Tài liệu Đề tài Nghiên cứu thống kê kết quả hoạt động du lịch ở Việt Nam giai đoạn 1995 – 2002 và dự đoán đến năm 2005: LỜI NÓI ĐẦU
Cùng với sự phát triển của xã hội, du lịch ngày càng trở thành một hiện tượng kinh tế xã hội phổ biến, là nhu cầu không thể thiếu của nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là những nước có nền kinh tế phát triển. Khi xã hội phát triển đời sống vật chất tăng lên thì nhu cầu du lịch cũng tăng lên. Du lịch được coi là một trong những tiêu chí đánh giá mức sống của dân cư mỗi nước. Du lịch là chiếc cầu nối của tình hữu nghị, tạo sự đoàn kết cảm thông giữa các dân tộc, tạo nên thế giới hoà bình tôn trọng lẫn nhau. Ở nước ta có tiềm năng du lịch dồi dào phong phú và đa dạng đã thu hút nhiều khách đến thăm con người và đất nước Việt Nam. Nhận thức được thế mạnh và vị trí của du lịch trong giai đoạn hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã và đang dành cho du lịch một vị trí xứng đáng, coi phát triển du lịch là một định hướng chiến lược quan trọng trong đường lối phát triển kinh tế xã hội nhắm góp phần CNH- HĐH đất nước.
Nghị quyết Trung ương IX xem “hoạt động du lịch là một trong những ngà...
115 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1078 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Nghiên cứu thống kê kết quả hoạt động du lịch ở Việt Nam giai đoạn 1995 – 2002 và dự đoán đến năm 2005, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Cùng với sự phát triển của xã hội, du lịch ngày càng trở thành một hiện tượng kinh tế xã hội phổ biến, là nhu cầu không thể thiếu của nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là những nước có nền kinh tế phát triển. Khi xã hội phát triển đời sống vật chất tăng lên thì nhu cầu du lịch cũng tăng lên. Du lịch được coi là một trong những tiêu chí đánh giá mức sống của dân cư mỗi nước. Du lịch là chiếc cầu nối của tình hữu nghị, tạo sự đoàn kết cảm thông giữa các dân tộc, tạo nên thế giới hoà bình tôn trọng lẫn nhau. Ở nước ta có tiềm năng du lịch dồi dào phong phú và đa dạng đã thu hút nhiều khách đến thăm con người và đất nước Việt Nam. Nhận thức được thế mạnh và vị trí của du lịch trong giai đoạn hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã và đang dành cho du lịch một vị trí xứng đáng, coi phát triển du lịch là một định hướng chiến lược quan trọng trong đường lối phát triển kinh tế xã hội nhắm góp phần CNH- HĐH đất nước.
Nghị quyết Trung ương IX xem “hoạt động du lịch là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn”. Ngày 22/7/2002.Thủ tướng chính phủ đã ký quyết định số 97/2002/QĐ-TTg phê duyệt chiến lược phát triển du lịch Việt Nam 2001-2010 với mục tiêu “phát triển du lịch thành một ngành kinh tế mũi nhọn trên cơ sở khai thác có hiệu quả lợi thế về điều kiện tự nhiên, sinh thái, truyền thống văn hoá lịch sử, huy động tối đa nguồn lực trong nước và tranh thủ sự hợp tác, hỗ trợ quốc tế, góp phần thực hiện CNH- HĐH đất nước, từng bước đưa nước ta trở thành một trung tâm du lịch có tầm cỡ khu vực, phấn đấu năm 2010 du lịch Việt Nam được xếp vào nhóm quốc gia có ngành du lịch phát triển”. Khi hoạt động du lịch phát triển sẽ kéo theo sự tăng trưởng của các ngành kinh tế khác như vận tải, khách sạn, nhà hàng, bưu điện, các dịch vụ du lịch khác...
Trong những năm qua, được Đảng và Nhà nước quan tâm, các ngành các cấp phối hợp, giúp đỡ hoạt động du lịch Việt Nam đã có nhiều khởi sắc, đạt được nhiều kết quả tiến bộ. Về số lượng khách, doanh thu du lịch, thu nhập xã hội về du lịch, giá trị sản xuất... thực tế cho thấy, từ năm 1991 đến năm 2002 lượng khách du lịch quốc tế tăng từ 300 nghìn lượt lên 2,63 triệu lượt người, khách nội địa tăng từ hơn 1,5 triệu lượt người lên gần 12 triệu lượt người, tăng khoảng 8 lần, thu nhập xã hội từ du lịch tăng nhanh, năm 2002 đạt 23500 tỷ đồng. Doanh thu du lịch bình quân hàng năm tăng khoảng 9%. Đây là các chỉ tiêu quan trọng phản ánh khối lượng kinh doanh và chất lượng phục vụ trong lĩnh vực du lịch, được dùng để đánh giá hoạt động du lịch ở Việt Nam. Vì vậy để nghiên cứu sâu hoạt động du lịch ở Việt Nam cần thiết phân tích, đánh giá về khối lượng hoạt động kinh doanh du lịch và chất lượng phục vụ của các đơn vị kinh doanh du lịch thông qua các chỉ tiêu và phương pháp thích hợp.
Xuất phát từ những vấn đề trên, trong thời gian thực tập ở Tổng cục Du lịch Việt Nam, tôi đi sâu nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu thống kê kết quả hoạt động du lịch ở Việt Nam giai đoạn 1995 – 2002 và dự đoán đến năm 2005”.
Dưới góc độ nghiên cứu thống kê, trong phạm vi bài viết này nhằm hai mục đích:
Thứ nhất: về phương pháp luận, hệ thống hoá phương pháp thống kê nghiên cứu kết quả hoạt động du lịch.
Thứ hai: về mặt thực tiễn, nhằm vận dụng phương pháp thống kê phân tích và dự đoán kết quả hoạt động du lịch ở Việt Nam giai đoạn 1995-2002.
Về phương pháp nghiên cứu, tiến hành nghiên cứu lý luận chung về du lịch, ngành du lịch, nêu được hệ thống chỉ tiêu thống kê kết quả hoạt động du lịch đồng thời đưa ra một số phương pháp thống kê nghiên cứu kết quả hoạt động du lịch. Từ đó vận dụng để phân tích và đánh giá kết quả hoạt động du lịch ở Việt Nam, làm cơ sở để đưa ra, đề xuất, kiến nghị đối với việc hoàn thiện công tác thống kê kết quả hoạt động du lịch ở Việt Nam đồng thời đề xuất giải pháp định hướng phát triển du lịch ở Việt Nam.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài này đề cập đến ba nội dung chính sau đây:
ChươngI: Những vấn đề lý luận chung về kết quả hoạt động du lịch và hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu kết quả hoạt động du lịch.
Chương II: Một số phương pháp thống kê phân tích và dự đoán kết quả hoạt động du lịch.
Chương III: Vận dụng một số phương pháp thống kê phân tích và dự đoán kết quả hoạt động du lịch ở Việt Nam thời kỳ 1995-2002.
Trong phạm vi bài viết này đã trình bày được một số nội dung chủ yếu phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài, tuy nhiên còn một số vấn đề tôi chưa có điều kiện nghiên cứu sâu hơn.Vì vậy bài viết sẽ không thể tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được ý kiến phê bình, đóng góp, bổ sung của các thầy cô, bạn đọc cho bài viết để bài viết có thể hoàn thiện hơn.
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG DU LỊCH VÀ HỆ THỐNG CHỈ TIÊU THỐNG KÊ NGHIÊN CỨU KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG DU LỊCH
I. KHÁI NIỆM VỀ DU LỊCH VÀ NGÀNH DU LỊCH
1. Khái niệm và phân loại về du lịch
Ngày nay, du lịch đã trở thành một hiện tượng kinh tế xã hội phổ biến không chỉ ở các nước phát triển mà còn ở cả các nước đang phát triển. Trong đó có Việt Nam. Hoạt động du lịch liên quan trực tiếp đến cuộc sống con người, nó đáp ứng được các nhu cầu của cong người, của xã hội. Tuy nhiên, cho đến nay nhận thức về du lịch vẫn chưa thống nhất. Hiện nay, có rất nhiều tác giả nghiên cứu về du lịch do đó có rất nhiều khái niệm về du lịch, trong các khái niệm này có những điểm khác biệt do các cách tiếp cận khác nhau. Tuy nhiên, nhìn chung có một số cách tiếp cận phổ biến nhất về du lịch như sau:
*Một là, coi du lịch là một hiện tượng xã hội.Với cách tiếp cận này, du lịch được hiểu là:
Theo Ausher: du lịch là nghệ thuật đi chơi của các cá nhân.
Theo Nguyễn Khắc Viện: du lịch lịch là mở rộng không gian văn hoá con người, nghĩa là đi chơi cho biết xứ người.
Theo Glusman: “ du lịch là sự khắc phục về mặt không gian văn hoá của con người hướng tới một điểm nhất định nhưng không phải là nơi ở thường xuyên của họ”.
Theo Guer Freuler: “du lịch là một hiện tượng của thời đại, dựa trên sự tăng trưởng về nhu cầu khôi phục sức khoẻ và sự đổi thay của môi trường xung quanh, dựa vào sự phát sinh, phát triển tình cảm đối với vẻ đẹp thiên nhiên”.
*Hai là, coi du lịch là quá trình hoạt động của con người trong xã hội. Theo cách tiếp cận này có một số khái niệm như sau:
Theo Phó tiến sĩ Trần Nhạn: “du lịch là quá trình hoạt động của con người rời khỏi quê hương đến một nơi khác với mục đích là được thẩm nhận những giá trị vật chất và tinh thần đặc sắc, độc đáo, khác lạ với quê hương không nhằm mục đích sinh lời được tính bằng đồng tiền”.
Theo Hunziker và Kraf: “du lịch là tổng hợp các mối quan hệ và hiện tượng bắt nguồn từ cuộc hành trình và lưu trú tạm thời cuả các cá nhân tại những nơi không phải là nơi ở và nơi làm việc thường xuyên của họ”.
*Ba là, coi du lịch là một ngành kinh tế. Theo cách tiếp cận này có các khái niệm sau:
Theo nhà kinh tế học Kalfiotis: “du lịch là sự di chuyển tạm thời của các cá nhân hay tập thể từ nơi ở đến một nơi khác nhằm thoả mãn nhu cầu tinh thần, đạo đức do đó tạo nên các mối quan hệ kinh tế ”.
Năm 1963, Hội nghị Liên hợp Quốc cho rằng: “du lịch là tổng hợp các mối quan hệ, hiện tượng và các hoạt động kinh tế bắt nguồn từ cuộc hành trình và lưu trú của các cá nhân hay tập thể ở bên ngoài nơi ở thường xuyên của họ hay ngoài nước họ với mục đích hoà bình”.
Còn các học giả Việt Nam cho rằng du lịch phải được hiểu theo hai nghĩa:
Nghĩa thứ nhất: “du lịch là một đợt nghỉ dương sức tham quan tích cực của con người ngoài nơi cư trú với mục đích nghỉ ngơi, giải trí xem danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, công trình văn hoá, nghệ thuật, …
Nghĩa thứ hai: “du lịch là một ngành kinh doanh tổng hợp có hiệu quả cao về nhiều mặt: nâng cao hiểu biết về thiên nhiên, truyền thống lịch sử văn hoá dân tộc, từ đó góp phần làm tăng thêm tình yêu đất nước, đối với người nước ngoài là tình hữu nghị đối với dân tộc mình, về mặt kinh tế du lịch có thể coi là hình thức xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ tại chỗ”.
Tuy nhiên, dưới góc độ nghiên cứu thống kê, du lịch cần được hiểu theo nghĩa đầy đủ nhất nhằm phục vụ cho quá trình thống kê du lịch. Vì vậy, Hội nghị quốc tế về thống kê du lịch ở Ottawa – Canada ngày 24-28/6/1991 đã thống nhất khái niệm về du lịch như sau:
“Du lịch là các hoạt động của con người đi tới một môi trường thường xuyên trong một khoảng thời gian ít hơn khoảng thời gian đã được các tổ chức du lịch quy định trước, mục đích của chuyến đi không phải để tiến hành các hoạt động kiếm tiền trong phạm vi của vùng tới thăm”.
Khái niệm trên là cơ sở định tính và lượng hoá trong việc thống kê du lịch nói chung và thống kê kết quả hoạt động du lịch nói riêng.
Mặt khác, khái niệm này được áp dụng cho mọi phạm vi nghiên cứu. Nó cho biết du lịch bao gồm cả các chuyến đi ra khỏi môi trường thường xuyên của con người trong một ngày không nghỉ qua đêm hoặc nhiều ngày đêm nhưng ít hơn 12 tháng.
Qua khái niệm có thể thấy hoạt động du lịch bao gồm ba nội dung sau:
* Về mặt không gian:
Du lịch bao gồm các chuyến đi của con người ra khỏi môi trường thường xuyên của mình. Môi trường thường xuyên được hiểu là phạm vi không gian của nơi cư trú hoặc những chuyến đi có tính chất thường xuyên như: đi làm việc ở cơ quan, đi chợ hàng ngày, …
* Về mặt thời gian:
Được tính vào hoạt động du lịch khi về mặt thời gian không quá dài vượt ra phạm vi được qui định. Thời gian này ít nhất là một ngày đêm, nhiều nhất không quá 6 tháng nếu đi du lịch trong nước và không quá một năm nếu đi du lịch nước ngoài. Tuy nhiên việc quy định thời gian là khó khăn, mỗi nước có một cách quy định khác nhau.
* Về mục đích chuyến đi:
Đi du lịch “không nhằm mục đích kiếm tiền tại địa phương đến thăm”, có nghĩa tại đó họ tiêu dùng sản phẩm du lịch để thỏa mãn nhu cầu ngắm cảnh, nghỉ ngơi, giải trí,… thì được gọi là khách du lịch. Những trường hợp di cư để làm việc tạm thờitại địa phương đến sẽ không được coi là đi du lịch và khi đó, mục đích của họ là để kiếm tiền.
Từ khái niệm ta thấy, khách du lịch bao gồm cả khách tham quan trong ngày không ngủ qua đêm miễn là mục đích của chuyến đi không phải để kiếm tiền ở nơi đến và khách nghỉ qua đêm với các mục đích khác.
Như vậy, những chuyến đi không được thống kê là khách du lịch bao gồm:
* Những người đi lại trong môi trường thường xuyên của mình.
- Người đi làm việc hàng ngày bằng vé ôtô tháng.
- Người lao động sống ở các vùng biên giới hàng ngày phải qua biên giới làm việc.
- Người đi lại nơi cư trú thường xuyên của mình. Chẳng hạn những người ở một nơi nhưng lại làm việc một nơi khác, phải đi lại hàng ngày, hàng tháng, …
* Những người di cư với mục đích thay đổi nơi cư trú: di cư trong thời gian dài, chuyển đến nơi ở khác…
* Những người không có nơi cư trú cố định: những người dân du mục, những người dân lang thang không có nơi cư trú, những người tị nạn, sơ tán…
* Những người đi với mục đích kiếm tiền: di cư trong thời gian ngắn, những người đi làm theo thời vụ, các giảng viên đi giảng bài ở nơi khác, hoạ sĩ đi thực tế để vẽ…
* Những người đi lại khác: những hành khách quá cảnh, lực lượng vũ trang đi hành quân, đại diện các cơ quan tư vấn đi làm nhiệm vụ…
Nhưng trong thực tế, các đối tượng nêu trên nếu có tiêu dùng sản phẩm của ngành du lịch thì vẫn được tính vào khách du lịch. Vì vậy, quy định nói trên vẫn mang tính chất tương đối.
Nền kinh tế càng phát triển, đời sống dân cư càng được nâng cao thì nhu cầu của khách du lịch ngày càng đa dạng và phát triển không ngừng. Du lịch của khách có rất nhiều mục đích khác nhau, vì vậy việc phân loại khách du lịch là hết sức quan trọng và cần thiết. Hoạt động du lịch có thể được phân chia thành các nhóm khác nhau tuỳ thuộc vào mục đích, quan điểm khác nhau. Một số cách tiếp cận phổ biến bao gồm:
* Căn cứ theo môi trường tài nguyên: Gồm du lịch văn hoá và du lịch thiên nhiên.
Du lịch văn hoá là du lịch diễn ra chủ yếu trong môi trường nhân văn. Tài nguyên du lịch nhân văn bao gồm: các di tích lịch sử, các công trình đương đại lễ hội, phong tục tập quán, viện bảo tàng, …
Du lịch thiên nhiên là loại hình du lịch đưa du khách về những nơi có điều kiện, môi trường tự nhiên trong lành, cảnh quan tự nhiên hấp dẫn… nhằm thoả mãn nhu cầu đặc trưng của họ.
* Căn cứ vào mục đích chuyến đi, gồm hai loại: du lịch thuần tuý và du lịch kết hợp.
Du lịch thuần tuý là loại hình hoạt động du lịch nhằm nghỉ ngơi, giải trí, tham quan nhận thức tại chỗ về thế giới xung quanh. Du lịch thuần tuý bao gồm: Du lịch tham quan, du lịch giải trí, du lịch nghỉ dưỡng, du lịch khám phá, du lịch thể thao, du lịch lễ hội
Du lịch kết hợp là loại hình hoạt động du lịch thuần tuý kết hợp với các mục đích khác như học tập, công tác, nghỉ ngơi, tôn giáo, nghiên cứu… bao gồm: du lịch kết hợp mục đích tôn giáo, du lịch kết hợp học tập, nghiên cứu, du lịch kết hợp, du lịch kết hợp hội nghị, du lịch kết hợp thể thao, du lịch kết hợp chữa bệnh, du lịch kết hợp thăm thân, du lịch kết hợp với mục đích kinh doanh.
* Căn cứ vào lãnh thổ hoạt động gồm ba loại: du lịch quốc tế, du lịch nội địa và du lịch quốc gia.
Du lịch quốc tế gồm du lịch quốc tế đến và du lịch ra nước ngoài.
Du lịch quốc tế đến là chuyến đi của người nước ngoài đến tham quan du lịch, còn du lịch ra nước ngoài là chuyến đi của người trong nước đến tham quan du lịch ở nước ngoài. Du lịch quốc tế làm biến đổi cán cân thu chi của quốc gia tham gia hoạt động du lịch quốc tế.
Ở Việt Nam, du lịch quốc tế được chia thành du lịch đón khách và du lịch gửi khách.
Du lịch đón khách là loại hình du lịch quốc tế phục vụ đón tiếp khách nước ngoài đi du lịch, nghỉ ngơi, tham quan các đối tượng du lịch trong đất nước.
Du lịch gửi khách là loại hình du lịch quốc tế phục vụ và tổ chức đưa khách trong nước đi du lịch ở nước ngoài.
Du lịch nội địa: là hoạt động tổ chức, phục vụ người trong nước đi du lịch, nghỉ ngơi và tham quan các đối tượng du lịch trong lãnh thổ quốc gia, về cơ bản không có giao dịch thanh toán bằng ngoại tệ.
Du lịch quốc gia: là hoạt động du lịch của một quốc gia, từ việc gởi khách ra nước ngoài đến việc phục vụ khách trong và ngoài nước tham quan, du lịch trong phạm vi nước mình.
* Căn cứ vào đặc điểm địa lý của điểm du lịch bao gồm: du lịch miền biển du lịch núi, du lịch đô thị, du lịch thôn quê.
* Căn cứ vào phương tiện đến bao gồm:
- Du lịch xe đạp: loại hình này rất được ưa chuộng ở Châu Âu đặc biệt là ở Hà lan, Đan Mạch. Phương tiện này làm cho du khách dễ dàng tiếp cận được cuộc sống dân cư ở nước đến. Ở Việt Nam, trong những năm gần đây đã có tổ chức một số chuyến đi du lịch vòng quanh đất nước bằng xe đạp.
- Du lịch ôtô: hiện nay có tới 80% người Châu Âu đi du lịch bằng ôtô, loại phương tiện này nhà cung ứng được chủ động hơn,
- Du lịch bằng tàu hoả: phương tiện này rất thuận lợi, nhanh chóng, an toàn và giá cả thấp, do đó hình thức du lịch này cũng khá phổ biến song kém linh động.
- Du lịch bằng tàu thuỷ: hiện nay, nhờ tiến bộ của khoa học công nghệ, nhiều tàu du lịch ra đời với đầy đủ tiện nghi như phòng ăn, phòng ngủ, bar, phòng khiêu vũ, hoà nhạc, sân thể thao … Loại hình này đang là thời thượng.
- Du lịch máy bay: đây là phương tiện ưa dùng nhất trong du lịch vì nó cho phép du khách đi đến nhiều nơi xa xôi trong thời gian nhất định. Song chủ yếu là với khách quốc tế.
Bảng 1.1: Cơ cấu du khách quốc tế đến Việt Nam theo phương tiện (Đơn vị: %)
Phương tiện
1993
1994
1995
1996
1997
Đường không
89,8
92,4
98,3
58,5
60,3
Đường bộ
5,0
4,6
9,1
31,5
32,1
Đường thuỷ
5,2
3,0
1,6
10,0
7,6
Nguồn: Bộ Công An, Tổng cục Du lịch Việt Nam
* Căn cứ vào loại hình lưu trú:
Lưu trú là một trong những nhu cầu chính của du khách trong chuyến đi du lịch. Bao gồm:
- Khách sạn: là cơ sở lưu trú có đầy đủ tiện nghi phục vụ việc ăn, ngủ, vui chơi giải trí …
Ở Việt Nam, khách sạn đước xếp hạng từ một đến năm sao, đây là hình thức xếp hạng phổ biến nhất.
- Motel: là một dạng cơ sở lưu trú được xây dựng gần đường giao thông - Nhà trọ thanh niên: là dạng cơ sở lưu trú phục vụ chủ yếu cho sinh viên, thanh niên và những người không có khả năng thanh toán cao.
- Camping.
- Bungalow: là một dạng nhà trọ làm bằng gỗ hay bằng các vật liệu nhẹ, thường xuất hiện ở các vùng ven biển hay vùng núi.
Làng du lịch: là một quần thể biệt thự tạo ra một không gian du lịch cho phép du khách vừa có điều kiện giao tiếp vừa có không gian biệt lập khi họ muốn.
* Căn cứ vào lứa tuổi du khách, bao gồm: du lịch thiếu niên, du lịch thanh niên, du lịch trung niên, du lịch người cao tuổi
* Căn cứ vào độ dài chuyến đi gồm: du lịch ngắn ngày và du lịch dài ngày. Song du lịch ngắn ngày thường chiếm tỉ lệ cao hơn so với du lịch dài ngày.
* Căn cứ vào hình thức tổ chức: du lịch tập thể, du lịch cá thể, du lịch gia đình
* Căn cứ vào phương thức hợp đồng gồm: du lịch trọn gói, du lịch thành phần.
2. Khái niệm và đặc điểm ngành du lịch
2.1. Khái niệm về kinh doanh du lịch
Kinh doanh du lịch là quá trình tổ chức lưu thông, mua, bán hàng hoá du lịch trên thị trường nhằm đảm bảo hiệu quả về mặt kinh tế và xã hội. Kinh doanh du lịch, cũng như các loại hình kinh doanh khác, nó diễn ra theo một chu trình như sau:
- Tiếp thị- tổ chức sản xuất hàng hoá du lịch.
- Tiếp thị- ký kết các hợp đồng du lịch
- Tổ chức thực hiện hợp đồng
- Thanh quyết toán hợp đồng và rút kinh nghiệm
Các hoạt động kinh doanh này diễn ra ở nhiều hình thức kinh doanh khác nhau, về cơ bản có 4 loại hình chủ yếu sau:
- Kinh doanh lữ hành
- Kinh doanh khách sạn du lịch
- Kinh doanh vận chuyển du lịch
- Kinh doanh các dịch vụ khác
* Về kinh doanh lữ hành:
Kinh doanh lữ hành là ngành kinh doanh các chương trình du lịch, là hoạt động đặc trưng trong kinh doanh du lịch bao gồm sản xuất, đại lý, môi giới, nhằm cung ứng một cách thuận lợi các sản phẩm dịch vụ du lịch.
Hiện nay, loại hình này rất phát triển trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Ở nước ta hiện nay có gần 80 hãng lữ hành quốc tế.
Kinh doanh du lịch lữ hành được tổ chức thành các hãng lữ hành bao gồm: hãng lữ hành quốc tế, hãng lữ hành nội địa và đại lý lữ hành.
- Hãng lữ hành quốc tế bao gồm lữ hành quốc tế chủ động, kinh doanh các chương trình du lịch đón khách và lữ hành quốc tế bị động, kinh doanh các chương trình gửi khách ra nước ngoài.
- Hãng lữ hành nội địa là kinh doanh các chương trình đưa khách du lịch trong nước đi du lịch ở các vùng thuộc lãnh thổ nước đó.
- Đại lý lữ hành là những hãng kinh doanh thực hiện một hoặc nhiều công đoạn do các hãng du lịch quốc tế hay du lịch nội địa uỷ thác.
Ngành kinh doanh lữ hành có vai trò quyết định đối với sự phát triển du lịch thế giới. Thực tế cho thấy trên 80% khách du lịch sử dụng dịch vụ của ngành du lịch lữ hành. Kinh doanh du lịch lữ hành phát triển sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển của các loại hình kinh doanh du lịch khác.
* Về kinh doanh khách sạn-du lịch.
Nếu xét trong tổng thể kinh doanh du lịch, kinh doanh khách sạn là công đoạn phục vụ khách du lịch để họ hoàn thành chương trình du lịch đã chọn, bao gồm các dịch vụ cho khách thuê phòng, bán hàng ăn uống, hàng lưu niêm, các hàng hoá khác, các dịch vụ phục vụ vui chơi giải trí, dịch vụ phục vụ sinh hoạt các nhân…
Sản phẩm của hoạt động du lịch khách sạn là sản phẩm dịch vụ trực tiếp phục vụ người tiêu dùng hay xuất khẩu trực tiếp. Tuy nhiên, ngành này mang tính độc lập tương đối.
Hiện nay, kinh doanh khách sạn du lịch rất đa dạng, bao gồm: Hotel, Motel, Camping, biệt thự, toa xe lửa có giường nằm (Rotel), toa xe có giường do ôtô kéo (Caravan), tàu du lịch trên sông, trên biển được thiết kế phòng ăn, phòng ngủ như khách sạn. Tất cả các khách sạn đều được phân hạng, cấp quốc tế từ một đến năm sao, tuỳ thuộc vào từng đặc điểm khách sạn.
Kinh doanh khách sạn có hai chức năng chính là kinh doanh lưu trú và kinh doanh ăn uống, ngoài ra còn có dịch vụ bổ sung. Trong đó:
- Kinh doanh lưu trú bao gồm kinh doanh các loại buồng ngủ, nghỉ… loại này thường chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng doanh thu khách sạn. Thực tế cho thấy, du khách thường chi cho lưu trú trong tổng chi tiêu cho du lịch là: Trung Quốc 22,5%, Austraylia 46%; Indonesia 30,8%.
- Kinh doanh ăn uống là kinh doanh các mặt hàng ăn uống và chủ yếu phục vụ cho khách lưu trú theo tuyến khép kín. Kinh doanh ăn uống đóng vai trò quan trọng trong tổng doanh thu của khách sạn, đây là phương thức xuất khẩu tại chỗ tối ưu. Thực tế cho thấy, đối với khách quốc tế, phương thức này mang lại hiệu quả gấp 10 lần so với xuất khẩu ngoại thương. Ở một số nước, chi cho ăn uống của khách chiếm trong tổng chi tiêu là: Trung Quốc 9,5%; Hồng Kông 10,98%; Indonesia: 17,4%; Thái Lan 15,1%.
- Kinh doanh các dịch vụ bổ sung bao gồm: dịch vụ giặt là quần áo, sửa chữa giày dép, đồng hồ …; dịch vụ mua vé xem phim, đặt vé máy bay, đặt chỗ khách sạn, dịch vụ vui chơi giải trí, biểu diễn ca nhạc …; dịch vụ trông coi các phương tiện, cho thuê xe đạp, xe máy, ôtô, bán hàng lưu niệm, chữa bệnh… Loại hình kinh doanh này rất khó thống kê đầy đủ do luôn thay đổi theo nhu cầu của khách.
Tuy nhiên, hiện nay kinh doanh khách sạn trên thế giới diễn ra theo ba xu hướng rõ rệt, đó là: tập trung, mini hoá và tăng văn minh khách sạn.
* Về kinh doanh vận chuyển khách du lịch.
Kinh doanh vận chuyển khách du lịch là loại hinh kinh doanh bao gồm vận chuyển bằng máy bay, tàu hoả, tàu thuỷ, ôtô, xe đạp, cáp vận chuyển … và các phương tiện vận chuyển thông tin theo nhu cầu của khách như điện thoại, fax, …
Loại hình kinh doanh này đòi hỏi phải đáp ứng các nhu cầu đa dạng của khách và đạt hiệu quả cao.
* Về kinh doanh các dịch vụ khác.
Đây là loại hình kinh doanh thông tin trong du lịch bao gồm nhiều dạng khác nhau: dịch vụ môi giới, tìm địa chỉ, thông tin về giá cả, tư vấn về pháp lý, thông tin nguồn khách, tổ chức tuyên truyền quảng cáo, xúc tiến hội chự du lịch, …
Tuy nhiên, để kinh doanh thông tin đòi hỏi các doanh nghiệp du lịch phải có nguồn dự trữ thông tin, xử lý chọn các thông tin đáng tin cậy, trừ các thông tin thuộc bí mật quốc gia không được cung cấp.
2.2. Đặc điểm ngành du lịch
Du lịch là một ngành kinh tế mang tính chất tổng hợp. Hoạt động của ngành du lịch vừa mang tính kinh tế vừa mang tính chất văn hoá xã hội. Vì vậy, hoạt động sản xuất cũng rất phong phú và đa dạng. Nó bao gồm nhiều hoạt động có tính chất kinh tế rất rõ rệt, đồng thời cũng có những hoạt động nhằm nâng cao hiệu quả đối với con người. Nhìn chung có ba hoạt động chính:
- Hoạt động sản xuất bao gồm chế biến các món ăn uống của các cửa hàng phục vụ ăn uống, hoặc sản xuất vật liệu phục vụ du lịch, sản xuất hàng du lịch, hàng thông thường, …
- Hoạt động thương nghiệp bao gồm các hoạt động mua bán các món hàng ăn, các hàng hoá khác đối với khách du lịch.
- Hoạt động dịch vụ bao gồm hoạt động lữ hành, dịch vụ lưu trú, hướng dẫn khách, vận chuyển hành khách, vui chơi giải trí và các dịch vụ bổ sung khác …
Ngành du lịch là một ngành kinh doanh đặc biệt, do đó nó có nhiều đặc điểm khác biệt với các ngành kinh doanh khác.
- Thứ nhất, du lịch là ngành phụ thuộc vào tài nguyên du lịch. Tài nguyên du lịch là cơ sở khách quan, là điều kiện ban đầu để phát triển ngành du lịch, bao gồm tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên nhân văn. Đó là những nơi, những khu vực do tạo hoá của thiên nhiên, cũng có thể là do bàn tay của con người xây dựng nên. Đó cũng là nơi kết tinh những giá trị nghệ thuật, thẩm mỹ, kiến trúc … làm cho du khách có thể đến và chiêm ngưỡng, hưởng thụ và được sống một cách thoải mái với những cảnh vật xung quanh mình. Hơn nữa, những kỳ quan, thắng cảnh đó còn được các nhà du khách ghi chép lại theo năm tháng. Đó mới là cái đáng trân trọng và ó giá trị to lớn của ngành du lịch. Tài nguyên du lịch càng phong phú và đa dạng thì càng hấp dẫn khách du lịch, càng thu hút được nhiều du khách đến tham quan.
- Thứ hai, du lịch là ngành kinh doanh tổng hợp phuc vụ nhu cầu tiêu dùng đa dạng chung và cao cấp của du khách. Mức sống dân cư không ngừng nâng cao, đời sống không ngừng cải thiện, nhu cầu con ngời ngày cang đa dạng theo hướng tiêu dùng ngày càng cao cấp. Vì vậy, nhu cầu du lịch cũng ngày càng đa dạng và nhiều dần và du lịch là ngành kinh doanh tổng hợp có thể đáp ứng được những nhu cầu đó, kể cả đối với du khách nội địa hay du khách ngoại quốc. Du lịch sẽ đáp ứng theo chương trình các nhu cầu khác nhau một cách hiệu quả nhất.
- Thứ ba, kinh doanh du lịch mang tính thời vụ cao. Thời vụ trong du lịch là một quy luật phổ biến, nó tồn tại ở tất cả các nước và các vùng có hoạt động du lịch. Tính thời vụ du lịch chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố, có nhân tố mang tính chất thiên nhiên, có nhân tố mang tính chất kinh tế-xã hội, có nhân tố mang tính tâm lý, … chẳng hạn như khí hậu, thời gian nhàn rỗi, quần chúng hoá, phong tục tập quán, điều kiện tài nguyên du lịch, sự sẵn sàng đón tiếp khách, … Thời gian mùa vụ chính là lúc ngành du lịch được mùa kinh doanh, vì thế thời gian này càng kéo dài càng tốt, nếu sử dụng tốt nguồn lực du lịch thì sẽ làm tăng chất lượng phục vụ du lịch, tăng thu nhập từ du lịch. Ngược lại tính thời vụ gây ra khá nhiều khó khăn trong việc tổ chức kinh doanh du lịch, cơ sở vật chất kỹ thuật, …. Thời vụ ngắn sẽ làm cho việc sử dụng tài nguyên, sử dụng cơ sở vật chất kỹ thuật không hết công suất, lãng phí tài nguyên, làm giảm khả năng áp dụng chính sách giá linh hoạt. Mặt khác, tính thời vụ làm hạn chế khả năng tìm chỗ nghỉ thích hợp hợp cho du khách tập trung quá đông tại một thời điểm nào đó trong một thời điểm nhất định, gây tắc nghẽn giao thông, do đó làm giảm chất lượng phục vụ khách du lịch.
Tính thời vụ trong du lịch không chỉ ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của bản thân ngành du lịch mà còn ảnh hưởng đến các ngành kinh tế và dịch vụ có liên quan.
-Thứ tư, hoạt động du lịch cần phải bảo đảm những nhu cầu về an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội cho du khách, cho địa phương đến nhận khách Du lịch không chỉ là ngành kinh tế mà còn là một ngành văn hoá xã hội. Vì vậy, ngoài kinh doanh, dịch vụ du lịch còn phải đảm bảo cho du khách được tiếp cận với những nét thuộc đặc trưng về văn hoá- xã hội riêng của nước mình, cho du khách tiếp cận với tinh hoa, bản sắc dân tộc của quốc gia, nhằm thu hút và gây ấn tượng ban đầu đối với du khách. Khách tham quan cũng rất đa dạng, với nhiều mục đích khác nhau, kể cả những mục đích không lành mạnh. Người dân ở nước đến bao gồm nhiều thành phần xã hội kể cả thành phần xã hội đen, có thể gây hại đến khách du lịch. Vì vậy để bảo đảm an toàn cho du khách, các cơ quan, tổ chức du lịch cần phối hợp với Đảng, Nhà nước có những biện pháp tạo môi trường lành mạnh đối với các hoạt động tham quan của du khách.
3. Vai trò của ngành du lịch đối với sự phát triển của nền kinh tế
Du lịch là hiện tượng của một xã hội có trình độ cao, là ngành dịch vụ mà sản phẩm của nó dựa trên sản phẩm có chất lượng cao của nhiều ngành kinh tế khác nhau. Tuy du lịch là một ngành có định hướng tài nguyên rõ rệt nhưng nó phụ thuộc nhiều vào sự phát triển của nền kinh tế. Nền kinh tế tác động trực tiếp và nhiều mặt đến hoạt động du lịch. Khi nền kinh tế phát triển thì người dân có cuộc sống ổn định, mức sống được cải thiện và nâng cao, thời gian nhàn rỗi của họ nhiều hơn, khi đó, nhu cầu cho việc vui chơi, giải trí, nghỉ ngơi, … càng cao. Mặt khác kinh tế phát triển sẽ tạo môi trường thuận lợi cho việc phục vụ nhu cầu đa dạng của khách, các ngành kinh tế phát triển sẽ thúc đẩy sự phát triển của ngành du lịch.
Nông nghiệp, công nghiệp chế biến thực phẩm đã cung cấp một khối lượng lớn lương thực và thực phẩm cho ngành du lịch. Bên cạnh đó, ngành xây dựng, giao thông vận tải cũng có vai trò quan trọng đối với ngành du lịch, đó là những ngôi nhà đẹp, những công trình kiến trúc kỳ công, … những tuyến đường giao thông tạo thuận lợi cho việc vận chuyển khách… Ngoài ra, thông tin liên lạc cũng ảnh hưởng sâu sắc đến du lịch. Các phương tiện truyền tin nhanh sẽ tạo điều kiện trong việc quảng bá du lịch một cách có hiệu quả, sẽ thông tin đến cho hàng triệu khách hàng trên thế giới,…
Ngược lại, du lịch cũng tác động trở lại đến sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Du lịch có vai trò lớn đối với nền kinh tế và đối với văn hoá xã hội, chính trị địa phương. Dưới góc độ kinh tế, du lịch là một ngành kinh doanh đạt hiệu quả cao, có vốn đầu tư lớn, … So với ngoại thương, du lịch cũng có nhiều ưu thế nổi trội, hoạt động du lịch làm biến đổi cán cân thu chi của khu vực và đất nước. Du khách quốc tế mang ngoại tệ vào đất nước, làm tăng ngoại tệ cho đất nước đến. Ngược lại, phần chi ngoại tệ tăng lên đối với quốc gia có người đi du lịch nước ngoài. Trong phạm vi của một quốc gia, hoạt động du lịch làm xáo động luân chuyển tiền tệ, hàng hoá. Cán cân thu chi này đối với các vùng có trình độ kinh tế khác nhau và có tác dụng điều hoà nguồn vốn từ vùng kinh tế phát triển sang vùng kinh tế kém phát triển, kích thích sự tăng trưởng các vùng sâu, vùng xa.
Một khu vực đã là điểm du lịch, thì ở đó phải có khối lượng vật tư, hàng hoá các loại… điều này đã kích thích được các ngành khác phát triển như nông nghiệp, công nghiệp chế biến, xây dựng, giao thông vận tải, …. Mặt khác, hàng hoá du lịch đòi hỏi chất lượng cao, đa dạng, phong phú và có tính hấp dẫn. Điều này có nghĩa hàng hoá phải được sản xuất với công nghệ cao, buộc các doanh nghiệp sản xuất này phải có các trang thiết bị hiện đại, công nhân có tay nghề cao, … nhằm tạo nhiều công ăn việc làm cho người lao động.
Mặt khác, du lịch quốc tế là một hình thức xuất khẩu tại chỗ rất nhiều mặt hàng khác ngoài chương trình du lịch, mà không cần nhiều lao động, chênh lệch giữa người tiêu dùng và người cung ứng không quá cao. Nhiều mặt hàng xuất khẩu tại chỗ đôi khi không cần thiết phải đóng góp và bảo quản phức tạp….
Như vậy, du lịch có tác dụng tích cực làm thay đổi bộ mặt kinh tế khu vực. Nhiều nước trên thế giới coi du lịch là cứu cánh để mong muốn vực dậy nền kinh tế ốm yếu của mình. Du lịch là ngành công nghiệp không có khói, là “ con gà đẻ trứng vàng”.
Du lịch không chỉ tác động đến kinh tế khu vực mà còn có ý nghĩa rất quan trọng trong lĩnh vực văn hoá, xã hội. Trên bình diện là ngành văn hoá-xã hội, du lịch mang lại hiệu quả về mặt xã hội đối với con người. Du lịch không chỉ tận hưởng vẻ đẹp thiên nhiên mà còn khám phá tài nguyên nhân văn. Điều đó có nghĩa du lịch nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của con người, nâng cao sự hiểu biết, mở mang quan hệ của các du khách,…. Tạo điều kiện bảo tồn di sản văn hoá dân tộc, giữ gìn bản sắc dân tộc quốc gia, tăng cường các mối quan hệ dân tộc, xã hội, tình hữu nghị và sự hiểu biết về con người với nhau giữa các quốc gia.
Như vậy, du lịch là một ngành kinh tế mang tính chất tổng hợp, có tác dụng góp phần tích cực thực hiện chính sách mở cửa, thúc đẩy sự đổi mới và phát triển nhiều ngành kinh tế, tạo công ăn vệic làm, mở rộng giao lưu văn hoá- xã hội giữa các vùng và giữa các quốc gia với nhau.
Thực tế cho thấy, trong mấy thập kỷ gần đây, du lịch ở nhiều nước rất phát triển. Số lượng tham gia vào các chuyến du lịch quốc tế ngày càng tăng: năm 1950 mới có 25,3 triệu lượt người đi du lịch thì đến năm 1996 đã có 592 triệu lượt người. Năm 1950, thu nhập ngoại tệ từ du lịch toàn thế giới mới là 2,1 tỷ USD thì năm 1996 là 423 tỷ USD, bằng 8% kim ngạch xuất khẩu toàn thế giới. Du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của nhiều nước. Hoạt động du lịch đã tạo ra 180 triệu chỗ làm việc, thu hút khoảng 11% lực lượng lao động toàn cầu.
Nhìn chung, nền kinh tế nước ta thường nhập siêu cao. Trong khi đó, hoạt động du lịch lại là hoạt động xuất khẩu tại chỗ (chỉ đứng sau ngành công nghiệp khai thác và trồng trọt) nên đã có đóng góp to lớn nhằm giảm mức nhập siêu cả nước. Bên cạnh du lịch quốc tế, du lịch trong nước cũng đóng vai trò quan trọng đối với nền kinh tế. Trong những năm gần đây, đời sống nhân dân được nâng cao, từ năm 1993 đến năm 1998 khách du lịch nội địa tăng từ 2,5 triệu lên 9,6 triệu lượt người.
Nhận thức được vai trò của ngành du lịch, nhiều nước đã chú trọng và có những chiến lược phát triển du lịch, coi là ngành kinh tế quan trọng đạt hiệu quả cao.
Ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước đã quan tâm đến sự phát triển ngành du lịch, xác định du lịch là ngành kinh tế tổng hợp, phát triển du lịch là phương hướng chiến lược quan trọng trong đường lối phát triển kinh tế, xã hội góp phần thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển. Hiện nay, ngành du lịch đã và đang phát huy vai trò đó trong nền kinh tế và đã có nhiều chuyển biến tích cực, đạt nhiều kết qủa khả quan về lượng khách đến, về doanh thu, về lợi nhuận, về kết quả sản xuất, về thu nhập xã hội từ du lịch, …
II. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG DU LỊCH.
1. Quan diểm về kết quả hoạt động du lịch.
Sản xuất là hoạt động của con người để tạo ra những sản phẩm hữu ích, sản phẩm vật chất và sản phẩm dịch vụ, nhằm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng cho xã hội cho sản xuất, cho đời sống, cho tích luỹ cho xuất khẩu. Song không phải mọi hoạt động nói trên đều được coi là sản xuất.
Kết quả của quá trình sản xuất xã hội là sản phẩm xã hội. Sản phẩm xã hội là toàn bộ sản phẩm vật chất và dịch vụ, hữu ích, trực tiếp do lao động sản xuất sáng tạo ra trong một thời kỳ nhất định. Kết quả của sản xuất bao gồm cả sản phẩm vật chất và sản phẩm dịch vụ.
Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là những sản phẩm mang lại lợi ích tiêu dùng xã hội được thể hiện là sản phẩm vật chất hoặc sản phẩm dịch vụ, mà những sản phẩm này phải phù hợp với lợi ích kinh tế và trình độ văn hoá của người tiêu dùng, phải được xã hội chấp nhận.
Đối với du lịch, hoạt động sản xuất kinh doanh du lịch tạo ra các sản phẩm dịch vụ đặc biệt như: kinh doanh dịch vụ lữ hành, kinh doanh dịch vụ khách san, dịch vụ ăn uống, dịch vụ vận tải hành khách và một số dịch vụ khác liên quan. Những sản phẩm này phải phù hợp với tiêu chuẩn quy định, phục vụ được mọi nhu cầu đa dạng của khách đi du lịch
Kết quả hoạt động du lịch được đánh giá qua các chỉ tiêu như: Số khách, số ngày khách, doanh thu, lợi nhuận, giá trị sản xuất, giá trị tăng thêm, thu nhập xã hội từ du lịch, số cơ sở lưu trú,…
Kết quả hoạt động du lịch bao gồm những nội dung sau:
Kết quả hoạt động du lịch phải do lao động sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực du lịch tạo ra có đủ tiêu chuẩn chất lượng mà Nhà nước quy định theo yêu cầu sử dụng và hưởng thụ.
Kết quả hoạt động du lịch đáp ứng được mọi yêu cầu tiêu dùng đa dạng của cá nhân, của cộng đồng có nhu cầu đi du lịch. Do đó sản phẩm của các doanh nghiệp kinh doanh du lịch tạo ra phải có giá trị sử dụng và giá trị hưởng thụ. Nếu sản phẩm dịch vụ này không được tiêu dùng thì sẽ không có giá trị, nếu tiêu dùng càng nhiều càng có giá trị. Song giá trị sử dụng của những sản phẩm này phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, phát triển khoa học kỹ thuật, nền văn minh xã hội…
Kết quả hoạt động du lịch đảm bảo lợi ích cho người tiêu dùng và doanh nghiệp. Do vậy chất lượng sản phẩm dịch vụ du lịch không vượt quá giới hạn lợi ích kinh tế của doanh nghiệp và người tiêu dùng. Lợi nhuận của doanh nghiệp thể hiện ở chi phí sản xuất không vượt quá giá bán các sản phẩm dịch vụ du lịch cho khách và lợi ích của người tiêu dùng thể hiện ở khả năng thanh toán khi mua hàng và mức tiết kiệm trong quá trình sử dụng sản phẩm.
Kết quả hoạt động du lịch mang lại lợi ích kinh tế chung cho tiêu dùng xã hội, được biểu hiện bằng kết quả tiếp nhận, tiết kiệm chi phí, tiền của, thời gian sử dụng sản phẩm và giảm thiệt hại cho môi trường xã hội.
2. Ý nghĩa, nhiệm vụ nghiên cứu thống kê kết quả hoạt động du lịch.
Nghiên cứu kết quả hoạt động du lịch là quá trình nghiên cứu, đánh giá toàn bộ quá trình hoạt động và kết quả của hoạt động đó, bao gồm toàn bộ kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp du lịch, các dịch vụ liên quan…Đó là toàn bộ kết quả sản xuất của các hoạt động như lữ hành, khách sạn, ăn uống, lưu trú, bán hàng hoá lưu niệm, dịch vụ vận chuyển khách, dịch vụ giải trí, nghỉ ngơi, dưỡng bệnh…
Thống kê kết quả hoạt động du lịch nhằm phản ánh được chất lượng của sản phẩm du lịch, chất lượng của hoạt động kinh doanh và các nguồn tiềm năng cần được khai thác, trên cơ sở đó để đề ra các phương án giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh du lịch.
Trong phạm vi một quốc gia, nghiên cứu kết quả hoạt động du lịch có ý nghĩa:
Kết quả hoạt động du lịch là cơ sở để phát hiện những khả năng tiềm tàng từ đó cho phép đưa ra phương hướng nhằm cải tiến cơ chế quản lý trong lĩnh vực du lịch.
Nghiên cứu kết quả hoạt động du lịch một quốc gia là cơ sở để đánh giá sự phát triển của toàn ngành trong từng giai đoạn phát triển, từ đó xác định được vị thế của ngành du lịch trong nền kinh tế quốc dân. Đó là tiền đề để các nhà quản lý trong lĩnh vực du lịch đưa ra các chính sách, các chiến lược phát triển ngành phù hợp.
Các chỉ tiêu kết quả hoạt động du lịch bao gồm:
- Chỉ tiêu về khách du lịch Là chỉ tiêu cơ bản cho phép đánh giá khối lượng hoạt động của từng đơn vị kinh doanh và toàn ngành trong từng thời kỳ nhất định. Bao gồm các chỉ tiêu như: Tổng số khách, số ngày khách, kết cấu khách,…Các chỉ tiêu này dùng để tính ra nhiều chỉ tiêu chất lượng và hiệu quả của hoạt động du lịch. Mặt khác, chỉ tiêu về khách là cơ sở để lập kế hoạch cho nhiều chỉ tiêu kết quả quan trọng khác.
- Chỉ tiêu về doanh thu du lịch: Không chỉ phản ánh khối lượng hoạt động mà còn phản ánh chất lượng phục vụ, sự thay đổi trình độ hiện đại của các sơ sở vật chất kỹ thuật và mức độ phục vụ. Đó là cơ sở để tính ra nhiều chỉ tiêu khác như cơ cấu doanh thu, …
- Chỉ tiêu giá trị sản xuất, lợi nhuận, giá trị tăng thêm, doanh thu xã hội từ du lịch…: Là các chỉ tiêu kết quả quan trọng chho phép đánh giá khối lượng kinh doanh đồng thời phản ánh hiệu quả hoạt động du lịch. Từ đó có thể lập kế hoạch và dự báo cho tương lai.
Thống kê kết quả hoạt động du lịch là một trong những nhiệm vụ rất quan trọng trong thống kê kinh tế nói chung và thống kê về du lịch nói riêng, bao gồm các nhiệm vụ sau:
- Xác định đúng kết quả hoạt động của các đơn vị kinh doanh du lịch và của toàn ngành qua các chỉ tiêu: Số lượng khách, số ngày lưu trú của khách, kết cấu khách, tổng doanh thu, kết cấu doanh thu, lợi nhuận, giá trị sản xuất, giá trị tăng thêm, thu nhập xã hội từ du lịch…nhưng tránh việc tính trùng các kết quả.
-Từ cơ sở số liệu thu thập được có thể lựa chọn các phương pháp thống kê vận dụng phân tích kết quả hoạt động du lịch bao gồm: phân tích theo thời gian, phân tích theo không gian, phân tích mối liên hệảnh hưởng của các yếu tố tác động đến biến động kết quả hoạt động du lịch.
- Đưa ra nhận xét, đánh giá xu hướng của sự biến động đồng thời dự báo kết quả trong tương lai. Từ đó đưa ra các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh đối với từng doanh nghiệp cũng như toàn ngành.
III. HỆ THỐNG CHỈ TIÊU THỐNG KÊ NGHIÊN CỨU KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG DU LỊCH.
1. Khái niệm hệ thống chỉ tiêu thống kê nghiên cứu kết quả hoạt động du lịch.
Hệ thống chỉ tiêu kết quả hoạt động du lịch là tập hợp các chỉ tiêu phản ánh các mặt, các tính chất quan trọng nhất, các mối liên hệ cơ bản giữa các mặt của kết quả sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực du lịch và mối liên hệ của nó với các đối tượng có liên quan.
Xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê kết quả hoạt động du lịch hoàn chỉnh có ý nghĩa trong việc lượng hoá các mặt, các biểu hiện quan trọng nhất, lượng hoá cơ cấu và các mối liên hệ cơ bản của hiện tượng. Đó là cơ sở để có thể nhận thức được bản chất và tính quy luật về sự phát triển của hoạt động du lịch. Bao gồm tính quy luật về sự phát triển của kết quả hoạt động du lịch, tính quy luật về mối liên hệ phụ thuộc giữa các nhân tố liên quan với kết quả hoạt động, tính quy luật về sự tác động mang tính chất thời vụ.
Hệ thống chỉ tiêu thống kê kết quả hoạt động du lịch bao gồm các chỉ tiêu: các chỉ tiêu về khách, các chỉ tiêu về doanh thu, chỉ tiêu lợi nhuận, chỉ tiêu giá trị sản xuất, chỉ tiêu giá trị tăng thêm, chỉ tiêu thu nhập xã hội từ du lịch.
2. Yêu cầu và nguyên tắc xây dựng hệ thống chỉ tiêu kết quả hoạt động du lịch.
Hệ thống chỉ tiêu thống kê kết quả hoạt động du lịch phải nêu lên được mối liên hệ giữa các mặt của hiện tượng du lịch và các hiện tượng kinh tế liên quan tuỳ theo phạm vi và mục đích nghiên cứu.
Du lịch là một ngành dịch vụ đặc biệt vì vậy việc xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê về kết quả phải đảm bảo yêu cầu mang tính chất chung đồng thời mang tính chất từng mặt của từng bộ phận, từng loại hình kinh doanh, từng loại hình du lịch và phải phản ánh được đầy đủ đặc điểm và bản chất của hiện tượng.
Các chỉ tiêu phải được tính toán theo phương pháp, phạm vi và nội dung nhất định.
Kết quả hoạt động du lịch của một đơn vị, một doanh nghiệp, một địa phương hay của một quốc gia đều có cách tính toán, cách thu thập số liệu, cách đánh gía khác nhau nhưng ở bất kỳ phạm vi nào thì việc xâu dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê phản ánh kết quả hoạt động du lịch cũng theo các nguyên tắc sau:
Thứ nhất, hệ thống chỉ tiêu thống kê kết quả hoạt động du lịch phải đảm bảo tính hướng đích có nghĩa các chỉ tiêu này phải đáp ứng được nhu cầu thông tin phục vụ cho việc đánh giá hiệu quả kinh doanh ở tầm vi mô và vĩ mô.
Thứ hai, hệ thống chỉ tiêu thống kê kết quả hoạt động du lịch phải đảm bảo tính hệ thống nghĩa là các chỉ tiêu phải nêu lên được mối liên hệ giữa các mặt của hiện tượng sao cho phù hợp với mục đích nghiên cứu. Các chỉ tiêu này vừa mang tính chất chung của tổng thể vừa mang tính chất bộ phận, phản ánh được đặc điểm phát triển của ngành.
Thứ ba, hệ thồng chỉ tiêu kết quả hoạt động du lịch phải đảm bảo tính khả thi nghĩa là ở từng doanh nghiệp, từng địa phương, từng quốc gia khi xây dựng hệ thống chỉ tiêu kết quả hoạt động du lịch trước hết phải căn cứ vào đặc điểm sản xuất của ngành ở đó và đặc điểm kinh tế chung ở từng phạm vi. Các chỉ tiêu này không được tính trùng hoặc tránh trường hợp xây dựng quá nhiều chỉ tiêu.
Thứ tư, hệ thống chỉ tiêu kết quả hoạt động du lịch phải đảm bảo tính hiệu quả nghĩa là hệ thống chỉ tiêu được xây dựng phải mang đầy đủ thông tin phản ánh được kết quả hoạt động du lịch. Những thông tin này phải đạt được tiêu chuẩn và chất lượng nhất định. Mặt khác khi xây dựng hệ thống chỉ tiêu cần phải căn cứ vào mục đích nghiên cứu, căn cứ vào nhu cầu thông tin quản lý vĩ mô. Tính hiệu quả ở đây được hiểu là hiệu quả về mặt lý luận cũng như hiệu quả về mặt thực tiễn.
3. Các chỉ tiêu thống kê kết quả hoạt động du lịch.
3.1. Nhóm chỉ tiêu khách du lịch.
Khách du lịch được nhận thức theo 3 tiêu chí sau:
- Về không gian: Khách du lịch phải là người đi khỏi nơi cư trú thường xuyên của họ.
- Về thời gian: Khách du lịch phải là người đi khỏi nơi cư trú thường xuyên từ 24 giờ trở lên.
- Về mục đích chuyến đi: Khách đi du lịch không vì mục đích kinh tế, không nhằm mục đích kiếm tiền nơi mà mình đến du lịch.
Việc phân biệt theo các điều kiện trên được cụ thể theo sơ đồ sau (trang bên).
Các chỉ tiêu thống kê khách du lịch được xây dựng trên cơ sở: phân biệt giữa khách du lịch quốc tế và khách du lịch trong nước. Khách du lịch quốc tế là một khách đi du lịch tới một đất nước không phải là đất nước mà họ cư trú thường xuyên trong khoảng thời gian ít nhất là một ngày đêm nhưng không vượt quá một năm và mục đích chính của chuyến đi không phải là để thực hiện việc kiếm tiền từ đất nước đến thăm. Khách du lịch trong nước là một khách cư trú ở một đất nước đi du lịch tới một địa phuơng trong phạm vi lãnh thổ của đất nước đó nhưng ngoài môi trường thường xuyên của họ trong thời gian ít nhất là một ngày đêm nhưng không quá 6 tháng và mục đích chính của chuyến đi không phải để thực hiện hoạt động kiếm tiền từ địa phương đến thăm.
Phân biệt khách thăm quan và du khách. Khách thăm quan là một loại khách đến với mục đích nâng cao nhận thức tại chỗ có kèm theo việc tiêu thụ những giá trị tinh thần, vật chất, dịch vụ nhưng không lưu lại qua đêm tại một cơ sở lưu trú của ngành du lịch. Còn du khách là người khách cũng với mục đích thẩm nhận tại chỗ những giá trị tinh thần, vật chất, dịch vụ nhưng có lưu lại qua đêm tại một cơ sở lưu trú và có sử dụng các sản phẩm dịch vụ khác của các doanh nghiệp như lữ hành, khách sạn, ăn uống…
Chỉ tiêu về khách du lịch là chỉ tiêu cơ bản để đánh giá khối lượng hoạt động của từng đơn vị cũng như của toàn ngành bao gồm các nhóm chỉ tiêu sau: nhóm chỉ tiêu phản ánh quy mô khách du lịch, nhóm chỉ tiêu nghiên cứu cơ cấu khách du lịch, nhóm chỉ tiêu phản ánh đặc trưng tiêu dùng của khách.
3.1.1. Nhóm chỉ tiêu phản ánh quy mô khách du lịch.
* Chỉ tiêu số khách du lịch
Số khách du lịch là tổng số lượt người đến và tiêu dùng các sản phẩm dịch vụ du lịch trong kỳ nghiên cứu.
Đơn vị tính: Lượt người (lượt khách)
- Đối với từng đơn vị kinh doanh du lịch: số khách du lịch quốc tế là số lượt khách mà đơn vị phục vụ trong kỳ nghiên cứu.
- Đối với toàn ngành: Số khách du lịch quốc tế là tổng số khách được thu thập ở các cửa khẩu, đường hàng không, đường bộ, đường biển.
Còn số khách du lịch trong nước được thu thập theo 2 cách như sau:
+ Theo thống kê kinh nghiệm: Số khách du lịch trong nước là tổng số khách của các đơn vị kinh doanh nhân hệ số điều chỉnh quy định trước.
+ Qua điều tra: Điều tra từng hộ gia đình hoặc điều tra chọn mẫu.
Ngoài ra tổng số khách du lịch bao gồm số khách của 3 bộ phận:
Số lượng khách du lịch quốc tế
Số lượng khách du lịch trong nước
Số lượng khách du lịch trong nước đi ra nước ngoài.
* Chỉ tiêu số ngày khách:
Số ngày khách là tổng số ngày khách được thu thập từ các báo cáo thống kê định kỳ của các tổ chức kinh doanh du lịch
Đơn vị tính: ngày khách (ngày người)
- Đối với từng đơn vị kinh doanh: tổng số ngày khách bằng tổng số khách cộng dồn trong kỳ nghiên cứu.
- Đối với toàn ngành: tổng số ngày khách bằng tổng số khách cộng dồn của các đơn vị kinh doanh du lịch trong kỳ nghiên cứu.
Chỉ tiêu về số ngày khách phản ánh cụ thể hơn về quy mô khách du lịch so với chỉ tiêu số khách.
3.1.2. Nhóm chỉ tiêu thống kê nghiên cứu kết cấu khách du lịch.
* Kết cấu theo nguồn khách.
Khách du lịch quốc tế phân theo khu vực và quốc tịch.
Khách du lịch trong nước chia theo vùng và địa phương
* Kết cấu theo mục đích chuyến đi.
Nhóm khách vui chơi giải trí, du lịch
Nhóm khách du lịch kết hợp với công việc.
Nhóm khách với mục đích thăm thân và bạn bè.
Nhóm khách với mục đích khác.
* Kết cấu theo phương tiện đến.
Khách đến bằng đường không
Khách đến bằng đường bộ
Khách đến bằng đường biển
* Kết cấu theo thời gian lưu trú.
* Kết cấu theo độ tuổi
*Kết cấu theo nghề nghiệp
*Kết cấu theo đặc tính tinh thần của khách.
* Kết cấu theo phương thức hợp đồng
Khách đi trọn gói
Khách đi từng phần
* Kết cấu theo loại hình lưu trú.
Khách đến ở khách sạn
Khách đến ở Motel
Khách đến ở nhà nghỉ
Khách đến ở nhà trọ
Khách ở bằng Campping…
* Kết cấu theo tháng, theo quý, theo năm.
3.1.3. Nhóm chỉ tiêu phản ánh đặc trưng tiêu dùng của khách.
Thu nhập bình quân của khách
Chi tiêu bình quân của khách cho du lịch
Cơ cấu tiêu dùng của khách
Số ngày lưu trú bình quân của khách
3.2. Nhóm chỉ tiêu thống kê doanh thu du lịch.
Doanh thu du lịch là toàn bộ số tiền thu được từ khách du lịch trong kỳ nghiên cứu do hoạt động phục vụ các loại bao gồm các chi phí của khách về du lịch, doanh thu bán hàng hoá (trừ chi phí cho vận tải hành khách quốc tế)
Chỉ tiêu doanh thu du lịch cho phép phản ánh khối lượng hoạt động và chất lượng phục vụ của các doanh nghiệp kinh doanh du lịch
3.2.1. Chỉ tiêu tổng doanh thu du lịch.
Doanh thu lữ hành
Doanh thu khách sạn
Doanh thu vận chuyển khách
Doanh thu khác: doanh thu bán hàng, doanh thu dịch vụ vui chơi giải trí…
3.2.2. Nhóm chỉ tiêu thống kê nghiên cứu kết cấu doanh thu du lịch
* Theo từng loại khách
Doanh thu khách quốc tế
Doanh thu khách du lịch trong nước
Khách trong nước ra nước ngoài
* Theo loại hình sản phẩm du lịch
Doanh thu cho thuê phòng
Doanh thu lữ hành
Doanh thu bán hàng hoá
Doanh thu vận chuyển khách
Doanh thu bánông nghiệp hàng ăn uống
Doanh thu dịch vụ vui chơi giải trí
Doanh thu khác
3.2.3. Chỉ tiêu doanh thu bình quân 1 khách, doanh thu bình quân 1 ngày khách.
3.3. Chỉ tiêu lợi nhuận du lịch.
Tổng lợi nhuận của tổ chức du lịch là khoản chênh lệch giữa tổng doanh thu và tổng chi phí (hoặc giá thành toàn bộ) của tổ chức du lịch đó.
Chỉ tiêu này phản ánh kết quả cuối cùng của hoạt động du lịch trong kỳ nghiên cứu vì mục tiêu cuối cùng của các doanh nghiệp là tối đa hoá lợi nhuận.
3.4. Chỉ tiêu giá trị sản xuất ngành du lịch.
Giá trị sản xuất là toàn bộ của cải vật chất và dịch vụ được tạo ra trong một thời kỳ nhất định của doanh nghiệp, thường là 1 năm.
Đây là chỉ tiêu quan trọng, nó phản ánh toàn bộ kết quả cuối cùng của hoạt động du lịch. Nghiên cứu chỉ tiêu này cho phép phản ánh một cách tổng hợp thành quả đạt được của đơn vị. Giá trị sản xuất du lịch toàn ngành bao gồm:
Giá trị sản xuất của hoạt động lữ hành
Giá trị sản xuất của hoạt động khách sạn
Giá trị sản xuất của hoạt động vận chuyển khách
Giá trị sản xuất của các dịch vụ khác
3.5. Chỉ tiêu giá trị tăng thêm ngành du lịch.
Giá trị tăng thêm là giá trị sản xuất sau khi trừ chi phí trung gian ngành du lịch.
Chỉ tiêu này phản ánh kết quả thuần cuối cùng của hoạt động du lịch, là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá kết quả hoạt động du lịch của từng đơn vị hoặc của toàn ngành du lịch trong nền kinh tế quốc dân.
Giá trị tăng thêm toàn ngành bao gồm:
Giá trị tăng thêm hoạt động lữ hành
Giá trị tăng thêm hoạt động khách sạn
Giá trị tăng thêm hoạt động vận chuyển khách
Giá trị tăng thêm của các dịch vụ khác.
Chỉ tiêu này là cơ sở để tính thuế giá trị gia tăng.
CHƯƠNG II: MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP THỐNG KÊ PHÂN TÍCH VÀ DỰ ĐOÁN KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG DU LỊCH
I. KHÁI NIỆM VÀ NHIỆM VỤ PHÂN TÍCH VÀ DỰ ĐOÁN THỐNG KÊ KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG DU LỊCH.
Phân tích và dự đoán thống kê là nêu lên một cách tổng hợp bản chất cụ thể, tính quy luật của các hiện tượng và quá trình kinh tế xã hội trong điều kiện thời gian và không gian xác định thông qua biểu hiện bằng số lượng, tính toán mức độ tương lai của hiện tượng nhằm đưa ra những căn cứ cho quyết định quản lý.
Nói cách khác, phân tích thống kê là xác định các mức độ biểu hiện tính chất của hiện tượng, phân tích các quy luật của mối liên hệ tương tác giữa các hiện tượng, của sự phát triển hiện tượng qua thời gian và sự tác động của các nhân tố cấu thành nên hiện tượng chung. Trên cơ sở nhận thức bản chất và tính quy luật để tiến hành dự đoán hiện tượng trong tương lai, từ đó rút ra những kết luận thực tế phục vụ cho quyết định quản lý.
Nhiệm vụ chung của phân tích và dự đoán thống kê kết quả hoạt động du lịch là phải nêu lên bản chất cụ thể, tính quy luật và sự phát triển của kết quả trong tương lai. Từ nhiệm vụ đó ta thấy rằng, nghiên cứu thống kê kết quả hoạt động du lịch có ý nghĩa quan trọng đối với ngành du lịch nói riêng và của nền kinh tế quốc dân nói chung.
Để đảm bảo kết quả phân tích và dự đoán chính xác khách quan đòi hỏi trong quá trình phân tích và dự đoán kết quả hoạt động du lịch phải tuân thủ theo các yêu cầu sau:
Phải trên cơ sở phân tích lý luận kinh tế-xã hội: nghĩa là phân tích tình hình thực trạng, sự phát triển của du lịch, từ đó hiểu được xu hướng biến động của hiện tượng. Trên cơ sở số liệu có thể nhận định một cách tổng quát tính chất cụ thể của hiện tượng.
Phải căn cứ vào toàn bộ sự kiện và đặt chúng trong mối liên hệ lẫn nhau.
Khi tiến hành phân tích và dự đoán thống kê, tuỳ theo đặc điểm của số liệu, điều kiện tài liệu và phạm vi nghiên cứu kết quả hoạt động du lịch mà lựa chọn các phương pháp thống kê phù hợp.
II. MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH THỐNG KÊ NGHIÊN CỨU KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG DU LỊCH.
Phương pháp thống kê là công cụ phân tích các con số của các hiện tượng số lớn nhằm tìm ra bản chất và tính quy luật vốn có của nó. Trong hoạt động du lịch, kết quả của hoạt động này được thể hiện qua các con số cụ thể, thông qua các con số này chúng ta có thể đánh giá được tình hình hoạt động của từng đơn vị, từng doanh nghiệp kinh doanh du lịch và của toàn ngành. Các con số khôngbiết nói trở thành biết nói nhờ công cụ thống kê số liệu về số khách, số ngày khách, doanh thu du lịch, lợi nhuận, giá trị sản xuất, giá trị gia tăng, thu nhập xã hội từ du lịch,…đều được điều tra, thu thập, xử lý và phân tích cụ thể và toàn diện. Có rất nhiều phương pháp nghiên cứu thống kê phân tích kết quả hoạt động du lịch. Tuy nhiên, trong phạm vi bài viết này, tác giả trình bày 4 phương pháp phân tích phổ biến nhất, đó là:
Phương pháp phân tổ
Phương pháp hồi quy tương quan
Phương pháp dãy số thời gian
Phương pháp chỉ số.
Mỗi phương pháp này được tiếp cận phân tích theo các cách khác nhau nhưng đều đem lại kết quả đánh giá nhất định. Mỗi phương pháp đều có ý nghĩa tác dụng riêng tuỳ theo mục đích nghiên cứu từng chỉ tiêu, từng đặc điểm của hiện tượng.
1. Phương pháp phân tổ
Phân tổ thống kê là căn cứ vào một hoặc một số tiêu thức nào đó để tiến hành phân chia các đơn vị thuộc hiẹn tượng nghiên cứu thành các tổ và các tiểu tổ có các tính chất khác nhau.
Cơ sở quan trọng khi tiến hành phân tổ thống kê nghiên cứu kết quả hoạt động du lịch là việc lựa chọn tiêu thức phân tổ. Tiêu thức phân tổ là tiêu thức thống kê được chọn làm căn cứ để tiến hành phân tổ. Các căn cứ này phải dựa trên cơ sở phân tích lý luận một cách sâu sắc và căn cứ vào điều kiện lịch sử cụ thể của hiện tượng nghiên cứu để lựa chọn tiêu thức bản chất phù hợp với mục đích nghiên cứu. Tuỳ theo từng mục đích nghiên cứu hiện tượng mà phân tổ theo tiêu thức số lượng hay tiêu thức thuộc tính.
Nghiên cứu thống kê kết quả hoạt động du lịch có thể lựa chọn áp dụng phân tổ giản đơn, phân tổ kết hợp hoặc phân tổ nhiều chiều.
Phân tổ giản đơn là hình thức phân tổ theo một tiêu thức, là việc căn cứ vào một tiêu thức nào đó (có thể là tiêu thức số lượng hay tiêu thức thuộc tính) để phân phối các lượng biến vào từng tổ. Vận dụng phương pháp phân tổ theo một tiêu thức trong thống kê kết quả hoạt động du lịch cho phép nghiên cứu kết cấu và phân tích kết cấu số khách, số ngày khách, doanh thu du lịch, lợi nhuận du lịch, giá trị sản xuất, giá trị tăng thêm. doanh thu xã hội từ du lịch, …
+ Ở tầm vi mô, phạm vi doanh nghiệp, phương pháp này cho phép nghiên cứu kết cấu khách theo nguồn khách, theo nơi đến, theo mục đích chuyển đi, theo phương tiện đến, theo tháng. Nghiên cứu kết cấu số ngày khách theo nguồn khách, theo từng loại thị trường khách, theo mục đích chuyến đi,..; Nghiên cứu doanh thu theo từng loại khách là chủ yếu,…ở phạm vi này, nghiên cứu thống kê kết cấu các chỉ tiêu kết quả theo nơi đến và mục đích chuyến đi là quan trọng vì nó là cơ sở để doanh nghiệp đánh giá được khả năng thu hút khách ở mức nào, doanh nghiệp phù hợp với phục vụ đối tượng khách nào,…nhằm đưa ra các chiến lược phát triển.
+ Ở tầm vĩ mô, phạm vi toàn ngành, phương pháp này cho phép nghiên cứu kết cấu khách theo từng loại khách, mục đích chuyến đi, theo phương tiện đến, theo tháng, theo từng loại hình doanh nghiệp…
+ Kết cấu theo từng loại khách cho phép đánh giá khả năng thu hút của từng thị trường khách, xem loại khách nào đến Việt Nam nhiều nhất từ đó phát huy từng nguồn khách, tạo điều kiện môi trường thu hút khách phù hợp.
+ Kết cấu theo mục đích chuyến đi cho phép xác định được nhu cầu đa dạng của khách và biết được xu hướng thị hiếu của khách du lịch từ đó có chiến lược phục vụ phù hợp.
+ Kết cấu theo phương tiện đến cho phép xác định được nhu cầu vận chuyển của khách theo từng loại phương tiện, xu hướng tiêu dùng phương tiện đi lại của khách từ đó có thể đáp ứng được nhu cầu của khách có hiệu quả, đồng thời tạo điều kiện phát triển cho ngành giao thông vận tải, hàng không…, có kế hoạch đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng như đường sá, phương tiện … phục vụ nhu cầu đi lại của khách du lịch.
+ Kết cấu theo từng loại cơ sở cư trú, từng loại hình doanh nghiệp …cho phép xác định được vai trò của từng loại cơ sở, từng loại doanh nghiệp nhằm phát huy thế mạnh đó đồng thời có chiến lược xây dựng các cơ sở phù hợp hoặc đầu tư vào từng loại hình doanh nghiệp sao cho có hiệu quả nhất.
+ Kết cấu khách theo tháng là cơ sở để xác định xem thời gian nào trong năm là mùa vụ du lịch, và đặc điểm của mùa vụ trong năm. Từ đó cho phép xác định được xu hướng biến động khách theo mùa vụ, là cơ sở để các nhà quản lý lập kế hoạch kinh doanh du lịch theo đúng mùa vụ.
Ngoài việc vận dụng phân tổ giản đơn, thống kê kết quả hoạt động du lịch thường vận dụng phương pháp phân tổ kết hợp để phân tích mối liên hệ. Phân tổ kết hợp là phân tổ theo nhiều tiêu thức, nhằm để sắp xếp thứ tự các thiêu thức, xác định số tổ theo từng tiêu thức từ đó xác định được mối liên hệ giữa các tiêu thức với nhau. Vận dụng phương pháp phân tổ kết hợp trong phân tích thống kê kết quả hoạt động du lịch để nghiên cứu mối liên hệ:
- Nguồn khách theo khu vực, theo quốc tịch với độ dài lưu trú, đặc trưng tiêu dùng sản phẩm du lịch.
-Đặc điểm nhóm khách theo mục đích chuyến đi với độ dài lưu trú, mức chi tiêu cho các loại sản phẩm khác nhau ….
Các mối liên hệ này là cơ sở để xác định sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các tiêu thức từ đó có thể phân tích được kết cấu các thị trường khách nhằm xác định tính hiện thực của từng thị trường khách, phân tích đặc trưng tiêu dùng của từng loại khách, đồng thời phân tích được các nguyên nhân ảnh hưởng đến các kết quả của từng thị trường khách từ đó có những biện pháp khai thác thị trường phù hợp
Khi vận dụng phương pháp phân tổ kết hợp thì việc lập bảng phân tổ phải dựa trên các nguyên tắc sau:
Bảng phân tổ được xây dựng trên quan điểm hệ thống và theo góc độ nghiên cứu các kết quả hoạt động du lịch.
Bảng phân tổ không quá lớn hoặc quá dài
Bảng phân tổ phải thể hiện được tài liệu thống kê 1 cách cụ thể, rõ ràng, chính xác và có tính chất tổng hợp
Bảng phân tổ phải dựa trên các tiêu thức có mối liên hệ nhau
Khi kiểm định mối liên hệ giữa các tiêu thức trong phân tổ kết hợp bằng kiểm định khi bình phương (c2) ta dùng chương trình phần mềm thống kê máy để kiểm định sự phụ thuộc đó:
Giả thiết kiểm định: Ho: Không có mối liên hệ
H1: Có mối liên hệ phụ thuộc
Như vậy, phân tổ thống kê có vai trò rất quan trọng trong quá trình phân tích, đánh giá kết quả hoạt động du lịch. Để có được sản phẩm phân tổ có hiệu quả thì phân tổ thống kê cần phải xác định đúng tiêu thức phân tổ phù hợp mục đích nghiên cứu đồng thời phải đảm bảo tính chính xác.
2. Phương pháp hồi quy tương quan
2.1. Khái niệm, nhiệm vụ và ý nghĩa của phương pháp hồi quy tương quan trong nghiên cứu kết quả hoạt động du lịch
Hiện tượng kinh tế xã hội luôn tồn tại trong mối liên hệ phổ biến, đa dạng, nhiều vẻ và rất phức tạp. Sự biến động của hiện tượng luôn chịu tác động của nhiều yếu tố liên quan, trong đó có những yếu tố tác động chủ yếu, có những yếu tố chỉ ảnh hưởng chút ít. Trong mối liên hệ đó chúng ta thường quan tâm đến mối liên hệ nhân quả. Hồi quy tương quan là một trong những phương pháp được sử dụng phổ biến nhất khi nghiên cứu mối liên hệ này.
Hiện tượng du lịch cũng vậy, sự biến động của kết quả hoạt động du lịch do nhiều yếu tố tác động bao gồm: yếu tố tự nhiên, yếu tố xã hội, yếu tố chính trị, yếu tố đầu vào, yếu tố tâm lý,…Trong đó có những yếu tố chúng ta có thể lượng hoá được và ngược lại có nhiều yếu tố khó có thể lượng hoá như yếu tố tâm lý, yếu tố chính trị xã hội,…Mối liên hệ này thực chất là mối liên hệ tương quan. Vì vậy khi nghiên cứu mối liên hệ tương quan giữa kết quả hoạt động du lịch với các tiêu thức nguyên nhân bằng phương pháp hồi quy tương quan người ta căn cứ vào mức độ tác động của từng nhân tố tác động, nhân tố này phải có vai trò ảnh hưởng lớn đến kết quả hoạt động du lịch. Thực chất nghiên cứu mối quan hệ tương quan là ta nghiên cứu mối liên hệ hoàn toàn chặt chẽ và có ý nghĩa, còn các yếu tố có tác động ít đến biến động của kết quả hoạt động du lịch thì thường rất ít khi được chọn làm biến nguyên nhân.
Có thể biểu hiện mối liên hệ này theo hàm y = f(x). Trong đó y là tiêu thức kết quả, phản ánh kết quả hoạt động du lịch có thể là số lượng khách du lịch, số ngày khách du lịch, doanh thu du lịch, lợi nhuận, giá trị sản xuất, giá trị tăng thêm, thu nhập xã hội từ du lịch…Và x là tiêu thức nguyên nhân, biểu hiện của các nhân tố tác động đến sự biến động của kết quả hoạt động du lịch, x có thể là mức tăng trưởng nền kinh tế (GDPKTQD) hoặc vốn đầu tư nước ngoài vào ngành du lịch, thu nhập của khách, chi phí quảng cáo, giá theo tour,…Các yếu tố này tác động đến kết quả hoạt động du lịch theo từng mức độ tác động của yếu tố đó.
Khi vận dụng phương pháp hồi quy tương quan để phân tích mối liên hệ tương quan trong thống kê nghiên cứu kết quả hoạt động du lịch cần phải thực hiện hai nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, phải xác định được mô hình hồi quy phản ánh mối liên hệ giữa tiêu thức kết quả và tiêu thức nguyên nhân qua số liệu thực tế thu thập được. Tuỳ theo mục đích và phạm vi nghiên cứu cụ thể mà biến phụ thuộc có thể là một hoặc nhiều biến như: GDP, thu nhập của khách, vốn đầu tư, chi phí quảng cáo, giá theo tour,…Song trong thực tế, kết quả hoạt động du lịch được xét đến đầu tiên là số lượng khách du lịch vì đây là chỉ tiêu rất quan trọng đối với sự phát triển ngành, là tiêu chí đầu tiên phản ánh kết quả và hiệu quả hoạt động kinh doanh du lịch.
Mô hình hồi quy được xác định là hồi quy đơn hoặc hồi quy bội tuỳ theo số lượng của các biến độc lập. Hồi quy đơn là hồi quy giữa 1 tiêu thức kết quả và 1 tiêu thức nguyên nhân. Hồi quy bội là hồi quy giữa 1 tiêu thức kết quả với nhiều tiêu thức nguyên nhân. Việc xác định này được dựa trên cơ sở đồ thị phân phối và kết hợp với các tính toán khác của thống kê.
Thứ hai, từ mô hình hồi quy, phải xác định được mức độ chặt chẽ của mối liên hệ, xem mô hình có đủ tin cậy hay không, mối liên hệ có ý nghĩa thực tế hay không.
Như vậy phương pháp hồi quy tương quan là phương pháp được vận dụng để nghiên cứu các yếu tố tác động đến kết quả hoạt động du lịch và có ý nghĩa là:
Hồi quy tương quan được sử dụng phổ biến nhằm xây dựng các mô hình kinh tế nói chung cũng như nhiều mô hình hồi quy giữa kết quả du lịch với các yếu tố gây ra sự biến động của kết quả đó. Từ đó xác định được chính xác mức độ biến động của từng yếu tố.
Dùng phương pháp hồi quy tương quan cho phép ta dự đoán được sự biến động của kết quả hoạt động du lịch trong tương lai.
Phương pháp này có thể dùng trong một số phương pháp thống kê khác như: phương pháp dãy số thời gian, phương pháp chỉ số,…
2.2. Đặc điểm vận dụng phương pháp hồi quy tương quan nghiên cứu kết quả hoạt động du lịch.
Mối liên hệ phụ thuộc giữa kết quả hoạt động du lịch và các nhân tố nguyên nhân gây ra sự biến động của kết quả đó được biểu hiện bằng các mô hình khác nhau. Mô hình hồi quy có thể là đường thẳng, parabol, hàm bậc 3, hàm mũ,…tuỳ theo đặc điểm thay đổi của từng kết quả theo các yếu tố tác động. Trong bài viết này, tác giả chỉ đề cập chủ yếu đặc điểm vận dụng phương pháp hồi quy tuyến tính bội, đây là dạng hàm tổng quát phổ biến nhất.
Khi vận dụng phương pháp hồi quy tương quan ở dạng tuyến tính bội trong nghiên cứu kết quả hoạt động du lịch thường tiến hành theo 3 bước sau đây:
* Bước 1: Lựa chọn các biến cần phân tích.
Xác định biến kết quả cần phân tích: trong mỗi mô hình hồi quy chỉ có 1 biến kết quả vì vậy tuỳ theo mục đích nghiên cứu mà lựa chọn biến kết quả cần phân tích cho phù hợp. Những biến này có thể là: tổng số lượng khách, số khách quốc tế, thu nhập xã hội từ du lịch,..
Xác định biến nguyên nhân cần phân tích: Biến nguyên nhân là các yếu tố xung quanh bao gồm các yếu tố như: yếu tố tự nhiên, yếu tố chính trị xã hội hoặc các yếu tố là chi phí đầu vào của ngành du lịch…Khi lựa chọn các biến phải có căn cứ khoa học nghĩa là cần phải đặt sự biến động của kết quả hoạt động du lịch trong mối liên hệ với các yếu tố xung quanh. Trên cơ sở biết được mức độ tác động của yếu tố nào nhiều nhất và có tính khả thi nhất. Tránh sự lựa chọn các yếu tố không có tác động hoặc ít ảnh hưởng đến sự biến động kết quả hoạt động du lịch.
*Bước 2: Xây dựng mô hình hồi quy tuyến tính bội
Sau khi xác định các biến cần phân tích, chúng ta tiến hành xây dựng mô hình hồi quy phản ánh mối quan hệ tương quan giữa 1 biến kết quả với một hoặc nhiều biến nguyên nhân gây ra sự biến động của kết quả đó.
Phương trình hồi quy tuyến tính bội có dạng:
Y = b0 + b1x1+b2x2+…+bkxk.
Trong đó b0,b1, b2,…bk là các ước lượng của b0, b1, b2, …bk hay đó là các hệ số hồi quy của tổng thể mẫu.
b0 phản ánh giá trị của y khi X1 = X2= …=Xk = 0.
b1, b2…bk phản ánh sự thay đổi của y khi biến độc lập tương ứng thay đổi.
Hệ số xác định (R2)
Hệ số xác định phản ánh sự biến động của biến Y được giải thích bởi các biến X là bao nhiêu %
Hệ số tương quan (R): phản ánh mức độ chặt chẽ của mô hình
+ -1£ R£1
+ R=0: mối liên hệ hoàn toàn không có ý nghĩa
+ R=1: mối liên hệ hoàn toàn chặt chẽ, thuận chiều
+ R=-1: mối liên hệ hoàn toàn chặt chẽ, ngược chiều
Mô hình hồi quy được chấp nhân dựa trên cơ sở các kiểm định chất lượng mô hình thông qua:
Kiểm định sự phù hợp của mô hình hồi quy
Ta kiểm định giả thiết: H0: bi = 0 (i = 1,k)
H1: bi ¹ 0
Nếu mức ý nghĩa tương ứng với bi: ai < 0,05 thì bi tồn tại có ý nghĩa và ngược lại
*Bước 3: Khắc phục hiện tượng đa cộng tuyến
Trong mô hình tuyến tính bội, có nhiều trường hợp giữa các biến nguyên nhân cũng có mối liên hệ tương quan với nhau thậm chí có khi còn xẩy ra hiện tượng đa cộng tuyến hoàn toàn, nghĩa là 1 biến nguyên nhân có thể biểu hiện tổ hợp tuyến tính của các bién khác, tức là: l1X1 + l2X2 +…+lkXk = 0
Trong đó li (i=1, k) là các hệ số và chúng không đồng thời khác 0. trong thực tế, hiện tượng này thường xảy ra. Đa cộng tuyến làm cho việc ước lượng các tham số của mô hình hồi quy không chính xác. Để nhận biết hiện tượng đa cộng tuyến ta có thể tiến hành hồi quy giữa 1 biến nguyên nhân nào dó với các biến còn lại. Nếu mô hình mới này có ý nghĩa thì chắc chắn có hiện tượng đa cộng tuyến. Vì vậy trong thực tế người ta phải khắc phục hiện tượng này bằng một số phương pháp sau:
Tăng số mẫu nghiên cứu
Bỏ bớt biến nguyên nhân: Bằng phương pháp xây dựng các mô hình trong chương trình phần mềm thống kê máy (SPSS) cho phép thực hiện các bước sau:
+ Phương pháp enter: cho tất cả các biến vào
+Phương pháp forward selection: cho dần từng biến Xi vào
+ Phương pháp backword elimination: loại dần từng biến ra.
+ Phương pháp stepwise selection: là bước kết hợp của 2 phương pháp forward và phương pháp backword (chọn dần từng bước)
3. Phương pháp dãy số thời gian
3.1. Bản chất tác dụng và ý nghĩa nghiên cứu kết quả hoạt động du lịch bằng dãy số thời gian
Dãy số thời gian là một dãy các trị số của chỉ tiêu thống kê được sắp xếp theo thứ tự thời gian
Như vậy,dãy số thời gian được cấu thành hai thành phần : thành phần thời gian và chỉ tiêu hiện tượng nghiên cứu.
Về thành phần thời gian, trong hoạt động du lịch kết quả hoạt động du lịch thường được tổng hợp theo tháng, theo quý và theo năm ở từng đơn vị hay toàn bộ ngành du lịch.
Về chỉ tiêu của hiện tượng, cụ thể là kết quả hoạt động du lịch, các chỉ tiêu kết quả chỉ có thể biểu hiện bằng số tuyệt đối (các chỉ tiêu phản ánh quy mô) hoặc số tương đối(các chỉ tiêu phản ánh quan hệ so sánh) hoặc số bình quân. Các trị số của chỉ tiêu gọi là mức độ. Khi thời gian thay đổi thì mức độ của dãy số thay đổi.
Ví dụ
Bảng 2.1: Tổng số khách du lịch ở Việt Nam thời kỳ 1995 – 2002
Đơn vị: Lượt khách
Năm
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
Tổng số khách
8.259.296
8.861.155
10.215.637
11.120.128
12.466.754
13.340.100
13.980.050
15.627.988
Nguồn: Tổng cục Du lịch Việt Nam
Do đặc điểm tồn tại về quy mô của hiện tượng, dãy số thời gian có 2 loại
Dãy số thời kỳ: là dãy số trong đo mỗi mức độ của nó phản ánh quy mô và khối lượng của hiện tượng trong một khoảng thời gian dài nhất định.
Dãy số thời điểm là dãy số trong đó mức độ của dãy số phản ánh quy mô của hiện tượng tại những thời điểm nhất định.
Tuy vậy, trong hoạt động du lịch, các con số về kết quả kinh doanh được tổng hợp theo thời kỳ dài (tháng, quý, năm) chứ không điểu tra tại các thời điểm. Do đó, trong nghiên cứu kết quả hoạt động du lịch chỉ có dãy số thời kỳ. Đây là một điểm thuận lợi trong việc phân tích và dự đoán thống kê.
*Tác dụng của dãy số thời gian:
Dãy số thời gian cho phép thống kê nghiên cứu các đặc điểm về sự biến động của hiện tượng qua thời gian, nêu lên xu hướng và tính quy luật của sự phát triển đồng thời dự đoán mức độ của các kết quả hoạt động du lịch trong tương lai
Tuy nhiên để phản ánh một cách đúng đắn sự phát triển của ngành du lịch qua từng thời kỳ, dãy số thu thập được phải đảm bảo tính so sánh được.
* Phương pháp dãy số thời gian có ý nghĩa rất quan trọng trong việc phân tích thống kê kết quả hoạt động du lịch; cụ thể:
Thứ nhất, xác định các mức độ biến động từng chỉ tiêu qua từng thời kỳ
Thứ hai, phân tích xu thế biến động các chỉ tiêu kết quả theo thời gian.
Thứ ba, phân tích các thành phần tạo nên mức độ của hiện tượng, trong đó có cả yếu tố ngẫu nhiên và yếu tố thời vụ
Thứ tư, phân tích biến động thời vụ trong du lịch vì trong du lịch mang tính chất thời vụ rõ rệt
3.2. Đặc điểm vận dụng phương pháp dãy số thời gian.
Do đặc điểm hoạt động du lịch đồng thời dựa trên cơ sở việc tổng hợp số liệu về kết quả hoạt động du lịch thường là theo thời kỳ. Vì thế ở đây tác giả chỉ đề cập đến đặc điểm vận dụng đối với dãy số thời kỳ.
* Vận dụng các chỉ tiêu phân tích dãy số thời gian để phân tích đặc điểm biến động kết quả hoạt động du lịch.
Thống kê dùng 5 loại chỉ tiêu để phân tích. Mỗi chỉ tiêu có tác dụng và ý nghĩa phản ánh đặc điểm của hiện tượng theo một cách khác nhau. Qua 5 chỉ tiêu này, cho phép đánh giá kết quả hoạt động du lịch một cách tổng quát nhất. Bao gồm:
Mức độ trung bình qua thời gian.
Chỉ tiêu này nêu lên mức độ đại diện của các mức độ tuyệt đối, thể hiện quy mô kết quả hoạt động du lịch.
Mức độ bình quân được xác định theo công thức:
=
y1 + y2 +…+ yn-1 +yn
=
N
N
Trong đó:
yi (i= 1, 2,…n) là các mức độ trong dãy số nghiên cứu.
là mức độ trung bình
n là số lượng các mức độ trong dãy số.
Lượng tăng (giảm) tuyệt đối
Chỉ tiêu này cho biết sự thay đổi về quy mô của kết quả hoạt động du lịch (quy mô về khách, doanh thu, giá trị sản xuất, lợi nhuận,…) qua thời gian.
Khi nghiên cứu sự thay đổi quy mô giữa 2 thời gian liền nhau thì dùng lượng tăng (giảm) tuyệt đối từng thời kỳ (liên hoàn):
di = yi – yi-1 (i= 1, n)
Trong đó: di là lượng tăng (giảm) tuyệt đối giữa thời gian i và thời gian i-1 kề trước đó.
Khi nghiên cứu sự thay đổi quy mô trong khoảng thời gian dài thì dùng lượng tăng(giảm) tuyệt đối định gốc.
Di = yi – y1 (i= 1, n)
Di: là lượng tăng (giảm) tuyệt đối giữa thời gian i và thời gian được chon làm thời gian gốc
Hai chỉ tiêu này có liên hệ với nhau:
Dn = d1 + d2 +…+dn
Để biểu hiện mức độ đại diện của các lượng tăng (giảm) tuyệt đối thì dùng:
là lượng tăng (giảm tuyệt đối) trung bình.
Tốc độ phát triển.
Chỉ tiêu này phản ánh tốc độ thay đổi của hiện tượng nhanh hay chậm, bao gồm:
-Tốc độ phát triển liên hoàn (): nêu lên sự phát triển của hai thời gian liền nhau:
= (i=) (lần, %)
Tốc độ phát triển định gốc (): nêu tốc độ phát triển của hiện tượng trong thời gian dài:
= (i=) (lần, %)
Tốc độ phát triển trung bình chỉ tiêu phản ánh mức độ đại diện của các tốc độ phát triển liên hoàn.
=
Tuy nhiên chỉ tiêu này chỉ nên áp dụng đối với hiện tượng phát triển theo một xu hướng nhất định (hoặc tăng, hoặc giảm)
Tốc độ tăng (giảm)
Chỉ tiêu này cho biết giữa hai thời gian nghiên cứu kết quả hoạt động du lịch tăng hay giảm bao nhiêu % hay bao nhiêu lần. Gồm có:
Tốc độ tăng (giảm) từng kỳ ()
(lần, %) Hay: = ti-1 (lần) , = ti –100 (%)
Tốc độ tăng (giảm) định gốc()
(lần) hay = (%)
Tốc độ tăng (giảm) trung bình ()
= (lần) = (%)
Giá trị tuyệt đối của 1% tăng hoặc giảm của tốc độ tăng (giảm) liên hoàn ()
Chỉ tiêu này cho biết cứ 1% tăng hoặc giảm của tốc độ tăng (giảm) liên hoàn thì ứng với 1 lượng tuyệt đối là bao nhiêu. Trong nghiên cứu kết quả hoạt động du lịch thì chỉ tiêu này rất quan trọng.
Các chỉ tiêu trên đây đều có ý nghĩa khi phân tích một dãy số liệu theo thời gian nào đó. Chúng thống nhất về sự nhận thức hiện tượng và cả phương diện tính toán.
* Vận dụng phương pháp biểu hiện xu hướng phát triển cơ bản trong phân tích biến động kết quả hoạt động du lịch.
Mỗi hiện tượng kinh tế xã hội biến động đều do ảnh hưởng của nhiều nhân tố. Trong đó yếu tố chủ yếu cơ bản tác động vào hiện tượng cho phép nêu lên xu hướng phát triển cơ bản của hiện tượng hay nói cách khác đó là tính quy luật của sự phát triển. Yếu tố này chủ yếu là xu thế biến động và thời vụ biến động. Ngoài ra còn có yếu tố ngẫu nhiên tác động vào hiện tượng làm cho hiện tượng phát triển lệch hướng cơ bản. Vì thế yếu tố ngẫu nhiên thường gây tác động không tốt đến hiện tượng. Trên thực tế càng hạn chế bớt tác động của yếu tố này càng tốt.
Đặc biệt, vận dụng phương pháp này để nghiên cứu sự biến động kết quả hoạt động du lịch rất có ý nghĩa. Xu hướng phát triển du lịch thường mang tính thời vụ cao. Đây là một đặc trưng khác biệt của ngành du lịch so với các ngành khác, và là yếu tố cơ bản tác động đến sự phát triển. Tính thời vụ này chủ yếu được biểu hiện qua số lượng khách du lịch theo tháng hoặc quý.
Tuy nhiên, phương pháp này phải dựa trên tính chất so sánh được giữa các mức độ trong dãy số thời gian. Để phân tích xu hướng biến động có thể sử dụng một số phương pháp như: phương pháp mở rộng khoảng cách thời gian, phương pháp số bình quân trượt, phương pháp hồi qui theo thời gian và trong phân tích kết quả hoạt động du lịch thường sử dụng phương pháp hồi qui theo thời gian.
Phương pháp hồi quy theo thời gian.
Phương pháp này nhằm xác định một phương trình hồi quy phản ánh sự biến động (hay sự phụ thuộc) của hiện tượng theo thời gian. Còn gọi là hàm xu thế.
Trong phạm vi bài này, tác giả chỉ trình bày các phương trình hồi quy phản ánh sự biến động của các chỉ tiêu kết quả như: số lượng khách, doanh thu, lợi nhuận… theo thời gian.
Phương trình hồi quy có dạng:
Trong đó t là biến độc lập chỉ thứ tự thời gian, t có thể là thứ tự theo năm, theo quý, theo tháng và là biến phụ thuộc chỉ các chỉ tiêu kết quả.
có thể có nhiều dạng khác nhau tuỳ vào đặc điểm biến động của từng chỉ tiêu nghiên cứu. Do vậy, để lựa chọndạng hàm xu thế có độ tin cậy nhất, biểu hiện chính xác xu hướng biến động cơ bản của kết quả hoạt động du lịch cần phải dựa vào đặc điểm thực tế của hiện tượng qua thời gian đồng thời dựa vào đồ thị phản ánh thực tế sự biến động và phân tích sai số từng mô hình.
Dưới đây là một số dạng hàm xu thế thường gặp trong nghiên cứu kết quả hoạt động du lịch.
Dạng 1: Hàm xu thế tuyến tính
Có dạng: =b0 + b1t
Trong đó là mức độ lý thuyết của số khách, doanh thu…
b0, b1 là các tham số
t: thứ thự thời gian.
Hàm này có tác dụng khi dãy số có lượng tăng giảm tuyệt đối xấp xỉ nhau. Với phương pháp bình phương nhỏ nhất thì b0, b1 phải thoả mãn hệ phương trình sau:
Từ hệ phương trình này cho phép xây dựng được mô hình tuyến tính và từ đó phân tích và đánh giá bản chất của mô hình.
Dạng 2:Hàm xu thế paparabol
Có dạng: =b0 + b1t + b2t2
Trong đó là mức độ lý thuyết của số khách, doanh thu, giá trị sản xuất…
b0, b1 là các tham số của mô hình.
t: thứ thự thời gian.
Hàm này áp dụng trong trường hợp các sai phân bậc hai xấp xỉ nhau đồng thời kết hợp với quan sát đồ thị
Với phương pháp bình phương nhỏ nhất thì các tham số phải thoả mãn hẹ phương trình sau:
Dạng 3: Hàm xu thế là hàm mũ
Có dạng:
Hàm này áp dụng trong trường hợp các tốc độ phát triển hàng năm xấp xỉ nhau đồng thời kết hợp với quan sát đồ thị biểu diễn xu thế.
Với phương pháp này, các tham số phải thoả mãn hệ phương trình sau:
trong đó: n là số lượng các mức độ
lny là logarit cơ số thập phân của mức độ trong dãy số.
Mỗi hiện tượng đều biểu hiện theo một xu thế phát triển nhất định. Hiện tượng du lịch cũng vậy, xu hướng phát triển của nó theo một quy luật nhất định. Chỉ dùng số liệu qua quan sát đồ thị chúng ta khó có thể kết luận được quy luật phát triển một cách chính xác. Các phương pháp ở trên sẽ cho phép xác định một cách chính xác quy luật phát triển của kết quả hoạt động du lịch theo mô hình tốt nhất. Thống kê giải quyết vấn đề này bằng tiêu chuẩn lựa chọn, dựa vào 3 tiêu chuẩn của từng mô hình.
Sai số chuẩn của mô hình.
Kiểm định hệ số hồ quy.
So sánh hệ số tương quan giữa các mô hình.
+Sai số chuẩn mô hình được xác định là:
SE =
Trong đó: SE là sai số chuẩn của mô hình.
là mức độ thực tế
là mức độ lý thuyết
SSE là tổng bình phương các sai lệch giữa giá trị thực tế và giá trị tính toán từ mô hình.
n số lượng các mức độ
p là số lượng các tham số của mô hình.
Mô hình tin cậy nhất là mô hình có SE nhỏ nhất, nghĩa là sai số chuẩn của mô hình này là nhỏ nhất. Mô hình được chọn sẽ phản ánh đúng quy luật phát triển của hiện tượng nghiên cứu.
+ Kiểm định hệ số hồi quy.
Căn cứ vào bảng phân tích kết quả hồi quy, nếu kiểm định các hệ số hồi quy của mô hình nào có ý nghĩa thì ta chọn mô hình đó. Việc kiểm định được căn cứ vào mức ý nghĩa (sig)
+ So sánh hệ số tương quan (R)
Hệ số tương quan là tiêu chuẩn thứ 3 để lựa chọn mô hình hồi quy theo thời gian tốt nhất, R càng lớn càng có ý nghĩa và mối liên hệ càng chặt chẽ. Do đó mô hình được lựa chọn khi có R lớn nhất.
Ngoài ra, kết quả hoạt động du lịch còn có thể biến động theo quy luật hàm hypebol, bậc 3,…
* Phân tích biến động thời vụ nghiên cứu kết quả hoạt động du lịch.
Thời vụ du lịch là những biến động lặp đi lặp lại hàng năm của cung cầu du lịch xẩy ra dưới tác động của một số nhân tố xác định. Sự biến động này được biểu hiện bằng đường cong tạo bởi tập hợp các điểm có giá trị tung độ là số lượng du khách và hoành độ là các thời điểm trong 1 chu kỳ.
Tính thời vụ du lịch có nhièu đặc điểm quan trọng đó là:
Thời vụ trong du lịch là một quy luật phổ biến, nó tồn tại ở tất cả các nước và các vùng có hoạt động du lịch.
Một vùng có thể có một hoặc nhiều thời vụ du lịch tuỳ thuộc vào các thể loại du lịch phát triển.
Ở các nước và vùng du lịch phát triển thông thường thời vụ du lịch kéo dài hơn và chênh lệch cường độ của mùa chính so với thời kỳ trước và sau vụ thể hiện yếu hơn.
Các loại hình du lịch khác nhau thì độ dài của thời gian và cường độ thời vụ du lịch cũng khác nhau. Nhìn chung du lịch chữa bệnh có mùa vụ dài hơn các loại du lịch khác.
Chính vì đặc điểm trên đây mà thời vụ du lịch đã ảnh hưởng rất lớn đến việc phát triển ngành du lịch đồng thời tác động đến kết quả đạt được của ngành theo tháng hoặc theo quý, đặc biệt là số lượng khách. Vì vậy việc phân tích biến động do tác động của thời vụ trước hết cần phải chỉ ra các nhân tố ảnh hưởng đến tính thời vụ, định hướng được tác động của từng nhân tố, từ đó xác định mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đó.
Thời vụ du lịch được hình thành do tác động của nhiều nhân tố, trong đó bao gồm các nhân tố mang tính thiên nhiên, nhân tố mang tính kinh tế xã hội, tổ chức kỹ thuật và nhân tố mang tính tâm lý người tiêu dùng sản phẩm du lịch,…Tính thời vụ này gây rất nhiều khó khăn trong việc phát triển du lịch. Vì vậy, cần có những biện pháp làm hạn chế tác động của thời vụ du lịch nhằm nâng cao hiệu quả.
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên cho thấy việc nghiên cứu thống kê biến động thời vụ là điều cần thiết. Nó cho phép xác định được thời kỳ mùa vụ của du lịch hoạt động một cách cụ thể, chính xác từ đó có thể đưa ra các phương hướng biện pháp hạn chế được tính thời vụ. Nhiệm vụ của thống kê là dựa vào số liệu thực tế về kết quả hoạt động du lịch (tài liệu ít nhất 3 năm) theo tháng hoặc theo quý để xác định được tính chất tác động và mức độ của biến động thời vụ.
Có rất nhiều phương pháp để nghiên cứu hoạt động thời vụ trong du lịch nhưng có 2 phương pháp thường dùng đó là: Phương pháp chỉ số thời vụ và phương pháp kết hợp thành phần xu thế với thành phần thời vụ (Bảng Buys-Ballot)
Phương pháp chỉ số thời vụ.
Trường hợp mức độ biến động của hiện tượng qua những thời gian nhất định của các năm tương đối ổn định ta sử dụng công thức sau:
trong đó:
là chỉ số thời vụ của thời gian thứ i (tháng i, hoặc quý i)
: số trung bình của các mức độ cùng thời gian i của các năm.
là tổng các mức độ của thời gian i các năm
n là số năm
là số trung bình của các mức độ trong dãy số.
+ nếu là tài liệu quý
+ nếu là tài liệu tháng
Trường hợp mức độ biến động của hiện tượng qua những thời gian nhất định của các năm có xu hướng phát triển rõ rệt thì ta tính chỉ số thời vụ đại diện theo công thức sau:
Trong đó: là mức độ của tháng i năm j
là số bình quân của các tháng i trong năm j
n: số năm
i: tháng hoặc quý
j: năm j
+ Nếu Ii <100 có nghĩa hiện tượng thu hẹp ở thời gian i
+ Nếu Ii >100 có nghĩa hiện tượng mở rộng ở thời gian i
Phương pháp phân tích kết hợp thành phần xu thế và thời vụ.
Thực chất các mức độ của dãy số thời gian được tạo bởi 3 thành phần:
+ Thành phần xu thế ()
+ Thành phần thời vụ ()
+ Thành phần ngẫu nhiên ()
Trong đó thành phần ngẫu nhiên rất khó lượng hoá vì vậy ở đây chủ yếu nghiên cứu xu thế và thời vụ. Có 2 dạng kết hợp
Dạng kết hợp cộng
Trong đó: là giá trị tính toán theo mô hình.
là chỉ số thời vụ tháng, quý j
Dạng kết hợp nhân:
Để phân tích một cách có hiệu quả, mang lại kết quả chính xác ta sử dụng chương trình phần mềm thống kê máy (SPSS) để xử lý số liệu.
4. Phương pháp chỉ số nghiên cứu kết quả hoạt động du lịch.
4.1. Khái niệm, ý nghĩa của việc vận dụng phương pháp chỉ số để nghiên cứu kết quả hoạt động du lịch.
Phương pháp chỉ số là phương pháp phân tích thống kê biểu hiện quan hệ so sánh giữa hai mức độ của một hiện tượng kinh tế xã hội nào đó.
Trong nghiên cứu kết quả hoạt động du lịch, chỉ số là số tương đối biểu hiện quan hệ so sánh giữa hai mức độ về số lượng khách, về doanh thu du lịch, về lợi nhuận du lịch,…Tuỳ theo mục đích và phạm vi so sánh mà chỉ có thể là số tương đối động thái, số tương đối kế hoạch, số tương đối không gian
Số tương đối động thái nêu lên sự biến động về kết quả hoạt động du lịch qua thời gian, còn gọi là chỉ số phát triển. Số tương đối kế hoạch cho phép nêu lên nhiệm vụ kế hoạch và tình hình thực hiện kế hoạch của các kết quả hoạt động du lịch, còn gọi là chỉ số kế hoạch, tức là so sánh giữa mức độ thực hiện và mức độ kế hoạch đặt ra trước đó. Còn số tương đối không gian cho phép nêu lên sự biến động kết quả hoạt động du lịch giữa hai doanh nghiệp, hai vùng, hai địa phương hoặc hai quốc gia với nhau còn gọi là chỉ số không gian. Ngoài ra dùng chỉ số còn cho phép phân tích được ảnh hưởng của các nhân tố đến sự biến động của toàn bộ kết quả hoạt động, có thể là các nhân tố ảnh hưởng đến sự biến động của lượng khách du lịch, doanh thu du lịch, của GO, của VA, của thu nhập xã hội du lịch,…Các nhân tố đó bao gồm: số lượng khách, doanh thu bình quân từng loại khách, doanh thu bình quân 1 ngày khách, số ngày lưu trú bình quân 1 khách, tổng số ngày khách, kết cấu khách từng loại khách,…
Từ khái niệm ta thấy chỉ số có 2 đặc điểm nổi bật đó là:
Thứ nhất: Khi muốn so sánh các mức độ của các hiện tượng kinh tế xã hội phức tạp cần thiết phải chuyển các đơn vị có tính chất khác nhau thành dạng đồng nhất. Chẳng hạn muốn tổng hợp doanh thu du lịch các doanh nghiệp du lịch phải đưa về cùng đơn vị tính toán về mặt giá trị để có thể cộng được với nhau,…
Thứ hai: trong trường hợp có nhiều yếu tố tham gia vào việc tính toán chỉ số thì phải giả định chỉ có một nhân tố thay đổi còn các nhân tố khác cố định để loại trừ ảnh hưởng của chúng vào kết quả tính toán. Chẳng hạn khi tính chỉ số tổng giá trị sản xuất của ngành du lịch, có 2 nhân tố tham gia vào quá trình tính toán đó là giá sản phẩm dịch vụ và số lượng sản phẩm dịch vụ thực hiện thì khi đó ta phải giả định giá cả không thay đổi còn số lượng thay đổi theo thời gian.
Chỉ số thống kê bao gồm nhiều loại tuỳ theo mục đích nghiên cứu là:
Căn cứ vào nội dung phản ánh gồm:
+ Chỉ số phát triển
+ Chỉ số kế hoạch
+ Chỉ số không gian
Căn cứ theo phạm vi tính toán gồm
+ Chỉ số đơn (chỉ số cá thể): phản ánh biến động của từng đơn vị cá biệt của hiện tượng
+ Chỉ số tổng hợp: Phản ánh sự biến động chung của nhiều đơn vị cá biệt của một hiện tượng phức tạp. Loại chỉ số này thường được dùng phổ biến trong nghiên cứu thống kê.
Căn cứ vào tính chất của chỉ tiêu nghiên cứu, bao gồm:
+ Chỉ số của chỉ tiêu chất lượng: phản ánh sự biến động của các chỉ tiêu chất lượng như giá cả, năng suất lao động,…
+ Chỉ số của chỉ tiêu khối lượng: phản ánh sự biến động của các chỉ tiêu khối lượng như: số lượng khách du lịch, tổng doanh thu, tổng giá trị sản xuất,…
Như vậy, phương pháp chỉ số có tác dụng và ý nghĩa quan trọng trong nghiên cứu thống kê kết quả hoạt động du lịch ở bất kỳ phạm vi nào. So với phương pháp dãy số thời gian thì phương pháp này đỡ phức tạp hơn, dễ tính toán hơn.
4.2. Đặc điểm vận dụng phương pháp chỉ số phân tích kết quả hoạt động du lịch.
Có nhiều loại chỉ `số gồm: chỉ số đơn và chỉ số tổng hợp tuỳ theo mục đích nghiên cứu. Tuy vậy do đặc điểm của ngành du lịch, do kết quả hoạt động du lịch được tổng hợp là các số liệu có tính chất tổng hợp theo quy mô khối lượng hoặc quy mô giá trị, tức là được quy về cùng đơn vị có thể cộng được nên để có kết quả tính toán chính xác và có hiệu quả thì thường dùng chỉ số tổng hợp. Vì vậy, ở đây tác giả chỉ trình bày nội dung vận dụng chỉ số tổng hợp và hệ thống chỉ số cho việc nghiên cứu.
*Chỉ số tổng hợp
- Nếu mục đích nghiên cứu biến động qua thời gian thì chỉ số này phản ánh biến động chung của kết quả du lịch ở thời kỳ nghiên cứu so với kỳ chọn làm gốc so sánh.
Công thức tính: I =(lần,%)
Trong đó I là chỉ số tổng hợp của chỉ tiêu kết qủa nào đó
là tổng quy mô kết quả ở chu kỳ nghiên cứu có thể là quy mô số khách, doanh thu,…..
là tổng quy mô kết quả ở kỳ chọn làm gốc so sánh
Trong trường hợp đối với doanh thu du lịch ta có:
Trong đó p, q được hiểu cụ thể như sau:
+p là giá bán sản phẩm dịch vụ du lịch.
+ q là số lượng sản phẩm dịch vụ du lịch thực hiện
Hoặc+p là chi tiêu bình quân 1 khách từng loại khách cho du lịch
+q là số khách từng loại khách
Hoặc+p là chi tiêu bình quân 1 ngày khách
+q là số ngày khách
…
song p và q trong thực tế thường rất khó được tổng hợp
- Nếu mục đích là nghiên cứu biến động của kết quả hoạt động du lịch theo không gian thì chỉ số này phản ánh quan hệ so sánh kết quả hoạt động du lịch giữa hai vùng,hai địa phương hoặc hai quốc gia với nhau
công thức tính (lần,%)
trong đó là chỉ số so sánh giữa không gian A so với không gian B
là kết quả hoạt động du lịch ở không gian A
là kết quả hoạt động du lịch ở không gian B
Qua đó ta thấy chỉ số này có tác dụng rất lớn. Nó cho phép nêu lên sự biến động chung của các kết quả hoạt động du lịch của kỳ nghiên cứu so với kỳ gốc của không gian này so với không gian kia gấp bao nhiêu lần (hoặc bao nhiêu %).
*Hệ thống chỉ số nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến sự biến động kết quả hoạt động du lịch.
Hệ thống chỉ số phân tích kết quả hoạt động du lịch bao gồm các chỉ số có mối liên hệ với nhau được cấu thành từ các chỉ số nhân tố phản ánh tác động đến sự thay đổi của kết quả hoạt động du lịch. Hệ thống chỉ số trong thống kê thường được xây dựng theo ba loại là: hệ thống chỉ số của chỉ số phát triển, hệ thống chỉ số kế hoạch và hệ thống chỉ số của các chỉ tiêu có mối liên hệ nhau. Trong thống kê phân tích kết quả hoạt động du lịch thường sử dụng hệ thống chỉ số của các chỉ tiêu có mối liên hệ nhau để phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả hoạt động du lịch.
Sự biến động của số lượng khách, doanh thu, lợi nhuận du lịch…do những nhân tố có mối liên hệ nhau tạo thành hệ thống chỉ số bao gồm các chỉ số có mối liên hệ chặt chẽ. Trong đó,có các mô hình cơ bản như sau:
gọi Di là doanh thu từng loại khách i
Ni là số ngày lưu tru từng loại khách i
Ki là số khách của từng loại khách i
Doanh thu bình quân 1 khách là:
Doanh thu bình quân chung 1 ngày khách:
Số ngày lưu trú bình quân 1 khách:
*Mô hình 1: Xuất phát từ mối quan hệ
Doanh thu = Doanh thu bình quân chung 1 khách *Số khách
Ta có hệ thống chỉ số:
(*)
+ Biến động tuyệt đối:
+Biến động tương đối:
- Mô hình này cho phép nghiên cứu biến động của tổng doanh thu kỳ nghiên cứu so với kỳ gốc do ảnh hưởng của hai nhân tố: doanh thu bình quân chung 1 ngày khách và tổng số khách.
*Mô hình 2: Từ mô hình (*) ta có thể phân tích như sau:
+ Biến động tuyệt đối:
+ Biến động tương đối:
- Mô hình này cho phép nghiên cứu biến động của tổng doanh thu kỳ nghiên cứu so với kỳ gốc do ảnh hưởng của ba nhân tố: doanh thu bình quân 1 khách của từng loại khách (tk), kết cấu khách của từng loại khách (d k) và tổng số khách ().
*Mô hình 3: Xuất phát từ mối quan hệ
Doanh thu = Doanh thu bình quân chung 1 ngày khách *Số ngày khách
Ta có hệ thống chỉ số :
+Biến động tuyệt đối:
+Biến động tương đối:
- Mô hình này cho phép nghiên cứu biến động của tổng doanh thu kỳ nghiên cứu so với kỳ gốc do ảnh hưởng của hai nhân tố: doanh thu bình quân chung 1 ngày khách và tổng số ngày khách.
*Mô hình 4: Xuất phát từ mối quan hệ
Doanh thu = Doanh thu bình quân *Kết cấu số ngày khách *Tổng số ngày
1 ngày khách của của từng loại khách khách
từng loại khách
Ta có hệ thống chỉ số:
+Biến động tuyệt đối :
+Biến động tương đối :
-Mô hình này cho phép nghiên cứu biến động của tổng doanh thu kỳ nghiên cứu so với kỳ gốc do ảnh hưởng của ba nhân tố : doanh thu bình quân 1 ngày khách của từng loại khách , kết cấu ngày khách của từng loại khách và tổng số ngày khách.
*Mô hình 5: Xuất phát từ mối quan hệ
Doanh thu = Doanh thu bình quân *Số ngày lưu trú bình quân *Số khách
chung 1 ngày khách chung 1 khách
Ta có hệ thống chỉ số :
- +Biến động tuyệt đối :
+Biến động tương đối :
-Mô hình này cho phép nghiên cứu biến động của tổng doanh thu kỳ nghiên cứu so kỳ gốc do ảnh hưởng của ba nhân tố : doanh thu bình quân chung 1 khách , số ngày lưu trú bình quân chung 1 khách và tổng số khách.
*Mô hình 6:
+Biến động tuyệt đối :
+Biến động tương đối:
- Mô hình này cho phép nghiên cứu sự biến động của tổng doanh thu kỳ nghiên cứu so kỳ gốc do ảnh hưởng của bốn nhân tố :
doanh thu bình quân 1 ngày khách của từng loại khách, kết cấu ngày khách của từng loại khách, số ngày lưu trú bình quân chung 1 ngày khách và tổng số khách.
* Ngoài ra còn có các mô hình phân tích biến động doanh thu từng bộ phận hoạt động kinh doanh như:
+ Biến động tổng doanh thu khách sạn:
Doanh thu khách sạn
=
Doanh thu bq 1 ngày buồng
*
Số ngày buồng
Doanh thu khách sạn
=
Doanh thu bq 1 ngày buồng
*
Số ngày buồng bq 1 khách
*
Số khách
Doanh thu bq 1 ngày buồng
=
Doanh thu bq 1 ngày buồng từng loại buồng
*
Số ngày buồng từng loại buồng
Số ngày buồng bq 1 khách
=
Số ngày buồng bq 1 khách từng loại khách
*
Số khách từng loại khách
+ Biến động doanh thu bữa ăn
+ Biến động doanh thu giải khát…
Tuy vậy các hệ thống chỉ tiêu phân tích biến động từng bộ phận hầu hết rất ít dùng trong thực tế việc thống kê về từng chỉ tiêu này rất khó. Do đó chúng ta chỉ thường dùng các hệ thống chỉ tiêu tổng thể toàn ngành, hoặc cả một địa phương, một vùng nào đó.
III. MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DỰ ĐOÁN THỐNG KÊ KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG DU LỊCH.
1. Khái niệm và ý nghĩa của phương pháp dự đoán thống kê kết quả hoạt động du lịch.
Dự đoán thống kê theo nghĩa chung nhất là xác định các thông tin chưa biết ở tương lai của hiện tượng nghiên cứu. Dự đoán là phương pháp được sử dụng rộng rãi, phổ biến trong mọi lĩnh vực khoa học kỹ thuật, kinh tế, chính trị xã hội,…với nhiều loại và phương pháp dự đoán khác nhau tuỳ theo đối tượng và mục đích nghiên cứu.
Căn cứ vào độ dài thời gian dự đoán người ta phân ra 3 loại dự đoán chính: dự đoán ngắn hạn, dự đoán trung hạn và dự đoán dài hạn.
Dự đoán thống kê ngắn hạn là việc dự đoán quá trình tiếp theo của hiện tượng trong những khoảng thời gian ngắn, nối tiếp với hiện tại bằng việc sử dụng những thông tin và phương pháp thống kê thích hợp.
Dự đoán thống kê trung hạn là việc dự đoán quá trình tiếp theo của hiện tượng trong những khoảng thời gian xa hơn so với dự đoán ngắn hạn (khoảng 10 – 15 năm) bằng việc sử dụng những thông tin và phương pháp thống kê thích hợp.
Dự đoán thống kê dài hạn là việc dự đoán quá trình tiếp theo của hiện tượng trong những khoảng thời gian (vài chục, hàng chục năm), bằng việc sử dụng những thông tin và phương pháp thống kê thích hợp.
Trong thực tế, do điều kiện về thu thập tài liệu, dựa vào đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu nhằm phản ánh đúng thực tế quy luật biến động của hiện tượng và xây dựng các kế hoạch ngắn hạn tạo điều kiện cho công tác quản lý có hiệu quả, người ta thường dùng phương pháp dự đoán thống kê ngắn hạn
(DĐTKNH).
Phương pháp DĐTKNH có vai trò và nhiều ý nghĩa đối với các nghiên cứu những hiện tượng kinh tế xã hội nói chung và đối với ngành du lịch nói riêng, đặc biệt là nghiên cứu kết quả hoạt động du lịch. Chúng ta có thể dự đoán kết quả hoạt động du lịch cho một doanh nghiệp, một địa phương một vùng hoặc của 1 quốc gia hay cho toàn thế giới.
DĐTKNH có thể áp dụng với khoảng thời gian là ngày, tuần, quý, năm. Tài liệu thường được sử dụng là dãy số thời gian, DĐTKNH là việc dựa vào quy luật biến động của hiện tượng ở hiện tại để suy đoán các mức độ của hiện tượng ở các thời gian kế tiếp đó.
Để thực hiện phương pháp này cần phải đảm bảo các yêu cầu sau:
Tài liệu của dãy số thời gian phải chính xác, bảo đảm tính chất có thể so sánh được giữa các mức độ trong dãy số.
Dãy số thời gian nghiên cứu phải có số lượng các mức độ thích hợp phục vụ cho việc có thể dự đoán được.
Không nên có quá nhiều mức độ vì như thế sẽ làm giảm tác dụng của phương pháp dự đoán dẫn đến mô hình dự đoán sẽ không phản ánh được đầy đủ sự biến động của hiện tượng.
DĐTKNH dựa vào dãy số thời gian có nhiều thuận lợi, việc xây dựng mô hình dự đoán đơn giản, tính toán dễ dàng, không phức tạp về số liệu trong dãy số.
Như vậy, sau khi nghiên cứu kết quả hoạt động du lịch bằng phương pháp dãy số thời gian, từ các chỉ tiêu phân tích dãy số, từ mô hình xu thế, theo thời gian chúng ta sẽ xây dựng các mô hình dự đoán rất đơn giản.
DĐTKNH trong việc nghiên cứu kết quả hoạt động du lịch sẽ cho phép chúng ta xác định mức độ của kết quả đạt được, bản chất quy luật trong tương lai. Từ đó có thể phát hiện ra những nhân tố mới hoặc sự mất cân đối của kết quả. Trên cơ sở giúp các nhà quản lý Nhà nước về du lịch và các doanh nghiệp đưa ra kế hoạch phát triển trong thời gian kế tiếp đó đồng thời tiến hành điều chỉnh kịp thời hoạt động sản xuất kinh doanh cho phù hợp với thực tế. Ngoài ra, các mức độ dự đoán còn cho phép trình bày một số phương pháp thường dùng đó là:
Dự đoán dựa vào hàm xu thế
Dự đoán dựa vào lượng tăng giảm tuyệt đối bình quân
Dự đoán dựa vào tốc độ phát triển bình quân
Dự đoán dựa vào phương pháp san bằng mũ.
Mỗi phương pháp này có một cách dự đoán khác nhau nhưng chênh lệch giữa chúng không nhiều. Nhưng vấn đề là ở chỗ làm thế nào để biết được kết quả nào chính xác nhất. Vì vậy nên chúng ta cần phải lựa chọn phương pháp tốt nhất.
2. Đặc điểm vận dụng một số phương pháp dự đoán thống kê ngắn hạn để dự đoán kết quả hoạt động du lịch.
* Dự đoán kết quả hoạt động du lịch dựa vào hàm xu thế.
Phương pháp dãy số thời gian đã cho phép biểu hiện xu hướng phát triển cơ bản của kết quả hoạt động du lịch bằng hàm hồi quy theo thời gian. Hàm có dạng:
= f(t, bo, b1,… bn)
Trong đó có thể là hàm tuyến tính, hàm parabol, hàm bậc 3, hàm mũ,… và phải là hàm đã được chọn bằng các tiêu chuẩn khác nhau
Dựa vào hàm hồi quy có thể dự đoán kết quả hoạt động du lịch ở thời gian l theo phương trình:
= f(t+l, bo, b1, …, bn)
Trong đó: l=1, 2, 3,…gọi là tầm dự đoán
là mức độ dự đoán ở thời gian (t+l)
Tầm dự đoán thoả mãn l n/3
* Dự đoán dựa vào phương pháp lượng tăng (giảm) tuyệt đối bình quân.
Ở phương pháp dãy số thời gian, chỉ tiêu lượng tăng (giảm) tuyệt đối bình quân được tính theo:
Từ đó có thể dự đoán mức độ ở thời gian l, ta sử dụng mô hình sau:
= yn +. (l= 1, 2, 3…)
Trong đó: yn là mức độ cuối cùng của dãy số.
.l là lượng tăng (giảm) tuyệt đối sau thời gian l
* Dự đoán dựa vào tốc độ phát triển trung bình
Phương pháp dãy số thời gian chỉ tiêu tốc độ phát triển trung bình được tính theo:
Trong đó: là mức độ đầu tiên của dãy số.
là mức độ cuối cùng của dãy số.
Từ đó, để dự đoán mức độ ở thời gian l ta dùng mô hình sau:
= . l l= (1, 2, 3…)
Trong đó: l là tốc độ phát triển sau thời gian l
là mức độ dự đoán thời gian)t+l)
là mức độ cuối cùng của dãy số.
Phương pháp dự đoán này được áp dụng khi các tốc độ phát triển liên hoàn xấp xỉ nhau.
Mô hình trên chỉ vận dụng dự đoán theo năm, ngoài ra có thể mở rộng cho những khoảng thời gian dưới 1 năm, chẳng hạn đối tài liệu quý của từng năm, ta dùng mô hình dự đoán sau:
Trong đó: là mức độ dự đoán của quý i năm j
là tổng các mức độ của các quý i các năm
2 3…(n-1)
Mô hình này có tác dụng rất lớn, đặc biệt đối với các hiện tượng mang tính thời vụ cao như du lịch. Tính thời vụ trong du lịch thường được biểu hiện nhiều ở sự biến động về số lượng khách du lịch. Vì vậy, khi dự đoán về số lượng khách theo tháng hoặc theo quý của các năm thường dùng mô hình này để dự đoán.
* Dự đoán theo phương pháp san bằng mũ.
Các phương pháp dự đoán nêu ở trên là phương pháp đơn giản nhất của phương pháp dự doán thống kê ngắn hạn và các mô hình dự đoán được xây dựng trên cơ sở xem các mức độ trong dãy số là như nhau. Vì vậy, các mô hình này chưa thực sự phản ánh đúng bản chất sự biến động của hiện tượng. Phương pháp san bằng mũ là phương pháp dự đoán thống kê ngắn hạn phức tạp hơn, nó đã hạn chế được nhược điểm của 3 phương pháp trên. Tức là, phương pháp nàu có mô hình dự đoán các mức độ càng ở cuối dãy số càng cần được chú trọng hơn và do đó phản ánh đúng bản chất sự biến động của hiện tượng.
Giả sử gọi
là mức độ thực tế của hiện tượng ở thời gian t.
là mức độ dự đoán của hiện tượng ở thời gian (t+1)
ta có mô hình dự đoán như sau:
Trong đó là mức độ dự đoán ở thời gian t và với điều kiện:=1, và gọi là cá tham số san bằng.
Từ mô hình ta thấy thực chất của là trung bình cộng gia quyền của các mức độ thực tế và mức độ dự đoán , trong đó
= nếu ta thay vào công thức trên sẽ được:
Từ đó có công thức tổng quát là:
Vấn đề ở đây là phải chọn tham số tốt nhất, càng nhỏ hay càng lớn thì tốt. Để giải quyết vấn đề này cần phải phân tích kỹ đặc điểm biến động của hiện tượng. Thực tế chứng minh rằng, lấy trong khoảng từ 0,1 đến 0,4 là tốt nhất.
Trong mô hình trên, giá trị ban đầu có thể là mức độ đầu tiên trong dãy số, hoặc là số trung bình của một số giá trị đầu tiên hoặc tham số của hàm xu thế,…nhưng thông thường người ta chọn mức độ đầu tiên của dãy số.
Tuỳ theo đặc điểm biến động của hiện tượng mà có các mô hình san bằng mũ khác nhau và chọn mô hình thích hợp. Để dự đoán bằng phương pháp này, thống kê sử dụng 4 mô hình sau:
Mô hình không có xu thế và không có biến động thời vụ
= (Mô hình Simple)
tiêu chuẩn để chọn tham số tốt nhất là giá trị của mà làm cho tổng bình phương sai số dự đoán nhỏ nhất (SSE min)
Mô hình với dãy số nghiên cứu có biến động xu thế nhưng không có biến động thời vụ (hay gọi là mô hình Holt)
Với:
> 0 và <1, , là các tham số.
Tiêu chuẩn chọn , là giá trị của chúng mà làm cho tổng bình phương sai số dự đoán nhỏ nhất (SSE min)
Mô hình xu thế kết hợp nhân với biến động thời vụ (hay gọi là mô hình Winter)
Mô hình này có 3 tham số , , . Tiêu chuẩn chọn , , tương tự như trên
Mô hình xu thế kết hợp cộng biến động thời vụ (hay gọi là mô hình custom – addtive)
Mô hình này có 3 tham số , , , Tiêu chuẩn để chọn , , tương tự ở trên
Để tiến hành các mô hình san bằng mũ này, trong thực tế cần thiết phải dùng đến công cụ thống kê máy. Với chương trình này sẽ cho phép chúng ta xác định được cụ thể từng mô hình từ đó có thể phản ánh chính xác đặc điểm biến động đồng thời cho ta các kết quả dự đoán nhanh chóng và hiệu quả. Trên cơ sở đó, cho phép lựa chọn mô hình san bằng mũ tốt nhất để dự đoán. Mô hình san bằng mũ tốt nhất là mô hình có tổng bình phương sai số dự đoán nhỏ nhất bằng việc so sánh giữa các mô hình san bằng mũ với nhau.
Từ mô hình dự đoán tốt nhất của 3 mô hình đơn giản nêu ở trên là: dựa vào hàm xu thế, dựa vào lượng tăng giảm tuyệt đối bình quân, dựa vào tốc độ phát triển trung bình mà tiêu chuẩn chọn là bình phương sai số dự đoán nhỏ nhất và từ mô hình tốt nhất bằng cách san bằng mũ chúng ta chọn mô hình tốt hơn cả bằng cách chọn SSE min.
Nhưng trong thực tế, chương trình thống kê máy cho thấy dự đoán chỉ thực hiện bằng phương pháp hàm xu thế và phương pháp san b
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- DL 169.doc