Đề tài Nghiên cứu vấn đề con người của các trường phái triết học thời Trung Hoa cổ đại

Tài liệu Đề tài Nghiên cứu vấn đề con người của các trường phái triết học thời Trung Hoa cổ đại: TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC VẤN ĐỀ CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC TRUNG HOA CỔ ĐẠI Chuyên ngành: Sư phạm giáo dục công dân Mã ngành: 52140204 Giáo viên hướng dẫn: Sinh viên thực hiên: Th.s. MAI PHÚ HỢP MAI THỊ CẨM NHUNG MSSV: 6055381 CẦN THƠ – 4/2009 MỤC LỤC MỞ ĐẦU Trang 1.Tính cấp thiết của đề tài 2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài 5. Kết cấu của đề tài NỘI DUNG Chương 1: TÌNH HÌNH KINH TẾ, CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI TRUNG HOA THỜI KỲ CỔ ĐẠI 1.1. Thời kỳ Ân Thương – Tây Chu 1.1.1. Triều Hạ 1.1.2. Triều Thương 1.1.3. Triều Tây Chu 1.2. Thời kỳ Xuân Thu – Chiến Quốc 1.2.1. Thời kỳ Xuân Thu 1.2.2. Thời kỳ Chiến Quốc Chương 2: NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VỀ CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC TRUNG HOA CỔ ĐẠI 2.1. Quan điểm về con người thời Ân Thương – Tây Chu 2.2. Quan điểm về con người thời Xuân Th...

doc56 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1201 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Nghiên cứu vấn đề con người của các trường phái triết học thời Trung Hoa cổ đại, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC VẤN ĐỀ CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC TRUNG HOA CỔ ĐẠI Chuyên ngành: Sư phạm giáo dục công dân Mã ngành: 52140204 Giáo viên hướng dẫn: Sinh viên thực hiên: Th.s. MAI PHÚ HỢP MAI THỊ CẨM NHUNG MSSV: 6055381 CẦN THƠ – 4/2009 MỤC LỤC MỞ ĐẦU Trang 1.Tính cấp thiết của đề tài 2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài 5. Kết cấu của đề tài NỘI DUNG Chương 1: TÌNH HÌNH KINH TẾ, CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI TRUNG HOA THỜI KỲ CỔ ĐẠI 1.1. Thời kỳ Ân Thương – Tây Chu 1.1.1. Triều Hạ 1.1.2. Triều Thương 1.1.3. Triều Tây Chu 1.2. Thời kỳ Xuân Thu – Chiến Quốc 1.2.1. Thời kỳ Xuân Thu 1.2.2. Thời kỳ Chiến Quốc Chương 2: NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VỀ CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC TRUNG HOA CỔ ĐẠI 2.1. Quan điểm về con người thời Ân Thương – Tây Chu 2.2. Quan điểm về con người thời Xuân Thu – Chiến Quốc 2.2.1. Quan điểm của Nho gia về vấn đề con người 2.2.2. Quan điểm của Đạo gia về vấn đề con người 2.2.3. Quan điểm của Pháp gia về vấn đề con người KẾT LUẬN PHỤ LỤC TÀI LỆU THAM KHẢO MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong lịch sử của sự phát triển văn minh, văn hóa nhân loại, vấn đề con người và tương lai của con người luôn giữ vị trí trung tâm và trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học – xã hội khác mà đặc biệt là khoa học xã hội nhân văn nhưng chỉ có triết học mới nhận thức con người một cách toàn diện trong tính chỉnh thể của nó. Những vấn đề chung nhất, cơ bản nhất về con người như: Bản chất con người là gì? Vai trò của nó trong sự phát triển nhân loại thể hiện như thế nào?. Đằng sau những câu hỏi này là cả một vấn đề mà nhân loại quan tâm nghiên cứu. Có thể nói việc nghiên cứu con người không phải là một đề tài mới song nó vẫn là một vấn đề luôn luôn mới. Là sản phẩm của quan hệ xã hội, con người cũng đồng thời là chủ thể cải tạo xã hội và từ đó cải tạo chính bản thân mình. C.Mác và Ăngghen khẳng định: “Bản thân xã hội sản xuất ra con người với tính cách là con người như thế nào thì nó cũng sản xuất ra xã hội như thế” [2, 169]. Như vậy trong mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau thì bản chất con người cũng biểu hiện khác nhau. Có thể nói cùng với Ấn Độ, Trung Hoa là cái nôi của nền văn minh phương Đông nói riêng và nhân loại nói chung. Với những phát minh vĩ đại trên lĩnh vực khoa học tự nhiên. Trung Hoa cũng là quê hương của hệ thống triết học lớn. Trải qua gần 40 thế kỷ phát triển liên tục, lịch sử triết học Trung Hoa bao hàm một nội dung cực kỳ phong phú với hệ thống triết học rộng lớn và sâu sắc mà đặc biệt vấn đề con người trong triết học Trung Hoa cổ đại nói riêng và cũng như con người trong lịch sử Trung Hoa nói chung là một vấn đề trung tâm, nổi bật trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc. Nhưng con người được nghiên cứu ở đây không được chú trọng trên tất cả các mặt mà chỉ chú ý đến khía cạnh đạo đức, luân lý, hướng nội với mục đích nhằm xoa dịu mâu thuẫn, ổn định xã hội, phục vụ lợi ích của giai cấp thống trị. Ở Đông Phương, ngay từ trước công nguyên rất lâu, đạo lý nhân bản đã được hiền nhân đặt để và phổ biến dù rằng khi ấy hầu hết cuộc sống con người vẫn còn ở tình trạng bộ lạc. Để sống con người Trung Hoa thời sơ khai phải săn bắn kiếm ăn, chém giết tranh giành nhau miếng ăn chẳng khác gì động vật. Tuy nhiên cho đến khi Thần Nông xuất hiện, dạy cho dân biêt cày cấy, chỉ cách lấy lửa. Nữ Oa dạy cho dân biết kéo tơ dệt vải thì văn hóa đã tiến sang một bước mới, thành lập cộng đồng xã hội. Xã hội ngày càng phát triển việc xấu xen lẫn việc tốt, con người lúc đó còn chạy theo bản tính tự nhiên, tức là có phần thiên về thú tính. Để ngăn cản và giúp con người đừng chạy theo thú tính thấp hèn, giảm bớt những hoạt động trái với luân lý, cổ nhân đã đặt ra những quy phạm về luân thường mà trong đó Ngũ thường được xem như rường cột, khuyến khích mọi người học tập và noi theo. Điển hình nhất của đạo lý Trung Quốc là những nguyên tắc phong hóa như Tam Cương, Ngũ Thường…rồi sau đó được hoàn thiện bằng chữ viết như: Kinh Lễ, Gia Lễ…mà đến nay ít nhiều vẫn còn giá trị. Ở Trung Quốc vào thế kỷ VIII đến thế kỷ VI TCN, những nhóm chuyên chế lớn ban đầu hình thành và một cuộc chiến tranh giành chính quyền giữa bọn quan lại phục vụ chế độ với các thương nhân đã tăng lên. Cuộc đấu tranh của những người dân chống lại bọn áp bức bóc lột cũng tăng mạnh. Trong những điều kiện của cuộc chiến tranh gay gắt, lòng người bắt đầu hoài nghi về sức mạnh của Thiên giới. Nhiều người đã hoài nghi về sự tồn tại của “trời” đã dần bác bỏ việc xem “trời” là nguồn gốc của đời sống đạo đức. Sự khủng hoảng về đạo đức luân lý, thứ luân lý dựa trên cơ sở sùng bái trời và tổ tiên, đã bắt buộc chế độ quan chế phải tìm tòi những con đường khác để củng cố các quy tắc đạo đức nhằm phục vụ địa vị độc tôn, đặc quyền của giai cấp chuyên chế cấp trên. Nhà triết học, nhà hoạt động chính trị đồng thời cũng là những nhà đạo đức đã tích cực đề xướng việc tìm hiểu bản chất của con người để tuyên truyền quần chúng quay trở lại đời sống thời cổ đại và nhằm một mục đích khác là nhằm hướng con người sống hợp với đạo làm người và phục vụ cho quan điểm trị nước của giai cấp thống trị. Xuất phát từ vấn đề nêu trên mà tôi quyết định chọn đề tài: “ Vấn đề con người trong triết học Trung Hoa cổ đại” để làm đề tài luận văn của mình nhằm tìm hiểu rõ hơn về những quan điểm về con người của các triết gia tiểu biểu thời Trung Hoa cổ đại để qua đây có thể có những hiểu biết cơ bản về cái nhìn của người Trung Hoa về vấn đề con người thời cổ đại cũng như cho đến giai đoạn hiện nay. 2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài Mục đích nghiên cứu của đề tài nhằm: - Làm rõ những tiền đề về kinh tế, chính trị - xã hội Trung Hoa thời cổ đại có những đặc điểm gì tạo điều kiện cho sự ra đời của những quan điểm về bản chất con người của các triết gia. - Khai thác các tư tưởng triết học cơ bản về nhân sinh quan của các triết gia tiêu biểu trong một số trường phái triết học tiêu biểu. Đề tài sẽ thực hiện các nhiệm vụ là phân tích, làm rõ các quan điểm của các nhà triết học tiêu biểu về con người, bản chất con người, cũng như cách nhìn nhận và đánh gia về con người và tìm hiểu những ảnh hưởng của các quan niệm này đến xã hội lúc bấy giờ. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đi sâu làm rõ một số nội dung của đề tài nghiên cứu: - Tư tưởng triết học cơ bản của các triết gia, các trường phái triết học về vấn đề con người như Nho giáo, Lão giáo, Pháp gia…trong triết học Trung Hoa cổ đại. - Những điểm được và hạn chế của các quan niệm về con người của các triết gia. Về phạm vi nghiên cứu thì đề tài giới hạn ở việc nghiên cứu vấn đề con người của các trường phái triết học thời Trung Hoa cổ đại chứ không đi sang nghiên cứu con người ở các thời kỳ khác trong triết học Trung Hoa. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Đề tài được tiếp cận dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Những phương pháp được sử dụng chủ yếu trong nghiên cứu đề tài là phương pháp logic và lịch sử. Ngoài ra tác giả còn sử dụng phối hợp một số phương pháp như: phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa… 5. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo, luận văn chia làm 2 chương, 4 tiết. NỘI DUNG Chương 1: TÌNH HÌNH KINH TẾ, CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI TRUNG HOA THỜI KỲ CỔ ĐẠI ( 2205 TCN – 222 TCN) Trung Hoa cổ đại là một trong những trung tâm văn hóa, khoa học và triết học cổ xưa, phong phú và rực rỡ nhất không chỉ của nền văn minh phương Đông mà của cả nhân loại. Trung Hoa cổ đại có lịch sử lâu đời từ cuối thiên niên kỷ thứ III TCN kéo dài đến thế kỷ III TCN với sự kiện Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Hoa bằng uy quyền bạo lực, mở đầu thời kỳ Trung Hoa phong kiến. Trong khoảng 2000 năm lịch sử ấy, lịch sử Trung Hoa được phân thành hai thời kỳ lớn: . Thời Tam đại (Hạ, Thương, Chu) . Thời Xuân Thu – Chiến Quốc 1.1. Thời kỳ Ân Thương – Tây Chu 1.1.1. Triều Hạ (khoảng thế kỉ XXI – XVI TCN) Trung Quốc đã trãi qua xã hội nguyên thủy. Rất nhiều nơi trên lãnh thổ Trung Quốc đã phát hiện được nhiều di chỉ thuộc các thời kì đồ đá cũ và đồ đá mới. Tiêu biểu cho thời kỳ đồ đá mới ở Trung Quốc là văn hóa Ngưỡng Thiều. Theo các ghi chép, các truyền thuyết, các thư tịch cho biết rằng người nguyên thủy “sống chung với cầm thú” nhân dân ít mà cầm thú nhiều, nhưng nhân dân không thắng nổi cầm thú, rắn rết” [13, 124] do đó họ Hữu Sào đã dạy dân chặt cây làm tổ để tránh hại. Trong khi đó người nguyên thủy cũng chưa biết dùng lửa, về sau họ Toại Nhân đã dạy dân đục gỗ lấy lửa, thức ăn chính do đó tránh được bệnh tật. Sau đó, Phục Hi đã dạy dân kết thừng để làm lưới bắt cá, Thần Nông phát minh ra cày dạy dân nghề trồng trọt. Về quan hệ xã hội của người nguyên thủy ở Trung Quốc thì lúc đầu có thể có quan hệ quần hôn nội tộc. Đến cuối xã hội nguyên thủy, theo truyền thuyết ở lưu vực Hoàng Hà có nhiều thủ lĩnh bộ lạc nối tiếp nhau. Đó là Hoàng Đế, Thiếu Hiệu, Chuyên Húc, Đế Cốc, Đế Chí, Đường Nghiêu, Ngu Thuấn, Hạ Vũ. Truyền thuyết cho biết thêm rằng, năm Nghiêu 72 tuổi, Nghiêu đề nghị cử người khác làm thủ lĩnh liên minh bộ lạc vì Nghiêu đã già. Hội nghị liên minh bộ lạc đã bầu ra Ngu Thuấn, một người có đạo đức và tinh thần trách nhiệm lên thay. Đến khi Thuấn già hội nghị lại bầu Hạ Vũ là người có công lớn trong việc trị thủy lên làm thủ lĩnh liên minh bộ lạc. Sau khi Vũ chết, con của Vũ là Khải lên thay thế. Chế độ bầu cử liên minh bộ lạc đến đây là chấm dứt. Nối chức thủ lĩnh của cha, Khải nghiễm nhiên trở thành một ông vua có quyền hành rất lớn. Từ đó về sau, việc cha truyền con nối ngôi vua được coi là việc đương nhiên hợp với đạo lí. Thiên Lễ vận chép: “Nay đạo lớn đã mất, thiên hạ thành riêng, người ta chỉ thân với người thân của mình, chỉ yêu con của mình, của cải là của riêng mình, cha truyền con nối là hợp với lễ, lấy thành quách hào ao làm kiên cố, lấy lễ nghĩa để làm kỷ cương, để xác định địa vị của vua tôi…vì vậy mưu mô được sử dụng và việc binh đao do đó nổi lên…” [13, 125]. Đúng như vậy sau khi trở thành ông vua đầu tiên ở Trung Quốc, Khải phải đương đầu với nhiều cuộc chống đối như sự phản kháng của Bá Ích thuộc bộ lạc Đông Di, một thành viên của liên minh bộ lạc trước kia, hoặc cuộc đấu tranh của họ Hữu Hổ thuộc bộ lạc Hạ. Đến thời con Khải là Thái Khang, Hậu Nghệ thuộc bộ tộc Đông Di lại khởi binh công Hạ. Thái Khang chạy, Hậu Nghệ giành được chính quyền, nhưng Hậu Nghệ chỉ ham săn bắn, không chú ý đến việc nước nên bị bộ hạ của mình là Hàn Trạc giết để cướp ngôi. Chẳng bao lâu, một người thuộc dòng họ Hạ là Thiếu Khang được sự ủng hộ của một số thị tộc thân cận đã diệt được Hàn Trạc, nhà Hạ lại được khôi phục. Tuy ở thời Hạ nhà nước đã ra đời, nhưng trình độ phát triển về mọi mặt còn rất hạn chế. Nền văn hóa Long Sơn chính là di tích phản ảnh tình hình kinh tế thời Hạ. Tại những di chỉ này, người ta đã phát hiện được đồ đá màu, đồ gốm và những dụng cụ làm bằng xương, sừng, vỏ trai. Đồ đồng cũng đã được phát hiện nhưng mới chỉ là đồng đỏ và số lượng còn rất ít. Đồ gốm ở đây có nhiều màu như đen, xám, trắng, vàng, đỏ nhưng tiêu biểu nhất là loại đồ gốm đen bóng. Vì vậy văn hóa Long Sơn còn gọi là văn hóa đồ gốm đen. Bộ máy nhà nước cũng còn rất đơn giản, chỉ mới có một số chức vụ quản lý ngành kinh tế gọi là Mục chính (quản lý việc chăn nuôi), Xa chính (quản lý xe), Bào chính (phụ trách việc tiến dâng thức ăn cho vua)… Đến cuối đời Hạ, vua Kiệt là một bạo chúa nổi tiếng, áp bức bóc lột nhân dân thậm tệ, cả nước oán hờn. Nhân đó nước Thương mới thành lập đã tấn công Hạ, nhà Hạ diệt vong. 1.1.2. Nhà Thương (khoảng thế kỷ XVI – khoảng năm 1066 TCN) Tương truyền rằng thủy tổ của tộc Thương là Khế, người đồng thời với Hạ Vũ, nhưng đến cháu thứ 14 của Khế là Thang, tộc Thương mới bắt đầu bước sang xã hội có giai cấp. Trong khi nước Thương ở vùng hạ lưu Hoàng Hà không ngừng lớn mạnh thì nước Hạ ở trung lưu Hoàng Hà đang nhanh chóng suy yếu, nhân dân đang căm ghét vua Kiệt, nhân đó, Thang đã đem quân đánh Hạ, Kiệt thua chạy đến đất Nam Sào, nhà Hạ bị tiêu diệt nhà Thương được hình thành. Khi mới thành lập, nhà Thương đóng đô ở Bạc ở phía nam Hoàng Hà, nhưng từ đó trong nội bộ giai cấp thống trị thường xảy ra những cuộc đấu tranh. Để làm yếu thế lực của tầng lớp quý tộc, đồng thời để tránh nước lụt, vua Thương đã dời đô nhiều lần và đến cháu 10 đời của Thang là Bàn Canh thì dời đô đến Ân ở phía Bắc Hoàng Hà. Cho đến khi nhà Thương diệt vong, chỉ trừ vua cuối cùng là Trụ đóng đô ở Triều-ca, còn đều lấy Ân làm kinh đô, vì vậy triều Thương còn gọi là triều Ân. Về mọi mặt, đời Thương có một bước phát triển lớn so với triều Hạ. Tình hình đó chủ yếu được phản ánh trong các di chỉ Trịnh Châu và Ân Khư. Ở Trịnh Châu đã phát hiện được nền nhà, mộ, xưởng luyện đồng, xưởng làm đồ gốm, đồ xương, xưởng cất rượu. Ân Khư chính là kinh đô của triều Thương. Tại đây đã phát hiện khu lăng mộ của các vua Thương, phần mộ của các quý tộc và bình dân. Tiến bộ nổi bật nhất trong nền kinh tế thời Thương là việc sử dụng phổ biến đồ thau. Ngày nay đã phát hiện được hàng vạn đồ dùng bằng đồng thau đời Thương như đồ tế lễ, đồ uống rượu, vũ khí, công cụ thủ công nghiệp…Nghề làm đồ gốm thời Thương cũng có những tiến bộ mới. Ngoài các loại gốm đỏ, đen, xám còn làm được đồ sành, đồ gốm trắng và gốm tráng men. Ngoài hai nghề quan trọng nói trên, các nghề khác như nghề làm đồ đá, ngọc, xương, đồ gỗ, đồ da cũng tương đối phát triển. Việc trao đổi buôn bán cũng khá phát triển. Tại các di chỉ đời Thương đã phát hiện được nhiều vỏ ốc biển là thứ rất hiếm ở vùng đó mà người Thương dùng để làm tiền gọi là bối. Ngoài bối bằng vỏ ốc người ta còn phát hiện bối bằng đồng. Các di chỉ khảo cổ và các tài liệu giáp cốt cũng cho biết rằng đời Thương sự phân hóa giai cấp hết sức rõ rệt. Các loại đồ đồng bằng đồng thau, bằng ngà, bằng ngọc cũng như xe ngựa và những thứ quý báu và hàng chục, hàng trăm người hầu được chôn theo các quý tộc sau khi chết. Ở thời Thương tầng lớp nô lệ tồn tại khá đông, công việc chủ yếu của họ là làm các việc hầu hạ trong nhà, đánh xe, giữ ngựa..còn lực lượng lao động đông đảo nhất và chủ yếu nhất trong sản xuất nông nghiệp đó chính là nông dân. Về văn hóa, đời Thương có bước phát triển rất lớn. Ở di chỉ vương cung ở Ân Khư có rất nhiều mai rùa và mảnh xương trên đó khắc chữ giáp cốt. Đó là những thứ người Thương dùng để bói. Một thành tựu quan trọng khác trong nền văn hóa thời Thương là phương pháp làm lịch. Lịch thời Thương chia một năm làm 12 tháng, tháng đủ có 30 ngày, tháng thiếu có 29 ngày. Để cho khớp với vòng quay của trái đất xung quanh mặt trời, lịch thời Thương đã biết thêm tháng nhuận. Như vậy Thương là một nước trong đó về mọi mặt đã bước đầu phát triển. Nhưng đến cuối thời Thương các vua thường dâm loạn, bạo ngược “không biết nỗi cực khổ của việc cấy gặt, không hiểu sự vất vả của nhân dân, chỉ thích vui chơi hưởng lạc” vì vậy thời gian ở ngôi của họ thường rất ngắn. “Hoặc mười năm, hoặc bảy tám năm, hoặc năm sáu năm, hoặc ba bốn năm”. Trong đó nổi tiếng tàn bạo nhất là vua Trụ, vua cuối cùng của nhà Thương. Sách Sử kí của Tư Mã Thiên chép: “Trụ đánh thuế nặng để lấy tiền chất vào kho Lộc Đài, lấy thóc chứa vào kho Cự Kiều, tăng thu chó ngựa của lạ để chất vào trong thất, mở rộng bãi gò, vườn uyển, đình đài…lấy rượu làm hồ, treo thịt làm rừng…” [13, 128]. Hơn nữa Trụ còn dùng hình phạt tàn khốc để trừng trị nhân dân, lại luôn luôn gây chiến tranh với các bộ lạc xung quanh làm cho nhân dân thêm cực khổ, do đó nhân dân vô cùng oán hận. Nhân tình hình đó nước Chu ở phía tây vốn là một nước phụ thuộc của Thương đem quân tấn công Triều-ca. Nhà Thương diệt vong. 1.1.3. Triều Tây Chu (khoảng năm 1066 – 771 TCN) Chu là một bộ lạc cư trú ở thượng lưu Hoàng Hà. Tương truyền rằng thủy tổ của tộc Chu là Khí, vì trồng lúa giỏi nên được gọi là Hậu Tắc và được tôn làm thần nông nghiệp. Đến đời cháu 12 đời của Khí là Cổ Công Đản Phụ, sự phân hóa giàu nghèo trong bộ lạc Chu đã biểu hiện rất rõ rệt. Vì bị người Nhung lấn chiếm nên Cổ Công Đản Phụ đã phải dời bộ lạc từ đất Mân đến đất Kỳ và định cư ở cánh đồng Chu. Tại đây bộ tộc Chu làm nhà cửa, xây thành quách, đặt “quan lại”. Những cuộc chiến tranh với bộ tộc xung quanh đem lại cho Chu nhiều chiến lợi phẩm và nô lệ càng đẩy nhanh quá trình phân hóa trong bộ tộc Chu. Đến đời cháu của Cổ Công Đản Phụ là Xương thì nước Chu chính thức thành lập. Xương chính là Chu Văn Vương, còn Cổ Công Đản Phụ được truy tôn làm Thái Vương. Văn Vương không ngừng củng cố và phát triển thế lực của mình, phạm vi thống trị đến vùng Trường Giang, trong khi đó nước Thương đang ngày càng suy yếu. Văn Vương định tấn công nước Thương nhưng kế hoạch chưa thành công thì mất. Bốn năm sau người nối ngôi là Vũ Vương đem quân tiến đánh nước Thương. Lúc bấy giờ, quân chủ lực của Thương đang đi đánh các tộc ở phái đông nam không thể về kịp, nên vua Trụ phải trang bị vũ khí cho tù binh và nô lệ để đưa họ ra nghênh chiến. Nhưng khi ra đến mặt trận, đoàn quân này đã quay giáo khởi nghĩa. Do đó quân Chu tiến vào Triều-ca rất thuận lợi. Vua Trụ hết đường trốn chạy phải tự tử. Nhà Thương diệt vong. Để mua chuộc quý tộc và cư dân vùng mới bị chinh phục, Vũ Vương cho phong con Trụ là Vũ Canh một vùng đất cũ của nước Thương và phong cho ba con mình là Quản Thúc, Thái Thúc và Hoắc Thúc vùng đất bên cạnh để giám sát. Sau đó Vũ Vương rút về Cảo Kinh ở phía Tây, vì vậy thời kỳ Chu đóng đô ở đây gọi là Tây Chu. Hai năm sau, Vũ Vương chết. Người con nối ngôi là Thành Vương còn nhỏ nên một người em của Vũ Vương là Chu Công nắm quyền nhíp chính. Nhân tình hình đó nên Vũ Canh lôi kéo Quản Thúc, Thái Thúc và một số nước nhỏ ở phía đông nổi dậy chống nhà Chu. Chu Công phải đem quân đi đánh, sau ba năm mới dẹp được. Vũ Canh và Quản Thúc bị giết, Thái Thúc bị đày. Về sau Thành Vương còn chinh phục nốt các bộ tộc Từ và Hoài ở phía đông nam, từ đây bản đồ nhà Chu được mở rộng ra tận biển Đông. Trên cơ sở ấy, nhà Chu thi hành chính sách phân phong đất đai cho những người cùng họ, do đó lập nên hệ thống các nước chư hầu. Nhưng đến thế kỷ IX TCN, do Lệ Vương thi hành chính sách giữ độc quyền rừng núi ao hồ nên nhân dân rất oán hận. Lệ Vương còn thẳng tay trừng trị những kẻ dám kiêu ca, vì vậy mọi người gặp nhau ngoài đường chỉ dám đưa mắt ra hiệu chứ không dám nói chuyện với nhau. Căm phẫn đến tột độ, năm 841 TCN, nhân dân vùng kinh kì nổi dậy khởi nghĩa. Lệ Vương hốt hoảng bỏ kinh kỳ chạy đến đất Trệ rồi chết ở đó. Con của Lệ Vương là Thái tử Tĩnh trốn vào nhà Thiệu Công. Bị quần chúng nhân dân truy bức, Thiệu Công buộc lòng phải cho con trai của mình ra mạo xưng là Thái tử để quân khởi nghĩa giết chết. Sau khi Lệ Vương bị lật đổ thì đến năm 827 TCN, Thái tử Tĩnh được lên làm vua, hiệu là Tuyên Vương nhà Tây Chu lại được khôi phục. Dưới thời Tuyên Vương, tình hình nhà Chu cũng tương đối ổn định, nhưng sau khi ông mất Tây Chu bị suy yếu rõ rệt. Người nối ngôi là U Vương, một kẻ chỉ thích ăn chơi xa xỉ, say đắm tửu sắc. Vì quá yêu nàng Bao Tự nên đã phế truất hoàng hậu họ Thân và Thái tử Nghi Cữu rồi lập Bao Tự làm hoàng hậu và con trai của nàng là Bá Phục làm thái tử. Do vậy năm 771 TCN, cha của hoàng hậu họ Thân là Thân hầu liên kết với người Khuyển Nhung đem quân đánh U Vương. U Vương thua chạy bị người Khuyển Nhung giết chết. Ngay sau đó Thái tử Nghi Cữu lên làm vua, hiệu là Bình Vương. Nhưng Cao Kinh bị người Khuyển Nhung tàn phá nặng nề nên dời đô sang Lạc Ấp ở phía đông. Thời kỳ Tây Chu đến đây chấm dứt. Ở thời Tây Chu nhìn chung về tình hình kinh tế chưa có bước phát đáng kể so với xã hội trước. Về công cụ sản xuất chưa có tiến bộ vượt bậc so với thời Thương tức là chưa vượt qua được thời đại đồng thau. Tuy vậy nhờ sự tích lũy kinh nghiệm lâu đời, nhờ việc quy hoạch đồng ruộng gắn liền với hệ thống tưới nước, sản xuất nông nghiệp đã có bước phát triển đáng kể. Trên cơ sở ấy, giai cấp thống trị đã thu được nhiều lương thực chất đầy các kho. Thời Tây Chu các ngành thủ công nghiệp, các nghề đúc đồng thau và các nghề làm đồ gốm, đồ ngọc, đồ đá, xương da, gỗ, nghề dệt…đều đạt đến trình độ khá cao. Tuy nhiên nền kinh tế Trung Hoa lúc bấy giờ mang nặng tính chất tự nhiên, những nhu cầu trong đời sống hàng ngày của nhân dân đều dựa vào kinh tế tự túc tự cấp, nhưng để phục vụ cho đời sống của giai cấp quý tộc, việc trao đổi buôn bán cũng diễn ra trong phạm vi cả nước. Tuy tiền tệ đã được sử dụng nhưng hiện tượng lấy vật đổi vật vẫn còn rất phổ biến. Về chế độ ruộng đất: Đến thời Tây Chu, việc phân phong đất cho quý tộc và việc chia ruộng đất cho nông dân đã trở thành chế độ rất hoàn chỉnh. Sau khi chinh phục được nước Thương và các bộ tộc nhỏ khác tất cả đất đai trong nước đều thuộc quyền sở hữu của nhà vua. Do quyền sở hữu thuộc về nhà nước nên ruộng đất không được mua bán. Ngoài vùng xung quanh kinh đô mà vua Chu giữ lại cho mình, gọi là vương kì, đất đai trong cả nước đươc phân phong cho anh em và các công thần của nhà vua. Tùy theo bà con thân hay sơ, công lao lớn nhỏ mà được phân phong ruộng đất rộng hay hẹp, gần hay xa và tước cao hay tước thấp, tốt hay xấu. Những người được phong tước và đất trở thành các vua chư hầu của nhà Chu. Vua chư hầu tuy không có quyền sở hữu hoàn toàn về đất được phong nhưng được truyền lại cho con cháu. Đối với vua Chu, vua chư hầu có nhiệm vụ hàng năm phải đến chầu, nộp cống, ngoài ra con phải đem quân đội đến giúp mỗi khi có chiến sự xảy ra. Nếu không thi hành đúng những nghĩa vụ đó tùy theo mức độ mà bị giáng chức tước, bị thu hồi đất phân phong hoặc bị đem quân đến tiêu diệt. Ruộng đất trong vương kì và trong nước chư hầu đem phong cho các quý tộc quan lại triều đình nhà Chu và triều đình các nước chư hầu gọi là khanh, đại phu. Khanh, đại phu lại chia thái ấp cho những người giúp việc của mình gọi là sĩ. Cuối cùng trong các làng xã, ruộng đất được chia cho nông dân để cày. Mỗi hộ nông dân được chia một mảnh ruộng rộng 100 mẫu gọi là một điền. Để chia ruộng đất thành từng phần như vậy và để dẫn nước vào ruộng, người ta đắp bờ vùng bờ thửa và đào những con mương ngang dọc do đó tạo thành những hình như chữ “tỉnh” ở trên cánh đồng nên gọi là “tỉnh điền”. Như vậy, tỉnh điền là chế độ phân phối ruộng công ở Trung Quốc cổ đại. Chế độ ấy tồn tại đến thời Chiến Quốc khi ruộng tư xuất hiện thì dần dần tan rã. Về quan hệ xã hội: Cũng như thời Thương, thời Tây Chu trong xã hội có ba giai cấp là quý tộc, nông dân và nô lệ. Đứng đầu giai cấp quý tộc là vua bắt đầu từ đời Chu gọi là Vương, là Thiên tử. Vua Chu có quyền rất lớn về hành chính và tư pháp. Ý chí của vua là pháp lệnh. Hơn nữa với danh hiệu Thiên tử, vua Chu còn mượn cả uy trời để cai trị nhân dân, Vua Chu cũng là người có quyền sở hữu cao nhất về ruộng đất trong cả nước và do đó có quyền phân phong ruộng đất cho con em và công thần. Dưới thiên tử là các vua chư hầu. Đó là những ông vua ở các địa phương với các danh hiệu Công, Hầu, Bá…các vua chư hầu có quyền cai trị vương quốc của mình nhưng có nghĩa vụ phục tùng và triều cống Thiên tử. Dưới vua, chư hầu là các quan lại lớn, nhỏ gọi là khanh, đại phu, sĩ. Họ giữ các chức vụ trong triều đình nhà Chu và ở các nước chư hầu. Nông dân là giai cấp đông đảo nhất và là lực lượng giữ vai trò quan trọng trong sản xuất nông nghiệp và là những người cày cấy ruộng “tỉnh điền”. Họ sống trong các làng xã mà từ xưa đã lập thành những công xã nông thôn. Những người có chức trách trong công xã định kỳ phải tiến hành chia ruộng đất cho những hộ nông dân, trong các dịp thời vụ, các chức dịch của công xã có nhiệm vụ đôn đốc việc sản xuất. Ngoài việc sản xuất nông nghiệp, nông dân còn làm một số nghề phụ khác như chăn tằm, dệt lụa, kéo sợi, dệt vải…mặc dù nông dân được coi là “dân của vua” tức là dân tự do nhưng bị áp bức bóc lột nặng nề. Nhận 100 mẫu ruộng công nằm trong lãnh địa của quý tộc, nông dân phải nộp thuế bằng khoảng 1/10 thu hoạch. Ngoài ra họ còn nộp các khoản thuế phụ khác như lụa, da, thú săn…và phải làm tạp dịch như xây dựng dinh thự, thành quách, cầu cống…Đời sống của họ rất cực khổ. Giai cấp có địa vị thấp kém là nô lệ. Cũng như đời Thương, nguồn nô lệ chính là tù binh, ngoài ra còn có một số người đồng tộc bị biến thành nô lệ vì phá sản hoặc vì phạm tội. Công việc chủ yếu của nô lệ là hầu hạ và làm các công việc trong gia đình. Có một số được làm trong các xưởng thủ công và tổ chức buôn bán của nhà nước. Nô lệ thường bị thích chữ vào mặt và bị coi như hàng hóa để buôn bán, trao đổi, ban tặng. Thời Tây Chu, 5 nô lệ mới đổi được một con ngựa và một cuộn tơ. Lúc bấy giờ tục dùng người tuẫn táng vẫn thịnh hành. Trong số những người được chôn theo ấy, chắc chắn phần lớn là nô lệ. 1.2. Thời kỳ Xuân Thu – Chiến Quốc 1.2.1. Thời Xuân Thu Thời Xuân Thu là giai đoạn đầu của thời Đông Chu bắt đầu từ năm 770 TCN cho đến thế kỷ V TCN trước sau gồm khoảng 3 thế kỷ. Sở dĩ thời kỳ này gọi là Xuân Thu vì nó tương đương với giai đoạn lịch sử được chép trong sách Xuân Thu của Khổng Tử. Sách Xuân Thu là quyển sử nước Lỗ trong đó ghi chép những sự kiện xảy ra từ 722 TCN đến năm 481 TCN. Thời Xuân Thu là thời kỳ xã hội Trung Quốc có nhiều chuyển biến quan trọng về kinh tế, chính trị và xã hội. Năm 770 TCN, Chu Bình Vương dời đô sang Lạc Ấp, ở phía Đông, giai đoạn Đông Chu bắt đầu. Đến năm 256 TCN, Chu bị nước Tần thôn tính, nhà Chu diệt vong. Sau khi Bình Vương dời đô sang Lạc Ấp không lâu, trong cung đình xảy ra việc cha con tranh nhau ngôi vua làm cho thế lực của nhà Chu ngày càng suy yếu. Đã thế vương kì của Đông Chu vốn là một vùng nhỏ hẹp, nhưng phần thì phải phân phong cho các công thần, phần thì bị một số nước chư hầu lấn chiếm, nên đất đai còn lại càng hẹp. Mặt khác do uy thế chính trị của nhà Chu ngày càng bị giảm sút, nhiều nước chư hầu không chịu triều cống cho nhà Chu nữa. Bị suy yếu về chính trị và gặp nhiều khó khăn về kinh tế như vậy nên về danh nghĩa tuy vẫn là vua chung của cả nước nhưng thực tế là không đủ sức điều khiển các nước chư hầu. Trong khi đó trên lãnh thổ Trung Quốc có rất nhiều nước nhỏ, phần lớn là những quốc gia được hình thành do chính sách phân phong thời Tây Chu. Trước kia, một trong những mục đích phân phong chư hầu là để các nước này làm phên dậu bảo vệ nhà Chu. Nhưng nay, nhân thế lực nhà Chu suy yếu, một số nước không tuân theo mệnh lệnh của thiên tử mà còn xâm phạm lãnh địa của nhà Chu. Hơn nữa, họ còn muốn “khống chế Thiên tử để chỉ huy các nước chư hầu”. Nước đầu tiên thực hiện mưu đồ đó là nước Trịnh, vì vậy Chu Hoàn Vương đã huy động quân đội các nước Trần, Thái, Vệ đi đánh nước Trịnh, nhưng kết quả bị thua, bản thân Hoàn Vương cũng bị thương. Cũng trong quá trình ấy, nhà Chu và một số nước chư hầu lại bị các bộ tộc “Man”, “Di” đe dọa từ phía Nam và phía Đông. Trước tình hình đó các nước chư hầu nêu chiêu bài cứu vãn tình hình, nhưng thực chất là muốn các nước chư hầu khác phục tùng mình. Do vậy từ đầu thế kỷ thứ VII đến đầu thế kỷ V TCN, trên vũ đài chính trị Trung Quốc đã diễn ra tấn tuồng các nước đánh nhau để tranh quyền bá chủ. Nước đầu tiên giành được quyền bá chủ là nước Tề. Với khẩu hiện “Tôn vua trừ Di”, vua Tề là Tề Hoàn Công đã ngăn chặn được sự xâm lấn và quấy nhiễu của người Nhung Địch. Năm 656 TCN, Tề cùng một số nước khác đem quân hỏi tội nước Sở vì sao không nộp cống cho nhà Chu. Nước Sở phải đề nghị giảng hòa. Sau đó Tề Hoàn Công họp hội nghị chư hầu mấy lần, được chư hầu công nhận làm bá chủ ở miền hạ lưu Hoàng Hà. Nước Tấn ở vùng Sơn Tây ngày nay cũng là một nước lớn. Năm 636 TCN, công tử Trùng Nhĩ sau khi lưu lạc ở nước ngoài 19 năm được về làm vua, hiệu là Tấn Văn Công. Từ đó sự tranh chấp trong nội bộ chấm dứt, thế nước trở nên hùng mạnh. Năm 632 TCN, Văn Công chỉ huy liên quân Tấn, Tề, Tần, Tống đánh bại liên quân Sở, Trần, Thái ở Thành Bốc. Sau đó Tấn Văn Công họp hội nghị chư hầu, nước Tấn được công nhận làm bá chủ. Nước Sở ở lưu vực Trường Giang vốn là một nước nhỏ thành lập từ đời Thương. Nhờ khuất phục được nhiều bộ lạc xung quanh và thôn tính được một số nước chư hầu nhỏ của nhà Chu, nước Sở đã trở nên lớn mạnh. Đến thời Xuân thu, vua Sở chính thức xưng vương, không thừa nhận địa vị Thiên tử của nhà Chu. Đến thời Sở Trang Vương (691 – 613 TCN) thế nước của Sở càng mạnh. Năm 597 TCN, Sở đánh Trịnh, Tấn đem quân đến cứu cũng bị đánh bại, do dó nước Sở cũng trở thành bá chủ. Nước Tần ở vùng Tây Bắc thành lập tương đối muộn. Khi Bình Vương dời đô sang Lạc Ấp, nhờ có công hộ tống vua Tần mới được nhà Chu phong làm chư hầu. Đến thời Tần Mục Công (659 – 621 TCN), Tần nhiều lần đánh nhau với Tấn, tiếp đó lại bành trướng sang phía Tây, tiêu diệt được nhiều nước chư hầu nhỏ của nhà Chu, thôn tính được đất đai của nhiều bộ lạc Nhung Địch, do đó cũng trở thành một nước lớn. Trong các nước tranh quyền bá chủ lúc bấy giờ, nước Tề chỉ làm bá chủ được một thời gian ngắn, nước Tần chỉ khống chế được vùng Tây Bắc, chỉ còn hai nước Tấn và Sở kình địch với nhau lâu dài nhất để giành ngôi bá chủ ở vùng Hoàng Hà. Năm 546 TCN, hai nước giảng hòa và đều được công nhận là bá chủ. Các nước chư hầu khác đều phải nộp cống cho hai nước. Khi những cuộc chiến tranh giành quyền bá chủ ở miền Bắc vừa lắng xuống thì nước Ngô ở vùng Giang Tô và nước Việt ở vùng Triết Giang đang trên đà phát triển. Trong thời gian nước Tấn và nước Sở đánh nhau, Ngô là đồng minh của Tấn, Việt là đồng minh của Sở. Vì vậy chiến tranh giữa Sở và Ngô diễn ra nhiều lần. Năm 506 TCN, Ngô đem quân đánh Sở, chiếm được kinh đô. Sở phải nhờ viện binh của Tần mới đánh đuổi được quân Ngô. Nhân khi quân Ngô đang kéo quân đi đánh nước Sở, Việt đã tấn công Ngô. Năm 496 TCN, Ngô Việt lại đánh nhau. Vua Ngô là Hạp Lư bị thương rồi chết. Con Hạp Lư là Phù Sai quyết tâm báo thù. Năm 494 TCN, Phù Sai đánh bại quân Việt, vua nước Việt là Câu Tiễn với thái độ hết sức nhún nhường xin nước Ngô đừng tiêu diệt mà cho Việt được làm nước phụ thuộc của Ngô. Sau đó Câu Tiễn nằm gai nếm mật, tích cực chuẩn bị lực lượng để chờ thời cơ phản công nước Ngô. Còn Phù Sai khi đánh bại nước Việt đã đem toàn bộ lực lượng lên phía Bắc để tranh quyền bá chủ. Sau hai lần đánh bại quân Tề, năm 482 TCN, Phù Sai hợp các nước chư hầu để giành quyền bá chủ của nước Tấn. Nhân cơ hội đó Câu Tiễn tấn công kinh đô của nước Ngô. Phù Sai vội vàng kéo quân về xin hòa và đến năm 473 TCN thì bị nước Việt tiêu diệt. Sau đó Câu Tiễn cũng kéo quân lên miền Bắc, triệu tập hội nghị chư hầu và cũng làm bá chủ một thời gian. Về tình hình kinh tế ở thời Xuân Thu thì tiến bộ mới quan trọng nhất trong lĩnh vực kinh tế thời kỳ này là sự ra đời của đồ sắt. Giữa thời Xuân Thu, trên một chiếc chuông của nước Tề có khắc một đoạn chữ trong đó có câu: “Người luyện sắt bốn nghìn”. Ở nước Tấn, năm 513 TCN, nhà nước đã dùng sắt để đúc đỉnh, trên đó khắc những điều luật của Phạm Tuyên Tử. Đồng thời với việc sử dụng đồ sắt, đến thời Xuân Thu, người Trung Quốc đã biết dùng súc vật làm sức kéo. Vấn đề thủy lợi đến thời kỳ này cũng được coi trọng. Nước Ngô, thời kỳ Phù Sai đã đào một hệ thống kênh nối Trường Giang với Sông Hoài và nối Sông Hoài với mấy con sông ở gần lưu vực Hoàng Hà. Ngành thủ công nghiệp, đến thời Xuân Thu cũng phát triển hơn trước. Trong các nghề thủ công truyền thống, nghề đúc đồng thau có nhiều cải tiến rõ rệt. Sản phẩm bằng đồng thau thời kỳ này nói chung có hình dáng thanh thoát, trang trí đẹp mắt. Ngoài các thứ như chuông, đỉnh, đồ uống rượu, qua, dao…còn có một số sản phẩm mới như kiếm ngắn, gương đồng… Nhờ có công cụ bằng sắt, nghề mộc cũng tiến bộ rất nhiều. Đến thời kỳ này còn xuất hiện một số nghề mới như nghề luyện sắt, nghề sơn. Nghề làm muối cũng rất được coi trọng. Vì vậy, có nước chư hầu đã đặt chức quan chuyên trách về sắt và muối. Cũng như trước kia, nhà nước vẫn nắm một bộ phận quan trọng trong việc sản xuất thủ công nghiệp. Tùy theo ngành nghề nhà nước tổ chức thành các xưởng khác nhau như xưởng đồng, xưởng sắt, xưởng dệt, xưởng gốm, xưởng mộc… Hoạt động thương nghiệp đến thời Xuân Thu cũng khá sôi nổi. Trong số các nước chư hầu, Tề là nước có nền thương nghiệp phát triển sớm nhất. Đến thế kỉ VII TCN, việc buôn bán ở nước Tề khá thịnh vượng. Quản Trọng nói: “…Nay những người buôn bán ở khắp các nơi, xem xét bốn mùa, chủ ý các thổ sản của các địa phương mình để biết giá chợ, đánh bò xe ngựa đi khắp bốn phương, đem cái có đổi lấy cái không có, mua rẻ bán đắt” [13, 141]. Đến giữa thời Xuân Thu, trung tâm của việc buôn bán ở Trung Quốc là nước Trịnh vì nước này có vị trí thuận lợi về mặt giao thông. Nhờ vậy, lái buôn nước Trịnh đã đi buôn bán khắp đó đây: Nam thì xuống Sở, Bắc thì lên Tấn, Đông thì sang Tề. Nhờ hoạt động của họ, thổ sản các nơi được trao đổi với nhau. Cùng với sự phát triển của công thương nghiệp, nhiều thành phố vốn là những đô thị trung tâm chính trị đã trở nên phồn hoa đông đúc như Lâm Tri của Tề, Hàm Đan của Triệu, Đại Lương của Ngụy, Lạc Dương của Chu…Trong số đó, theo Chiến Quốc sách, thành phố Lâm Tri có đến 7 vạn hộ. Qua đó có thể thấy số dân trong các thành thị Trung Quốc lúc bấy giờ không phải là ít. Về quan hệ ruộng đất thì đến thờ Xuân Thu đã có sự thay đổi về quyền sở hữu ruộng đất. Trong giai đoạn trước, toàn bộ ruộng đất ở Trung Quốc đều thuộc quyền sở hữu của nhà nước, nhưng bắt đầu từ thời Xuân Thu, chế độ ruộng đất của nhà nước dần dần tan rã, ruộng tư xuất hiện ngày càng một nhiều. Thời Tây Chu, trên cơ sở “Khắp dưới gầm trời, đâu cũng đất vua”, Thiên tử nhà Chu đã phong đất cho các chư hầu. Khi mới phân phong, sự ràng buộc của nhà Chu đối với chư hầu, một mặt dựa vào quan hệ họ hàng, mặt khác dựa vào quan hệ giữa tôn chủ (người phong đất) với bồi thần (người được phong). Nhưng đến thời Xuân Thu, cái quan hệ họ hàng đó đã trở nên xa xôi và quan trọng hơn, nhà Chu với tư cách là tôn chủ không còn đủ thế lực để bắt những người được kế thừa đất phong phải thực hiện nghĩa vụ của họ. Vì vậy, trên thực tế, các nước chư hầu đều coi lãnh địa được phong là quyền sở hữu của họ. Ngoài lãnh địa được phong, các nước lớn còn thôn tính nhiều nước nhỏ và xâm chiếm đất đai của các nước khác. Bộ phận đất đai này lại càng là sở hữu của họ. Trong các nước chư hầu, do sự suy yếu của nhà vua, do tranh giành đất đai của nhau, thái ấp của Khanh đại phu cũng biến dần thành ruộng đất tư của họ. Trong quá trình ấy, chế độ tỉnh điền cũng dần dần tan rã. Do công cụ sản xuất tiến bộ và số dân lao động tăng lên, người ta có khả năng khai khẩn thêm nhiều đất hoang. Vì vậy, một số nông dân đã khai phá thêm một ít ruộng đất ngoài phần đất được chia, do đó sự chênh lệch về tài sản trong hàng ngũ nông dân cũng ngày càng rõ rệt. Hơn nữa, do kỹ thuật sản xuất tiến bộ, việc đầu tư công sức vào ruộng đất cũng khác nhau, vì vậy, nhiều nông dân không muốn thực hiện việc định kỳ chia lại ruộng đất như trước nữa. Cho nên đến thời kỳ này một số nông dân cũng có ruộng đất riêng. Trước kia, ruộng đất thuộc quyền sở hữu của nhà nước nên không được mua bán, nhưng đến thời Xuân Thu, hiện tượng mua bán ruộng đất đã xuất hiện. Sách Tả truyện chép: “Người Nhung Địch đến ở, dùng vật quý để đổi lấy đất, đất có thể mua bán” [13, 142]. Sự ra đời của hiện tượng mua bán ruộng đất là kết quả tất yếu của chế độ ruộng đất thuộc quyền sở hữu tư nhân, đồng thời việc mua bán ruộng đất lại thúc đẩy chế độ ruộng tư phát triển nhanh chóng. Trước chiều hướng phát triển không thể ngăn chặn được của chế độ ruộng tư dẫn đến sự xáo trộn về ruộng đất, việc thu thuế đồng loạt như trước rõ ràng là không thích hợp nữa, vì vậy nhiều nước đã cải cách chế độ thuế khóa. Giữa thế kỷ VII TCN, áp dụng chính sách cải cách của Quản Trọng, nước Tề đã căn cứ theo ruộng đất tốt xấu để đánh thuế. Năm 594 TCN, nước Lỗ bắt đầu đánh thuế theo diện tích ruộng đất. Việc đó, chứng tỏ nước Lỗ chính thức thừa nhận sự chênh lệch về ruộng đất trong hàng ngũ nông dân và thừa nhận quyền tư hữu ruộng đất của nông dân là hợp pháp. Về quan hệ giai cấp: Trước hết, sự xuất hiện chế độ ruộng tư đã dẫn đến sự phân hóa trong giai cấp thống trị. Do có ruộng đất riêng, một số Khanh, đại phu, sĩ đã biến thành những địa chủ mới. Sự tan rã của chế độ tỉnh điền đã làm cho giai cấp nông dân bị phân hóa. Một bộ phận nông dân vẫn giữ được 100 mẫu ruộng được chia trước kia, có khi còn khai khẩn thêm được một ít nữa, đã trở thành nông dân tự canh. Một bộ phận hoàn toàn “không có tấc đất cắm dùi” thì phải làm tá điền hoặc cày thuê cho địa chủ. Một bộ phận có một ít ruộng đất nhưng chưa đủ nuôi sống gia đình thì phải lĩnh canh thêm ruộng đất của địa chủ. Do sự phân hóa trong giai cấp nông dân như vậy nên nghĩa vụ nộp tô thuế của họ cũng có phân biệt. Những nông dân cày cấy ruộng đất của mình phải nộp thuế 1/10 cho nhà nước bằng sản phẩm, ngoài ra còn phải nộp vải lụa và phải đi làm lao dịch. Những nông dân lĩnh canh thì phải nộp tô 5/10 cho địa chủ. Những người làm nghề công thương trước kia bị lệ thuộc vào nhà nước do đó chưa hình thành những tầng lớp độc lập. Bắt đầu từ thời Xuân Thu, trong xã hội mới xuất hiện một số thợ thủ công và người buôn bán tự do. Tầng lớp buôn bán cũng ngày càng đông đảo. Thời Xuân Thu, nước Trịnh có nền thương nghiệp phát triển nhất nên ở đây có nhiều lái buôn giàu có. Ở các nước khác cũng có những nhà buôn lớn nổi tiếng như Lữ Cống, Phạm Lãi, Bạch Khuê. Tử Cống là một học trò của Khổng Tử, chuyên buôn bán ở nước Tào, nước Lỗ. Phạm Lãi là một công thần của Việt Câu Tiễn, nhưng sau khi giúp Câu Tiễn đánh Ngô thắng lợi đã bỏ sang nước Tề buôn bán và đổi tên thành Đào Chu Công. Còn Bạch Khuê cũng vốn là một đại thần của Ngụy Huệ Vương. Do có thế lực lớn về kinh tế, các nhà buôn lớn cũng có ảnh hưởng đáng kể về chính trị. Ví dụ, thời Xuân Thu, nước Tần có một người tên là Tuân Oanh bị nước Sở bắt, nước Tấn phải nhờ lái buôn, nước Trịnh cứu về. Giai cấp nô lệ cũng có ít nhiều thay đổi. Nguồn nô lệ vẫn là tù binh, những người phạm tội và những người phá sản phải bán vợ con hoặc bản thân mình làm nô lệ. Nói chung nô lệ vẫn bị áp bức bóc lột tàn nhẫn như trước, nhưng hiện tượng chôn nô lệ theo chủ đã bị xã hội cho là phi lý nên bị giảm bớt rất nhiều. Giá nô lệ cũng đắt hơn thời Tây Chu. một. Đồng thời, do nhu cầu của sản xuất hoặc chiến tranh, hiện tượng giải phóng nô lệ cũng đã xuất hiện. Ví dụ: Triệu Ưởng trước lúc xuất quân đã tuyên bố: “Nếu thắng được địch…nô lệ sẽ được giải phóng” [13, 144]. Nhiệm vụ của nô lệ thời kỳ này vẫn là làm các công việc hầu hạ trong cung đình hoặc cho gia đình của chủ như giữ ngựa, đánh xe, giã gạo, nấu cơm, hầu tiệc, ca múa…Ngoài ra, có một bộ phận nô lệ làm việc trong các ngành công thương nghiệp. 1.2.2. Thời Chiến Quốc Nổi bật của thời kỳ này là những cuộc chiến tranh thôn tính lẫn nhau của các nước và kết thúc quá trình này là việc Tần Thủy Hoàng tiến tới thống nhất Trung Quốc bằng vũ lực. Trải qua cuộc chiến tranh lâu dài giữa các nước và trong nội bộ các nước, đến thời Chiến Quốc, ở Trung Quốc có bảy nước lớn là Yên, Tề, Triệu, Ngụy, Hàn, Tần và Sở…Đến thế kỷ IV TCN, những cuộc chiến tranh thôn tính lẫn nhau giữa các nước ở Trung Quốc lại bùng lên với mức độ ngày càng ác liệt. Chính vì thế, thời kỳ này gọi là thời kỳ Chiến Quốc. Trong số 7 nước lớn, Ngụy là nước hùng mạnh sớm nhất. Với ý đồ thống nhất lại nước Tấn cũ, năm 354 TCN, Ngụy tấn công nước Triệu ở phía Bắc, năm 342 TCN, lại tấn công nước Hàn ở phía Nam nhưng cả hai cuộc tấn công đó đều bị viện binh của nước Tề đánh bại. Ít lâu sau, Ngụy bị Tần và Sở lần lượt tấn công ở phía Tây và phía Nam, bị hai nước chiếm mất nhiều đất đai nên Ngụy suy yếu. Ở phía Đông, cuộc xung đột diễn ra chủ yếu giữa Tề và Yên. Tiếp đó, Tề liên minh với Ngụy, Hàn để đánh Tần, Sở. Trước sự lớn mạnh của Tề, năm 248 TCN, nước Yên liên minh với các Tần, Ngụy, Triệu, Hàn để đánh Tề. Phần lớn đất đai của Tề bị Yên chiếm làm quận, huyện. Năm năm sau, tuy Tề lấy lại được đất đai đã mất nhưng thế lực của Tề ngày càng yếu. Nước Tần ở phía Tây đến đầu thời Chiến Quốc vẫn còn tương đối lạc hậu. Để đất nước trở nên giàu mạnh, vua Tần là Hiếu Công muốn tìm người có tài năng giúp mình cải cách. Vừa dịp ấy có Thương Ưởng, một nhà chính trị theo đường lối Pháp gia đến nước Tần, được Hiếu Công trọng dụng. Năm 359 TCN, Hiếu Công bắt đầu ban hành các luật cải cách của Thương Ưởng với những nội dung chủ yếu: Tăng cường trật tự trị an: Nhân dân cứ 5 nhà, 10 nhà được tổ chức thành một nhóm để kiểm soát lẫn nhau và cùng chịu trách nhiệm chung. Nếu một người phạm pháp thì những người kia phải tố giác. Nếu tố giác thì được thưởng ngang với công chém được một đầu giặc ở ngoài mặt trận. Nếu không tố giác thì bị chém ngang lưng, nếu che giấu cho người phạm tội thì bị xử ngang với tội đầu hàng địch ở ngoài mặt trận. Khuyến khích sản xuất nông nghiệp: Nếu ai sản xuất được nhiều lúa, dệt được nhiều lụa thì được miễn lao dịch. Còn nếu ai bỏ nông nghiệp để đi buôn hoặc vì lười biếng mà trở nên nghèo đói thì cả nhà bị biến thành nô lệ. Khuyến khích lập quân công: Bất cứ ai chém được một đầu giặc thì được thưởng tước một cấp, nếu muốn làm quan thì được cấp lương mỗi năm 50 thạch lúa. Ruộng vườn, nô lệ được chiếm hữu nhiều hay ít, quần áo ăn mặc đẹp như thế nào đều căn cứ theo chức tước cao hay thấp. Dù là con quý tộc, nhưng nếu không có chiến công thì cũng không được phong tước. Sau khi ban hành những chủ trương cải cách trên, ở kinh đô có hàng nghìn người phản đối, trong đó có cả Thái tử. Thương Ưởng cho rằng “Muốn thì hành pháp luật thì trước hết phải bắt đầu từ Thái tử” [13, 138]. Nhưng không thể trị ông vua tương lai nên Thương Ưởng đã thích chữ vào mặt hai thầy giáo của Thái Tử. Từ đó pháp lệnh được thi hành một cách nghiêm chỉnh. Năm 350 TCN, Thương Ưởng lại tiếp tục đề ra một số chủ trương mới: . Nhập các thôn ấp lại thành huyện, nhà nước cử quan lệnh và thừa đến cai. . Bỏ chế độ tỉnh điền, ruộng đất được tự do mua bán. . Thống nhất đo lường về độ dài, dung tích và trọng lượng. Mục đích của những chính sách cải cách của Thương Ưởng là nhằm phá vỡ cơ sở kinh tế và đặc quyền chính trị của tầng lớp quý tộc cũ, tạo điều kiện cho tầng lớp địa chủ mới chiếm ưu thế về kinh tế và chính trị, đồng thời làm cho nước Tần ngày càng giàu mạnh. Kết quả “nhà đủ người no, dân dũng cảm trong lúc chiến đấu vì công, khiếp sợ không dám đánh nhau vì việc riêng, làng xóm đều được trị an…người Tần giàu mạnh” [13, 139]. Sự hùng mạnh của Tần làm cho 6 nước phía Đông đều lo sợ. Vì vậy năm 333 TCN, theo sáng kiến của Tô Tần, Tướng quốc của nước Yên, sáu nước Yên, Tề, Triệu, Ngụy, Hàn, Sở đã thành lập một liên minh gọi là Hợp tung để chống Tần. Nhưng giữa các nước này vốn có nhiều mâu thuẫn nên đồng minh quân sự đó chỉ tồn tại được 3 năm thì bị phá vỡ. Sau đó sáu nước còn lại tổ chức hợp tung mấy lần nữa nhưng cũng không bền chặt. Để phá vỡ hợp tung của các nước phía Đông, năm 328 TCN, Tướng quốc của Tần là Trương Nghi dùng mánh khéo ngoại giao để chia rẽ các nước phía Đông, lôi kéo các nước này liên minh với Tần gọi là “Liên hoành” nhưng thực chất là bắt các nước này phải Thần phục Tần. Sau đó, Tần liên tiếp tấn công các nước láng giềng Triệu, Ngụy, Hàn, Sở và nhiều lần thu được thắng lợi. Trong quá trình ấy, các nước nhỏ như Trịnh, Trung Sơn Tống, Lỗ, Vệ… đều bị các nước lớn thôn tính. Còn nước Chu nhỏ bé thì năm 367 TCN, do việc tranh giành ngôi vua cũng chia thành hai nước là Tây Chu và Đông Chu. Đến năm 256 TCN và năm 249 TCN, hai nước này lần lượt bị Tần tiêu diệt. Đến đây ở Trung Quốc chỉ còn 7 nước lớn và Tần đã trở thành một lực lượng vô địch. Năm 230 TCN, Tần diệt Hàn, và sau đó đã liên tiếp diệt Triệu (228 TCN), Ngụy (225 TCN), Sở (223 TCN), Yên (222 TCN), Tề (221 TCN). Thời Chiến Quốc đến đây chấm dứt, Trung Quốc thống nhất. Về tình hình kinh tế xã hội: Cũng giống như thời Xuân Thu thì tiến bộ mới quan trọng nhất trong lĩnh vực kinh tế thời kỳ này là sự ra đời của đồ sắt. Đến thời Chiến Quốc, đồ sắt càng được sử dụng một cách phổ biến. Nhiều loại công cụ bằng sắt như lưỡi cày, lưỡi cuốc, xẻng, liềm, búa và một số khuôn đúc sắt thuộc thời kỳ này đã được phát hiện. Trong lĩnh vực nông nghiệp đã biết sử dụng gia súc làm sức kéo, đặc biệt là vấn đề thủy lợi. Ở thời Chiến Quốc, các công trình thủy lợi được xây dựng nhiều hơn. Các nước Ngụy, Tần đều có những kênh đào khá dài. Các nghề thủ công thời Chiến Quốc lại càng có những bước tiến mới. Riêng nghề luyện sắt có sự tiến bộ về mặt kỹ thuật. Ngoài việc làm rèn sắt, người ta còn biết kỹ thuật đúc, do đó đã luyện được cả gang và thép. Nền thủ công nghiệp tư doanh đến thời Xuân Thu – Chiến Quốc cũng phát triển. Những nghề đòi hỏi phải có nhiều vốn như nghề luyện sắt, nghề làm muối thường do các nhà giàu kinh doanh. Họ phải nộp thuế bằng 3/10 thu nhập cho nhà nước. Những nghề thủ công vốn là nghề phụ gia đình giờ đây cũng không ngừng tách rời khỏi nông nghiệp để trở thành những nghề độc lập. Chính bộ phận thủ công nghiệp này đã cung cấp các loại đồ dùng hàng ngày cho nhân dân. Thời Xuân Thu thì hoạt động thương nghiệp đã phát triển nhưng đến thời Chiến Quốc cũng khá sôi nổi nhưng sang thời Chiến Quốc, nền thương nghiệp của Trung Quốc càng phát triển hơn trước. Do đó, trong xã hội đã xuất hiện một số lái buôn lớn có số vốn lên đến hàng vạn lạng vàng, chuyên đầu cơ tích trữ và lũng đoạn thị trường. Đến thời Chiến Quốc tiền tệ được dùng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực: trao đổi hàng hóa, trả tiền thuê nhân công, cho vay lấy lãi, nộp thuế. Tuy vậy, do tình trạng chia cắt đất nước nên mỗi nước có một loại tiền riêng: các nước Ngụy, Triệu, Hàn dùng tiền hình lưỡi xẻng gọi là bố, các nước Yên, Tề dùng tiền hình con dao gọi là đao, các nước Tần, Đông Chu, Tây Chu dùng tiền hình tròn, nước Sở thì vẫn dùng bối bằng đồng. Về quyền sở hữu ruộng đất: Do chế độ tỉnh điền bị phá vỡ vào thời Xuân Thu và việc mua bán ruộng đất cũng tương đối phổ biến. Ở thời kỳ này chế độ ruộng tư càng phát triển mạnh mẽ, chế độ tỉnh điền đang đi đến chỗ tan rã hoàn toàn. Trong hoàn cảnh ấy, ruộng đất ngày càng tập trung vào tay các địa chủ lớn, nông dân nhiều người bị mất ruộng đất, do đó lúc bấy giờ có câu: “Nhà giàu ruộng liền bờ bát ngát, người nghèo không có tấc đất cắm dùi” [13, 143]. Năm 350 TCN, nước Tần thông qua luật cải cách của Thương Ưởng, tuyên bố bỏ chế độ tỉnh điền, cho dân được mua bán ruộng đất. Những chính sách ấy của Nhà nước càng tạo điều kiện cho chế độ ruộng tư phát triển. Về quan hệ giai cấp: Sự phát triển của các ngành kinh tế và sự thay đổi về quyền sở hữu ruộng đất làm cho cơ cấu giai cấp trong xã hội cũng thay đổi, sự xuất hiện chế độ ruộng tư đã dẫn đến sự phân hóa trong giai cấp thống trị. Ở thời Chiến Quốc, không những quan lại nhà nước mà một số nhà buôn giàu cũng mua được nhiều ruộng đất trở thành những thương nhân kiêm địa chủ. Đầu thời Chiến quốc trong xã hội xuất hiện một số thợ thủ công và người buôn bán tự do, tương truyền ở nước Lỗ có một người thợ mộc lành nghề nổi tiếng là Công Thâu Ban (thường gọi là Lỗ Ban) về sau được tôn làm ông tổ của nghề mộc Trung Quốc. Ở nước Tống, có một số thợ có nơi làm việc cố định và truyền nghề nghiệp từ đời này sang đời khác. Càng về sau, tầng lớp thợ thủ công cá thể xuất hiện càng nhiều. Họ chuyên làm nghề nghiệp của mình rồi đem sản phẩm đổi lấy các loại tư liệu sinh hoạt. Mạnh Tử nói: “Thợ gốm, thợ rèn đem sản phẩm đổi lấy thóc”, Hàn Phi cũng nói: “Người thợ đóng xe muốn người ta giàu sang, người ta đóng áo quan thì muốn người ta chết non” [13, 144]. Cuối thời Chiến quốc, nhà buôn kiêm địa chủ nổi tiếng nhất là Lã Bất Vi ở nước Triệu, một người đã bỏ ra một nghìn cân vàng để buôn vua và về sau trở thành thừa tướng của nước Tần. Thời Chiến Quốc, các nhà buôn lớn cũng thường giao du với tầng lớp thượng lưu trong xã hội. Giai cấp cuối cùng trong xã hội đó là nô lệ. Nhiệm vụ của nô lệ thời kỳ này vẫn là làm các công việc trong cung đình hoặc cho gia đình của chủ như giữ ngựa, đánh xe, giã gạo, nấu cơm, hầu tiệc, ca múa…Ngoài ra, có một bộ phận nô lệ làm việc trong các ngành công thương nghiệp. Chương 2: NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VỀ CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC TRUNG HOA CỔ ĐẠI 2.1. Quan điểm về con người thời Ân Thương – Tây Chu Đây là giai đoạn hình thành và phát triển của chế độ chiếm hữu nô lệ ở Trung Hoa, thế giới quan thần thoại mê tín và tôn giáo duy tâm với các biểu tượng về “Thiên mệnh”, về ý chí của “Thượng đế” và quỷ thần – những lực lượng tinh thần tối cao, chi phối và quyết định sự tiến hóa của vũ trụ và đời sống xã hội, đã trở thành hình thái ý thức chiếm địa vị thống trị lúc bấy giờ. Không những thế nguời đời Thương, Chu còn mê tín “bói toán” tin rằng con người có thể thông đạt với thượng đế và quỷ thần, đồng thời họ nhân cách hóa, thiêng liêng hóa hiện tượng tự nhiên, coi hiện tượng tự nhiên là một thứ thần bí có thể quyết định vận mạng loài người, là đối tượng để họ sùng bái và cúng tế. Con người chỉ có tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh của các vua chúa - người chịu mệnh lệnh của trời cai trị dân trên mặt đất, nếu không thì thượng đế sẽ trừng phạt cực kỳ tàn khốc, gieo xuống cho nhân dân những tai họa nặng nề. Sự mê tín tôn giáo ấy bị bọn quý tộc chủ nô dựa theo và lợi dụng để củng cố nền thống trị của chúng đối với nhân dân. Đối lập với những quan điểm duy tâm tôn giáo ấy, cuối thời Tây Chu đã xuất hiện tư tưởng triết học duy vật và những quan niệm có tính chất vô thần tiến bộ. Từ chỗ hoài nghi, tín ngưỡng tôn giáo, phê phán các thứ tín ngưỡng nguyên thủy, sùng bái linh thiêng, cúng tế, thuật chiêm tinh, bói toán, lên án sự giả dối, tàn ác của bọn thống trị, họ đã chuyển qua phê phán chính “Thượng đế” – một lực lượng tối cao, anh minh mà họ vốn tôn sùng. Qua đó những tư tưởng tiến bộ đã khẳng định, nâng cao và tác dụng hoạt động của con người trong tự nhiên cũng như trong xã hội. Họ tin rằng con người có thể quyết định vận mạng của mình, không cần phải cầu khẩn quỷ thần giúp đỡ. Tang Văn Trọng cho rằng chỉ cần con người ra sức sản xuất nông nghiệp và tiết kiệm tiền của thì có thể đề phòng được thiên tai, cúng tế đồng bóng đều không có lợi ích gì cả. Sỹ Bái cho rằng, dựa vào quỷ thần để giải thích hành vi của mình là tội ác. Tử Sản đưa ra danh ngôn “Đạo trời xưa, đạo người gần”[22, 144]. Họ còn ý thức được rằng quần chúng nhân dân quan trọng hơn quỷ thần, nếu kẻ thống trị không được dân ủng hộ thì dù sùng bái quỷ thần cũng bị mất chính quyền. Có thể nói ở thời kỳ này vấn đề con người chưa được các triết gia chú ý tìm hiểu, nếu có nhắc đến thì những tư tưởng này thường được đề cập bên cạnh “Thượng đế”, “Thiên mệnh”, con người chưa được chú trọng nghiên cứu ở một khía cạnh độc lập mà thường bị lồng vào yếu tố duy tâm thần bí. 2.2. Quan điểm về con người thời Xuân Thu – Chiến Quốc 2.2.1. Quan điểm của Nho gia về vấn đề con người Vấn đề tính thiện hay ác là một trong những vấn đề căn bản của đạo Nho. Điều đó cũng dễ hiểu. Một khi coi sự giáo hóa con người là quan trọng hơn cả, quan trọng đối với cá nhân, gia đình, xã hội, một khi đã muốn dùng nó để lập lại trật tự trong xã hội, nghĩa là coi chính trị và giáo dục là một, thì không thể nào không xét đến cái tính của con người được. Tùy quan niệm của mỗi nhà về cái tính hay nói cụ thể hơn là bản chất con người, quan niệm của mỗi nhà cho cái tính này thiện hay ác, hay không thiện không ác, hay cả thiện lẫn ác…mà phương pháp giáo hóa cá nhân, phương pháp trị dân của mỗi nhà thay đổi, chẳng hạn nếu coi tính là thiện thì chỉ cần khếch sung cái thiện đó là đủ, còn nếu như coi nó là ác thì cần ngăn diệt cái ác đó và ta thấy ít nhất cũng đã có hai phương pháp giáo hóa khác hẳn nhau, trái ngược nhau nữa: Một trong lễ nhạc, một trong hình pháp. Tóm lại ta có thể coi quan niệm về tính là một định tắc của mỗi phái Nho học, do định tắc đó mà ta tìm ra manh mối của phương pháp chính giáo của phái đó. Lý thuyết về tính đã là lý thuyết căn bản thì nhà Nho nào cũng đem ra bàn là lẽ tất nhiên Từ rất lâu trong lịch sử Trung Hoa đã xuất hiện phạm trù Tính và trong giai đoạn trăm nhà đua tiếng, bách gia chư tử thì mỗi nhà, mỗi trường phái lại luận bàn về Tính với những quan điểm khác nhau và thông qua những quan điểm này mà mỗi nhà đã lý giải về bản chất con người cũng không giống nhau. Mạnh Tử đề xuất Tính là “Thiên chi giáng tài” (tài trời cho), Tuân Tử cho rằng Tính là “bản thủy tài phác” (tố chất nguyên sơ còn chất phác) của con người, Đạo gia Trang Tử đề xuất Tính là “Sinh chi chất” (chất của Sinh); Cáo Tử cho rằng “Sinh chi vị Tính” (sinh gọi là Tính), Hàn Phi Tử của Pháp gia lại đưa ra Tính là “Thiên Tính” của con người. Đồng thời cùng với việc đưa ra một quy định chung cho nội hàm Tính, mỗi nhà, mỗi phái đều cố gắng thông qua Tính để tìm hiểu nhân tính, tìm hiểu về bản chất của con người theo mỗi hướng khác nhau. Phạm trù Tính và tư tưởng Tính trong triết học Trung Quốc đầu tiên được đào sâu tìm hiểu và phát triển trong Nho gia. Nho gia thời Tiên Tần bàn về Tính nặng về nhân tính. Người sáng lập Nho gia Khổng Tử đề xuất “Tính tương cận”, sau đó phát triển thành nhân tính thiện của Mạnh Tử và nhân tính ác của Tuân Tử. Khổng Tử (551 – 479 TCN) sống cuối thời Xuân Thu, là người sáng lập học phái Nho gia. Trong Nho gia thời Tiên Tần, Khổng Tử là người luận bàn về Tính sớm nhất. Trong Luận Ngữ Khổng Tử đã hai lần bàn về Tính, tuy tương đối đơn giản nhưng có tính sáng tạo. Ông cho rằng: “Tính tương cận dã, tập tương viễn dã” [20, 70]. Tính nói ở đây là bản tính trời sinh của nhân loại. Khổng Tử cho rằng nhân tính con người gần gũi tương tự nhau, vốn không có khác biệt cơ bản. Sự khác biệt thiện ác, trí ngu của mọi người là do hậu thiên tập nhiễm khác nhau mà hình thành. Vận động tư tưởng triết học của Khổng Tử đụng chạm đến hai vấn đề: Một là nhân tính chung phổ biến của nhân loại. Con người với tư cách là một sinh linh có trí tuệ khác với gỗ đá, cầm thú vốn có nhân tính khác với tính của gỗ đá, cầm thú. So sánh với tính của cầm thú, gỗ đá thì nhân tính là phổ biến tương cận như nhau. “Tính tương cận” là phân loại trừu tượng rút ra từ đặc tính bản chất nội tại của con người. Bản tính của con người theo Khổng Tử là tính tự nhiên trời phú cho con người, sinh ra đã có. Bản tính đó: “Con người ta hết thảy đều giống nhau. Nhưng bởi nhiễm thói quen, nên họ thành ra khác xa nhau – Tánh tương cận dã, tập tương viễn dã” [10, 365]. Bản tính tự nhiên của con người sinh ra đã giống nhau ấy, là bản tính lành hay thật. Con người trở thành ác và giả dối là do hoàn cảnh tác động làm thay đổi mà thôi. Vì thế trong thiên Ung dã Khổng Tử cho rằng “Con người ta sinh ra bản tính vốn ngay thật – Nhân chi sinh dã trực” [10, 365]. Bản tính của con người thể hiện trong một loạt các đức tính trong đời sống con người, được phản ánh trong hệ thống các phạm trù đạo đức của Khổng Tử như: Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, dũng, trung, hiếu, kính, đễ…được thể hiện trong mẫu người lý tưởng, toàn trí toàn đức. Khổng Tử cho rằng “Người quân tử làm việc chi cũng lấy nghĩa làm gốc. Người noi theo lễ tiết mà thi hành, người phát biểu nghĩa của mình bằng khiêm tốn và người thành tựu bằng lòng tín thật. Làm một việc mà có đủ các đức tính: nghĩa, lễ, tốn, tín như vậy thật là người quân tử thay – Quân tử nghĩa dĩ vi nhất, lễ dĩ hành chi, tốn dĩ xuất chi. Quân tử tai” [10, 366]. Nhưng những phạm trù đạo đức phản ánh những đặc tính của con người theo Khổng Tử không tách rời nhau, tạo thành hệ thống hữu cơ trong triết học đạo đức nhân sinh của Khổng Tử. Con người muốn thực hiện điều nhân phải có lễ, thực hiện được điều nhân theo lễ là nghĩa, là trung, là hiếu, là kính đễ…trong đó nhân được Khổng Tử đề cập với ý nghĩa sâu rộng nhất. Nó được coi là nguyên lý đạo đức cơ bản quy định bản tính con người thông qua lễ, nghĩa, nó quy định những quan hệ giữa người với người từ gia tộc đến bên ngoài xã hội. Nó liên quan đến những phạm trù đạo đức trong triết học Khổng Tử như một vòng tròn đồng tâm mà chữ nhân là tâm điểm. Bởi phạm trù nhân đã chỉ ra cái bản chất nhất trong bản chất con người. Thông qua những quan điểm về con người thì chủ trương của Khổng Tử là hướng đến hình mẫu người lý tưởng của ông đó là quân tử. Theo Khổng Tử quân tử trước hết phải biết tu thân. Không tự tu được thân không thể giúp được đời, không thể làm tròn bổn phận đối với thiên hạ. Khổng Tử cho rằng “Những vị vua, những vị thánh thuở xưa muốn cho đức của mình tỏa sáng, trước hết phải sửa trị nhà mình. Muốn trị sửa nhà mình, trước hết phải tu lập lấy mình cách thấu suốt Đạo Trời Đất, để giữ cho lòng ngay thẳng”. [27, 159]. Học để tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ là đường đi của người quân tử. Tiểu nhân cũng phải học song cái học của tiểu nhân để họ phục dịch và tuân lệnh kẻ cầm quyền. Xét một người nào đó thuộc loại quân tử hay tiểu nhân. Khổng Tử đòi hỏi phải quan sát hành động của họ xem hành động ấy có phù hợp với lời nói của họ hay không và để đánh giá con người ông khuyên phải nhìn vào công việc của họ và phải xem thái độ của họ. Mẫu hình con người lý tưởng, việc phân hóa xã hội thành quân tử và tiểu nhân phản ánh đậm nét thái độ của Khổng Tử đối với việc lựa chọn một hình mẫu lý tưởng về con người của ông. Hai là vấn đề tu dưỡng nhân tính xuất phát từ nhân tính. Nhân tính là trời sinh, nhưng tinh thần đạo đức của con người lại có thể thông qua thực tập thực hành mà tạo ra được. Về phương diện này, then chốt ở tập. Tập mà Khổng Tử nói không phải là hàng ngày dỏng tai mở mắt nghe nhìn, mà quan trọng hơn nữa là học tập đạo lý một cách có mục đích. Do sở tập khác nhau, cho nên con người vừa có thể làm thiện cũng có thể làm ác, vừa có thể làm quân tử, cũng có thể làm tiểu nhân. Tư tưởng triết học Khổng Tử coi trọng nhân đạo, đặc biệt coi trọng đạo làm người. Ông cố gắng thuyết minh làm thế nào để làm một người có đạo đức cao thượng. Ông cho rằng, nếu con người có thể học tập tư tưởng Nhân, quan niệm Lễ, hơn nữa trong hành động thực tiễn thi hành một loạt quy phạm đạo đức Nhân Lễ như yêu người, trung tín, hiếu đễ, cung kính, trí dũng, mẫn huệ, lễ nghĩa…thì người đó có thể trở thành người quân tử có đạo đức cao thượng. Khổng Tử còn cho rằng, học tập tự giác là phương pháp và con đường khiến cho con người có đạo đức cao thượng, cho nên ông cực kỳ nhấn mạnh học tập. Ông chủ trương con người không những phải học văn mà còn phải học lễ, học đạo, làm cho được “tin tưởng sâu sắc, hiếu học, tử thụ đạo thiện”, trách mắng những người ăn no suốt ngày không có việc gì làm. Huy vọng mọi người có thể nhờ học tập mà trở thành người quân tử nhân đức, do đó mà có ích cho người khác, quốc gia, xã hội. Tuy Khổng Tử cho rằng con người “Tính tương cận” nhưng đồng thời thừa nhận người có tính thiện tính ác. Ông nói: “Duy chỉ có người thượng trí và người hạ ngu là không thay đổi chuyển hóa”. Cổ kim nhân biểu có đề cập đến “Thượng trí là người có thể làm thiện, không thể làm ác. Hạ ngu là người có thể làm ác, không thể làm thiện” [20, 72]. Trong tư tưởng Khổng Tử “thượng trí” hàm ý thiện, còn ‘hạ ngu” hàm ý ác. Hai loại người cực đoan này cơ hồ không thể chuyển hóa, do đó ông nói: “Người trung bình trở lên có thể nói là người thượng trí, người trung bình trở xuống không thể nói là người thượng trí” [20, 72]. Người trung bình trở lên thuộc về người thượng trí, người trung bình trở xuống thuộc về người hạ ngu, họ cực ít. Như vậy người trung bình học tập đạo đức bỏ ác hướng thiện là đại đa số. Thông qua học tập giáo dục khiến cho số nhiều người trung bình trở thành người quân tử nhân đức, đó là mục tiêu giáo dục của Khổng Tử. Khổng Tử nói nhiều về đạo làm người, mà ít nói về Tính và đạo trời. Đúng như đệ tử của ông là Tử Cống đã nói: “Lời Khổng Phu Tử nói về văn chương thì đã được nghe, lời Khổng Phu Tử nói về Tính và thiên đạo không được nghe” [20, 72]. Khổng Tử chỉ đề xuất mệnh đề “Tính tương cận, tập tương viễn” nhưng chưa triển khai cụ thể. Tuy Khổng Tử chỉ đưa ra nhận định về nhân tính con người là “Tính tương cận” chưa đi sâu nghiên cứu nó nhưng ông đã là người tiên phong trong việc đề xuất việc tìm hiểu nhân tính con người, tách riêng con người ở một khía cạnh cụ thể chứ không đan xen vào yếu tố duy tâm như xã hội trước. Nhưng mệnh đề về nhân tính mà ông đưa ra đó lại dẫn đến một số vấn đề lí luận cơ bản như nhân tính là gì? Có nhân tính chung không? Nhân tính có thể cải biến không? Những câu hỏi này thúc đẩy hậu thế thâm nhập tìm hiểu giải đáp. Kế thừa và phát triển quan niệm về Tính của Khổng Tử, từ thời Chiến Quốc về sau, vấn đề Tính mới thực sự được các nhà Nho quan tâm với những quan niệm khác nhau. Có người cho rằng bản tính con người vừa thiện vừa ác. Lại có người cho rằng, bản tính con người không thiện cũng không ác...Song nổi bật nhất là hai quan niệm đối lập nhau về Tính của Mạnh Tử và Tuân Tử. Mạnh Tử (371 – 289 TCN) tên là Mạnh Kha, tự là Tử Du, người gốc nước Trâu, là người theo phái Nho gia của Tăng Tử nước Lỗ. Ông thuộc về dòng công tộc Mạnh Tôn, cha là Khích Công Nghi, mẹ là Cừu Thị. Khi ông lên ba tuổi thì cha chết, được mẹ nuôi dưỡng giáo dục lễ nghĩa rất chặt chẽ. Có thể nói ông là người đã đi sâu tìm hiểu bản tính con người trên cơ sở nhân học của Khổng Tử. Mạnh Tử là người đầu tiên đề cập đến vấn đề cá nhân, vấn đề nhân tính một cách có hệ thống và cụ thể. Cũng như Khổng Tử và Khổng Cấp, Mạnh Tử cho rằng, bản tính của con người là do trời phú. Nhưng khác với họ, Mạnh Tử lại khẳng định rằng, cái bản tính của con người vốn thiện. Vì vậy tư tưởng nổi bật nhất trong triết học của Mạnh Tử là vấn đề triết lý nhân sinh, mà trọng tâm của nó là học thuyết về “Tính thiện”. Học thuyết này của Mạnh Tử vừa là nền tảng của chính sách trị nước theo chủ nghĩa “nhân chính”, vừa là căn cứ để ông đấu tranh chống lại các quan điểm tư tưởng của các học thuyết đối lập đương thời. Ở Trung Quốc đương thời, bàn về bản tính con người, ngoài thuyết của Mạnh Tử còn có ba học thuyết khác với những quan điểm hoàn toàn trái ngược nhau: Thuyết thứ nhất cho rằng “Bản tính của con người có tính thiện, có tính bất thiện. Cho nên khi vua Nghiêu làm vua thì lại có kẻ thất đức như Tượng làm tôi. Khi Cổ Tẩu làm cha lại có bậc hiền như ông Thuấn làm con. Nay nếu cho bản tính người là thiện, ắt các trường hợp trên đều sai cả sao?” [5, 217]. Thuyết thứ hai nói: “Tính của người ta có thể khiến cho làm điều thiện, có thể khiến cho làm điều bất thiện. Cho nên, vua Văn, vua Vũ là vua nhân đức mà thịnh thì dân ưa làm điều thiện, vua U, vua Lệ là vua bạo ngược nổi lên thì dân ưa làm điều tàn bạo” [5, 217]. Thuyết thứ ba, thuyết của Cáo Tử lại cho rằng: “Bản tính con người ta không thiện cũng không bất thiện”, “sinh hoạt ở đời là tính – sinh chi vị tính”. Cáo Tử nói: “Tính như cây kỷ, cây liễu, nghĩa như cái chén, cái thìa. Đem cái tính tự nhiên của con người ta uốn nắn mà làm điều nhân nghĩa cũng như đem cây kỷ, cây liễu đẽo gọt mà cái chén cái thìa vậy”. Cáo Tử lại ví: “Tính tự nhiên của con người ta như nước chảy, khiến chảy về phía đông thì chảy về phía đông, khiến chảy về phía tây thì chảy về phía tây. Tính người không phận biệt thiện hay bất thiện cũng như nước không phân biệt phía đông, phía tây vậy” [5, 218]. Mạnh Tử bác bỏ tất cả những quan điểm ấy, theo ông bản tính con người là thiện, nó là bản nguyên tinh thần, vốn có của con người do thiên lý, trời phú cho con người. Nhưng tại sao bản tính con người là thiện và tính thiện ở đâu mà có? Mạnh Tử lý giải: Tính thiện của con người được thể hiện qua bốn đức tính lớn là: nhân, nghĩa, lễ, trí. Bốn đức lớn đó bắt nguồn từ Tứ đoan: Lòng trắc ẩn (biết thương người), lòng tu ố (biết thẹn), lòng từ nhượng (biết cung kính) và lòng thị phi (biết phân biệt phải trái). Đây là những đoan mà con người bẩm sinh ra con người đã có. Tứ đoan là bốn đầu mối của thiện gọi là thiện đoan. Thiện đoan là cái chất cố hữu của con người như mần cây vốn có trong hạt, như thân thể vốn có tứ chi. Nếu con người biết nuôi dưỡng thiện đoan thì thành thánh nhân không khó, còn nếu con người đánh mất thiện đoan, để nó mai một, suy tàn thì con người trở nên nhỏ nhen, không khác gì cầm thú. Ông cho rằng “Người ta ai cũng có lòng trắc ẩn, lòng tu ố, lòng từ nhượng, lòng thị phi. Không có lòng trắc ẩn không phải là người, không có lòng tu ố không phải là người, không có lòng từ nhượng không phải là người, không có lòng thị phi cũng không phải là người. Lòng trắc ẩn là đầu mối của nhân, lòng tu ố là đâu mối của nghĩa, lòng từ nhượng là đầu mối của lễ, lòng biết phải trái là đầu mối của trí. Người ta có bốn đầu mối đó như là có tứ chi. Có bốn đầu mối ấy mà biết khếch sung ra thì như lửa bắt đầu cháy, như suối bắt đầu chảy, mỗi ngày một lớn ra, mạnh thêm lên. Không biết khếch sung ra thì dẫu việc như thường như thờ cha mẹ cũng không làm được” [5, 220]. Bản tính con người là thiện vì “tính là cái chung, cái bản chất của một loài. Loài người có nhiều điểm giống nhau, trước hết là tài chất, là bản năng thiện do trời phú. Sau đó các quan năng để nhận biết tốt xấu, thị phi…Với tài chất và quan năng ấy, ai ai cũng có sẵn mần thiện và đều có thể trở thành thiện. Mạnh Tử cho rằng: “Phàm những vật đồng loại đều mang một bản chất giống nhau. Tại sao đối với con người, người ta lại nghi ngờ điều đó? Các bậc thánh nhân và chúng ta đều đồng loại…Đồng nhau ở chỗ nào? Ấy là chỗ hợp với lý, với nghĩa vậy. Thánh nhân là người biết trước được cái tâm của mọi người đồng nhau đấy thôi. Cho nên lý và nghĩa làm cho tâm ta ưa thích cũng giống như món ăn thịt người làm cho ta ưa thích vậy” [27, 164]. Xét về cái miệng đối với mùi thức ăn, thì mọi người đều nếm và thích như nhau cả. Nếu cái miệng của Dịch Nha – một đầu bếp nước Tề có tài nấu ăn, đối với vị ngon mà không giống như mọi người, tựa như giống chó và giống ngựa, không đồng loại với con người, thì sao đối với vị ngon của thức ăn thiên hạ lại đều công nhận rằng Dịch Nha là người khéo nấu ăn. Đối với vị ngon mà thiên hạ đều theo Dịch Nha là vì cái miệng của thiên hạ thích vị ngon ai cũng như ai. Cái tai nghe cũng vậy. Thiên hạ đều công nhận rằng ông Sư Khoáng – quan đầu sở âm nhạc nước Tấn, là một người có tài tấu nhạc giỏi nhất, đó là do tai của con người ta ai cũng như ai. Cái mắt nhìn cũng vậy. Đẹp như Tử Đô nước Trịnh thì thiên hạ ai chẳng cho là đẹp. Người mà cho Tử Đô là không đẹp tất là những kẻ không có mắt. Cho nên nói rằng, miệng đối với vị ngon đều thích như nhau, tai đối với tiếng hay đều nghe như nhau, mắt đối với sắc đẹp thì đều thấy như nhau. Thế mà cái tâm của người ta lại không giống nhau là cớ sao? Những cái mà tâm người ta đều thích như nhau là những cái gì? Đó là lý và nghĩa. Thánh nhân là bậc đã tìm được trước ta những cái mà tâm của ta đều thích. Cho nên lý và nghĩa làm cho ta thích cái tâm của ta, cũng như thịt giống thú ăn cỏ, ăn lúa làm cho thích cái miệng của ta vậy” [5, 223]. Mạnh Tử cho rằng bản tính con người là thiện vì trong mỗi con người đều có cái “tâm”. Tâm là cái chủ thể trong mỗi con người, là cái thần minh có đủ mọi lý, trời phú cho ta để hiểu biết, ứng đối với vạn vật, vạn sự. Tính là cái lý hoàn toàn của tâm. Đem cái tâm tính ấy mà ứng xử với vạn vật bên ngoài là tình, cho nên tâm của ta đối với tâm của trời đất là một thể. “Tâm là cơ quan để suy nghĩ, nhờ có tâm mà ta biết được những điều phải trái, nhân nghĩa. Không suy nghĩ thì không thể biết được”. Tâm là nguồn gốc của tính thiện trời phú cho con người, vì thế Mạnh Tử mới viết: “trắc ẩn chi tâm”, “tu ố chi tâm”, “từ nhượng chi tâm”, “thị phi chi tâm”. Vậy nên, người có tính ấy ắt có tâm ấy, tâm với tính là một. “Hễ biết hết cái tâm của mình thì biết rõ cái tính của mình, biết rõ cái tính của mình thì biết rõ cái tính của trời vậy” [5, 224]. Sở dĩ Mạnh Tử cho rằng, khi tận tâm tính của mình, con người ta có thể biết được trời, hiểu rõ đạo lý, nhân nghĩa tức là con người ta có trở thành thánh thiện, là vì tâm vốn có “lương năng” và “lương tri”. Đó là cái biết sinh ra đã biết, do trời phú cho ta, không cần học tập mà hay, còn gọi là “sinh tri”. Mạnh Tử cho rằng: “Không đợi phải học mà làm được, ấy là lương năng của mình, không phải đợi suy nghĩ mà biết được, ấy là lương tri của mình. Còn bồng trên tay mà không đứa trẻ nào không biết yêu cha mẹ nó, đến khi lớn lên, không đứa nào không biết kính anh nó. Thân yêu cha mẹ ấy là nhân, cung kính tôn trưởng ấy là nghĩa, không có gì khác lạ, vì là cái đạo thông hành tất cả trong thiên hạ, ai ai cũng vậy” [5, 224]. Nghĩa là với cái biết “tiên thiên” trời phú, trong tâm con người ta vốn có lòng nhân nghĩa, chỉ vì ta đắm đuối vào sự đam mê vật dục nên cái tâm bản thiên thuần hậu của ta lu mờ đi, không còn phân biệt được phải trái tốt xấu nữa, khiến ta bỏ mất cái tính thiện cao quý trong con người mình. Bởi vậy, phải tận tâm, “tồn tâm dưỡng tính”. Như vậy theo Mạnh Tử, cái biết phái trái, chánh tà, nhân nghĩa để có tính thiện do tâm đem lại là cái biết tự mình biết, trời sinh ra làm người đã có cái biết ấy, đó là cái biết tiên thiên, cái “sinh tri” như người Trung Quốc cổ đại vẫn thường gọi. Tính thiện của con người không phải nhất thành bất biến. Người ta có thể đánh mất cái cố hữu của mình mà sa vào đường bất thiện. Ấy là khi ngoại cảnh tác động vào. “Cái bản tính của con người giống như bản tính của nước là chảy vào chỗ trũng. Không một người nào sinh ra tự nhiên bất thiện mà cũng không một thứ nước nào sinh ra tự nhiên chảy ngược dòng. Song nếu như bị đắp đập ngăn bờ thì nước sẽ tràn cả núi, cũng vậy, nếu bị vật dục che lấp thì bản tính vốn lành sẽ ngược chiều ngay” [27, 165]. Tác dụng của ngoại cảnh cũng có giới hạn của nó. Khi tâm của con người thật vững vàng thì vật dụng vô hữu hiệu”. Vì vậy Mạnh Tử rất chú trọng đến giáo hóa con người để không mai một lương tâm. Ông cho rằng con đường chủ yếu là “tồn tâm, dưỡng tính”. Đó là sự giữ gìn, bồi dưỡng, đừng làm tổn hại hay mất thiên tâm, thiên tính của mình. Đối với ông “Có tước người. Nhân, nghĩa, trung, tín, vui làm điều lành không mỏi, là cái tước trời cho. Công khanh, đại phu là cái tước người cho. Người đời xưa lo sửa cái thiên tước thì cái nhân tước theo sau. Người đời nay lo sửa cái thiên tước để cầu lấy cái nhân tước, khi đã có nhân tước thì bỏ cái thiên tước thành ra mất tất cả. Như thế thật là mê hoặc” [27, 166]. Vì sao lại bỏ cái thiên tước, theo cái nhân tước lại mất tất cả? Theo Mạnh Tử, chỉ là cái bản tính thiên phú mới là cái chân thật, tồn tại vĩnh cửu, còn cái nhân tước tưởng tôn quý nhưng là ngụy tạo do con người tự đặt ra, lúc thế này, lúc thế khác tùy ý của con người nên nó chỉ tồn tại nhất thời trong cuộc sống” [27, 166]. Mạnh Tử cho rằng những người không tồn tâm, không dưỡng tính là những người tự hủy hoại mình, những người tự rời bỏ bản thân mình. Ông cho rằng “Nói không phải lễ nghĩa, gọi là tự hại mình. Thân ta không ở nhân, không theo điều nghĩa, gọi là tự bỏ mình. Nhân là cái nhà người ta ở yên. Nghĩa là con đường chính người ta đi. Bỏ cái nhà yên không ở, bỏ cái đường chính không đi, thế có thảm không. Còn “nếu khéo bồi dưỡng thì không vật nào không sinh trưởng” [27, 166]. Tồn tâm, dưỡng tính quan trọng nhất là “không làm mất cái tâm hồn nhiên thành thực như trẻ thơ – Bất thất kỳ xích tử chi tâm giả dã”, đừng để cho nó xa vào vòng lầm lạc bởi những ham muốn nhục dục lôi kéo. Sau nữa, theo Mạnh Tử “Phép tu tâm dưỡng tính thì không có gì hay hơn là quả dục. Làm người mà quả dục thì tuy có người chưa giữ được cái tâm nhưng cũng là ít có vậy. Làm người nhiều ham muốn, tuy có kẻ giữ được bản tâm nhưng cũng là ít có vậy” [5, 225]. Quả dục hay bớt những ham muốn nhục dục ở đây, Mạnh Tử chia làm hai loai: Một là những ham muốn phàm tục như thích danh, thích lợi, tửu sắc, muốn ăn ngon mặc đẹp mà bất chấp đạo lý, lễ nghĩa thì phải hỏa dục. Trái lại, loại ham muốn thứ hai là những ham muốn cao thượng, rất nên bồi dưỡng: “Sống thì ta vẫn muốn sống, nhưng có cái ham muốn còn hơn sự sống nữa, cho nên ta chẳng chịu làm những việc cẩu thả mà giữ lấy mạng sống. Sự chết ta vẫn ghét, nhưng có cái còn đáng ghét hơn cái chết nữa, cho nên ta chẳng tìm cách để tránh hoạn nạn. Nhưng cái sở dục quan trọng hơn cả sự sống đó là lễ nghĩa, nhưng cái đáng ghét hơn cả sự chết đó là bất lễ, bất nghĩa. Không riêng gì người hiền mới có cái lòng ấy mà người ta ai ai cũng có…Như đói gần chết, có người cho một giỏ cơm, một tô canh, nhưng lớn tiếng gọi cho một cách vô lễ, hoặc chà đạp dưới chân rồi mới cho thì thà chết đói chứ chẳng chịu nhận. Lại có ai cho mười ngàn chung thóc mà không hợp nghĩa thì chẳng chịu nhận. Nếu nhận mà không hợp lễ nghĩa thì bỏ mất cái tâm vốn thiện của mình” [5, 225]. Vì trong thân thể con người ta có phần cao quý, có phần ti tiện, có phần lớn, có phần nhỏ, nên phép tồn tâm dưỡng tính theo Mạnh Tử còn là giữ lấy cái phần cao quý nhất trong con người. “Nuôi phần nhỏ là tiểu nhân, dưỡng phần lớn là đại nhân”. Phần lớn, phần cao quý trong con người chính là lương tâm (gọi là đại thể), còn phần nhỏ, phần ti tiện là giác quan, tai mắt (gọi là tiểu thể), luôn bị vật dục lôi kéo: “Tai mắt của người ta không phải để suy nghĩ mà hay bị ngoại vật che lấp và chỉ là vật nọ giao với vật kia mà tiếp dẫn nhau làm cho những giác quan ở con người bị cảnh trần lôi cuốn. Tâm là cơ quan để suy nghĩ. Suy nghĩ thì hiểu biết rõ được đạo lý. Không suy nghĩ thì không biết được phải trái chính tà. Trong những cái trời phú cho ta trước hết ta phải giữ gìn, bồi dưỡng cái lớn thì cái nhỏ không lấn lướt được. Khi đã giữ gìn tu dưỡng cái căn bản trong con người thì sự thực không ở đâu xa: “Vạn vật đều đủ ở trong ta. Ta tự xét mình thành thực thì có cái vui thú nào lớn hơn nữa. Mình bảo tồn tâm, dưỡng tính của mình để thờ trời vậy” [5, 227]. Trong con người ta cùng với tâm tính là phần cao quý trời phú cho ta còn có phần khí. Khí lưu thông khắp cả vũ trụ, ngưng tụ lại thành hình thể, tạo nên vạn vật và con người. Nhờ có khí lưu hành trong cơ thể mà vạn vật và con người mới có sự sinh trưởng. Vì vậy cùng với tồn tâm người ta phải dưỡng cả khí. Khí và chí liên hệ với nhau thành cơ thể sống. Khí chính là phần thể chất, khí chất, còn chí chính là phần tinh thần, ý thức của con người. Trong đó “chí là nguyên soái điều khiển cái khí, khí là phần sung mãn lưu thông trong thân thể. Cao nhất là cái chí rồi tới cái khí. Cho nên ta nói rằng, mình phải giữ bền cái chí, đừng làm hư hại cái khí” [5,229]. Con người ta phải có sự điều hòa giữa chí và khí mới có thể tồn tại, phát triển sinh động được. Vì: “Khi cái chí chuyên nhất về một điều gì đó thì nó động tới cái khí. Khi cái khí chuyên nhất về một điều nào đó thì nó động tới cái chí. Ví như bây giờ có kẻ chạy gấp, chạy mau, đó là động tới khí lực của mình làm động ngược lại tới cái tâm chí vậy” [5, 229]. Do đó, phải, giữ bền cái chí, mà không cần làm hại cái khí”. Bản thể của khí là tự nhiên, rất lớn, rất mạnh ở khắp cả khoảng trời đất, nên còn gọi “hạo nhiên khí”. Con người ta vốn là sự bẩm thụ của tinh khí trời đất mà sinh thành, nên dưỡng khí hạo nhiên là phải theo lẽ tự nhiên thẳng thắn mà dưỡng nó, làm cho tính và khí, tinh thần và thể chất nương tựa nhau, điều hòa với nhau, thì thân thể con người mới mạnh khẻo, lành mạnh, tâm trí mới sáng suốt, minh mẫn để suy nghĩ và hành động đúng đạo lý. Mạnh Tử gọi đó là “khéo nuôi khí hạo nhiên”. Để bảo tồn và phát triển tâm tính, chí khí của con người, Mạnh Tử chủ trương cần có sự tu dưỡng, rèn luyện, giáo dục đạo lý cho mọi người, nhất là những kẻ làm vua, bậc quân tử: “Sự gìn giữ của người quân tử là tự sửa mình mà thiên hạ được thái bình vậy – Quân tử chi thủ, tu kỳ thân nhi thiên hạ bình” . Chính ở đây Mạnh Tử có những đóng góp to lớn trong lý luận về giáo dục và đã được những nhà tư tưởng của các thế hệ sau kế thừa. Ông quan niệm: “Người ta tuy có đạo lý, nhưng cứ ăn no mặc ấm, ngồi rồi không dạy bảo thì gần giống cầm thú”. Hơn nữa, nếu không học thì “nhiều người làm mà không biết ý nghĩa của việc mình làm, có thói quen mà chẳng chịu xem xét các thói quen của mình, trọn đời cứ theo đó mãi mà chẳng biết phải quấy, chẳng rõ cái đạo…Nên đạo ở gần mà đi tìm ở xa, việc dễ mà đi tìm ở cái khó”. Và khi người ta không được dạy dỗ, “không có lễ nghĩa nữa thì ắt trên dưới sẽ hỗn loạn” nên, “Trời sinh ra người ta, khiến kẻ tiên tri dạy kẻ hậu tri, kẻ tiên giác dạy kẻ hậu giác”. “Người trung chính dạy kẻ không trung chính, người tài năng dạy kẻ không có tài năng” [5, 231]. Trong phép trị nước cũng như trong giáo dục, theo Mạnh Tử phải có phép tắc, chuẩn mực. Chuẩn mực ấy không có gì khác hơn là phép tắc, đức độ, đạo lý của các bậc thánh hiền. Phép tắc đó theo ông, không thể tùy tiện thay đổi, không thể tự hạ xuống theo trình độ thấp kém của người học được. Mạnh Tử nói: “Ông thợ cả dạy nghề mộc không vì người thợ vụng mà đòi bỏ cái dây nảy mực. Hậu Nghệ dạy bắn không vì người bắn vụng mà thay đổi cái mức dương cung” [5, 231]. Theo chuẩn mực đó, Mạnh Tử đòi hỏi người dạy và người học phải luôn luôn chuyên tâm, trì chí, khiêm tốn và phải có thái độ cầu tiến trong việc học tập. Có như thế mới đạt được mục đích của đạo Trong việc giáo dục, Mạnh Tử phân biệt rất rõ các loại đối tượng với nhau và tùy theo khả năng, sở trường của từng người mà đưa ra phương pháp và nội dung dạy khác nhau: “Quân tử dạy người có năm hạng. Có hạng người đã học cao, thì cách dạy như trận mưa phải thời, để thấm nhuần mà cảm hóa cho…Có hạng người tính chất thuần hậu, dạy cho học được thành đức hạnh. Có hạng người thiên tư sáng suốt, dạy cho họ được thành tài năng. Có hạng người hỏi điều gì trả lời cho, để giải thích cho những điểm nghi hoặc. Có hạng người chỉ trộm nghe những điều hay lẽ phải mà tự nhiên tu tỉnh lấy mình. Năm hạng người ấy quân tử tùy từng hạng người mà dạy” [5, 233]. Vì luôn tin vào bản tính thiện của con người cho nên Mạnh Tử cho rằng sự tự sửa mình, tự giáo dục mình, phản tỉnh nội tâm của mỗi người là rất quan trọng. Người tà khúc, gian ác hay kẻ ngay thẳng, lương thiện không thể tự giấu mình hay lừa dối người khác được. Trước sau nó sẽ lộ ra ở diện mạo, lời nói, ánh mắt, sắc mặt. Trong tâm mà ngay thẳng thì diện mạo của con người bao giờ cũng sáng sủa. Trong tâm tà khúc thì diện mạo con người bao giờ cũng tối tăm. Mạnh Tử nói: “Cái bản chất trời phú cho của người quân tử là những điều nhân, nghĩa, lễ, trí, căn cứ ở trong lòng rồi phát hiện ra ngoài, thấy hòa vui ở mặt, trông đầy đặn ở lưng và phô bày ra ở chân tay”. Như vậy theo Mạnh Tử “cái đạo học hỏi không có gì khác, chỉ cốt tìm lại cái tâm…”, tồn tâm, thành tâm và tận tâm mà thôi” [5,233]. Tóm lại trong học thuyết về con người, Mạnh Tử đã cố gắng lý giải, khẳng định bản tính thiện của con người và nhiệt tâm giáo hóa con người, cải biến xã hội cho một ngày tốt đẹp hơn. Đó là thiện chí thể hiện tính nhân bản sâu sắc trong triết học của ông. Với tư tưởng khá phong phú qua các phạm trù đạo đức, tâm lý như tâm, tính, chí, khí, nhân, nghĩa, lương năng, lương tri…cùng với những quan điểm đặc sắc về những biện pháp giáo dục con người của mình, Mạnh Tử đã đóng góp một phần quan trọng vào kho tàng lý luận về giáo dục trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc cổ đại. Tuy nhiên, khi Mạnh Tử cho rằng những quy tắc đạo đức xã hội là ý thức và tình cảm “tiên nhiên”, do trời phú cho con người thì quan điểm đạo đức luân lý của ông vẫn hằn sâu dấu ấn giai cấp và mang nặng màu sắc của chủ nghĩa duy tâm thần bí. Thực chất của những quan điểm ấy chính là nhằm khẳng định nguồn gốc tri thức và hành vi đạo đức của con người là do thần mở đường chỉ bảo. Vì thế học thuyết đạo đức của ông đã trở thành công cụ phục vụ đắc lực cho lợi ích của giai cấp quý tộc, mưu chứng minh rằng giáo điều đạo đức và chế độ phụ quyền gia trưởng của bọn vua chúa thống trị là chân lý phổ biến vĩnh viễn. Đến Tuân Tử (313 – 238) trước thực trạng xã hội hết sức rối loạn lúc bấy giờ, từ chỗ hoài nghi ông đi đến phản đối thuyết tính thiện của Mạnh Tử. Đây chính là những cơ sở cho những quan niệm mới và sự lý giải mới về Tính ở Tuân Tử. Theo ông Tính là cái tự nhiên, cái bẩm sinh có sẵn trong con người, không thể học, luyện tập mà có được, vì nó là cái trời sinh ra. Như vậy cũng như Khổng Tử và Mạnh Tử, Tuân Tử khẳng định bản tính con người là đồng nhất, là như nhau. Song khác với Mạnh Tử, Tuân Tử lại cho rằng, bản tính con người vốn là ác. Nếu như Mạnh Tử xuất phát từ những giá trị có tính xã hội thiên về đạo đức để khẳng định bản tính con người là thiện, thì Tuân Tử lại xuất phát từ những nhu cầu có bản năng sinh vật, tự nhiên của con người để đề xuất thuyết “Tính ác” của mình. Tuân Tử viết Tính ác chuyên luận bàn về nhân tính. Ông tìm hiểu nhân tính theo một góc độ khác Mạnh Tử. Ông đưa ra quy định cho phạm trù Tính và lấy lý luận Tính ác làm cơ sở lý luận của hệ thống lôgíc của triết học. Theo Tuân Tử, bản tính trời cho của con người chủ yếu là cái tâm lợi dục. Phàm là người đều “sinh ra đã hiếu lợi”, “sinh ra đã có cái dục của tai mắt”. Dục vọng tâm lý nội tại này “không nhờ sức người mà đã có tự nhiên, đó tức là nhân tính…“Tính của con người là đói muốn no, lạnh muốn ấm, mệt muốn nghĩ….Mắt hiếu sắc, tai hiếu thanh, miệng hiếu vị, tâm hiếu lợi, xương cốt da thịt hiếu an nhàn, những điều đó sinh ra tính tình con người, cảm nhận tự nhiên không nhờ sức người rồi sau mới sinh ra”. Cái dục của tai mắt miệng da thịt xương cốt và cả tâm hiếu lợi và những cái từ đó sinh ra cũng đều là cái nhân thể tâm cảm nhận tự nhiên có, do đó nó là thiên tính mà con người vốn có, không nhờ gia công mới có. Tâm dục lợi này thúc đẩy con người lấy việc mưu cầu lợi ích vật chất làm mục đích hoạt động của họ. Đương nhiên thiên tính của con người không phải chỉ có tâm lợi dục. Ngoài tâm lợi dục ra còn có khả năng phân biệt và hiểu biết thiên phú. “Con người sở dĩ là con người, không phải chỉ vì có hai chân và không có lông mao mà là vì có khả năng phân biện” [20, 88]. Cái gọi là “biện” chỉ khả năng nhận thức phân biệt. Con người cao hơn cầm thú. Sở dĩ là người không những chỉ vì có thế đứng hai chân, thân thể không có lông mà hơn nữa là sinh ra đã có khả năng nhận thức phân biệt sự vật. Công năng phân biệt của cảm giác của tai mắt miệng mũi xương cốt da thịt là công năng nhận biết của con người. Công năng nhận biết này nói đến cùng là tâm tri của con người. Tâm là chủ thần minh của thân thể con người. “Tâm sinh ra đã biết”. Tâm “tài tính biết nghĩa” khiến cho con người không những có dục vọng mưu cầu ấm no an lạc như động vật, hơn nữa có thể cảm biết ngoại vật, phân biệt cái lý của vật thậm chí biết đạo của trời, đạo của người. “Phàm biết là tính của người, có thể biết là lý của vật”. Nhận biết và phân biệt là thiên tính của con người, gọi là tài tính có khả năng nhận biết”[20, 89]. Theo Tuân Tử, nhân tính bao gồm lợi dục và tài tính chi năng của con người vốn có từ khi sinh ra. Người người đều có nhân tính. “Phàm là người có chỗ giống nhau: đói muốn ăn, rét muốn ấm, mệt muốn nghĩ, ham lợi ghét hại…Vua Vũ, vua Nghiêu cũng như vậy”. “Thích vinh ghét nhục, ham lợi ghét hại. Những điều đó người quân tử cũng như tiểu nhân đều như nhau”. Tâm lợi dục thì ai ai cũng như nhau, quân tử hay tiểu nhân, thánh nhân hay bạo chúa đều nhất nhất không ngoại lệ...Năng lực nhận biết phân biệt sự vật thì người người đều có như nhau trong người quân tử hay kẻ tiểu nhân. Từ đó Tuân Tử rút ra kết luận: “Phàm tính của con người thì Nghiêu Thuấn với Kiệt, Chích đều cùng một tính như nhau, quân tử hay tiểu nhân cùng điều một tính như nhau” [20, 90]. Chính bởi vì con người có nhân tính chung mới có thể cùng nhau thành loài người. Nhân tính là lợi dục và tài tính tra năng chung cho loài người. Tuân Tử nhận thức và quy định nhân tính như thế, rõ ràng thiên về bản chất tự nhiên của con người và xem bản chất tính xã hội của con người là nhân tạo hậu thiên. Như vậy quan điểm nhân tính của Tuân Tử khác biệt rất lớn với quan điểm của Mạnh Tử. Xuất phát từ nhận thức bản tính tự nhiên của con người quy định nhân tính thành lợi dục và tài tính chi năng. Tuân Tử đi đến tư tưởng nhân tính ác. Ông nói: “Nay tính của con người sinh ra đã tham lợi, thuận theo đó thì tất sinh tranh đoạt mà quên nhường nhịn, sinh ra đã thích làm điều ác, thuận theo đó thì sinh ra chém giết mà quên trung tín, sinh ra mà đã có sinh dục sắc dục (thích thanh sắc) của tai mắt, thuận theo đó thì sinh ra dâm loạn mà quên lễ nghĩa văn lý. Nếu thuận theo Tính, Tình của con người thì tất ngoài thì tranh đoạt, trong thì phạm phận, loạn đạo lý và cuối cùng thì bạo ngược. Cho nên phái có thầy và pháp luật giáo hóa, dạy đạo lễ nghĩa, sau đó mới có ra ngoài thì nhường nhịn, bên trong thì giữ đạo lý, cuối cùng mới bình trị. Từ đó mà xét, rõ ràng con người tính ác, thiện là ngụy tạo” [20, 91]. Con người sinh ra có tâm lợi dục, thuận theo tâm lợi dục, truy cầu thỏa mãn lợi dục thì sinh ra tranh đoạt, chém giết, dâm loạn, cuối cùng đi đến bạo ngược. Sự giáo hóa của xã hội, lễ nghĩa, pháp độ là để đề phòng và tiết chế cái ác của nhân tính, khiến cho con người hướng thiện để tạo tác cuộc sống chung. Thiện là nhân tạo hậu thiên, không phải là thiên tính của con người. Do đó con người tính ác, không phải thiện. Tuân Tử viết Tính ác, luận chứng nhân tính ác có bốn luận cứ: Thứ nhất, con người sinh ra đã có tâm lợi dục, tức có dục vọng truy cầu sự hưởng thụ và thỏa mãn nhu cầu của khí quan nhục thể và tâm lý tinh thần. Bụng nói no, thân thích ấm, mắt thích đẹp, tai thích âm thành thánh thót, miệng thích mỹ vị, mũi thích hương thơm, tay chân thích nhàn hạ, tập trung vào Tâm thành ra tâm lợi dục. Và lợi dục của con người vô cùng vô tận “Ăn muốn có gà lợn, mặc muốn thêu thùa, đi muốn xe ngựa, thích giàu có của cải đầy kho, năm này năm nọ, đời này đời nọ không bao giờ biết đủ, đó là tình của con người vậy”. Chính bởi vì con người trời sinh ra đã có tâm lợi dục không biết đủ, không biết tận cùng và sự truy cầu lợi dục do tâm lợi dục này thúc đẩy đã hình thành cuộc tranh đoạt sinh tồn không bao giờ ngừng của xã hội loài người, dẫn đến các loại loạn lạc. Điều đó chứng tỏ nhân tính bất thiện mà ác. Thứ hai, ác là thiên tính vốn có, còn thiện là hậu quả của học tập giáo hóa hậu thiên. “Phàm con người muốn làm thiện bởi vì tính ác. Phàm mỏng muốn dày, xấu muốn đẹp, hẹp muốn rộng, nghèo muốn giàu, hèn muốn quý, bởi vì bên trong không có thì tìm bên ngoài…Ngày nay tính của con người là không có lễ nghĩa, tính không biết lễ nghĩa cho nên suy nghĩ lo tìm lễ nghĩa” [20, 93]. Cái gọi là thiện là có lễ nghĩa, biết lễ nghĩa. Nhân tính vốn không có lễ nghĩa, không biết lễ nghĩa mà chỉ có ác. Phát triển theo tính ác thì sẽ bạo loạn. Do đó mới cần phải học lễ nghĩa, biết lễ nghĩa khiến con người biết làm thiện. Thiện không có trong nhân tính, nên phải tìm cầu trong giáo dục học tập ở bên ngoài, điều đó cũng chứng tỏ nhân tính bất thiện mà ác. Thứ ba, xã hội nhân loại không thể tự mình làm thiện mà phải có cơ cấu nhà nước xử lý: “Cây thẳng không đợi uốn mới thẳng mà đó là do tính nó thẳng vậy. Cây cong phải uốn nắn rồi sau đó mới thẳng, đó là do tính nó không thẳng”. “Cho nên thời xưa thánh nhân thấy con người tính ác cong vẹo không ngay thẳng, phản loạn bất trị, cho nên mới lập ra vua để chế ngự, dạy lễ nghĩa để giáo hóa, lập pháp luật để trị, dùng hình phạt nặng để ngăn cấm, khiến cho thiên hạ bình trị, hợp với thiện vậy”. Nếu như nhân tính thiện, sinh ra đã tự động làm thiện, như vậy thì, mọi người sẽ yêu thương nhau yên ổn với nhau, thiên hạ tự nhiên thái bình. Nhưng sự thực lại hoàn toàn khác “tham lợi mà muốn được” “tham lợi mà tranh đoạt tạo thành xã hội phân tranh, loạn lạc không bình trị. Cho nên phải lập vua, xây dựng nhà nước, dùng uy thế nhà nước vua chúa tiến hành lễ nghĩa giáo hóa, thực hành hình pháp thưởng phạt để ngăn cấm điều chỉnh hành vi của con người, khiến cho phù hợp với đạo chung sống với nhau, do đó mà đạt đến xã hội thịnh trị bình yên. Nếu như nhân tính vốn thiện lương thì không cần xây dựng nhà nước sử dụng hình pháp để cai trị. Sự tồn tại của nhà nước, việc lập quân vương, thi hành lễ nghĩa, sử dụng hình pháp đều do nhân tính ác, đều đó chứng tỏ nhân tính bản ác. Thứ tư, trong xã hội hiện thực, con người có quân tử và tiểu nhân phân biệt khác nhau, người thiện và người ác phân biệt với nhau. Con người là đồng loại “đều có cái chất khả dĩ hiểu nhân nghĩa, đều có đủ sức khả dĩ làm nhân nghĩa theo pháp luật” [20, 94]. Nhưng trong thực tế không phải ai ai cũng biết nhân nghĩa pháp độ mà trở thành người quân tử làm điều thiện, trái lại có người không biết nhân nghĩa pháp độ mà làm tiểu nhân làm người ác. Sự khác biệt thiện ác này là do công phu học tập làm thiện của người ta không giống nhau mà ra. Con người có tư chất có thể biết làm được, nhưng không đồng nghĩa là công phu có thể sử dụng có thể làm ngay được, trái lại nếu không học tập lễ nghĩa, không giữ pháp độ, tụng dục làm điều ác thì chỉ thành người tiểu nhân, người ác, đó là điều chung cho mọi người, làm thiện là kết quả của học tập cải biến hậu thiên. Cơ sở trên nhận biết trên đây, Tuân Tử quyết đoán “nhân tính ác”, do đó trở thành giường mối cho thuyết tính ác trong triết học Trung Quốc. Từ những nhận định về bản tính con người là ác mà Tuân Tử cũng quan niệm rằng nhân tính con người có thể giáo hóa. Con người sinh ra tính ác nhưng có thể làm thiện. Bởi vì nhân tính có thể giáo hóa, tức có thể cải tạo. “Tính là cái ta có thể làm ra, nhưng có thể giáo hóa” [20, 95]. Nhân tính là trời sinh nên vốn có, không phải là con người tạo tác ra. Nhưng như vậy không có nghĩa con người nhất định phải làm ác, thành người ác. Con người có thể cải biến bản tính ác của mình bằng nỗ lực chủ quan bỏ ác hướng thiện thành người thiện. Bởi vì ngoài tâm lợi dục ra, con người còn có năng lực nhận biết phân biệt, có thể phát huy năng lực nhận biết phân biệt của mình để học tập lễ nghĩa pháp độ, phân biệt thiện ác, nhận thức đạo trời đạo người, dùng lễ nghĩa pháp độ tiết chế tâm lợi dục của mình, khiến tâm tư hành vi của mình hợp với đạo trời đạo người, đạo đức hợp với Nhân Nghĩa Lễ Trí, do đó mà thành người thiện. Thiện đức của con người thông qua học tập “cải biến tính” mà tích lũy dần. Thiện đức tích lũy đến chí cao chí đại thì thành thánh nhân. “Con đường của bá tính là tính thiện mà đạt đến hoàn bị thì gọi là thánh nhân. Người cầu điều đó thì sau sẽ được, làm thì sau sẽ thành, tích lũy thì sau mới cao, hoàn bị đến cùng thì sau mới thành thánh. Cho nên thánh nhân là con người tích lũy thiện mà ra…Không phải là thiên tính, tích lũy thiện mà có vậy” [20, 96]. Đạo đức cao thượng của thánh nhân vốn không phải thiên tính đã có đủ, chỉ có thể nhờ vào học tập hậu thiên tích lũy dần mà thành. Do đó Tuân Tử vô cùng coi trọng học tập. Ông cho rằng, chỉ có học tập lễ nghĩa đạo đức mới là con đường duy nhất để cho nhân loại khắc phục tính ác, trở thành người thiện. Như vậy, thuyết “Tính thiện” của Mạnh Tử và thuyết “Tính ác” của Tuân Tử không thể không chứa đựng những hạn chế. Một trong những hạn chế đó là các ông không tránh khỏi tính chất siêu hình, máy móc khi luận bàn, đề xuất bản tính vốn có của con người. Nếu Mạnh Tử thiên về mặt xã hội thì Tuân Tử lại thiên về mặt sinh vật, mặt bản năng tự nhiên của con người để khẳng định cái bản chất tiên iên trong bản chất con người. Các ông chưa thấy được cái bản chất của con người là sự thống nhất không thể tách rời giữa cái xã hội và cái sinh vật. Chính sự khác nhau đó mà dẫn đến sự đối lập giữa thuyết “Tính thiện” của Mạnh Tử với thuyết “Tính ác” của Tuân Tử. Mặc dù vậy sự đối lập ấy không phải là sự đối lập hoàn toàn, tuyệt đối như một số người quan niệm. Nghiên cứu kỹ hơn nội dung “Nhân tính luận” của hai ông, chúng ta có thể thấy, hai thuyết đó tuy đối lập nhưng lại bổ sung cho nhau. Sự bổ sung ấy cho phép chúng ta nghiên cứu và hiểu đúng đắn đầy đủ hơn bản chất của con người. Thứ nữa, dù Mạnh Tử khẳng định cái bản tính vốn có của con người là thiện, nhưng ông không loại trừ những yếu tố làm cho con người trở thành ác nhân, cũng như Tuân Tử tuy quả quyết rằng, bản tính vốn có của con người là ác, song ông không loại trừ cái khả năng trở thành thiện nhân của con người. Do vậy tuy chủ trương khác nhau, nhưng cả Mạnh Tử và Tuân Tử đều có một điểm chung rất cơ bản là khẳng định sự cần thiết phải dùng giáo dục, giáo hóa để hoặc là phát khởi cái “Tứ thiện đức” (như quan niệm của Mạnh Tử), hoặc tiết chế cái dục vọng, ham muốn vốn sẵn có trong con người (như quan niệm của Tuân Tử). Tất cả để cuối cùng khiến cho con người khác xa với cầm thú, hiên ngang đứng giữa Tam tài và thông quan cùng trời đất. Đúng như lời đánh giá của cụ Phan Bội Châu về thuyết “Tính ác” của Tuân Tử: “Học thuyết tính ác của Tuân Tử chẳng những không phản đối tính thiện của thầy Mạnh Tử mà còn bổ túc cho thầy Mạnh. Bởi vì trong tính thiện của thầy Mạnh chuyên chú trọng về mặt lương tâm mà bỏ sót tình dục...Mặt khác nói, tính thiện mà trông mong cho người ta theo tính mà làm thiện. Thầy Tuân nói tính ác mà trông mong cho người ta chứa tính ác mà chẳng làm ác” [18, 40]. Từ điểm chung cơ bản trên, tất yếu dẫn đến điểm chung cơ bản khác ở hai ông là mục tiêu giáo hóa không ngoài việc làm cho con người có Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí và phù hợp với yêu cầu xã hội và chế độ phong kiến lúc bấy giờ. Tuy nhiên khi tìm hiểu những quan điểm của Nho gia về con người ta có thể nhận thấy rằng Nho giáo vẫn chưa giải thích đúng đắn bản chất của con người cũng như chưa tìm ra phương thức để giải phóng con người bởi nó chưa được thoát ra khỏi thế giới quan duy tâm thần bí và lập trường của giai cấp thống trị. Quan niệm đó về bản chất con người không được xem xét trên nền tảng của điều kiện kinh tế xã hội, mà chỉ xuất phát từ những chuẩn mực đạo đức thuần túy, dựa trên lợi ích và mục đích chính trị của giai cấp thống trị, hạ thấp vai trò tích cực, chủ động, sáng tạo vốn có của con người. 2.2.2. Quan điểm về con người trong triết học Đạo gia Tiếp theo Nho giáo thì Đạo gia lúc bấy giờ cũng là một trường phái triết học có nhiều ảnh hưởng đối với xã hội lúc bấy giờ, mà người sáng lập ra nó đó chính là Lão Tử. Lão Tử là nhà triết học lớn với học thuyết về “Đạo” nổi tiếng ở Trung Quốc cổ đại. Ông được coi là người sáng lập ra trường phái triết học Đạo gia, một trong ba trường phái triết học lớn thời Xuân Thu – Chiến Quốc. Cuộc đời và sự nghiệp của ông mang đầy huyền thoại, cũng thấp thoáng, mập mờ, nửa hư nửa thực như triết lý của ông, nên người ta khó xác định được một cách chính xác năm sinh và mất của ông. Theo sử ký của Tư Mã Thiên thì Lão Tử họ Lý, tên Nhĩ, tự là Bá Dương, thụy là Đam, còn gọi là Lão Đam, vốn người huyện Khổ Hưng Lệ, làng Khúc Nhân, nước Sở là nước thuộc miền Nam tỉnh Hà Nam bây giờ. Ông làm quan sử, giữ kho chứa sách, tàng trữ thất sử nhà Chu. Toàn bộ tư tưởng của ông được trình bày ngắn gọn và súc tích trong cuốn Đạo đức kinh, gồm 81 chương, chia làm hai thiên thượng và hạ. Về niên đại của cuốn sách đa số các nhà nghiên cứu đều cho rằng nó là tác phẩm được các môn đệ của các trường phái Đạo gia viết về sau này, ghi lại tư tưởng của Lão Tử, chứ không phải là trước tác của Lão Tử. Trong hệ thống triết học Lão Tử, học thuyết về “Đạo” có một vị trí cực kỳ quan trọng. Nó là nền tảng chi phối xuyên suốt các vấn đề trong triết học của ông và hầu hết các quan điểm về vũ trụ, nhân sinh của người Trung Hoa cổ đại. Mở rộng tư tưởng về “đạo” đến mặt đời sống xã hội, Lão Tử đã đề xướng học thuyết “vô vi”, qua đó ông đã trình bày những quan điểm hết sức đặc sắc của mình về các vấn đề đạo đức nhân sinh. “Vô vi” có thể dịch theo nghĩa đen là “không làm gì”. Nhưng thực chất theo Lão Tử cùng như theo cách hiểu của người Trung Hoa, danh từ “vô vi” không có nghĩa là không có sự hoạt động gì, không làm gì cả, mà là hoạt động một cách tự nhiên, không trái với quy luật tự nhiên, không can thiệp vào guồng máy tự nhiên, không hoạt động có tính giả tạo, gò ép, không thái quá và bất cập. Lão Tử cho rằng: “Đạo thường không làm gì và không gì không làm. Vua chúa nếu giữ được đạo, vạn vật sẽ tự mình chuyển hóa…Không ham muốn để được yên lặng, thiên hạ sẽ tự yên”. Ông còn dạy: “…đạo đức là cái luật tự nhiên, không cần tranh mà thắng, không cần nói mà ứng nghiệm, không cần mời mà các vật cứ theo về, lờ mờ mà hay mưu tính”. Nếu không thuận theo đạo tự nhiên, đem ý chí, dục vọng của con người cưỡng ép vạn vật tức là lấy cái nhân vị, giả tạo thay thế cho cái tự nhiên, là trái với đạo “vô vi”, tất nhiên sẽ thất bại. Cho nên Lão Tử thường nói rằng: “Lấy thiên hạ thường ở vô sự, nếu mà hữu sự không đủ lấy thiên hạ” [10, 443]. “Vô vi” còn có nghĩa là không làm mất cái đức tự nhiên, thuần phác vốn có của vạn vật, không ý chí, dục vọng, không ham muốn những gì trái với bản tính tự nhiên của mình và của vật. Nếu để mất đức tự nhiên, ham muốn những gì trái với bản tính tự nhiên của mình, cố tìm cách thỏa mãn những dục vọng đó, dẫn tới sự can thiệp của guồng máy tự nhiên sẽ mang lại những tai họa: “Ngũ sắc làm cho mắt mờ, ngũ âm làm cho tai điếc, ngũ vị làm cho miệng chán, cỡi ngựa săn bắn làm cho lòng phát cuồng, vật khó khiến làm cho lòng tà vậy” [10, 443]. “Vô vi”, không chỉ là sống tự nhiên thuần phát, không ham muốn, dục vọng mà còn không cần đến cả tri thức, văn hóa, kỹ thuật và cả sự tiến bộ xã hội. Ông nói: “Trí tuệ sinh thì có đại ngụy”. Bởi theo ông, hiểu biết càng nhiều thí trí xảo càng nhiều, trí xảo càng nhiều càng ham muốn, tranh đoạt và xâm phạm lẫn nhau trái với đạo tự nhiên. Cho nên: “Theo học thì càng thêm phiền phức, mà theo đạo thì ngày càng bớt, bớt rồi thì lại bớt, bớt đến mức vô vi”. Tốt nhất người ta hãy: “Bỏ hẳn cái học đi thì không lo lắng gì cả, hiện ra cái nõn là, ôm lấy cái chất phác, ít lòng tư, bớt lòng dục” [10, 443]. Trong tư tưởng “vô vi” và thể chế pháp luật. Ông coi đó là sự áp đặt, cưỡng chế, can thiệp vào bản tính tự nhiên của con người. Những cái đó cũng là nguyên nhân của sự giả dối và điều ác: “Nước nào chính sự lờ mờ thì dân thuần thục, nước nào chính sự rành rọt thì dân lao đao” và “pháp luật càng tăng trộm cướp càng nhiều”. Còn cái gọi là nhân, nghĩa, lễ, trí theo Lão Tử tất cả những cái đó chỉ là giả tạo, trái với tự nhiên, xa rời mất đạo mà thôi. Ông phê phán những quan điểm và chủ trương “hữu vi” của Nho giáo và cho rằng: “Mất đạo rồi mới có đức, mất đức rồi mới có nhân, mất nhân rồi mới có nghĩa, mất nghĩa rồi mới có lễ. Lễ chỉ là cái vỏ mỏng của lòng trung tín, mà cũng là đầu mối của sự loạn…”. Như vậy “đạo” là lẽ ngầm chứa sống mà chưa hiển lộ. Khi cây mọc thì “đức” là rễ, nhân là thân, nghĩa, lễ là lá cành, trí là hoa. “Đạo”, “đức” do đó cao hơn và là chủ của nhân, lễ, nghĩa, trí, tín. Nhân, lễ, nghĩa, trí, tín chỉ là cái hình thức bề ngoài, là cái ngọn của “đạo” và “đức” mà thôi. Nho giáo theo vương đạo đều coi nhân, nghĩa, lễ,

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc66629.doc
Tài liệu liên quan