Tài liệu Đề tài Nghiên cứu việc làm của lao động qua đào tạo nghề ở Việt Nam: MỤC LỤC
Lời mở đầu ..................................................................................................................1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VIỆC LÀM CỦA LAO ĐỘNG QUA ĐÀO
TẠO NGHỀ.................................................................................................................7
1.1. Một số khái niệm về Việc làm và việc làm của lao động qua đào tạo nghề ........7
1.2. Kết cấu việc làm và cung cầu việc làm của lao động qua đào tạo nghề ............14
1.3. Vai trò và đặc điểm của lao động qua đào tạo nghề .........................................25
1.4. Mối quan hệ giữa đào tạo và việc làm của lao động qua đào tạo nghề .............30
1.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc làm của lao động qua đào tạo nghề ..............37
1.6. Kinh nghiệm của một số quốc gia về việc làm của LĐĐTN ...........................51
Tóm tắt chương 1 ..................................................................................................56
Chương 2...
203 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 977 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Nghiên cứu việc làm của lao động qua đào tạo nghề ở Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Lời mở đầu ..................................................................................................................1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VIỆC LÀM CỦA LAO ĐỘNG QUA ĐÀO
TẠO NGHỀ.................................................................................................................7
1.1. Một số khái niệm về Việc làm và việc làm của lao động qua đào tạo nghề ........7
1.2. Kết cấu việc làm và cung cầu việc làm của lao động qua đào tạo nghề ............14
1.3. Vai trò và đặc điểm của lao động qua đào tạo nghề .........................................25
1.4. Mối quan hệ giữa đào tạo và việc làm của lao động qua đào tạo nghề .............30
1.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc làm của lao động qua đào tạo nghề ..............37
1.6. Kinh nghiệm của một số quốc gia về việc làm của LĐĐTN ...........................51
Tóm tắt chương 1 ..................................................................................................56
Chương 2: PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG VIỆC LÀM CỦA LAO ĐỘNG QUA
ĐÀO TẠO NGHỀ Ở VIỆT NAM..............................................................................57
2.1. Phát triển kinh tế và vấn đề việc làm ...............................................................57
2.2. Phân tích thực trạng việc làm của lao động qua đào tạo nghề ..........................64
2.3. Các chính sách giải quyết việc làm của lao động qua đào tạo nghề................109
2.4. Chính sách và hoạt động dạy nghề ...............................................................121
Tóm tắt chương 2.................................................................................................125
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU PHÁT TRIỂN VIỆC LÀM CỦA
LAO ĐỘNG QUA ĐÀO TẠO NGHỀ Ở VIỆT NAM..............................................126
3.1. Bối cảnh và định hướng phát triển việc làm...................................................126
3.2. Một số giải pháp chủ yếu phát triển việc làm của LĐĐTN ............................137
Tóm tắt chương 3.................................................................................................176
Kết luận ..................................................................................................................178
Danh mục một số công trình của tác giả
Tài liệu tham khảo
Phụ lục
DANH MỤC CÁC BẢNG
Stt Tên bảng Trang
Bảng 2.1 Hệ số co giãn việc làm giai đoạn 1996-2007 58
Bảng 2.2 Hệ số co giãn và tăng trưởng việc làm theo đầu tư 60
Bảng 2.3 Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động 61
Bảng 2.4 Trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động qua đào tạo nghề 64
Bảng 2.5 Cơ cấu việc làm của lao động qua đào tạo nghề theo vùng 65
Bảng 2.6 Việc làm của lao động qua đào tạo nghề trong các ngành kinh tế 68
Bảng 2.7 Cơ cấu việc làm của lao động theo thành phần kinh tế 70
Bảng 2.8 Vị thế việc làm của lao động qua đào tạo nghề 72
Bảng 2.9 Việc làm phân theo nghề nghiệp 74
Bảng 2.10 Tình trạng thiếu việc làm và thất nghiệp phân theo CMKT 76
Bảng 2.11 Cơ cấu CMKT trong doanh nghiệp 78
Bảng 2.12 Cơ cấu CMKT của lao động trong doanh nghiệp 80
Bảng 2.13 Trình độ CMKT của lao động trong nhóm công nghiệp chế biến 81
Bảng 2.14 Việc làm của lao động qua đào tạo nghề phân theo nhóm nghề 86
Bảng 2.15 Các nghề có nhiều việc làm của lao động qua đào tạo nghề 88
Bảng 2.16 Cách thức tuyển dụng và tìm việc làm 90
Bảng 2.17 Đánh giá của doanh nghiệp về chất lượng LĐĐTN 91
Bảng 2.18 Chi phí đào tạo và đào tạo lại trong doanh nghiệp 94
Bảng 2.19 Xác suất tìm được việc làm của lao động qua đào tạo nghề 97
Bảng 2.20 Tình trạng họat động kinh tế của HSTN 98
Bảng 2.21 Tiền lương theo học vấn và CMKT của lao động 101
Bảng 2.22 Khoảng cách tiền lương 102
Bảng 2.23 Tỷ lệ hoàn trả theo kỹ năng 2002-2004-2006 106
Bảng 2.24 Khác biệt tiền lương do các nhân tố tác động 107
Bảng 2.25 Chênh lệch tiền lương của lao động qua đào tạo nghề 108
Bảng 2.26 Kết quả tạo việc làm giai đoạn 2001-2007 110
Bảng 2.27 Việc làm mới cho lao động qua đào tạo nghề 111
Bảng 2.28 Chuyển biến cơ cấu trong khu vực nông nghiệp 112
Bảng 3.1 Kết quả dự báo việc làm giai đoạn 2010-2020 129
Bảng 3.2 Kết quả dự báo số lượng lao động qua đào tạo nghề 129
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Stt Tên biểu đồ Trang
Biểu đồ 1.1 Quyết định số lượng việc làm của doanh nghiệp 20
Biểu đồ 1.2 Cung cầu kỹ năng trên thị trường lao động 23
Biểu đồ 1.3 Học nghề để có thu nhập cao hơn 34
Biểu đồ 2.1 Chuyển dịch cơ cấu lao động 67
Biểu đồ 2.2 Lao động bị thất nghiệp phân theo trình độ CMKT 75
Biểu đồ 2.3 Xu hướng dãn cách tiền lương giờ 103
Biểu đồ 2.4 Phân bố tiền lương theo tuổi 105
Biểu đồ 3.1 Xu hướng tăng lao động qua đào tạo nghề các cấp trình độ 130
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ
Stt Tên sơ đồ Trang
Sơ đồ 1.1 Minh họa phạm vi lao động qua đào tạo nghề 13
Sơ đồ 1.2 Kết cấu một việc làm 17
Sơ đồ 1.3 Chu trình phát triển nguồn nhân lực và tích lũy vốn nhân lực 31
Sơ đồ 3.1 Giải pháp phát triển việc làm của lao động qua đào tạo nghề 137
CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Viết tắt Xin đọc là :
CĐ Cao đẳng
CMKT Chuyên môn kỹ thuật
CN Công nghiệp
CNKT Công nhân kỹ thuật
CNH-HĐH Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa
CNTB Chủ nghĩa tư bản
CSĐT Cơ sở đào tạo
DN Doanh nghiệp
ĐH Đại học
ĐTN Đào tạo nghề
GDKT&DN Giáo dục Kỹ thuật và Dạy nghề
HSTN Học sinh tốt nghiệp
HSSV Học sinh – sinh viên
KCN- KCX Khu công nghiệp, khu chế xuất
LĐĐTN Lao động qua đào tạo nghề
N-L-N Nông Lâm Ngư nghiệp
TCDN Tổng cục Dạy nghề
THCN Trung học chuyên nghiệp
THCS Trung học cơ sở
THPT Trung học phổ thông
1
Lời nói đầu
1. Lý do chọn đề tài
Việt nam, 20 năm đổi mới, nền kinh tế đã phát triển mạnh mẽ, đời sống nhân
dân được cải thiện, tỷ lệ nghèo đói giảm nhanh, vị thế đất nước trên trường quốc tế
được nâng lên v.v.. Nền kinh tế tăng trưởng cao và tương đối ổn định, đầu tư và
xuất khẩu hàng năm tăng đều đặn và có chiều hướng tích cực.
Thời kỳ đầu đổi mới, những thay đổi về chính sách vĩ mô và môi trường kinh
tế trong nước đã khơi dậy nguồn lực và đóng góp cho tăng trưởng, phát triển.
Những thuận lợi trước đây không còn nhiều và những khó khăn, thách thức đang
xuất hiện. Đến nay, các nguồn lực vốn, tài nguyên, công nghệ đang dần được sử
dụng hiệu quả hơn và cạnh tranh hơn trong một nền kinh tế mở. Muốn tăng hiệu
quả và phát triển bền vững, nền kinh tế phải coi trọng phát triển nguồn nhân lực và
cụ thể là lực lượng lao động có kỹ năng.
Vận động của nền kinh tế Việt nam trong giai đoạn hiện nay làm cho lực
lượng lao động bị xáo trộn để thích nghi với những yêu cầu mới. Những thay đổi
nhanh chóng này làm thay đổi hình thức, nội dung và ngay cả tên gọi của việc làm.
Việc làm của lao động qua đào tạo nghề (LĐĐTN) là một bộ phận trong tổng việc
làm của nền kinh tế nó góp phần vào nhóm lao động có CMKT và là nguồn nhân
lực cơ bản để hiện thực hóa quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Sự thay đổi trên thị trường lao động cùng với việc đổi mới các hoạt động đào
tạo đang làm cho sự phù hợp của đào tạo và việc làm trở thành vấn đề gây tranh
cãi. Đào tạo để làm việc, nếu đào tạo không có việc làm thì là đầu tư lãng phí,
ngược lại việc làm mà không được đào tạo, không "học suốt đời" để nâng cao thì
việc làm sẽ kém đóng góp và năng suất lao động không cao. Đào tạo và việc làm
tương đồng với ý nghĩa của đầu tư cho giáo dục, đào tạo và sử dụng là hai mặt của
quá trình phát triển nguồn nhân lực và nâng cao vốn nhân lực của nền kinh tế.
Thực tiễn của hoạt động đào tạo nghề hiện nay đang là tâm điểm của nhiều ý
kiến liên quan đến vấn đề làm thế nào để đáp ứng nhu cầu nhân lực cho nền kinh tế.
Việc sử dụng lao động kỹ thuật, lao động qua đào tạo nghề hiện nay cũng còn nhiều
2
bất cập, chưa thể hiện vai trò là 'cầu kéo' , 'sức hút', đầu ra 'hấp dẫn' cho đào tạo.
Vấn đề việc làm của lao động qua đạo nghề không chỉ đơn thuần là việc làm hay
đào tạo hoặc sử dụng, mà cả ba yếu tố này đều góp phần tạo nên.
Vấn đề đặt ra là phải tạo ra và giải quyết việc làm, vừa phải phát triển đội ngũ
lao động cũng như có những chính sách sử dụng và tạo môi trường cho phát triển
việc làm của lao động qua đào tạo nghề. Vừa giải quyết việc làm cho đối tượng này
trong sự cân đối dài hạn vừa phải đổi mới sử dụng sao cho hiệu quả đồng thời vừa
thúc đẩy phát triển đào tạo đáp ứng đủ, phù hợp nhu cầu là một câu hỏi lớn đặt ra
cho cả vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt nam.
Cho đến nay chưa có công trình nghiên cứu khoa học nào đi sâu nghiên cứu
thực trạng và đề xuất các giải pháp để phát triển việc làm cho lao động qua đào tạo
nghề. Xuất phát từ nhu cầu lý luận và thực tiễn trên, đặt ra sự cần thiết để lựa chọn
đề tài: "Nghiên cứu việc làm của lao động qua đào tạo nghề ở Việt nam".
2. Mục đích nghiên cứu
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về việc làm của LĐĐTN.
- Phân tích, đánh giá thực trạng, tìm hiểu những vấn đề chủ yếu hiện nay về
việc làm của lao động qua đào tạo nghề.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển việc làm của LĐĐTN ở Việt Nam.
3. Đối tượng nghiên cứu
Việc làm của lao động qua đào tạo nghề, trong đó chủ yếu tập trung vào các
vấn đề liên quan đến việc làm, sử dụng và giải quyết việc làm của LĐĐTN.
4. Tổng quan nghiên cứu
4.1. Nghiên cứu của nước ngoài
Các nghiên cứu của nước ngoài về vấn đề lao động qua đào tạo nghề được
nhìn nhận trên giác độ và tên gọi khác. Nghiên cứu có liên quan đến vấn đề này chủ
yếu đề cập đến việc cải cách hệ thống đào tạo nghề như một liệu pháp chủ chốt để
giải quyết vấn đề cung lao động qua đào tạo nghề cho các nền kinh tế.
3
Điển hình một trong những công trình đó là tác phẩm của Ngân Hàng Thế
giới có tên gọi: "Cải cách Giáo dục và đào tạo nghề"[128], công trình đề cập rất
nhiều kinh nghiệm của các nước phân ra làm các khối khác nhau như các nước
chậm phát triển, các nước phát triển và các nước đang chuyển đổi. Trong đó vấn đề
cốt lõi được giải quyết là làm thế nào để cải cách hệ thống giáo dục nghề nghiệp
hiện nay phù hợp với thị trường lao động. Mỗi quốc gia, mỗi nền kinh tế có những
điều kiện cụ thể khác nhau nên có những bài học khác nhau về cải cách hệ thống
dạy nghề. Trong đó công trình cũng có đề cập đến những chính sách, mô hình khác
nhau của các nền kinh tế trong giải quyết mối quan hệ giữa đào tạo và thị trường
lao động, vấn đề việc làm cho đối tượng đầu ra của hệ thống đào tạo trong tương
quan với hoạt động kinh tế.
Một ấn phẩm được coi là có nhiều liên quan đến các vấn đề việc làm của lao
động kỹ thuật nghề nghiệp của Ngân hàng phát triển Châu á (ADB): "Giáo dục kỹ
thuật và Dạy nghề" [115] xuất bản năm 1990, về các vấn đề đào tạo nghề cho người
lao động, kinh nghiệm của các nước. Trong ấn phẩm này nội dung chủ yếu đi sâu
vào các chức năng, đặc điểm của hệ thống dạy nghề, các chính sách của các quốc
gia trong việc đào tạo nghề. Ngoài ra có đi sâu vào việc đào tạo nghề đáp ứng các
nhu cầu của các khu vực kinh tế khác nhau trong nền kinh tế. Đặc điểm cơ bản của
nội dung ấn phẩm này khác với các ấn phẩm khác là đi sâu vào phân tích kết cấu hệ
thống giáo dục và dạy nghề với kinh nghiệm của nhiều nước có mô hình đào tạo
nghề khác nhau.
Nghiên cứu của nước ngoài còn rất nhiều ấn phẩm và công trình khác đề cập
đến những tính toán hiệu quả cá nhân thu được từ việc đi học và tìm việc làm đối
với đối tượng theo học các chương trình giáo dục kỹ thuật và dạy nghề. Đồng thời
có những nghiên cứu sâu liên quan đến cơ hội việc làm cho lao động và phân tích
lựa chọn cơ hội học nghề cho người học. Tuy nhiên đến nay, chưa có công trình
nào nghiên cứu sâu về việc làm của nhóm đối tượng là lao động qua đào tạo nghề.
4.2. Một số nghiên cứu trong nước
Một số nghiên cứu trong nước có liên quan trực tiếp đến vấn đề lao động kỹ
thuật đó là nghiên cứu của PGS.TS. Đỗ Minh Cương có tựa đề: “Phát triển lao
4
động kỹ thuật ở Việt Nam- Lý luận và thực tiễn” [30]. Nghiên cứu này đã đi sâu
vào phân tích lực lượng lao động kỹ thuật nói chung trong đó có đề cập sâu đến hệ
thống đào tạo nghề hiện nay và sản phẩm, kết quả của quá trình đào tạo. Nghiên
cứu này tập trung vào khía cạnh cung lao động kỹ thuật trong nền kinh tế và các
giải pháp chủ yếu để phát triển đào tạo nghề thúc đẩy cung lao động kỹ thuật cho
nền kinh tế, trong đó đã đề cập đến việc làm như kết quả của quá trình đào tạo
nhưng không tập trung vào LĐĐTN mà toàn bộ nhóm lao động kỹ thuật.
Nghiên cứu thứ hai có nhiều điểm tương đồng với nghiên cứu trên đó là đề tài
KX-05-10 do GS.TSKH. Nguyễn Minh Đường làm chủ nhiệm: "Thực trạng và giải
pháp đào tạo lao động kỹ thuật (Từ sơ cấp đến trên đại học) đáp ứng yêu cầu
chuyển dịch cơ cấu lao động trong điều kiện kinh tế thị trường, toàn cầu hóa và hội
nhập quốc tế" [38]. Đối tượng nghiên cứu của đề tài này tập trung vào nhóm lao
động kỹ thuật và nội dung cơ bản đi sâu vào nghiên cứu thực trạng và năng lực đào
tạo của các cơ sở đào tạo, các chính sách đào tạo lao động kỹ thuật và những vấn đề
kỹ thuật của hoạt động đào tạo (nội dung đào tạo, cơ sở vật chất, chương trình, giáo
trình, giáo viên v.v...). Nghiên cứu này cũng đã đề cập đến thực trạng lực lượng lao
động kỹ thuật đáp ứng nhu cầu cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhưng không giải
quyết các vấn đề liên quan đến việc làm.
Nghiên cứu khác có liên quan đó là Luận án Tiến sỹ của TS. Phan Chính
Thức với đề tài: "Những giải pháp phát triển đào tạo nghề góp phần đáp ứng nhu
cầu nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa" [85]. Công trình này đề
cập đến hệ thống đào tạo nghề trên giác độ hệ thống cung ứng nhân lực lao động
qua đào tạo nghề cho nền kinh tế và đi sâu vào nghiên cứu thực trạng và các vấn đề
của hệ thống đào tạo nghề của Việt nam. Một số giải pháp mà công trình này đưa ra
tập trung vào phát triển hệ thống dạy nghề đáp ứng nhu cầu CNH-HĐH đất nước.
Một ấn phẩm khác đề cập đến vấn đề phát triển nguồn nhân lực lao động tốt
nghiệp đại học của tác giả Đỗ Minh Cương và Nguyễn Thị Doan [29], trong đó đề
cập nhiều đến các vấn đề hệ thống đào tạo đại học hiện nay và các vấn đề về chính
sách và hoạt động đào tạo đại học nhằm phát triển đội ngũ lao động trí thức phục
5
vụ quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và trong bối cảnh hội nhập
kinh tế quốc tế.
Một công trình trực tiếp giải quyết vấn đề việc làm đó là:"Về chính sách giải
quyết việc làm ở Việt nam" của tác giả Nguyễn Hữu Dũng [32]. Nghiên cứu này đi
sâu và phân tích toàn diện các chính sách giải quyết việc làm trong nền kinh tế
trong những năm cuối thế kỷ 20. Tác giả đã trình bày phủ rộng hầu hết các vấn đề
liên quan đến các chính sách giải quyết việc làm và đề xuất các giải pháp giải quyết
việc làm ở nước ta. Tuy nhiên công trình này không đề cập riêng cho việc làm của
nhóm đối tượng lao động qua đào tạo nghề và các vấn đề liên quan đến nhóm đối
tượng này.
Ngoài ra có một số công trình nghiên cứu khác cũng gần gũi với chủ đề việc
làm của lao động qua đào tạo nghề là công trình "Về xu hướng công nhân hóa ở
nước ta hiện nay" của tác giả Nguyễn An Ninh [60] đặt ra và giải quyết các vấn đề
phát triển mang tính giai cấp của đội ngũ công nhân công nghiệp ở nước ta trong
giai đoạn hiện nay. Nghiên cứu có đề cập đến số lượng, chất lượng, đào tạo, và sử
dụng lao động là đội ngũ công nhân kỹ thuật nhưng chủ yếu trên giác độ phát triển
và củng cố đội ngũ để giai cấp công nhân trở nên đội tiền phong vững mạnh.
Có thể khẳng định, cho đến thời điểm này chưa có công trình nào, gồm cả
quốc tế và trong nước, đề cập cụ thể đến vấn đề việc làm của lao động qua đào tạo
nghề. Những nghiên cứu đã có có thể hoặc là tập trung vào giải quyết vấn đề việc
làm nói chung hoặc là giải quyết vấn đề đào tạo nghề. Sự khác biệt của nghiên cứu
này với các nghiên cứu trước đây và đang có hiện nay ở hai đặc điểm chính: (i) tiếp
cận sâu về đặc điểm và cấu trúc việc làm của nhóm đối tượng lao động qua đào tạo
nghề và (ii) nghiên cứu vấn đề việc làm như một kết quả đầu ra của đào tạo nghề.
5. Phạm vi nghiên cứu
- Nội dung: Việc làm của lao động qua đào tạo nghề ở Việt nam.
- Không gian: Trên phạm vi cả nước, có sử dụng kết quả khảo sát thực tiễn tại
một số tỉnh/thành phố, Bộ/ngành, cơ sở đào tạo nghề và doanh nghiệp.
- Thời gian: Thực trạng hiện nay và đề xuất giải pháp cho thời kỳ 2011-2020.
6
6. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng một số phương pháp sau đây:
- Phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng.
- Phương pháp thống kê, hồi cứu tài liệu, kế thừa các kết quả nghiên cứu trong
và ngoài nước về việc làm, đào tạo, thị trường lao động, nguồn nhân lực;
- Phương pháp khái quát hóa, quy nạp, nội suy, so sánh đối chiếu v.v..
- Phương pháp mô hình kinh tế lượng.
7. Đóng góp của luận án
7.1. Về lý luận, luận án:
- trình bày một cách hệ thống lý luận về việc làm của LĐĐTN;
- phân tích, tính toán cơ hội việc làm, khác biệt thu nhập của LĐĐTN và lý
giải mối quan hệ biện chứng giữa việc làm với đào tạo nghề; vận dụng khái
niệm vốn nhân lực phân tích việc làm của LĐĐTN.
7.2. Về thực tiễn, luận án:
- phân tích và chỉ rõ thực trạng việc làm của LĐĐTN, qua đó, việc sử dụng,
đào tạo và giải quyết việc làm cho đội ngũ lao động qua đào tạo nghề hết sức
có ý nghĩa với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- đề xuất những giải pháp mang tính đột phá cho việc đào tạo và giải quyết
việc làm cho LĐĐTN trong giai đoạn 2011-2020.
8. Cấu trúc của Luận án
Luận án gồm các phần: Lời nói đầu; nội dung; kết luận, danh mục các công
trình của tác giả, tài liệu tham khảo, phụ lục. Nội dung luận án có 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận về việc làm của lao động qua đào tạo nghề
- Chương 2: Phân tích thực trạng việc làm của lao động qua đào tạo nghề ở
Việt Nam
- Chương 3: Một số giải pháp chủ yếu phát triển việc làm của lao động qua
đào tạo nghề ở Việt nam
7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VIỆC LÀM
CỦA LAO ĐỘNG QUA ĐÀO TẠO NGHỀ
1.1. Một số khái niệm liên quan đến việc làm của lao động qua đào tạo nghề
1.1.1. Việc làm
a. Khái niệm
Theo khái niệm được đưa ra trong từ điển tiếng Việt "Việc làm là công việc
được giao cho làm và được trả công" [65, tr.1076]. Khái niệm này tương đối rộng,
tuy nhiên còn một thuật ngữ chưa mang tính phổ biến đó là tính chất công việc
"được giao". Người lao động hoàn toàn có thể tự tạo ra việc làm để có thu nhập mà
không cần phải ai giao việc cho.
Theo giáo trình Kinh tế lao động của Trường đại học Kinh tế quốc dân Hà
nội, khái niệm việc làm được hiểu là: "trạng thái phù hợp về mặt số lượng và chất
lượng giữa tư liệu sản xuất với sức lao động, để tạo ra hàng hóa theo nhu cầu của
thị trường". Hiểu rộng ra có thể gọi việc làm là hoạt động có ích (sản xuất, dịch vụ,
nghiên cứu, giáo dục, văn hóa, nghệ thuật quản lý v.v..) tạo ra/có thu nhập [71,
tr.19].
Theo Đại từ điển Kinh tế thị trường: "Việc làm là hành vi của nhân viên, có
năng lực lao động thông qua hình thức nhất định kết hợp với tư liệu sản xuất, để
được thù lao hoặc thu nhập kinh doanh"[71]. Thực chất là người lao động và tư liệu
sản xuất kết hợp. Trong chế độ Xã hội chủ nghĩa, người lao động là chủ tư liệu sản
xuất, việc làm có nghĩa là thực hiện quyền làm chủ, vừa là lao động cho cá nhân
người lao động, cũng lại là lao động xã hội. Khu vực làm việc có thể là các cơ sở
sản xuất kinh doanh Nhà nước, tập thể, tư nhân, có vốn đầu tư nước ngoài v.v…
Phân theo tính chất công việc có thể chia ra nhân công ổn định, nhân công hợp
đồng, tạm thời.
Theo một quan điểm khá tổng quát về việc làm: "…Việc làm là một phạm trù
kinh tế, tồn tại ở tất cả mọi hình thái xã hội, đó là một tập hợp những mối quan hệ
8
kinh tế giữa con người về việc đảm bảo chỗ làm việc và tham gia của họ vào hoạt
động kinh tế…." [26, tr.313]. Việc làm cũng là một phạm trù của thị trường khi
thuê một chỗ làm việc nhất định và chuyển người thất nghiệp thành người lao động.
Theo Bộ Luật lao động nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt nam thì việc
làm được xác định là: "Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập, không bị
pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm".
Từ các quan điểm trên, tác giả thống nhất với khái niệm: Việc làm là hoạt
động lao động của các cá nhân trong xã hội nhằm mục đích tạo ra thu nhập
(được trả công bằng tiền, hiện vật, trao đổi công; tự làm để tạo thu nhập, tạo lợi
ích cho gia đình không hưởng tiền công/lương).
b. Phân loại việc làm
Có nhiều cách nhìn nhận và phân loại việc làm, nhưng cơ bản là đứng trên
góc độ chủ thể hoạt động của việc làm là người lao động. Những hoạt động của
người lao động thể hiện hình thức, tính chất, đặc điểm, yêu cầu và cả xu hướng của
việc làm. Việc làm vì thế có thể phân loại theo chủ thể hoạt động lao động là người
lao động và chủ thể tạo việc làm trong nền kinh tế.
Người có việc làm, theo ILO: "người có việc làm là những người đang làm
một việc gì đó được trả tiền công hoặc những người tham gia vào các hoạt động
mang tính chất tự thỏa mãn lợi ích thay thế thu nhập của gia đình".
Theo Tổng cục thống kê: "Người có việc làm là những người đang làm việc
trong thời gian quan sát và những người trước đó có việc làm nhưng hiện đang nghỉ
tạm thời vì các lý do như ốm đau, đình công, nghỉ hè, lễ, trong thời gian sắp xếp lại
sản xuất, do thời tiết xấu, máy móc hư hỏng…"
Người có việc làm là người đủ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong các ngành
kinh tế quốc dân mà trong tuần lễ liền kề trước thời điểm điều tra (gọi tắt là tuần lễ
tham khảo) có thời gian làm việc không ít hơn mức chuẩn qui định (trường hợp của
Việt nam, mức chuẩn này là 8 tiếng) đối với người được coi là có việc làm. Người
có việc làm có thể chia thành 2 nhóm là người đủ việc làm và người thiếu việc làm.
9
Người đủ việc làm là người có số giờ làm việc trong tuần lễ tham khảo lớn
hơn hoặc bằng 36 giờ; hoặc những người có số giờ làm việc nhỏ hơn 36 giờ nhưng
bằng hoặc lớn hơn giờ chế độ qui định đối với các công việc nặng nhọc, độc hại.
Người thiếu việc làm là người có số giờ làm việc trong tuần lễ tham khảo dưới 36
giờ; hoặc ít hơn giờ theo chế độ qui định đối với các công việc nặng nhọc, độc hại
mà vẫn có nhu cầu làm đủ giờ.
Theo hoạt động của mỗi cá thể người lao động việc làm có thể chia ra thành:
việc làm chính, việc làm phụ. Việc làm chính là công việc mà người thực hiện dành
nhiều thời gian nhất so với công việc khác. Việc làm phụ là công việc mà người
thực hiện dành nhiều thời gian nhất sau công việc chính. Trong trường hợp việc
làm chính và phụ có thời gian bằng nhau thì việc làm nào có thu nhập cao hơn được
xem là việc làm chính. Xét về tính chất việc làm, việc làm có thể mang tính chất ổn
định hay tạm thời. Việc làm ổn định trong một năm đối với người lao động có thời
gian làm việc từ 6 tháng trở lên. Việc làm tạm thời là những công việc dưới 6 tháng.
Việc làm cũng có thể phân loại theo nhiều hình thức như làm công ăn lương,
tự tạo việc làm. Ở nước ta, thống kê lao động có việc làm phân ra thành 5 nhóm:
Việc làm được trả công khu vực công và khu vực tư nhân (người đang làm việc và
người học việc hiện đang làm việc được trả công bằng tiền mặt hoặc hiện vật); việc
làm tự tạo (tự tạo việc làm cho mình); những người làm việc trong gia đình không
được trả công; những người tham gia sản xuất cho tiêu dùng của bản thân.
Các nền kinh tế khác nhau có hình thức tổ chức khác nhau, nhưng thông
thường phân theo các tổ chức thuộc khu vực nhà nước, khu vực doanh nghiệp sản
xuất kinh doanh, khu vực các tổ chức cộng đồng và khu vực có yếu tố nước ngoài.
Theo phân loại của cuộc điều tra thực trạng việc làm và thất nghiệp hàng năm của
Bộ LĐ-TB&XH phân ra, việc làm trong [18, tr.27]:
+ Khu vực hành chính: cơ quan tổ chức hành chính nhà nước (các cấp
Bộ/Ban/Ngành ở trung ương, tỉnh, huyện, xã…),
+ Khu vực sự nghiệp: các đơn vị sự nghiệp (Giáo dục, y tế, văn hóa, thông tin,
truyền hình, thể thao v.v..) gồm cả công lập, bán công, tư thục và dân lập;
10
+ Khu vực cộng đồng: các cơ quan đảng, đoàn, tổ chức chính trị, các hiệp hội;
+ Khu vực sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp trong nước: các doanh nghiệp
Nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh
và doanh nghiệp tư nhân;
+ Khu vực hợp tác xã: hiện đang hoạt động theo luật hợp tác xã;
+ Khu vực kinh tế hộ: kinh tế cá thể, hộ gia đình;
+ Khu vực có yếu tố nước ngoài: việc làm trong các doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài và trong các cơ quan, tổ chức và cá nhân nước ngoài khác.
1.1.2. Lao động qua đào tạo nghề
a. Đào tạo nghề
Khái niệm đào tạo thường đi liền với giáo dục và thành một cặp đôi là giáo
dục - đào tạo. Giáo dục được hiểu là các hoạt động và tác động hướng vào sự phát
triển và rèn luyện năng lực (bao gồm tri thức, kỹ năng, kỹ xảo...) và phẩm chất
(niềm tin, tư cách, đạo đức...) ở con người để có thể phát triển nhân cách đầy đủ
nhất và trở nên có giá trị tích cực đối với xã hội.
Khái niệm đào tạo, theo từ điển tiếng Việt được hiểu là việc: "làm cho trở
thành người có năng lực theo những tiêu chuẩn nhất định" [65,tr.279]. Cắt nghĩa
động từ đào tạo này là hoạt động trang bị cho người lao động năng lực (kiến thức,
kỹ năng, thái độ) theo một tiêu chuẩn định trước để cho người lao động có năng lực
và trở nên hữu ích trong một số công việc hoặc hoạt động xã hội.
Từ góc nhìn của các nhà giáo dục và đào tạo Việt nam, khái niệm tương đối
đầy đủ là: "Đào tạo là quá trình hoạt động có mục đích, có tổ chức nhằm đạt được
các kiến thức, kỹ năng và kỹ xảo trong lý thuyết và thực tiễn, tạo ra năng lực để
thực hiện thành công một hoạt động xã hội (nghề nghiệp) cần thiết [39].
Theo giáo trình Kinh tế lao động của Trường đại học Kinh tế quốc dân Hà
nội, khái niệm đào tạo là: "Quá trình trang bị kiến thức nhất định về chuyên môn,
nghiệp vụ cho người lao động để họ có thể đảm nhận được một công việc nhất
định" [83, tr.54]. Theo một khái niệm khác về đào tạo lao động kỹ thuật: "là quá
trình hoạt động đào tạo có mục đích, có tổ chức và có kế hoạch trong hệ thống đào
11
tạo kỹ thuật thực hành nhằm hình thành và phát triển kiến thức, kỹ năng, thái độ
cho mỗi cá nhân người lao động ở các cấp trình độ để có thể hành nghề, làm công
việc phức tạp với năng suất và hiệu quả cao, đồng thời có năng lực thích ứng với sự
biến đổi nhanh chóng của kỹ thuật và công nghệ trong thực tế" [30, tr.29].
Theo ILO: "Những hoạt động nhằm cung cấp kiến thức, kỹ năng và thái độ
cần có cho sự thực hiện có năng suất và hiệu quả trong pham vi một nghề hoặc
nhóm nghề. Nó bao gồm đào tạo ban đầu, đào tạo lại, đào tạo nâng cao, cập nhật và
đào tạo liên quan đến nghề nghiệp chuyên sâu" [94, tr.174].
Luật Dạy nghề đưa ra khái niệm như sau: "Dạy nghề là hoạt động dạy và học
nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp cần thiết cho người học
nghề để có thể tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm sau khi hoàn thành khóa
học." [70, tr.9]. Luật cũng qui định có ba cấp trình độ đào tạo là sơ cấp nghề, trung
cấp nghề, cao đẳng nghề và về hình thức của hoạt động dạy nghề bao gồm cả dạy
nghề chính qui và dạy nghề thường xuyên.
Theo tác giả thì khái niệm đào tạo nghề như sau: "Đào tạo nghề là hoạt động
trang bị năng lực (tri thức, kỹ năng và thái độ) hành nghề cho người lao động để
người lao động có thể hành nghề hoặc tự tạo việc làm".
b. Lao động qua đào tạo nghề
Theo khái niệm đào tạo nghề nói trên thì một lao động được tính là lao động
đã qua đào tạo nghề khi lao động đó đã hoàn thành/trải qua ít nhất một hoạt động
đào tạo nghề. Khi xem xét việc lao động đã từng được đào tạo (đã từng trải qua),
thì không xem xét về mặt năng lực thực tế, không xem nặng vấn đề văn bằng chứng
chỉ, mà chủ yếu trên góc độ người đó đã từng được/tham gia học nghề. Thông
thường lao động qua đào tạo nghề là người đã trải qua (được học) lớp/khóa/chương
trình đào tạo nghề với nghề thuộc danh mục nghề đào tạo được ban hành.
Để đảm bảo đạt được kiến thức và kỹ năng nghề cần thiết cần qui định thời
gian tối thiếu đối với một khóa đào tạo nghề để được coi là đã qua đào tạo nghề.
Qua ý kiến của các chuyên gia và các nhà quản lý thì thời gian để có thể truyền đạt
kiến thức và kỹ năng nghề đơn giản phải cần tối thiểu một tháng. Kết thúc khóa
12
học, người học được thi hoặc kiểm tra đánh giá về kiến thức và kỹ năng nghề và
được cấp văn bằng, chứng chỉ nghề theo qui định.
Thông thường có ba nhóm cung cấp lao động qua đào tạo nghề đó là đào tạo
chính thức trong các trường thuộc hệ thống giáo dục kỹ thuật và dạy nghề, đào tạo
nghề nghiệp trước khi làm việc và đào tạo tại chức (tại chỗ) cho công nhân [128,
tr.15]. Việc xác định các khóa học, chương trình đào tạo không chỉ loại hình đào
tạo chính thức, mà tất cả các loại hình đào tạo khác nhau (Luật dạy nghề công nhận
các cơ sở dạy nghề bao gồm cả các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh). Lao
động qua đào tạo nghề được cung cấp từ nhiều nguồn khác nhau và được hiểu rộng
là đối tượng đã được trải qua học nghề dưới nhiều hình thức khác nhau.
Qua các tiêu chí trên, có thể đưa ra khái niệm: "Lao động qua đào tạo nghề
là những người đã hoàn thành ít nhất một chương trình đào tạo của một nghề
tại một cơ sở dạy nghề (gồm cả các cơ sở sản xuất kinh doanh) và được cấp văn
bằng chứng chỉ nghề hoặc được thừa nhận theo các qui định hiện hành".
Như vậy, lao động qua đào tạo nghề hiện không chỉ có nhóm CNKT được đào
tạo chính qui từ trường, lớp dạy nghề (quan niệm cũ), mà bao gồm lao động được
đào tạo ở cả ba cấp trình độ (theo Luật Dạy nghề) trong nhà trường và được dạy
nghề bởi doanh nghiệp, các cơ sở dạy nghề ngoài nhà trường hoặc tự học, được
truyền nghề và được thừa nhận bởi các qui định hiện hành.
Nhóm lao động chưa qua đào tạo được hiểu là những người chưa có bất kỳ
một loại văn bằng hoặc chứng chỉ nghề nào và thực tế cũng không đảm nhận một
công việc nào đòi hỏi chuyên môn/kỹ thuật từ 3 năm trở lên hoặc công việc đòi hỏi
chuyên môn/kỹ thuật nhưng kinh nghiệm chưa đủ 3 năm [18, tr.21].
Nhóm CNKT không bằng thường là đối tượng khó xác định. Theo thống kê
lao động việc làm hàng năm của Bộ LĐ-TB&XH thì CNKT không bằng, chứng chỉ
là những người tuy chưa qua một trường lớp đào tạo nào nhưng do tự học, do được
truyền nghề hoặc vừa làm vừa học nên họ đã có được kỹ năng, tay nghề tương
đương với bậc 1 của CNKT có bằng cùng nghề và thực tế đã làm công việc đang
làm từ 3 năm trở lên [18, tr.21].
13
Theo cách phân loại trước đây, xuất phát từ nguồn gốc đào tạo, lao động được
đào tạo ra gồm hai nhóm là công nhân kỹ thuật và cán bộ chuyên môn. Công nhân
kỹ thuật là người được đào tạo và được cấp bằng, chứng chỉ của bậc giáo dục
nghề nghiệp trong hệ thống giáo dục để có năng lực thực hành, thực hiện các
công việc phức tạp do sản xuất yêu cầu. Những người được đào tạo ở cấp trình độ
khác như trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học và sau đại học thì xếp vào
nhóm `cán bộ chuyên môn’. Cán bộ chuyên môn là những người được đào tạo ở
các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, có trình độ học vấn cao,
có khả năng lãnh đạo, quản lý, chỉ đạo một chuyên môn, nghiệp vụ nào đó.
Khi thống kê lao động, việc làm thường phân ra làm hai nhóm lớn là lao động
chưa qua đào tạo (không có CMKT) và lao động đã qua đào tạo (đồng nghĩa với có
CMKT). Lao động có chuyên môn kỹ thuật là cách gọi chung trên thị trường lao
động đối với lao động đã qua đào tạo bao gồm lao động qua đào tạo nghề và lao
động là cán bộ chuyên môn. Lao động có chuyên môn kỹ thuật không trùng với cán
bộ chuyên môn mà rộng hơn và lao động qua đào tạo nghề không trùng với công
nhân kỹ thuật mà rộng hơn.
Lao động phổ thông
Trung cấp nghề
Cao đẳng nghề Cao đẳng
THCN
L
Ự
C
L
Ư
Ợ
N
G
L
A
O
Đ
Ộ
N
G
LAO
ĐỘNG
có
CMKT
LĐ
qua
Đào
tạo
nghề Sơ cấp nghề
Đại học & trên đại học
Nghề
không có
tính chất
kỹ thuật
Nghề có
tính chất
kỹ thuật
Sơ đồ 1.1: Minh họa phạm vi lao động qua đào tạo nghề
14
Thống kê lao động qua đào tạo nghề hiện nay với nhiều quốc gia có những
cách thức khác nhau. Đa phần các nước gọi là công nhân kỹ thuật/công nhân lành
nghề để chỉ các đối tượng làm công việc của người công nhân và có các trình độ
đào tạo nghề khác nhau. Kỹ thuật viên chủ yếu chỉ đối tượng lao động là công nhân
kỹ thuật được đào tạo nghề trình độ cao (tương tự cao đẳng nghề). Ở nước ta, lao
động qua đào tạo nghề được thống kê cho đến năm 2007 được hiểu là những lao
động thuộc lực lượng lao động có trình độ CNKT không bằng, chứng chỉ; CNKT
có chứng chỉ và sơ cấp, CNKT có bằng, chứng chỉ. Hiện tại, số liệu và những tính
toán đang dựa trên cách phân loại này mà chưa thay đổi dựa trên phân loại cấp trình
độ đào tạo trong Luật Dạy nghề.
1.2. Kết cấu việc làm và cung-cầu việc làm của lao động qua đào tạo nghề
1.2.1. Việc làm trong các lý thuyết kinh tế
Khi xem xét quan hệ cung - cầu và sự biến động của lực lượng lao động nói
chung và lao động qua đào tạo nghề nói riêng có thể vận dụng các mô hình việc
làm, cung cầu, dịch chuyển lao động, gia tăng và biến động việc làm. Các mô hình
kinh tế có liên quan đến việc làm, thất nghiệp nổi tiếng như trường phái cổ điển (A.
Smith và D. Ricardo), lý thuyết việc làm và thất nghiệp của C. Mác, lý thuyết việc
làm của J.M. Keynes mà ngày nay còn ảnh hưởng đến các chính sách việc làm của
các nền kinh tế.
A. Smith cho rằng trong điều kiện thị trường cạnh tranh tự do, bàn tay vô hình
đảm bảo quân bình và hoàn hảo trong xã hội, đạt được phúc lợi cá nhân và phúc lợi
chung. Ricardo và A. Marshall cũng cùng quan điểm khi cho rằng nền kinh tế thị
trường là nền kinh tế tự điều tiết và không thấy sự cần thiết điều tiết của Nhà nước
[26, tr.256]. Mô hình cổ điển có 4 hướng để làm tăng việc làm, đó là (i) cải tiến tổ
chức, dự báo tốt để tránh thất nghiệp cơ cấu; (ii) hạ thấp độ phi thỏa dụng biên của
lao động qua tiền lương thực tế; (iii) tăng thêm năng suất biên vật chất của lao động
trong các ngành sản xuất hàng hóa cho người ăn lương; và (iv) tăng giá hàng hóa
không giành cho người ăn lương so với giá các hàng hóa khác [51, tr.43].
15
Việc làm chiếm vị trí quan trọng và đầy ý nghĩa trong tác phẩm "Tư bản" của
Các Mác. C.Mác dựa trên các lý luận căn bản về giá trị thặng dư, qui luật dân số và
đặc biệt là cấu trúc hữu cơ của vốn. Công thức cơ bản về giá trị hàng hóa (c + v +
m), được cấu thành từ tư bản cố định (c), tư bản lưu động (v) và giá trị thặng dư
(m). C.Mác cho rằng cấu trúc hữu cơ của tư bản thay đổi trong quá trình tích lũy là
nguyên nhân căn bản của gia tăng hay giảm dần việc làm tương đối (tư bản lưu
động), so với tư bản cố định. Trong quá trình làm thay đổi cấu trúc hữu cơ của tư
bản, người công nhân vô hình dung đang làm giảm việc làm và đang tự biến mình
thành nhân khẩu thừa tương đối.
Jonh Meynard Keynes được biết đến như một nhà kinh tế lỗi lạc với công
trình nổi tiếng là Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ, xuất bản năm
1936 [51]. Keynes cho rằng tăng đầu tư làm tăng tổng cầu tăng và việc làm và Nhà
nước có vai trò chủ động can thiệp đến tổng cầu, sản lượng và việc làm của nền
kinh tế. Đồng thời khuynh hướng tiêu dùng biên và lãi suất cũng ảnh hưởng tới tập
hợp cầu và xác định mức việc làm. Dẫn đến, để kích thích kinh tế, thứ nhất, giảm
lãi suất cho phép tăng tín dụng; thứ hai, xã hội hóa đầu tư (đầu tư rộng và đúng);
thứ ba, những biện pháp không ngừng tăng tiêu dùng (kích cầu) [26, tr.273].
Mô hình Harrod - Domar xây dựng mối quan hệ giữa tăng trưởng sản lượng,
đầu tư và việc làm. Giữa gia tăng việc làm và sản lượng có mối quan hệ được thể
hiện bằng hệ số lao động-sản lượng, sự gia tăng việc làm về bản chất là một hàm số
của các mức khả năng tăng sản xuất phụ thuộc vào vốn đầu tư. Công thức phổ biến
của mô hình này là g=s/k, trong đó g là tỷ lệ tăng trưởng sản lượng, k tỷ số gia tăng
vốn/sản lượng, k được gọi là hệ số ICOR (hệ số gia tăng vốn đầu ra) [66, tr.83].
Về tăng trưởng và sự đóng góp của lao động, trường phái tân cổ điển (đại diện
chính là Robert Solow) đã lấy hàm sản xuất của Cobb-Gouglas làm cơ sở (hàm sản
xuất giản đơn: Y= KαL1-α, trong đó Y, K và L lần lượt là sản lượng, vốn và lao
động). A. Samuelson cũng thống nhất với các nhà kinh tế tân cổ điển khi cho rằng
tổng mức cung của nền kinh tế được xác định bởi các yếu tố đầu vào của sản xuất
là vốn, lao động, tài nguyên và công nghệ.
16
Mô hình nổi tiếng nghiên cứu sự dịch chuyển việc làm từ khu vực nông thôn
nghèo, lạc hậu (khu vực truyền thống) sang khu vực thành thị, công nghiệp (khu
vực hiện đại) là của Arthur Lewis (sau này được Fei và Ranis hoàn thiện). Mô hình
này giả định nền kinh tế có hai khu vực chính là nông nghiệp với đặc trưng lạc hậu
và dư thừa lao động; và công nghiệp đại diện cho khu vực hiện đại đang thu hút lao
động dịch chuyển từ nông nghiệp sang. Nhờ có quá trình dịch chuyển lao động này
việc làm ở nông thôn giảm đi, việc làm trong ngành công nghiệp hiện đại tăng lên.
Mô hình của H.T. Oshima coi trọng thúc đẩy việc làm ở cả hai khu vực. Quá
trình phát triển chia thành ba giai đoạn phù hợp với các nước đang phát triển là giai
đoạn bắt đầu, giai đoạn hướng tới việc làm đầy đủ và giai đoạn phát triển kinh tế
chiều sâu. Xét về dịch chuyển lao động từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công
nghiệp và dịch vụ, hai mô hình cùng mang đến những chính sách phát triển kinh tế
dựa căn bản trên hai khu vực. Xuất phát từ mô hình Lewis với khu vực công nghiệp
là 'đầu kéo' hút lao động từ nông nghiệp sang, đến mô hình Oshima với giai đoạn
đầu lấy nông nghiệp là 'đầu đẩy' làm cho lao động dư thừa ở khu vực này dẫn đến
sự dịch chuyển sang khu vực công nghiệp, khu vực dịch vụ.
Kinh tế học hiện đại sau này xuất hiện khái niệm mới về nguồn vốn nhân lực.
Vốn nhân lực là toàn bộ trình độ chuyên môn mà một người lao động tích lũy được.
Nó được đánh giá cao vì có tiềm năng đem lại thu nhập trong tương lai [31,
tr.282]. Cung lao động không chỉ đơn thuần là việc người lao động có mặt trên thị
trường lao động mà còn bao gồm các kỹ năng mà họ có. Những kỹ năng này người
lao động thu được từ khả năng bẩm sinh, những gì người lao động được đào tạo và
kinh nghiệm họ đã trải qua.
Vốn nhân lực giả thiết rằng các mức chênh lệch của tiền lương phản ảnh sự
chênh lệch về năng suất lao động. Người có năng suất lao động cao hơn sẽ có được
thu nhập và tiền lương cao hơn. Và một lý luận cơ bản là giáo dục, đào tạo tạo ra
năng suất lao động cao hơn. Thu nhập và tiền lương phụ thuộc vào hai nhân tố
chính là tuổi tác và trình độ đào tạo. Những người có trình độ cao hơn có mức thu
nhập cao hơn và mức chênh lệch này càng lớn cùng với tuổi tác và kinh nghiệm.
17
1.2.2. Kết cấu việc làm và việc làm của lao động qua đào tạo nghề
Việc làm là phạm trù chỉ sự phù hợp giữa sức lao động với tư liệu sản xuất
bao gồm cả về số lượng, chất lượng và các đặc điểm. Một đơn vị sức lao động có
thể vận hành/thực hiện bao nhiêu đơn vị tư liệu sản xuất hay còn được phản ảnh
bằng quan hệ hữu cơ C/V. Quan hệ hữu cơ giữa tư bản bất biến và tư bản khả biến
dưới sự tác động của tiến bộ khoa học kỹ thuật dẫn đến sự thay đổi trạng thái và
mức độ phù hợp giữa trang bị vốn, công nghệ, máy móc thiết bị cho một chỗ làm
việc, ngoài ra còn phụ thuộc vào việc tổ chức lao động.
Theo quan điểm và giả thuyết của Keynes khi tính số lượng việc làm: việc
làm tương đương với đơn vị việc làm được chia nhỏ bằng các đơn vị công việc của
công việc giản đơn (không có kỹ năng) và tiền lương/tiền công xác định bằng đơn
vị tiền công cho một đơn vị việc làm giản đơn (w). Khi đó công thức tính tổng tiền
lương sẽ là: W= N x w, trong đó N là khối lượng việc làm. Giả thuyết như vậy cho
phép đo lường khối lượng việc làm mà không quan tâm đến vấn đề chất lượng lao
động trình độ, kỹ năng kỹ thuật của lao động, mức độ phức tạp, trang bị vốn…..
Việc làm = Chỗ làm việc (công việc) + sức lao động (lao động)
Chỗ làm việc = vốn đầu tư + công nghệ + tổ chức sản xuất + điều kiện khác
Sức lao động = sức khỏe thể lực + năng lực (kiến thức, kỹ năng, thái độ...)
Từ góc độ đầu tư Từ góc độ lao động
Chỗ làm việc/công việc Người lao động/Sức LĐ
Sơ đồ 1.2: Kết cấu một việc làm
1. Người lao động
2. Sức khỏe
3. Tri thức/kỹ
năng/thái độ
4. Tiền lương
5. Thời gian
6. Điều kiện lao
động
1. Vốn đầu tư
2. Nhà xưởng
3. Máy móc
4. Công nghệ
5. Tổ chức SX
6. Môi trường,
điều kiện làm
việc
1
việc làm
18
Thống kê việc làm nếu tính theo chỗ làm việc, trong trường hợp một chỗ làm
việc có 2 lao động trở lên làm thay ca. Nếu thống kê theo người lao động có việc
làm có thể dẫn đến thiếu việc làm nếu một lao động làm từ 2 công việc trở lên (tính
cả số việc làm bán thời gian). Tuy nhiên, các thống kê đều tính đủ theo người lao
động dù họ làm 2 công việc cùng một lúc vì chủ yếu thống kê theo lao động chứ
không thống kê theo chỗ làm việc. Do đó, tính số lượng việc làm theo lao động
đảm bảo được các yêu cầu (i) chính xác hơn khi so với tính theo chỗ làm việc, (ii)
phù hợp hơn vì nghiên cứu chủ yếu về nhóm đối tượng có kỹ năng cụ thể và (iii)
thuận lợi hơn vì đo theo người lao động với các đặc tính kèm theo không phức tạp
như tính các chỗ làm việc.
Chất lượng việc làm dưới giác độ xã hội, yếu tố quan trọng là việc toàn dụng
nhân công, mọi người đều có việc làm và có được việc làm phù hợp với luật pháp,
việc làm nhân văn, việc làm tử tế v.v.... Chất lượng việc làm dưới góc độ người lao
động gồm các yếu tố cơ bản là có thu nhập/tiền lương/tiền công cao (lợi ích từ việc
làm lớn); các chế độ bảo đảm việc làm và linh hoạt việc làm (an ninh việc làm); sự
phù hợp với năng lực và sở thích cá nhân; và có các điều kiện phát triển (đào tạo,
thăng tiến nghề nghiệp).
Cụ thể với một chỗ việc làm, vốn đầu tư thấp đòi hỏi người lao động phải có
sức khỏe, trình độ CMKT phù hợp. Vốn đầu tư lớn, công nghệ cao, máy móc thiết
bị hiện đại đòi hỏi người lao động phải có CMKT cao tương ứng. Trong ngắn hạn
sự phù hợp là tương đối, có thể có những điểm chưa phù hợp hoặc từ phía chỗ việc
làm hoặc từ phía người lao động. Sự phù hợp là trạng thái cân bằng dài hạn giữa
yêu cầu của chỗ làm việc và năng lực người lao động.
Trong dài hạn, chi phí tiền lương cho một chỗ làm việc theo lợi ích của người
sử dụng lao động thì chỉ trả đúng theo yêu cầu CMKT và sức lao động cần thiết
tương ứng và không trả cao hơn để đảm bảo thu được lợi ích cho đầu tư lớn nhất.
Nếu lao động không đáp ứng được yêu cầu CMKT của vị trí việc làm, người chủ sẽ
sớm sa thải để tìm người lao động khác phù hợp với chi phí tiền công, tiền lương
bỏ ra cho chỗ làm việc đó. Ngược lại, nếu người lao động có CMKT cao hơn yêu
cầu công việc và tiền lương chi trả cho chỗ làm việc (trong một thị trường lao động
19
linh hoạt), anh ta sẽ sớm rời bỏ chỗ làm đó để tìm việc làm khác đòi hỏi CMKT cao
hơn để có tiền lương và thu nhập cao hơn.
Điểm căn bản là trạng thái phù hợp trong kết hợp xảy ra khi người tạo ra việc
làm kết hợp được tối ưu để sử dụng triệt để khả năng của người lao động với các
điều kiện trang bị sẵn có/đã đầu tư với mức chi phí lao động thấp nhất. Nếu người
lao động thừa năng lực thì việc làm không/chưa hiệu quả hoặc chưa tối ưu đối với
người lao động, nhưng người chủ vẫn đạt được hiệu quả tối ưu nếu chi phí tiền
lương và các điều kiện chi trả khác không phải tăng lên.
Như vậy về dài hạn, việc làm của một nhóm lao động có kỹ năng nhất định có
thể đo bằng số lượng lao động có kỹ năng đó hiện đang có việc làm. Việc làm của
lao động qua đào tạo nghề là việc làm của lao động có việc làm thuộc nhóm đối
tượng đã được đào tạo nghề. Điểm khác biệt là kỹ năng của người lao động thuộc
về nhóm đối tượng đã được đào tạo nghề.
Các nghiên cứu nói chung về lao động và việc làm đều xuất phát/tiếp cận từ
góc độ lao động. Nghiên cứu việc làm chủ yếu là trên cơ sở nghiên cứu các đặc
điểm làm việc của người lao động (số lượng việc làm, cơ cấu, qui mô, ngành, nghề,
lĩnh vực, kỹ năng, tiền lương, thu nhập, điều kiện lao động,...). Nghiên cứu việc
làm của lao động qua đào tạo nghề vì thế chủ yêú gắn với khía cạnh kỹ năng và các
điều kiện làm việc của người lao động, các nội dung chủ yếu là:
+ Số lượng/cơ cấu theo cấp trình độ, theo ngành nghề, vùng, khu vực sở hữu
+ Cơ hội việc làm và việc làm phù hợp.
+ Chính sách và các vấn đề trong sử dụng lao động qua đào tạo nghề.
+ Chất lượng việc làm: tiền lương, thu nhập, điều kiện làm việc,
+ Đào tạo, phát triển lực lượng lao động qua đào tạo nghề;
1.2.3. Cung – cầu việc làm của lao động qua đào tạo nghề
Về bản chất, cung cầu việc làm của lao động qua đào tạo nghề biểu hiện trên
thị trường lao động là cung cầu kỹ năng. Sự vận động của các yếu tố cung và cầu
kỹ năng cũng phải tuân theo qui luật vận động chung của thị trường.
20
a) Cung việc làm hay cầu lao động kỹ năng và các nhân tố ảnh hưởng
Trên giác độ đầu tư sản xuất kinh doanh (tạo chỗ làm việc): đầu tư và tổ chức
tạo ra các vị trí, chỗ làm việc. Biểu hiện là số vốn/máymóc thiết bị và các điều kiện
cho một chỗ làm việc và các điều kiện khác như môi trường, tổ chức, không gian
và các yếu tố điều kiện xã hội (hội, công đoàn v.v..). Trong đó yếu tố vốn đầu tư để
tạo nên một chỗ làm việc (công việc) thường được quan tâm và làm cơ sở tính toán.
Khi đó các biểu hiện, thông số để xem xét về việc làm sẽ là: (i) lượng vốn đầu tư
tạo 1 chỗ việc làm (suất đầu tư); (ii) các điều kiện tổ chức sản xuất kinh doanh; (iii)
điều kiện cần thiết để có thể thuê lao động.
Điều kiện quan trọng là các yếu tố tạo nên sự kích thích đầu tư tạo chỗ làm
việc đó là lợi ích của người sử dụng lao động (chủ doanh nghiệp). Việc làm tạo ra
trên cơ sở theo đuổi mục tiêu lợi nhuận của người chủ thu lại được từ đầu tư và sự
kết hợp với lao động (không tính toán các yếu tố thương mại để bán sản phẩm).
Quyết định tạo thêm một chỗ việc làm của doanh nghiệp khi sự kết hợp tối ưu
giữa C và V và khi chi phí biên cho sức lao động bằng doanh thu biên của sản
phẩm đồng thời khi đó tiền công bằng sản phẩm giá trị biên của lao động.
Tiền công
Tiền công
Wo E
NSLĐ biên
L* Số lượng nhân công
Biểu đồ 1.1: Quyết định số lượng việc làm của doanh nghiệp
Qui luật năng suất lao động biên giảm dần làm đường năng suất lao động
giảm dần. Phía trái L*, việc thuê thêm nhân công có lợi cho hãng vì tăng doanh thu
cao hơn là chi phí cho lao động. Phía phải L*, việc thuê thêm nhân công sẽ làm
tăng chi phí hơn là tăng doanh thu. L* là mức thuê nhân công tối ưu.
21
Về cơ bản tạo chỗ việc làm hay cầu kỹ năng trên thị trường lao động sẽ do
yếu tố kinh tế quyết định. Các chủ thể sản xuất là các doanh nghiệp, người sử dụng
lao động sẽ là người có nhu cầu thuê/mua các kỹ năng của người lao động có kỹ
năng. Nhu cầu phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, nhưng cơ bản là phụ thuộc
tăng trưởng kinh tế và đầu tư sản xuất và đặc điểm công nghệ sản xuất.
Các nhân tố ảnh hưởng đến tập hợp cung việc làm như: tăng trưởng và phát
triển kinh tế, tăng đầu tư, thay đổi cấu trúc sản xuất trong nền kinh tế, thay đổi cấu
trúc ngành, dịch chuyển lao động, thay đổi công nghệ, các yếu tố chi phí sản xuất,
tư liệu sản xuất hay tiền lương thay đổi. Tập hợp cung việc làm có thể được biểu
diễn bằng hàm sau: Y = f (C, V, X, ....) trong đó các nhân tố cơ bản là vốn đầu tư
và công nghệ quyết định cả về số lượng và sự kết hợp giữa vốn và lao động đồng
thời với các yếu tố tổng hợp khác tạo nên số lượng và kết cấu việc làm.
c) Cầu việc làm hay cung lao động có kỹ năng và các nhân tố ảnh hưởng
Xuất phát từ góc độ người lao động, nhu cầu làm việc của các cá nhân thông
thường xuất phát từ các nhu cầu: tạo và có thu nhập, phù hợp về sức khỏe, đặc
điểm và năng lực cá nhân (tri thức, kiến thức, kỹ năng, thái độ); điều kiện lao động
(môi trường/luật pháp, quan hệ lao động và tổ chức lao động).
Các nhân tố tác động đến tập hợp cầu việc làm gồm: Số lượng lao động (L),
chất lượng hay năng lực lao động T (kiến thức, kỹ năng, sức khỏe...), tiền lương/thu
nhập (S) và các điều kiện làm việc khác (O) (điều kiện học tập, thăng tiến, môi
trường làm việc, tổ chức xã hội và các quyền của người lao động). Khi đó tập hợp
cầu việc làm có thể được biểu diễn dưới dạng hàm sau: Y = f (L, T, S, O....).
Cầu việc làm của lao động qua đào tạo nghề về cơ bản không có sự khác biệt
vì cũng là cầu việc làm, nhưng chỉ khác nhóm đối tượng lao động có CMKT cụ thể
là đã qua đào tạo nghề. Trong dài hạn, cầu việc làm sẽ tương ứng với lao động có
việc làm với các đặc điểm việc làm hiện tại của lao động qua đào tạo nghề tương
đương cung lao động qua đào tạo nghề (không tính thất nghiệp).
Về cơ bản cung lao động qua đào tạo nghề do ba bộ phận chủ yếu trong nền
kinh tế (gồm cả hệ thống giáo dục và khu vực sản xuất kinh doanh) đảm nhận, đó là
22
đào tạo chính thức trong các trường thuộc hệ thống giáo dục kỹ thuật và dạy nghề,
đào tạo nghề nghiệp trước khi làm việc thường là ngoài nhà trường; và đào tạo tại
chức (tại chỗ) cho người lao động.
Cả ba bộ phận của hệ thống cung cấp có mục tiêu: (i) thu hút, hứng và đỡ
những học sinh không học được lên hơn nữa và học sinh bỏ học không bị 'đào thải'
ra khỏi hệ thống giáo dục, đào tạo; (ii) giữ cho người lao động tránh khỏi bị lạc
hậu, không bị `bật khỏi’ thị trường lao động do thiếu kỹ năng; và (iii) cung cấp cho
người sử dụng những công nhân và kỹ thuật viên có tay nghề, kỹ thuật. Ngoài ra,
còn có các mục tiêu khác như đảm bảo cho học sinh, sinh viên và người học những
kỹ năng nghề nghiệp phổ biến làm hành trang cho việc học tập suốt đời [128, tr.15].
Các mục tiêu nói trên, nhìn chung là để đảm bảo cung cấp kỹ năng cho thị trường
lao động. Nhưng không phải bao giờ cũng đảm bảo cung ứng đầy đủ, phù hợp (số
lượng, cơ cấu, chất lượng) với nhu cầu thị trường.
Trên thị trường lao động với một lượng lao động hiện hữu có cùng một kỹ
năng hoặc tập hợp một lượng lao động với các kỹ năng khác nhau sẽ tạo nên một
lượng cung. Tương ứng với nó là tập hợp lượng cầu kỹ năng từ khu vực sản xuất và
nền kinh tế. Trong ngắn hạn và trung hạn, sự vận động của cung cầu phụ thuộc chủ
yếu vào mức tiền lương, tiền công trả cho người lao động ở mỗi mức kỹ năng khác
nhau. Khi có sự gia tăng về cầu lao động ở một mức kỹ năng cụ thể, trong khi
lượng cung dài hạn trên thị trường chưa có sự thay đổi, tiền lương sẽ là biến điều
chỉnh quan hệ tương quan cung cầu này. Về dài hạn, khoảng cách và sự khác biệt
về tiền lương sẽ dẫn đến tăng lượng cung cho mức và loại kỹ năng mà thị trường
đang có nhu cầu cao.
Trong mối tương quan với sản xuất của nền kinh tế, khi năng lực sản xuất
được mở rộng, những nhu cầu lao động được mở rộng theo hướng làm dịch chuyển
đường cầu từ D1 sang D2 thay vì thay đổi tiền lương, tiền công đối với điều chỉnh
tạm thời trên thị trường lao động.
Trong tương quan trên thị trường lao động với phân khúc việc làm có kỹ năng
thì đào tạo là yếu tố cơ bản chủ yếu làm tăng cung lao động có kỹ năng ở một mức
23
kỹ năng và loại kỹ năng cụ thể. Tuy nhiên đào tạo là yếu tố cung mang tính dài hạn,
không phản ứng tức thì trên thị trường lao động mà phải có quá trình và thời gian
để đào tạo, thời gian để người lao động trau dồi kỹ năng, thời gian để chuyển đổi
nghề nghiệp, công việc và đào tạo lại v.v.....
Tiền lương
D1 D2 S1 S2
W2
W1
0 L1 L2 Lao động
Biểu đồ 1.2: Cung cầu kỹ năng trên thị trường lao động
Trong dài hạn khi đào tạo tăng nhanh mức cung lao động có kỹ năng ra thị
trường sẽ làm dịch chuyển đường cung từ S1 sang S2. Khi cân đối cung cầu đảm
bảo và đào tạo đáp ứng tốt nhu cầu nền sản xuất thì về cơ bản tiền lương, tiền công
(thực tế) không có sự thay đổi lớn.
Về cơ bản có thể phân tích mối quan hệ đào tạo, việc làm trên thị trường lao
động thông qua phân tích quan hệ cung cầu lao động có kỹ năng. Xem xét vai trò
chủ động của hệ thống đào tạo nghề trong cung ứng lao động có kỹ năng, một số
nhân tố chủ yếu tác động đến cung lao động qua đào tạo nghề như: (i) Đầu vào là
học sinh với trình độ khác nhau (Chất lượng dân số, kết quả giáo dục và phân luồng
đào tạo); và (ii) Năng lực cung đào tạo của hệ thống đào tạo nghề.
Trong trường hợp một số nền kinh tế chuyển đổi (trường hợp của Cộng hòa
Séc), có một hệ thống đào tạo với tỷ lệ lớn học sinh trung học (60-85%) vào luồng
đào tạo nghề. Cung lao động qua đào tạo nghề quá nhiều tạo sức ép lớn về giải
quyết việc làm cho người lao động. Các nền kinh tế này sẽ buộc phải cải cách
thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô và cải cách thị trường lao động để gia tăng
24
sức hút, tạo việc trong khu vực tư nhân nhằm điều chỉnh cơ cấu lao động. Sau đó đa
dạng hóa chương trình đào tạo, giúp người lao động thay đổi kỹ năng cho phù hợp.
Khi nền kinh tế có tốc độ tăng lực lượng lao động lớn hơn nhiều so với tốc độ
gia tăng việc làm, áp lực tạo việc làm gia tăng, áp lực cạnh tranh tìm kiếm việc làm
cũng tăng, dẫn tới xu hướng gia tăng thất nghiệp. Một số quốc gia đã phải điều
chỉnh thông qua chính sách giáo dục, đào tạo bằng cách tăng thời gian học tập
THCS, THPT, tăng lượng học sinh học nghề thay vì đi làm ngay bằng cách giảm
chi phí giáo dục, và tránh cho học sinh bỏ học. Thời gian đi học kéo dài hơn đối với
toàn bộ lực lượng lao động sẽ giảm bớt số lượng học sinh bỏ học, nghỉ học và tham
gia lao động sớm, làm giảm áp lực việc làm.
Tăng thời lượng đào tạo, kéo dài thời gian học tập để giảm áp lực cung lao
động và cung lao động có trình độ thấp là chính sách mà nhiều quốc gia đã áp dụng
(Hy Lạp, Malaysia). Một số quốc gia điều chỉnh cơ cấu cung bằng cách tạo điều
kiện tăng cung lao động qua đào tạo nghề mà giảm cung lao động có trình độ đại
học (Hy lạp) bằng cách tăng chi phí đào tạo đại học để nắn dòng chảy học sinh vào
học nghề. Cách thức chính phủ mở rộng đào tạo nghề thông qua chính sách tài
chính không phải là mở rộng tín dụng cho đào tạo nghề, học nghề mà thắt chặt tín
dụng đối với đào tạo đại học [128, tr.16]. Có quốc gia lại sử dụng chính sách tạo cơ
hội tốt hơn và tăng kỳ vọng việc làm của người lao động qua đào tạo nghề. Kết quả
là tăng số người đi học nghề và giảm bớt áp lực việc làm đối với lao động trẻ.
Thiếu hụt cung kỹ năng cũng là trường hợp phổ biến của nhiều nền kinh tế.
Các nước có tốc độ tăng trưởng nền kinh tế quá nhanh dẫn đến tăng nhu cầu lao
động qua đào tạo nghề trong khi lượng cung đối tượng này trong nền kinh tế không
kịp đáp ứng. Hệ quả là gia tăng mức tiền lương đối với lao động có tay nghề cao,
khoảng cách tiền lương giữa lao động không có tay nghề và lao động qua đào tạo
nghề tăng mạnh. Cung lao động qua đào tạo nghề và các kỹ thuật viên trên thị
trường trở nên không co dãn đối với tiền lương so với nhóm chưa qua đào tạo nghề
hoặc không có nghề. Một số quốc gia đã trải qua tình trạng này như Hàn quốc và
Malaysia những năm 1980-1990, Chile những năm 1980, khi nhu cầu lao động qua
đào tạo nghề rất lớn so với lao động không nghề. Hàn quốc đã giải quyết bằng cách
25
tăng cung của hệ thống đào tạo nghề nghiệp lên và tiền lương thực tế tăng lên nhiều
trong giai đoạn 1975-1993. Khoảng cách tiền lương giữa qua đào tạo nghề và lao
động không nghề giảm từ 2,5 lần xuống còn 1,5 lần. Để đáp ứng cầu lao động qua
đào tạo nghề tăng nhanh như vậy việc quan trọng là phải làm sao khuyến khích,
động viên và thúc đẩy đào tạo của doanh nghiệp đặc biệt là loại hình đào tạo tại
chức, kèm cặp tại chỗ [128, tr.8].
1.3. Vai trò và đặc điểm của lao động qua đào tạo nghề
1.3.1. Vai trò của lao động qua đào tạo nghề
Việc làm biểu hiện chỗ, vị trí, yêu cầu kỹ năng của người lao động. Mỗi chỗ
việc làm xác định bởi tập hợp các yêu cầu về hạ tầng, máy móc thiết bị, công nghệ,
điều kiện làm việc, các chính sách, thiết chế ràng buộc và yêu cầu về kỹ năng của
người lao động. Cơ cấu việc làm về dài hạn được phản ảnh vào kết cấu của lực
lượng lao động có việc làm trong nền kinh tế. Các nền kinh tế có trình độ sản xuất,
trình độ công nghệ khác nhau và mức độ công nghiệp hóa khác nhau, qui mô và vai
trò của đội ngũ và việc làm của lao động qua đào tạo nghề khác nhau.
Cấu trúc trình độ CMKT của lực lượng lao động có xu hướng tăng dần tỷ lệ
lao động có CMKT bậc cao so với các cấp trình độ CMKT thấp hơn. Quá trình
phân hóa CMKT của lực lượng lao động dần dần hình thành và phát triển nhanh đội
ngũ lao động là công nhân 'cổ trắng' so với lớp công nhân 'cổ xanh'. Theo số liệu
của ILO, ở các nước phát triển đội ngũ công nhân bán lành nghề chiếm khoảng 5-
15%, công nhân lành nghề chiếm khoảng 30-50%, kỹ sư kỹ thuật và công nghệ
chiếm khoảng 36-40%, lao động quản lý khoảng 22%, các nhà nghiên cứu và phát
minh khoảng 14%. Trong khi đó ở các nước đang phát triển tỷ lệ tương ứng là
60%, 22%, 9%, 6,5% và 2,5% [38, tr.16]. Khác biệt lớn là sự thay đổi cơ cấu ngay
trong nhóm lao động qua đào tạo nghề giữa hai trình độ phát triển kinh tế khác
nhau. Các nền kinh tế phát triển thì tỷ lệ công nhân lành nghề cao (50-70%) so với
tỷ lệ này ở các nền kinh tế đang phát triển (20-30%). Những nền kinh tế đang trong
quá trình công nghiệp hóa như Malaysia, Indonesia, Thái lan v.v... tỷ trọng lao
động qua đào tạo nghề đang tăng lên nhanh chóng và chiếm khoảng 50%.
26
Việc làm của lao động qua đào tạo nghề đóng vai trò quan trọng trong tổng
thể việc làm của lực lượng lao động và trong kết cấu lao động có CMKT. Biểu hiện
thông qua mức độ tập trung việc làm của lao động qua đào tạo nghề ở các khu vực
công nghiệp, dịch vụ, khu vực kinh tế hiện đại. Trong tương lai, khi khu vực nông
nghiệp thu hẹp dần, lao động qua đào tạo nghề sẽ là lực lượng lao động chính tạo ra
của cải vật chất cho nền kinh tế. Xét trên góc độ người tiêu dùng trong nền kinh tế
thì lực lượng lao động qua đào tạo nghề là những công dân tầng lớp trung lưu đông
đảo và là những người tiêu dùng chính trên thị trường hàng hóa, dịch vụ.
Lực lượng lao động đang tham gia sản xuất chính trong nền kinh tế là đội ngũ
công nhân, những người trực tiếp sản xuất trong tất cả các lĩnh vực, ngành nghề của
nền kinh tế. Lao động qua đào tạo nghề vì thế sẽ là lực lượng tiên phong trong quá
trình chuyển giao công nghệ, nắm bắt các công nghệ tiên tiến và là biểu tượng của
giai cấp công nhân trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Lao động qua đào tạo nghề đang là nhóm được quan tâm nhiều trong cạnh
tranh nguồn nhân lực giữa các nước trong khu vực có nền kinh tế phát triển tương
đồng. Cạnh tranh có thể là gián tiếp thông qua hàng hóa xuất nhập khẩu hoặc cạnh
tranh trực tiếp thông qua cung cấp kỹ năng trên thị trường lao động quốc tế. Các
nước phát triển tỷ trọng lao động làn nghề cao lớn hơn so với lao động có trình độ
tay nghề thấp và không có tay nghề. Ở nước ta, tỷ trọng lao động có trình độ
CMKT bậc trung sẽ tăng nhanh. Trong đó, nhóm lao động qua đào tạo nghề sẽ là
lực lượng chủ đạo, biểu trung cho chất lượng nguồn nhân lực trong thời gian tới.
1.3.2. Một số đặc điểm chủ yếu về việc làm của lao động qua đào tạo nghề
a) Việc làm của lao động qua đào tạo nghề mang tính chất thực hành và
gắn với hoạt động sản xuất trực tiếp
Theo danh mục nghề nghiệp làm việc cho thấy một số đặc điểm cơ bản là:
việc làm mang tính chất thực hành, phân bố vị trí công việc gắn với khu vực trực
tiếp sản xuất kinh doanh hoặc cung ứng dịch vụ, đại bộ phận việc làm này là công
việc làm thuê, trình độ kỹ năng kỹ thuật mức trung bình, thu nhập và điều kiện lao
động ở mức trung bình của xã hội.
27
Việc làm của lao động qua đào tạo nghề thường là những công việc trong các
công xưởng, nhà máy chế biến, chế tạo, công nhân trong các công trường xây dựng,
vận hành máy móc thiết bị, lái xe trong các doanh nghiệp vận tải, công nhân sửa
chữa bảo trì các thiết bị máy cơ khí, công nghệ kỹ thuật điện, điện tử v.v.... một bộ
phận khác nằm trong nhóm lao động phục vụ như lái xe, kỹ thuật viên số liệu, kế
toán, hành chính văn phòng, lễ tân trực điện thoại v.v...
Nhóm nghề nghiệp việc làm chủ yếu của lao động qua đào tạo nghề tập trung
vào nhóm việc làm có trình độ CMKT bậc trung. Trong số những công việc phân
loại (theo danh mục nghề nghiệp do Tổng cục Thống kê) thì lao động qua đào tạo
nghề tập trung rất nhiều vào các công việc thuộc nhóm 6,7,8 (Nhóm6: nhóm lao
động có kỹ thuật trong nông nghiệp; nhóm 7: thợ thủ công có kỹ thuật và các thợ có
kỹ thuật khác có liên quan và nhóm 8: thợ kỹ thuật vận hành và lắp ráp máy móc
thiết bị). Tất cả những loại việc làm thuộc các nhóm này, phần lớn là loại hình công
việc thực hành đúng như tên gọi của nó ví dụ: thợ sơn, thợ gia công kim loại, thợ
làm khuôn đúc, thợ rèn, thợ cơ khí và lắp ráp v.v...
Việc làm của lao động qua đào tạo nghề tập trung nhiều trong các khu vực
công nghiệp với các nền kinh tế đang trong quá trình công nghiệp hóa. Các nước
phát triển càng ngày càng rút được nhiều lao động ra khỏi khu vực sản xuất công
nghiệp nhờ công nghệ tự động hóa, công nghệ thông tin để chuyển sang khu vực
dịch vụ. Việc làm trong khu vực dịch vụ đòi hỏi những giao tiếp và sự hiện diện
của con người khó thay thế. Với các nền kinh tế đã phát triển như các nước Mỹ,
Anh, Pháp, Đức.... thì khu vực dịch vụ là khu vực thu hút nhiều lao động qua đào
tạo nghề (chiếm trên 50% lực lượng lao động và 70% lao động qua đào tạo nghề).
Quá trình đào tạo nghề cũng phản ảnh tính chất công việc của người lao động
sau khi tốt nghiệp đó là thời lượng đào tạo lý thuyết thường ít so với thực hành
(thực hành khoảng 70-80% thời lượng đào tạo). Với các loại hình đào tạo kèm cặp,
đào tạo tại doanh nghiệp thời lượng thực hành thậm chí lên đến 90-95% tùy loại
hình công việc và mức độ yêu cầu đối với người lao động. Những kiến thức, tri
thức và kỹ năng người lao động thu nhận được trong quá trình đào tạo thông qua
phương pháp quan sát, thực hành, thực tập, thử làm là chính kết hợp với lý thuyết
28
cơ bản được trang bị. Một trong những tính chất công việc thường gắn liền với việc
làm của lao động qua đào tạo nghề là những việc làm trực tiếp, gián tiếp tham gia
sản xuất kinh doanh và thiên về thực hành (trong sản xuất, kinh doanh dịch vụ, kỹ
thuật phục vụ đời sống v.v...).
b) Việc làm của lao động qua đào tạo nghề gắn với kỹ thuật và công nghệ
Với các nền kinh tế hiện đại, sản xuất công nghiệp đã được tự động hóa nhiều,
hàm lượng công nghệ và vốn trong sản xuất lớn thì yêu cầu về số lượng lao động ít
nhưng yêu cầu về chất lượng, trình độ lao động và năng suất lao động cao. Những
lĩnh vực thu hút lao động qua đào tạo nghề có kỹ thuật cao như chế tạo máy móc,
lắp ráp máy, kỹ thuật viên cơ khí, điện tử trong các ngành.
Những ngành nghề có việc làm đòi hỏi yêu cầu kỹ thuật thấp hơn và số lượng
lao động qua đào tạo nghề nhiều hơn điển hình như ngành xây dựng, các ngành
dịch vụ phục vụ cá nhân. Tùy theo mức công nghệ sử dụng thiên về lao động hay
vốn, tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề được sử dụng là khác nhau. Trong nhóm
ngành kinh tế công nghiệp chế biến tỷ trọng sử dụng lao động qua đào tạo nghề
thường lớn nhất sau đó đến các ngành dịch vụ.
Mức công nghệ khác nhau phản ảnh mức huy động lao động khác nhau. Cùng
một trình độ công nghệ của một quốc gia thì sự khác biệt về tương quan công
nghệ/lao động cũng rất khác nhau giữa các ngành. Thông thường ngành công
nghiệp và dịch vụ có nền công nghệ cao hơn khu vực nông nghiệp. Trong đó công
nghiệp sản xuất, chế tạo các thiết bị điện, linh kiện điện tử, viễn thông, tin học v.v...
có tương quan công nghệ/lao động lớn hơn các ngành như xây dựng, chế biến sản
phẩm nông nghiệp v.v... Khu vực, ngành nào có công nghệ sản xuất mức trung
bình, sử dụng nhiều nhân công thường mang lại nhiều việc làm cho lao động qua
đào tạo nghề. Những ngành sản xuất có trình độ công nghệ cao đòi hỏi ít lao động
qua đào tạo nghề hơn, nhưng yêu cầu về trình độ kỹ năng, tay nghề cao hơn. Một
số ngành thu hút nhiều lao động qua đào tạo nghề như công nghiệp chế biến (dệt
may, giày da, chế biến thủy sản v.v...) công nghiệp khai khoáng, công nghiệp chế
tạo máy móc thiết bị, xây dựng và lao động có kỹ thuật trong nông nghiệp.
29
Nhiều quốc gia, hệ thống đào tạo nghề có tên gọi là hệ thống đào tạo công
nghệ kỹ thuật thực hành, các cơ sở đào tạo nghề có tên gọi như trường kỹ thuật
hoặc trường cao đẳng công nghệ v.v.... Hệ thống đào tạo nhắm vào mục tiêu là đào
tạo ra một đội ngũ công nhân kỹ thuật các bậc khác nhau về kỹ thuật, công nghệ.
Đội ngũ lao động được đào tạo ra phân ra là công nhân kỹ thuật ’cổ xanh’ tập trung
vào nhóm công việc trực tiếp sản xuất, gắn với máy móc thiết bị, gắn với nhà
xưởng, công trường. Đội ngũ công nhân cổ trắng gắn với các loại hình việc làm có
yếu tố công nghệ cao, các dây chuyền sản xuất tự động, các hệ thống công nghệ
hiện đại. Gần đây có thuật ngữ công nhân ‘cổ vàng’ để chỉ đội ngũ lao động kỹ
thuật tham gia vào quá trình nghiên cứu và phát triển (R&D). Ngoài việc trực tiếp
tham gia sản xuất các chế phẩm cao cấp, sản xuất đồng thời nghiên cứu thử
nghiệm, đội ngũ này thường là các kỹ thuật viên cao cấp, các kỹ sư thực hành.
c) Việc làm của lao động qua đào tạo nghề thuộc nhóm dễ bị tổn thương
Đặc trưng chung của việc làm của lao động qua đào tạo nghề gắn với sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp. Bất cứ sự biến động nào của các thị trường ảnh
hưởng đến sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đều tác động đến việc làm của
lao động qua đào tạo nghề. Các tác động, ảnh hưởng có thể trực tiếp đến qui mô, số
lượng việc làm hoặc chất lượng việc làm (thời gian, tiền lương, các điều kiện làm
việc). Các tác động thông qua ba thị trường cơ bản là thị trường lao động (trực
tiếp), thị trường hàng hóa, dịch vụ và thị trường tài chính (còn nhiều nhân tố khác
như thị trường công nghệ, thị trường nguyên liệu, các vấn đề thể chế, pháp lý).
Khi có những biến động trên thị trường hàn hóa và dịch vụ làm cho đình trệ
sản xuất, việc làm của lao động qua đào tạo nghề bị thu hẹp. Thị trường lao động
và thị trường tài chính biến động dẫn đến những thu hẹp và sa thải lao động đặc
biệt lao động có tính thời vụ. Trong tất cả các cuộc khủng hoảng và đình trệ sản
xuất kinh doanh, lao động có CMKT thấp hơn luôn gặp rủi ro hơn, bị tổn thương
nhiều hơn. Ngoài ra lao động qua đào tạo nghề thường chiếm một tỷ trọng lớn
trong lực lượng lao động công nghiệp và tập trung vào các nhóm ngành nghề chịu
nhiều tác động của nền kinh tế thế giới nên dễ bị những biến động lớn mang tính xã
hội và có ảnh hưởng đến nhiều tầng lớp trong xã hội.
30
Biến động kinh tế, tái cấu trúc (CNH-HĐH, cải cách doanh nghiệp nhà nước
v.v...) đều tác động đến việc làm của lao động qua đào tạo nghề. Những tác động
chủ yếu đó là sự tăng/giảm hay dịch chuyển việc làm từ khu vực/ngành kinh tế này
sang khu vực/ngành kinh tế khác. Việc làm có thể được tạo ra nhiều hơn ở một số
khu vực năng động, nhưng nhìn chung các quá trình tái cấu trúc thường dẫn đến
đào thải lao động qua đào tạo nghề. Để tái hòa nhập việc làm, thường phải thông
qua các chương trình việc làm kết hợp đào tạo lại tay nghề cho người lao động.
Xét trên giác độ lao động, đây là nhóm lao động làm công ăn lương nguồn
sống phụ thuộc chủ yếu vào thu nhập từ việc làm. Thu nhập và tiền lương đủ sống
và không giàu có, không nhiều tài sản tích lũy nên những thay đổi việc làm, thu
nhập dễ dẫn đến những tổn thương, ảnh hưởng đến cuộc sống của họ.
1.4. Mối quan hệ giữa đào tạo và việc làm của lao động qua đào tạo nghề
1.4.1. Mối quan hệ giữa đào tạo, việc làm và phát triển nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực, không phải là vốn, không phải thu nhập, không phải là
nguồn lực vật chất mà là sự hợp nhất mang tính nền tảng cơ bản của tài nguyên của
một quốc gia. Vốn và tài nguyên là những nhân tố mang tính thụ động của quá trình
sản xuất, con người là nhân tố tích cực sẽ tích tụ vốn, khai thác tài nguyên thiên
nhiên, xây dựng xã hội, kinh tế và tổ chức xã hội hướng tới sự phát triển và phồn
thịnh của một quốc gia.
Quan niệm của Liên hợp quốc cho rằng, phát triển nguồn nhân lực theo nghĩa
rộng, bao gồm giáo dục, đào tạo và sử dụng tiềm năng con người nhằm thúc đẩy
phát triển kinh tế – xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống. Với khái niệm này,
giữa đào tạo với sử dụng lao động có quan hệ mật thiết với nhau, mà kết quả là
người lao động có việc làm để có thu nhập đảm bảo cuộc sống.
Phát triển nguồn nhân lực, thực chất là quá trình làm thay đổi về số lượng,
chất lượng và cơ cấu nguồn nhân lực đáp ứng tốt hơn yêu cầu của xã hội. Đào tạo
và sử dụng lao động là cặp bộ đôi trong một thể thống nhất của quá trình phát triển
nguồn nhân lực. Các hoạt động phát triển nguồn nhân lực, vốn nhân lực đều phải
trải qua chu trình khép kín như sau: con người sinh ra, lớn lên phải có thời gian để
31
học tập, đây là quá trình khởi thủy để tích lũy vốn nhân lực cho cá nhân người lao
động. Khi trưởng thành con người phải lao động và làm việc. Thành quả lao động,
một phần được bù đắp để tái sản xuất giản đơn sức lao động, phần nữa để tái sản
xuất mở rộng và hưởng thụ của người lao động. Quá trình đầu tư mở rộng cho giáo
dục và học tập, tiếp tục tích lũy thêm năng lực và tham gia vào sản xuất để biến
năng lực thành thành quả lao động cao hơn.
Sử dụng Đầu tư
Cung cấp
Sơ đồ 1.3: Chu trình phát triển nguồn nhân lực và tích lũy vốn nhân lực
Sử dụng và đào tạo là hai mặt của phát triển nguồn nhân lực. Trên quan điểm
duy vật biện chứng đây là quá trình lặp lại, phát triển theo hình xoáy 'trôn ốc'.
Năng lực cá nhân (vốn nhân lực) tích tụ qua đào tạo đưa vào sản xuất, tạo
thu nhập tái sản xuất giản đơn và mở rộng (chất lượng cuộc sống) và đầu tư
thông qua đào tạo tiếp tục tích lũy vào thành vốn nhân lực. Đây là mối quan hệ
hữu cơ không thể tách rời trong chu trình khép kín của phát triển nguồn nhân lực,
vốn nhân lực.
Việc làm đòi hỏi phải có sức khỏe và năng lực, kỹ năng Năng lực làm việc
(kiến thức, kỹ năng và thái độ) Giáo dục và đào tạo tạo ra năng lực cho người
lao động Giáo dục và đào tạo cần chi phí đầu tư thu nhập từ việc làm.
VỐN NHÂN
LỰC
VIỆC
LÀM
ĐÀO
TẠO
32
1.4.2. Đào tạo nghề và việc làm của lao động qua đào tạo nghề
Đào tạo là sự kết hợp cân đối giữa các tri thức thu nhận được trong hệ thống
giáo dục đào tạo chính quy, trong gia đình, trong doanh nghiệp, thông qua các kênh
thông tin khác nhau, mang đến kiến thức chung và có thể chuyển giao có lợi nhất
cho việc làm [6, tr.220]. Đào tạo là công cụ, kênh trực tiếp tác động vào năng lực
của các cá nhân, nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng cho người học.
+ Đào tạo nghề tạo ra năng lực thực hiện (competency) cho người học. Các
nước có nhiều kinh nghiệm về phát triển nguồn nhân lực thường coi trọng
việc đào tạo để tạo ra một năng lực thực hiện cho người lao động. Đào tạo
bao gồm đào tạo trong nhà trường, ngoài nhà trường, đào tạo tại gia đình, xã
hội và tự đào tạo, đã làm tăng việc làm có kỹ năng của người lao động.
+ Đào tạo để làm việc (training for employability). Người lao động có được
năng lực thực hiện, cần phải có chỗ việc làm để thể hiện năng lực đó. Đào
tạo là để làm việc thì mới trở nên có ích, tạo ra của cải vật chất cho xã hội.
+ Đào tạo nghề trở thành công cụ điều chỉnh sâu cơ cấu, chất lượng của lực
lượng lao động. Cung càng nhiều lao động qua đào tạo nghề càng làm tỷ
trọng nhóm này tăng lên trong tỷ phần lao động có CMKT trong lực lượng
lao động. Lao động qua đào tạo nghề chiếm tỷ trọng lớn trong lực lượng lao
động, làm giảm tương đối tỷ trọng lao động không có CMKT.
+ Đào tạo nghề góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động. Trong quá trình công
nghiệp hóa, đào tạo trang bị kỹ năng, năng lực cho người lao động dịch
chuyển từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp và dịch vụ. Đào
tạo nghề làm tăng cơ hội tìm kiếm việc làm và tăng thu nhập có các cá nhân,
tạo khả năng thay đổi và dịch chuyển việc làm, nhanh chóng thích nghi với
các biến đổi về kinh tế và xã hội.
+ Trong mối quan hệ gắn kết giữa đào tạo với sử dụng và giải quyết việc làm
phải dựa trên cơ sở và xoay quanh “cầu lao động” trên thị trường lao động.
Đào tạo ai, đào tạo nghề gì, cấp trình độ nào… phải do cầu lao động (cung
việc làm) quyết định.
33
Việc làm, nói chung bị chi phối bởi nhiều yếu tố khác nhau trong đó để tạo ra
một chỗ việc làm cần phải hội tụ đủ các yếu tố tư liệu sản xuất và lao động. Các
nhân tố tạo nên việc làm đều thay đổi, do đó việc làm cũng thường xuyên mang
tính thay đổi. Việc làm tác động chủ động vào đào tạo thông qua:
+ Việc làm tạo ra nhu cầu đào tạo: Người lao động muốn có việc làm, làm
được việc thì phải qua đào tạo, dẫn đến việc làm đặt ra yêu cầu cho đào tạo.
+ Việc làm là nơi để thể nghiệm, thực nghiệm và thực hành kết quả đào tạo:
Học đi đôi với hành. Kết quả đào tạo có giá trị nhất khi nó giống nhất/tương
đồng nhất/đúng nhất với công việc thực tế diễn ra. Đào tạo chính là quá trình
chuyển giao mô phỏng yêu cầu thao tác, hoạt động của việc làm.
+ Việc làm đồng thời là quá trình tự đào tạo: người lao động vừa làm việc vừa
đang trong quá trình tự đào tạo bản thân. Nhiều kỹ năng, kiến thức và đặc
biệt các kinh nghiệm có được là nhờ quá trình làm việc.
+ Việc làm qui định nội dung đào tạo: Đào tạo là mô phỏng yêu cầu và hoạt
động của việc làm, do đó có thể nói việc làm qui định nội dung đào tạo.
+ Việc làm chi phối cấu trúc hệ thống đào tạo: Đặc điểm việc làm trên thị
trường lao động sẽ phản ảnh trong hệ thống đào tạo. Hệ thống này thực hiện
chức năng tốt nhất khi đáp ứng đúng kết cấu việc làm trong nền kinh tế. Khi
đó kết cấu việc làm sẽ chi phối kết cấu của hệ thống đào tạo.
1.4.3. Học nghề để có việc làm tốt hơn
Cũng như vốn vật chất, vốn nhân lực là kết quả của quá trình đầu tư trong quá
khứ với mục đích tạo ra thu nhập trong tương lai. Đầu tư vào vốn nhân lực chủ yếu
thông qua giáo dục và đào tạo. Đặc điểm riêng của vốn nhân lực là có thể đầu tư
bằng bất kỳ nguồn lực nào (bao gồm cả thời gian) người lao động dành để nâng cao
năng suất lao động, đầu tư vào sức khỏe v.v...
Cách đề cập đối với vốn nhân lực giả thiết rằng các mức chênh lệch của tiền
lương phản ảnh sự chênh lệch về năng suất lao động giữa các nhóm lao động khác
34
nhau. Giáo dục và đào tạo, tạo ra năng suất lao động cao hơn và người lao động có
năng suất lao động cao hơn sẽ có được thu nhập và tiền lương cao hơn.
Giả định rằng người lao động bắt đầu đi học nghề ở tuổi 18 và học xong khi
người lao động 20 tuổi (không xem xét trường hợp vừa đi học vừa đi làm hoặc đi
học nghề sau tốt nghiệp THCS). Đường aa thể hiện dòng thu nhập của lao động qua
đào tạo nghề. Đường bb là thu nhập của người lao động với một tấm bằng THPT.
+ Vùng 1 là chi phí người lao động phải bỏ tiền ra cho sách vở và đồ dùng
học tập, học phí cũng như các khoản chi khác nhưng không phải là các
khoản phí sinh hoạt (Giả định không đi học cũng phải chi tiêu cho ăn, ở).
+ Vùng 2 là phần thu nhập bị mất (do không đi làm để dành thời gian cho
học tập), tương đương chi phí cơ hội của thời gian người lao động bỏ ra.
+ Vùng 3 là thu nhập người lao động có được với tấm bằng nghề.
Thông thường, người lao động đã qua đào tạo nghề phải mất một vài năm mới
có thể đuổi kịp kinh nghiệm làm việc của những người chỉ tốt nghiệp THPT đã đi
làm trước đó. Nhằm thu được lợi ích ròng từ việc đi học, giá trị hiện tại của tổng lợi
ích và chi phí cho việc đi học phải lớn hơn không (giá trị hiện tại của vùng 3 phải
lớn hơn giá trị hiện tại của tổng vùng 1 và vùng 2).
Tiền lương a
Học nghề
a b
THPT
b
17-18 20-21 55-60 tuổi
Biểu đồ 1.3: Học nghề để có thu nhập cao hơn
2
1
3
35
Trong mối quan hệ với việc làm của lao động qua đào tạo nghề có thể xem xét
trên góc độ so sánh theo biểu đồ trên với 3 giai đoạn đầu tư và thu hồi vốn đầu tư
vào vốn nhân lực. Tỷ suất lợi nhuận là một minh chứng cụ thể cho vai trò của đào
tạo cho tăng trưởng kinh tế thông qua tác động trực tiếp đến năng suất lao động của
người lao động và gián tiếp mang lại cho xã hội những lợi ích phổ biến như trình
độ dân trí, thói quen trọng tri thức, phong trào tự học v.v...
Công thức giản đơn để tính toán tỷ suất lợi nhuận như sau:1
L = (K/C)*100%
(1.1)
K = Thu nhập của lao động qua đào tạo nghề - Thu nhập của lao động THPT
C = Chi phí trực tiếp (C1) + Chi phí gián tiếp (C2)
Ngoài ra có thể tính tỷ lệ hoàn trả đào tạo cho nhóm lao động qua đào tạo
nghề trên cơ sở so sánh chi phí đầu tư và tiền lương thu được. Phương pháp phổ
biến tính tỷ lệ thu hồi (ROR) được sử dụng là theo phương trình tiền lương
Mincerian [132]. Tỷ lệ thu hồi trong giáo dục đào tạo được tính bằng cách lấy đạo
hàm riêng giữa tiền lương giờ với biến đi học, giá trị tính được và dấu của nó (+/-)
cho biết nếu có thêm một năm đi học nữa thì tiền công có cơ hội được tăng lên (+)
hay giảm đi (-) bấy nhiêu phần trăm (%) giá trị tiền công của người lao động. Cụ
thể phương trình Mincerian được tính với một số biến chuẩn như số năm đi học.
Các biến giả khác như giới tính, thành thị được đưa vào để tìm hiểu sự khác biệt
giữa các khu vực, vùng miền và giới tính có làm cho tỷ lệ thu hồi bị khác biệt trong
tiền lương giờ bình quân của người lao động không. Phương trình semilog tiền
lương như sau:
Lnwagei= ao+ a1yrschi + a2yrschi2 + a3*expi + a4expi2 + a5genderi
+
(1.2)
1
Ví dụ: Giả định nếu tiền lương của học sinh học nghề một năm thu được 18 triệu đồng/năm (1,5 triệu đồng/tháng), còn
bình quân người lao động mức học vấn THPT thu được 12 triệu đồng/năm, phần nhiều hơn sẽ là 6 triệu đồng/năm. Chi
phí đầu tư gồm 2 phần (C=C1+C2), chi phí trực tiếp (C1) là những chi phí như học phí và chi phí khác như ăn ở, đi lại..
Giả định là 12 triệu đồng/năm x 2 năm học tương đương 24 triệu đồng; và chi phí gián tiếp (C2) là chi phí cơ hội có thu
nhập trong thời gian đi học ví dụ tính tương đương thu nhập của người lao động có trình độ THPT (12 triệu đồng/năm x
2 năm = 24 triệu đồng). Tỷ suất lợi nhuận của đào tạo nghề ở trình độ trung cấp nghề sẽ là: L= K/(C1+C2) * 100% = (6
triệu đồng/48 triệu đồng)*100% = 12,5%
36
a6urbani
Trong phương trình cơ bản (1.2), các biến đặc trưng liên quan đến việc làm
của người lao động chưa được thể hiện như: ngành kinh tế, khu vực sở hữu, trình
độ tay nghề v.v... Vì vậy phương trình (1.2) được mở rộng với các biến ngành kinh
tế, trình độ CMKT, khu vực v.v.... như công thức (1.3) sau:
Lnwagei = ao+ a1Yrschi + a2Yrschi2 +a3*expi + a4expi2 + a5skilli +
a6genderi + a7urbani + a8indusi + các biến tương tác khác
+ ui
(1.3)
Trong đó:
i Là chỉ số
của người lao động thứ i
Wage Lương
của người lao động đã được qui đổi về lương
đủ giờ
Yrsch Số năm
đi học của người lao động, số năm học được
tính bằng tổng số năm học phổ thông + tổng
thời gian đào tạo bậc cao hơn
Exp Số năm
kinh nghiệm của người lao động
Skill Trình độ
CMKTK của người lao động
Gender Giới tính
của người lao động
Urban Khu vực
thành thị\ Nông thôn
Indus Ngành
kinh tế quốc dân cấp 2 được phân loại theo
37
hệ thống VSIC
Owner Hình
thức sở hữu của loại hình doanh nghiệp
Để có thể tìm ra sự khác biệt của tiền lương giữa các nhóm lao động, nghiên
cứu sử dụng các biến giả và biến tương tác trong mô hình. Sự tương tác giữa một số
biến với biến về trình độ CMKT trong mô hình hàm ý là có ảnh hưởng của biến
CMKT đến tiền lương giữa các nhóm khác nhau thì khác nhau.
Mô hình này cho phép tính toán tỷ lệ thu hồi vốn đối với việc làm của lao
động qua đào tạo nghề, cho phép phân tích sự khác biệt tiền lương của lao động qua
đào tạo nghề với các nhóm lao động khác. Ngoài ra, mô hình sẽ xử lý và phân tích
sự khác biệt tiền lương của lao động qua đào tạo nghề ở các ngành kinh tế khác
nhau, khu vực sở hữu, vị thế việc làm khác nhau v.v....
1.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc làm của lao động qua đào tạo nghề
Việc làm của lao động qua đào tạo nghề chịu tác động bởi một số yếu tố phân
thành 2 nhóm, đó là: (i) các nhân tố tác động đến việc tạo việc làm cho đối tượng là
lao động qua đào tạo nghề và (ii) các nhân tố thuộc chính sách sử dụng, đào tạo và
phát triển đội ngũ lao động qua đào tạo nghề.
- Nhóm 1: Các nhân tố chủ yếu tác động đến tạo việc làm cho lao động qua đào
tạo nghề; trong đó chủ yếu là:
+ Nguồn lực tự nhiên, hạ tầng (Vốn, tài nguyên, dân số và lao động);
+ Khoa học kỹ thuật và công nghệ;
+ Đầu tư và chính sách đầu tư gắn với tạo việc làm;
+ Chính sách giải quyết việc làm
- Nhóm 2: Các nhân tố tác động đến việc làm của lao động qua đào tạo nghề
thông qua các chính sách sử dụng và phát triển đội ngũ , như sau:
+ Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế;
+ Chuyển đổi nền kinh tế sang kinh tế thị trường định hướng XHCN;
38
+ Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế;
+ Chính sách thị trường lao động;
+ Chính sách đào tạo phát triển đội ngũ lao động qua đào tạo nghề.
1.5.1. Nhân tố ảnh hưởng đến tạo việc làm cho lao động qua đào tạo nghề
a) Nguồn lực tự nhiên, hạ tầng
Đất đai là nguồn tài nguyên quan trọng, đồng thời là một tư liệu đặc biệt cho
quá trình sản xuất, được con người sử dụng triệt để để tạo ra của cải vật chất cho xã
hội. Càng có nhiều đất đai, càng có nhiều tài nguyên thì càng có nhiều cơ hội tạo
việc làm cho lao động qua đào tạo nghề trong khu vực nông nghiệp, công nghiệp
khai khoáng, chế tạo và chế biến. Tuy nhiên, những tài nguyên này không phải vô
hạn, mà hữu hạn và suy giảm trong tương lai.
Đất đai được sử dụng như những nguồn lực lớn trong tạo việc làm trong nông
nghiệp nông thôn. Nền kinh tế phát triển cân đối cần phải tiếp tục nuôi dưỡng và
tạo việc làm trong khu vực nông nghiệp để tận dụng và sử dụng hết thời gian lao
động nông nhàn, đồng thời tiếp tục đào tạo để dịch chuyển lao động nông nghiệp
nông thôn sang các ngành nghề khác trong công nghiệp và dịch vụ.
Đất đai một mặt là cơ sở cơ bản để tạo việc làm trong nông nghiệp, công
nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn. Mặt khác đất đai lại như những nguồn tài nguyên
quan trọng phục vụ cho công nghiệp và thu hút đầu tư nước ngoài. Lao động trong
khu vực nông nghiệp bị mất đất, thu hẹp đất sản xuất là để nhường phần tài nguyên
này cho công nghiệp, nơi mà việc sử dụng tài nguyên đất đai sẽ hiệu quả hơn, và kỳ
vọng sẽ tạo được nhiều việc làm hơn.
Ngoài đất như một tài nguyên cơ bản, yêu cầu thiết yếu để tạo việc làm cho cả
hai khu vực nông nghiệp và công nghiệp, các tài nguyên khác là những điều kiện
lợi thế của mỗi quốc gia, mỗi vùng trong tạo việc làm cho lao động qua đào tạo
nghề. Những vùng có tài nguyên khoáng sản kim loại (sắt, đồng, vàng, thủy ngân,
bô xít v.v...) và phi kim (than đá, đá vôi, cát v.v..) đã và đang gây dựng nên các
vùng công nghiệp khai khoáng và công nghiệp chế biến nguyên liệu, các tổ hợp
39
công nghiệp chế tạo. Công nghiệp khai thác mỏ và công nghiệp chế tạo là những
nhóm ngành thu hút nhiều lao động qua đào tạo nghề như khai thác, vận hành thiết
bị khai thác mỏ, thợ cơ khí, cơ khí sửa chữa v.v.... kéo theo nó là các công trình,
dịch vụ phục vụ. Một tổ hợp khai thác và chế biến dầu mỏ như Dung quất, Nghi
sơn sẽ thu hút hàng trăm ngàn lao động từ những giai đoạn khởi công, xây dựng
các nhà máy lọc dầu, cảng biển cho đến hàng ngàn công nhân kỹ thuật bậc cao để
vận hành những tổ hợp đó. Ngoài ra chưa kể hàng trăm ngàn lao động của các
doanh nghiệp vệ tinh cung cấp các dịch vụ kỹ thuật, dịch vụ đời sống đi kèm.
Ngoài những tài nguyên khoáng sản là điều kiện cơ bản, lợi thế tạo ra việc
làm còn có tài nguyên thiên nhiên, phong cảnh, rừng nhiệt đới, di tích lịch sử, văn
hóa vật thể và phi vật thể là những lợi thế cho các ngành công nghiệp du lịch phát
triển và tạo việc làm cho lao động qua đào tạo nghề trong lĩnh vực dịch vụ du lịch,
thương mại, nhà hàng, khách sạn v.v...
Nguồn lực tự nhiên và các điều kiện có sẵn ở mỗi vùng miền là điều kiện cơ
bản cần thiết và là lợi thế trong việc tạo ra các hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo
ra việc làm và việc làm cho lao động qua đào tạo nghề. Cơ sở hạ tầng như giao
thông vận tải, thủy lợi, điện nước, bưu chính viễn thông.... là những điều kiện hạ
tầng cơ bản để thu hút đầu tư vào các vùng miền, các ngành nghề khác nhau, tạo
việc làm cho người lao động. Những lĩnh vực này ngày càng sử dụng nhiều lao
động và gián tiếp tác động đến các lĩnh vực khác như các khu công nghiệp tập
trung, các cụm công nghiệp, những vùng thu hút đầu tư nước ngoài.
Hạ tầng vừa là điều kiện cần, nhưng cũng là lợi thế so sánh giữa các địa bàn
khác nhau trong quá trình thu hút đầu tư, tạo việc làm. Ngoài ra, hạ tầng xã hội, các
thiết chế, cơ chế vận hành và đặc biệt là nguồn nhân lực dồi dào, có chất lượng sẽ
là hạ tầng đóng vai trò tích cực, dài hạn khuyến khích đầu tư phát triển và càng thu
hút tạo nhiều việc làm có chất lượng hơn.
b) Dân số - nguồn lao động
40
Dân số tăng nhanh, mật độ dân số cao làm cho lực lượng lao động dồi dào,
nhưng cũng làm tăng áp lực tạo việc làm cho các cá nhân và cộng đồng. Đối với
các nước chậm phát triển đây là một trở lực rất lớn đối với nền kinh tế, nó tạo ra
một vòng luẩn quẩn giữa phát triển kinh tế, giáo dục và đào tạo, việc làm và phát
triển nguồn nhân lực. Nền sản xuất yếu kém kéo theo việc thu hút việc làm đối với
lao động cũng kém, lực lượng lao động dư thừa, thất nghiệp gia tăng là áp lực đẩy
tiền lương thấp xuống, những người có việc làm thì thu nhập thấp, không có nhiều
tiền để đầu tư cho đào tạo, giáo dục, hạ tầng giáo dục và hạ tầng xã hội thấp kém
làm cho vốn nhân lực khó phát triển. Một số quốc gia đã vận dụng quan hệ này
một cách sáng tạo, đột phá thế khó khăn này khi sử dụng chính sách lao động giá rẻ
kết hợp với đào tạo nghề nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Đây là chính sách
linh hoạt giải quyết được cả hai vấn đề là việc làm gia tăng đáp ứng nhu cầu ngắn
hạn, đồng thời tăng chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng chiến lược dài hạn.
Thu hút đầu tư tạo việc làm trong các ngành phải có điều kiện cơ bản là có lao
động. Dân số có chất lượng là điều kiện đủ để các chương trình tạo việc làm, các
dự án đầu tư phát triển bền vững. Nguồn lao động có chất lượng một mặt đáp ứng
nhu cầu phát triển kinh tế và đầu tư, mặt khác là nhân tố tích cực tác động vào cơ
cấu đầu tư và việc lựa chọn công nghệ. Chất lượng nguồn lao động thấp kéo theo
đầu tư và trình độ công nghệ thấp và ngược lại, chất lượng nguồn lao động cao sẽ
tác động làm cho công nghệ đầu tư phải thay đổi theo.
Nguồn lao động có chất lượng cần có lực lượng lao động có sức khỏe, có
CMKT cao, đa dạng, đa tầng đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động. Trong đó
nhóm lao động quan trọng nhất chiếm đa số đối với các nước đang phát triển là lao
động qua đào tạo nghề. Phát triển đội ngũ này vừa đảm bảo cơ cấu chất lượng
nguồn nhân lực vừa đảm bảo tính hiệu quả trong đầu tư cho đào tạo lại vừa phù hợp
với trình độ dân trí nói chung ở các nước đang phát triển.
c) Công nghệ kỹ thuật
41
Cuộc cách mạng công nghệ trong đó công nghệ thông tin là chủ chốt đang
làm thu hẹp, làm phẳng thế giới. Con người đang làm việc vượt qua các giới hạn về
thể xác và trí tuệ, vượt qua không gian và thời gian nhờ được trang bị các công cụ
tin học hiện đại. Ngày càng nhiều các công việc mới xuất hiện làm thay đổi bộ mặt
thế giới việc làm. Những công việc trước đây phải dùng tay, hay công nghệ cũ như
đánh máy chữ, sắp chữ bản in v.v.. dần mất đi thay vào đó là các công nghệ văn
phòng hiện đại, các phần mềm hiện đại được trang bị phục vụ các hoạt động quản
lý và các hoạt động xã hội. Nghề nghiệp cũ mất đi, những người đang làm công
việc đó phải thay đổi nghề. Nghề nghiệp mới xuất hiện, người lao động cần phải
học hỏi, học tập suốt đời để thường xuyên cập nhật cái mới, cái hiện đại cho phù
hợp với sự vận động của xã hội của nền kinh tế.
Khoa học công nghệ đang phát triển nhanh chóng, công nghệ điện tử và tin
học, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới đang hòa trộn với nhau thành tập
hợp các hệ thống kỹ thuật công nghệ hiện đại. Công nghệ đang làm thay đổi bản
chất, hình thức sản xuất, cuộc sống và thay đổi bản chất, hình thức của việc làm nói
chung và việc làm của lao động qua đào tạo nghề nói riêng.
Cách mạng công nghệ đang nhanh chóng làm thay đổi qui mô, cơ cấu và hàm
lượng tri thức của đội ngũ lao động. Để đáp ứng được thì kỹ năng, tay nghề, người
lao động phải thay đổi thích ứng với công nghệ. Công việc thay đổi theo hướng
giảm dần các nhóm thao tác bằng tay chân, tăng dần những độ phức tạp của lao
động như quan sát, đánh giá, lựa chọn, cân nhắc, thiết kế và xử lý thông qua máy
tính. Với xu thế này, một bộ phận lao động qua đào tạo nghề sẽ được thay thế bằng
các máy móc, thiết bị tự động hóa. Lao động bị mất việc làm, dôi dư ra từ các dây
chuyền sản xuất đó phải được đào tạo lại, đào tạo chuyển đổi nghề nghiệp để tiếp
nhận công việc mới.
Cách mạng công nghệ làm thay đổi cấu trúc việc làm và việc làm của lao
động qua đào tạo nghề, từ đó dẫn đến sự thay đổi trong cấu trúc CMKT của lực
lượng lao động. Có hai cách tiếp cận, có thể theo hướng chủ động là bản thân cơ
42
cấu lao động tiên tiến sẽ thúc đẩy cơ cấu sản xuất và công nghệ trở nên hiện đại
hơn, tiên tiến hơn lên và ngược lại, công nghệ sẽ qui định cơ cấu và chất lượng đội
ngũ lao động. Đó chính là việc khẳng định vai trò tích cực hay thụ động của đào tạo
nghề.
Xu hướng hiện nay đối với các nền kinh tế còn lạc hậu và đang trên con
đường công nghiệp hóa như Việt nam, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực phải
theo đuổi, để phù hợp với công nghệ và sản xuất. Lao động dịch chuyển từ nông
nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ tạo ra sự xáo trộn về cơ cấu, yêu cầu và gánh
nặng lên hệ thống đào tạo, cần phải có sự điều chỉnh, đầu tư đào tạo để tái cấu trúc
cơ cấu lao động cho phù hợp với công nghệ sản xuất mới.
d) Đầu tư và các chính sách đầu tư tạo việc làm
Các hoạt động đầu tư, mở rộng sản xuất có ý nghĩa to lớn đối với việc tạo việc
làm cho người lao động. Đầu tư gắn với công nghệ sản xuất, đầu vào, đầu ra của
quá trình sản xuất. Phương thức sử dụng đầu vào, cách thức tổ chức tiêu thụ đầu ra
và đặc trưng công nghệ là những yếu tố quan trọng để đánh giá mức độ, số lượng
và cơ cấu việc làm được tạo ra.
Mỗi mức tăng trưởng của nền kinh tế sẽ tạo ra một tỷ lệ gia tăng việc làm.
Cũng như vậy, đầu tư vào các lĩnh vực, nhà máy công xưởng tạo ra chỗ việc làm
mới cho người lao động. Ngoài ra còn hình thức tự đầu tư để tạo ra chỗ việc làm
cho mình và cho những người khác của người lao động, .
Đầu tư trong nước và đầu tư của người dân tạo việc làm luôn là kênh quan
trọng nhất. Tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư nội địa của một quốc gia thông thường sẽ tốt
nếu ở mức khoảng 50% GDP và như vậy việc làm sẽ được tạo ra bởi chính những
hoạt động đầu tư trong nước sẽ mang tính bền vững cao. Những chính sách kinh tế
vĩ mô ảnh hưởng rất lớn đến đầu tư và phát triển sản xuất kinh doanh, tác động ảnh
hưởng vào việc làm của người lao động. Các chính sách mở rộng tín dụng, chính
43
sách lãi suất cho vay thấp sẽ khuyến khích đầu tư sản xuất và ngược lại với tín
dụng thắt chặt, lãi suất cho vay cao thì sẽ thu hẹp sản xuất, giảm bớt việc làm.
Những chính sách liên quan đến khuyến khích các loại hình công nghệ, mức
công nghệ khác nhau sẽ ảnh hưởng đến việc làm có CMKT nhiều hay ít, số lượng
lao động qua đào tạo nghề có được việc làm tăng hay giảm. Như trường hợp hạn
chế nhập khẩu các công nghệ cũ từ nước ngoài vào có thể nhằm mục đích tránh ô
nhiễm môi trường, mục đích hiện đại hóa sản xuất nhưng số lượng việc làm tạo ra
cho lao động qua đào tạo nghề sẽ ít đi. Hoặc các chính sách liên quan đến công
nghiệp chế biến, khi khuyến khích hoặc không khuyến khích gia công sản phẩm
xuất khẩu (giày da, dệt may v.v...) sẽ dẫn đến tăng/giảm việc làm của lao động qua
đào tạo nghề ở những nhóm ngành nghề này. Nếu khuyến khích nhập khẩu ô tô
nguyên chiếc bằng thuế quan thấp có thể sẽ thu hẹp sản xuất lắp ráp ô tô trong
nước, giảm việc làm của lao động qua đào tạo nghề.
Các chính sách thu hút đầu tư nước ngoài của nhiều tỉnh/thành phố, chương
trình phát triển khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ, khu vực kinh tế cá thể, khu vực
hợp tác xã, công nghiệp nông thôn v.v.. là những khu vực đầu tư có thể tạo ra rất
nhiều việc làm cho lao động qua đào tạo nghề.
e) Chính sách giải quyết việc làm
Các chính sách lao động việc làm được xem là chính sách xã hội cơ bản giúp
đảm bảo sự phát triển bền vững cho nền kinh tế. Chính sách tạo việc làm thực chất
là các biện pháp làm tăng khả năng tiếp cận với việc làm của lực lượng lao động xã
hội, đôi khi có thể là một nhóm đối tượng cụ thể hoặc đặc biệt nào đó. Các chính
sách tạo việc làm nằm trong hệ thống các chính sách xã hội nhằm giải quyết các
vấn đề chiến lược, dài hạn. Có thể phân loại thành 3 nhóm sau:
+ Các chính sách vĩ mô nhằm mở rộng và phát triển việc làm cho lao động
như chính sách tín dụng, đất đai, thuế, lựa chọn công nghệ đầu tư....
44
+ Các chính sách phát triển các ngành nghề và lĩnh vực có khả năng tạo ra
nhiều việc làm như chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, phát
triển ngành công nghiệp phụ trợ, chính sách di dân xây dựng vùng kinh
tế mới, chính sách xuất khẩu lao động, chính sách phát triển công nghiệp
nông thôn, chính sách khôi phục và phát triển các nghề thủ công.
+ Chính sách việc làm hướng đến các đối tượng đặc biệt, nhóm yếu thế
(người tàn tật, nghèo, các phạm nhân, người hồi hương v.v.....)
Nguồn tạo ra việc làm chủ yếu là từ các chủ thể sử dụng lao động trong nền
kinh tế, trong đó chủ yếu là từ hai khu vực nông nghiệp và các doanh nghiệp trong
các khu vực công nghiệp và dịch vụ với các hình thức sở hữu khác nhau (nhà nước,
tư nhân, có vốn đầu tư nước ngoài). Nguồn và chủ thể sử dụng lao động tạo việc
làm trong khu vực nông nghiệp nông thôn có thể chia ra làm hai nhóm chính đó là
việc làm phi nông nghiệp và việc làm tự tạo bao gồm cả nông nghiệp và phi nông
nghiệp. Các chính sách khuyến khích đầu tư phát triển công nghiệp nông thôn, các
doanh nghiệp vừa và nhỏ về đất đai, thuế, chính sách tín dụng, các hỗ trợ kỹ thuật
quản lý v.v... đóng vai trò quan trọng trong khuyến khích, thúc đẩy tạo việc làm thu
hút lao động nông nhàn, lao động mất đất, lao động bị thất nghiệp…. Công nghiệp
địa phương và đầu tư nước ngoài đang tạo ra việc làm ở khu vực nông thôn đồng
thời tạo ra các cơ sở kỹ thuật, dịch vụ vệ tinh tạo việc làm có kỹ năng.
Người lao động tự tạo việc làm trong khu vực nông nghiệp thông qua phát
triển các mô hình canh tác trên địa bàn, mở các trang trại, nuôi các vật nuôi, cây
trồng có giá trị kinh tế cao và có thể tạo ra cho mình việc làm phi nông nghiệp (tiểu
thủ công nghiệp, dịch vụ phục vụ đời sống) góp phần dịch chuyển lao động khỏi
khu vực nông nghiệp.
Việc phát triển các khu công nghiệp, các ngành nghề lĩnh vực sản xuất thu hút
lao động, kinh tế dịch vụ, hệ thống các doanh nghiệp dân doanh, doanh nghiệp vừa
và nhỏ là những hướng tạo việc làm tích cực cho lao động qua đào tạo nghề. Những
45
ngành nghề ưa chuộng thu hút nhiều lao động là những ngành gia công sản phẩm
xuất khẩu như dệt may, giày da, gốm sứ, lắp ráp các hàng điện tử xe máy.....
Các chính sách, chương trình lớn của chính phủ để tạo việc làm có thể chia ra
hai nhóm chính, đó là: (i) nhóm các chương trình, kế hoạch, dự án phát triển kinh tế
xã hội gắn với giải quyết việc làm; và (ii) nhóm chương trình trợ giúp trực tiếp của
nhà nước thành các chương trình việc làm.
Với nhóm thứ nhất, việc gắn nhiệm vụ giải quyết, tạo việc làm cho người lao
động là nhiệm vụ quan trọng và mang tính chất pháp lý lồng ghép vào trong các
chương trình, kế hoạch, dự án lớn về phát triển kinh tế xã hội của quốc gia. Từ đó,
kế hoạch phát triển kinh tế xã hội cũng đồng thời là kế hoạch phát triển và tạo việc
làm cho người lao động. Trường hợp của Việt nam những kế hoạch này đề được
ghi nhận và trở thành pháp lệnh trong các kế hoạch phát triển 5 năm. Các chương
trình dự án quốc gia khi thực hiện cũng là một kênh lớn của nhà nước tạo việc làm.
Trợ giúp trực tiếp của nhà nước để tạo việc làm thông qua các dự án cho vay
vốn sản xuất giải quyết việc làm của quỹ quốc gia về việc làm; các dự án nâng cao
năng lực phát triển thị trường lao động, dự án chương trình đào tạo nghề quốc gia.
Thông qua các chương trình, các chính sách tín dụng và chính sách phát triển
ngành nghề chính phủ đã tạo ra môi trường khuyến khích các chủ thể trong nền
kinh tế tạo việc làm và thu hút lao động tham gia đào tạo, dịch chuyển lao động.
1.5.2. Công nghiệp hóa, chuyển đổi nền kinh tế và chính sách sử dụng lao
động ảnh hưởng đến việc làm của lao động qua đào tạo nghề
a) Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế
Như một qui luật, các quốc gia sẽ phải trải qua thời kỳ công nghiệp hóa và
hiện đại hóa nền sản xuất. Công nghiệp hóa từng bước và nhanh chóng qui định
mọi phương diện của lực lượng lao động cả về trình độ, cơ cấu CMKT, các yêu cầu
tư chất người lao động và môi trường lao động.
46
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế về bản chất là quá trình phát triển
toàn diện, nhanh chóng nền kinh tế thông qua phát triển công nghiệp, dịch vụ dựa
trên nền sản xuất hiện đại. Trên giác độ lao động, việc làm được phản ảnh trong các
mô hình dịch chuyển lao động kinh điển của A. Lewis, Torado và Oshima. Công
nghiệp hóa gắn chặt với mô hình tăng trưởng kinh tế. Kinh nghiệm của nhiều quốc
gia trong công nghiệp hóa đều đi đến xu hướng công nghiệp hóa hướng ra xuất
khẩu, đặc biệt là trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập.
Mô hình công nghiệp hóa hướng ra xuất khẩu, các thành phần kinh tế có cơ
hội phát triển, đặc biệt là vai trò của khu vực kinh tế tư nhân và khu vực có vốn đầu
tư nước ngoài. CNH-HĐH làm cho khu vực công nghiệp, các ngành công nghiệp
chế biến, chế tạo, xây dựng và dịch vụ phát triển với qui mô lớn tạo nhiều việc làm
thu hút lao động dịch chuyển từ khu vực nông nghiệp. Khu vực sản xuất chế biến
hàng xuất khẩu, gia công và chế tạo tăng trưởng mạnh mẽ tạo ra nhiều việc làm.
Do tác động của công nghiệp hóa lan tỏa và có hiệu ứng tích cực với cả khu
vực nông nghiệp, nông thôn. Năng suất lao động trong nông nghiệp tăng lên cùng
với nó là sức mua của người dân tăng, cầu hàng hóa phi nông nghiệp tăng tiếp tục
thúc đẩy sản xuất và đầu tư. Mặt khác, năng suất lao động tăng tạo ra nhiều lao
động dôi dư trong khu vực nông nghiệp sẵn sàng cho việc dịch chuyển tìm kiếm cơ
hội trong khu vực công nghiệp và dịch vụ.
Quá trình công nghiệp hoá đồng thời làm thay đổi nghề nghiệp của người lao
động. Nhiều ngành, nghề truyền thống sẽ mất đi, xuất hiện ngày càng nhiều ngành,
nghề mới, trước hết là trong lĩnh vực công nghệ cao (công nghệ sinh học, thông tin,
tự động hoá, vật liệu mới…). Quá trình công nghiệp hóa đồng thời tạo nhiều việc
làm có chất lượng, đòi hỏi lao động có CMKT cao và dần dần làm thay đổi cơ cấu
CMKT của lực lượng lao động, thay đổi kết cấu việc làm trong nền kinh tế.
b) Chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường
47
Chuyển từ kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường, đồng nghĩa với
ba tác động lớn vào việc làm đó là (i) các nguồn lực sản xuất được phân bổ theo cơ
chế thị trường; (ii) lao động và việc làm dịch chuyển từ khu vực nhà nước sang
khu vực ngoài nhà nước; và (iii) tiền lương và thu nhập lao động trở thành thước đo
giá trị và là công cụ điều tiết nguồn lao động.
Nguồn lao động qua đào tạo nghề được đào tạo bởi khu vực nhà nước trước
đây bị cứng nhắc về chương trình, lạc hậu về nội dung và công nghệ và thường là
cung lao động bị vượt quá
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA_Bui.Ton.Hien_NEU .pdf