Tài liệu Đề tài Nghiên cứu thực hiện kỹ thuật phacoemulsification với thể thủy tinh đục trắng – Trương Tuyết Trinh: 3
NGHIÊN CỨU THỰC HIỆN KỸ THUẬT
PHACOEMULSIFICATION
VỚI THỂ THỦY TINH ĐỤC TRẮNG
TRƯƠNG TUYẾT TRINH, VŨ ANH TUẤN
Bệnh viện Mắt Trung ương
TÓM TẮT
Trong thời gian từ tháng 11/2000 đến tháng 11/2001 chúng tôi đã thực hiện mổ
phaco trên 48 mắt có thể thủy tinh đục trắng hoặc đục quá chín của 46 bệnh nhân tại
khoa Glôcôm, Bệnh viện Mắt TW với mục đích hoàn thiện về kỹ thuật phẫu thuật, đánh
giá các biến chứng trong, sau phẫu thuật và các biện pháp xử lý.
Để xé bao trước được liên tục chúng tôi nhuộm bao bằng chất màu xanh lơ
Trypan hoặc xanh lá cây Indocyanin. Tán nhân bằng kỹ thuật Divide and conquer hoặc
Phaco-chop tuỳ theo độ rắn của nhân. Đặt thể thủy tinh nhân tạo hậu phòng PMMA có
đường kính quang học 6mm vào trong bao. Khâu đóng vết mổ bằng 1 mũi chỉ 10/0.
Kết quả cho thấy xé bao trước rất dễ dàng hoàn thiện trên cả 48 mắt vì sau khi
nhuộm bao có màu xanh rất tương phản với nền thể thủy tinh màu trắng. Thời gian sử
dụng siêu âm trung bình là 1'46" (từ...
8 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 11/07/2023 | Lượt xem: 262 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Nghiên cứu thực hiện kỹ thuật phacoemulsification với thể thủy tinh đục trắng – Trương Tuyết Trinh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
3
NGHIÊN CỨU THỰC HIỆN KỸ THUẬT
PHACOEMULSIFICATION
VỚI THỂ THỦY TINH ĐỤC TRẮNG
TRƯƠNG TUYẾT TRINH, VŨ ANH TUẤN
Bệnh viện Mắt Trung ương
TÓM TẮT
Trong thời gian từ tháng 11/2000 đến tháng 11/2001 chúng tôi đã thực hiện mổ
phaco trên 48 mắt có thể thủy tinh đục trắng hoặc đục quá chín của 46 bệnh nhân tại
khoa Glôcôm, Bệnh viện Mắt TW với mục đích hoàn thiện về kỹ thuật phẫu thuật, đánh
giá các biến chứng trong, sau phẫu thuật và các biện pháp xử lý.
Để xé bao trước được liên tục chúng tôi nhuộm bao bằng chất màu xanh lơ
Trypan hoặc xanh lá cây Indocyanin. Tán nhân bằng kỹ thuật Divide and conquer hoặc
Phaco-chop tuỳ theo độ rắn của nhân. Đặt thể thủy tinh nhân tạo hậu phòng PMMA có
đường kính quang học 6mm vào trong bao. Khâu đóng vết mổ bằng 1 mũi chỉ 10/0.
Kết quả cho thấy xé bao trước rất dễ dàng hoàn thiện trên cả 48 mắt vì sau khi
nhuộm bao có màu xanh rất tương phản với nền thể thủy tinh màu trắng. Thời gian sử
dụng siêu âm trung bình là 1'46" (từ 40" đến 2'35"). Các biến chứng trong phẫu thuật
bao gồm rách bao sau 3 mắt (6,3%), co đồng tử trong phẫu thuật 6 mắt (12,5%), phù
mép mổ 11 mắt (22,9%). Ngày đầu tiên sau mổ 33 mắt (68,8%) có thị lực 3/10, và sau
1 tháng số này là 41 mắt (85,4%).
Kết luận: kỹ thuật Phacoemulsification hoàn toàn có thể thực hiện được một
cách an toàn trên những mắt có thể thủy tinh đục trắng nhưng cần thêm một số kỹ thuật
bổ trợ:
- Thì xé bao: dùng chất nhuộm màu
- Thì tán nhân: phaco-chop khi nhân cứng.
Ngày nay kỹ thuật tán nhuyễn thể
thủy tinh bằng siêu âm
(Phacoemulsification) đã được áp dụng
rộng rãi trên toàn thế giới và được công
1. Công trình nghiên cứu
4
nhận như là biện pháp tối ưu nhất trong
phẫu thuật lấy thể thủy tinh. Ưu điểm nổi
bật của phương pháp là đường mổ nhỏ
hạn chế được loạn thị, phẫu thuật được
tiến hành trong một hệ thống kín, giảm
thiểu được những chấn thương do phẫu
thuật nên thị lực sớm phục hồi, thời gian
hậu phẫu ngắn và rất nhẹ nhàng. Tuy vậy
khi thể thủy tinh đục hoàn toàn và đục
quá chín thì chỉ định của phương pháp
này cần được cân nhắc một cách thận
trọng bởi chắc chắn sẽ gặp nhiều khó
khăn do không còn ánh hồng của đồng
tử, chất nhân dạng sữa phóng thích vào
tiền phòng gây khó khăn nhiều cho thì xé
bao trước. Hơn nữa trên những mắt này
dây Zinn thường yếu, nhân thể thủy tinh
lại rắn rất dễ gây biến chứng rách bao
sau thoát dịch kính trong thì tán nhân [9].
Tại khoa Glôcôm thuộc Bệnh viện
Mắt Trung ương, chúng tôi đã bắt đầu
mổ Phaco từ năm 1997. Sau một thời
gian tích luỹ kinh nghiệm và hoàn thiện
kỹ thuật đến tháng 11/2000 chúng tôi
mới bắt đầu nghiên cứu thực hiện kỹ
thuật này trên những mắt có thể thủy tinh
đục trắng với hai mục đích:
- Hoàn thiện kỹ thuật của phẫu thuật.
- Đánh giá các biến chứng và
phương pháp xử lý biến chứng.
ĐỐI TƯỢNG
Trong thời gian từ tháng 11/2000
đến tháng 11/2002 chúng tôi đã mổ
Phaco và đặt thể thủy tinh nhân tạo hậu
phòng cho 48 mắt có thể thủy tinh đục
trắng hoặc quá chín của 46 bệnh nhân tại
khoa Glôcôm – Bệnh viện Mắt Trung
ương. Người trẻ nhất là 48 tuổi, cao tuổi
nhất là 82 tuổi, trung bình là 67 4,3
tuổi.
Tất cả các trường hợp đều được đo
thị lực và nhãn áp, khám lâm sàng đánh
giá tình trạng giác mạc, tiền phòng, thể
thủy tinh và khả năng xác định hướng
ánh sáng.
Đánh giá chức năng hoàng điểm
bằng kính Maddox, đo khúc xạ giác mạc
và khám mắt bằng siêu âm B để đánh giá
tình trạng dịch kính võng mạc và đo
chiều dài trục nhãn cầu. Công suất của
thể thủy tinh nhân tạo được tính bằng
công thức SKR II.
Tất cả những bệnh nhân có bệnh ở
phần trước nhãn cầu, bệnh glôcôm, bệnh
lý của võng mạc đều không được lựa
chọn vào nghiên cứu này.
Kỹ thuật:
Mắt mổ được vệ sinh, rửa cùng đồ
và tra Betadin 5% từ ngày hôm trước.
Đồng tử được làm giãn tối đa bằng
Neosynephrine 10% tra 3 lần trước mổ
và được duy trì trong mổ bằng Adrenalin
1/1000 pha 1 ống trong 1 chai 500ml
dung dịch Ringer lactat.
Đường rạch mà chúng tôi sử dụng
thường qui là đường hầm 6mm trên phần
giác mạc trong suốt cạnh rìa trong
khoảng kinh tuyến 10h - 11h. với đường
rạch này chúng tôi thấy mọi thao tác đều
rất thuận lợi và độ loạn thị sau phẫu thuật
5
là chấp nhận được [2]. Đầu tiên chỉ tạo
đường hầm 3,2mm để xé bao và tán
nhân, đến thì đặt thể thủy tinh nhân tạo
mới mở rộng thêm thành 6mm và khâu 1
mũi chỉ 10/0 khi kết thúc phẫu thuật.
Để xé bao trước được liên tục
chúng tôi nhuộm bao bằng Vision Blue
[1,6] hoặc Indocyanin Green. Đầu tiên
chúng tôi tạo 1 vạt bao hình tam giác
bằng kim 26G rồi tiếp tục xé bao bằng
pince xé bao. Trong khi xé bao nếu chất
nhân dạng sữa phóng thích nhiều cản trở
sự quan sát thì cần dừng lại, rửa sạch tiền
phòng bằng đầu rửa hút, sau đó bơm chất
dịch nhầy đầy tiền phòng và trong bao
thể thuỷ tinh rồi tiếp tục thủ thuật. Chất
nhầy duy nhất mà chúng tôi sử dụng là
Hydropropyl methylcellulose 2% do Ấn
Độ sản xuất.
Thao tác tách nước
(hydrodyssection) là không cần thiết vì
chất nhân đã hoá lỏng, nhân di động rất
dễ dàng.
Kỹ thuật tán nhân được chúng tôi
sử dụng là Divide & conquer hoặc
Phaco- chop tuỳ theo độ cứng của nhân.
Trong nghiên cứu này chúng tôi chỉ
dùng thể thủy tinh nhân tạo PMMA
đường kính quang học 6mm để đặt trong
bao thể thuỷ tinh.
Hậu phẫu dùng kháng sinh uống
Ofloxacine 0,2g x 2 viên/ngày x 3-5
ngày. Tra mắt dung dịch Maxitrol và
Naclof x 4 lần/ngày x 4 tuần.
Bệnh nhân được khám lại và thử thị
lực vào các ngày 1, 7, 14, 1 tháng, 3
tháng và 6 tháng sau phẫu thuật. Đo nhãn
áp chỉ được tiến hành tối thiểu 2 tuần sau
mổ.
KẾT QUẢ
1. Kết quả về chức năng:
Với đường mổ trên phần giác mạc
trong suốt cạnh rìa ở kinh tuyến 10 - 11h
chúng tôi thấy các thao tác tiếp theo là
hết sức thuận lợi, độ loạn thị sau phẫu
thuật không quá 1D [2] và kết quả về thị
lực là rất khả quan. Trước mổ chỉ có 2
mắt có thị lực đnt 0,1m, thị lực của 46
mắt còn lại chỉ là nhận biết được ánh
sáng. Nhưng ở ngày đầu tiên sau mổ mắt
có thị lực thấp nhất cũng đạt 1/10, có tới
68,8% số mắt đạt thị lực 3/10 trong đó
có 12,5% đạt mức thị lực 7/10
Bảng 1: Kết quả thị lực theo thời gian
Thị lực 1 ngày 1 tuần 2 tuần 1 tháng 3 tháng 6 tháng
< đnt 3m 0 0 1
(2,1%)
2
(4,2%)
0 0
đnt 3m - dưới 3/10 15
(31,3%)
9
(18,7%)
8
(16,7%)
5
(10,4%)
5
(11,9%)
2
(5,4%)
3/10 - dưới 7/10 27 26 29 16 14 11
6
(56,3%) (54,2%) (60,4%) (33,3%) (33,3%) (29,7%)
7/10 6
(12,5%)
13
(27,1%)
10
(20,8%)
25
(52,1%)
23
(54,8%)
24
(64,9%)
Tổng số 48 48 48 48 42 37
Qua bảng trên chúng tôi thấy thị
lực bắt đầu đi vào ổn định sau phẫu thuật
1 tháng và sau 3 tháng thì gần như ổn
định hoàn toàn. Tới 6 tháng tỷ lệ mắt có
thị lực 7/10 đã lên tới 64,9%.
Những trường hợp có thị lực dưới
mức đếm ngón tay 3m ở thời điểm 2 tuần
và 1 tháng sau phẫu thuật là những mắt
có phản ứng màng bồ đào sau phẫu thuật.
Sau điều trị nội khoa bằng thuốc giãn
đồng tử, kháng sinh và chống viêm thị
lực đã được tăng lên rõ rệt.
2. Các biến chứng trong phẫu
thuật:
Trong phẫu thuật chúng tôi nhận
thấy có 6 trường hợp (12,5%) bong màng
Descemet nhưng vùng bong thường hẹp
khu trú cạnh vết mổ và sẽ tự áp trở lại sau
khi chúng tôi đóng vết mổ rồi bơm nước
căng vào tiền phòng để tạo một áp lực tốt
trong nội nhãn. Đồng thời chúng tôi cũng
nhận thấy có 11 trường hợp (22,9%) có
phù giác mạc quanh mép mổ nhưng tổn
thương này sẽ biến mất vào ngày hôm sau
mà không để lại di chứng gì.
Bảng 2: Các biến chứng trong phẫu thuật
Các biến chứng trong phẫu thuật Số lượng Tỷ lệ
Xé bao không liên tục 0
Phù mép mổ 11 22,9%
Bong màng Descemet 6 12,5%
Co đồng tử 6 12,5%
Rách bao sau 3 6,3%
Vôi hoá bao sau 4 8,3%
Trong nghiên cứu này trên tất cả 48
mắt chúng tôi đều thực hiện được xé bao
liên tục hình tròn mà không gặp phải một
khó khăn nào vì bao trước được nhuộm
xanh rất tương phản với nền thể thủy tinh
màu trắng.
Thời gian sử dụng siêu âm trung
bình trong nghiên cứu này là 1'46" (từ
40" đến 2'35"), có 3 trường hợp (6,3%)
rách bao sau ở thì tán nhân nhưng viền
bao trước vẫn còn nguyên vẹn nên sau
khi cắt sạch dịch kính trước chúng tôi đã
7
đặt thể thủy tinh nhân tạo vào rãnh thể
mi một cách an toàn.
Trong phẫu thuật chúng tôi còn gặp
6 trường hợp (12,5%) đồng tử không
giãn hoặc co nhỏ lại trong khi tán nhân
cần phải bơm adrenalin 1/10.000 vào tiền
phòng.
Trong khi rửa hút chất nhân chúng
tôi còn nhận thấy 4 trường hợp (8,3%)
đục vôi hoá bao sau nhưng cả 4 trường
hợp này vùng đục đều không ở vị trí
trung tâm nên chúng tôi vẫn tiến hành
đặt thể thủy tinh nhân tạo như bình
thường rồi sẽ mở bao sau bằng Laser
YAG vào thời điểm 3 tháng sau phẫu
thuật.
3. Các biến chứng sớm trong thời
gian hậu phẫu:
Trong thời gian hậu phẫu có 11
trường hợp (22,9%) viêm khía hoặc phù
nhẹ giác mạc nhưng tất cả đều hồi phục
sau 2 - 3 ngày, không có ca nào để lại di
chứng loạn dưỡng giác mạc.
4. Các biến chứng muộn sau phẫu
thuật:
Ở thời điểm sau phẫu thuật 2 - 5
tuần, xuất hiện 3 trường hợp (6,3%) có
phản ứng màng bồ đào với những biểu
hiện tyndall tiền phòng, dính mống mắt
và màng xuất tiết màu xám che kín diện
đồng tử phải điều trị tích cực bằng kháng
sinh và chống viêm theo đường toàn thân
và tại chỗ.
Đục bao sau được quan sát thấy ở
13 trường hợp (27,1%), trong đó 7
trường hợp xuất hiện sau 3 tháng và 6
trường hợp xuất hiện sau 6 tháng. Tất cả
13 trường hợp này đều được mở bao sau
bằng Laser YAG an toàn.
Không có trường hợp nào tăng
nhãn áp hoặc bong võng mạc sau phẫu
thuật ở giai đoạn sớm và muộn được ghi
nhận.
BÀN LUẬN
Mổ phaco với những trường hợp
thể thủy tinh đục chín có nhiều khó khăn
nhưng những khó khăn này là có thể
khắc phục được khi áp dụng một số biện
pháp hỗ trợ.
Thì xé bao (capsulorhexis)
Đây là thì có ý nghĩa quyết định
của phẫu thuật. Nếu xé bao hoàn tất các
thao tác tiếp theo sẽ rất thuận lợi, nếu xé
bao không hoàn tất nguy cơ biến chứng
tiếp sau là rất cao. Thế nhưng khi thể
thủy tinh đục trắng hoàn toàn không còn
thấy ánh hồng đồng tử thì không thể xé
bao một cách bình thường được. Trước
nghiên cứu này chúng tôi đã thử một số
phương pháp như dùng ánh sáng nghiêng
của đèn lạnh nội nhãn [9], xé 1 vạt bao
nhỏ ở trung tâm rồi xé rộng ra sau khi đặt
thể thủy tinh nhân tạo [3, 10] nhưng
chúng tôi thấy việc xé bao một cách hoàn
chỉnh là rất khó khăn, đồng thời với một
đường kính xé bao nhỏ sẽ hết sức nguy
8
hiểm khi dùng choper để cắt nhân.
Với các thuốc nhuộm màu xanh lơ
Trypan (Vision Blue) hoặc xanh lá cây
Indocyanine việc xé bao trước trở nên
khá dễ dàng vì bao có màu xanh rất
tương phản với nền thể thủy tinh màu
trắng và cả 2 thuốc này đều không độc
với nội mô, không còn thấy vết tích gì
của thuốc vào ngày hôm sau [1,6].
Khi xé bao đối với những thể thủy
tinh đục quá chín chúng tôi thường thấy
có một lượng chất nhân dạng sữa được
phóng thích vào tiền phòng. Trong đa số
các trường hợp lượng chất nhân dạng sữa
này không gây khó khăn gì cho thủ thuật
vì chúng luôn nằm sau vị trí bao đang
được xé. Tuy nhiên ở một số ít trường
hợp chất nhân được phóng thích quá
nhiều gây khó khăn cho việc quan sát thì
phải dừng thủ thuật lại, dùng đầu rửa hút
để rửa sạch sau đó bơm chất nhầy xuống
dưới bao thể thủy tinh để bao được căng
ra rồi tiếp tục xé bao như bình thường
[1].
Đường kính xé bao lý tưởng nhất
theo chúng tôi là khoảng 5,5 - 6mm.
Không xé bao hẹp quá vì như vậy vùng
phẫu thuật sẽ rất hạn chế, các thao tác
trong phẫu thuật dễ làm rách bao, nhưng
cũng không nên xé bao rộng quá vì như
vậy dễ bị rách ra chu biên và nếu có xé
được hoàn tất thì sau khi tán nhân nếu
đồng tử hơi co lại sẽ không còn thấy viền
bao, rất khó đặt thể thủy tinh nhân tạo
vào trong bao. Hơn nữa viền bao trước
còn lại quá hẹp sẽ mất tác dụng cố định
thể thủy tinh nhân tạo nên thể thủy tinh
nhân tạo dễ bị di lệch thoát ra khỏi túi
bao.
Tán nhân:
Khi thể thủy tinh đục trắng nhân
thường không rắn lắm nên khi tán nhân
không có gì khó khăn. Với những nhân
loại này chúng tôi thấy kỹ thuật Divide
& conquer là hữu hiệu và an toàn nhất vì
vùng phẫu thuật chỉ hoàn toàn ở diện
đồng tử nên dễ quan sát, kỹ thuật Divide
& conquer lại là một kỹ thuật rất cơ bản
dễ thực hiện. Nhưng với những trường
hợp thể thủy tinh đục quá chín hay đục
trắng nhưng nhân lại có ánh đỏ hoặc nâu
thì nhân thường rất rắn và di động, dây
Zinn thường rất yếu nên sẽ rất khó khăn
và nguy hiểm khi đào rãnh, thời gian
phẫu thuật bị kéo dài, nguy cơ gặp nhiều
biến chứng. Vì thế đối với những trường
hợp này theo chúng tôi tốt nhất là áp
dụng kỹ thuật Phaco-chop với các thông
số power 60%, vacuum 150mmHg và
flow rate 20 ml/phút. Với kỹ thuật này
thời gian sử dụng siêu âm trung bình của
chúng tôi là 1'46", trường hợp kéo dài
nhất cũng chỉ là 2'35". So với các tác giả
khác như Vajpayee 1999 [9] là 3'48'' và
Chakrabarti 2000 [3] là 2'03'' thì thời
gian sử dụng siêu âm của chúng tôi ngắn
hơn nhiều. Trước khi dùng chopper để
cắt nhân bao giờ chúng tôi cũng cố gắng
đưa nhân ra khỏi túi bao, tiến hành cắt và
tán nhân trên bao thể thủy tinh
9
(supracapsular phaco) sẽ hạn chế được
biến chứng cắt hoặc hút phải bao. Tuy
vậy chúng tôi vẫn gặp 3 trường hợp rách
bao sau, thoát dịch kính ở thì này.
Nguyên nhân chủ yếu là do máy Phaco
của chúng tôi thuộc thế hệ cũ nên không
duy trì được tiền phòng tốt trong khi tán
nhân nên khi thao tác trong tiền phòng
dụng cụ và cạnh sắc của những mảnh
nhân đã làm rách bao sau. Trong những
trường hợp này chúng tôi cố gắng cắt
sạch dịch kính trước, rửa hút nốt phần
chất nhân còn lại bằng kim 2 nòng
simcoe rồi đặt thể thủy tinh nhân tạo vào
rãnh thể mi nằm trên vạt bao trước còn
lại cho cả 3 trường hợp. Vì trước đó xé
bao liên tục đã hoàn tất nên với viền bao
trước còn lại việc đặt thể thủy tinh nhân
tạo vào rãnh thể mi là rất dễ dàng và an
toàn, không trường hợp nào cần phải cố
định thể thủy tinh nhân tạo vào củng
mạc.
Một khó khăn hay gặp phải trong
khi tán nhân là đồng tử co lại rất dễ hút
phải mống mắt. Để hạn chế hiện tượng
này chúng tôi đã chủ động pha
Adrenaline vào trong dịch truyền với liều
lượng 1ml dung dịch Adrenaline 1/1000
trong 1 chai Ringer lactat 500ml. Tuy
vậy vẫn có 6 trường hợp (12,5%) đồng tử
vẫn không giãn hoặc co lại cần phải bơm
thêm vào tiền phòng dung dịch
Adrenaline 1/10.000.
Các biến chứng khác như phù mép
mổ 11 ca (22,9%), bong màng Descemet
6 ca (12,5%) đều biến mất vào ngay ngày
hôm sau phẫu thuật và không để lại di
chứng gì.
Thể thủy tinh nhân tạo:
Sau khi xé bao và tán nhân hoàn tất
có thể đặt thể thủy tinh nhân tạo mềm
nếu có điều kiện, nhưng chúng tôi nhận
thấy những bệnh nhân có thể thủy tinh
đục trắng đều là những người có trình độ
học vấn thấp, hoàn cảnh kinh tế rất khó
khăn nên giá thành của thể thủy tinh
mềm là quá cao so với điều kiện của họ.
Mặt khác, chúng tôi nhận thấy vết mổ
6mm không phải là quá rộng và độ loạn
thị do phẫu thuật cũng không quá 1D nên
trong nghiên cứu này chúng tôi đặt thể
thủy tinh nhân tạo PMMA đường kính
quang học 6mm cho tất cả 48 mắt và kết
quả theo dõi sau 6 tháng cho thấy có tới
64,9% số mắt đạt được thị lực 7/10,
hoàn toàn tương đương với các tác giả
khác như Vajpayee 1999 [9] và
Chakrabarti 2000 [3].
KẾT LUẬN
Kỹ thuật Phacoemulsification hoàn
toàn có thể thực hiện được trên những
mắt có thể thủy tinh đục trắng đem lại thị
lực cao cho bệnh nhân, nhưng cần thêm
một số kỹ thuật bổ trợ:
- Thì xé bao: dùng chất nhuộm
màu
- Thì tán nhân: phaco-chop khi
nhân cứng.
10
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. VŨ ANH TUẤN, S. JAULERRY, J. DAURIN: Nghiên cứu thực hiện kỹ
thuật capsulorhexis với thuốc nhuộm xanh Trypan trên mắt có thể thủy
tinh đục trắng. Bản tin nhãn khoa 2001; 7: 4-8
2. VŨ ANH TUẤN, TRƯƠNG TUYẾT TRINH, ĐỖ TẤN: Đánh giá độ loạn
thị giác mạc sau phẫu thuật Phacoemulsification sử dụng đường hầm giác
mạc 6mm. Nội san nhãn khoa 2002; 8: 41-47
3. A. CHAKRABARTI, S. SINGH, KRISHNADA R.: Phacoemulsification
in eyes with white cataract. J. Cataract Refract Surg 2000; 26: 1041-1047
4. H. V. GIMBEL, A.B. WILLERSCHEIDT: What to do with limited view:
The intumescent cataract. J. Cataract Refract Surg 1993; 19: 657-661.
5. A. M. MANSOUR.: Anterior capsulorhexis in hypermature cataracts
(letter). J. Cataract Refract Surg 1993; 19: 116-117.
6. MELLES G., DE WAARD P., PAMEYER J., BEEKHUIS H.: Trypan
blue capsule staining to visualize the capsulorhexis in cataract surgery J.
Cataract Refract Surg 1999, 25: 7-9
7. NORN M.S.: Per operative trypan blue vital staining of corneal
endothelium; eight year’s follow up. Acta ophtalmol 1980, 58: 550-555.
8. R.B. VAJPAYEE, S.K. ANGRA, S.G. HONAVAR et al.: Capsulotomy
for phacoemulsification in hypermature cataracts. J. Cataract Refract Surg
1995; 21: 612-615.
9. R.B. VAJPAYEE; A. BANSAL; N. SHARMA et al.: Phacoemulsification
of white hypermature cataract. J. Cataract Refract Surg 1999. 25: 1157-
1160 .
10. VASAVADA A., SINGH R., DESAI J.: Phacoemulsification of white
mature cataracts. J. Cataract Refract Surg 1998, 24: 270-277.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- de_tai_nghien_cuu_thuc_hien_ky_thuat_phacoemulsification_voi.pdf