Đề tài Nghiên cứu ứng dụng một số dụng cụ trợ thị trên trẻ khiếm thị - Tôn Thị Kim Thanh

Tài liệu Đề tài Nghiên cứu ứng dụng một số dụng cụ trợ thị trên trẻ khiếm thị - Tôn Thị Kim Thanh: 45 Nghiên cứu ứng dụng một số dụng cụ trợ thị trên trẻ khiếm thị Tôn Thị Kim Thanh, Nguyễn Thị Thu Hiền Bệnh viện Mắt Trung ương Tóm tắt Nghiên cứu được tiến hành trên 107 trẻ khiếm thị tuổi từ 5 - 16, những trẻ này có thị lực ở mắt tốt sau khi điều trị hoặc chỉnh tật khúc xạ mà chỉ ở mức dưới 6/18 (khoảng 3/10) cho đến còn phân biệt sáng tối. Trước khi sử dụng kính trợ thị xa không có trường hợp nào thị lực xa ở mức >=0.33, nhưng sau khi được trợ thị có 89 (83.2%) trẻ có thị lực xa ở mức trên 0.4. Trước khi sử dụng kính trợ thị gần có 74 (69.2%) trường hợp thị lực gần trên 0.4 tuy nhiên khoảng cách đọc rất gần 44 (41.1%) trẻ có khoảng cách đọc dưới 5cm nhưng sau khi dùng kính trợ thị gần có 103 (96.3%) trẻ có thị lực gần trên 0.4 đồng thời chỉ còn 3 (2.8%) trường hợp khoảng cách đọc dưới 5cm. Việc sử dụng dụng cụ trợ thị cho trẻ khiếm thị là rất cần thiết, giúp chúng có thể học được chữ in như những trẻ bình thường khác. Khiếm thị là một thuật ngữ c...

pdf10 trang | Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 11/07/2023 | Lượt xem: 230 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Nghiên cứu ứng dụng một số dụng cụ trợ thị trên trẻ khiếm thị - Tôn Thị Kim Thanh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
45 Nghiên cứu ứng dụng một số dụng cụ trợ thị trên trẻ khiếm thị Tôn Thị Kim Thanh, Nguyễn Thị Thu Hiền Bệnh viện Mắt Trung ương Tóm tắt Nghiên cứu được tiến hành trên 107 trẻ khiếm thị tuổi từ 5 - 16, những trẻ này có thị lực ở mắt tốt sau khi điều trị hoặc chỉnh tật khúc xạ mà chỉ ở mức dưới 6/18 (khoảng 3/10) cho đến còn phân biệt sáng tối. Trước khi sử dụng kính trợ thị xa không có trường hợp nào thị lực xa ở mức >=0.33, nhưng sau khi được trợ thị có 89 (83.2%) trẻ có thị lực xa ở mức trên 0.4. Trước khi sử dụng kính trợ thị gần có 74 (69.2%) trường hợp thị lực gần trên 0.4 tuy nhiên khoảng cách đọc rất gần 44 (41.1%) trẻ có khoảng cách đọc dưới 5cm nhưng sau khi dùng kính trợ thị gần có 103 (96.3%) trẻ có thị lực gần trên 0.4 đồng thời chỉ còn 3 (2.8%) trường hợp khoảng cách đọc dưới 5cm. Việc sử dụng dụng cụ trợ thị cho trẻ khiếm thị là rất cần thiết, giúp chúng có thể học được chữ in như những trẻ bình thường khác. Khiếm thị là một thuật ngữ chỉ những người có chức năng thị giác giảm nặng thậm chí sau khi đã được điều trị hoặc điều chỉnh tật khúc xạ tốt nhất mà ở mắt tốt hơn thị lực chỉ ở mức dưới 6/18 (khoảng 3/10) cho đến còn phân biệt sáng tối hoặc thị trường thu hẹp dưới 10 độ kể từ điểm định thị, tuy nhiên họ vẫn có thể sử dụng hoặc có khả năng tiềm tàng để sử dụng phần thị giác còn lại đó cho việc thực hiện các công việc hàng ngày trong cuộc sống, lao động và học tập (Theo WHO năm 1992[2]) Trên thế giới trong khoảng 10 năm gần đây lĩnh vự khiếm thị được đặt ra như một vấn đề thời sự. ở Việt Nam do công việc giải phóng mù loà con nặng nề, chúng ta chưa quan tâm nhiều đến những người khiếm thị mặc dù theo cách tính toán của WHO thì số người khiếm thị vào khoảng 3 triệu người. Đối với những người khiếm thị, việc giúp cho họ có thể nhìn thấy rõ hơn để phần nào đỡ khó khăn trong cuộc sống là rất quan trọng. Với những trẻ khiếm thị thì điều này lại càng quan trọng hơn vì trẻ em dù bị khiếm thị cũng có quyền được đến trường học, được vui chơi và hoà nhập với cộng đồng xã hội. Việc ứng dụng những dụng cụ trợ thị cho trẻ khiếm thị giúp phần nào cải thiện được chức năng thị giác cho trẻ khiếm thị, phần nào giảm nhẹ được sự tàn tật của chúng, giúp chúng có thể đến trường học như những trẻ bình thường khác. 46 Mục đích trợ thị là làm phóng đại hình ảnh của vật trên võng mạc. Có nhiều cách để hỗ trợ thị giác cho người khiếm thị như: làm tăng kích thước của vật, làm giảm khoảng cách từ mắt đến vật, phóng đại bằng máy chiếu (Projector), phóng đại nhờ sử dụng các dụng cụ làm bằng các thấu kính hay còn gọi là những dụng cụ trợ thị quang học bao gồm: - Trợ thị xa (kính viễn vọng) là một hệ thống gồm một thấu kính cộng và một thấu kính trừ. - Trợ thị gần là một thấu kính cộng gồm kính gọng phóng đại, kính lúp cầm tay và kính lúp có chân. ở Việt Nam chưa có một nghiên cứu nào tìm hiểu về các dụng cụ trợ thị cũng như ứng dụng nó vào thực tế cuộc sống của trẻ khiếm thị bởi vậy chúng tôi đặt vấn đề nghiên cứu đề tài: ”Nghiên cứu ứng dụng một số dụng cụ trợ thị trên trẻ khiếm thị” nhằm mục đích: - ứng dụng quy trình khám và chỉ định dụng cụ trợ thị trên trẻ khiếm thị. - Đánh giá hiệu quả của một số loại dụng cụ trợ thị. Đối tượng và phương pháp 1. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng của chúng tôi là những bệnh nhân trẻ em tuổi từ 5 đến 16 tuổi đáp ứng các tiêu chuẩn sau đây: - Bệnh nhân bị bệnh mắt sau khi đã được điều trị hoặc điều chỉnh tật khúc xạ nhưng thị lực ở mắt tốt chỉ ở mức dưới 6/18 (khoảng 3/10) cho đến còn phân biệt được sáng tối. - Không mắc các bệnh viêm nhiễm cấp tính. - Tình trạng tâm sinh lý ổn định. - Có nguyện vọng được trợ thị. 2. Phương pháp nghiên cứu: 2.1. Cỡ mẫu: n = 107 bệnh nhân. 2.2. Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả. 2.3. Phương tiện nghiên cứu: - Bảng thị lực nhìn xa, bảng thị lực nhìn gần - Bảng tương phản - Máy soi đáy mắt, máy soi bóng đồng tử Retinoscope, hộp kính, máy Synoptophore, sinh hiển vi khám bệnh. - Các dụng cụ trợ thị: kính viễn vọng công suất phóng đại 2x đến 8x, kính gọng phóng đại công suất +4D đến +20D, kính lúp cầm tay công suất +6D đến +28D. - Đèn bàn, giá đọc sách. 3. Quy trình khám: - Giải thích mục đích cho gia đình trẻ khiếm thị - Quan sát ban đầu: tư thế, dáng đi - Hỏi tiền sử, bệnh sử, những chăm sóc thị giác trước đó. - Khám chẩn đoán nguyên nhân gây khiếm thị. - Thử thị lực xa - Thử kính nhìn xa - Thử thị lực gần - Đánh giá một số chức năng thị giác: khả năng nhạy cảm tương phản, thị trường, tình trạng thị giác hai mắt - Chỉ định kính trợ thị với công suất thích hợp cho từng bệnh nhân. 47 - Hướng dẫn cách sử dụng kính. Kết quả 1. Đặc điểm bệnh nhân: Chúng tôi đã nghiên cứu trên 107 trẻ khiếm thị tuổi từ 5 – 16 đến khám tại Bệnh viện Mắt Trung ương, trong đó có 62 trẻ nam (57%) và 46 trẻ nữ (43%), chủ yếu trên 6 tuổi. Trong 107 trẻ có 90% trẻ đã đi học nhưng chỉ có 60% được học chữ in còn 30% học chữ nổi. Bảng 1: Đặc điểm bệnh nhân. Lứa tuổi Số lượng Loại trường Nam Nữ Tổng Sáng Mù Chưa đi học 5 5 3 8 2 0 6 6 – 9 22 18 40 34 2 4 10 – 12 15 14 29 19 9 1 13 – 16 19 11 30 9 21 0 Tổng 61 46 107 64 32 11 Tỷ lệ % 57 43 100 60 30 10 2. Nguyên nhân chính gây khiếm thị: Trong nhóm bệnh của chúng tôi nguyên nhân chiếm tỷ lệ cao nhất nhóm bệnh lý thể thuỷ tinh (51%) chủ yếu là bệnh nhân sau mổ thể thuỷ tinh, đứng thứ hai là nhóm tật khúc xạ chủ yếu là cận thị cao, đứng thứ ba là nhóm bệnh võng mạc và thị thần kinh. 27% 30% 8% 3% 6% 5% 51% 51% 24%25% 8% 10% 0% 10% 20% 30% 40% 50% 60% TËt khóc x¹ BÖnh gi¸ c m¹ c BÖnh MB§ BÖnh TTT BÖnh VM­TTK Gl«c«m MP MT Biểu đồ 1: Nguyên nhân gây khiếm thị. 48 3. Tình trạng thị giác trước trợ thị: Chúng tôi chia làm 2 nhóm bệnh: nhóm có thị lực 2 mắt bằng nhau (29 trẻ) và nhóm có thị lực ở 1 mắt tốt hơn (78 trẻ). Tình trạng thị lực xa khi trẻ chưa được đeo kính chỉnh tật khúc xạ tốt nhất ở những bệnh nhân này rất kém, chủ yếu tập trung ở mức dưới 0.17, chỉ có 6 trường hợp thị lực trên 0.17 Bảng 2: Thị lực xa không kính. Thị lực xa 2 mắt bằng nhau 1 mắt tốt hơn n % n % >=0.33 0 0 0 0 <0.33 – 0.17 1 0.93 5 4.67 <0.17 – 0.13 3 2.80 18 16.82 <0.13 – 0.08 8 7.48 16 14.95 <0.08 – 0.05 10 9.35 24 22.43 <0.05 – 0.02 2 1.87 10 9.35 <0.02 5 4.67 5 4.67 Tổng 29 27.10 78 72.90 Sau khi chúng tôi soi bóng đồng tử và chỉnh kính nhìn xa cho bệnh nhân, có 58 trường hợp thị lực xa tăng có ý nghĩa thống kê với p = 0.01 [T>t (107; = 0.01)]. Số bệnh nhân có thị lực ở mức 0.33 – 0.17 tăng từ 6 lên 17 trường hợp, số bệnh nhân có thị lực dưới 0.02 giảm từ 10 xuống còn 6 trường hợp. Bảng 3: Tình trạng thị lực sau khi đeo kính nhìn xa. Thị lực 2 mắt bằng nhau 1 mắt tốt hơn Tổng Trước Sau Trước Sau Trước Sau >=0.33 0 0 0 0 0 0 <0.33 – 0.17 1 6 5 11 6 17 <0.17 – 0.13 3 8 18 26 21 34 <0.13 – 0.08 8 7 16 19 24 26 <0.08 – 0.05 10 6 24 12 34 18 <0.05 – 0.02 2 0 10 6 12 6 <0.02 5 2 5 4 10 6 Tình trạng thị giác hai mắt của bệnh nhân rất kém, chỉ có 29 trường hợp chiếm 27.1% có thị giác hai mắt trong đó 100% có đồng thị, 65% (19 bệnh nhân) có hợp thị và không có bệnh nhân nào có phù thị. 49 Bảng 4: Tình trạng thị giác hai mắt. Thị giác 2 mắt 2 mắt bằng nhau 1 mắt tốt hơn Tổng n % n % n % Có 18 16.8 11 10.3 29 27.1 Không 11 10.3 67 62.6 78 72.9 Nhìn chung khả năng nhạy cảm tương phản của những bệnh nhân này tốt, trong số 107 bệnh nhân chỉ có 3 trường hợp (2.8%) nhậy cảm với mức độ tương phản trên 10%, có 98 trường hợp (91.6%) nhậy cảm với mức độ tương phản dưới 10%. Bảng 5: Khả năng nhậy cảm tương phản. Mức độ tương phản 2 mắt bằng nhau 1 mắt tốt hơn Tổng n % n % n % 100.00% 0 0 0 0 0 0 25.00% 0 0 3 2.8 3 2.8 10.00% 3 2.8 3 2.8 6 5.6 5.00% 6 5.6 17 15.9 23 21.5 2.50% 9 8.4 36 33.6 45 42 1.25% 11 10.3 19 17.8 30 28.1 Hầu hết bệnh nhân sau khi chỉnh tật khúc xạ có thị lực gần ở mức tốt, 74 trường hợp (69.2%) có thị lực gần trên 0.4 và chỉ có 2 trường hợp (1.9%) có thị lực gần dưới 0.17. Bảng 6: Thị lực gần sau chỉnh tật khúc xạ. Thị lực gần n % >= 0.4 74 69.2 <0.4 – 0.25 25 23.4 <0.25 – 0.17 6 5.6 <0.17 – 0.08 2 1.9 <0.08 0 0 Thị lực gần sau chỉnh tật khúc xạ mặc dù ở mức khá nhưng khoảng cách đọc lại quá gần. Có 44 trường hợp (41.1%) khoảng cách đọc dưới 5cm, trong đó bao gồm 19 trường hợp có thị lực ở mức >=0.4. Chỉ có 24 trường hợp 50 vừa có thị lực ở mức >=0.4 vừa có khoảng cách đọc >10cm. Dựa vào test 2 có Q>q với p = 0.05 như vậy có mối liên quan giữa thị lực gần sau khi chỉnh tật khúc xạ và khoảng cách đọc. 19 17 6 0 31 8 0 0 14 0 0 0 10 0 0 0 0 5 10 15 20 25 30 35 5 ­ 10cm >10 ­ 15cm >15cm >=0.4 <0.4 ­ 0.25 <0.25 ­ 0.17 <0.17 Biểu đồ 2: Liên quan giữa thị lực gần sau chỉnh tật khúc xạ và khoảng cách đọc. 4. Tình trạng thị giác sau khi trợ thị: Tình trạng thị lực xa sau khi dùng kính viễn vọng được cải thiện đáng kể. Có 97 bệnh nhân được thử kính viễn vọng, trong đó có 89 trường hợp (91.7%) thị lực đạt được ở mức >=0.4, chỉ có 8 trường hợp (8.3%) thị lực xa ở mức 0.33 – 0.4. Bảng 7: Kết quả sử dụng phương tiện trợ thị xa. Thị lực xa 2 mắt bằng nhau 1 mắt tốt hơn Sau chỉnh TKX Sau trợ thị xa Sau chỉnh TKX Sau trợ thị xa >=0.4 0 24 0 65 <0.4 – 0.33 0 0 0 8 <0.33 – 0.17 6 0 11 0 <0.17 – 0.13 8 0 26 0 <0.13 – 0.08 7 0 19 0 <0.08 – 0.05 6 0 12 0 <0.05 – 0.02 0 0 6 0 <0.02 2 0 4 0 51 Có 73 bệnh nhân (68.2%) được thử kính trợ thị gần, trong đó có 19 trường hợp dùng kính gọng phóng đại, 24 trường hợp dùng kính lúp cầm tay và 30 trường hợp phối hợp cả kính gọng và kính lúp cầm tay. Còn lại 34 trường hợp (31.8%) không cần trợ thị gần. Sau khi được trợ thị số bệnh nhân có thị lực ở mức >=0.4 tăng từ 40 lên 69 trường hợp, số bệnh nhân có thị lực gần dưới 0.4 chỉ còn 4 trường hợp. Bảng 8: Thị lực sau trợ thị gần. Thị lực gần Trước trợ thị Sau trợ thị >=0.4 40 69 <0.4 – 0.25 25 3 <0.25 – 0.17 6 1 <0.17 – 0.08 2 0 <0.08 0 0 Sau khi dùng trợ thị gần khoảng cách đọc của bệnh nhân được cải thiện, trước trợ thị có 44 trường hợp khoảng cách đọc dưới 5cm, sau trợ thị chỉ còn 3, trước trợ thị chỉ có 24 trường hợp khoảng cách đọc trên 10cm, sau trợ thị có 61. 0 5 10 15 20 25 30 35 40 45 50 5 ­ 10cm >10 ­ 15cm >15cm Tr­ í c trî thÞ Sau trî thÞ Biểu đồ 3: Khoảng cách đọc trước và sau trợ thị gần. 52 Bàn luận 1. Quy trình khám và chỉ định phương tiện trợ thị cho bệnh nhân khiếm thị: Quy trình khám của chúng tôi áp dụng theo quy trình khám của Freeman và Jose (1997) [3], các bước tương tự như quy trình khám của Apple và Brilliant (1996) [1], Nowakowski (1994)[7]. Bước giải thích của việc trợ thị cho gia đình bệnh nhân là rất cần thiết, nếu bước này làm không tốt thì dù chúng ta có thử các kính trợ thị tốt đến đâu cũng không mang lại lợi ích cho bệnh nhân. Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi đã gặp những trường hợp bố mẹ các cháu làm nông nghiệp, trình độ nhận thức hạn chế sau khi nghe giải thích thì họ không hợp tác vì họ chỉ muốn điều trị để tăng thị lực cho trẻ hoặc không muốn cho trẻ học vì sợ sẽ làm mất nốt phần thị giác còn lại. Bước quan sát giúp đánh giá sơ bộ tình trạng thị lực của trẻ. Hỏi kỹ bệnh sử và tiền sử để nắm được quá trình bệnh và có hướng để chẩn đoán nguyên nhân gây khiếm thị. Việc chẩn đoán nguyên nhân gây khiếm thị đồng thời giúp chúng ta có thể tiên lượng trước được hiệu quả của việc trợ thị, những bệnh lý của thể thuỷ tinh như sau mổ lấy thể thuỷ tinh thì việc trợ thị thường hiệu quả hơn những bệnh lý của giác mạc như sẹo giác mạc Thông thường trẻ khiếm thịi có thị lực xa 1 mắt tốt hơn nên khi thử thị lực nên thử ở mắt tốt trước để động viên trẻ, với trẻ bị rung giật nhãn cầu thì không được bịt mắt khi thử thị lực vì sẽ kèm tăng biên độ rung giật. Điều chỉnh tật khúc xạ là bước không thể thiếu, dù thị lực chỉ cải thiện 1 hàng thị lực cũng rất có ý nghĩa đối với trẻ khiếm thị. Trong 107 bệnh nhân chỉnh kính nhìn xa thị lực cải thiện ở 58 trường hợp (54.2%), thị lực gần sau khi đeo kính ở mức >=0.4 chiếm 69.2% trường hợp. Kết quả của chúng tôi cũng phù hợp với nghiên cứu của Silver năm 1995 [8]. Khi thử thị lực gần cần lưu ý thử thị lực xa bằng bảng nào thì thử thị lực gần bằng bảng ấy, cần lựa chọn cường độ ánh sáng thích hợp, ví dụ bệnh nhân bạch tạng không nên dùng ánh sáng có cường độ mạnh để thử. Đánh giá một số chức năng thị giác như mức độ nhậy cảm tương phản, tình trạng thị giác hai mắt, định thị giúp cho việc lựa chọn loại kính trợ thị thích hợp cho từng bệnh nhân. Chỉ định dụng cụ trợ thị phụ thuộc vào kết quả thị lực sau khi đã chỉnh tật khúc xạ tốt nhất và khoảng cách đọc của bệnh nhân. Sau khi cấp kính trợ thị cần hướng dẫn trẻ và bố mẹ chúng biết cách sử dụng, trẻ muốn dùng các dụng cụ trợ thị tốt cần có thời gian tập luyện và việc tái khám là rất cần thiết để đánh giá hiệu quả của việc sử dụng trợ thị. 2. Hiệu quả của việc sử dụng các dụng cụ trợ thị trên trẻ khiếm thị: Với kính điều chỉnh tật khúc xạ tốt nhất thì thị lực xa của 107 bệnh nhân cũng chỉ ở mức dưới 0.33, nhưng nếu 53 được sử dụng kính viễn vọng thì sẽ có 83.2% trẻ có thị lực xa cải thiện trên 0.4, đây là thị lực mong muốn để cho một đứa trẻ có thể nhìn thấy chữ trên bảng. Nhìn chung kết quả của chúng tôi cũng phù hợp với nghiên cứu của Ji [4] trên 118 trẻ khiếm thị và của Kleen [5] trên 185 trẻ khiếm thị. Tuy nhiên khó khăn lớn nhất mà chúng tôi gặp phải là hiện nay ở Việt nam kính viễn vọng đúng tiêu chuẩn không thể mua trên thị trường, giá mua ở nước ngoài rất cao vì vậy việc chỉ định kính cũng như việc theo dõi sử dụng kính lâu dài rất khó thực hiện. Tuy nhiên để khắc phục điều này trong thực tế chúng tôi có những phương tiện trợ thị phi quang học để hỗ trợ giúp cho trẻ có thể ngồi học trên lớp cùng với những trẻ bình thường khác. Những dụng cụ trợ thị gần được sử dụng nhiều trong cuộc sống của trẻ khiếm thị bởi thị lực gần mới là thị lực hữu ích. Trong 107 bệnh nhân trước khi trợ thị có 74 trường hợp (69.2%) có thể đọc chữ in cỡ 0.4 tuy nhiên khoảng cách đọc rất gần, sau khi được trợ thị có tới 103 trường hợp thị lực ở mức trên 0.4 với khoảng cách đọc cải thiện rõ rệt. Kết quả của chúng tôi cũng phù hợp với kết quả Margrain [6] trên 168 trường hợp, kết quả của Ji [4] trên 118 trường hợp. Tuy nhiên chúng tôi nhận thấy khi dùng kính gọng phóng đại công suất càng cao thì khoảng cách đọc của bệnh nhân càng gần, gây cản trở ánh sáng vào trang sách, trong những trường hợp đó thì việc phối hợp kính gọng phóng đại với kính lúp sẽ giúp cải thiện khoảng cách đọc một cách rõ rệt. Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi phối hợp khám cho 29 học sinh trường Nguyễn Đình Chiểu. Trước khi được trợ thị 100% các cháu học chữ nổi, mặc dù chúng nhìn chữ nổi chứ không phải sờ chữ nổi. Nhưng sau khi được sử dụng các dụng cụ trợ thị có 15 cháu chuyển sang học chữ in hoàn toàn, 10 cháu đọc bằng chữ in nhưng vẫn phải viết chữ nổi. Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi rút ra một số nhận xét về những yếu tố ảnh hưởng đến kết quả của việc trợ thị ở trẻ em như sau: - Nguyên nhân gây khiếm thị: những nguyên nhân gây giảm thị lực trầm trọng sẽ làm việc trợ thị trở nên khó khăn hơn, ví dụ những tổn thương gây đục các môi trường trong suốt như sẹo giác mạc, đục thể thuỷ tinh - Những đặc trưng của trẻ khiếm thị: trẻ nhỏ thường khó hợp tác, có thể phải mất nhiều thời gian mới tiếp xúc được với chúng, trẻ khiếm thị phần lớn do các bệnh bẩm sinh nên từ nhỏ đã nhìn kém và chúng ít hào hứng với việc trợ thị, trẻ thường bị phân tán ít tập trung, trẻ thường không có ý thức giữ gìn các dụng cụ trợ thị. Do những yếu tố trên đòi hỏi thầy thuốc phải kiên trì, tỷ mỉ và có tâm huyết với công việc. - Trách nhiệm của gia đình đối với trẻ khiếm thị: việc quan tâm của gia đình giúp cho việc trợ thị thuận lợi hơn. - Trách nhiệm của nhà trường với trẻ khiếm thị: thầy cô giáo phải có những kiến thức cơ bản về giáo dục trẻ khiếm thị, hiểu và thông cảm với chúng, giúp đỡ chúng bớt mặc cảm về khuyết tật của 54 mình, hướng nghiệp cho chúng những nghề thích hợp. - Trách nhiệm của các thầy thuốc nhãn khoa: phải hiểu rõ khái niệm khiếm thị để khi gặp những trường hợp khiếm thị sau điều trị sẽ biết cần làm gì tiếp cho họ. Kết luận 1. Các dụng cụ trợ thị đóng vai trò quan trọng trong việc cải thiện sức nhìn cho trẻ khiếm thị. Nhờ các phương tiện này mà trẻ khiếm thị cảm thấy tự tin hơn trong cuộc sống. Chúng có thể học chữ in như những trẻ bình thường khác và có thể sống hoà nhập trong những trường bình thường. 2. Quy trình đánh giá tuân thủ theo trình tự các bước sau: - Giải thích mục đích của việc trợ thị - Quan sát tư thế - Hỏi bệnh - Chẩn đoán nguyên nhân gây khiếm thị - Thử thị lực xa - Chỉnh tật khúc xạ - Thử thị lực gần - Đánh giá một số chức năng thị giác - Chỉ định dụng cụ trợ thị - Hướng dẫn sử dụng. 3. Hướng nghiên cứu tiếp: tiếp tục nghiên cứu để áp dụng trên mọi đối tượng người khiếm thị. Tài liệu tham khảo 1. Appel SD., Brilliant RL. (1996): The low vision examination, Essentials of low vision practice, Edit. Brilliant, R.L., Butterworth Heinemann, 19 – 46. 2. Corn AL., Koenig AJ. (1996): Perspectives on low vision, Foundation of Low Vision: Clinical and Functional Perspectives, AFB Press, 3- 25. 3. Freeman PB., Jose RT. (1997): The Art and Practice of Low Vision, 11 – 92. 4. Ji Y.H., Park H.J., Oh SY. (1999): Clinicaleffect of Low Vision Aids, Korean J. Ophthalmol, 13(1), 52 – 56. 5. Kleen SR., Levoy RJ. (1981): Low vision care: Correlation of patient age, visual goals and aids priscribed, American Journal of Optometry and Physiological Optics, USA, 58(3), 200 – 205. 6. Margrain TH. (2000): Helping blind and partially sighted people to read: the effectiveness of low vision aids, BJO, 84 (8),919 – 921. 7. Nowakowski, R.W. (1994), Primary Low Vision Care, Appleton and Lange, 37 – 231. 8. Silver J., Gilbert CE., Spoerer P. et al. (1995): Low vision in east African blind school students: need for optical low vision services, BJO, 79, 814 – 820.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfde_tai_nghien_cuu_ung_dung_mot_so_dung_cu_tro_thi_tren_tre_k.pdf
Tài liệu liên quan