưa vào sản xuất, tạo thu nhập  tái sản xuất giản đơn và mở rộng (chất lượng cuộc sống) và đầu tư thông qua đào tạo  tiếp tục tích lũy vào thành vốn nhân lực. Đây là mối quan hệ hữu cơ không thể tách rời trong chu trình khép kín của phát triển nguồn nhân lực, vốn nhân lực. Việc làm đòi hỏi phải có sức khỏe và năng lực, kỹ năng  Năng lực làm việc (kiến thức, kỹ năng và thái độ)  Giáo dục và đào tạo tạo ra năng lực cho người lao động  Giáo dục và đào tạo cần chi phí đầu tư  thu nhập từ việc làm. VỐN NHÂN LỰC VIỆC LÀM ĐÀO TẠO 32 1.4.2. Đào tạo nghề và việc làm của lao động qua đào tạo nghề Đào tạo là sự kết hợp cân đối giữa các tri thức thu nhận được trong hệ thống giáo dục đào tạo chính quy, trong gia đình, trong doanh nghiệp, thông qua các kênh thông tin khác nhau, mang đến kiến thức chung và có thể chuyển giao có lợi nhất cho việc làm [6, tr.220]. Đào tạo là công cụ, kênh trực tiếp tác động vào năng lực của các cá nhân, nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng cho người học. + Đào tạo nghề tạo ra năng lực thực hiện (competency) cho người học. Các nước có nhiều kinh nghiệm về phát triển nguồn nhân lực thường coi trọng việc đào tạo để tạo ra một năng lực thực hiện cho người lao động. Đào tạo bao gồm đào tạo trong nhà trường, ngoài nhà trường, đào tạo tại gia đình, xã hội và tự đào tạo, đã làm tăng việc làm có kỹ năng của người lao động. + Đào tạo để làm việc (training for employability). Người lao động có được năng lực thực hiện, cần phải có chỗ việc làm để thể hiện năng lực đó. Đào tạo là để làm việc thì mới trở nên có ích, tạo ra của cải vật chất cho xã hội. + Đào tạo nghề trở thành công cụ điều chỉnh sâu cơ cấu, chất lượng của lực lượng lao động. Cung càng nhiều lao động qua đào tạo nghề càng làm tỷ trọng nhóm này tăng lên trong tỷ phần lao động có CMKT trong lực lượng lao động. Lao động qua đào tạo nghề chiếm tỷ trọng lớn trong lực lượng lao động, làm giảm tương đối tỷ trọng lao động không có CMKT. + Đào tạo nghề góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động. Trong quá trình công nghiệp hóa, đào tạo trang bị kỹ năng, năng lực cho người lao động dịch chuyển từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp và dịch vụ. Đào tạo nghề làm tăng cơ hội tìm kiếm việc làm và tăng thu nhập có các cá nhân, tạo khả năng thay đổi và dịch chuyển việc làm, nhanh chóng thích nghi với các biến đổi về kinh tế và xã hội. + Trong mối quan hệ gắn kết giữa đào tạo với sử dụng và giải quyết việc làm phải dựa trên cơ sở và xoay quanh “cầu lao động” trên thị trường lao động. Đào tạo ai, đào tạo nghề gì, cấp trình độ nào… phải do cầu lao động (cung việc làm) quyết định. 33 Việc làm, nói chung bị chi phối bởi nhiều yếu tố khác nhau trong đó để tạo ra một chỗ việc làm cần phải hội tụ đủ các yếu tố tư liệu sản xuất và lao động. Các nhân tố tạo nên việc làm đều thay đổi, do đó việc làm cũng thường xuyên mang tính thay đổi. Việc làm tác động chủ động vào đào tạo thông qua: + Việc làm tạo ra nhu cầu đào tạo: Người lao động muốn có việc làm, làm được việc thì phải qua đào tạo, dẫn đến việc làm đặt ra yêu cầu cho đào tạo. + Việc làm là nơi để thể nghiệm, thực nghiệm và thực hành kết quả đào tạo: Học đi đôi với hành. Kết quả đào tạo có giá trị nhất khi nó giống nhất/tương đồng nhất/đúng nhất với công việc thực tế diễn ra. Đào tạo chính là quá trình chuyển giao mô phỏng yêu cầu thao tác, hoạt động của việc làm. + Việc làm đồng thời là quá trình tự đào tạo: người lao động vừa làm việc vừa đang trong quá trình tự đào tạo bản thân. Nhiều kỹ năng, kiến thức và đặc biệt các kinh nghiệm có được là nhờ quá trình làm việc. + Việc làm qui định nội dung đào tạo: Đào tạo là mô phỏng yêu cầu và hoạt động của việc làm, do đó có thể nói việc làm qui định nội dung đào tạo. + Việc làm chi phối cấu trúc hệ thống đào tạo: Đặc điểm việc làm trên thị trường lao động sẽ phản ảnh trong hệ thống đào tạo. Hệ thống này thực hiện chức năng tốt nhất khi đáp ứng đúng kết cấu việc làm trong nền kinh tế. Khi đó kết cấu việc làm sẽ chi phối kết cấu của hệ thống đào tạo. 1.4.3. Học nghề để có việc làm tốt hơn Cũng như vốn vật chất, vốn nhân lực là kết quả của quá trình đầu tư trong quá khứ với mục đích tạo ra thu nhập trong tương lai. Đầu tư vào vốn nhân lực chủ yếu thông qua giáo dục và đào tạo. Đặc điểm riêng của vốn nhân lực là có thể đầu tư bằng bất kỳ nguồn lực nào (bao gồm cả thời gian) người lao động dành để nâng cao năng suất lao động, đầu tư vào sức khỏe v.v... Cách đề cập đối với vốn nhân lực giả thiết rằng các mức chênh lệch của tiền lương phản ảnh sự chênh lệch về năng suất lao động giữa các nhóm lao động khác 34 nhau. Giáo dục và đào tạo, tạo ra năng suất lao động cao hơn và người lao động có năng suất lao động cao hơn sẽ có được thu nhập và tiền lương cao hơn. Giả định rằng người lao động bắt đầu đi học nghề ở tuổi 18 và học xong khi người lao động 20 tuổi (không xem xét trường hợp vừa đi học vừa đi làm hoặc đi học nghề sau tốt nghiệp THCS). Đường aa thể hiện dòng thu nhập của lao động qua đào tạo nghề. Đường bb là thu nhập của người lao động với một tấm bằng THPT. + Vùng 1 là chi phí người lao động phải bỏ tiền ra cho sách vở và đồ dùng học tập, học phí cũng như các khoản chi khác nhưng không phải là các khoản phí sinh hoạt (Giả định không đi học cũng phải chi tiêu cho ăn, ở). + Vùng 2 là phần thu nhập bị mất (do không đi làm để dành thời gian cho học tập), tương đương chi phí cơ hội của thời gian người lao động bỏ ra. + Vùng 3 là thu nhập người lao động có được với tấm bằng nghề. Thông thường, người lao động đã qua đào tạo nghề phải mất một vài năm mới có thể đuổi kịp kinh nghiệm làm việc của những người chỉ tốt nghiệp THPT đã đi làm trước đó. Nhằm thu được lợi ích ròng từ việc đi học, giá trị hiện tại của tổng lợi ích và chi phí cho việc đi học phải lớn hơn không (giá trị hiện tại của vùng 3 phải lớn hơn giá trị hiện tại của tổng vùng 1 và vùng 2). Tiền lương a Học nghề a b THPT b 17-18 20-21 55-60 tuổi Biểu đồ 1.3: Học nghề để có thu nhập cao hơn 2 1 3 35 Trong mối quan hệ với việc làm của lao động qua đào tạo nghề có thể xem xét trên góc độ so sánh theo biểu đồ trên với 3 giai đoạn đầu tư và thu hồi vốn đầu tư vào vốn nhân lực. Tỷ suất lợi nhuận là một minh chứng cụ thể cho vai trò của đào tạo cho tăng trưởng kinh tế thông qua tác động trực tiếp đến năng suất lao động của người lao động và gián tiếp mang lại cho xã hội những lợi ích phổ biến như trình độ dân trí, thói quen trọng tri thức, phong trào tự học v.v... Công thức giản đơn để tính toán tỷ suất lợi nhuận như sau:1 L = (K/C)*100% (1.1) K = Thu nhập của lao động qua đào tạo nghề - Thu nhập của lao động THPT C = Chi phí trực tiếp (C1) + Chi phí gián tiếp (C2) Ngoài ra có thể tính tỷ lệ hoàn trả đào tạo cho nhóm lao động qua đào tạo nghề trên cơ sở so sánh chi phí đầu tư và tiền lương thu được. Phương pháp phổ biến tính tỷ lệ thu hồi (ROR) được sử dụng là theo phương trình tiền lương Mincerian [132]. Tỷ lệ thu hồi trong giáo dục đào tạo được tính bằng cách lấy đạo hàm riêng giữa tiền lương giờ với biến đi học, giá trị tính được và dấu của nó (+/-) cho biết nếu có thêm một năm đi học nữa thì tiền công có cơ hội được tăng lên (+) hay giảm đi (-) bấy nhiêu phần trăm (%) giá trị tiền công của người lao động. Cụ thể phương trình Mincerian được tính với một số biến chuẩn như số năm đi học. Các biến giả khác như giới tính, thành thị được đưa vào để tìm hiểu sự khác biệt giữa các khu vực, vùng miền và giới tính có làm cho tỷ lệ thu hồi bị khác biệt trong tiền lương giờ bình quân của người lao động không. Phương trình semilog tiền lương như sau:  Lnwagei= ao+ a1yrschi + a2yrschi2 + a3*expi + a4expi2 + a5genderi +  (1.2) 1 Ví dụ: Giả định nếu tiền lương của học sinh học nghề một năm thu được 18 triệu đồng/năm (1,5 triệu đồng/tháng), còn bình quân người lao động mức học vấn THPT thu được 12 triệu đồng/năm, phần nhiều hơn sẽ là 6 triệu đồng/năm. Chi phí đầu tư gồm 2 phần (C=C1+C2), chi phí trực tiếp (C1) là những chi phí như học phí và chi phí khác như ăn ở, đi lại.. Giả định là 12 triệu đồng/năm x 2 năm học tương đương 24 triệu đồng; và chi phí gián tiếp (C2) là chi phí cơ hội có thu nhập trong thời gian đi học ví dụ tính tương đương thu nhập của người lao động có trình độ THPT (12 triệu đồng/năm x 2 năm = 24 triệu đồng). Tỷ suất lợi nhuận của đào tạo nghề ở trình độ trung cấp nghề sẽ là: L= K/(C1+C2) * 100% = (6 triệu đồng/48 triệu đồng)*100% = 12,5% 36  a6urbani Trong phương trình cơ bản (1.2), các biến đặc trưng liên quan đến việc làm của người lao động chưa được thể hiện như: ngành kinh tế, khu vực sở hữu, trình độ tay nghề v.v... Vì vậy phương trình (1.2) được mở rộng với các biến ngành kinh tế, trình độ CMKT, khu vực v.v.... như công thức (1.3) sau:  Lnwagei = ao+ a1Yrschi + a2Yrschi2 +a3*expi + a4expi2 + a5skilli +  a6genderi + a7urbani + a8indusi + các biến tương tác khác + ui  (1.3) Trong đó:  i  Là chỉ số của người lao động thứ i  Wage  Lương của người lao động đã được qui đổi về lương đủ giờ  Yrsch  Số năm đi học của người lao động, số năm học được tính bằng tổng số năm học phổ thông + tổng thời gian đào tạo bậc cao hơn  Exp  Số năm kinh nghiệm của người lao động  Skill  Trình độ CMKTK của người lao động  Gender  Giới tính của người lao động  Urban  Khu vực thành thị\ Nông thôn  Indus  Ngành kinh tế quốc dân cấp 2 được phân loại theo 37 hệ thống VSIC  Owner  Hình thức sở hữu của loại hình doanh nghiệp Để có thể tìm ra sự khác biệt của tiền lương giữa các nhóm lao động, nghiên cứu sử dụng các biến giả và biến tương tác trong mô hình. Sự tương tác giữa một số biến với biến về trình độ CMKT trong mô hình hàm ý là có ảnh hưởng của biến CMKT đến tiền lương giữa các nhóm khác nhau thì khác nhau. Mô hình này cho phép tính toán tỷ lệ thu hồi vốn đối với việc làm của lao động qua đào tạo nghề, cho phép phân tích sự khác biệt tiền lương của lao động qua đào tạo nghề với các nhóm lao động khác. Ngoài ra, mô hình sẽ xử lý và phân tích sự khác biệt tiền lương của lao động qua đào tạo nghề ở các ngành kinh tế khác nhau, khu vực sở hữu, vị thế việc làm khác nhau v.v.... 1.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc làm của lao động qua đào tạo nghề Việc làm của lao động qua đào tạo nghề chịu tác động bởi một số yếu tố phân thành 2 nhóm, đó là: (i) các nhân tố tác động đến việc tạo việc làm cho đối tượng là lao động qua đào tạo nghề và (ii) các nhân tố thuộc chính sách sử dụng, đào tạo và phát triển đội ngũ lao động qua đào tạo nghề. - Nhóm 1: Các nhân tố chủ yếu tác động đến tạo việc làm cho lao động qua đào tạo nghề; trong đó chủ yếu là: + Nguồn lực tự nhiên, hạ tầng (Vốn, tài nguyên, dân số và lao động); + Khoa học kỹ thuật và công nghệ; + Đầu tư và chính sách đầu tư gắn với tạo việc làm; + Chính sách giải quyết việc làm - Nhóm 2: Các nhân tố tác động đến việc làm của lao động qua đào tạo nghề thông qua các chính sách sử dụng và phát triển đội ngũ , như sau: + Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế; + Chuyển đổi nền kinh tế sang kinh tế thị trường định hướng XHCN; 38 + Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế; + Chính sách thị trường lao động; + Chính sách đào tạo phát triển đội ngũ lao động qua đào tạo nghề. 1.5.1. Nhân tố ảnh hưởng đến tạo việc làm cho lao động qua đào tạo nghề a) Nguồn lực tự nhiên, hạ tầng Đất đai là nguồn tài nguyên quan trọng, đồng thời là một tư liệu đặc biệt cho quá trình sản xuất, được con người sử dụng triệt để để tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Càng có nhiều đất đai, càng có nhiều tài nguyên thì càng có nhiều cơ hội tạo việc làm cho lao động qua đào tạo nghề trong khu vực nông nghiệp, công nghiệp khai khoáng, chế tạo và chế biến. Tuy nhiên, những tài nguyên này không phải vô hạn, mà hữu hạn và suy giảm trong tương lai. Đất đai được sử dụng như những nguồn lực lớn trong tạo việc làm trong nông nghiệp nông thôn. Nền kinh tế phát triển cân đối cần phải tiếp tục nuôi dưỡng và tạo việc làm trong khu vực nông nghiệp để tận dụng và sử dụng hết thời gian lao động nông nhàn, đồng thời tiếp tục đào tạo để dịch chuyển lao động nông nghiệp nông thôn sang các ngành nghề khác trong công nghiệp và dịch vụ. Đất đai một mặt là cơ sở cơ bản để tạo việc làm trong nông nghiệp, công nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn. Mặt khác đất đai lại như những nguồn tài nguyên quan trọng phục vụ cho công nghiệp và thu hút đầu tư nước ngoài. Lao động trong khu vực nông nghiệp bị mất đất, thu hẹp đất sản xuất là để nhường phần tài nguyên này cho công nghiệp, nơi mà việc sử dụng tài nguyên đất đai sẽ hiệu quả hơn, và kỳ vọng sẽ tạo được nhiều việc làm hơn. Ngoài đất như một tài nguyên cơ bản, yêu cầu thiết yếu để tạo việc làm cho cả hai khu vực nông nghiệp và công nghiệp, các tài nguyên khác là những điều kiện lợi thế của mỗi quốc gia, mỗi vùng trong tạo việc làm cho lao động qua đào tạo nghề. Những vùng có tài nguyên khoáng sản kim loại (sắt, đồng, vàng, thủy ngân, bô xít v.v...) và phi kim (than đá, đá vôi, cát v.v..) đã và đang gây dựng nên các vùng công nghiệp khai khoáng và công nghiệp chế biến nguyên liệu, các tổ hợp 39 công nghiệp chế tạo. Công nghiệp khai thác mỏ và công nghiệp chế tạo là những nhóm ngành thu hút nhiều lao động qua đào tạo nghề như khai thác, vận hành thiết bị khai thác mỏ, thợ cơ khí, cơ khí sửa chữa v.v.... kéo theo nó là các công trình, dịch vụ phục vụ. Một tổ hợp khai thác và chế biến dầu mỏ như Dung quất, Nghi sơn sẽ thu hút hàng trăm ngàn lao động từ những giai đoạn khởi công, xây dựng các nhà máy lọc dầu, cảng biển cho đến hàng ngàn công nhân kỹ thuật bậc cao để vận hành những tổ hợp đó. Ngoài ra chưa kể hàng trăm ngàn lao động của các doanh nghiệp vệ tinh cung cấp các dịch vụ kỹ thuật, dịch vụ đời sống đi kèm. Ngoài những tài nguyên khoáng sản là điều kiện cơ bản, lợi thế tạo ra việc làm còn có tài nguyên thiên nhiên, phong cảnh, rừng nhiệt đới, di tích lịch sử, văn hóa vật thể và phi vật thể là những lợi thế cho các ngành công nghiệp du lịch phát triển và tạo việc làm cho lao động qua đào tạo nghề trong lĩnh vực dịch vụ du lịch, thương mại, nhà hàng, khách sạn v.v... Nguồn lực tự nhiên và các điều kiện có sẵn ở mỗi vùng miền là điều kiện cơ bản cần thiết và là lợi thế trong việc tạo ra các hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo ra việc làm và việc làm cho lao động qua đào tạo nghề. Cơ sở hạ tầng như giao thông vận tải, thủy lợi, điện nước, bưu chính viễn thông.... là những điều kiện hạ tầng cơ bản để thu hút đầu tư vào các vùng miền, các ngành nghề khác nhau, tạo việc làm cho người lao động. Những lĩnh vực này ngày càng sử dụng nhiều lao động và gián tiếp tác động đến các lĩnh vực khác như các khu công nghiệp tập trung, các cụm công nghiệp, những vùng thu hút đầu tư nước ngoài. Hạ tầng vừa là điều kiện cần, nhưng cũng là lợi thế so sánh giữa các địa bàn khác nhau trong quá trình thu hút đầu tư, tạo việc làm. Ngoài ra, hạ tầng xã hội, các thiết chế, cơ chế vận hành và đặc biệt là nguồn nhân lực dồi dào, có chất lượng sẽ là hạ tầng đóng vai trò tích cực, dài hạn khuyến khích đầu tư phát triển và càng thu hút tạo nhiều việc làm có chất lượng hơn. b) Dân số - nguồn lao động 40 Dân số tăng nhanh, mật độ dân số cao làm cho lực lượng lao động dồi dào, nhưng cũng làm tăng áp lực tạo việc làm cho các cá nhân và cộng đồng. Đối với các nước chậm phát triển đây là một trở lực rất lớn đối với nền kinh tế, nó tạo ra một vòng luẩn quẩn giữa phát triển kinh tế, giáo dục và đào tạo, việc làm và phát triển nguồn nhân lực. Nền sản xuất yếu kém kéo theo việc thu hút việc làm đối với lao động cũng kém, lực lượng lao động dư thừa, thất nghiệp gia tăng là áp lực đẩy tiền lương thấp xuống, những người có việc làm thì thu nhập thấp, không có nhiều tiền để đầu tư cho đào tạo, giáo dục, hạ tầng giáo dục và hạ tầng xã hội thấp kém làm cho vốn nhân lực khó phát triển. Một số quốc gia đã vận dụng quan hệ này một cách sáng tạo, đột phá thế khó khăn này khi sử dụng chính sách lao động giá rẻ kết hợp với đào tạo nghề nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Đây là chính sách linh hoạt giải quyết được cả hai vấn đề là việc làm gia tăng đáp ứng nhu cầu ngắn hạn, đồng thời tăng chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng chiến lược dài hạn. Thu hút đầu tư tạo việc làm trong các ngành phải có điều kiện cơ bản là có lao động. Dân số có chất lượng là điều kiện đủ để các chương trình tạo việc làm, các dự án đầu tư phát triển bền vững. Nguồn lao động có chất lượng một mặt đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế và đầu tư, mặt khác là nhân tố tích cực tác động vào cơ cấu đầu tư và việc lựa chọn công nghệ. Chất lượng nguồn lao động thấp kéo theo đầu tư và trình độ công nghệ thấp và ngược lại, chất lượng nguồn lao động cao sẽ tác động làm cho công nghệ đầu tư phải thay đổi theo. Nguồn lao động có chất lượng cần có lực lượng lao động có sức khỏe, có CMKT cao, đa dạng, đa tầng đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động. Trong đó nhóm lao động quan trọng nhất chiếm đa số đối với các nước đang phát triển là lao động qua đào tạo nghề. Phát triển đội ngũ này vừa đảm bảo cơ cấu chất lượng nguồn nhân lực vừa đảm bảo tính hiệu quả trong đầu tư cho đào tạo lại vừa phù hợp với trình độ dân trí nói chung ở các nước đang phát triển. c) Công nghệ kỹ thuật 41 Cuộc cách mạng công nghệ trong đó công nghệ thông tin là chủ chốt đang làm thu hẹp, làm phẳng thế giới. Con người đang làm việc vượt qua các giới hạn về thể xác và trí tuệ, vượt qua không gian và thời gian nhờ được trang bị các công cụ tin học hiện đại. Ngày càng nhiều các công việc mới xuất hiện làm thay đổi bộ mặt thế giới việc làm. Những công việc trước đây phải dùng tay, hay công nghệ cũ như đánh máy chữ, sắp chữ bản in v.v.. dần mất đi thay vào đó là các công nghệ văn phòng hiện đại, các phần mềm hiện đại được trang bị phục vụ các hoạt động quản lý và các hoạt động xã hội. Nghề nghiệp cũ mất đi, những người đang làm công việc đó phải thay đổi nghề. Nghề nghiệp mới xuất hiện, người lao động cần phải học hỏi, học tập suốt đời để thường xuyên cập nhật cái mới, cái hiện đại cho phù hợp với sự vận động của xã hội của nền kinh tế. Khoa học công nghệ đang phát triển nhanh chóng, công nghệ điện tử và tin học, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới đang hòa trộn với nhau thành tập hợp các hệ thống kỹ thuật công nghệ hiện đại. Công nghệ đang làm thay đổi bản chất, hình thức sản xuất, cuộc sống và thay đổi bản chất, hình thức của việc làm nói chung và việc làm của lao động qua đào tạo nghề nói riêng. Cách mạng công nghệ đang nhanh chóng làm thay đổi qui mô, cơ cấu và hàm lượng tri thức của đội ngũ lao động. Để đáp ứng được thì kỹ năng, tay nghề, người lao động phải thay đổi thích ứng với công nghệ. Công việc thay đổi theo hướng giảm dần các nhóm thao tác bằng tay chân, tăng dần những độ phức tạp của lao động như quan sát, đánh giá, lựa chọn, cân nhắc, thiết kế và xử lý thông qua máy tính. Với xu thế này, một bộ phận lao động qua đào tạo nghề sẽ được thay thế bằng các máy móc, thiết bị tự động hóa. Lao động bị mất việc làm, dôi dư ra từ các dây chuyền sản xuất đó phải được đào tạo lại, đào tạo chuyển đổi nghề nghiệp để tiếp nhận công việc mới. Cách mạng công nghệ làm thay đổi cấu trúc việc làm và việc làm của lao động qua đào tạo nghề, từ đó dẫn đến sự thay đổi trong cấu trúc CMKT của lực lượng lao động. Có hai cách tiếp cận, có thể theo hướng chủ động là bản thân cơ 42 cấu lao động tiên tiến sẽ thúc đẩy cơ cấu sản xuất và công nghệ trở nên hiện đại hơn, tiên tiến hơn lên và ngược lại, công nghệ sẽ qui định cơ cấu và chất lượng đội ngũ lao động. Đó chính là việc khẳng định vai trò tích cực hay thụ động của đào tạo nghề. Xu hướng hiện nay đối với các nền kinh tế còn lạc hậu và đang trên con đường công nghiệp hóa như Việt nam, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực phải theo đuổi, để phù hợp với công nghệ và sản xuất. Lao động dịch chuyển từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ tạo ra sự xáo trộn về cơ cấu, yêu cầu và gánh nặng lên hệ thống đào tạo, cần phải có sự điều chỉnh, đầu tư đào tạo để tái cấu trúc cơ cấu lao động cho phù hợp với công nghệ sản xuất mới. d) Đầu tư và các chính sách đầu tư tạo việc làm Các hoạt động đầu tư, mở rộng sản xuất có ý nghĩa to lớn đối với việc tạo việc làm cho người lao động. Đầu tư gắn với công nghệ sản xuất, đầu vào, đầu ra của quá trình sản xuất. Phương thức sử dụng đầu vào, cách thức tổ chức tiêu thụ đầu ra và đặc trưng công nghệ là những yếu tố quan trọng để đánh giá mức độ, số lượng và cơ cấu việc làm được tạo ra. Mỗi mức tăng trưởng của nền kinh tế sẽ tạo ra một tỷ lệ gia tăng việc làm. Cũng như vậy, đầu tư vào các lĩnh vực, nhà máy công xưởng tạo ra chỗ việc làm mới cho người lao động. Ngoài ra còn hình thức tự đầu tư để tạo ra chỗ việc làm cho mình và cho những người khác của người lao động, . Đầu tư trong nước và đầu tư của người dân tạo việc làm luôn là kênh quan trọng nhất. Tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư nội địa của một quốc gia thông thường sẽ tốt nếu ở mức khoảng 50% GDP và như vậy việc làm sẽ được tạo ra bởi chính những hoạt động đầu tư trong nước sẽ mang tính bền vững cao. Những chính sách kinh tế vĩ mô ảnh hưởng rất lớn đến đầu tư và phát triển sản xuất kinh doanh, tác động ảnh hưởng vào việc làm của người lao động. Các chính sách mở rộng tín dụng, chính 43 sách lãi suất cho vay thấp sẽ khuyến khích đầu tư sản xuất và ngược lại với tín dụng thắt chặt, lãi suất cho vay cao thì sẽ thu hẹp sản xuất, giảm bớt việc làm. Những chính sách liên quan đến khuyến khích các loại hình công nghệ, mức công nghệ khác nhau sẽ ảnh hưởng đến việc làm có CMKT nhiều hay ít, số lượng lao động qua đào tạo nghề có được việc làm tăng hay giảm. Như trường hợp hạn chế nhập khẩu các công nghệ cũ từ nước ngoài vào có thể nhằm mục đích tránh ô nhiễm môi trường, mục đích hiện đại hóa sản xuất nhưng số lượng việc làm tạo ra cho lao động qua đào tạo nghề sẽ ít đi. Hoặc các chính sách liên quan đến công nghiệp chế biến, khi khuyến khích hoặc không khuyến khích gia công sản phẩm xuất khẩu (giày da, dệt may v.v...) sẽ dẫn đến tăng/giảm việc làm của lao động qua đào tạo nghề ở những nhóm ngành nghề này. Nếu khuyến khích nhập khẩu ô tô nguyên chiếc bằng thuế quan thấp có thể sẽ thu hẹp sản xuất lắp ráp ô tô trong nước, giảm việc làm của lao động qua đào tạo nghề. Các chính sách thu hút đầu tư nước ngoài của nhiều tỉnh/thành phố, chương trình phát triển khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ, khu vực kinh tế cá thể, khu vực hợp tác xã, công nghiệp nông thôn v.v.. là những khu vực đầu tư có thể tạo ra rất nhiều việc làm cho lao động qua đào tạo nghề. e) Chính sách giải quyết việc làm Các chính sách lao động việc làm được xem là chính sách xã hội cơ bản giúp đảm bảo sự phát triển bền vững cho nền kinh tế. Chính sách tạo việc làm thực chất là các biện pháp làm tăng khả năng tiếp cận với việc làm của lực lượng lao động xã hội, đôi khi có thể là một nhóm đối tượng cụ thể hoặc đặc biệt nào đó. Các chính sách tạo việc làm nằm trong hệ thống các chính sách xã hội nhằm giải quyết các vấn đề chiến lược, dài hạn. Có thể phân loại thành 3 nhóm sau: + Các chính sách vĩ mô nhằm mở rộng và phát triển việc làm cho lao động như chính sách tín dụng, đất đai, thuế, lựa chọn công nghệ đầu tư.... 44 + Các chính sách phát triển các ngành nghề và lĩnh vực có khả năng tạo ra nhiều việc làm như chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, phát triển ngành công nghiệp phụ trợ, chính sách di dân xây dựng vùng kinh tế mới, chính sách xuất khẩu lao động, chính sách phát triển công nghiệp nông thôn, chính sách khôi phục và phát triển các nghề thủ công. + Chính sách việc làm hướng đến các đối tượng đặc biệt, nhóm yếu thế (người tàn tật, nghèo, các phạm nhân, người hồi hương v.v.....) Nguồn tạo ra việc làm chủ yếu là từ các chủ thể sử dụng lao động trong nền kinh tế, trong đó chủ yếu là từ hai khu vực nông nghiệp và các doanh nghiệp trong các khu vực công nghiệp và dịch vụ với các hình thức sở hữu khác nhau (nhà nước, tư nhân, có vốn đầu tư nước ngoài). Nguồn và chủ thể sử dụng lao động tạo việc làm trong khu vực nông nghiệp nông thôn có thể chia ra làm hai nhóm chính đó là việc làm phi nông nghiệp và việc làm tự tạo bao gồm cả nông nghiệp và phi nông nghiệp. Các chính sách khuyến khích đầu tư phát triển công nghiệp nông thôn, các doanh nghiệp vừa và nhỏ về đất đai, thuế, chính sách tín dụng, các hỗ trợ kỹ thuật quản lý v.v... đóng vai trò quan trọng trong khuyến khích, thúc đẩy tạo việc làm thu hút lao động nông nhàn, lao động mất đất, lao động bị thất nghiệp…. Công nghiệp địa phương và đầu tư nước ngoài đang tạo ra việc làm ở khu vực nông thôn đồng thời tạo ra các cơ sở kỹ thuật, dịch vụ vệ tinh tạo việc làm có kỹ năng. Người lao động tự tạo việc làm trong khu vực nông nghiệp thông qua phát triển các mô hình canh tác trên địa bàn, mở các trang trại, nuôi các vật nuôi, cây trồng có giá trị kinh tế cao và có thể tạo ra cho mình việc làm phi nông nghiệp (tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ phục vụ đời sống) góp phần dịch chuyển lao động khỏi khu vực nông nghiệp. Việc phát triển các khu công nghiệp, các ngành nghề lĩnh vực sản xuất thu hút lao động, kinh tế dịch vụ, hệ thống các doanh nghiệp dân doanh, doanh nghiệp vừa và nhỏ là những hướng tạo việc làm tích cực cho lao động qua đào tạo nghề. Những 45 ngành nghề ưa chuộng thu hút nhiều lao động là những ngành gia công sản phẩm xuất khẩu như dệt may, giày da, gốm sứ, lắp ráp các hàng điện tử xe máy..... Các chính sách, chương trình lớn của chính phủ để tạo việc làm có thể chia ra hai nhóm chính, đó là: (i) nhóm các chương trình, kế hoạch, dự án phát triển kinh tế xã hội gắn với giải quyết việc làm; và (ii) nhóm chương trình trợ giúp trực tiếp của nhà nước thành các chương trình việc làm. Với nhóm thứ nhất, việc gắn nhiệm vụ giải quyết, tạo việc làm cho người lao động là nhiệm vụ quan trọng và mang tính chất pháp lý lồng ghép vào trong các chương trình, kế hoạch, dự án lớn về phát triển kinh tế xã hội của quốc gia. Từ đó, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội cũng đồng thời là kế hoạch phát triển và tạo việc làm cho người lao động. Trường hợp của Việt nam những kế hoạch này đề được ghi nhận và trở thành pháp lệnh trong các kế hoạch phát triển 5 năm. Các chương trình dự án quốc gia khi thực hiện cũng là một kênh lớn của nhà nước tạo việc làm. Trợ giúp trực tiếp của nhà nước để tạo việc làm thông qua các dự án cho vay vốn sản xuất giải quyết việc làm của quỹ quốc gia về việc làm; các dự án nâng cao năng lực phát triển thị trường lao động, dự án chương trình đào tạo nghề quốc gia. Thông qua các chương trình, các chính sách tín dụng và chính sách phát triển ngành nghề chính phủ đã tạo ra môi trường khuyến khích các chủ thể trong nền kinh tế tạo việc làm và thu hút lao động tham gia đào tạo, dịch chuyển lao động. 1.5.2. Công nghiệp hóa, chuyển đổi nền kinh tế và chính sách sử dụng lao động ảnh hưởng đến việc làm của lao động qua đào tạo nghề a) Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế Như một qui luật, các quốc gia sẽ phải trải qua thời kỳ công nghiệp hóa và hiện đại hóa nền sản xuất. Công nghiệp hóa từng bước và nhanh chóng qui định mọi phương diện của lực lượng lao động cả về trình độ, cơ cấu CMKT, các yêu cầu tư chất người lao động và môi trường lao động. 46 Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế về bản chất là quá trình phát triển toàn diện, nhanh chóng nền kinh tế thông qua phát triển công nghiệp, dịch vụ dựa trên nền sản xuất hiện đại. Trên giác độ lao động, việc làm được phản ảnh trong các mô hình dịch chuyển lao động kinh điển của A. Lewis, Torado và Oshima. Công nghiệp hóa gắn chặt với mô hình tăng trưởng kinh tế. Kinh nghiệm của nhiều quốc gia trong công nghiệp hóa đều đi đến xu hướng công nghiệp hóa hướng ra xuất khẩu, đặc biệt là trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập. Mô hình công nghiệp hóa hướng ra xuất khẩu, các thành phần kinh tế có cơ hội phát triển, đặc biệt là vai trò của khu vực kinh tế tư nhân và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. CNH-HĐH làm cho khu vực công nghiệp, các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, xây dựng và dịch vụ phát triển với qui mô lớn tạo nhiều việc làm thu hút lao động dịch chuyển từ khu vực nông nghiệp. Khu vực sản xuất chế biến hàng xuất khẩu, gia công và chế tạo tăng trưởng mạnh mẽ tạo ra nhiều việc làm. Do tác động của công nghiệp hóa lan tỏa và có hiệu ứng tích cực với cả khu vực nông nghiệp, nông thôn. Năng suất lao động trong nông nghiệp tăng lên cùng với nó là sức mua của người dân tăng, cầu hàng hóa phi nông nghiệp tăng tiếp tục thúc đẩy sản xuất và đầu tư. Mặt khác, năng suất lao động tăng tạo ra nhiều lao động dôi dư trong khu vực nông nghiệp sẵn sàng cho việc dịch chuyển tìm kiếm cơ hội trong khu vực công nghiệp và dịch vụ. Quá trình công nghiệp hoá đồng thời làm thay đổi nghề nghiệp của người lao động. Nhiều ngành, nghề truyền thống sẽ mất đi, xuất hiện ngày càng nhiều ngành, nghề mới, trước hết là trong lĩnh vực công nghệ cao (công nghệ sinh học, thông tin, tự động hoá, vật liệu mới…). Quá trình công nghiệp hóa đồng thời tạo nhiều việc làm có chất lượng, đòi hỏi lao động có CMKT cao và dần dần làm thay đổi cơ cấu CMKT của lực lượng lao động, thay đổi kết cấu việc làm trong nền kinh tế. b) Chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường 47 Chuyển từ kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường, đồng nghĩa với ba tác động lớn vào việc làm đó là (i) các nguồn lực sản xuất được phân bổ theo cơ chế thị trường; (ii) lao động và việc làm dịch chuyển từ khu vực nhà nước sang khu vực ngoài nhà nước; và (iii) tiền lương và thu nhập lao động trở thành thước đo giá trị và là công cụ điều tiết nguồn lao động. Nguồn lao động qua đào tạo nghề được đào tạo bởi khu vực nhà nước trước đây bị cứng nhắc về chương trình, lạc hậu về nội dung và công nghệ và thường là cung lao động bị vượt quá

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA_Bui.Ton.Hien_NEU .pdf
Tài liệu liên quan