Đề tài Nghiên cứu về hệ thống định giá trong kế toán Việt Nam

Tài liệu Đề tài Nghiên cứu về hệ thống định giá trong kế toán Việt Nam: 1 MỞ ĐẦU Tính cấp thiết của đề tài Một trong những vấn đề quan trọng của công tác kế toán là định giá nhằm xác định giá trị bằng tiền của các đối tượng kế toán để phục vụ cho công việc ghi chép và lập báo cáo tài chính. Qua quá trình phát triển của định giá đã có nhiều loại giá khác nhau được sử dụng, trong đó giá trị hợp lý ngày càng đóng vai trò quan trọng, với mục đích trình bày thông tin trên báo cáo tài chính một cách trung thực và hợp lý hơn. Mặc dù chưa có chuẩn mực cụ thể về vấn đề này, nhưng giá trị hợp lý đã được thừa nhận và áp dụng ở nhiều nước trên thế giới cách đây rất lâu. Tại Việt Nam giá trị hợp lý cũng đã xuất hiện để định giá các đối tượng kế toán. Tuy nhiên, do còn khá mới mẻ nên việc áp dụng chưa được rộng rãi và chưa đạt được mục đích của giá trị hợp lý. Vì vậy việc “định hướng về việc xác định giá trị hợp lý trong kế toán doanh nghiệp Việt Nam” là một vấn đề cần thiết trong giai đoạn hiện nay nhằm: - Làm rõ bản chất của giá trị h...

pdf92 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1557 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Nghiên cứu về hệ thống định giá trong kế toán Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 MỞ ĐẦU Tính cấp thiết của đề tài Một trong những vấn đề quan trọng của công tác kế toán là định giá nhằm xác định giá trị bằng tiền của các đối tượng kế toán để phục vụ cho công việc ghi chép và lập báo cáo tài chính. Qua quá trình phát triển của định giá đã có nhiều loại giá khác nhau được sử dụng, trong đó giá trị hợp lý ngày càng đóng vai trò quan trọng, với mục đích trình bày thông tin trên báo cáo tài chính một cách trung thực và hợp lý hơn. Mặc dù chưa có chuẩn mực cụ thể về vấn đề này, nhưng giá trị hợp lý đã được thừa nhận và áp dụng ở nhiều nước trên thế giới cách đây rất lâu. Tại Việt Nam giá trị hợp lý cũng đã xuất hiện để định giá các đối tượng kế toán. Tuy nhiên, do còn khá mới mẻ nên việc áp dụng chưa được rộng rãi và chưa đạt được mục đích của giá trị hợp lý. Vì vậy việc “định hướng về việc xác định giá trị hợp lý trong kế toán doanh nghiệp Việt Nam” là một vấn đề cần thiết trong giai đoạn hiện nay nhằm: - Làm rõ bản chất của giá trị hợp lý và khẳng định một công cụ định giá mới phục vụ cho công tác kế toán ở Việt Nam. - Mang đến sự phù hợp về định giá giữa Việt Nam và quốc tế để rút ngắn khoảng cách trong quá trình hội nhập. Mục đích nghiên cứu của luận văn Mục đích nghiên cứu của luận văn là nhằm định hướng về về việc sử dụng giá trị hợp lý trong kế toán doanh nghiệp Việt Nam, bằng cách tiếp cận những nghiên cứu trên thế giới và thực tế áp dụng giá trị hợp lý trong kế toán doanh nghiệp ở Việt Nam. Đối tượng nghiên cứu Đề tài chỉ giới hạn ở kế toán tài chính doanh nghiệp Việt Nam, không đề cập đến kế toán quản trị cũng như các lĩnh vực kế toán khác. 2 Đề tài tập trung nghiên cứu và giải quyết những vấn đề chủ yếu sau đây: - Nghiên cứu về hệ thống định giá trong kế toán; lịch sử hình thành, bản chất và nội dung của giá trị hợp lý, cũng như thực trạng áp dụng giá trị hợp lý trên thế giới. - Nghiên cứu về hệ thống định giá trong kế toán Việt Nam; nghiên cứu về đặc điểm của giá trị hợp lý trong lý thuyết cũng như khảo sát thực tế áp dụng giá trị hợp lý trong kế toán doanh nghiệp Việt Nam, để từ đó bàn về vai trò hiện tại và tương lai cũng như những điều kiện để nâng cao vai trò của giá trị hợp lý. - Định hướng về việc sử dụng giá trị hợp lý cho phù hợp với đặc điểm của Việt Nam và thông lệ của quốc tế trong giai đoạn trước mắt cũng như là lâu dài. Phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở phân tích thực tiễn theo quan điểm lịch sử và toàn diện, gắn sự phát triển của giá trị hợp lý với điều kiện kinh tế xã hội của Việt Nam trong xu thế chung của thế giới. Để đánh giá thực trạng, luận văn sử dụng một số công cụ phân tích định lượng như: phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu. Những đóng góp của luận văn Những đóng góp chính là: - Hệ thống hoá về định giá trong kế toán, nêu lên bản chất và nội dung cơ bản của giá trị hợp lý. - Hệ thống hoá vấn đề định giá trong kế toán Việt Nam. Khái quát các yêu cầu về giá trị hợp lý trong chuẩn mực kế toán, phân tích và đánh giá bản chất, vai trò của giá trị hợp lý trong kế toán Việt Nam. Nhận định những thuận lợi và khó khăn trong việc nâng cao vai trò của giá trị hợp lý trong kế toán doanh nghiệp. - Định hướng về việc sử dụng giá trị hợp lý: 3 Trong giai đoạn trước mắt, luận văn đề xuất những kiến nghị để hoàn thiện các chuẩn mực hiện có, với mục đích tiếp tục nghiên cứu thử nghiệm giá trị hợp lý Về lâu dài: luận văn đề nghị điều chỉnh Luật kế toán, chuẩn mực chung, và đề xuất ban hành một số chuẩn mực mới với mục đích phát triển giá trị hợp lý đồng hành cùng hệ thống kế toán Việt Nam. Bố cục của luận văn Luận văn gồm 64 trang, 7 bảng biểu, 1 sơ đồ và 9 phụ lục. Nội dung luận văn ngoài phần mở đầu và phần kết luận gồm 3 chương: Chương 1: Tổng quan về giá trị hợp lý Chương 2: Thực trạng áp dụng giá trị hợp lý tại Việt Nam và những vấn đề đặt ra xung quanh việc sử dụng giá trị hợp lý. Chương 3: Định hướng về việc sử dụng giá trị hợp lý trong kế toán doanh nghiệp Việt Nam. 4 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ GIÁ TRỊ HỢP LÝ Xác định giá trị có vai trò quan trọng trong công tác kế toán nhằm cung cấp những thông tin hữu ích cho người sử dụng báo cáo tài chính. Hiện nay, giá trị hợp lý là một xu hướng mới để định giá các đối tượng kế toán. Phần này sẽ trình bày các vấn đề về định giá nói chung và sau đó làm rõ hơn về quá trình phát triển, bản chất cũng như nội dung của giá trị hợp lý để hiểu rõ hơn về xu hướng này. 1.1. VẤN ĐỀ ĐỊNH GIÁ TRONG KẾ TOÁN 1.1.1. Khái niệm định giá trong kế toán Định giá (còn gọi là đánh giá, tính giá) là “xác định giá trị bằng tiền tệ cho các đối tượng hoặc sự kiện liên quan đến doanh nghiệp”1. Định giá diễn ra thường xuyên trong hoạt động kinh tế của doanh nghiệp như khi giao dịch, mua bán, sản xuất. Định giá trong kế toán Trong kế toán, với chức năng “thu thập, xử lý, kiểm tra, phân tích và cung cấp thông tin kinh tế tài chính dưới hình thức giá trị, hiện vật và thời gian lao động”2 thì định giá trong kế toán là xác định giá trị tiền tệ khi phản ánh các đối tượng và các nghiệp vụ của kế toán. Do đề tài chỉ tập trung vào việc định giá trong kế toán tài chính, đối tượng của định giá trong kế toán tài chính là đối tượng phản ánh của kế toán, bao gồm: tài sản, nợ phải trả, doanh thu, chi phí … Xét trong mối quan hệ với nghiệp vụ và giao dịch thì định giá trong kế toán bao gồm hai loại : - Định giá ban đầu : là xác định giá trị của đối tượng kế toán ngay khi nghiệp vụ kinh tế phát sinh để ghi nhận vào sổ sách kế toán. 1 Eldon S. Hendriksen, Accounting theory, xuất bản lần thứ tư, trang 75 2 Luật Kế toán Việt Nam, năm 2003, điều 4. 5 - Định giá sau ghi nhận ban đầu: là xác định lại giá trị của các đối tượng kế toán sau một kỳ nhất định, xuất phát từ sự thay đổi giá trị của các đối tượng này như hao mòn, đánh giá lại… 1.1.2. Tầm quan trọng của định giá trong kế toán Định giá là một công việc quan trọng trong kế toán tài chính bởi vì : (1). Định giá là một phương pháp cơ bản của kế toán Thông qua định giá, giá trị của các đối tượng kế toán của doanh nghiệp được biểu hiện dưới hình thái tiền tệ, xác định được giá trị tài sản, nguồn vốn, cũng như kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Trong hệ thống các phương pháp kế toán, định giá đóng vai trò quan trọng trong việc kết hợp với các phương pháp kế toán khác như tài khoản, ghi sổ kép, tổng hợp và cân đối… để thực hiện các mục đích và nhiệm vụ của kế toán. (2). Định giá ảnh hưởng đến quyết định của người đọc báo cáo tài chính Định giá ảnh hưởng đến tất cả các khoản mục của báo cáo tài chính, từ đó nó ảnh hưởng đến các chỉ tiêu cơ bản để đánh giá tình hình tài chính, tình hình kinh doanh của doanh nghiệp. Ví dụ, nếu tài sản được đánh giá cao hơn giá trị của nó sẽ dẫn đến chỉ số về khả năng thanh toán cao làm cho nhà đầu tư, chủ nợ kỳ vọng vào khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Hoặc nếu đánh giá không đúng tình hình hoạt động kinh doanh sẽ làm ảnh hưởng đến tỉ suất sinh lời, số vòng quay vốn, số vòng quay hàng tồn kho… Như vậy, định giá ảnh hưởng rất lớn đến quyết định của người đọc báo cáo tài chính. Chính vì tầm quan trọng này mà các chuẩn mực kế toán thường dành một phần lớn nội dung để bàn về vấn đề định giá các khoản mục trên báo cáo tài chính. 1.1.3. Các giả thiết, nguyên tắc kế toán hưởng đến việc định giá Do kế toán tài chính phục vụ cho việc lập báo cáo tài chính và phải đảm bảo tính chất trung thực, hợp lý, việc định giá trong kế toán phải đảm bảo những nguyên 6 tắc nhất định để tránh sự tuỳ tiện hoặc chủ quan của người kế toán. Phần này sẽ trình bày những nguyên tắc kế toán có ảnh hưởng rõ rệt đến định giá dựa trên khuôn mẫu lý thuyết của Ủy ban chuẩn mực kế toán quốc tế (dưới đây gọi là IAS framework) IAS framework đề cập đến hai giả định (cơ sở dồn tích, hoạt động liên tục) và bốn đặc điểm chất lượng (có thể hiểu được, có thể so sánh được, thích hợp và đáng tin cậy). Trong đó những giả định và các đặc điểm chất lượng có ảnh hưởng rõ rệt đến định giá là: Giả định về tính hoạt động liên tục Báo cáo tài chính được lập trên giả định rằng doanh nghiệp đang hoạt động và sẽ không có ý định ngừng hoạt động trong một tương lai gần. Giả định này ảnh hưởng quan trọng đến việc định giá. Nó là cơ sở cho phép giá gốc được sử dụng để đánh giá và trình bày các yếu tố của báo cáo tài chính. Nếu giả định này bị vi phạm thì tất cả tài sản của doanh nghiệp phải được trình bày theo giá trị thuần có thể thực hiện. Đặc điểm có thể so sánh được Thông tin cần được trình bày trên báo cáo tài chính sao cho người đọc có thể so sánh chúng với báo cáo tài chính của doanh nghiệp khác, hoặc với các kỳ trước của chính doanh nghiệp đó. Đặc điểm này chính là lý do để thông tin được trình bày theo hình thức tiền tệ. Không những thế, nó còn chi phối đến phương pháp định giá : các cách định giá khác nhau sẽ dẫn đến tình hình tài chính và tình hình kinh doanh của doanh nghiệp khác nhau, vì vậy yêu cầu các phương pháp định giá phải được sử dụng nhất quán giữa các kỳ. Đặc điểm đáng tin cậy Thông tin chỉ hữu ích khi nào chúng đáng tin cậy. Thông tin được gọi là đáng tin cậy khi chúng không bị sai sót hay thiên lệch một cách trọng yếu. 7 Trong đặc điểm đáng tin cậy, nguyên tắc khách quan và nguyên tắc thận trọng có ảnh hưởng rõ rệt đến định giá. - Nguyên tắc khách quan Thông tin trên báo cáo tài chính phải khách quan, không bị sai lệch một cách cố ý. Nguyên tắc khách quan ảnh hưởng lớn đến định giá. Nguyên tắc này yêu cầu các loại giá được sử dụng phải có thể xác định được và có thể kiểm chứng được. Đây cũng chính là lý do khiến cho hệ thống kế toán dựa trên giá gốc được chấp nhận ở hầu hết các nước trên thế giới. Cùng với sự phát triển của hệ thống thông tin làm cho yêu cầu có thể có được và có thể kiểm chứng được trở nên dễ dàng làm xuất hiện nhiều loại giá khác được sử dụng: giá thay thế, giá thị trường, giá trị hợp lý… - Nguyên tắc thận trọng Nguyên tắc thận trọng yêu cầu phải trình bày nội dung về các sự kiện, tình thế không chắc chắn khó có thể tránh được, chẳng hạn như khả năng thu hồi các khoản nợ khó đòi, thời gian hữu dụng của tài sản, khả năng xảy ra các khoản nợ phải trả… Nguyên tắc thận trọng nhằm mục đích tránh thổi phồng giá trị tài sản, nhưng cũng không có nghĩa là giấu bớt giá trị thực của tài sản. Nguyên tắc này ảnh hưởng đến việc định giá ở chỗ : yêu cầu giá được sử dụng không làm thổi phồng giá trị tài sản, có nghĩa là tài sản được ghi nhận không được vượt khỏi giá trị thuần có thể thực hiện. 1.1.4. Các loại giá được sử dụng Quá trình phát triển các lý thuyết và thực tiễn hoạt động kế toán đã dẫn đến sự ra đời nhiều loại giá khác nhau, chúng được phân thành các loại như sau: a. Giá đầu vào - Giá gốc (historical cost): là số tiền hoặc tương đương tiền đã thanh toán để có một tài sản hoặc thanh toán một khoản nợ phải trả. 8 Giá gốc còn được gọi là giá phí lịch sử, giá phí, giá thực tế. - Giá thay thế (replacement cost)- chi phí thay thế: là số tiền hoặc tương đương tiền sẽ được chi trả để nhận được tài sản tương đương có cùng giá trị hữu dụng còn lại. Giá thay thế được ước tính dựa vào giá thị trường, hoặc chỉ số giá đặc biệt, hoặc sự ước lượng của nhà quản lý. b. Giá đầu ra - Giá trị thuần có thể thực hiện (net realizable value): là số tiền hoặc tương đương tiền thuần sẽ thu được khi bán tài sản hoặc sẽ phải trả để thanh toán nợ hiện tại. Giá trị thuần có thể thực hiện là giá bán ước tính trong điều kiện kinh doanh bình thường trừ chi phí ước tính cho việc hoàn thành và tiêu thụ. Giá trị thuần có thể thực hiện cũng được ước tính từ mức giá thị trường và điều chỉnh theo giá bán ước lượng (tức là giá thị trường cộng thêm lãi mong muốn), hoặc được ước lượng dựa vào chỉ số giá đặc biệt và sự định giá. - Hiện giá (present value): là giá trị hiện tại của dòng tiền thuần sẽ nhận được từ việc sử dụng tài sản hoặc sẽ trả để thanh toán nợ. Để tính toán hiện giá phụ thuộc vào: dòng tiền mong muốn, thời gian của dòng tiền mong muốn, số năm còn lại của tài sản hoặc nợ phải trả, lãi suất chiết khấu phù hợp. c. Các loại giá khác - Giá thị trường (market value): là giá của tài sản hoặc nợ phải trả được xác định trên thị trường hoạt động. Điều kiện để giá thị trường phản ánh đúng giá cả của tài sản, nợ phải trả là phải có thị trường hoạt động, trong đó người mua và người bán phải có đầy đủ sự hiểu biết về giao dịch, mua bán không có bất cứ sự cưỡng ép nào. Vì vậy vấn đề khó khăn gặp phải khi sử dụng giá thị trường là trong nhiều 9 trường hợp không có thị trường hoạt động để có thể xác định được giá thị trường. - Giá trị hợp lý (fair value): “là giá mà tại đó tài sản và nợ phải trả có thể được trao đổi trong một giao dịch hiện tại giữa những người tự nguyện, thông thạo, không có mối quan hệ”3 Giá trị hợp lý là giá trao đổi mà được ước tính dựa vào hoạt động của những người tham gia trên thị trường trong một giao dịch giả định. Trong trường hợp có giá thị trường thì giá trị hợp lý chính là giá thị trường. Trong các trường hợp khác thì giá trị hợp lý được xác định dựa vào việc ước tính. Giá trị hợp lý và giá thị trường là cùng một loại giá dựa trên các thị trường hoạt động, tuy nhiên chúng không đồng nhất hoàn toàn. Trong những trường hợp không có thị trường hoạt động thì không thể xác định giá thị trường, nhưng giá trị hợp lý vẫn được xác định dựa trên các ước tính. d. Ngoài ra một số khoản mục được đánh giá theo sự lựa chọn giữa một trong hai loại giá: - Giá thấp hơn giữa giá gốc và giá thị trường (LCM – lower of cost and market value). LCM thường được áp dụng trong hệ thống kế toán của Mỹ để trình bày khoản mục hàng tồn kho. Giá thị trường trong LCM là giá thay thế nằm trong phạm vi giá trần và giá sàn. Giá trần là giá trị thuần có thể thực hiện; giá sàn là giá trị thuần có thể thực hiện trừ lợi nhuận ước tính. - Giá thấp hơn giữa giá gốc và giá trị thuần có thể thực hiện Giá này được đề cập trong chuẩn mực kế toán quốc tế để trình bày khoản mục hàng tồn kho. 3 FASB, Fair Value Measurements, dự thảo, năm 2004, trang 2 10 1.1.5. Các hệ thống định giá kế toán Hệ thống định giá kế toán xuất hiện từ lý luận về vốn và bảo toàn vốn. Trong mỗi hệ thống kế toán, các loại giá khác nhau được sử dụng phối hợp để định giá các đối tượng kế toán. 1.1.5.1. Khái niệm về vốn và bảo toàn vốn Lý luận về vốn và bảo toàn vốn làm nền tảng cho việc xây dựng hệ thống giá trong kế toán. Phần này sẽ trình bày khái niệm về vốn và những ảnh hưởng của nó đến việc định giá. Khái niệm về vốn : Theo khái niệm tài chính vốn là tiền đầu tư hoặc sức mua của vốn đã đầu tư, vốn đồng nghĩa với tài sản thuần hoặc vốn chủ sở hữu. Theo khái niệm vật chất vốn như là năng lực hoạt động, năng lực sản xuất của một doanh nghiệp. Khái niệm bảo toàn vốn Dựa trên hai khái niệm về vốn làm nảy sinh hai khái niệm về bảo toàn vốn: bảo toàn vốn tài chính và bảo toàn vốn vật chất. Khái niệm bảo toàn vốn tài chính: lợi nhuận là phần vượt của giá trị tài sản thuần cuối kỳ so với đầu kỳ sau khi loại trừ ảnh hưởng của các khoản góp vốn hoặc chia lãi cho cổ đông. Như vậy lợi nhuận chỉ xảy ra khi có sự tăng lên của giá trị tài sản thuần trong những điều kiện trên. Theo IAS framework có hai phương pháp để xác định bảo toàn vốn tài chính : - Theo đơn vị tiền tệ danh nghĩa : lợi nhuận là khoản gia tăng vốn danh nghĩa trong kỳ. Như vậy khoản gia tăng về giá cả của tài sản hiện có trong kỳ được coi là lợi nhuận, tuy nhiên chúng chưa được ghi nhận cho đến khi tài sản đó được bán hoặc trao đổi. 11 - Theo đơn vị sức mua ổn định : lợi nhuận là khoản gia tăng sức mua của vốn trong kỳ. Như vậy chỉ có phần gia tăng giá cả của tài sản vượt quá phần tăng của sức mua chung thì mới được coi là lợi nhuận. Khái niệm bảo toàn vốn vật chất: lợi nhuận là phần vượt của năng lực sản xuất vật chất cuối kỳ so với đầu kỳ sau khi trừ đi khoản góp vốn và chia lãi cho các cổ đông. Khái niệm bảo toàn vốn về mặt vật chất yêu cầu báo cáo dựa trên cơ sở giá hiện hành. 1.1.5.2. Các hệ thống định giá kế toán Các khái niệm về vốn và bảo toàn vốn ra đời xuất phát từ biến động giá trong nền kinh tế và nó đưa ra cách thức để giải thích một cách có hệ thống việc áp dụng các loại giá trong nền kinh tế. Tương ứng với hai quan điểm bảo toàn vốn tài chính và vật chất đã có bốn hệ thống định giá kế toán : - Hệ thống định giá kế toán dựa trên giá gốc: ghi nhận và lập báo cáo tài chính dựa trên cơ sở giá gốc. Bảo toàn vốn về mặt tài chính theo đơn vị tiền tệ danh nghĩa. Hệ thống này sử dụng giá gốc là chủ yếu và kết hợp với các loại giá khác: giá trị hợp lý, giá trị thuần có thể thực hiện, hiện giá. Để ghi nhận ban đầu chủ yếu là sử dụng giá gốc. Sau ghi nhận ban đầu, giá gốc của một số khoản mục được điều chỉnh dựa trên nguyên tắc thận trọng (chỉ cho phép điều chỉnh giảm) hoặc đánh giá lại (điều chỉnh cho cả tăng và giảm) - Hệ thống định giá kế toán dựa trên giá gốc đã được điều chỉnh giá theo sức mua của tiền tệ: giá gốc được điều chỉnh theo chỉ số giá trước khi lập báo cáo tài chính, nhằm bảo toàn vốn tài chính theo sức mua ổn định. - Hệ thống định giá kế toán dựa trên giá hiện hành: với mục đích bảo toàn năng lực sản xuất, hệ thống kế toán này đánh giá các đối tượng kế toán vào cuối kỳ theo hiện giá, chi phí thay thế, giá trị thuần có thể thực hiện, hoặc kết hợp giữa các loại giá. 12 - Hệ thống định giá kế toán dựa trên giá hiện hành điều chỉnh theo sức mua chung: sử dụng như giá hiện hành và điều chỉnh theo chỉ số giá trước khi lập báo cáo tài chính, nhằm bảo toàn năng lực sản xuất và sức mua chung. 1.1.6. Định giá một số khoản mục theo chuẩn mực quốc tế và theo kế toán Mỹ, kế toán Anh Để thấy được vai trò của các loại giá, chúng tôi đã so sánh định giá một số khoản mục theo chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS), theo kế toán Mỹ (US GAAP) và theo kế toán Anh (UK GAAP) trong bảng 1.1 Hiện nay hệ thống định giá kế toán dựa vào giá gốc là hệ thống định giá kế toán chủ yếu của tất cả các quốc gia trên thế giới. Trong hệ thống này, chủ yếu sử dụng giá gốc để đánh giá các đối tượng kế toán, bên cạnh đó, một số loại giá khác được sử dụng trong từng trường hợp cụ thể. Ưu điểm của hệ thống giá gốc là khách quan, thận trọng, có thể kiểm soát được, tuy nhiên thường bị lạc hậu vì giá cả biến đổi, vì vậy làm cho tính hữu ích của thông tin không cao. Trong những năm 70 – 80 của thế kỷ hai mươi, hệ thống định giá kế toán dựa trên giá hiện hành được cho phép. Hệ thống giá này khắc phục được nhược điểm của hệ thống kế toán dựa vào giá gốc, nó bảo toàn được năng lực sản xuất vật chất, tuy nhiên nó phức tạp vì phải điều chỉnh lại doanh thu, giá vốn hàng bán, khấu hao… nên phải điều chỉnh lại các báo cáo tài chính. Trong bối cảnh đó, giá trị hợp lý dần dần được quan tâm và được sử dụng trong nhiều lĩnh vực, trong nhiều trường hợp. 13 Bảng 1.1 Định giá một số khoản mục theo chuẩn mực quốc tế (IAS) và theo kế toán Mỹ (US GAAP), kế toán Anh (UK GAAP) (Nguồn: Tổng hợp từ tài liệu của PricewaterhouseCoopers và chuẩn mực kế toán quốc tế) Khoản mục IAS US GAAP UK GAAP Nguyên tắc kế toán Sử dụng giá gốc, nhưng những tài sản tăng giá có thể được đánh giá lại Nguyên tắc giá gốc. Không cho phép đánh giá lại tài sản, ngoại trừ một số chứng khoán và công cụ phái sinh xác định tại giá trị hợp lý Giống IAS Nhà xưởng và thiết bị Trình bày theo giá gốc trừ khấu hao trừ giảm giá hoặc theo giá trị hợp lý Sử dụng giá gốc, không cho phép đánh giá lại Giống IAS Tài sản cố định vô hình Trình bày theo giá gốc trừ hao mòn trừ giảm giá hoặc theo giá trị hợp lý Sử dụng giá gốc Giống IAS Bất động sản đầu tư Hoặc xem như là đầu tư hoặc xem như là bất động sản và thiết bị. Xác định theo giá gốc trừ khấu hao lũy kế trừ giảm giá; hoặc theo giá trị hợp lý. Tương tự như bất động sản khác, sử dụng giá gốc Ghi nhận tại giá thị trường công khai trừ cho khấu hao. 14 Công cụ tài chính Ghi nhận dựa vào phân loại đầu tư: - Giữ đến kỳ: ghi nhận theo giá trị hoàn dần bằng giá gốc trừ phần thanh toán gốc trừ giá trị hoàn dần luỹ kế. - Chứng khoán thương mại hoặc chứng khoán có thể bán ghi nhận tại giá trị hợp lý. Giống IAS Ghi nhận đầu tư dài hạn tại chi phí (giá gốc), giá thị trường hoặc giá thích hợp khác ví dụ như giá trị tài sản thuần. Ghi nhận đầu tư ngắn hạn tại giá thấp hơn giữa giá gốc và giá trị thuần có thể thực hiện hoặc giá hiện hành. Hàng tồn kho Trình bày theo giá thấp hơn giữa giá gốc và giá trị thuần có thể thực hiện. Ghi nhận theo giá thấp hơn giữa giá gốc và giá thị trường. Phù hợp với IAS 1.2. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA GIÁ TRỊ HỢP LÝ 1.2.1. Lược sử về sự hình thành và phát triển của giá trị hợp lý Sự hình thành và phát triển của giá trị hợp lý có thể được chia làm 2 giai đoạn: Giai đoạn 1960 đến 1990: Giá trị hợp lý bắt đầu xuất hiện và mở rộng phạm vi sử dụng. Trên thế giới, giá trị hợp lý xuất hiện lần đầu tiên ở Mỹ, được đề cập đến trong báo cáo của Ủy ban nguyên tắc kế toán (APB). Sự hình thành giá trị hợp lý là một quá trình lâu dài: 15 - Từ năm 1962 – 1969: là giai đoạn tiền đề, trong giai đoạn này giá thị trường được sử dụng, nhưng trong một số trường hợp không có thị trường hoạt động để có thể xác định được giá thị trường. - Đến năm 1970 : giá trị hợp lý chính thức xuất hiện, được đề cập đến đầu tiên trong Ý kiến của APB số 16 (APB Opinion 16), số 17, để ghi nhận lợi thế thương mại, ghi nhận giá trị của tài sản có được do hợp nhất: APB Opinion 16 - Hợp nhất doanh nghiệp “Tất cả tài sản, nợ phải trả có được trong hợp nhất doanh nghiệp nên được ghi nhận tại giá trị hợp lý của chúng tại ngày mua” APB Opinion 17 – Tài sản vô hình – “Sự khác nhau giữa giá trị hợp lý và chi phí sẽ được coi như lợi thế thương mại” Sau khi xuất hiện, giá trị hợp lý tiếp tục được thừa nhận và phạm vi sử dụng của giá trị hợp lý dần dần được mở rộng hơn. Giá trị hợp lý bắt đầu được sự quan tâm và áp dụng của nhiều nước cũng như của Ủy ban chuẩn mực kế toán quốc tế (IASB), được sử dụng trong nhiều lĩnh vực: dầu khí, truyền hình, ngân hàng, bảo hiểm…Và cũng đã có những hướng dẫn hạn chế về cách xác định và trình bày giá trị hợp lý trên báo cáo tài chính. Nhìn chung, trong giai đoạn này giá trị hợp lý xuất hiện để áp dụng cho lợi thế thương mại và tài sản có được do hợp nhất, sau đó giá trị hợp lý được mở rộng để áp dụng cho một số chứng khoán và giao dịch phi tiền tệ, công cụ tài chính, thuê tài sản. Giai đoạn 1991 đến nay: Giá trị hợp lý phát triển mạnh mẽ cùng với sự hình thành và phát triển của các thị trường hoạt động. Đây là giai đoạn phát triển nhất của giá trị hợp lý, nó được khẳng định qua hai giai đoạn: - Từ năm 1991 đến 2000: sự phát triển được đánh dấu bằng hàng loạt các chuẩn mực của Mỹ : FASB Statement 107 (năm 1991) công bố về giá trị hợp lý của công cụ tài chính, FASB Statement 141 - hợp nhất doanh nghiệp, FASB Statement 16 142 lợi thế thương mại và tài sản vô hình … các chuẩn mực này đã đưa ra được những hướng dẫn rõ ràng hơn về giá trị hợp lý. Lúc này chuẩn mực của Mỹ cũng như chuẩn mực quốc tế đã bắt đầu sử dụng giá trị hợp lý cho việc đánh giá sau ghi nhận ban đầu. Trong giai đoạn này, giá trị hợp lý được áp dụng rộng rãi trong nhiều ngành, nhiều khoản mục làm xuất hiện sự lo lắng về khả năng của giá trị hợp lý do những hướng dẫn về giá trị hợp lý vẫn chưa đạt được sự thống nhất chung và có nhiều mâu thuẫn trong các công bố. - Từ năm 2000 đến nay Bắt đầu từ năm 2000 để giải quyết những lo lắng về giá trị hợp lý, FASB và IASB đã bắt tay vào nghiên cứu sâu hơn về lý thuyết của giá trị hợp lý. Năm 2004 sự phát triển mạnh mẽ của giá trị hợp lý được chứng minh bằng Dự thảo Chuẩn mực về giá trị hợp lý của FASB – giá trị hợp lý bắt đầu được nghiên cứu vào năm 2003, và sau nhiều lần tiến hành thảo luận Dự thảo được công bố chính thức vào tháng 6 năm 2004. Bên cạnh đó, chuẩn mực kiểm toán quốc tế số 545 - Kiếm toán xác định và công bố giá trị hợp lý hướng dẫn kiểm toán giá trị hợp lý cho các báo cáo tài chính bắt đầu từ năm 2004 cũng đã cho thấy sự phát triển của giá trị hợp lý. 1.2.2. Nội dung của giá trị hợp lý Hiện nay, hệ thống chuẩn mực kế toán quốc tế chưa ban hành chuẩn mực về giá trị hợp lý. Phần viết dưới đây dựa vào dự thảo chuẩn mực về giá trị hợp lý của FASB. 1.2.2.1. Khái niệm giá trị hợp lý Giá trị hợp lý là giá mà tại đó tài sản và nợ phải trả có thể được trao đổi trong một giao dịch hiện tại giữa những người tham gia tự nguyện, không có mối quan hệ, có đầy đủ sự hiểu biết về trao đổi. Các khái niệm trong định nghĩa này được hiểu như sau: 17 - Những người tham gia tự nguyện: là những người mua bán không có mối quan hệ với nhau, có khả năng tài chính và khả năng pháp luật để thực hiện giao dịch, tự nguyện tham gia giao dịch, không có sự ép buộc. - Có đầy đủ sự hiểu biết: những người tham gia giao dịch phải có trình độ chung của sự hiểu biết về những nhân tố, những đặc điểm của tài sản và nợ phải trả đang giao dịch, có sự hiểu biết về giao dịch. 1.2.2.2. Định nghĩa thị trường và những thông tin có thể lấy được từ thị trường Trong quá trình xác định giá trị hợp lý cần phải tham khảo những thông tin và những dữ liệu được lấy từ thị trường. Những thị trường có thể là: - Thị trường hối đoái (exchange market): thị trường này cung cấp sự rõ ràng và minh bạch cao để trao đổi công cụ tài chính. Trên thị trường này thì giá đóng (giá thực hiện giao dịch) được xác định dễ dàng và thường xuyên. Ví dụ : thị trường chứng khoán - Thị trường bán buôn (dealer market): trên thị trường này người mua sử dụng vốn của họ để giữ hàng tồn kho nào đó và sau đó thì bán lại, giá trả và giá chào thì có được dễ dàng và thường xuyên hơn giá đóng. Ví dụ thị trường hàng hoá, tài sản … - Thị trường môi giới (brokered market): trên thị trường này những người môi giới không sử dụng vốn của họ để giữ tài sản, hàng hoá, mà chỉ cố gắng kết hợp những người mua và những người bán. Trên thị trường này thì thường có sẵn giá giao dịch đã thực hiện. Ví dụ thị trường bất động sản thương mại, thị trường nhà ở … - Thị trương trực tiếp (principal – to principal market): là những nơi giao dịch trực tiếp, được thoả thuận độc lập, không qua trung gian. Các thông tin trên thị trường này thì ít công khai. 18 Những thông tin có thể lấy được từ thị trường: Khi ước tính giá trị hợp lý doanh nghiệp phải dựa vào các thông tin hiện tại, có nguồn gốc từ các nguồn độc lập của doanh nghiệp. Những thông tin mà doanh nghiệp có thể lấy được từ thị trường là: - Giá tham chiếu 4: là giá trả, giá chào, giá đóng – giá giao dịch…các giá được niêm yết trên thị trường, có được dễ dàng và thường xuyên, những giao dịch thì xảy ra thường xuyên đủ để cung cấp thông tin về giá, những thông tin về giá này sử dụng được trong hiện tại, - Thông tin về lãi suất, khả năng thanh toán tiền mặt, tỉ giá hối đoái, dòng tiền theo hợp đồng, những điều khoản trong hợp đồng…những thông tin này được lựa chọn sử dụng trong ước tính giá trị hợp lý. - Đánh giá tổn thất và rủi ro tín dụng, được sử dụng để ước tính lãi suất cho vay, lãi suất khi mua trả chậm … - Các dữ liệu tín dụng đặc biệt và các bảng thống kê thích hợp khác mà được công khai (ví dụ các dữ liệu trong các ngành đặc biệt…). 1.2.2.3. Phương pháp xác định giá trị hợp lý Để có thể đưa ra phương pháp xác định giá trị hợp lý thích hợp, người định giá cần xem xét những vấn đề sau : (1) Tiền đề định giá Tiền đề định giá cung cấp mục đích của định giá để từ đó lựa chọn phương pháp cho thích hợp. Tiền đề định giá bao gồm: - Tiền đề định giá hoạt động liên tục hoặc đang sử dụng: áp dụng để xác định giá trị hợp lý của tài sản và nợ phải trả khi: doanh nghiệp hoạt động liên tục hoặc tài sản được xác định là để sử dụng cho hoạt động của doanh nghiệp. 4 Giá tham chiếu: là giá mà có những dữ liệu đáng tin cậy của thị trường hoạt động, hoặc được công bố chính thức từ thị trường hoạt động. 19 - Tiền đề định giá trong trao đổi: tài sản được xác định không nhằm mục đích sử dụng mà để bán, trao đổi. (2) Cấp độ xác định giá trị hợp lý Căn cứ vào những thông tin và những giả định đang có, người định giá sẽ xem xét xem có thể xác định giá trị hợp lý ở cấp độ nào. Cấp độ càng cao thì ước tính càng đáng tin cậy. FASB đã đưa ra ba cấp độ (trong đó cấp độ 1 là cấp độ cao nhất): - Cấp độ 1: áp dụng trong trường hợp có giá tham chiếu trên thị trường của tài sản và nợ phải trả y hệt như tài sản và nợ phải trả đang được định giá. Giá trị hợp lý sẽ là giá tham chiếu đó. Y hệt có nghĩa là: đối với tài sản: có cùng đặc điểm, cùng tính chất, cùng tình trạng cũ - mới, cùng nước sản xuất, cùng năm sản xuất. Đối với nợ phải trả: có cùng những điều khoản trong hợp đồng, cùng thời gian, số tiền, sự đánh giá tình trạng tín dụng… Nếu không đạt được cấp độ 1 thì sẽ xem xét sang cấp độ 2. - Cấp độ 2: áp dụng trong trường hợp có giá tham chiếu trên thị trường của tài sản hoặc nợ phải trả tương tự như tài sản hoặc nợ phải trả đang được định giá. Giá trị hợp lý sẽ là giá tham chiếu điều chỉnh cho những khác biệt. Nếu không đạt được cấp độ 2 thì sẽ xem xét sang cấp độ 3. - Cấp độ 3: áp dụng trong trường hợp không có giá tham chiếu của tài sản hoặc nợ phải trả tương tự, hoặc có nhưng mức độ khác biệt thì không đánh giá được rõ ràng. Giá trị hợp lý sẽ được ước tính dựa vào các phương pháp: phương pháp tiếp cận thị trường, phương pháp tiếp cận thu nhập, phương pháp tiếp cận chi phí. Phương pháp nào sử dụng nhiều dữ liệu và giả định từ thị trường thì phương pháp đó sẽ cho kết quả đáng tin cậy nhất. Nếu không có những giả định và dữ liệu từ thị trường thì sẽ ước tính giá trị hợp lý dựa vào những giả định và những ước tính nội bộ của doanh nghiệp. 20 (3) Phương pháp xác định giá trị hợp lý Tùy thuộc vào từng cấp độ sẽ áp dụng phương pháp xác định phù hợp. Đối với ước tính cấp độ 1 và cấp độ 2 thì chỉ cần sử dụng 1 phương pháp (phương pháp tiếp cận thị trường), đối với ước tính cấp độ 3 thì cần phải sử dụng cả 3 phương pháp. Các phương pháp được mô tả như sau: - Phương pháp tiếp cận thị trường: áp dụng khi có giá tham chiếu trên thị trường. Giá trị hợp lý dựa vào giá tham chiếu, điều chỉnh nếu cần thiết. Những trường hợp phải điều chỉnh giá tham chiếu: + Giá tham khảo không lấy từ thị trường hiện tại mà là giá cũ, do vậy doanh nghiệp nên xem xét thời gian của giao dịch thực tế, những thay đổi trong điều kiện tín dụng, lãi suất, những nhân tố khác… để điều chỉnh cho phù hợp. + Sự khác nhau của tài sản có giá tham chiếu trên thị trường và tài sản đang được định giá thì không thể xác định rõ ràng, vì vậy cần phải điều chỉnh giá tham chiếu. + Những giá mà không đại diện cho các giao dịch trên thị trường, ví dụ như giá được lấy từ giao dịch bị cưỡng ép, giao dịch giữa các bên có liên quan … + Có sự khác biệt trong đơn vị tính toán, hoàn cảnh, khu vực, hợp đồng… - Phương pháp tiếp cận chi phí: theo phương pháp này giá trị hợp lý được ước tính dựa vào số tiền ước tính để có được tài sản thay thế. - Phương pháp tiếp cận thu nhập: theo phương pháp này, giá trị hợp lý được ước tính dựa vào dòng thu nhập mong chờ. Hay nói cách khác giá trị hợp lý chính là hiện giá của dòng thu nhập mong chờ bằng cách sử dụng lãi suất để quy đổi dòng tiền mong chờ tương lai về hiện tại. (Xem phụ lục số 3). Phương pháp xác định giá trị hợp lý được khái quát lại qua sơ đồ phương pháp xác định giá trị hợp lý trong hình 1.1 dưới đây. 21 Hình 1.1: Phương pháp xác định giá trị hợp lý SƠ ĐỒ PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ HỢP LÝ Bắt đầu có giá thị trường tham chiếu Ước tính cấp độ 1 PP tiếp cận thị trường giá tham chiếu Ước tính cấp độ 2 PP tiếp cận thị trường giá tham chiếu đã điều chỉnh không có giá thị trường tham chiếu, hoặc có giá thị trường nhưng không xác định được mức độ khác biệt PP tiếp cận thị trường Ước tính cấp độ 3 PP tiếp cận thu nhập Lựa chọn kết quả đáng tin cậy nhất phù hợp với tiền đề định giá PP tiếp cận chi phí 22 1.2.3. Bản chất của giá trị hợp lý 1.2.3.1. Bản chất của giá trị hợp lý Việc xem xét quá trình hình thành và phát triển của giá trị hợp lý trong toàn bộ hệ thống định giá kế toán cho phép rút ra một số nhận xét sau nhằm làm sáng tỏ bản chất của giá trị hợp lý: So sánh với hệ thống giá gốc: Hệ thống giá gốc được sử dụng hiện nay là hệ thống giá gốc dựa trên đơn vị tiền tệ danh nghĩa, có điều chỉnh để khắc phục những yếu kém của giá gốc. Tuy nhiên, trong điều kiện sự phát triển của nền kinh tế thị trường hiện tại, hệ thống này bộc lộ một số nhược điểm. Giá trị hợp lý đã khắc phục các nhược điểm này chủ yếu thông qua việc phát triển các công cụ định giá sau ghi nhận ban đầu bao gồm: (1) Giá trị hợp lý thu hẹp phạm vi áp dụng nguyên tắc thận trọng trong việc sử dụng giá trị thuần có thể thực hiện khi tài sản bị giảm giá. Theo nguyên tắc thận trọng, trong các tình huống chưa rõ ràng, các phương pháp kế toán được sử dụng theo khuynh hướng thận trọng, nghĩa là tránh thổi phồng tài sản và thu nhập. Khi các thị trường hoạt động phát triển, khả năng định giá theo thị trường với các thông tin đáng tin cậy tăng lên, việc áp dụng thận trọng như trên không còn hoàn toàn thích hợp. Do đó, đối với những loại tài sản đã có thị trường hoạt động phát triển, giá trị hợp lý có thể sử dụng để phản ánh sự thay đổi của giá gốc, bao gồm cả sự tăng lên hay giảm đi của giá trị tài sản mà không đe doạ yêu cầu đáng tin cậy của báo cáo tài chính. (2) Giá trị hợp lý cung cấp một cơ sở lý thuyết và thực tiễn cho việc đánh giá lại tài sản. Trước đây, một số nước và ngay cả IAS cho phép đánh giá lại tài sản dài hạn nhưng chưa đưa ra một khuôn khổ chung cho quá trình này. Giá trị hợp lý đã giải quyết bằng cách cung cấp một cơ sở lý luận và hệ thống phương pháp đầy đủ. 23 Ngoài ra trong những trường hợp không có giá gốc, giá trị hợp lý được sử dụng để định giá trong ghi nhận ban đầu. Thí dụ các trường hợp trao đổi tài sản. So sánh với hệ thống giá hiện hành Hệ thống giá hiện hành dựa trên cơ sở sử dụng hiện giá, giá thay thế hoặc giá trị thuần có thể thực hiện đưa ra một phương pháp điều chỉnh có hệ thống toàn bộ báo cáo tài chính, không chỉ điều chỉnh giá trị tài sản và nợ phải trả mà còn điều chỉnh tất cả các chỉ tiêu trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh (xem phụ lục số 1). Do thay đổi triệt để giá gốc, hệ thống này mặc dù đưa ra một phương pháp giải quyết có hệ thống nhưng lại quá phức tạp trong quá trình thực hiện. Chính vì thế, khi nền kinh tế thế giới đã kiểm soát được lạm phát trong mức độ nhất định, hệ thống giá hiện hành đã không còn được sử dụng. So sánh với hệ thống giá hiện hành, giá trị hợp lý không phủ nhận giá gốc mà vẫn đảm bảo việc định giá hướng về thị trường. Khi sử dụng giá trị hợp lý, những tài sản nào có giá trị thay đổi so với giá thị trường mới cần điều chỉnh và quá trình điều chỉnh này cũng làm phát sinh thu nhập và chi phí khi đánh giá lại nhưng không làm thay đổi dữ liệu hoạt động kinh doanh bình thường của doanh nghiệp (doanh thu, chi phí…) Từ những nhận xét trên, chúng tôi cho rằng: Bản chất của giá trị hợp lý là một phương pháp bổ sung cho giá gốc chủ yếu tập trung vào việc định giá sau ghi nhận ban đầu trên cơ sở giá thị trường và các thông tin có được từ thị trường. Trong một số trường hợp, giá trị hợp lý có thể sử dụng cho đánh giá ban đầu của tài sản khi không có giá gốc. 1.2.3.2. Những tranh luận về giá trị hợp lý Mặc dù giá trị hợp lý được công nhận và áp dụng ở nhiều nước, ngay cả trong các chuẩn mực kế toán quốc tế nhưng vẫn còn nhiều tranh luận xung quanh nó. Những người ủng hộ giá trị hợp lý thì cho rằng: giá trị hợp lý là một giá thích hợp vì nó đánh giá thường xuyên những ảnh hưởng của sự vận động của thị trường cho tài sản và nợ phải trả của công ty. Giá trị hợp lý thì thích hợp hơn cho nhà đầu 24 tư: “không ai quan tâm đến giá trị hợp lý của máy móc cũ, nhưng phần lớn họ muốn biết giá trị hợp lý của một công ty”5. Họ cho rằng giá gốc chỉ thích hợp và tin cậy ngay tại ngày chúng được ghi nhận, giá gốc thì nhấn mạnh tính đáng tin cậy, còn giá trị hợp lý nhấn mạnh tính thích hợp. Những người chưa ủng hộ giá trị hợp lý thì cho rằng: liệu giá trị hợp lý có thể được xác định đáng tin cậy. Giá trị hợp lý là một ước tính dựa vào giá thị trường, trong trường hợp không có giá thị trường thì nó được ước tính dựa vào những giả định chủ quan của chủ doanh nghiệp, của những người đinh giá, vậy nó có đáng tin cậy? Giá trị hợp lý có bị lạm dụng trong những trường hợp không có giá thị trường? Tiếp theo nữa, giá trị hợp lý phản ánh sự thay đổi của thị trường làm cho báo cáo tài chính dễ thay đổi, liệu nó có làm các nhà đầu tư lo lắng? Tuy nhiên những tranh luận này được một số nhà nghiên cứu6 đưa ra những kết luận sau: - Xét về mặt lý thuyết thì giá trị hợp lý rất thích hợp, vì nó phản ánh những thay đổi của thị trường. Vấn đề được tranh luận nhiều nhất đó là tính đáng tin cậy và cách xác định giá trị hợp lý. FASB và IASB đang cố gắng nỗ lực để ban hành các chuẩn mực để lý thuyết nhanh chóng bắt kịp thực tế đang ứng dụng rộng rãi. - Ước tính giá trị hợp lý chứa đựng những giả định, tuy nhiên những giả định này được yêu cầu công bố, chính vì vậy mà khả năng lạm dụng giá trị hợp lý cũng sẽ bị hạn chế. - Ngày nay với sự phát triển của hệ thống thông tin và sự phát triển của các thị trường chuyên ngành thì giá trị hợp lý có thể được xác định và kiểm chứng dễ dàng, và những giả định ngày càng mang tính khách quan hơn nên tính đáng tin cậy của giá trị hợp lý tăng lên rất nhiều. Mặt khác, các mô hình định giá cho những trường 5 David Tweedie, chủ tịch của IASB ở Luân Đôn, Phát biểu trên tạp chí CFO - A Faiwell to History ngày 1/2/2003 6 Phát biểu trên tạp chí CFO – A fairwell to history ngày 1/2/2003 của các nhà nghiên cứu: Paul Pacter - Chủ tịch của Deloitte ở Hồng Kông Pearl Tân - giảng viên kế toán trường Nanyang – Singapore Rebecca Mc Enally - Chủ tịch của AIMR (Association for Investment Management and Research) Robert H. Herz - Kế toán ở Mỹ 25 hợp không có giá thị trường cũng đang phát triển và hoàn thiện tạo điều kiện cho giá trị hợp lý mở rộng phạm vi sử dụng của mình. 1.3. THỰC TIỄN ÁP DỤNG GIÁ TRỊ HỢP LÝ TRÊN THẾ GIỚI Giá trị hợp lý thì được thừa nhận ở nhiều nước trên thế giới, phần này sẽ xem xét việc áp dụng giá trị hợp lý tại Mỹ và những yêu cầu về giá trị hợp lý theo IAS. 1.3.1. Áp dụng giá trị hợp lý tại Mỹ a. Giá trị hợp lý được áp dụng trong những trường hợp sau: - Ghi nhận và trình bày công cụ tài chính (chứng khoán thương mại và chứng khoán sẵn sàng để bán, công cụ phái sinh) - Ghi nhận tài sản và nợ phải trả có được trong hợp nhất doanh nghiệp - Ghi nhận ban đầu trong trường hợp trao đổi phi tiền tệ. - Ghi nhận và trình bày các khoản mục phát sinh bằng ngoại tệ. - Ghi nhận ban đầu cho tài sản cố định thuê tài chính. b. Giá tri hợp lý được xác định dựa vào: Theo FAS số 141 - Hợp nhất kinh doanh và FAS số 142 - Lợi thế thương mại và tài sản vô hình- yêu cầu sử dụng ước tính giá trị hợp lý, khuynh hướng này sẽ tiếp tục phát triển, khuyến khích nhiều doanh nghiệp quan tâm đến những chuyên viên định giá - những chuyên viên về xác định giá trị hợp lý. Trong khi đó theo những nguyên tắc kế toán được chấp nhận chung ở Mỹ (US GAAP) thì không yêu cầu chủ doanh nghiệp phải thuê chuyên viên bên ngoài để thực hiện công việc xác định giá trị hợp lý, tuy nhiên nhiều doanh nghiệp vẫn thuê chuyên viên bên ngoài vì lý do khách quan, kinh nghiệm chuyên môn và kỹ năng của chuyên viên. Giá trị hợp lý được xác định dựa vào: - Giá trị hợp lý là giá trao đổi trong một giao dịch hiện tại (là giao dịch bình thường chứ không phải giao dịch bắt buộc hay thanh lý) giữa những người tham gia tự nguyện. 26 - Nếu giá tham chiếu có sẵn thì giá này được sử dụng - Nếu có nhiều hơn một giá thị trường thì giá được chọn để sử dụng nên lấy từ thị trường hoạt động nhất. - Nếu giá tham chiếu không có sẵn, có thể sử dụng ước tính của nhà quản lý. - Đối với chứng khoán thì dựa vào: Bảng yết giá hoặc bảng giá chào, giá trả là có sẵn dựa vào những giao dịch đã đăng ký trên Ủy ban giao dịch chứng khoán (SEC) hoặc từ Hiệp hội toàn quốc hệ thống báo giá tự động của những người mua bán chứng khoán (NASDAQ) hoặc lấy từ Cục niêm yết giá. c. Yêu cầu công bố giá trị hợp lý - Yêu cầu công bố giá trị hợp lý của tất cả công cụ tài chính, những thông tin mô tả thích hợp của công cụ tài chính cũng cần được công bố. - Những thông tin về giá trị hợp lý nên được trình bày cùng với giá trị sổ sách của nó. - Giá trị hợp lý có thể được công bố trong thuyết minh hoặc trình bày dài hơn – bao gồm: bảng tóm tắt giá trị hợp lý, giá trị sổ sách và một bảng tham khảo chéo đến những thuyết minh khác. 1.3.2. Áp dụng giá trị hợp lý theo yêu cầu trong các chuẩn mực kế toán quốc tế Chuẩn mực kế toán quốc tế đã yêu cầu áp dụng giá trị hợp lý trong những trường hợp sau: - Hợp nhất doanh nghiệp: tài sản và nợ phải trả có được do hợp nhất doanh nghiệp được ghi nhận theo giá trị hợp lý của chúng vào ngày mua. Phần chi phí mua vượt quá giá trị hợp lý được ghi nhận là lợi thế thương mại. - Hàng tồn kho đối với nhà sản xuất sản phẩm nông nghiệp và khoáng sản và những người môi giới thì cho phép xác định hàng tồn kho của họ tại giá trị hợp lý trừ đi chi phí để bán. 27 - Nông nghiệp: động vật, cây trồng, rừng và sản phẩm được ghi nhận tại giá trị hợp lý cùng với sự đánh giá lại thường xuyên. - Bất động sản, nhà xưởng, thiết bị: doanh nghiệp có quyền lựa chọn ghi nhận sau ghi nhận ban đầu tại: giá gốc trừ đi khấu hao và sự giảm giá; hoặc ghi nhận tại giá trị hợp lý với sự đánh giá lại thường xuyên. (Các trường hợp trao đổi phi tiền tệ: ghi nhận ban đầu theo giá trị hợp lý của tài sản nhận được) - Tài sản cố định vô hình: doanh nghiệp có thể lựa chọn ghi nhận tài sản cố định vô hình tại giá trị hợp lý - nếu có thị trường hoạt động cho tài sản đó tồn tại. - Tài sản cố định thuê tài chính: ghi nhận ban đầu theo giá trị hợp lý hoặc hiện giá của khoản tiền thuê tối thiểu phải trả. - Bất động sản đầu tư: doanh nghiệp có thể báo cáo bất động sản theo: chi phí trừ khấu hao trừ giảm giá; hoặc theo giá trị hợp lý. - Các khoản mục phát sinh bằng ngoại tệ: ghi nhận và trình bày theo giá trị hợp lý tại ngày phát sinh giao dịch và đánh giá lại theo giá trị hợp lý vào cuối kỳ. - Công cụ tài chính: Ghi nhận và định giá: Ghi nhận ban đầu theo giá trị hợp lý của công cụ tài chính. Ghi nhận sau ghi nhận ban đầu theo giá trị hợp lý của tất cả khoản đầu tư trong chứng khoán vốn, một số chứng khoán nợ và tất cả công cụ phái sinh, và bất cứ tài sản tài chính nào được giữ để trao đổi. Cũng như vậy, tại ngày mua hoặc phát hành, bất cứ tài sản tài chính hoặc nợ tài chính được ghi nhận theo giá trị hợp lý. Như vậy phạm vi áp dụng giá trị hợp lý tại Mỹ hẹp hơn so với yêu cầu trong chuẩn mực kế toán quốc tế ở chỗ: không sử dụng giá trị hợp lý để đánh giá sau ghi nhận ban đầu cho các khoản mục tài sản cố định hữu hình, tài sản cố định vô hình, bất động sản đầu tư. 28 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG GIÁ TRỊ HỢP LÝ TẠI VIỆT NAM VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA XUNG QUANH VIỆC SỬ DỤNG GIÁ TRỊ HỢP LÝ Giá trị hợp lý đang là một xu hướng mới về định giá với mục đích trình bày thông tin trên báo cáo tài chính trung thực và hợp lý hơn. Chương này sẽ xem xét quá trình hình thành của khái niệm giá trị hợp lý trong tổng thể vấn đề định giá tại Việt Nam cũng như các yêu cầu và khả năng áp dụng giá trị hợp lý tại Việt Nam. 2.1. ĐỊNH GIÁ TRONG KẾ TOÁN VIỆT NAM Cũng như các nước trên thế giới, định giá là một phần không thể thiếu trong công tác kế toán tại Việt Nam. Về mặt lý thuyết, vấn đề định giá thường được trình bày trong các tài liệu giảng dạy kế toán như một phương pháp kế toán: “Định giá là một phương pháp kế toán biểu hiện các đối tượng kế toán bằng tiền theo những nguyên tắc và yêu cầu nhất định”7. Phương pháp định giá thể hiện qua các kỹ thuật xác định giá trị của hàng tồn kho, chứng khoán, tài sản cố định, hay là tính giá thành của các sản phẩm…. Trong thực tế, các nguyên tắc định giá được quy định hoặc hướng dẫn trong Luật kế toán (trước đây là Pháp lệnh kế toán - thống kê), trong các chuẩn mực và các thông tư hướng dẫn chuẩn mực. Quá trình phát triển của kế toán Việt Nam những năm qua cũng là một quá trình phát triển các nguyên tắc và phương pháp định giá. Giai đoạn 1954 - 1986 Hệ thống kế toán trong giai đoạn này chỉ sử dụng chủ yếu trong các xí nghiệp quốc doanh như là công cụ để phản ánh và giám đốc hoạt động sản xuất kinh doanh và sử dụng vốn của nhà nước, vì vậy giá được sử dụng phải rõ ràng và có chứng từ đầy đủ. Trong giai đoạn này, giá được sử dụng phổ biến là giá gốc (dưới tên gọi 7 Nguyễn Việt – Võ Văn Nhị, Kế toán đại cương, Nhà xuất bản tài chính năm 1997, trang 132. 29 “giá thực tế”). Trong một số trường hợp, giá danh nghĩa được sử dụng với các thuật ngữ như “giá lẻ chỉ đạo”, “giá đảm bảo kinh doanh” là giá do Nhà nước ấn định. Giai đoạn 1986 - 1995 Sau Đại hội Đảng lần thứ VI, Việt Nam đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, xóa bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập trung, chuyển sang cơ chế mới về quản lý kinh tế, Nhà nước không can thiệp sâu vào hoạt động kinh doanh mà chỉ kiểm soát bằng luật pháp. Trong giai đoạn này, các hình thức giá danh nghĩa mất dần, đặc biệt là sau khi hệ thống tài khoản kế toán thống nhất được ban hành mới và có hiệu lực từ ngày 1/1/1990. Trong hệ thống này, giá gốc đã trở thành gần như loại giá chủ yếu được sử dụng trong kế toán Việt Nam, ngoại trừ các trường hợp đánh giá lại tài sản theo quyết định của Nhà nước. Giai đoạn 1995 – 2001 Chỉ ba năm sau khi ban hành, hệ thống tài khoản kế toán doanh nghiệp 1990 đã bộc lộ nhiều nhược điểm trước sự chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường cùng với sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần cũng như sự đa dạng của các hoạt động kinh doanh, và sức ép hội nhập kinh tế. Hệ thống kế toán Việt Nam một lần nữa được cải cách cơ bản theo quyết định 1141TC/QĐ/CĐKT ngày 1 tháng 11 năm 1995 của Bộ Tài Chính. Trong giai đoạn này, ngoài giá gốc đã xuất hiện giá trị thuần có thể thực hiện dùng để lập dự phòng giảm giá hàng tồn kho, chứng khoán, phải thu khó đòi, thể hiện qua thông tư 107/2001/TT-BTC ngày 31/12/2001. Tuy nhiên giai đoạn này nhiều vấn đề vẫn chưa giải quyết được phương thức định giá phù hợp như tài sản cố định vô hình, tài sản cố định thuê tài chính, đầu tư tài chính, chênh lệch tỉ giá … Ví dụ như tài sản cố định thuê tài chính: - Theo quyết định 1062/TC/QĐ/CSTC ngày 14/11/1996 của Bộ Tài chính, nguyên giá được ghi nhận theo tổng số tiền thuê phải trả, - Theo quyết định 166/1999/QĐ-BTC ngày 30/12/1999 của Bộ Tài chính, nguyên giá được ghi nhận theo giá mua thực tế cộng với chi phí, như vậy 30 giai đoạn này đã tách được nguyên giá của tài sản cố định và chi phí đi vay, tuy nhiên chi phí đi vay này lại phân bổ đều cho các kỳ trả mà không tính đến thời gian của chuỗi tiền tệ. Giai đoạn 2001 đến nay Đây là giai đoạn phát triển nhất của hệ thống kế toán từ trước đến nay, thể hiện qua việc đã ban hành các chuẩn mực kế toán (bắt đầu từ năm 2001) và Luật kế toán (năm 2003). Vấn đề về định giá, những nội dung cơ bản được quy định bao gồm: (1) Giá gốc được coi là một nguyên tắc cơ bản của kế toán Việt Nam. Theo Luật kế toán năm 2003: “Giá trị tài sản được tính theo giá gốc, bao gồm chi phí mua, bốc xếp, vận chuyển, lắp ráp, chế biến và các chi phí liên quan trực tiếp khác đến khi đưa tài sản vào trạng thái sẵn sàng sử dụng…” Chuẩn mực chung - được coi như khuôn mẫu xây dựng và hoàn thiện chuẩn mực, chế độ kế toán Việt Nam – đã coi giá gốc là một trong bảy nguyên tắc cơ bản và yêu cầu “ Tài sản phải được ghi nhận theo giá gốc. Giá gốc của tài sản được tính theo số tiền hoặc tương đương tiền đã trả, phải trả hoặc tính theo giá trị hợp lý của tài sản đó vào thời điểm tài sản được ghi nhận. Giá gốc của tài sản không được thay đổi trừ khi có quy định khác trong chuẩn mực kế toán cụ thể” (2) Một số loại giá khác được thừa nhận chính thức Bên cạnh giá gốc, trong các chuẩn mực kế toán Việt Nam rải rác đưa ra quy định về một số loại giá khác: giá trị thuần có thể thực hiện, hiện giá, giá trị hợp lý. Chuẩn mực kế toán số 21 – Trình bày báo cáo tài chính- giải thích: “ ngoài các chính sách kế toán cụ thể được sử dụng trong báo cáo tài chính, điều quan trọng là người sử dụng phải nhận thức được cơ sở đánh giá được sử dụng (như nguyên giá, giá hiện hành, giá trị thuần có thể thực hiện, giá trị hợp lý hoặc giá trị hiện tại) … Có thể thấy, trong những năm qua, vấn đề định giá trong kế toán Việt Nam đã không ngừng được cải thiện theo hướng phù hợp với sự đổi mới của nền kinh tế và yêu cầu hội nhập. Tuy nhiên, giữa các chuẩn mực kế toán Việt Nam và các thông lệ quốc tế vẫn còn khoảng cách đáng kể trong lĩnh vực định giá, cụ thể như: 31 - Việc định giá các khoản đầu tư chủ yếu vẫn dựa trên giá gốc, các mô hình định giá khác chưa được sử dụng hoặc sử dụng hạn chế. - Một số kỹ thuật bổ sung cho hoạt động định giá chưa được quy định như vấn đề đánh giá tổn thất, điều này sẽ ảnh hưởng đến khả năng phản ánh lợi thế thương mại. - Vai trò của giá trị hợp lý còn mờ nhạt, vấn đề này sẽ được nghiên cứu sâu hơn trong phần tiếp theo của chương này. 2.2. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA GIÁ TRỊ HỢP LÝ TRONG KẾ TOÁN VIỆT NAM. 2.2.1. Lược sử hình thành Không xuất hiện sớm như quốc tế (khoảng năm 1970), tại Việt Nam giá trị hợp lý ra được đề cập đầu tiên trong các chuẩn mực kế toán Việt Nam ban hành theo quyết định số 149/2001/QĐ-BTC ngày 31/12/2001, được sử dụng để ghi nhận ban đầu cho các trao đổi phi tiền tệ và ghi nhận doanh thu. Kể từ đó cho đến nay, giá trị hợp lý tiếp tục được phát triển thể hiện trong các thông tư hướng dẫn chuẩn mực (thông tư 89/2002/TT-BTC, thông tư 105/2003/TT- BTC, thông tư 23/2005/TT-BTC) và các quyết định ban hành chuẩn mực vào các năm tiếp theo (quyết định 165/2002/QĐ-BTC, quyết định 234/2003/QĐ-BTC,) cũng đã mở rộng phạm vi sử dụng giá trị hợp lý cho các khoản mục khác: thuê tài sản, ngoại tệ. Các chuẩn mực yêu cầu sử dụng giá trị hợp lý được trình bày trong bảng 2.1 dưới đây. 32 Bảng 2.1 Danh sách các chuẩn mực yêu cầu sử dụng giá trị hợp lý Chuẩn mực số Năm ban hành Chuẩn mực số 3 – Tài sản cố định hữu hình 2001 Chuẩn mực số 4 – Tài sản cố định vô hình 2001 Chuẩn mực số 14 – Doanh thu và thu nhập khác 2001 Chuẩn mực số 1 - Chuẩn mực chung 2002 Chuẩn mực số 6 –Thuê tài sản 2002 Chuẩn mực số 10 - Ảnh hưởng của việc thay đổi tỉ giá hối đoái 2002 Chuẩn mực số 5 - Bất động sản đầu tư 2003 Phạm vi áp dụng giá trị hợp lý: (1) Ghi nhận ban đầu cho một số trường hợp của tài sản cố định (TSCĐ): - TSCĐ có được do trao đổi TSCĐ của doanh nghiệp để lấy TSCĐ khác không tương tự, - TSCĐ có được do được biếu tặng, tài trợ, - TSCĐ có được bằng việc trao đổi chứng từ liên quan đến quyền sở hữu vốn của đơn vị, - TSCĐ thuê tài chính, - TSCĐ vô hình hình thành trong quá trình sáp nhập doanh nghiệp. (2) Ghi nhận ban đầu cho doanh thu và thu nhâp khác (3) Ghi nhận ban đầu và báo cáo các khoản mục tiền tệ có gốc ngoại tệ, hoặc các khoản mục phi tiền tệ có gốc ngoại tệ mà được ghi nhận ban đầu theo giá trị hợp lý 33 2.2.2. Đặc điểm của giá trị hợp lý trong kế toán Việt Nam hiện nay Tại Việt Nam giá trị hợp lý chỉ được chính thức đề cập đến trong các chuẩn mực kế toán và các thông tư hướng dẫn chuẩn mực. Phần này sẽ trình bày các vấn đề về giá trị hợp lý trong chuẩn mực kế toán cũng như thực tế áp dụng và phân tích những vấn đề đó để rút ra đặc điểm của giá trị hợp lý tại Việt Nam 2.2.2.1. Giá trị hợp lý trong các chuẩn mực kế toán Việt Nam a. Trong chuẩn mực chung – khuôn mẫu lý thuyết Trong chuẩn mực chung, giá trị hợp lý được đề cập đến không phải là một loại giá độc lập mà nó được lồng vào giá gốc: “ Tài sản phải được ghi nhận theo giá gốc. Giá gốc của tài sản được tính theo số tiền hoặc tương đương tiền đã trả, phải trả hoặc tính theo giá trị hợp lý của tài sản đó vào thời điểm tài sản được ghi nhận. Giá gốc của tài sản không được thay đổi trừ khi có quy định khác trong chuẩn mực kế toán cụ thể” (Đoạn 05-VAS1) Ngay trong khuôn mẫu lý thuyết này đã khẳng định cơ sở ghi chép và trình bày là giá gốc, giá trị hợp lý chỉ được sử dụng như là một cách để xác định giá gốc, dùng cho ghi nhận ban đầu. Từ đó, trong các chuẩn mực kế toán cụ thể giá trị hợp lý cũng được đề cập đến với đặc điểm này. b. Trong các chuẩn mực cụ thể (1). Định nghĩa giá trị hợp lý Trong các chuẩn mực có yêu cầu sử dụng giá trị hợp lý đều đưa ra định nghĩa giá trị hợp lý, nhưng định nghĩa đầy đủ nhất là định nghĩa trong chuẩn mực kế toán số 14 – Doanh thu và thu nhập khác, các định nghĩa khác chỉ đề cập đến tài sản mà không đề cập đến nợ phải trả. Chuẩn mực kế toán số 14 – Doanh thu và thu nhập khác- định nghĩa: “giá trị hợp lý là giá trị tài sản có thể trao đổi hoặc giá trị một khoản nợ được thanh toán một cách tự nguyện giữa các bên có đầy đủ hiểu biết trong trao đổi ngang giá” 34 So với định nghĩa của FASB (trình bày ở chương 1 phần II.2) thì định nghĩa này chưa đầy đủ, cụ thể: - Chưa giải thích các thuật ngữ trong định nghĩa như “tự nguyện”, “có đầy đủ hiểu biết trong trao đổi ngang giá” làm cho người sử dụng khó hiểu về vấn đề này. - Định nghĩa không đề cập đến “không có mối quan hệ”. Những người tham gia giao dịch phải là những người không có mối quan hệ với nhau thì mới không ảnh hưởng đến giá cả mua bán. - Định nghĩa này không đề cập đến “giao dịch hiện tại”. Giá được quan sát phải là giá trong giao dịch hiện tại, nếu sử dụng giá khác thì phải điều chỉnh cho phù hợp. (2). Cách xác định giá trị hợp lý Hiện nay trong các chuẩn mực kế toán cũng như các văn bản khác của Bộ Tài chính chưa đề cập đến cách xác định giá trị hợp lý, ngoại trừ đoạn 24 của chuẩn mực kế toán số 4 –Tài sản cố định vô hình: “ Giá trị hợp lý có thể là: - Giá niêm yết tại thị trường hoạt động, - Giá của nghiệp vụ mua bán TSCĐ vô hình tương tự. Nếu không có thị trường hoạt động cho tài sản thì nguyên giá của TSCĐ vô hình được xác định bằng khoản tiền mà doanh nghiệp lẽ ra phải trả vào ngày mua tài sản trong điều kiện nghiệp vụ đó được thực hiện trên cơ sở khách quan dựa trên các thông tin tin cậy hiện có.” Đây là một hướng dẫn cụ thể cho tài sản cố định vô hình, tuy nhiên nó vẫn còn có chỗ chưa phù hợp: “giá trị hợp lý là giá của nghiệp vụ mua bán TSCĐ vô hình tương tự”, vì là tài sản cố định vô hình tương tự nên sẽ có những khác biệt, vậy giá trị hợp lý có phải điều chỉnh cho những khác biệt đó? 35 2.2.2.2 Thực tiễn áp dụng giá trị hợp lý trong các doanh nghiệp Để đánh giá chúng tôi khảo sát 21 doanh nghiệp về sử dụng giá trị hợp lý cho một số khoản mục cụ thể. Bảng câu hỏi, tên doanh nghiệp khảo sát cũng như kết quả khảo sát được trình bày ở phụ lục số 9. Kết quả khảo sát cho thấy: (1) Các doanh nghiệp nhỏ chưa biết các yêu cầu về giá trị hợp lý trong chuẩn mực và chưa hiểu về giá trị hợp lý. Các doanh nghiệp lớn có biết đến giá trị hợp lý và đã áp dụng để ghi nhận. (2) Phần lớn các doanh nghiệp đều ghi nhận các đối tượng kế toán (trong phạm vi khảo sát) phù hợp với các thông tư hướng dẫn, cụ thể: - TSCĐ có được do trao đổi không tương tự ghi nhận theo: + Giá trị hợp lý của tài sản nhận về theo đánh giá thực tế của hội đồng giao nhận (57%), theo khảo sát giá trên thị trường (17%). + Giá trị còn lại của tài sản mang đi trao đổi sau khi điều chỉnh khoản trả thêm hoặc nhận về (26%). - TSCĐ có được do trao đổi tương tự ghi nhận theo: + Giá trị còn lại của tài sản mang đi trao đổi sau khi điều chỉnh khoản trả thêm hoặc thu về (38%) + Giá trên sổ kế toán của đơn vị trao đổi (5%) + Giá trị hợp lý của tài sản nhận về được xác định theo đánh giá của hội đồng định giá (48%), theo khảo sát giá trên thị trường (9%). - TSCĐ mua trả chậm: ghi nhận theo giá mua trả tiền ngay (100%) - TSCĐ được cấp, được điều chuyển: ghi nhận theo giá trị ghi sổ của đơn vị cho, đơn vị điều chuyển (100%) - TSCĐ thuê tài chính ghi nhận theo: + Hiện giá của khoản tiền thuê phải trả (43%) + Giá trị hợp lý của tài sản thuê (24%) 36 + Giá mua trả tiền ngay (33%) - Doanh thu bán trả góp ghi nhận theo: + Hiện giá của các khoản phải thu (43%) + Giá bán trả tiền ngay (57%) 2.2.2.3 Nhận xét Sau khi xem xét các yêu cầu về giá trị hợp lý trong chuẩn mực kế toán và thực tiễn áp dụng giá trị hợp lý tại Việt Nam, chúng tôi có những nhận xét như sau: (1) Một số mặt tồn tại của giá trị hợp lý tại Việt Nam - Định nghĩa giá trị hợp lý thì chưa được rõ ràng, đầy đủ. - Không có hướng dẫn xác định giá trị hợp lý cho các trường hợp được yêu cầu - Giá trị hợp lý chỉ sử dụng cho ghi nhận ban đầu, chưa sử dụng để trình bày các khoản mục sau ghi nhận ban đầu, do đó chưa đạt được mục đích của giá trị hợp lý là trình bày các khoản mục theo những thay đổi của thị trường. - Giá trị hợp lý được sử dụng như là giá gốc, dùng để thay thế giá gốc trong những trường hợp cần thiết. - Còn có những điểm chưa phù hợp giữa chuẩn mực, thông tư và thực tế áp dụng. (Xem bảng 2.2) (2) Các nguyên nhân dẫn đến giá trị hợp lý chưa được áp dụng rộng rãi Theo chúng tôi, giá trị hợp lý chưa được áp dụng rộng rãi vì những nguyên nhân sau: - Do tâm lý của người làm kế toán và nhà quản lý vẫn nhìn nhận công tác kế toán phục vụ cho mục đích thuế, vì vậy các doanh nghiệp chưa mạnh dạn áp dụng giá trị hợp lý vì bằng chứng của giá trị hợp lý phải mất thời gian để kiểm chứng và có thể không được sự thừa nhận của cơ quan thuế. - Chưa có hướng dẫn về giá trị hợp lý. Các doanh nghiệp Việt Nam có thói quen chỉ áp dụng chuẩn mực khi đã có thông tư hướng dẫn cụ thể, và các 37 doanh nghiệp chỉ được phép hạch toán theo các quy định trong thông tư hướng dẫn, vì vậy giá trị hợp lý chưa được áp dụng rộng rãi. - Giữa chuẩn mực và thông tư hướng dẫn còn có những điểm chưa phù hợp, do đó giá được ghi nhận chưa thống nhất hoặc chưa phải là giá trị hợp lý. (Xem bảng 2.2) - Giá trị hợp lý được đề cập đến chưa nhiều, và trong các trường hợp được đề cập đều có giá gốc được xác định rõ ràng, vì vậy doanh nghiệp thường sử dụng giá gốc để ghi sổ. Ví dụ: tài sản có được do trao đổi không tương tự hoặc ghi nhận theo giá trị hợp lý của tài sản nhận về hoặc giá trị còn lại của tài sản đem đi trao đổi sau khi điều chỉnh số tiền nhận hoặc trả thêm. Bảng 2.2 So sánh chuẩn mực – thông tư hướng dẫn - thực tế áp dụng giá trị hợp lý Khoản mục Chuẩn mực Thông tư Thực tế Nhận xét TSCĐ có được bằng cách trao đổi không tương tự. Ghi nhận theo giá trị hợp lý của tài sản nhận về hoặc giá trị còn lại của tài sản mang đi trao đổi sau khi điều chỉnh khoản trả thêm hoặc nhận về. Giống chuẩn mực Ghi theo giá trị hợp lý của tài sản nhận về theo đánh giá của hội đồng giao nhận hoặc khảo sát thực tế Chuẩn mực và thông tư không chỉ cách xác định cụ thể nên doanh nghiệp ghi nhận theo giá của hội đồng đánh giá, hoặc giá khảo sát. TSCĐ được cấp, được điều chuyển Theo giá trị hợp lý của tài sản nhận được. - Thông tư hướng dẫn chuẩn mực không đề cập. -Quyết định số 206/03/QĐ-BTC: + Biếu tặng, cho: Theo giá trị còn lại của đơn vị cấp hoặc điều chuyển Thực tế phù hợp theo quyết định số 206/2003/QĐ- BTC, nhưng không phù hợp với chuẩn mực. 38 đánh giá thực tế của hội đồng giao nhận. + Được cấp, được điều chuyển: theo giá trị còn lại của đơn vị cho, điều chuyển hoặc theo đánh giá của hội đồng giao nhận. TSCĐ thuê tài chính Ghi nhận theo giá thấp hơn giữa giá trị hợp lý và hiện giá của khoản thanh toán tiền thuê tối thiểu. Giống chuẩn mực -Giá mua trả ngay, hiện giá của khoản thanh toán tiền thuê tối thiểu, hoặc giá trị hợp lý Doanh thu bán trả chậm Hiện giá của khoản phải thu Giá bán trả tiền ngay Hiện giá khoản phải thu, hoặc giá bán trả tiền ngay 2.3. NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ SỬ DỤNG GIÁ TRỊ HỢP LÝ TRONG KẾ TOÁN VIỆT NAM Giá trị hợp lý tại Việt Nam vẫn còn một số mặt tồn tại nhất định và chưa được áp dụng rộng rãi. Vì vậy, phần này sẽ làm rõ hơn vai trò của giá trị hợp lý, cũng như những thuận lợi và khó khăn trong việc nâng cao vai trò của giá trị hợp lý tại Việt Nam. 2.3.1. Bàn về vai trò hiện tại và tương lai của giá trị hợp lý tại Việt Nam 2.3.1.1. Vai trò hiện tại Vai trò hiện tại của giá trị hợp lý tại Việt Nam còn khiêm tốn so với sự cần thiết của nó, sự khiêm tốn này thể hiện qua: 39 - Giá trị hợp lý chỉ là sự thay thế giá gốc, - Phạm vi sử dụng của nó hẹp hơn so với quốc tế, cụ thể: + Chưa áp dụng để đánh giá các khoản mục sau ghi nhận ban đầu (xem bảng 2.3), + Chưa áp dụng để ghi nhận cho tài sản và nợ phải trả có được trong hợp nhất, + Chưa áp dụng để ghi nhận và trình bày công cụ tài chính. Chính sự khiêm tốn này đã dẫn đến một số hạn chế cho hệ thống kế toán Việt Nam. Cụ thể là: làm cho hệ thống kế toán Việt Nam không đồng bộ; không theo kịp sự phát triển của nền kinh tế. Chẳng hạn khi các hoạt động hợp nhất xảy ra, doanh nghiệp vẫn sử dụng giá gốc để ghi sổ nên đã không phản ánh đúng giá trị doanh nghiệp do chưa phản ánh lợi thế thương mại của doanh nghiệp. Ví dụ Vinamilk mua Saigon milk năm 2003, cổ đông của Saigon milk sở hữu cổ phiếu mới của Vinamilk theo tỉ lệ 1:1 được tính theo giá trị ghi sổ, như vậy là chưa phản ánh được lợi thế thương mại của các doanh nghiệp. Bảng 2.3 Định giá các khoản mục theo chuẩn mực kế toán Việt Nam đối chiếu với chuẩn mực kế toán quốc tế Khoản mục VAS IAS Hàng tồn kho - Ghi nhận ban đầu theo giá gốc - Đánh giá sau ghi nhận ban đầu: theo giá thấp hơn giữa giá gốc và giá trị thuần có thể thực hiện - Giống Việt Nam. - Giống Việt Nam. Tuy nhiên những nhà môi giới và trao đổi hàng hóa (mà chủ yếu là giữ để bán trong tương lai gần) thì cho phép xác định hàng tồn kho tại giá trị hợp lý. Tài sản cố định hữu hình - Không cho phép đánh giá lại trừ khi có quy định của nhà - Cho phép đánh giá lại 40 nước. - Ghi nhận ban đầu theo giá gốc. + Tài sản cố định hữu hình có được dưới hình thức trao đổi không tương tự: ghi nhận theo giá trị hợp lý của tài sản nhận về hoặc của tài sản mang đi trao đổi sau khi điều chỉnh khoản trả thêm hoặc nhận về. - Báo cáo theo giá trị còn lại (giá gốc trừ hao mòn lũy kế) - Ghi nhận ban đầu theo giá gốc. + Tài sản cố định hữu hình có được dưới hình thức trao đổi không tương tự ghi nhận theo giá trị hợp lý của tài sản nhận về. - Báo cáo theo giá gốc trừ khấu hao lũy kế trừ lỗ do giảm giá hoặc theo giá trị hợp lý. Tài sản cố định vô hình - Ghi nhận ban đầu theo giá gốc - Báo cáo theo giá trị còn lại (giá gốc trừ hao mòn lũy kế) - Giống - Báo cáo theo giá gốc trừ khấu hao lũy kế trừ lỗ do giảm giá, hoặc theo giá trị hợp lý Bất động sản đầu tư - Ghi nhận ban đầu theo giá gốc - Ghi nhận sau ghi nhận ban đầu: theo giá gốc trừ khấu hao lũy kế - Tương tự - Trình bày trên báo cáo tài chính theo giá gốc trừ khấu hao lũy kế trừ lỗ do giảm giá hoặc theo giá trị hợp lý Kế toán các khoản đầu tư vào công ty liên kết, liên doanh Trên báo cáo riêng của nhà đầu tư: sử dụng phương pháp giá gốc Trình bày theo giá gốc hoặc theo giá trị hợp lý phù hợp IAS 39. 2.3.1.2. Tương lai của giá trị hợp lý tại Việt Nam Giá trị hợp lý tại Việt Nam trong tương lai sẽ phát triển mạnh và đóng vai trò quan trọng, điều này được xác định qua hai mặt sau: (1) Sức ép của vấn đề sử dụng giá trị hợp lý trong tương lai. 41 - Sức ép là do yêu cầu của hội nhập. Sự khác biệt giữa Việt Nam và quốc tế chỉ có thể được chấp nhận trong một tương lai gần. Bên cạnh đó, Việt Nam không nằm ngoài sự phát triển của thế giới, chúng ta sẽ tiếp tục ban hành các chuẩn mực mới và hoàn thiện các chuẩn mực cũ trên cơ sở tiếp cận với các chuẩn mực quốc tế, vì vậy giá trị hợp lý được yêu cầu sử dụng. - Sức ép do sự phát triển của bản thân nền kinh tế Việt Nam: Các công ty cổ phần, công ty mẹ con, cũng như là sự hợp nhất, liên doanh, liên kết giữa các doanh nghiệp và các công ty đa quốc gia ngày càng phát triển, nên báo cáo tài chính chủ yếu phục vụ cho các đệ tam nhân như nhà đầu tư, chủ nợ, khách hàng… Do đó thông tin phải có được tính thích hợp và đáng tin cậy cao, và giá trị hợp lý là một sự lựa chọn thích hợp. Hơn nữa, trong những năm gần đây tốc độ lạm phát của Việt Nam khá cao (năm 2004: +9,5%, 7 tháng đầu năm 2005: +5,6%) làm cho việc trình bày thông tin theo giá gốc ngày càng lạc hậu nên cần có cơ sở đánh giá thích hợp hơn. - Ngoài ra, khi chuẩn mực hợp nhất doanh nghiệp, chuẩn mực công cụ tài chính ra đời sẽ cho thấy sự cần thiết phải sử dụng giá trị hợp lý trong kế toán Việt Nam. Trên thế giới cũng chính sự ra đời của hai chuẩn mực này đã tạo bước phát triển mạnh của giá trị hợp lý. (2) Việt Nam đã có những điều kiện để phát triển giá trị hợp lý, đó là: - Hệ thống thị trường đang phát triển, hiện tại đã có thị trường chứng khoán và các thị trường chuyên ngành như thị trường bất động sản, thị trường cà phê, thị trường nông sản…các thị trường này cũng đã góp phần cung cấp thông tin cho việc xác định giá trị hợp lý. - Các tổ chức định giá, các chuyên viên định giá, các chứng thư thẩm định giá8 cũng sẽ là nơi cung cấp các thông tin để xác định giá trị, và các tiêu chuẩn thẩm định giá - lấy giá thị trường làm tiêu chuẩn cho thẩm định giá - sẽ là nền tảng cho việc xác định giá trị hợp lý dựa vào giá thị trường. Tiêu chuẩn 8 Chứng thư thẩm định giá: là văn bản do doanh nghiệp, tổ chức định giá lập nhằm công bố cho khách hàng hoặc bên thứ ba về nội dung cơ bản liên quan đến kết quả thẩm định giá. (Trích tiêu chuẩn thẩm định giá số 4, ban hành theo quyết định số 24/2005/QĐ-BTC ngày 18/4/2005) 42 thẩm định giá bắt đầu được ban hành từ năm 2005, hiện nay đã có 6 tiêu chuẩn (trình bày trong bảng 2.4) được ban hành theo quyết định số 25/2005/QĐ-BTC ngày 18/4/2005 và quyết định số 77/2005/QĐ/BTC ngày 1/11/2005. - Có hành lang pháp lý: giá trị hợp lý có được sự ủng hộ của Bộ Tài chính, thể hiện trong các chuẩn mực kế toán và thông tư hướng dẫn đã đề cập đến giá trị hợp lý. Ngoài ra, trong các thông tư 79/2002/TT-BTC và thông tư 126/2004/TT-BTC hướng dẫn định giá doanh nghiệp nhà nước khi chuyển thành công ty cổ phần đã đề cập đến các phương pháp để xác định giá trị doanh nghiệp mà nó cũng là các phương pháp được sử dụng để ước tính giá trị hợp lý trên thế giới như phương pháp dòng tiền chiết khấu, phương pháp giá thị trường của tài sản. Điều này cho thấy rằng đã có những nền tảng ban đầu về cách xác định giá trị hợp lý. - Một điều kiện nữa để có thể áp dụng giá trị hợp lý đó là Việt Nam có khả năng và điều kiện để tiếp cận các nghiên cứu của thế giới về giá trị hợp lý. Từ đó đưa ra các phương pháp cũng như các mô hình xác định giá trị hợp lý phù hợp với Việt Nam. Tóm lại, với những điều kiện có sẵn và trước sức ép phải sử dụng giá trị hợp lý, chúng tôi cho rằng vai trò của giá trị hợp lý trong tương lai là rất quan trọng, mang lại cách định giá mới phù hợp với sự phát triển của các hoạt động kinh tế tại Việt Nam. Bảng 2.4 Danh sách các tiêu chuẩn thẩm định giá đã ban hành Tiêu chuẩn số 1 (TĐGVN 01): Giá thị trường làm cơ sở cho thẩm định giá tài sản Tiêu chuẩn số 2 (TĐGVN 02): Giá phi thị trường làm cơ sở cho thẩm định giá tài sản. Tiêu chuẩn số 3 (TĐGVN 03): Những nguyên tắc đạo đức hành nghề thẩm định giá tài sản. Tiêu chuẩn số 4 (TĐGVN 04): Báo cáo kết quả, hồ sơ và chứng thư thẩm định giá tài sản. Tiêu chuẩn số 5 (TĐGVN 05): Quy trình thẩm định giá tài sản Tiêu chuẩn số 6 (TĐGVN 06): Những nguyên tắc kinh tế chi phối hoạt động thẩm định giá tài sản 2.3.2. Những khó khăn trong việc nâng cao vai trò của giá trị hợp lý 43 Những thuận lợi chính là những điều kiện để phát triển giá trị hợp lý đã được trình bày trong phần trên. Phần này sẽ trình bày những khó khăn và đánh giá những khó khăn ảnh hưởng đến việc nâng cao vai trò của giá trị hợp lý. (1) Những khó khăn chính là: - Về nhận thức: người sử dụng chưa quen với giá trị hợp lý nên việc xác định giá trị hợp lý còn gặp nhiều khó khăn. Người làm kế toán cũng như nhà quản lý ngại sử dụng giá trị hợp lý vì bằng chứng của giá trị hợp lý chưa rõ ràng, mà tâm lý của họ là kế toán phục vụ cho mục đích thuế nên giá được sử dụng phải có chứng từ đầy đủ và có thể kiểm chứng được rõ ràng. - Về con người: nhân lực để thực hiện công việc định giá còn nhiều hạn chế về trình độ. - Sự không đồng bộ của nền kinh tế: có những khu vực rất phát triển, có những khu vực phát triển kém, nên sẽ có những khó khăn khi áp dụng. Hệ thống thị trường, hệ thống thông tin phát triển chưa cao và chưa đồng bộ. - Quan hệ giữa lợi ích và chi phí nhiều khi không tương xứng với nhau. Đôi khi chi phí bỏ ra để có được giá trị hợp lý là lớn hơn hiệu quả đạt được của nó, nên doanh nghiệp phải cân nhắc khi sử dụng giá trị hợp lý. (2) Đánh giá những khó khăn Nguyên nhân chính dẫn đến những khó khăn này là: - Giá trị hợp lý còn mới mẻ đối với Việt Nam nên việc nhận thức về giá trị hợp lý chưa được đầy đủ. - Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển nền kinh tế thị trường nên các công cụ đi kèm chưa phát triển đầy đủ, đồng bộ. Theo chúng tôi, những khó khăn này có thể vượt qua từng bước trong từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế thị trường. Như vậy, những khó khăn này hoàn toàn không phủ định được khả năng sử dụng giá trị hợp lý trong kế toán doanh nghiệp Việt Nam trong một tầm nhìn dài hạn. 44 CHƯƠNG 3 ĐỊNH HƯỚNG VỀ VIỆC SỬ DỤNG GIÁ TRỊ HỢP LÝ TRONG KẾ TOÁN DOANH NGHIỆP VIỆT NAM Giá trị hợp lý là vấn đề mới đối với Việt Nam nên việc triển khai đòi hỏi nghiên cứu chi tiết, tỉ mỉ trong nhiều giai đoạn. Vì vậy đề tài chỉ dừng lại ở việc định hướng về giá trị hợp lý, đưa ra các giải pháp mang tính hướng dẫn hơn là cụ thể. Những định hướng bao gồm: - Định hướng chung: xác lập những nguyên tắc cho việc áp dụng giá trị hợp lý tại Việt Nam. - Định hướng trong ngắn hạn: tập trung hoàn thiện các chuẩn mực hiện có. - Định hướng dài hạn: phát triển giá trị hợp lý mang tính hệ thống. 3.1. ĐỊNH HƯỚNG CHUNG Theo chúng tôi, để quá trình xác định các bước đi của giá trị hợp lý được thích hợp và thống nhất thì cần phải xác lập những nguyên tắc cơ bản, bao gồm: 3.1.1. Việc sử dụng giá trị hợp lý phải phù hợp với thông lệ quốc tế Việc sử dụng giá trị hợp lý cần phải phù hợp với chuẩn mực quốc tế và thông lệ quốc tế. Trong quyết định số 38/2000/QĐ-BTC ngày 13/3/2000, Bộ Tài chính đã khẳng định: hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam được xây dựng trên cơ sở các chuẩn mực quốc tế về kế toán. Tuy nhiên, vì chuẩn mực quốc tế đang trong giai đoạn thiết lập cơ sở lý thuyết về giá trị hợp lý nên cần tham khảo hệ thống kế toán của quốc gia tiên tiến để giúp Việt Nam xác định bước đi thích hợp. Sự phù hợp này nhằm đảm bảo hai vấn đề: - Đảm bảo sự hội nhập: các tiêu chuẩn đánh giá của Việt Nam sẽ tương đồng với các tiêu chuẩn đánh giá của quốc tế, như vậy việc hòa nhập với nền kinh tế toàn cầu sẽ rút ngắn khoảng cách. 45 - Đảm bảo tính đồng bộ của hệ thống kế toán: hệ thống chuẩn mực của Việt Nam hiện nay đều dựa vào chuẩn mực quốc tế, vì vậy định giá phù hợp theo chuẩn mực quốc tế và thông lệ quốc tế để đảm báo tính thống nhất giữa các chuẩn mực. 3.1.2. Sử dụng giá trị hợp lý phải phù hợp với đặc điểm của Việt Nam Sự tiếp cận với thông lệ quốc tế, cũng như mức độ phù hợp sẽ tùy thuộc vào đặc điểm của Việt Nam như: - Môi trường kinh doanh hiện có, đó là môi trường kinh doanh từng bước theo xu hướng quốc tế hoá. Sự phát triển của các doanh nghiệp Việt Nam, sự mở rộng của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài làm cho môi trường kinh doanh chuyển dần theo thông lệ quốc tế. - Thị trường hiện có, bao gồm thị trường hối đoái, thị trường bán buôn, thị trường môi giới, thị trường trực tiếp… đang từng bước hình thành và được thể chế hóa. - Hệ thống pháp lý, bao gồm các văn bản về kế toán, kiểm toán và thẩm định giá. Do đó, khi tiếp cận xác định giá trị hợp lý, nên chọn hướng tiếp cận dần, phù hợp với từng giai đoạn phát triển của Việt Nam, cũng như phù hợp với đặc điểm kinh tế của từng giai đoạn. 3.1.3. Lộ trình thực hiện phải hợp lý Để đạt được sự phù hợp giữa thông lệ quốc tế và đặc điểm của Việt Nam, chúng tôi nghĩ rằng quá trình hoàn thiện và phát triển giá trị hợp lý phải trải qua các giai đoạn nhất định, tùy theo sự phát triển của thị trường, của nền kinh tế. Vì vậy chúng tôi đề nghị nên chia làm hai giai đoạn: 46 Giai đoạn 1: Tiếp tục nghiên cứu, thử nghiệm giá trị hợp lý Trong giai đoạn này sẽ cần khoảng thời gian từ 1 đến 2 năm để chúng ta sẽ tiếp tục hoàn thiện các yêu cầu về giá trị hợp lý trong các chuẩn mực đã ban hành: làm rõ định nghĩa, phương pháp xác định, yêu cầu công bố… Giai đoạn này phù hợp với lộ trình mà Bộ Tài chính đã xác định trong chương trình cải cách kế toán Việt Nam: dự kiến đến năm 2005 sẽ hoàn chỉnh giai đoạn 1 của việc soạn thảo và công bố hệ thống chuẩn mực kế toán, kiểm toán quốc gia Việt Nam, và tiến hành tổng kết đánh giá các hệ thống kế toán đã ban hành. Giai đoạn này cũng sẽ là bước đệm để kế toán doanh nghiệp quen dần với định giá theo giá trị hợp lý. Giai đoạn 2: Phát triển giá trị hợp lý đồng hành với hệ thống kế toán Việt Nam Từ những định hướng rõ ràng ngay từ giai đoạn 1, trong giai đoạn 2 này chúng ta tiếp tục phát triển vai trò của giá trị hợp lý cho kế toán Việt Nam, bằng cách: - Hoàn thiện Luật kế toán và chuẩn mực chung để thống nhất về định giá. - Tiếp tục ban hành các chuẩn mực mới, trong đó áp dụng giá trị hợp lý để đánh giá đối tượng kế toán. 3.2. ĐỊNH HƯỚNG GIAI ĐOẠN 1 - TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU, THỬ NGHIỆM, HOÀN THIỆN VAI TRÒ CỦA ĐỊNH GIÁ THEO GIÁ TRỊ HỢP LÝ TRONG CÁC CHUẨN MỰC CÓ SẴN. 3.2.1. Mục tiêu Mục tiêu trong giai đoạn này là hoàn thiện các chuẩn mực đã ban hành, làm rõ các yêu cầu về giá trị hợp lý trong các chuẩn mực hiện tại để đưa vào áp dụng thực tế. 3.2.2. Giải pháp Để đạt được mục tiêu đó, chúng tôi đề nghị 2 giải pháp sau: 47 - Ban hành các hướng dẫn giải thích về giá trị hợp lý. - Hoàn thiện các chuẩn mực đã ban hành nhằm loại bỏ mâu thuẫn, tạo lập sự nhất quán và hoàn thiện về định giá. Chúng tôi căn cứ vào các chuẩn mực kế toán quốc tế, cũng như chuẩn mực kế toán của Mỹ để đưa ra nội dung các giải pháp. 3.2.2.1 Ban hành các hướng dẫn giải thích Giá trị hợp lý hiện tại chưa được áp dụng vì các doanh nghiệp chưa hiểu được giá trị hợp lý, hoặc đã áp dụng giá trị hợp lý nhưng với các cách tính khác nhau, không thống nhất. Vì vậy cần thiết phải ban hành các hướng dẫn giải thích để làm rõ các vấn đề như: định nghĩa, phương pháp xác định giá trị hợp lý, và đưa ra cách xác định giá trị hợp lý cho các trường hợp được yêu cầu. a. Định nghĩa giá trị hợp lý Như đã phân tích ở chương 2, các định nghĩa trong chuẩn mực kế toán Việt Nam thì chưa làm rõ được giá trị hợp lý, vì vậy trong hướng dẫn giải thích chúng ta cần đưa ra định nghĩa khác cụ thể hơn, rõ ràng hơn. IAS 18 định nghĩa: “Giá trị hợp lý là giá trị mà một tài sản được trao đổi hay một công nợ được thanh toán một cách tự nguyện giữa các bên có đầy đủ sự hiểu biết trong một giao dịch bình thường” So sánh định nghĩa của IASB và định nghĩa của FASB (đã trình bày ở chương 1 phần II.2) thì định nghĩa của FASB là đầy đủ hơn cả, nêu bật được là giá trong giao dịch hiện tại, những người tham gia giao dịch thì tự nguyện, không có mối quan hệ và có đầy đủ sự hiểu biết… Hơn nữa, định nghĩa của FASB thì tương thích với định nghĩa về giá thị trường trong tiêu chuẩn thẩm định giá số 1 ban hành theo quyết định số 24/2005/QĐ-BTC ngày 18/4/2005, các tiêu chuẩn thẩm định giá này cũng là các cơ sở được sử dụng khi ước tính giá trị hợp lý. Vì vậy, chúng tôi đề nghị Việt Nam nên sử dụng định nghĩa theo định nghĩa của FASB, gồm có hai phần: phần định nghĩa và phần giải thích. Trong phần giải thích đưa thêm giải thích cho “giao dịch hiện tại”: giá được sử dụng để ước tính giá 48 trị hợp lý phải là giá được lấy từ các giao dịch hiện tại, chứ không phải giao dịch quá khứ hay giao dịch tương lai, nếu không có giá hiện tại thì giá phải được điều chỉnh cho phù hợp. b. Phương pháp xác định giá trị hợp lý Để giá trị hợp lý được áp dụng trong thực tế thì phải đưa ra phương pháp xác định giá trị hợp lý phù hợp với mục tiêu định giá, đặc điểm của đối tượng định giá, và áp dụng cụ thể cho nhiều đối tượng khác nhau. Chúng tôi đề nghị phương pháp xác định giá trị hợp lý nên vận dụng FASB vào thực tế Việt Nam, cụ thể là: (1) Mục tiêu định giá: Giá trị hợp lý được sử dụng để đánh giá khi thoả mãn giả định hoạt động liên tục. Trước khi định giá cần phải xem xét đến mục tiêu định giá, có 2 mục tiêu: - Định giá đang sử dụng: áp dụng để xác định giá trị hợp lý của khoản mục khi: tài sản được xác định là để sử dụng cho hoạt động của doanh nghiệp. - Định giá trong trao đổi: tài sản không được xác định là để sử dụng mà để bán, trao đổi. Xác định giá trị hợp lý cần phải phù hợp với mục tiêu định giá. Mục tiêu này là cơ sở để xác định rằng tài sản chắc chắn được bán hay chắc chắn được sử dụng để tạo ra lợi nhuận của doanh nghiệp. Bảng 3.1 dưới đây đưa ra một số ví dụ làm rõ vai trò của mục tiêu định giá trong việc xác định giá trị hợp lý. (2) Cấp độ xác định giá trị hợp lý Do đối tượng định giá rất khác nhau, nên nếu đưa ra cách đánh giá cụ thể cho từng trường hợp thì có thể sẽ thoả mãn đối với doanh nghiệp này nhưng không thoả mãn đối với doanh nghiệp khác. Vì vậy nên đưa ra cấp độ chung cho các đối tượng kế toán, sau đó tùy thuộc vào từng trường hợp, từng hoàn cảnh mà lựa chọn cấp độ thích hợp. Các cấp độ này tùy thuộc vào mức độ tham khảo thông tin từ thị trường. 49 Chúng tôi đề nghị việc xác định giá trị hợp lý sẽ vận dụng theo FASB, nhưng chia thành bốn cấp độ, vì ước tính dựa vào những giả định nội bộ thì kém tin cậy hơn ước tính dựa vào những dữ liệu và giả định từ thị trường nên tách ra thành cấp độ thứ 4 - Cấp độ 1: Giá trị hợp lý sẽ là giá tham chiếu của tài sản (hoặc nợ phải trả) y hệt. - Cấp độ 2: Giá trị hợp lý sẽ là giá tham chiếu điều chỉnh cho những khác biệt. - Cấp độ 3: Ước tính giá trị hợp lý dựa vào những dữ liệu và giả định từ thị trường. - Cấp độ 4: Ước tính giá trị hợp lý dựa vào những giả định và những ước tính nội bộ của doanh nghiệp. (3) Phương pháp xác định giá trị hợp lý Chúng tôi đề nghị vận dụng theo 3 phương pháp xác định giá trị hợp lý của FASB, đó là: - Phương pháp tiếp cận thị trường: - Phương pháp tiếp cận chi phí: - Phương pháp tiếp cận thu nhập: Nếu có giá tham chiếu của tài sản (hoặc nợ phải trả) y hệt hoặc tương tự với tài sản (hoặc nợ phải trả) đang định giá thì chỉ áp dụng một phương pháp là phương pháp tiếp cận thị trường. Trong trường hợp không có giá trích dẫn thì việc ước tính giá trị hợp lý phải dựa vào cả ba phương pháp, sau đó lựa chọn giá đáng tin cậy nhất phù hợp với mục tiêu định giá. Vậy để xác định giá trị hợp lý, cần phải xác định mục tiêu định giá, xác định cấp độ sau đó vận dụng các phương pháp xác định giá trị hợp lý cho phù hợp. Đối với ước tính cấp độ 1 và 2 chỉ vận dụng một phương pháp tiếp cận thị trường; ước tính cấp độ 3 và 4 vận dụng cả ba phương pháp sau đó lựa chọn giá phù hợp với mục tiêu định giá. Bảng 3.1 dưới đây trình bày 2 ví dụ về xác định giá trị hợp lý. 50 Bảng 3.1 Các ví dụ xác định giá trị hợp lý Ví dụ 1: Ước tính giá trị hợp lý cho một tài sản phần mềm có được trong hợp nhất doanh nghiệp, có mục đích để bán: (1) Mục đích định giá: định giá trong trao đổi (2) Xác định cấp độ: đây là một ước tính cấp độ 3, bởi vì không có giá tham chiếu của tài sản phần mềm y hệt hoặc tương tự, nhưng doanh nghiệp có thể sử dụng những thông tin khác từ thị trường để ước tính. Đối với ước tính cấp độ 3 người định giá phải sử dụng toàn bộ ba phương pháp để ước tính giá trị hợp lý và sau đó lựa chọn giá phù hợp với mục tiêu định giá. (3) Áp dụng các phương pháp định giá: - Phương pháp tiếp cận thị trường: người định giá không thể sử dụng phương pháp tiếp cận thị trường vì không có giá tham chiếu của phần mềm tương tự. - Phương pháp tiếp cận thu nhập: ước tính dòng thu nhập mong chờ từ việc bán tài sản phần mềm này là 150 triệu đồng. Người định giá sử dụng những thông tin từ thị trường như: nhu cầu về phần mềm, khả năng cung ứng phần mềm này của các doanh nghiệp khác, giá của các phần mềm khác, ưu điểm của phần mềm đang được định giá…Người định giá khẳng định phần mềm này chắc chắn bán được với giá 150 triệu. - Phương pháp tiếp cận chi phí: ước tính chi phí để tạo ra tài sản phần mềm này là 10 triệu đồng. (4) Lựa chọn giá trị hợp lý: Cả hai giá này đều mang tính chất ước tính. Tính đáng tin cậy của nó phụ thuộc vào mục đích của định giá. Phương pháp tiếp cận chi phí đã không xem xét tất cả những chi phí cần thiết để phát triển phần mềm, người định giá có thể mở rộng phương pháp tiếp cận chi phí để xem xét toàn bộ các chi phí, tuy nhiên nó vẫn có tính chất suy đoán cao, không đáng tin cậy. Trong 51 khi đó tài sản phần mềm này chắc chắn sẽ được bán với giá 150 triệu đồng, dòng thu nhập này là chắc chắn. Vậy giá trị hợp lý trong trường hợp này là 150 triệu đồng. Ví dụ 2: Ước tính giá trị hợp lý cho một tài sản phần mềm có được trong hợp nhất doanh nghiệp, được tạo ra để sử dụng cho hoạt động của doanh nghiệp. (1) Mục đích định giá: để sử dụng (2) Xác định cấp độ: đây là một ước tính cấp độ 4, bởi vì không có giá tham chiếu, và doanh nghiệp cũng không sử dụng các thông tin khác từ thị trường trong việc ước tính giá trị hợp lý. (3) Áp dụng các phương pháp định giá: - Phương pháp tiếp cận thị trường: người định giá không sử dụng phương pháp tiếp cận thị trường, bởi vì không có giá tham chiếu. - Phương pháp tiếp cận chi phí: ước tính chi phí để tạo ra phần mềm là 15 triệu đồng. - Phương pháp tiếp cận thu nhập: Phần mềm này được sử dụng cho hoạt động của doanh nghiệp, và ước tính hiện dòng thu nhập từ việc sử dụng tài sản phần mềm này là 100 triệu đồng. (4) Lựa chọn giá: Người định giá khẳng định rằng phương pháp tiếp cận chi phí đã được mở rộng để xem xét toàn bộ chi phí cần thiết để thay thế tài sản phần mềm này, mặc dù vẫn có tính chất suy đoán, nhưng có độ chính xác cao hơn phương pháp tiếp cận thu nhập, bởi vì dòng thu nhập tạo ra từ tài sản này là không chắc chắn: doanh nghiệp sử dụng phần mềm cho hoạt động của doanh nghiệp, cùng với các tài sản khác tạo nên dòng thu nhập cho doanh nghiệp, nên không thể tách riêng dòng thu nhập từ tài sản này trong toàn bộ dòng thu nhập của doanh nghiệp. Vì vậy giá trị hợp lý trong trường hợp này là 15 triệu đồng. 52 Với những yêu cầu về giá trị hợp lý trong chuẩn mực, chúng tôi đề nghị cách tiếp cận sau: - TSCĐ có được do trao đổi TSCĐ của doanh nghiệp để lấy TSCĐ khác không tương tự; hoặc có được do biếu tặng, tài trợ: áp dụng phương pháp tiếp cận thị trường. - TSCĐ có được do mua trả chậm: phương pháp tiếp cận thị trường, ghi nhận theo là giá mua trả tiền ngay. - TSCĐ có được bằng việc trao đổi, thanh toán bằng chứng từ liên quan đến quyền sở hữu vốn của đơn vị: áp dụng phương pháp tiếp cận thị trường, là giá thực tế của chứng khoán. - TSCĐ thuê tài chính: giá trị hợp lý là hiện giá của chuỗi tiền thuê phải trả. - TSCĐ hình thành trong quá trình sáp nhập doanh nghiệp: áp dụng phương pháp tiếp cận thị trường, tiếp cận thu nhập, tiếp cận chi phí. - Doanh thu có được do bán trả góp: phương pháp tiếp cận thu nhập, giá trị hợp lý là hiện giá của các khoản phải thu. - Ghi nhận ban đầu và báo cáo các khoản mục tiền tệ có gốc ngoại tệ: sử dụng phương pháp tiếp cận thị trường, giá trị hợp lý là giá được niêm yết vào ngày ghi nhận nghiệp vụ và ngày báo cáo. 3.2.2.2 Hoàn thiện các chuẩn mực đã ban hành Để hoàn thiện các chuẩn mực đã ban hành chúng ta cần loại bỏ những mâu thuẫn, tạo lập sự nhất quán và hoàn thiện về mặt định giá. a. Loại bỏ những mâu thuẫn trong các văn bản đã ban hành. Hiện nay giữa chuẩn mực và thông tư còn có sự chưa phù hợp trong định giá, rõ nét nhất là khoản mục doanh thu do bán trả chậm. Sự mâu thuẫn: - Chuẩn mực doanh thu: yêu cầu ghi nhận theo hiện giá các khoản phải thu 53 - Thông tư hướng dẫn chuẩn mực doanh thu: yêu cầu ghi nhận theo giá bán trả ngay. Phần lớn các trường hợp, hiện giá và giá bán trả ngay là giống nhau. Tuy nhiên trong trường hợp doanh nghiệp bán trả chậm không lãi suất hoặc bán trả chậm với lãi suất thấp hơn lãi suất thị trường thì hiện giá và giá bán trả ngay là khác nhau. Nếu doanh nghiệp ghi nhận theo giá bán trả ngay thì doanh thu tài chính không phản ánh đúng thực chất của dòng tiền mà doanh nghiệp thu lại do trả chậm, một phần của doanh thu tài chính đã được ghi nhận sớm vào doanh thu bán hàng. Do đó, phải sử dụng hiện giá của các khoản phải thu theo lãi suất ngầm định hoặc theo lãi suất thị trường9 sẽ hợp lý hơn. Điều này cũng phù hợp với kế toán quốc tế về doanh thu. Ví dụ: - Giá bán trả ngay 500 triệu đồng. Lãi suất thị trường 10% - Doanh nghiệp bán trả chậm trong 2 trường hợp: (1): Trả chậm sau 1 năm, không tính lãi suất Æ số tiền phải thu là 500 triệu đồng. (2): Trả chậm sau 1 năm, lãi suất trả chậm là 5% Æ số tiền phải thu là 525 triệu đồng. - Hiện giá trong trường hợp (1) là 454 triệu đồng [(500 x (1+0,1)-1] - Hiện giá trong trường hợp (2) là 477 triệu đồng [(525 x (1+0,1)-1] - Như vậy, hiện giá trong 2 trường hợp trên khác với giá bán trả ngay. Kiến nghị: Vì vậy, chúng tôi kiến nghị trong thông tư hướng dẫn nên điều chỉnh cho phù hợp với chuẩn mực: doanh thu bán trả chậm được ghi nhận theo hiện giá của các khoản phải thu. 9 Lãi suất thị trường: là lãi suất trái phiếu Chính phủ có kỳ hạn 10 năm được căn cứ vào thông báo hàng tháng của Bộ Tài chính trên Thời báo Tài chính hoặc Tạp chí Tài chính doanh nghiệp. 54 b. Tạo lập sự nhất quán: Thứ nhất, để thống nhất và tạo cơ sở dữ liệu cho việc xác định giá trị hợp lý sau này, chúng tôi đề nghị trong các chuẩn mực nên yêu cầu trình bày thông tin về giá trị hợp lý. Những thông tin cần trình bày là: - Số tiền giá trị hợp lý tại ngày cuối kỳ, - Cách xác định giá trị hợp lý (phương pháp xác định, cơ quan định giá…), - Những giả định và dữ liệu được sử dụng, - Ảnh hưởng của việc ghi nhận theo giá trị hợp lý trong lợi nhuận trong kỳ (ghi nhận lãi-lỗ chưa thực hiện) đối với các tài sản vẫn giữ tại ngày báo cáo. Thứ hai, tạo lập sự nhất quán giữa chuẩn mực và các thông tư hướng dẫn, có những khoản mục trong chuẩn mực có đề cập đến nhưng trong thông tư hướng dẫn chỉ đưa ra định khoản mà không hướng dẫn cách định giá. Cụ thể: - Đối với thông tư hướng dẫn tài sản cố định vô hình đề nghị đưa ra hướng dẫn định giá cho tài sản cố định có được do biếu tặng: ghi nhận theo giá trị hợp lý của tài sản nhận được, được xác định bằng phương pháp tiếp cận thị trường, tiếp cận chi phí hoặc phương pháp tiếp cận thu nhập. - Tương tự như vậy cho tài sản cố định vô hình có được do sáp nhập doanh nghiệp. c. Hoàn thiện về định giá trong các chuẩn mực đã ban hành Nhận xét định giá theo chuẩn mực quốc tế và chuẩn mực Việt Nam Về mặt định giá, trong mỗi chuẩn mực quốc tế (IAS) thường có: - Định giá cho ghi nhận ban đầu : ghi theo giá gốc là các chi phí liên quan trực tiếp đến việc tạo ra khoản mục. - Trình bày sau ghi nhận ban đầu: thường có 2 các để lựa chọn: + Phương pháp hạch toán chuẩn: sử dụng giá gốc trừ khấu hao (nếu có) trừ khoản giảm giá (nếu có). 55 + Phương pháp thay thế: sử dụng giá trị hợp lý để trình bày khoản mục. Trong các chuẩn mực kế toán Việt Nam đã ban hành thì định giá cho ghi nhận ban đầu và định giá sau ghi nhận ban đầu đã thỏa mãn theo thông lệ quốc tế và phù hợp với điều kiện Việt Nam, tức là lựa chọn các tiếp cận thứ hai – trình bày theo giá gốc. Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy có một số khoản mục có thể chọn cách tiếp cận thứ hai, chẳng hạn như khoản mục: bất động sản đầu tư, công cụ tài chính, các khoản đầu tư vào công ty liên doanh, liên kết, đầu tư vào công ty con để phản ánh đúng phần sở hữu của nhà đầu tư trong báo cáo tài chính (tức chọn phương pháp vốn chủ sở hữu để trình bày trong báo cáo của riêng nhà đầu tư). Vì nếu phản ánh theo giá gốc sẽ không phản ánh được những thay đổi của thị trường, nhất là đối với những khoản mục dài hạn, sẽ không phản ánh được lãi - lỗ chưa thực hiện vào đúng kỳ mà nó phát sinh. Hoàn thiện về định giá Trong phạm vi xác định theo giá trị hợp lý trong các chuẩn mực đã ban hành chúng tôi đề nghị thay đổi cách định giá đối với khoản mục bất động sản đầu tư: Hiện nay chuẩn mực yêu cầu trình bày bất động sản đầu tư theo giá gốc trừ khấu hao lũy kế. Nếu trình bày theo giá này sẽ không thỏa mãn nguyên tắc dồn tích. Ví dụ: bất động sản đầu tư cho mục đích tăng giá (để bán) có giá gốc vào năm X1 là 100 triệu đồng, năm X2 giá thị trường là 140 triệu đồng (doanh nghiệp vẫn trình bày theo giá gốc 100 triệu đồng), năm X3 giá thị trường là 200 triệu đồng, giả sử lúc này doanh nghiệp bán bất động sản, và doanh nghiệp sẽ ghi lãi là 100 triệu, nhưng thực chất lãi trong năm X3 chỉ có 60 triệu đồng và 40 triệu đồng là lãi xuất hiện trong năm X2. Vì vậy, chúng tôi đề nghị bất động sản đầu tư cho mục đích tăng giá nên được trình bày sau ghi nhận ban đầu theo giá trị hợp lý của chúng. 56 3.3. GIAI ĐOẠN 2 - ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN GIÁ TRỊ HỢP LÝ ĐỒNG HÀNH VỚI HỆ THỐNG KẾ TOÁN VIỆT NAM Sau bước đầu thử nghiệm để các doanh nghiệp làm quen với giá trị hợp lý và cũng để tạo điều kiện phát triển thị trường, đào tạo nhân viên định giá…, sẽ tiếp tục hoàn thiện cơ sở lý thuyết về giá trị hợp lý để giá trị hợp lý cùng đồng hành trong hệ thống kế toán Việt Nam. 3.3.1. Mục tiêu Trong giai đoạn này mục tiêu đặt ra là tạo thành hệ thống lý thuyết đầy đủ về giá trị hợp lý tồn tại song song với giá gốc, tức là trong giai đoạn này hệ thống kế toán sẽ ghi nhận ban đầu theo giá gốc và trình bày sau ghi nhận ban đầu theo giá trị hợp lý cho một số khoản mục. Hệ thống này cần thống nhất từ Luật kế toán đến chuẩn mực chung và chuẩn mực cụ thể. 3.3.2. Giải pháp thực hiện Để phát triển giá trị hợp lý đồng hành cùng hệ thống kế toán Việt Nam thì cần phải: - Điều chỉnh Luật kế toán và chuẩn mực chung, - Định hướng các chuẩn mực mới. 3.3.2.1 Điều chỉnh Luật kế toán và chuẩn mực chung Cho đến giai đoạn này, cơ sở lý thuyết về giá trị hợp lý tại Việt Nam là chưa thống nhất, giá trị hợp lý chưa được đề cập trong Luật và trong chuẩn mực chung như một cách định giá riêng. Do đó cần phải điều chỉnh Luật kế toán và chuẩn mực chung. a. Điều chỉnh Luật kế toán Nhận xét về nguyên tắc định giá trong Luật kế toán: 57 “ Giá trị của tài sản được tính theo giá gốc, bao gồm chi phí mua, bốc xếp, vận chuyển, lắp ráp, chế biến và các chi phí liên quan trực tiếp khác, đến khi đưa tài sản vào trạng thái sẵn sàng sử dụng” Theo chúng tôi định nghĩa này là quá chi tiết, trình bày cụ thể cách xác định giá gốc cho tài sản có được do mua sắm mà không bao hàm toàn bộ các trường hợp tạo ra tài sản. Mặc khác, nguyên tắc này cũng chỉ đề cập đến cách định giá cho tài sản mà chưa phản ánh được cách định giá cho các khoản mục khác như là nợ phải trả, chứng khoán… Kiến nghị điều chỉnh Luật kế toán: Đối chiếu với Luật kế toán một số nước trên thế giới cũng đã đưa phần định giá vào trong luật kế toán, chúng tôi nhận thấy có quốc gia trình bày cách định giá cho từng nhóm đối tượng kế toán (Cộng hòa Belarus), hoặc đưa ra cách đánh giá theo tính chất của đối tượng kế toán (Nhật Bản đánh giá theo tính chất dễ chuyển đổi, cố định, phải thu…) hoặc chỉ trình bày cách ghi chung cho ghi nhận ban đầu và cuối năm (Lào). (trình bày trong bảng 3.2, chi tiết xem phụ lục số 5) Tại Việt Nam, dưới Luật kế toán còn có chuẩn mực chung - được coi như là khuôn mẫu lý thuyết. Vì vậy chúng tôi đề xuất trong Luật chỉ nên trình bày nguyên tắc định giá cho ghi nhận ban đầu và sau ghi nhận ban đầu, đưa ra các loại giá được sử dụng. Phần giải thích cụ thể sẽ được đề cập trong chuẩn mực chung và chuẩn mực cụ thể. Cụ thể chúng tôi đề nghị điều 7 nên quy định những vấn đề sau: - Ghi nhận ban đầu theo giá gốc: là toàn bộ các chi phí hợp lý để có được khoản mục đó. - Giá trị sau ghi nhận ban đầu: khoản mục được trình bày theo một trong các loại giá sau: giá gốc, giá trị thuần có thể thực hiện, giá trị hợp lý, hiện giá… theo quy định trong các chuẩn mực cụ thể. 58 Bảng 3.2 Trích Luật kế toán một số nước Luật kế toán nước cộng hoà Belarus - Điều 18: Đánh giá và hạch toán tài sản cố định - Điều 19: Đánh giá và hạch toán đầu tư tài chính - Điều 20: Đánh giá và hạch toán tài sản vô hình - Điều 21: Đánh giá và hạch toán tài sản vãng lai - Điều 22: Ngoại tệ và tỷ giá - Điều 23: Đánh giá và hạch toán các khoản phải trả - Điều 24: Hạch toán thu nhập dự phòng - Điều 25: Hạch toán các qũy - Điều 26: Đánh giá lại tài sản và các nguồn hình thành Luật kế toán Nhật Bản Điều 34: Giá trị tài sản hạch toán trên sổ kế toán Luật kế toán nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào - Điều 13: Cách thức để đánh giá - Điều 17: Công tác kế toán cuối năm của đơn vị doanh nghiệp độc lập. b. Chuẩn mực chung Nhận xét về định giá trong chuẩn mực chung Cho đến nay, chuẩn mực chung chưa đề cập đến các căn cứ được áp dụng để tính toán các yếu tố trong báo cáo tài chính. Chuẩn mực chung đã trình bày được các nguyên tắc cơ bản, các yêu cầu cơ bản đối với kế toán, các yếu tố của báo cáo tài chính, nhưng phần quan trọng là các phương pháp để đánh giá các yếu tố trên báo cáo tài chính lại chưa được trình bày. Trong khi đó, trong các chuẩn mực cụ thể 59 sử dụng nhiều loại giá khác nhau để đánh giá các yếu tố. Vì vậy cần thiết phải trình bày các loại giá được cho phép sử dụng trong hệ thống kế toán Việt Nam. Kiến nghị điều chỉnh Chuẩn mực chung Đối chiếu với khuôn mẫu lý thuyết của IASB cũng đã trình bày cơ sở được sử dụng để định giá các đối tượng kế toán. (Xem phụ lục số 6) Tại Việt Nam chuẩn mực chung được coi như là khuôn mẫu lý thuyết, nó là cơ sở để ghi nhận các nghiệp vụ kinh tế mới xuất hiện, chưa được đề cập trong lý thuyết. Chuẩn mực chung là cơ sở để xây dựng các chuẩn mực cụ thể. Vì vậy chúng tôi đề nghị nên bổ sung vào chuẩn mực chung phần phương pháp đánh giá các yếu tố trên báo cáo tài chính: liệt kê và định nghĩa các phương pháp được dùng để đánh giá. Cụ thể chuẩn mực chung nên quy định thêm những vấn đề sau: - Phương pháp đánh giá các yếu tố trên báo cáo tài chính: Hệ thống kế toán Việt Nam là hệ thống giá gốc. Chủ yếu sử dụng giá gốc và kết hợp với các loại giá khác để ghi nhận và trình bày báo cáo tài chính. - Các loại giá được sử dụng để đánh giá các yếu tố trên báo cáo tài chính: Giá gốc, giá trị thuần có thể thực hiện, hiện giá, giá trị hợp lý. 3.3.2.2 Định hướng các chuẩn mực mới Sắp tới, Bộ Tài chính cần lựa chọn các chuẩn mực ban hành để ưu tiên phục vụ cho các hoạt động kinh tế mới. Theo chúng tôi các chuẩn mực nên được ban hành cho mục đích này là: - Chuẩn mực công cụ tài chính - Chuẩn mực hợp nhất doanh nghiệp - Chuẩn mực giá trị hợp lý (nếu đã có các chuẩn mực tham khảo của Mỹ và của IASB) Sau đây, chúng tôi đề nghị cách định giá của các chuẩn mực này trên cơ sở tiếp cận theo IAS: 60 a. Đối với chuẩn mực về công cụ tài chính. Theo chuẩn mực kế toán quốc tế “Công cụ tài chính là bất kỳ hợp đồng nào mà mang lại tài sản tài chính cho một doanh nghiệp và khoản nợ tài chính hoặc công cụ vốn cho một doanh nghiệp khác”10. Công cụ tài chính là các chứng khoán hoặc công cụ phái sinh được định giá căn cứ vào mục đích đầu tư: đầu tư giữ đến hạn, hoặc giữ để kinh doanh, hoặc chứng khoán có thể bán. Hiện nay đối với Việt Nam, công cụ tài chính chỉ là khoản đầu tư chứng khoán ngắn hạn hoặc dài hạn, hạch toán theo phương pháp giá gốc và có lập dự phòng, chưa có chuẩn mực riêng. Trong nền kinh tế thì trường thì việc huy động vốn chủ yếu thông qua thị trường chứng khoán, vì vậy công cụ tài chính đóng vai trò quan trọng, nên cần phải nhanh chóng ban hành chuẩn mực này. Trong đó việc định giá được xác định như sau: Công cụ tài chính đối với nhà đầu tư - gọi là tài sản tài chính: là các chứng khoán mua để giữ lấy lời, giữ để kinh doanh và giữ với mục đích đầu tư vào công ty đó. Tài sản tài chính được phân 4 loại và được định giá như sau: (1) Ghi nhận ban đầu: theo giá trị hợp lý của các khoản tiền hoặc tương đương tiền đã chi ra để có được công cụ tài chính cộng với chi phí giao dịch. (2) Ghi nhận sau ghi nhận ban đầu: - Tài sản tài chính giữ để kinh doanh hoặc có thể bán: ghi nhận theo giá trị hợp lý - Tài sản tài chính giữ đến hạn (held to maturity investment): ghi nhận theo giá trị hoàn dần, (sử dụng phương pháp lãi suất thực tế 11 . Giá trị hoàn dần = giá trị ghi nhận ban đầu trừ cho phần thanh toán gốc cộng (hoặc trừ) giá trị hoàn dần lũy kế). 10 IAS 32 - đoạn 11. Xem phụ lục số 6 11 IAS 39 - đoạn 9. Xem phụ lục số 7 61 - Các khoản cho vay và nợ phải thu: ghi nhận theo giá trị hoàn dần (sử dụng phương pháp lãi suất thực tế. Giá trị hoàn dần = giá trị ghi nhận ban đầu trừ cho phần thanh toán gốc cộng (hoặc trừ) giá trị hoàn dần lũy kế). Nếu không thể xác định giá trị hợp lý một cách đáng tin cậy thì tài sản tài chính được ghi nhận sau ghi nhận ban đầu theo giá trị hoàn dần. Công cụ tài chính đối với công ty phát hành: phát hành theo hình thức vay vốn gọi là nợ tài chính (trái phiếu, cổ phiếu ưu đãi) hoặc phát hành theo hình thức góp vốn gọi là công cụ vốn (cổ phiếu thường). Chuẩn mực này không đề cập đến công cụ vốn mà chỉ đề cập đến nợ tài chính. Nợ tài chính được đánh giá như sau: (1) Ghi nhận ban đầu: theo giá trị hợp lý của các khoản tiền hoặc tương đương tiền nhận được cộng với chi phí giao dịch. (2) Giá trị sau ghi nhận ban đầu: tất cả các khoản nợ tài chính được ghi nhận theo giá trị hoàn dần. Giá trị hoàn dần = số tiền ghi nhận ban đầu - phần thanh toán gốc ± giá trị hoàn dần lũy kế. b. Chuẩn mực hợp nhất doanh nghiệp Tại Việt Nam các hoạt động hợp nhất đang diễn ra thường xuyên nhưng chưa có quy định cụ thể nào, phần lớn các doanh nghiệp sử dụng phương pháp cộng để hạch toán vào n

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf44031.pdf
Tài liệu liên quan