Tài liệu Đề tài Nghiên cứu và đề xuất giải pháp khai thác hợp lý và bền vững cho rong nguyên liệu sản xuất ethanol ở ven biển Nha Trang: ĐỀ TÀI
Nghiên cứu và đề xuất giải pháp khai thác hợp lý và bền vững cho rong nguyên liệu sản xuất ethanol ở ven biển Nha Trang.
Lê Như Hậu
Viện Nghiên cứu và Ứng dụng Công nghệ Nha Trang
I. MỞ ĐẦU
Theo các tài liệu đã công bố, rong biển Việt Nam có khoảng 800 loài. Tuy nhiên, hiện nay chỉ có một số đối tượng khoảng 90 loài được người dân khai thác sử dụng làm thực phẩm, làm thuốc, còn phần lớn để cho tự phân hủy gây lãng pí tài nguyên và gây ra ô nhiễm môi trường. Trong khi đó, để sản xuất ethanol nhiên liệu người ta sử dụng các tài nguyên thưc vật như đường, tinh bột ngũ cốc, rơm rạ, cỏ, phế thải nông nghiệp và lâm nghiệp làm ảnh hưởng đến an ninh lương thực và chất đốt. Vì thế việc sử dụng rong biển làm nguyên liệu cho sản xuất ethanol nhiên liệu là rất phù hợp. Rong biển rất nhiều khắp thế giới, sản lượng rong biển hàng năm khoảng 15 triệu tấn và dự tính khoảng 22 triệu tấn vào năm 2020, giá thành rẽ. Theo các tác giả để chuyển rong biển thành ethanol nhiên liệu cần phải qua cá...
23 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1339 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Nghiên cứu và đề xuất giải pháp khai thác hợp lý và bền vững cho rong nguyên liệu sản xuất ethanol ở ven biển Nha Trang, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỀ TÀI
Nghiên cứu và đề xuất giải pháp khai thác hợp lý và bền vững cho rong nguyên liệu sản xuất ethanol ở ven biển Nha Trang.
Lê Như Hậu
Viện Nghiên cứu và Ứng dụng Công nghệ Nha Trang
I. MỞ ĐẦU
Theo các tài liệu đã công bố, rong biển Việt Nam có khoảng 800 loài. Tuy nhiên, hiện nay chỉ có một số đối tượng khoảng 90 loài được người dân khai thác sử dụng làm thực phẩm, làm thuốc, còn phần lớn để cho tự phân hủy gây lãng pí tài nguyên và gây ra ô nhiễm môi trường. Trong khi đó, để sản xuất ethanol nhiên liệu người ta sử dụng các tài nguyên thưc vật như đường, tinh bột ngũ cốc, rơm rạ, cỏ, phế thải nông nghiệp và lâm nghiệp làm ảnh hưởng đến an ninh lương thực và chất đốt. Vì thế việc sử dụng rong biển làm nguyên liệu cho sản xuất ethanol nhiên liệu là rất phù hợp. Rong biển rất nhiều khắp thế giới, sản lượng rong biển hàng năm khoảng 15 triệu tấn và dự tính khoảng 22 triệu tấn vào năm 2020, giá thành rẽ. Theo các tác giả để chuyển rong biển thành ethanol nhiên liệu cần phải qua các bước, tiền xử lý nguyên liệu, thủy phân thành đường, lên men dường thành ethanol nhiên liệu sinh học và quá trình giảm lượng nước trong ethanol nhiên liệu.
Rong biển bao gồm 3 ngành rong, Luc, Đỏ, Nâu. Rong Đỏ chứa chất xơ fibrin khoảng 15-25%, agar (galactan) khoảng 50-70%, protein dưới 15% và lipid dưới 7% tổng trọng lượng khô.Rong Lục chứa chất xơ fibrin khoảng 5%, tinh bột 40-50%, Rong Nâu chứa acid alginic khoảng 30-40%. Agar là một polymer galactose có thể chuyên thành đường galactose và 3,6-Anhydrogalactose. Fibrin gồm cellulose. Tinh bột là một polysaccharide của glucose, chất được tổng hợp từ carbohydrate ở trong lục lạp của thực vật và được dự trữ trong tế bào chất. Galactose và Glucose có thể sử dụng như là cơ chất cho quá trình lên men ethanol nhiên liệu. Quá trình đường hóa sẽ cho galactose, 3,6-Anhydrogalactose, glucose, fucose, rhamnose, xylose, mannose, v.v.
Tuy nhiên, nếu rong biển được khai thác để đưa vào sử dụng làm nguyên liệu sản xuất ethanol, thì nguồn nguyên liệu chẳng bao lâu sẽ trở nên cạn kiệt. Do đó cần thiết phải nghiên cứu các giải pháp nhằm khai thác bền vững nguồn nguyên liệu này.
Trên cơ sở chuyên đề “Nghiên cứu và đề xuất giải pháp khai thác hợp lý và bền vững cho rong nguyên liệu ethanol ở ven biển Nha Trang”, chúng tôi tiến hành theo dõi đặc điểm sinh học biến động sinh lương, tỷ lệ cá thể mang thỏi sinh sản, sự tái sinh sau khi cắt của các đối tượng rong biển có sản lượng cao thuộc 3 ngành rong tại Nha Trang làm cơ sở bước đầu cho việc đề xuất giải pháp khai thác nguyên liệu rong biển trên cả nước.
II. TỔNG QUAN
2.1. Các giải pháp khai thác rong biển trên thế giới
Về quản lý nguồn lợi rong biển: Một số nước ở bờ Tây Bắc châu Mỹ đã có một số điều luật trong quản lý khai thác rong biển, ví dụ ở Alaska, rong biển chỉ được khai thác qua các công cụ sử dụng bằng tay, hạn chế chỉ một số vùng được khai thác với một số loài và theo phương pháp được chỉ định ( Ở British columbia, Canada thì chỉ cho người dân trong vùng địa phương khai thác, không khai thác quá 20% tổng sinh lượng của bãi rong, đối với rong Macrocystis integrifolia không được khai thác gốc bám, không khai thác ở độ sâu dưới 5 feet (1,5m) dưới mặt nước, đối với Nereocystis luetkeana chỉ được cắt phiến rong cách đỉnh cuống 20 cm, không được khai thác gốc bám và cuống phiến, đối với Iridaea cordata và Gigartina exasperate , hạn chế lấy gốc khỏi vật bám, không dùng những dụng cụ để đảo lộn nền đáy, rong phải dài hơn 10 cm mới được khai thác. Ở Washington state thì giới hạn mỗi người chỉ được khai thác dưới 10 pound trong lượng tươi trong một ngày, mỗi người chỉ được sử dụng giấy phép trong vòng 15 năm và phải trình báo khi khai thác và phải đóng phí về giấy phép khai thác, 7USD cho dân thường trú và 20USD cho khách vãng lai. Ở California, phí khai thác thương mại 100USD/năm, và phải đóng nghĩa vụ đối với địa phương 5 cent/tấn rong tươi. Đối với rong (Gelidium, Pterocladia, Gracilaria, Iridaea, Gloiopeltis và Gigartina), rong phải được cắt bằng dao ngoại trứ gốc không chắc, không được cắt gần gốc bám 2 inch, không có gốc bám; Hawaii luật khai thác phải có giấy phép khai thác, 50USD cho dân thường trú và 200USD cho khác vãng lai. Ấn Độ, đối với khai thác công nghiệp phải có giấy phép của phòng tài nguyên, nhưng không cần giấy phép đối với người dân, khai thác phải bằng tay, chỉ sau khi phóng bào tử đảm bảo phát tán cây con của mỗi loài ở từng địa phương, đối với những loài có nguy cơ suy giảm, cần áp đặt những quy định nghiêm ngặt để làm giảm đe dọa nghiêm trọng hơn nhằm phục hồi nhanh chóng. Ở Australia, người khai thác rong phải có giấy phép khai thác rong hàng năm và có báo cáo trước khi cấp mới.
Về phương pháp khai thác, ở Parisiola Point, Canada đối với loài Mazzaella cornucopiae thu hết vào cuối mùa xuân, nhưng không làm tổn hại đến gốc bám sẽ cho sinh lượng cao nhất (Scrosati, 1999). Tuy nhiên đối với loài Chrondrus crispus ở phía Đông Canada thì khi thu hoạch trong năm trước phải để lại 24,5-29% sinh khối (Scrosati, 1999). Đối với loài Chondracanthus chamissoi ở Bắc Chi lê, thu hoạch vào mùa xuân nhưng phải để lại 1 kg/m2 tương đương với sinh khối nhỏ nhất trong năm và chỉ nên thu 4kg/m2 (Vasquez & Vega, 2001). Đối với loài H. musciformis ở Đông Nam Brazil có thể thu hoạch loài này quanh năm, thời gan thu hoạch giữa hai lần là 35 ngày (Faccini & Berchez, 2000), không cần chừa lại chỉ đừng thu cây chủ mà chúng bám vào trên đó, ở đó các nhánh chồi còn sót lại đủ cho sự phục hồi.
Sự ảnh hưởng của việc khai thác lên sự sinh sản của rong biển là chưa rõ ràng. Ví dụ đối với loài Mazzaella cornucopia, sự khai thác làm cho số cá thể cái giảm, nhưng lại không ảnh hưởng đến số cá thể tứ bào tử. Có thể là việc khai thác làm cạn kiệt nguồn carbohydrat được dự trữ cho quá trình hồi phục cơ thể, làm giàm khả năng hình thành cơ quan sinh sản. Mặc dù vai trò sinh sản trong quá trình phục hồi quần thể của một số loài còn thấp (De wreeede, 1976). Nhưng, để hiểu biết rõ ràng ảnh hưởng của lịch trình khai thác lên sự sinh sản cần phải được nghiên cứu trên từng loài và ở các vị trí địa lý khác nhau để đạt được nguồn lợi rong biển bền vững cao.
Một số nước ở bờ Tây Bắc châu Mỹ đã có một số điều luật trong quản lý khai thác rong biển, ví dụ ở Alaska, rong biển chỉ được khai thác qua các công cụ sử dụng bằng tay, hạn chế chỉ một số vùng được khai thác và với một số loài theo phương pháp được chỉ định (
.
Tuy nhiên hiện nay ngoài tác nhân do khai thác cạn kiệt của con người còn có một số nhân tố ảnh hưởng đến sự suy giảm nguồn tài nguyên sinh vật, thậm chí có nhiều loài bị đe dọa có nguy cơ biến mất trong tương lai gần, do một số nguyên nhân chính sau:
1) Sự phá vỡ nơi cư trú do khai thác san hô làm vật liệu xây dựng, làm ao nuôi trồng thủy sản, xây xựng cảng biển, mở rộng thành phố,
2) Xáo trộn môi trường như tăng hàm lượng dinh dưỡng, vật chất lơ lửng, các kim loại nặng từ nuôi trồng và các hoạt động thành phố đổ ra biển,
3) Khai thác quá mức,
4) Ảnh hưởng trực tiếp từ du lịch do dập đạp hoặc thu nhặt những loài đẹp hoặc hấp dẫn.
2.2. Các giải pháp khai thác rong biển ở Việt Nam
Trên cơ sở các công trình nghiên cứu về biến động hàm lượng các hợp chất alginic, mannitiol, các tác giả nhận thấy về hàm lượng và chất lượng cao vào thời kỳ sinh sản mà các tác giả đã đề xuất khai thác vào khoảng tháng 4-5 để bảo đảm chất lượng và giống (Ngô Đăng Nghĩa, Nguyễn Trọng Cẩn, 1997; Trần Thị Luyến, Đỗ Minh Phụng, Nguyễn Anh Tuấn và Ngô Đăng Nghĩa, 1998, Lâm Ngọc Trâm & CS, 1999; Ngô Đăng Nghĩa, 2000; Trần Thị Luyến và Nguyễn Minh Thảo, 2002; Bùi Minh Lý và Cộng sự, 2007).
Mà chưa có một công trình thực sự về mùa vụ sinh học của rong Mơ trên địa bàn tỉnh để đề xuất thời gian khai thác cho các bãi rong khác nhau đảm bảo sự phát triển bền vững cho các bãi rong Mơ và đánh giá trữ lượng chính xác góp phần cho kế hoạch phát triển các ngành nghề liên quan đến guồn lợi rong Mơ thay vì xuất khẩu nguyên liệu thô như hiện nay.
Mặc dù nguyên nhân suy giảm do nhiều nguyên nhân như lấn đất để mở rộng đô thị, kè biển, nước thải từ sinh hoạt, sản xuất công nông thủy sản, đất cát do xói mòn... nhưng trong đó phải nói nguyên nhân khai thác cạn kiệt là nguyên nhân chính dẫn đến suy giảm nguồn lợi rong biển. Do đó, vấn đề đưa ra kịp thời các giải pháp để góp phần phát triển bền vững nguồn lợi là một việc làm cần thiết trước khi bị biến mất. Khi đó chúng ta phải tốn nhiều công sức và tiền của vào việc phục hồi nó.
III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng điều tra là các loài rong có trữ lượng cao.
Phạm vi nghiên cứu là các vùng triều ven bờ và ven đảo ven bờ thuộc vịnh Nha Trang, gồm: Hòn Chồng, Hòn Đỏ, Sông cái, Sông Lô, Hòn Tre, rạn ngầm Grandbank, Đồng Bò (Hình 3.1).
Bảng 3. 1. Các địa điểm được nghiên cứu sinh học tại Nha Trang
Địa điểm
Kinh độ Đông
Vĩ độ Bắc
1
Hòn Chồng
109020'05"
12027'77"
2
Sông Lô
109021'04"
12015'97"
3
Xóm Cồn
109020'00"
12026'04"
4
Cửa sông Cái
109020'04"
12025'07"
5
Cửa sông Bé
109021'05"
12018'48"
6
Bãi Nam
109024'05"
12022'94"
7
Rạn ngầm Grandbank
109.29'01"
12030'81"
3.2. Thời gian nghiên cứu: 2010
3.3. Phương pháp nghiên cứu
3.3.1. Phương pháp nghiên cứu sinh lượng
Theo qui phạm nhà nước về điều tra rong biển (UBKH-KT NN, 1981), tại mỗi vùng điều tra, chọn 3-5 mặt cắt thẳng góc với bờ tùy thuộc vào diện tích vùng điều tra (lớn hay nhỏ) mà định ra số mặt cắt, khoảng cách các mặt cắt càng nhỏ càng tốt. Trên các mặt cắt có khoảng từ 3-5 điểm ngẫu nhiên đại diện cho các đai phân bố (trên, giữa và dưới) để đặt các khung sinh lượng có có kích thước 0,5 x 0,5 m, số lượng và khoảng cách giữa các điểm thu mẫu rong và sinh lượng.
3.3.2. Phương pháp tính trữ lượng
Trên cơ sở đo đạt tại hiện trường về diện tích và sinh lượng bình quân của các ô tiêu chuẩn, trữ lượng rong được tính theo công thức:
P = S x µ
Trong đó: S: diện tích khu vực có rong phân bố, tính bằng m2; µ: sinh lượng bình quân của các ô tiêu chuẩn, tính bằng kg tươi/ m2.
(Những kết quả tại các điểm nghiên cứu này được dùng làm chuẩn cho việc tổng hợp và nhập số liệu cho bản đồ hiện trạng phân bố nguồn lợi)
IV. KẾT QUẢ
4.1. Thành phần loài
Qua việc điều tra khảo sát thu mẫu sinh lượng, đã xác định được các loài có trữ lượng lớn: được 23 loài rong biển thuộc 3 ngành rong biển là rong Đỏ (Rhodophyta), rong Nâu (Phaeophyta) và rong Lục (Chlorophyta).
Bảng 4.1. Danh mục loài có trữ lượng lớn và nơi phân bố tại Nha Trang
TT
Hòn Chồng
Hòn Đỏ
Sông Cái
Sông Lô
Bãi Nam
Sông Bé
RHODOPHYTA
Gracilaria blodgettii
x
G. bailiniae
x
Gelidiella acerosa
x
Hydropuntia edulis
x
Gracilaria tenuistipilata
x
H. eucheumatoides
Acanthophora spicifera
x
Hypnea pannosa
x
Laurencia concreta
x
Hypnea valentiae
x
Prionitis ramossisima
x
Ahnfeltiopsis flabelliformis
x
PHAEOPHYTA
Chnoospora implexa
x
Colpomenia sinuosa
x
Sargassum binderi
x
Sargassum mcclurei
x
Sargassum polycystum
x
Sargassum serratum
x
Sargassum angustifolium
Turbinaria ornata
x
CHLOROPHYTA
Ulva reticulata
x
Enteromorpha intestinalis
x
Ulva papenfussii
x
Tổng số loài:
Hình 4.2. Một số loài rong Đỏ phổ biến tại Nha Trang
Hình 4.3. Một số loài rong Lục phổ biến tại Nha Trang
4.2. Sự biến động sinh lượng và tỷ lệ cá thể mang cơ quan sinh sản một số loài rong biển tự nhiên tại Nha Trang
Sáu địa điểm gồm Hòn Chồng, Cửa sông Cái, Cửa sông Bé, Xóm Cồn, Sông Lô, Bãi Nam được chọn để nghiên cứu biến động sinh lượng, tỷ lệ cá thể mang thỏi sinh sản của một số loài phổ biến và có sinh lượng lớn tại Nha Trang (Bảng 4.1, Hình 4.1-3).
4.2.1. Sự biến động sinh lượng của rong Đỏ
Qua khảo sát 6 bãi rong cho thấy tất cả các loài đều có một kiểu phát triển và có một thời điểm cho sinh lượng cao nhất trong năm. Sinh lượng của các loài tại các bãi triều gia tăng theo nhiệt độ ấm hơn và tương quan thuận với nhiệt độ nước bề mặt (r2 = 0.58, p = 0.048, n = 7).
Tuy nhiên ở mỗi địa điểm, biến động sinh lượng của từng loài theo thời gian là khác nhau và các đỉnh sinh lượng của từng loài cũng không giống nhau và khác nhau có ý nghĩa (p < 0.05).
Kết quả cho thấy rằng sinh lượng cao nhất của các loài phụ thuộc vào sự phân bố theo độ sâu. Các loài phan bố ở vùng triều cao có thời điểm cho sinh lượng cao là sớm nhất và muộn dần theo độ sâu của mực nước thủy triều.
Loài Porphyra spp. phân bố ở vùng triều cao có giá trị sinh lượng cao vào tháng 2; Grateloupia asiatica, Gymnogongrus flagelliformis phân bố ở vùng triều giữa có giá trị sinh lượng cao vào tháng 4; Hypnea boergesenii Acanhophora spicifera, Gelidiella acerosa, G. bailiniae phân bố ở vùng triều thấp có giá trị sinh lượng cao vào tháng 5 và Hypnea pannosa, Hydropuntia edulis, H. eucheumatoides phân bố ở vùng dưới triều có giá trị sinh lượng cao vào tháng 6 (Bảng 4.2).
Bảng 4. 2. Biến động sinh lượng trung bình (g tươi/m2) của một số loài rong Đỏ tại Nha Trang năm 2010
Tháng
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
Gracilaria blodgettii
24
56
138
248
292
34
0
0
0
0
0
0
G. tenuistipitata
50
76
178
448
492
90
0
0
0
0
0
0
G. bailiniae
64
88
118
260
484
374
0
0
0
0
0
0
Hydropuntia edulis
44
70
134
240
284
374
1048
86
0
0
0
0
H. eucheumatoides
92
176
260
460
640
712
70
44
44
56
60
70
Hypnea pannosa
32
56
60
260
240
292
50
24
24
20
20
30
Hypnea valentiae
50
76
140
200
50
20
0
0
0
0
0
0
Laurencia concreta
30
36
80
160
250
220
112
0
0
0
0
0
Gellidiella acerosa
64
92
136
174
152
196
48
40
44
44
56
60
A. spicifera
44
68
90
174
244
0
0
0
0
0
0
0
Prionitis ramossisima
26
96
520
280
64
0
0
0
0
0
0
0
Ahnfeltiopsis flabelliformis
70
116
240
140
68
0
0
0
0
0
0
0
4.2.2. Sự biến động sinh lượng của rong Nâu
Qua khảo sát 4 bãi rong Mơ Sông Lô, Hòn Chồng, Bãi Nam và rạn ngầm Grand Bank đại diện cho các bãi triều đá tại Nha Trang, cho thấy tất cả các đều có một kiểu phát triển và có một thời điểm cho sinh lượng cao nhất trong năm. Tổng sinh lượng của bãi triều gia tăng theo nhiệt độ ấm hơn và tương quan thuận với nhiệt độ nước bề mặt (r2 = 0.58, p = 0.048, n = 7).
Sinh lượng chung của các loài rong ở 4 bãi rong trong nghiên cứu này là khác nhau có ý nghĩa thống kê bằng khác nhau đáng kể ANOVA (df=11; f=9,93; p= 0,00037), sinh lượng trung bình ở các bãi rong đều theo khuynh hướng giảm dần theo trình tự rạn ngầm Bãi Cạn Lớn > Bãi Nam > Hòn Chồng > Sông Lô. Trong đó, sinh lượng trung bình cao nhất của rạn ngầm Bãi Cạn Lớn là 7215,5± 333,7g. tươi/m2 (1017,1±63,5g. khô/m2) vào tháng 8, ở Bãi Nam là 2350,7± 123,7g. tươi/m2 (329,1±25,7g.khô/m2) vào tháng 5, ở Hòn Chồng là 1715,5± 233,7g. tươi/m2 (240,1±46,7g. khô/m2) vào tháng 4, ở Sông Lô là 1385,5± 153,7g. tươi/m2 (193,9± 31,6g.khô/m2) vào tháng 4 (Hình 4.4).
Tuy nhiên ở mỗi địa điểm, biến động sinh lượng của từng loài theo thời gian là khác nhau và các đỉnh sinh lượng của từng loài cũng không giống nhau và khác nhau có ý nghĩa (p < 0.05).
Hình 4.4. So sánh biến động sinh lượng trung bình của rong Mơ ở 4 bãi rong Sông Lô, Hòn Chồng, Bãi Nam và rạn ngầm Bãi Cạn Lớn trong năm 2010
Ở Bãi Nam sinh lượng cao nhất của bãi là 2350,7± 223,7 g. tươi/m2 vào tháng 5, trong đó cao nhất là rong Mơ mcclure 3820,7±211,3 g. tươi/m2 vào tháng 5, thứ nhì là rong Mơ nhiều phao (3040,4 ± 123,7 g. tươi/m2) vào tháng 5, tiếp theo là rong Mơ binder (2600,2 ±257,6 g. tươi/m2) vào tháng 6, và nhỏ nhất là rong Mơ gai (2060,7±112,4 g. tươi/m2) vào tháng 3 (Hình 4.5).
Hình 4. 5. Biến động sinh lượng (g.tươi/m2) trung bình rong Mơ ở Bãi Nam và riêng cho từng loài: S. serratum (se), S. polycystum (po), S. mcclurei (mc), S. binderi (bin)
Ở Hòn Chồng sinh lượng cao nhất của bãi là 1715,5± 233,7g tươi/m2 vào tháng 4, trong đó: cao nhất là rong Mơ gai (2340,8±210,4 g. tươi/m2) vào cuối tháng 3, thứ nhì là rong Mơ mcclure 2201,4±126,3 g. tươi/m2 vào tháng 4, tiếp theo là rong Mơ nhiều phao (1880,5 ± 130,7 g. tươi/m2) vào tháng 4, và nhỏ nhất là rong Mơ binder (1780,5 ±26,6 g. tươi/m2) vào tháng 5 (Hình 4.6).
Hình 4. 6. Biến động sinh lượng (g.tươi/m2) trung bình rong Mơ ở Hòn Chồng và riêng cho từng loài: S. serratum (se), S. polycystum (po), S. mcclurei (mc), S. binderi (bin)
Ở Sông Lô có sinh lượng nhỏ nhất trong 3 địa điểm (sinh lượng cao nhất của bãi là 1385,7± 143,7g. tươi/m2 vào tháng 4, trong đó thứ nhất là rong Mơ mcclure (2380,1±110,3 g. tươi/m2) vào tháng 4, thứ nhì là rong Mơ binder (1740,6 ±156,6 g. tươi/m2) vào tháng 5, tiếp theo là rong Mơ gai (1356,5±247,4 cm) vào cuối tháng 3, và nhỏ nhất rong Mơ nhiều phao (1200,8 ± 163,7 g. tươi/m2) vào tháng 4 (Hình 4.7).
Hình 4. 7. Biến động sinh lượng (g.tươi/m2) trung bình rong Mơ ở Sông Lô và riêng cho từng loài: S. serratum (se), S. polycystum (po), S. mcclurei (mc), S. binderi (bin)
Ở rạn ngầm Bãi Cạn Lớn (Grand Bank) sinh lượng cao nhất của bãi là 7215,5± 333,7g. tươi/m2 vào tháng 8 (Hình 4.8).
Hình 4. 8. Biến động sinh lượng (g.tươi/m2) trung bình rong Mơ ở Bãi cạn Lớn (Grand Bank)
Nhận xét về sinh lượng:
Nhìn chung sinh lượng giảm nhanh sau khi sinh sản và biến mất vào khoảng tháng 8 ở các bãi rong ven bờ và tháng 10 ở các rạn đá ngầm. Thời gian đạt sinh lượng khác nhau cho từng loài là kết quả của sự phân bố không gian khác nhau trong bãi triều.
Bảng 4. 3. Biến động sinh lượng trung bình (g tươi/m2) của 4 loài rong Mơ theo tháng tại Nha Trang
Vị trí
Loài
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
Hòn Chồng
S. serratum
40.6
84.0
327.6
140.0
61.0
2.4
2.7
3.0
8.6
121.2
S. polycystum
18.0
135.0
145.6
263.2
114.8
3.4
4.2
46
S. binderi
5.8
112.8
168.0
221.2
263.2
43.6
29.4
2.4
2.4
25
S. mcclurei
56.0
141.7
230.4
308.0
226.8
9.1
2.6
3.5
4.7
4.7
45.2
Sông Lô
S. serratum
31.4
68.0
189.8
106.4
41.4
8.6
121.2
S. polycystum
15.2
23.0
38.4
168.0
37.8
8.4
9.2
11.3
12.8
14.1
14.1
106.8
S. binderi
5.8
28.8
78.4
168.0
243.6
56.4
29.4
2.4
2.4
25
S. mcclurei
56.0
141.7
230.4
333.2
170.8
3.5
4.7
4.7
45.2
Bãi Nam
S. serratum
17.8
67.8
288.4
238.0
106.4
1.5
4.3
8.5
S. polycystum
9.0
67.5
219.8
263.2
425.6
7.1
7.1
7.5
S. binderi
2.9
56.4
168.0
193.2
249.2
364.0
58.8
1.8
S. mcclurei
6.6
15.7
324.8
397.6
534.8
2.4
2.4
3.2
Rạn ngầm
S. angustifolium
25
345
670
2245
7265
324
4.2.3. Sự biến động sinh lượng của rong Lục
Rong Lục phân bố chỉ ở vùng cửa sông, tại Nha Trang rong Lục phân bố nhiều nhất ở từ cử Sông cái đến Ba Làng. Trên bãi triều, Rong Lục phân bố ở vùng triều giữa, vì thế rong bày ra không khí khi triều thấp. Do đó mùa vụ rong Lục rất ngắn, từ tháng 1 đến tháng 5. Vào tháng 6 khi thủy triều thấp vào ban ngày, thì hầu hết rong Lục đều bị phơi khô và chết. Sinh lượng rong Lục cao nhất vào tháng 3-4, trung bình từ 231-4140 g tươi/m2.
Bảng 4. 4. Biến động sinh lượng trung bình (g tươi/m2) của một số loài rong Lục theo tháng tại Nha Trang
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
Ulva reticulata
1760
2000
4140
3450
800
150
Enteromorpha intestinalis
50
300
1200
1800
2100
Ulva papenfussii
50
100
800
1300
2100
Tổng số loài:
4.2.4. Trữ lượng rong biển tại Nha Trang
Qua khảo sát sinh lượng trong năm 2010, cùng với đo đạy diện tích bằng thực địa và kết hợp phân tích ảnh Google map. Trữ lượng các ngành rong biển tại Nha Trang như sau: Khu vực vịnh Nha Trang có diện tích rong Mơ 546,20ha. Rong Mơ phát triển thành thảm với sinh lượng trung bình đạt 571,90g.khô/m2, trữ lượng 4840,4 tấn khô/năm. Rong Đỏ là 231,97 tấn khô và rong lục là 16,53 tấn khô (Bảng 4.5-7).
Bảng 4. 5: Trữ lượng rong Mơ khu vực ven biển vịnh Nha Trang tháng 4.2010
Địa danh
Diện tích (ha)
Độ phủ
(%)
Sinh lượng (g.khô/m2)
Mật độ (cây/m2)
Chiều dài cá thể (cm)
Trữ lượng (tấn khô)
Hòn Rùa
5,625
69,4±8,8
598,7±63,2
42,7±12,3
79,8±38,6
33,63
Bãi Tiên
6,242
66,2±6,8
447,3±41,2
46,5±6,5
67,3±17,3
27,90
Ba Làng, Đường Đệ
16,35
30,5±8,5
810,3±50,3
20,5±12,5
81,5±12,4
73,08
Kê Gà - Lương Sơn
12,17
56,1±8,5
242,3±21,3
44,5±8,5
65,3±15,3
54,40
Nam Hòn Đỏ
2,107
12,5±6,5
249,3±21,7
26,8±8,8
62,3±18,4
9,41
Nam Hòn Chồng
5,728
46,5±15,5
487,3±31,2
55,5±6,5
49,3±15,6
25,60
Tây Mũi Cá Sấu_Trí Nguyên
1,341
63,2±7,7
375,6±26,4
28,2±8,4
75,15±25,3
5,7
Mũi Chụt
0,4872
53,8±6,8
545,6±29,4
43,2±12,4
75,15±25,3
2,1
Sông Lô
8,946
43,8±8,8
467,1±22,4
24,6±7,4
75,8±23,7
29,97
Mũi Nam - Hòn Tre
9,016
84,7±12,3
601,7±63,3
67,6±9,3
80,8±36,4
53,92
Bãi Trũ (Vinpealand)
4,537
72,1±8,3
610,7±63,5
69,9±10,3
85,5±30,6
27,13
Bãi Rạn - Hòn Tre
14,44
74,7±12,4
528,7±43,4
65,7±11,1
81,6±22,6
86,35
Bãi Nghéo - Hòn Tre
17,88
76,3±14,3
555,7±42,2
61,8±15,5
83,3±21,1
106,92
Bãi Bàng - Hòn Tre
14,46
82,5±12,5
578,7±38,2
52,7±14,3
89,8±24,6
86,47
Mũi Đầm Báy
2,778
15,7±2,3
198,7±47,2
12,5±7,3
39,7±18,0
16,61
Bãi Lận
12,7±5,3
238,7±13,2
22,3±8,3
50,8±12,6
7,00
Hòn Một
2,433
7,7±12,3
238,7±63,2
20,4±7,2
39,2±11,6
7,55
Hòn Tầm
1,57
10,2±1,3
248,7±63,2
12,7±6,3
43,8±18,5
9,39
Bãi cạn lớn (Grandbank)
385,5
86,2±8,8
1049,2±52,4
56,2±8,8
261,8±56,2
4043,9
Cộng
546,20
4840,4
Bảng 4. 6. Trữ lượng rong Đỏ khu vực ven biển vịnh Nha Trang tháng 4.2010
Địa danh
Diện tích
(ha)
Độ phủ (%)
Sinh lượng (g.khô/m2)
Trữ lượng (tấn khô)
Hòn Rùa
5,625
118,7±63,2
33,63
Bãi Tiên
6,242
66,2±6,8
122,3±41,2
27,90
Ba Làng, Đường Đệ
16,35
30,5±8,5
210,3±50,3
73,08
Hòn Đỏ
2,107
12,5±6,5
344,3±21,7
9,41
Hòn Chồng
5,728
46,5±15,5
248,3±31,2
25,60
Sông Lô
8,946
Hòn Tre
45.4
11,5±7,4
130,3±31,9
1,21
Sông Bé
1,501
10,5±6,3
260,3±21,5
6,71
Cộng
49,994
231,97
Bảng 4. 7. Trữ lượng rong Lục khu vực ven biển vịnh Nha Trang tháng 4. 2010
Địa danh
Diện tích
(ha)
Độ phủ (%)
Sinh lượng (g.khô/m2)
Trữ lượng (tấn khô)
Ba Làng, Đường Đệ
16,35
30,5±8,5
130,3±50,3
6.50
Hòn Đỏ
2,107
12,5±6,5
345,3±21,7
5.23
Hòn Chồng
5,728
46,5±15,5
180,3±31,2
4.80
Cộng
24,2
16.53
4.3. Sự biến động tỷ lệ cá thể mang cơ quan sinh sản của rong tại Nha Trang
Trong chu trình sống của rong biển thì giai đoạn sinh sản là quan trọng để quyết định thời gian thu hoạch rong biển, để có lợi về sản lượng và có khả năng tái phát triển cho mùa sau. Thời kỳ sinh sản của rong biển ở Nha Trang chỉ xảy ra một lần duy nhất trong năm. Thời điểm này là rất khác nhau giữa các vùng nghiên cứu và các loài.
4.3.1. Sự biến động tỷ lệ cá thể sinh sản của rong Đỏ
Rong Chủn (Grateloupia asiatica) và rong Cạo (Gymnogongrus flagelliformis) phân bố ở vùng triều giữa bắt đầu sinh sản muộn hơn ở các bãi rong, sinh sản vào tháng 3-4 ở Xóm Cồn. Trong khi đó các loài Hypnea boergesenii Acanhophora spicifera, Gelidiella acerosa, G. bailiniae phân bố ở vùng triều thấp bắt đầu sinh sản vào tháng 4 và đạt đỉnh cao (100%) vào tháng 5 (Bảng 4.8). Riêng các loài Hypnea pannosa, Hydropuntia edulis, H. eucheumatoides phân bố ở vùng dưới triều bắt đầu sinh sản muộn nhất vào tháng 5 và đạt đỉnh cao vào tháng 6, nhưng tỷ lệ các cá thể mang thỏi sinh sản cũng chỉ 45-60% (Bảng 4.8). Có lẽ các loài này bên cạnh hình thức sinh sản hữu tính thì các loài này còn thêm hình thức sinh sản dinh dưỡng bằng các nhánh còn sống sót từ vụ mùa trước.
Bảng 4. 8. Biến động tỷ lệ (%) cá thể mang cơ quan sinh sản của rong Đỏ tại Nha Trang năm 2010
Tháng
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
Gracilaria blodgettii
0
0
0
12
88
G. tenuistipitata
0
0
0
33
80
100
G. bailiniae
0
0
23
52
100
Hydropuntia edulis
0
0
0
0
40
60
60
H. eucheumatoides
0
0
0
22
25
45
20
Hypnea pannosa
0
0
0
12
35
55
20
Hypnea valentiae
0
0
45
80
100
Laurencia concreta
0
0
45
80
100
Gellidiella acerosa
0
0
20
64
80
100
A. spicifera
0
0
0
80
100
Prionitis ramossisima
0
12
80
100
100
Ahnfeltiopsis flabelliformis
0
22
80
100
Các loài rong biển ở các vùng nghiên cứu ở các bãi triều ven bờ cũng cho thấy trưởng thành không đồng bộ và lần lược theo thứ tự sau Grateloupia asiatica, Hypnea boergesenii, và cuối cùng là Hypnea pannosa, đều liên quan chặt chẽ đến trình tự phân bố theo độ sâu của chúng. Điều này cũng có thể do ánh sáng đến tầng dưới triều ít hơn và nhiệt độ tăng chậm hơn so với các vùng triều như theo nhận định của Plouguerne et al. (2006). Kết quả củng tương tự với nhận định của Deysher (1984) về vai trò của nhiệt độ nước lên sự phát triển và sinh sản của nhiều quần thể S. muticum, ở môi trường nước ấm hơn sẽ sinh sản sớm hơn những quần thể rong Mơ trong môi trường nước lạnh hơn.
Nhận xét về thời điểm về mùa vụ sinh sản rong Đỏ:
Tất cả các loài đều có một kiểu sinh trưởng và phát triển. Sinh lượng, khối lượng, chiều dài cá thể đều gia tăng từ cuối mùa Đông cho đến đỉnh cực đại vào các tháng có nhiệt độ nước ấm hơn trong những tháng mùa Hè. Thời kỳ sinh sản của các quần thể Rong Đỏ tại Khánh Hòa có thể chia thành 4 thời điểm về mùa vụ sinh sản theo độ sâu của nền đáy. Ở vùng triều cao, rong Đỏ có giá trị tỷ lệ cá thể trưởng thành về mặt sinh dục cao vào tháng 2. Vùng triều giữa có thời kỳ sinh sản kéo dài từ tháng 3 đến tháng 4. Ở vùng triều thấp các loài rong Đỏ có thời kỳ sinh sản kéo dài từ tháng 4 đến tháng 5. Và ở vùng dưới triều sâu 3-5 mét dưới mực triều rút thấp nhất các loài rong Đỏ có thời kỳ sinh sản kéo dài từ tháng 5 đến tháng 7.
4.3.2. Sự biến động tỷ lệ cá thể sinh sản của rong Nâu
Trong chu trình sống của rong Mơ thì giai đoạn sinh sản là quan trọng để quyết định thời gian thu hoạch rong Mơ, để có lợi về sản lượng và có khả năng tái phát triển cho mùa sau. Thời kỳ sinh sản của rong Mơ ở Nha Trang chỉ xảy ra một lần duy nhất trong năm. Thời điểm này là rất khác nhau giữa các vùng nghiên cứu và các loài.
Rong Mơ gai (S. serratum) có thời gian sinh sản sớm nhất ở các vị trí thu mẫu, thường mang thỏi sinh sản trước một tháng so với các loài rong khác của Bãi, Ở Sông Lô và Hòn Chồng rong Mơ gai sinh sản vào tháng 3, ở đảo Bãi Nam thì sinh sản vào tháng 4. Rong Mơ mcclure (S. mcclurei) và rong Mơ nhiều phao (S. polycystum) sinh sản vào tháng 4 ở Hòn Chồng và Sông Lô, nhưng lại sinh sản vào tháng 5 ở Bãi Nam. Rong Mơ binder (S. binderi) sinh sản muộn nhất ở các bãi rong, nó sinh sản vào tháng 5 ở Hòn Chồng và Sông Lô, nhưng lại sinh sản vào tháng 6 tại điểm Bãi Nam. Trong khi đó các loài rong mơ Kuetzing (S. kuetzingii) ở rạn ngầm Grand Bank bắt đầu sinh sản vào tháng 7 và đạt đỉnh cao (100%) vào tháng 8 (Bảng 4.9, Hình 4.9).
Bảng 4. 9. Biến động tỷ lệ (%) cá thể mang cơ quan sinh sản của rong Nâu tại Nha Trang năm 2010
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
Hòn Chồng
S. serratum
30
80
S. polycystum
50
80
S. binderi
100
S. mcclurei
50
100
Sông Lô
S. serratum
33
100
S. polycystum
30
85
S. binderi
100
S. mcclurei
60
100
Bãi Nam
S. serratum
78
90
S. polycystum
20
80
S. binderi
100
S. mcclurei
10
100
Rạn ngầm
S. angustifolium
50
100
Hình 4. 9. So sánh biến động tỷ lệ tản rong mang thỏi sinh sản của 4 loài rong ưu thế S. serratum (se), S. polycystum (po), S. mcclurei (mc), S. binderi (bin), S. kuetzingii (Kuet) tại 4 điểm Hòn Chồng (1), Sông Lô (2), Bãi Nam (3) và rạn ngầm Grand Bank (4)
Các quần thể rong Mơ được nghiên cứu cho thấy có khoảng thời gian thành thục trong những tháng có nhiệt độ cao hơn 30oC. Vai trò của nhiệt độ nước lên sự phát triển và sinh sản của nhiều quần thể S. muticum (Deysher 1984). Tác giả nhận xét rằng những quần thể rong Mơ ở môi trường nước ấm hơn sẽ sinh sản sớm hơn những quần thể rong Mơ trong môi trường nước lạnh hơn. Trong nghiên cứu của chúng tôi, nhiệt độ ở Sông Lô và Hòn Chồng cao hơn ở Bãi Nam nên sinh sản các quần thể ở 2 vùng này sớm hơn phù hợp với nhận định của Deysher (1984) và Ang (2006). Tuy nhiên các loài khác nhau trong cùng một địa điểm lại có thời điển sinh sản khác nhau, điều này liên quan đến sự phân bố các tầng nước khác nhau trong vùng triều, mà ở vùng cao có lẽ nhận được ánh sáng nhiều hơn và trưởng thành sớm hơn, phù hợp với Plouguerne et al. (2006), ông giải thích thời điểm sinh sản và tàn lụi của những cá thể loài S. muticum at Westein Brittany (France) trong các độ sâu khác nhau là không đồng bộ chính là sự tương quan chặt chẽ giữa ánh sáng và sinh sản.
Các loài rong Mơ ở các vùng nghiên cứu ở các bãi triều ven bờ cũng cho thấy trưởng thành không đồng bộ và lần lược theo thứ tự sau S. serratum, S. polycystum, S. mcclurei và cuối cùng là S. binderi, đều liên quan chặt chẽ đến trình tự phân bố theo độ sâu của chúng. Trong khi đó, ở rạn ngầm rong Mơ S. kuetzingii thường phát triển chậm hơn, cho đến tháng 7 rong mới bắt đầu sinh sản, điều này cũng do nhiệt độ tăng chậm hơn so với các vùng ven bờ như theo nhận định của Plouguerne et al. (2006).
Nhận xét về thời điểm về mùa vụ sinh sản:
Tất cả các loài đều có một kiểu sinh trưởng và phát triển. Sinh lượng, khối lượng, chiều dài cá thể đều gia tăng từ cuối mùa Đông cho đến đỉnh cực đại vào các tháng có nhiệt độ nước ấm hơn trong những tháng mùa Hè. Thời kỳ sinh sản của các quần thể Rong Mơ tại Khánh Hòa có thể chia thành 3 thời điểm về mùa vụ sinh sản theo độ sâu của nền đáy. Các bãi triều ven bờ với nền đáy cạn dưới 3 mét (đại diện là vùng Hòn Chồng và Sông Lô) có thời kỳ sinh sản kéo dài từ tháng 3 đến tháng 5, các các bãi triều ven đảo với nền đáy cạn trên 3 mét (đại diện là vùng Bãi Nam-Hòn Tre) có thời kỳ sinh sản kéo dài từ tháng 4 đến tháng 6, và các rạn ngầm sâu trên 10 mét có thời kỳ sinh sản kéo dài từ tháng 7 đến tháng 8.
4.3.3. Sự biến động tỷ lệ cá thể sinh sản của rong Lục
Do đặc điểm của rong Lục chưa phân hóa thành các bộ phân chức năng riêng lẽ, tất cả tế bào đều đảm nhiệm nhiệm vụ dinh dưỡng và sinh sản (trừ tế bào bám). Chu trình sống đơn lưỡng tướng sinh-đồng hình: Thể hợp tử (2N) cho ra bào tử động 4 roi (1N) mọc thành tản ở thể giao tử (1N). Thể giao tử (1N) cho ra động bào tử 2 roi (1N). Trên cơ thể cây rong luôn có các tế bào sinh sản, các tế bào già chuyển thành các ổ túi giao tử.
Bảng 4. 10. Biến động tỷ lệ (%) cá thể mang cơ quan sinh sản của rong Lục tại Nha Trang năm 2010
TT
Loài
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
1
Ulva reticulata
14
26
32
45
2
Enteromorpha intestinalis
10
20
38
40
2
Ulva papenfussii
12
20
30
35
4.4. Giải pháp khai thác
4.4.1. Rong Đỏ
Kết quả nghiên cứu biến động mùa vụ (sinh lượng, hàm lượng Agar/Carrageenan, tỷ lệ số cá thể mang thỏi sinh sản trong quần thể) một số loài rong Đỏ tại các bãi triều tại Nha Trang năm 2010, cho thấy: Sinh lượng của hầu hết các loài có giá trị trung bình cao nhất từ 25-524g khô/m2 trong tháng 2 đến tháng 6 và đồng thời có tỷ lệ cá thể mang thỏi sinh sản cao nhất (45-100%) ở Bảng 3.42 - 43.. Hàm lượng Carbohydrate cũng có một xu thế biến động tăng dần theo thời gian và cho giá trị cao nhất vào trước và trong thời kỳ sinh sản, sau đó giảm dần. Do đó để đảm bảo có nguồn giống cho vụ sau, cần có thời gian cho các bào tử phóng thích ra môi trường, vì vậy việc thu hoạch rong nên tiến hành sau khi sinh sản. Tùy từng loài mà có thời gian thu hoạch từ tháng 2 đến tháng 6. Rong Đông Gai Dày, rong Chủn (Grateloupia) và rong Cạo (Gymnogongrus) thu hoạch vào tháng 4. Rong Câu Chỉ, rong Câu Thắt, rong Câu Cước và rong Câu Rễ Tre thu hoạch vào tháng 5. Rong Câu Chân Vịt và rong Đông Tổ thu hoạch vào tháng 6. Điều này cũng tương tự với nhận định của Buschmann et al. (2005) khi nghiên cứu 2 loài Callophyllis variegata và Chondracanthus chamissoi đã đưa ra thời gian khai thác tự nhiên, mỗi năm hai lần cách nhau 30-45 ngày vào mùa xuân, khi đó cho hàm lượng Carrageenan cao và đảm bảo cho việc phóng bào tử và tái phát triển từ gốc (Buschmann et al., 2005) Alejandro H. Buschmann,1 María C. Hernández-González, Carlos Astudillo, Lucía de la Fuente, Alfonso Gutierrez and Gesica Aroca. 2005. Seaweed cultivation, product development and integrated aquaculture studies in ChileWorld Aquaculture Vol. 36 No. 3: 51-53
.
Bảng 4. 11. Thời gian có thể bắt đầu khai thác một số loài rong Đỏ tại Nha Trang
Loài rong
Tháng
1
2
3
4
5
6
Rong Đông Gai Dày,
x
Rong Chủn
x
Rong Cạo
x
Rong Câu Chỉ
x
Rong Câu Thắt
x
Rong Câu Cước
x
Rong Câu Rễ Tre
x
Rong Câu Chân Vịt
x
Rong Đông Tổ
x
4.4.2. Rong Lục
Do mùa vụ rong Lục rất ngắn, từ tháng 1 đến tháng 6 và tỷ lệ cá thể sinh sản không thau đổi từ tháng 2, cơ quan sinh sản có ở tất cả phần của tản rong và tháng có sinh lượng cao nhất vào tháng 3. Vì thế có thể khai thác rong Lục kể từ tháng 3 đến khi hết mùa rong, mỗi năm 3 đợt từ tháng 3 và cách nhau 30-45 ngày.
Bảng 4. 12. Thời gian có thể bắt đầu khai thác một số loài rong Lục tại Nha Trang
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
Ulva reticulata
x
Enteromorpha intestinalis
x
Ulva papenfussii
x
4.4.3. Rong Nâu
Để xác định thời gian thu hoạch của các bãi rong Mơ tại các vùng trọng điểm, từ kết quả của các Bảng 3.29, 3.30 và 3.31 có thể như sau:
- Vịnh Bến Gỏi có loài ưu thế là S. polycystum chiếm 90% tổng trữ lượng của bãi; ở Nha Phu có loài ưu thế là S. assimiles chiếm 70% và ở Hòn Chồng, Sông Lô, Mũi Cá Sấu, Xóm Bầu có 4 loài ưu thế là S. mcclurei, S. microcystum, S. polycystum, S. serratum chiếm 65% và tất cả loài ưu thế của các vùng này có thời kỳ trưởng thành sinh dục vào đầu tháng 4, đồng thời có tỷ lệ số cây thành thục sinh dục của các vùng này từ 70-90%, và thời gian phóng thích hết giao tử từ 15-25 ngày. Vì thế thời gian thu hoạch tốt nhất để đảm bảo được sản lượng và đảm bảo thời gian phóng giao tử là khoảng 15/4.
Vì trường hợp nếu chờ đến tháng 5 để có tỷ lệ số cây thành thục sinh dục 100%, thì các cây trưởng thành vào tháng 3-4 sẽ bị tàn lụi, khi đó sản lượng và chất lượng alginat, mannitol, fucoidan giảm.
- Ở các bãi rong Hòn Khói, Mỹ Giang, Ninh Vân, Hòn Tre, Cam Ranh có các loài ưu thế S. swartzii ở Hòn Khói chiếm 60% tổng trữ lượng của bãi; ở Mỹ Giang có loài ưu thế là S. henslowianum chiếm 90%; ở Ninh Vân có 2 loài ưu thế là S. mcclurei và S. polycystum chiếm 75% ; ở Hòn Tre có 4 loài ưu thế là S. mcclurei, S. microcystum, S. polycystum và S. binderi chiếm 88%; ở Cam Ranh có 5 loài ưu thế là S. serratum, S. mcclurei, S. swartzii, S. brevifolium, S. crassifolium chiếm 80% và các loài ưu thế này có thời kỳ trưởng thành sinh dục vào đầu tháng 5, đồng thời có tỷ lệ số cây thành thục sinh dục cao từ 60-90%. Vì thế thời gian thu hoạch tốt nhất vào giữa tháng 5. Nếu thu hoạch vào tháng 4, thì tỷ lệ số cây thành thục sinh dục chỉ đạt 5-25% và sản lượng đạt 30-40% trữ lượng của bãi rong. Vì vậy sẽ không đảm bảo nguồn giống giao tử cho vụ sau và đồng thời cho sản lượng thấp, hoặc chờ đến tháng 6 để có tỷ lệ số cây thành thục sinh dục 100% thì vào thời điểm đó sẽ có một số loài bị tàn lụi và khi đó sản lượng và chất lượng giảm xuống.
- Ở các rạn ngầm, hầu hết các loài đều có cùng thời điểm trưởng thành thục sinh dục và cùng đạt tỷ lệ số cây thành thục sinh dục, từ 35-45% vào tháng 7 và 100% vào tháng 8. Tuy nhiên, trữ lượng bãi quá lớn khoảng 4.000 tấn khô, vì thế có thể khai thác ngay đầu tháng mà không cần phải chờ thời gian phóng thích giao tử.
4.5. Khả năng tái phát triển của rong Mơ khi bị cắt
Để nghiên cứu về khả năng tái sinh của các loài rong Mơ sau khi khai thác, hai loài Rong Mơ S. mcclurei và S. binderi đã được sử dụng tiến hành thí nghiệm bằng cách cắt các nhánh chính, còn để lại dài 2; 5; 10; 15 cm trong diện tích 4 m2 tại Hòn Chồng, Sông Lô và Bãi Nam. Sau thời gian 30 ngày, cho thấy tỷ lệ cây cho chồi mới (nhánh thứ cấp) và chiều dài các nhánh bên tăng dần theo chiều dài thân chính để lại sau khi cắt (Hình 3.47). Tuy nhiên, tỷ lệ nẩy chồi và chiều dài chồi mới không có sự khác nhau đáng kể giữa hai thân chính có chiều dài 10 và 15 cm. Điều này cho thấy, chiều dài đoạn thân chính để lại khoảng 10 cm là đủ cho rong có thể phát triển các nhánh mới, tạo điều kiện co cây rong Mơ có thể sản xuất thêm các thỏi sinh sản (Bảng 3.23).
Bảng 4.13. Sự biến động tỷ lệ nẩy chồi và chiều dài chồi mới theo chiều dài thân chính để lại sau khi cắt
Chiều dài của thân chính để lại
2 cm
5 cm
10 cm
15 cm
Loài
S. mcclurei
S. binderi
S. mcclurei
S. binderi
S. mcclurei
S. binderi
S. mcclurei
S. binderi
Tỷ lệ nẩy chồi mới
0
0
15%
5%
100%
100%
100%
100%
Chiều dài chồi mới
0
0
1- 2 cm
1 cm
3-6 cm
2-3 cm
4-6 cm
2-3 cm
Số lượng chồi
0
0
2-3
chồi
1-2
chồi
4-5
chồi
2-3
chồi
4-6
chồi
2-4 chồi
Trên cơ sở nghiên cứu các đặc điểm sinh học rong Mơ: sinh lượng, sinh sản, tái sinh, phát tán bào tử, hàm lượng các chất hóa học trong rong để xác định thời gian thu hoạch, luợng thu hoạch, kỹ thuật khai thác mà không ảnh hưởng đến sản lượng. Chúng tôi đề xuất một số giải pháp sau:
4.2.2. Thời gian khai thác
Thời gian trưởng thành rong Mơ ở các địa điểm là khác nhau. Để đảm bảo có nguồn giống hợp tử rong Mơ phát triển vào mùa sau, đồng thời để rong Mơ có sản lượng và chất lượng các chất dự trữ cao nhất. Thời gian khai thác có thể đề xuất như Bảng 3.32
Bảng 4. 14. Thời gian các bãi rong có thể bắt đầu khai thác
Thời gian
Địa điểm
Tháng 4
Tháng 5
Tháng 8
Vùng ven Bờ (Hòn Chồng, Sông lô, Mũi Cá Sấu ở đảo Trí Nguyên, Xóm Bầu)
15/4
Vùng ven Đảo (Hòn Tre, Hòn Rùa, Hòn Tầm)
15/5
Bãi Cạn Lớn (Grandbank)
1/8
4.6. Cách khai thác rong Mơ
Vì rong trưởng thành dài khoảng 50 cm đến 3 mét, trên ngọn các nhánh mang các cơ quan sinh sản gọi là thỏi sinh sản hình trụ hoặc tam lăng có gai và có khả năng tái sinh nhánh từ các thân chính. Vì vậy cách thai khác nên:
- Khi cắt rong hoặc thu hoạch cần thiết phải để lại gốc bám và một đoạn thân dài khoảng 10 cm, để giúp rong có phần tán che cho giao tử tránh được các động vật ăn, giảm bớt áng sáng tác động trực tiếp, phát triển thêm các thỏi sinh sản và cung cấp thêm nguồn giống giao tử.
- Chừa lại khoảng 20% trữ lượng của bãi theo các luống, luống cách luống khoảng 100m để còn nơi cư trú và nơi đẻ cho động vật thủy sản.
- Khi cắt không được giẫm đạp lên san hô cũng như không neo tàu bè làm hủy diệt hệ sinh thái san hô.
V. KẾT LUẬN
Để đảm bảo cho sự khai thác hợp lý và bền vững theo các giải pháp sau:
1. Giải pháp về mùa vụ khai thác
Mùa vụ khai thác rong Mơ được phân làm 3 thời điểm theo 3 vùng: vùng bãi rong cạn, sâu và rạn ngầm. Bãi rong cạn khai thác sớm nhất là tháng 4, bãi rong sâu khai thác sau 1 tháng và bãi rong rạn ngầm khai thác muộn nhất vào tháng 8. Mùa vụ khai thác rong Đỏ được phân làm 3 thời điểm theo 3 tầng nước: Vùng triều giữa khai thác sớm nhất từ tháng 3. Ở vùng triều thấp khai thác sau 1 tháng từ tháng 4. Và ở vùng dưới triều khai thác muộn nhất từ tháng 5. Mùa vụ khai thác rong Lục được khai thác 3 lần cách nhau khoảng 1 tháng, kể từ tháng 3.
2. Giải pháp về cách khai thác:
- Khi cắt rong Mơ chừa thân chính 10 cm là tốt nhất để rong Mơ có khả năng tái phát triển và hình thành thêm thỏi sinh sản. Đối với rong Đỏ nên chừa lại gốc bám để chúng có điều kiện tái phát triển.
- Chừa lại khoảng 20% trữ lượng của bãi theo các luống, luống cách luống khoảng 100m để còn nơi cư trú và nơi đẻ cho động vật thủy sản.
3. Giải pháp về quản lý khai thác theo phương thức cộng đồng cùng quản lý bằng:
+Đối với bãi rong ven bờ gần khu dân cư: phân chia khu vực và giao cho các tổ (nhóm 5-10 hộ) có cùng địa bàn dân cư gần nơi bãi rong biển để tự quản lý khai thác và phải đóng thuế khai thác tài nguyên.
+ Đối với bãi rong xa bờ và xa khu dân cư: theo hình thức đấu thầu để mang tính công khai, rõ ràng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Phần tiếng Việt
Bùi Minh Lý, Ngô Quốc Bưu, Nguyễn Duy Nhứt, Phạm Đức Thịnh, Trần Thị Thanh Vân, 2007. Nghiên cứu sản xuất Fucoidan từ rong Nâu Việt Nam. Asean Journal on Science and Technology for Development, Vol. 22 (4): 371-380.
Lâm Ngọc Trâm, Đỗ Tuyết Nga, nguyễn Phi Đính, Phạm Quốc Long và Ngô Đăng Nghĩa, 1999. Các hợp chất tự hiên trong sinh vật biển Việt Nam. Nxb KH & KT, Hà Nội, 194 trang.
Ngô Đăng Nghĩa, 2000. Nghiên cứu tối ưu hoá qui trình công nghệ sản xuất alginat từ rong Mơ Việt Nam và ứng dụng vào một số lĩnh vực sản xuất. Luận án tiến sĩ, Đại học Thuỷ sản, Nha Trang.
Ngô Đăng Nghĩa, Nguyễn Trọng Cẩn, 1997. Nghiên cứu nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng alginat trong công đoạn nấu chiết. Tạp chí Thuỷ sản, 5: 5-7.
Trần Thị Luyến và Nguyễn Minh Thảo, 2002. Nghiên cứu sử dụng Iod chiết rút từ rong Nâu để phối chế nước mắm Iod. Tập san KHCN- Trường Đại Học Thủy Sản Nha Trang, số 2:20-25.
Trần Thị Luyến, Đỗ Minh Phụng, Nguyễn Anh Tuấn và Ngô Đăng Nghĩa, 1998. Nghiên cứu nâng cao chất lượng và sử dụng hiệu quả sản phẩm từ rong Nâu. Báo cáo đề tài cấp Bộ Thủy Sản.
UBKH & KTNN, 1981. Quy phạm điều tra tổng hợp biển, phần rong biển QPVN 17 – 79/QPVN 21 – 79, Nxb KHKT Hà Nội, 97 trang.
Phần tiếng Anh
Ang P. O. Jr., 2006. Phenology of Sargassum spp. in Tung Ping Chau Marine Park, Hong Kong SAR, China. Journal of Applied Phycology (2006) 18: 629–636.
De Wreede, R. E., 1976. The phenology of three species of Sargassum (Sargassaceae, Phaeophyta) in Hawaii. Phycologia 15: 175–183.
Deysher L. E., 1984. Reproductive phenology of newly introduced populations of the brown alga, Sargassum muticum (Yendo) Fensholt. Hydrobiologia 116/117, 403–407.
Faccini A. L. & Berchez F., 2000. Management of natural beds and standing stock evaluation of Hypnea musciformis (Gigartinales, Rhodophyta) in south-eastern Brazil. Journal of Applied Phycology 12: 101–103.
Plouguerne E. , K. L. Lann, S. Connan, G. Jechoux, E.Deslandes, V. Stiger-Pouvreau, 2006. Spatial and seassonal variation in density, reproductive status, length and phenolic content of the invasive brown macroalga Sargassum muticum (Yendo) Fensholt along the coast of Western Brittany (France). Aquatic Botany 85: 337–344.
Scrosati R., 1999. Regeneration and reproduction of Mazzaella cornucopiae (Rhodophyta, Gigartinaceae) after frond harvesting.Journal of Applied Phycology 10: 531–537.
Vasquez J. A. & Vega J. M. A., 2001. Chondracanthus chamissoi (Rhodophyta, Gigartinales) in northern Chile:ecological aspects for management of wild populations. Journal of Applied Phycology 13: 267–277.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giai phap khai thac hop ly RONG BIEN.doc