Tài liệu Đề tài Nghiên cứu tập quán dinh dưỡng một số dân tộc thiểu số miền núi phía bắc tác động đến tình trạng dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi: 1
Cơ quan quản lý: Bộ y tế - viện dinh d−ỡng
Cơ quan thực hiện: Tr−ờng đại học y d−ợc- Đại học thái nguyên
-------------------------------ZY-----------------------------
báo cáo tổng kết đề tài
Nghiên cứu tập quán dinh d−ỡng
một số dân tộc thiểu số miền núi phía bắc
tác động đến tình trạng dinh d−ỡng
trẻ em d−ới 5 tuổi
Chủ nhiệm đề tài: pgs.ts Hoàng khải lập
7105
16/02/2009
Thái Nguyên, 2008
2
Cơ quan quản lý: Bộ y tế - viện dinh d−ỡng
Cơ quan thực hiện: Tr−ờng đại học y d−ợc- Đại học thái nguyên
-------------------------------ZY-----------------------------
báo cáo tổng kết đề tài
Nghiên cứu tập quán dinh d−ỡng
một số dân tộc thiểu số miền núi phía bắc
tác động đến tình trạng dinh d−ỡng
trẻ em d−ới 5 tuổi
Chủ nhiệm đề tài: PGS.TS Hoàng Khải Lập
th− ký đề tài: Ths. Nguyễn Minh Tuấn
Thái Nguyên, 2008
3
danh sách những ng−ời tham gia
1. PGS.TS Hoàng Khải Lập Bộ môn Dịch tễ học
2. Ths Nguyễn Minh Tuấn Bộ môn Dịch tễ học
3. Ths ...
73 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1379 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Nghiên cứu tập quán dinh dưỡng một số dân tộc thiểu số miền núi phía bắc tác động đến tình trạng dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Cơ quan quản lý: Bộ y tế - viện dinh d−ỡng
Cơ quan thực hiện: Tr−ờng đại học y d−ợc- Đại học thái nguyên
-------------------------------ZY-----------------------------
báo cáo tổng kết đề tài
Nghiên cứu tập quán dinh d−ỡng
một số dân tộc thiểu số miền núi phía bắc
tác động đến tình trạng dinh d−ỡng
trẻ em d−ới 5 tuổi
Chủ nhiệm đề tài: pgs.ts Hoàng khải lập
7105
16/02/2009
Thái Nguyên, 2008
2
Cơ quan quản lý: Bộ y tế - viện dinh d−ỡng
Cơ quan thực hiện: Tr−ờng đại học y d−ợc- Đại học thái nguyên
-------------------------------ZY-----------------------------
báo cáo tổng kết đề tài
Nghiên cứu tập quán dinh d−ỡng
một số dân tộc thiểu số miền núi phía bắc
tác động đến tình trạng dinh d−ỡng
trẻ em d−ới 5 tuổi
Chủ nhiệm đề tài: PGS.TS Hoàng Khải Lập
th− ký đề tài: Ths. Nguyễn Minh Tuấn
Thái Nguyên, 2008
3
danh sách những ng−ời tham gia
1. PGS.TS Hoàng Khải Lập Bộ môn Dịch tễ học
2. Ths Nguyễn Minh Tuấn Bộ môn Dịch tễ học
3. Ths Nguyễn Văn Thái Bộ môn Y học cộng đồng
4. BS L−ơng Thị Thu Hà Bộ môn Y học cộng đồng
5. BS Đào Ngọc Sơn Phòng Y tế Phú L−ơng - Thái Nguyên
6. Ths Nguyễn Hải Sơn Trung tâm Y tế dự phòng Sa Pa - Lào Cai
7. SV Trần Ngọc Anh Sinh viên Y6 - K36A
Cơ quan phối hợp nghiên cứu
1. Hội Dinh d−ỡng Việt Nam
2. Phòng Y tế huyện Phú L−ơng - Thái Nguyên
3. Trung tâm Y tế dự phòng Sa Pa - Lào Cai
4
Lời cảm ƠN
Chúng tôi trân trọng cảm ơn sự hợp tác của Viện Dinh d−ỡng, Hội dinh
d−ỡng Việt Nam đã hỗ trợ về kỹ thuật và kinh phí để chúng tôi thực hiện
nghiên cứu này.
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn sự quan tâm của Ban Giám hiệu
Tr−ờng Đại học Y D−ợc Thái Nguyên, Phòng Quản lý khoa học, cảm ơn sự
phối hợp của các bộ môn Y học cộng đồng, Nhi, Dịch tễ trong quá trình triển
khai nghiên cứu.
Chúng tôi xin cảm ơn Phòng Y tế huyện Phú L−ơng - Thái Nguyên, Trung
tâm Y tế dự phòng Sa Pa - Lào Cai và các xã nghiên cứu đã đã tạo điều kiện
thuận lợi, giúp đỡ chúng tôi thu thập số liệu để hoàn thành đề tài này.
Xin trân trọng cảm ơn!
Thái Nguyên, ngày 15 tháng 11 năm 2008
Chủ nhiệm đề tài
PGS.TS Hoàng Khải Lập
5
Mục lục
Nội dung Trang
Trang phụ bìa
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục bảng
Danh mục hình
Đặt vấn đề 1
Ch−ơng 1- Tổng quan 3
1.1. Một số nghiên cứu về SDD trẻ em d−ới 5 tuổi ở Việt Nam và trên thế
giới
3
1.1.1. Một số nghiên cứu về tình trạng SDD trẻ em các n−ớc trên thế giới 3
1.1.2. Tình hình SDD trẻ em d−ới 5 tuổi ở Việt Nam 6
1.1.3. Tình trạng SDD trẻ em d−ới 5 tuổi khu vực miền núi 9
1.2. Một số nghiên cứu về yếu tố liên quan đến tình trạng dinh d−ỡng ở trẻ em
d−ới 5 tuổi ở Việt Nam
15
Ch−ơng 2- Đối t−ợng và ph−ơng pháp nghiên cứu 20
2.1. Đối t−ợng nghiên cứu 20
2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu 20
2.3. Ph−ơng pháp nghiên cứu 20
2.3.1. Nghiên cứu định tính 20
2.3.2. Nghiên cứu định l−ợng 21
2.3.3. Chỉ tiêu nghiên cứu 23
2.4. Ph−ơng pháp thu thập số liệu 24
2.5. Ph−ơng pháp phân tích và xử lý số liệu 24
Ch−ơng 3- Kết quả nghiên cứu 25
3.1. Tập quán dinh d−ỡng của dân tộc Tày, Sán Chay, Mông, Dao ở miền núi
phía Bắc Việt Nam
25
3.2. Tình trạng dinh d−ỡng trẻ em d−ới 5 tuổi dân tộc Sán Chay và Kinh tại Thái
Nguyên
31
3.3. Mối liên quan giữa tập quán dinh d−ỡng và tình trạng dinh d−ỡng trẻ em
d−ới 5 tuổi
33
Ch−ơng 4 - Bàn luận 42
4.1. Tập quán dinh d−ỡng của dân tộc Tày, Sán Chay, Mông, Dao ở miền núi
phía Bắc Việt Nam
42
4.2. Tình trạng dinh d−ỡng trẻ em d−ới 5 tuổi dân tộc Sán Chay tại Thái Nguyên 47
4.3. Yếu tố liên quan đến tình trạng SDD trẻ em d−ới 5 tuổi 50
Kết luận 55
khuyến nghị 56
Danh mục sản phẩm khoa học của đề tài 57
Tài liệu tham khảo 58
Phụ lục 64
6
Danh mục Các chữ viết tắt
ABS ăn bổ sung
KTXH Kinh tế xã hội
NCHS
Trung tâm quốc gia về thống kê sức khoẻ của Hoa Kỳ
(National Center for Health Statistics)
NKHH Nhiễm khuẩn hô hấp
SDD Suy dinh d−ỡng
THPT Trung học phổ thông
TTDD Tình trạng dinh d−ỡng
UNICEF
Qũi Nhi đồng Liên hiệp quốc
(United Nation Children's Fund)
WHO Tổ chức Y tế Thế giới
(World Health Organization)
7
Danh Mục bảng
Bảng Tên bảng Trang
1.1 Dự báo tỷ lệ SDD đến năm 2020 ở các n−ớc đang phát triển 6
1.2 Tỷ lệ SDD trẻ em d−ới 5 tuổi tại Việt Nam từ năm 1985 - 2007 7
1.3 Tỷ lệ SDD trẻ em d−ới 5 tuổi ở Việt Nam phân bố theo khu vực
năm 2007
8
1.4 Tỷ lệ SDD (cân nặng / tuổi) theo khu vực năm 2007 9
1.5 So sánh tỷ lệ SDD trẻ em d−ới 5 tuổi ng−ời dân tộc thiểu số và dân tộc
Kinh năm 2004
12
3.1 Tỷ lệ SDD giữa dân tộc Kinh và dân tộc thiểu số 31
3.2 Tỷ lệ SDD nhẹ cân theo nhóm tuổi và dân tộc 31
3.3 Mức độ SDD nhẹ cân theo dân tộc 32
3.4 Mối liên quan giữa kinh tế gia đình và SDD nhẹ cân của trẻ 33
3.5 Mối liên quan giữa trình độ văn hoá của mẹ và SDD nhẹ cân 33
3.6 Mối liên quan giữa dân tộc của mẹ và SDD nhẹ cân của trẻ 34
3.7 Mối liên quan giữa tuổi của mẹ khi mang thai và SDD nhẹ cân 34
3.8 Mối liên quan giữa số con trong gia đình với SDD nhẹ cân của trẻ
3.9 Mô hình hồi qui các yếu tố KTXH và gia đình với SDD nhẹ cân 35
3.10 Mối liên quan giữa bú mẹ sớm sau đẻ với SDD nhẹ cân của trẻ 36
3.11 Mối liên quan giữa thời điểm ABS với SDD nhẹ cân của trẻ 36
3.12 Mối liên quan giữa thành phần thức ABS với SDD nhẹ cân 37
3.13 Mối liên quan giữa thời gian cai sữa với SDD nhẹ cân của trẻ 37
3.14 Mô hình hồi qui về các yếu tố chăm sóc và tình trạng SDD 38
3.15 Mối liên quan giữa cân nặng lúc đẻ của trẻ với SDD nhẹ cân 39
3.16 Mối liên quan giữa tiêu chảy trong 2 tuần qua với SDD nhẹ cân 39
3.17 Mối liên quan giữa NKHH trong 2 tuần qua với SDD nhẹ cân 40
3.18 Mô hình hồi qui về các yếu tố cá nhân và tình trạng SDD 40
3.19 Mô hình hồi qui các yếu tố nguy cơ của SDD thể nhẹ cân 41
Danh Mục hình
Hình Tên hình Trang
1.3 Diễn biến SDD trong 5 năm 2001-2005 tại địa bàn nghiên cứu 32
8
Tóm tắt kết quả nghiên cứu
đề tài hợp tác khoa học và công nghệ
1. Thông tin chung
Tên đề tài: Nghiên cứu tập quán dinh d−ỡng một số dân tộc thiểu số
miền núi phía Bắc tác động đến tình trạng dinh d−ỡng trẻ em d−ới 5 tuổi
Chủ nhiệm đề tài: PGS.TS Hoàng Khải Lập
Điện thoại: 0913 075 464 Email: hoangkhailap@yahoo.com
Cơ quan chủ trì: Tr−ờng Đại học Y d−ợc - Đại học Thái Nguyên
Cơ quan chủ quản: Viện Dinh d−ỡng
Thời gian: Từ tháng 1/2007 đến tháng 12/2007
2. Mục tiêu
- Tìm hiểu tập quán dinh d−ỡng của dân tộc Tày, Sán Chay, Mông, Dao ở miền
núi phía Bắc Việt Nam.
- Đánh giá tình trạng dinh d−ỡng trẻ em d−ới 5 tuổi dân tộc Sán Chay tại Thái
Nguyên.
- Phân tích mối liên quan giữa tập quán dinh d−ỡng và tình trạng dinh d−ỡng
trẻ em d−ới 5 tuổi dân tộc Sán Chay.
3. Nội dung chính
Sử dụng ph−ơng pháp PRA với các kỹ thuật thu thập số liệu định tính,
nghiên cứu đã xác định đ−ợc một số tập quán dinh d−ỡng của dân tộc Tày, Sán
Chay tại Thái Nguyên và dân tộc Mông, Dao tại Lào Cai. 458 trẻ em d−ới 5
tuổi dân tộc Sán Chay và 387 trẻ em dân tộc Kinh đ−ợc cân đo để đánh giá
mức độ SDD. Trên cơ sở đó 1 nghiên cứu bệnh chứng đ−ợc tiến hành trên 299
ng−ời mẹ và trẻ d−ới 5 tuổi ở mỗi nhóm và phân tích hồi qui logistic để xác
định các yếu tố liên quan đến tình trạng SDD trẻ em tại khu vực nghiên cứu.
9
4. Kết quả đạt đ−ợc
4.1. Tập quán dinh d−ỡng của một số dân tộc thiểu số khu vực nghiên cứu
Dân tộc Sán Chay, Tày, Mông, Dao ở khu vực miền núi phía Bắc có chế
độ ăn thiên về thực vật với nhiều cách chế biến phong phú, sử dụng nhiều gia vị
và các chất tạo màu từ thiên nhiên. Trẻ em đ−ợc nuôi bằng sữa mẹ kéo dài và
−u tiên trong ăn uống. Song còn nhiều tập quán kiêng kỵ liên quan đến tín
ng−ỡng đặc biệt là trong thời gian mang thai và khi trẻ mắc bệnh.
4.2. Tình trạng dinh d−ỡng của trẻ em dân tộc Sán Chay tại Thái Nguyên
- Tỷ lệ SDD trẻ em dân tộc Sán Chay ở mức rất cao đối với thể nhẹ cân
(40,8%) và thấp còi (43,7%), SDD thể gầy còm ở mức độ trung bình (9,8%).
- Tỷ lệ SDD nhẹ cân ở trẻ em dân tộc Sán Chay cao hơn trẻ em dân tộc Kinh
cùng khu vực (28,9%) với p<0,001. Không có sự khác biệt về SDD thấp còi và
gầy còm giữa 2 dân tộc.
4.3. Một số yếu tố liên quan đến tình trạng SDD trẻ em d−ới 5 tuổi
Các yếu tố liên quan đến tập quán chăm sóc, nuôi d−ỡng có ảnh h−ởng
lớn đến tình trạng SDD trẻ em d−ới 5 tuổi nh− ABS sớm (OR=1,85), chất l−ợng
thức ABS không đảm bảo (OR= 2,07), thời gian cai sữa không hợp lý (OR=
2,55).
TTDD của trẻ còn chịu ảnh h−ởng của điều kiện kinh tế gia đình
(OR=1,69), tình trạng NKHH cấp (OR=1,67) và cân nặng lúc đẻ (OR=2,58)
5. Sản phẩm khoa học của đề tài
- 01 đề tài đạt giải Nhì giải th−ởng “Sáng tạo kỹ thuật Việt Nam - VIFOTEX”
năm 2007.
- 01 giải th−ởng “Sinh viên nghiên cứu khoa học” của Bộ Giáo dục và Đào tạo
năm 2007.
- 01 đề tài đạt giải Nhì “Hội nghị KHCN tuổi trẻ các tr−ờng Đại học Y D−ợc
Việt Nam lần thứ 14” năm 2008.
- “Tập quán dinh d−ỡng một số dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc”, Chuyên đề
về nguy cơ sức khoẻ và một số bệnh đặc thù ở khu vực miền núi, Nxb Y học,
Hà Nội, tr. 125 - 139.
10
Đặt vấn đề
Hiện nay, SDD vẫn bệnh th−ờng gặp ở trẻ em d−ới 5 tuổi. Tỷ lệ mắc
bệnh biểu hiện ở nhiều khu vực có khác nhau. Tình trạng SDD không chỉ ảnh
h−ởng tới phát triển thể chất, tâm thần và vận động của trẻ, mà còn ảnh h−ởng
đến nòi giống và sức lao động sau này.
Ngày nay, không chỉ riêng n−ớc ta mà còn nhiều n−ớc trên thế giới vẫn
đang phải tiếp tục đ−ơng đầu với thách thức của tình trạng SDD ở trẻ em d−ới 5
tuổi. Theo tổ chức Y tế Thế giới (WHO) −ớc tính có khoảng 500 triệu trẻ em bị
SDD trên toàn cầu, trong đó Châu á có 150 triệu trẻ em, chiếm 44% tổng số
trẻ em d−ới 5 tuổi [68]
Tại Việt Nam, trong những năm vừa qua đã đạt đ−ợc nhiều thành tựu
trong công tác phòng chống SDD trẻ em với mức giảm SDD trung bình hàng
năm khoảng 2%. Tuy nhiên tỷ lệ SDD trẻ em n−ớc ta vẫn ở mức rất cao so với
ng−ỡng phân loại của Tổ chức Y tế thế giới (năm 2005: 25,2%) [45]. Qua khảo
sát thực tế đã cho thấy, công tác phòng chống SDD mới chỉ thực hiện tốt ở khu
vực thành thị, còn vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số tỷ lệ SDD
trẻ em vẫn rất cao. Trong năm 2007 các tác giả Nguyễn Minh Tuấn và cộng sự
nghiên cứu tại một số xã miền núi Thái Nguyên cho thấy tỷ lệ SDD là 35,7%;
SDD thể thấp còi là 41,2%; SDD thể gầy còm là 10,2% [40]. Nghiên cứu tại
một số tỉnh miền núi phía Bắc năm 2004, tác giả Hoàng Khải Lập cũng cho
thấy SDD là vấn đề sức khoẻ cộng đồng ở khu vực miền núi với tỷ lệ SDD là
37,8% [24]..v.v.
Tr−ớc tính trầm trọng của vấn đề, nên từ năm 1994 việc phòng chống SDD
đã đ−ợc đ−a thành ch−ơng trình mục tiêu quốc gia và đã có rất nhiều nghiên
cứu nhằm tìm kiếm giải pháp hạ thấp tỷ lệ SDD trẻ em. Song theo đánh giá của
ch−ơng trình mục tiêu quốc gia về dinh d−ỡng, các hoạt động đó ch−a thực sự
có hiệu quả và bền vững vì ch−a thực hiện dựa vào cộng đồng và gia đình. Sự
tham gia, nhận thức của cộng đồng về vấn đề này còn rất hạn chế, tại nhiều
11
khu vực miền núi còn tồn tại nhiều nguy cơ dẫn đến SDD trẻ em ch−a đ−ợc đề
cập đến. Các nghiên cứu này đều đ−a ra khuyến nghị: Cần nghiên cứu thêm các
giải pháp riêng biệt cho từng vùng sinh thái vì mức độ tác động của các yếu tố
nguy cơ ở các vùng là khác nhau. Trong các nguy cơ nói trên cần đ−ợc đề cập
đến các tập quán dinh d−ỡng của đồng bào, trong đó đặc biệt là đồng bào các
dân tộc thiểu số miền núi. Chính vì vậy, nghiên cứu tập quán đinh d−ỡng của
đồng bào các dân tộc thiểu số nhằm xác định đúng giá trị của nó trong chiến
l−ợc phòng chống SDD ở n−ớc ta là rất có ý nghĩa trong giai đoạn hiện nay. Từ
đó tác động đến nhận thức của ng−ời dân nhằm bổ sung, phát huy những tập
quán có lợi và thay đổi những tập quán bất lợi, h−ớng tới dinh d−ỡng hợp lý
cho toàn dân nh− mục tiêu chiến l−ợc quốc gia về dinh d−ỡng giai đoạn 2001 -
2010 đã đề ra [4]. Nghiên cứu đ−ợc tiến hành với mục tiêu sau:
1. Tìm hiểu tập quán dinh d−ỡng của dân tộc Tày, Sán Chay, Mông, Dao ở
miền núi phía Bắc Việt Nam.
2. Đánh giá tình trạng dinh d−ỡng trẻ em d−ới 5 tuổi dân tộc Sán Chay tại
Thái Nguyên.
3. Phân tích mối liên quan giữa tập quán dinh d−ỡng và tình trạng dinh
d−ỡng trẻ em d−ới 5 tuổi dân tộc Sán Chay.
12
Ch−ơng 1
Tổng quan
1.1. Một số nghiên cứu về SDD trẻ em d−ới 5 tuổi ở Việt Nam và trên
thế giới
1.1.1. Một số nghiên cứu về tình trạng SDD trẻ em các n−ớc trên thế giới
Tình trạng dinh d−ỡng trẻ em d−ới 5 tuổi tại các n−ớc phát triển và đang
phát triển có sự khác biệt rất lớn. ở các n−ớc đang phát triển, hàng năm có
khoảng 12 triệu trẻ em d−ới 5 tuổi chết, nguyên nhân chủ yếu do các bệnh
nhiễm trùng, ỉa chảy, sởi, sốt rét và SDD [38].
Một số nghiên cứu ở Agaro - Tây Ethiopia năm 1996 cho thấy tỷ lệ SDD
chung cho trẻ là 54,6% còn ở trẻ gái là 43,5%. SDD thể còi cọc chung cho cả
hai giới là 18,6% [57].
Các nghiên cứu ở vùng Niamey - Nigeria (1995) ở trẻ em d−ới 5 tuổi
cho thấy tỷ lệ SDD cấp tính của trẻ d−ới 6 tháng tuổi là 17,7% và SDD mạn
tính là 28,7% [51].
Một số tác giả ở trung tâm Aganwadi phối hợp với ch−ơng trình phát triển
trẻ em (ICDS) ở Luknow ( Bắc ấn Độ, 1997) điều tra trên 1.061 trẻ tuổi từ 1,5
đến 3,5 tuổi kết quả cho thấy tỷ lệ SDD cân nặng thấp là 67,6%. Tỷ lệ SDD
chiều cao theo tuổi 62,% còn SDD cân nặng theo chiều cao là 26,5% [50].
Năm 1995 ở Tây Kalimantan (Indonsia), một số nghiên cứu đã cho thấy
48,1% trẻ d−ới 5 tuổi đ−ợc điều tra tại đây là thể SDD thể thiếu cân, 49,3% trẻ
SDD thể còi cọc. Kết quả điều tra tại Cebu - Philipin (1997) cũng cho thấy 69%
trẻ d−ới 24 tháng tuổi ở nông thôn và 60% ở thành thị là SDD thể còi cọc [48].
Tại Lào qua cuộc điều tra đầu tiên năm 1996 về tình trạng SDD của trẻ
em cho thấy 48% trẻ SDD thiếu protêin năng l−ợng (62%).
13
Theo báo cáo về dinh d−ỡng của UNICEF công bố ngày 2/5/2006 cho
biết trẻ em d−ới 5 tuổi ở các n−ớc đang phát triển vẫn đang bị đe doạ về tình
trạng dinh d−ỡng không đầy đủ. Thiếu dinh d−ỡng vẫn là đại dịch toàn cầu dẫn
đến một nửa số ca tử vong là trẻ em, khoảng 5,6 triệu trẻ em mỗi năm [33][65].
Các nghiên cứu của nhiều quốc gia trên thế giới cho thấy tỷ lệ SDD có sự
chênh lệch rõ rệt giữa vùng nông thôn và thành thị. Kết quả cuộc khảo sát về
tình hình kinh tế xã hội quốc gia ở Inđonesia năm 2003 cho thấy tỷ lệ SDD trẻ
em d−ới 5 tuổi ở vùng thành thị là 25%, trong khi đó ở vùng nông thôn là 30%
[60]. Tại Kenya, theo báo cáo chung năm 2003, tỷ lệ SDD ở thành thị là 13%
còn ở nông thôn là 21% [54]. Theo báo cáo của HAS năm 2003 tại vùng thành
thị của Ai Cập, tỷ lệ trẻ em bị SDD là 7%, vùng nông thôn tỷ lệ đó là 10%. Báo
cáo của UNICEF năm 2000 cũng cho thấy tỷ lệ SDD trẻ em d−ới 5 tuổi tại Iraq
giữa vùng thành thị và nông thôn cũng có sự khác biệt, ở vùng thành thị là
15%, nông thôn 18% [62].
Mặc dù tình hình SDD trẻ em ở các n−ớc đang phát triển còn ở mức khá
cao. Tuy vậy, với sự nỗ lực của Chính phủ các quốc gia trong lĩnh vực phòng
chống SDD trẻ em, trong khoảng vài năm gần đây, tình hình SDD trẻ em tại
các n−ớc trong khu vực này đã đ−ợc cải thiện đáng kể ở một số quốc gia.
Tỷ lệ trẻ em d−ới 5 tuổi bị SDD trong cộng đồng trên toàn cầu theo các
nghiên cứu mới đây cho thấy có xu thế chung là giảm, từ 34,3%(1985) xuống
còn 30,7% (1990) và năm 1995 là 29,3% [19],[20]. Tuy nhiên, sự giảm tỷ lệ
SDD trẻ em tại các n−ớc không nh− nhau: Tại Thái Lan, tỷ lệ SDD trẻ em là
36,0% (1982), đến năm 1990 chỉ còn 13,0%. Tại Philipin tỷ lệ SDD trẻ em
d−ới 5 tuổi là 33,5% (1990) và giảm xuống còn 29,6% vào năm 1993 [19].
Sự giảm thể loại SDD cũng khác nhau. Tại vùng nông thôn Valencia,
một số tác giả đã tiến hành điều tra sức khoẻ cộng đồng ở trẻ d−ới 5 tuổi ng−ời
Châu Phi và so sánh với quần thể tham khảo NCHS cho thấy thể cân nặng thấp
so với tuổi đã giảm từ 28% xuống 19%, chiều cao theo tuổi giảm từ 33%
xuống 17%, cân nặng thấp theo chiều cao giảm từ 5% xuống còn 1% (1995).
14
Các tác giả cho rằng sự thành công này là một phần của ch−ơng trình chăm sóc
sức khoẻ ban đầu [52].
Theo báo cáo của UNICEF cho biết chỉ có hai khu vực trên thế giới hoạt
động phòng chống SDD đang đi đúng h−ớng và đáp ứng đ−ợc mục tiêu phát
triển thiên niên kỷ- giảm đ−ợc tỷ lệ trẻ em thiếu cân: Châu Mỹ La Tinh, vùng
Caribe và Đông á và Thái Bình D−ơng, với tỷ lệ thiếu cân t−ơng ứng là 7% và
15%. Điều đáng quan tâm là Trung Quốc đạt đ−ợc thành tích đáng khích lệ
trong việc giảm đ−ợc trẻ em thiếu cân trung bình là 6,7% mỗi năm kể từ năm
1990. Những quốc gia khác trong khu vực nh− ở Nam á, Bănglađét, ấn Độ
và Pkixitan đã không đạt đ−ợc kết quả mong muốn t−ơng tự nh− các n−ớc
khác [67].
Trên thế giới, mặc dù đã có một số quốc gia trong lĩnh vực phòng chống
SDD trẻ em, nh−ng trong 15 năm vừa qua các quốc gia đang phát triển trung
bình mới chỉ giảm đ−ợc 1,5% trẻ em thiếu cân. Hiện nay, còn 27% trẻ em ở
các n−ớc đang phát triển bị thiếu cân. Gần 3/4 trẻ em thiếu cân trên toàn thế
giới đang sống ở 10 quốc gia và hơn một nửa trong số đó sống ở 3 n−ớc:
Băngladet, Ân Độ, Pakixtan. Năm 2004, tỷ lệ trẻ từ 0 - 59 tháng tuổi bị thiếu
cân ở Bănglađét là 48% [55], ấn Độ là 47% [61] và ở Pakixtan là 38% [66].
Trên cơ sở phân tích và tổng hợp các yếu tố, các khu vực, Viện nghiên
cứu chiến l−ợc và Chính sách dinh d−ỡng Quốc tế (IFPRI) đã đ−a ra một dự
báo tỷ lệ SDD đến năm 2020 ở các n−ớc đang phát triển nh− sau [58].
Bảng 1.1. Dự báo tỷ lệ SDD đến năm 2020 ở các n−ớc đang phát triển (%)
Khu vực 1995 2020
Bi quan
2020
Trung bình
20020
Lạc quan
Nam á 49,3 40,3 37,4 34,5
Cận sa mạc Châu Phi 31,1 32,4 28,8 25,7
Khu vực Đông Nam á 22,9 13,1 12,8 12,6
15
Đông và Nam Phi 14,6 7,4 5,0 3,7
Mỹ La Tinh/ Caribê 9,5 4,0 1,9 -
Chung các n−ớc đang
phát triển
31,0 21,8 18,4 15,1
1.1.2. Tình hình SDD trẻ em d−ới 5 tuổi ở Việt Nam
SDD trẻ em ở Việt Nam trong những năm qua và hiện nay vẫn đang là
vấn đề phổ biến. Các kết quả nghiên cứu của Viện Dinh D−ỡng từ năm 1985
đến 2007 cho thấy tỷ lệ SDD trẻ em trong cộng đồng đều đã giảm đáng kể, tuy
nhiên vẫn ở mức cao hoặc rất cao so với tiêu chuẩn phân loại SDD cộng đồng ở
cả 3 thể cân nặng theo chiều cao tuổi, chiều cao theo tuổi và cân nặng theo
chiều cao . Tỷ lệ SDD trẻ em d−ới 5 tuổi năm 1985 là 51,5%, năm 1995 là
44,9%, năm 2005 là 25,5% và tỷ lệ này là 21% vào năm 2007 [44],[45],
[46],[47]. Tuy nhiên, nếu xét theo từng vùng sinh thái khác nhau thì sự phân bố
tỷ lệ này có thể khác nhau rất nhiều, tỷ lệ SDD cao nhất hiện nay nh− các vùng
miền núi Tây Nguyên, vùng miền núi Đông Bắc, tại các vùng này có nơi tỷ lệ
trẻ em SDD có thể tới 45%. Đặc biệt tại các tỉnh miền núi phía Bắc, nghiên cứu
của Hoàng Khải Lập và cộng sự năm 1996 cho thấy tỷ lệ SDD trẻ em d−ới 5
tuổi của các dân tộc Thái (Sơn La): 45,83%; dân tộc Giáy (Lai Châu): 48,58%
và dân tộc M−ờng (Hoà Bình): 44,76% [23].
Bảng 1.2. Tỷ lệ SDD trẻ em d−ới 5 tuổi tại Việt Nam từ năm 1985 – 2007
Thể SDD Năm
Cân nặng theo tuổi
(%)
Chiều cao theo tuổi
(%)
Cân nặng theo chiều cao
(%)
1985 51,5 59,7 7,0
1990 44,9 56,5 9,3
16
1995 40,7 46,9 11,6
2000 33,8 36,5 8,6
2005 22,5 29,6 6,9
2007 21,2 33,9 7,1
* Nguồn Viện Dinh d−ỡng 1985 – 2007
Nghiên cứu của Tr−ơng Thị S−ơng và cộng sự năm (1999) qua khám l−u
động cho 5.084 trẻ em, trong đó có 1.906 trẻ em d−ới 5 tuổi tại 18 xã thuộc 19
huyện của tỉnh Quảng Nam cho thấy tỷ lệ SDD là 42,47%, trong đó SDD nặng
và rất nặng chiếm 11,38%. Nhóm tuổi có tỷ lệ SDD thấp nhất từ 0- 12 tháng,
có tỷ lệ SDD cao nhất là từ 24-36 tháng (56,0%) [31].
Kết quả điều tra của Đinh Văn Thức và cộng sự tại hai xã Đặng C−ơng
và Quốc Tuấn, huyện An Hải, Hải Phòng năm 2000 cho thấy tỷ lệ SDD thể còi
cọc chiếm 42,32%, thể gầy mòn là 4,41% và thể phối hợp còi cọc và gầy mòn
là 2,8%. Tỷ lệ suy đinh d−ỡng cao nhất ở nhóm tuổi 13 - 24 tháng (42,76%),
thấp nhất ở nhóm 0 - 12 tháng tuổi ( 23,42%) [37].
Sự khác nhau về tỷ lệ các thể SDD trẻ em d−ới 5 tuổi cũng đ−ợc nhận
thấy ở các nghiên cứu của tác giả Lê Danh Tuyên năm 2005 khi nghiên cứu
đặc điểm dịch tễ học và một số yếu tố nguy cơ SDD thể thấp còi ở trẻ em d−ới
5 tuổi ở một số vùng sinh thái khác nhau ở n−ớc ta hiện nay, nghiên cứu đã cho
thấy trong cả 8 vùng sinh thái thì có 3 vùng có tỷ lệ SDD thấp còi xếp vào mức
trung bình là Đông Nam Bộ: 22%; đồng bằng Sông Hồng: 26,4% và đồng bằng
sông Cửu Long: 28,2%; 5 vùng có tỷ lệ SDD thấp còi xếp vào mức cao là Nam
Trung Bộ: 32% ; Đông Bắc: 36,4%; Bắc Trung Bộ: 37% ; Tây Bắc: 37,2% và
Tây Nguyên 39,2%. Không còn vùng nào có tỷ lệ SDD thấp còi ở mức rất cao
theo phân loại của WHO [41].
Các nghiên cứu tiến hành trên các trẻ em ng−ời dân tộc thiểu số ở khu
vực miền núi phía Bắc nh− Ôn L−ơng - Thái Nguyên của các tác giả Hoàng
Khải Lập và Nguyễn Minh Tuấn năm 2003 đã cho thấy: Tỷ lệ SDD trẻ em d−ới
17
5 tuổi ng−ời dân tộc Tày là 41,9%, cao hơn rất nhiều so với trẻ em ng−ời dân
tộc Kinh sống cùng khu vực. Tỷ lệ SDD chung tại khu vực này là 39,1%, SDD
thể thấp còi là 45,3%; SDD thể gầy còm là 9,4% [39]. Cũng các tác giả này khi
nghiên cứu tình trạng dinh d−ỡng và sức khoẻ bệnh tật bà mẹ và trẻ em ở tỉnh
Hà Giang năm 2004 đã cho thấy tỷ lệ suy d−ỡng trẻ em các dân tộc ở đây là
41,6% [24].
Bảng 1.3. Tỷ lệ SDD trẻ em d−ới 5 tuổi ở Việt Nam phân bố theo khu vực
năm 2007 [47]
Thể SDD Tên vùng
Cân nặng/ tuổi Chiều cao/ tuổi Cân nặng/
Chiều cao
Toàn quốc 21,2 33,9 7,1
Đồng bằng sông Hồng 18,3 29,8 6,7
Tây Bắc 27,2 37,6 7,6
Đông Bắc 23,8 36,0 7,6
Bắc Miền Trung 25,0 36,2 7,6
Năm Trung Bộ 20,7 33,2 7,6
Tây Nguyên 31,0 42,3 7,8
Đông Nam Bộ 17,94 28,1 6,6
Đồng bằng sông Cửu Long 20,7 30,8 7,5
Nh− vậy, qua các nghiên cứu của nhiều tác giả cho thấy trong khoảng 10
năm trở lại đây tình hình bệnh SDD em d−ới 5 tuổi đã có phần cải thiện. Tuy
nhiên ở các tỉnh miền núi phía Bắc, các chỉ số về tình trạng bệnh tật, SDD tại
cộng đồng hiện vẫn còn cao hơn các chỉ số chung của toàn quốc.
Nhiều yếu tố nguy cơ của bệnh cũng đã đ−ợc đề cập đến bởi nhiều tác
giả nh− yếu tố kinh tế, văn hoá, xã hội, còn một số yếu tố nh− tập quán dinh
d−ỡng của các bà mẹ dân tộc ít ng−ời còn ít đ−ợc đề cập đến và cần có các
nghiên cứu sâu về vấn đề này để có cơ sở góp phần làm sáng tỏ thêm về
18
nguyên nhân SDD trẻ em dân tộc thiểu số miền núi và làm cơ sở xây dựng các
giải pháp cải thiện tình trạng sức khoẻ trẻ em khu vực miền núi.
1.1.3. Tình trạng SDD trẻ em d−ới 5 tuổi khu vực miền núi
Trong những năm gần đây, SDD trẻ em d−ới 5 tuổi ở Việt Nam đang có
xu h−ớng giảm dần, song vẫn ở mức cao so với phân loại SDD cộng đồng của
WHO ( 20,0% - 29,0% ). Theo kết quả điều tra theo rõi tỷ lệ SDD trẻ em các
tỉnh năm 2007 của Viện Dinh D−ỡng và Tổng cục thống kê thì tỷ lệ SDD trẻ
em Việt Nam hiện nay là 21,2% [47]. Trong đó cao nhất là khu vực Tây
Nguyên 31,0%, tiếp đến là khu vực miền núi Tây Bắc: 27,2% và ở vùng Đông
Bắc là 23,8%.
Bảng 1.4. Tỷ lệ SDD (cân nặng / tuổi) theo khu vực năm 2007 [47]
Số TT Khu vực Tỷ lệ SDD ( % )
1 Tây Nguyên 31,0
2 Tây Bắc 27,2
3 Bắc Trung Bộ 25,0
4 Đông Bắc 23,8
5 Nam Trung Bộ 20,7
6 Đồng bằng sông Cửu Long 20,7
7 Đồng bằng sông Hồng 18,3
8 Đông Nam Bộ 17,9
9 Toàn quốc 21,2
Kết quả bảng trên cho thấy có sự khác nhau khá lớn về tỷ lệ SDD trẻ em ở
các vùng sinh thái n−ớc ta. Tỷ lệ SDD ở các vùng miền núi luôn cao hơn vùng
đồng bằng, vùng nông thôn cao hơn thành thị....Trong khi một số tỉnh vùng
đồng bằng tỷ lệ suy d−ỡng trẻ em đã giảm xuống ở mức thấp nh− thành phố Hồ
Chí Minh ( 7,8% ) và Hà Nội ( 9,7% ), thì nhiều tỉnh khu vực miền núi tỷ lệ
SDD vẫn ở mức rất cao nh− Đắc Nông (31,9%), KonTum (31,5%), Đắc Lắc (
30,4% ), Quảng Bình ( 30,6% ), Lai Châu ( 30,0% ) [47]. Sự chênh lệch về tỷ
lệ SDD nói trên giữa miền núi và miền xuôi cho thấy mức độ trầm trọng của
SDD trẻ em khu vực miền núi.
19
Một số nghiên cứu về tình trạng SDD trẻ em khu vực miền núi trong
những năm qua cũng cho thấy trẻ em ng−ời dân tộc thiểu số có nguy cơ SDD
cao hơn trẻ em ng−ời Kinh cùng khu vực :
Điều tra có bản sinh thái môi tr−ờng và cơ cấu bệnh tật của nhân dân
một số vùng dân tộc vùng miền núi phía Bắc Việt Nam năm 1996 của tr−ờng
Đại học Y khoa Bắc Thái cho thấy tỷ lệ SDD trẻ em d−ới 5 tuổi của các dân tộc
nh− sau [23]:
Dân tộc Sán Dìu ( Thái Nguyên ) : 61,63%
Dân tộc Mông ( Hà Giang ) : 54,04%
Dân tộc Thái ( Sơn La ): 45,83%
Dân tộc Tày ( Lạng Sơn ): 46,82%
Dân tộc Giáy ( Lai Châu ) : 48,58%
Dân tộc M−ờng ( Hoà Binh ): 44,76%
Dân tộc Kinh : 37,54%
So với tỷ lệ SDD chung toàn quốc cùng thời điểm năm 1996 là 38,78%,
cho thấy rõ ràng tỷ lệ SDD trẻ em dân tộc ít ng−ời trong điều tra này cao hơn
rất nhiều.
Năm 1999, một nghiên cứu mô tả của Đàm Thị Tuyết thực hiện tại 2 xã
miền núi vùng cao : Khang Ninh và Nghiêm Loan huyện Ba Bể tỉnh Bắc Kạn
và một xã miền núi vùng thấp : xã Nam Hoà huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên
cho thấy tỷ lệ SDD thể nhẹ cân ở khu vực này là 42,3%, thấp còi 55,8% và gầy
còm là 6,6% cao hơn số liệu chung của toàn quốc cùng thời điểm [42], Khi
phân tích theo dân tộc, tác giả này này đã cho thấy tỷ lệ SDD trẻ em ng−ời dân
tộc thiểu số cao hơn hẳn so với nhóm trẻ dân tộc kinh tại thời điểm nghiên cứu
với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê p < 0,001, cụ thể :
Dân tộc kinh: 15,8%
Dân tộc Sán Dìu: 64,6%
Dân tộc Tày : 55,6%
Dân tộc Nùng : 54,5%
20
Dân tộc Dao : 51,7%
Nh− vậy, trong cùng một môi tr−ờng sinh thái và điều kiện kinh tế xã hội
nh− nhau, trẻ em các dân tộc thiểu số SDD cao gấp đôi so với trẻ em dân tộc
kinh, theo nhận định của tác giả này, sự khác nhau về tỷ lệ SDD giữa các dân
tộc là do ảnh h−ởng của tập quán dinh d−ỡng, kiến thức và cách chăm sóc trẻ
khác nhau của mỗi dân tộc.
Các nghiên cứu của các tác giả Nguyễn Ngọc Diệp, Nguyễn Thị H−ơng
Nga, Hạc Văn Vinh và Đàm Khải Hoàn về “thực trạng SDD trẻ em d−ới 5 tuổi
ở một số khu vực miền núi phía Bắc” [7] cũng nh− nghiên cứu của Bế Văn
Cẩm, Lê Thị Nga và Nguyễn Đình Học về “thực trạng bệnh tật trẻ em dân tộc
ở một số tỉnh miền núi phía Bắc ” [3] này đều đ−a đến kết luận rằng, trẻ em
khu vực miền núi chịu nhiều thiệt thòi trong chăm sóc dinh d−ỡng và khả năng
tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, do đó tỷ lệ SDD cao hơn với các vùng
miền khác trong cả n−ớc và ngay cả từng địa ph−ơng thì tỷ lệ suy đinh d−ỡng
trẻ em dân tộc thiểu số cũng th−ờng cao hơn trẻ em dân tộc Kinh cùng khu vực.
Đánh giá tình trạng SDD dựa trên chỉ tiêu cân nặng theo tuổi, tác giả
Nguyễn Ngọc Diệp và cộng sự tiến hành nghiên cứu trên 4000 trẻ em d−ới 5
tuổi ở 40 xã thuộc 5 tỉnh : Thái Nguyên, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Phú Thọ và
huyện Sóc Sơn Hà Nội. Kết quả cho thấy, trẻ em ng−ời dân tộc thiểu số có
nguy cơ bị SDD cao gấp 1,68 lần so với trẻ em ng−ời kinh, tỷ lệ SDD trẻ em
ng−ời dân tộc thiểu số chiếm 39,6%, trong khi đó tỷ lệ này ở trẻ em ng−ời kinh
là 28,05% [7]. Nghiên cứu về tình trạng bệnh tật trẻ em ng−ời dân tộc thiểu số
tại Hoà Bình, Sơn La, Lai Châu, Lạng Sơn và Thái Nguyên tác giả Bế Văn Cẩm
và cộng sự cho thấy SDD là bệnh có tỷ lệ mắc cao nhất trong mô hình bệnh tật
của trẻ d−ới 5 tuổi với tỷ lệ chung là 44,65%, trong đó dân tộc Sán Dìu
(52,2%), dân tộc Thái (45,54%), Tày (43,01%), dân tộc M−ờng (42,19% ), và
dân tộc Giáy (40,59%) [3].
Năm 2003, tác giả Nguyễn Minh Tuấn và Hoàng Khải Lập tiến hành
nghiên cứu toàn bộ trẻ em d−ới 5 tuổi tại xã Việt Lâm huyện Vị Xuyên, tỉnh
21
Hà Giang. Kết quả cho thấy tỷ lệ SDD trẻ em ng−ời dân tộc thiểu số là 40,0%
cao hơn so với trẻ em ng−ời Kinh với tỷ lệ 26,2% [39].
Nghiên cứu tình trạng sức khoẻ, bệnh tật và dinh d−ỡng của phụ nữ và
trẻ em miền núi phía Bắc Việt Nam năm 2004, tác giả Hoàng Khải Lập cũng
nhận thấy có sự khác biệt về tỷ lệ SDD giữa trẻ em ng−ời dân tộc Kinh và trẻ
em ng−ời dân tộc thiểu số ở cả 3 thể : nhẹ cân, thấp còi và gầy còm.
Bảng 1.5. So sánh tỷ lệ SDD trẻ em d−ới 5 tuổi ng−ời dân tộc thiểu số và
dân tộc Kinh năm 2004 [24]
Tỷ lệ SDD (%) Thể SDD
Dân tộc Kinh Dân tộc thiểu số
p
SDD thể nhẹ cân 27,5 40,7 < 0,05
SDD thể thấp còi 36,7 45,2 < 0,05
SDD thể gầy còm 4,6 11,6 < 0,05
Một nghiên cứu khác trong năm 2004 của tác giả Hoàng Văn Gia tiến
hành trên 603 trẻ em các dân tộc Dao, Tày, Nùng, Cao Lan và dân tộc Kinh tại
một xã xã vùng cao huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái [8] đã đ−a ra nhận định
t−ơng tự: tỷ lệ trẻ em dân tộc Kinh SDD là thấp nhất (29,0%), cao nhất là trẻ
em dân tộc Dao (36,8%), tiếp đến là dân tộc Cao Lan (33,3%).
Tại Lào Cai (2005) , Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thị Hải Anh, Lê
Thị Hợp và cộng sự cho thấy tỷ lệ suy đinh d−ỡng trẻ em d−ới 5 tuổi các dân
tộc ở đây rất cao: thể nhẹ cân là 35,7%, thể thấp còi 44,3% và thể gầy còm
9,4% [1]. Khi phân tích khu vực thành thị và khu vực miền núi cao của tỉnh,
các tác giả nhận thấy ở khu vực 3 nơi chủ yếu là đồng bào dân tộc Dao và
Mông sinh sống thì tỷ lệ SDD cao hơn khu vực 1 nơi ng−ời Kinh sinh sống là
chính. Tỷ lệ SDD thể nhẹ cân khu vực 3 là 50,0% , thấp còi 67,7% và gầy còm
14,9%, trong khi đó khu vực 1 tỷ lệ này là 13,7%; 14,5% và 5,9% t−ơng ứng.
22
Nh− vậy, sở dĩ tỷ lệ SDD các tỉnh miền núi còn cao một phần có thể là do sự
chi phối của các thành phần dân tộc trong tỉnh.
Năm 2006, Nguyễn Thị Thuỷ đánh giá tình trạng dinh d−ỡng của 1035
trẻ em d−ới 5 tuổi tại 15 xã của huyện Võ Nhai - một huyện vùng cao, vùng
dân tộc thiểu số của tỉnh Thái Nguyên [36], nghiên cứu cho thấy tỷ lệ SDD trẻ
em dân tộc Tày là 44,9%, dân tộc Dao là 43,9% cao hơn so với trẻ em dân tộc
Kinh 28,7% và gần gấp 2 lần so với tỷ lệ chung toàn quốc năm 2006 (23,4%).
Trong cùng thời điểm trên, một nghiên cứu tại huyện Ba Bể , tỉnh Bắc
Kạn của tác giả Phou Sophal, Trần Chí Liêm, Phạm Văn Phú và Phạm Duy
T−ờng cho thấy tỷ lệ SDD thể nhẹ cân ở mức rất cao (35,3%), SDD thấp còi ở
mức cao (35,3%) và SDD gầy còm ở mức trung bình (6,9%) so với ng−ỡng
phân loại của tổ chức Y tế thế giới [28].
ở khu vực miền núi Tây Bắc, Cao Thị Hồng Hà và cộng sự (2002)
nghiên cứu tình trạng dinh d−ỡng trẻ em d−ới 5 tuổi ở Sơn La cho thấy tỷ lệ
SDD ở vùng 3 là 42,1%, trẻ em dân tộc Mông bị SDD thể thiếu cân 53,7%, thể
thấp còi 63,1%; trẻ em dân tộc Dao bị SDD thể thiếu cân là 46,0%, thể thấp
còi 56,7% và thể gầy còm 15,6% [10]. Tại Lai Châu (2007), tác giả Phạm
Mạnh Hùng đã sử dụng ph−ơng pháp nghiên cứu mô tả với cách chọn mẫu
chùm để đánh giá tình trạng SDD nhẹ cân của 2250 trẻ d−ới 5 tuổi các dân tộc
tại 10 xã thuộc 5 huyện tỉnh Lai Châu, kết quả cho thấy tỷ lệ trẻ thiếu cân cân
là 32,8%, trong đó chỉ có 20,9% SDD là trẻ em dân tộc kinh còn các dân tộc
khác tỷ lệ SDD rất cao: Dân tộc Mông (40,4%), Dao (37,9%), Hà Nhì (38,0%)
[16]
Qua tổng hợp về tình trạng SDD khu vực miền núi, vùng dân tộc thiểu số
đã cho thấy đặc điểm phân bố SDD ở khu vực miền núi cao hơn khu vực đồng
bằng, trẻ em dân tộc thiểu số SDD cao hơn trẻ em dân tộc kinh. Hầu hết các
nghiên cứu này mới chỉ quan tâm đến SDD cân nặng theo tuổi nh− một chỉ số
chung về tình trạng dinh d−ỡng của trẻ, SDD thể thấp còi ch−a đ−ợc quan tâm
đúng mức và đánh giá một cách đầy đủ. Mặt khác, số liệu hàng năm của Viện
23
dinh d−ỡng và Tổng cục thống kê cũng mới chỉ công bố tỷ lệ SDD theo các
vùng sinh thái để −ớc tính tỷ lệ dinh d−ỡng trẻ em ng−ời dân tộc thiểu số, ch−a
có số liệu chính thức về tỷ lệ SDD cho từng dân tộc. Các nghiên cứu về tình
trạng SDD trẻ em ng−ời dân tộc thiểu số tuy không nhiều và ch−a thực sự đầy
đủ nh−ng cũng đã mô tả một cách khá rõ nét thực trạng SDD ở khu vực miền
núi và khẳng định ý nghĩa sức khoẻ cộng đồng của SDD trẻ em d−ới 5 tuổi. Để
phản ảnh đ−ợc tình trạng SDD cho từng dân tộc cần tiếp tục có những nghiên
cứu sâu hơn về vấn đề này trong thời gian tới.
24
1.2. Một số nghiên cứu về yếu tố liên quan đến tình trạng dinh d−ỡng ở
trẻ em d−ới 5 tuổi ở Việt Nam
Các yếu tố liên quan đến tình trạng SDD trẻ em có thể gián tiếp thông
qua tình trạng dinh d−ỡng của ng−ời mẹ, hoặc trực tiếp tác động đến cá thể trẻ
em. Đã có nhiều nghiên cứu khẳng định về có sự liên quan chặt chẽ giũa yếu tố
kinh tế gia đình với tình trạng SDD trẻ em. Tình trạng thu nhập thấp, thiếu ăn
trong gia đình đã ảnh h−ởng rất rõ rệt tới tình trạng sức khoẻ các bà mẹ, đặc
biệt là các bà mẹ đang nuôi con nhỏ. ở các khu vực miền núi, gánh nặng kinh
tế gia đình là một gánh nặng mà hầu hết phụ nữ phải gánh chịu. Bên cạnh trách
nhiệm về kinh tế gia đình, ng−ời phụ nữ phải có trách nhiệm nuôi d−ỡng và
chăm sóc con cái và phần lớn công việc khác dồn vào vai trò ng−ời phụ nữ. Khi
điều kiện kinh tế càng khó khăn thì ng−ời phụ nữ càng chịu nhiều thiệt thòi
hơn và càng chịu ảnh h−ởng về tình trạng dinh d−ỡng [38]. Kết quả nghiên cứu
tại Kiến X−ơng - Thái Bình và Cai Lậy - Tiền Giang (Đặng Ph−ơng Kiệt,
1993), Gia L−ơng- Hà Bắc (Đỗ Kim Liên, 1994) và tại Công ty cao su Đồng
Phú - Sông Bé (Lê Hùng Lâm, 1995 ) cho thấy tình trạng kinh tế đói nghèo,
mức thu nhập bình quân thấp tạo nên tình trạng mẹ thiếu ăn, cơ cấu khẩu phần
mất cân đối, năng l−ợng các bà mẹ ăn vào không đủ so với mức năng l−ợng
tiêu hao trong quá trình lao động. Cũng do nghèo đói, các bà mẹ phải tăng
c−ờng lao động tạo thu nhập cho gia đình, trong khi đó không có điều kiện tự
chăm sóc sức khoẻ cho bản thân. Do đó càng ảnh h−ởng tới sức khoẻ bà mẹ,
đồng thời ng−ời mẹ thiếu ăn sẽ ảnh h−ởng đến tình trạng dinh d−ỡng của trẻ
[4],[29].
Một số tác giả khác nh− Phan Lê Thu Hằng và Lê Thanh Sơn (2004) bằng
kết quả nghiên cứu của mình đã cho thấy khẩu phần ăn của trẻ phụ thuộc vào
khẩu phần ăn gia đình, ở những vùng có tỷ lệ SDD trên d−ới 60% thì th−ờng có
trên 50% hộ gia đình thiếu ăn và nguyên nhân trực tiếp dẫn đến SDD trẻ em là
đói nghèo [12].
25
Gần đây, nghiên cứu của tác giả Lê Danh Tuyên (2005) cho thấy tỷ lệ
SDD thể thấp còi ở nhóm hộ giàu nhất là 13,1%; nhóm khá 24,1%; nhóm trung
bình 30,2% và nhóm nghèo 44,2% [41]. Các kết quả trên đã cho thấy rõ yếu tố
kinh tế gia đình có mối liên quan mật thiết với tình trạng dinh d−ỡng trẻ em.
Trình độ văn hoá của các bà mẹ có ảnh h−ởng lớn tới tình trạng dinh
d−ỡng của trẻ em. Mù chữ hoặc trình độ văn hoá thấp đã giới hạn khả năng của
ng−ời phụ nữ nâng cao chất l−ợng cuộc sống cũng nh− thực hiện các hành vi
chăm sóc sức khoẻ cho gia đình, cho chính bản thân họ và cho con cái họ.
Nhiều nghiên cứu đã cho thấy tỷ lệ tử vong và bệnh tật ở trẻ sơ sinh của những
ng−ời mẹ có trình độ văn hoá cao bao giờ cũng thấp hơn những ng−ời mẹ mù
chữ [38]. Kết quả nghiên cứu của Ninh Thị Nhung (1999) về một số yếu tố
nguy cơ liên quan tới tình trạng SDD ở trẻ em 3 xã thuộc đồng bằng Bắc Bộ và
miền núi và miền núi phía Bắc đã cho thấy có sự liên quan của yếu tố văn hoá
ng−ời mẹ với tình trạng dinh d−ỡng của trẻ em. Trình độ văn hoá thấp dẫn tới bà
mẹ thiếu kiến thức và kỹ năng nuôi con dẫn tới trẻ em nguy cơ bị SDD [26].
Do trình độ văn hoá thấp kém dẫn tới sinh đẻ nhiều đã làm giảm khả
năng chăm sóc trẻ dẫn tới nguy cơ tăng khả năng SDD ở trẻ em [29],[38]. Nhận
định này cũng đ−ợc khẳng định trong kết quả nghiên cứu của các tác giả Đặng
Ph−ơng Kiệt và Lê Hùng Lâm. Các tác giả này cho thấy trình độ văn hoá các
bà mẹ thấp, các bà mẹ sẽ không nhận thức đ−ợc các kiến thức về chăm sóc sức
khoẻ cho bản thân nh− các kiến thức về thai nghén, về kế hoạch hoá gia đình,
kiến thức về dinh d−ỡng và phòng chống bệnh tật, từ đó làm tăng khả năng mắc
bệnh của các bà mẹ mà hàng đầu là bệnh về dinh d−ỡng và làm tăng nguy cơ
SDD ở trẻ em [22].
Các nghiên cứu tại các tỉnh miền núi nh− Thái Nguyên và Bắc Kạn của
Đàm Thị Tuyết và cộng sự 1999 cho thấy có sự liên quan chặt chẽ giữa SDD
trẻ em d−ới 5 tuổi với trình độ học vấn của ng−ời mẹ cũng nh− tình trạng kinh
tế, số con trong gia đình [42].
26
Nhận định về mối liên quan giữa yếu tố văn hoá của các bà mẹ với tình
trạng SDD trẻ em thể thấp còi cũng đ−ợc đề cập đến trong kết quả nghiên cứu
nghiên cứu của tác giả Lê Danh Tuyên năm 2005 về “Đặc điểm dịch tễ học và
một số yếu tố nguy cơ SDD thể thấp còi của trẻ em d−ới 5 tuổi một số vùng
sinh thái khác nhau ở n−ớc ta hiện nay ” [41].
Mỗi dân tộc có bản sắc văn hoá riêng. Những quan niệm văn hoá, hành
vi văn hoá, đặc biệt các hành vi văn hoá tiêu dùng, văn hoá y tế và tín ng−ỡng
có thể ảnh h−ởng tích cực hoặc tiêu cực đến việc chăm sóc sức khoẻ bà mẹ và
trẻ em. Có những phong tục có lợi cho sức khoẻ và dinh d−ỡng của phụ nữ và
trẻ em nh− phong tục cho trẻ sơ sinh bú sớm, bú kéo dài, nuôi con bằng sữa
mẹ. Tuy nhiên, ở nhiều địa ph−ơng có tập quán cho trẻ ăn sam sớm (tr−ớc 4
tháng tuổi) và cho trẻ cai sữa sớm (tr−ớc 12 tháng tuổi). Nghiên cứu của
Nguyễn Ngọc Thái và cộng sự tại xã Xuân Sơn, Đông Triều - Quảng Ninh
(1996) cho biết trẻ em ăn sam tr−ớc 4 tháng tuổi có tỷ lệ SDD cao hơn trẻ ăn
sam sau 6 tháng tuổi từ 1,6-1,8 lần và trẻ cai sữa tr−ớc 12 tháng tuổi có tỷ lệ
SDD cao hơn trẻ cai sữa sau 12 tháng tuổi từ 1,2 - 3,2 lần [32]. Kết quả nghiên
cứu về các yếu tố nguy cơ của SDD ở trẻ d−ới 5 tuổi tại hai huyện Tuyên Hoá
và Minh Hoá tỉnh Quảng Bình của tác giả Phạm Văn Hoan và cộng sự (1996)
cho thấy thời điểm ABS tr−ớc 4 tháng tuổi làm tăng nguy cơ SDD ở hai thể
thiếu cân và còi cọc [14]. Tại An Hải, Hải Phòng năm 2000 tác giả Đinh Văn
Thức và cộng sự qua nghiên cứu cũng đã cho thấy các yếu tố nh− thiếu sữa
mẹ, bú sữa mẹ lần đầu sau 6 giờ, thời gian ABS tr−ớc 4 tháng , thời gian cai sữa
tr−ớc 18 tháng, trình độ văn hoá mẹ thấp... đều là những yếu tố liên quan đến
tình trạng SDD của trẻ em [37].
Nghiên cứu của Phạm Kim Ngân và cộng sự (2000) cũng cho thấy
những trẻ ABS sớm hoặc muộn đều có nguy cơ bị SDD cao gấp 3 lần so với
những đứa trẻ ABS trong khoảng thời gian 4 - 6 tháng [25]..v.v.
Số con sinh ra trong gia đình và khoảng cách giữa các lần sinh con là
một vấn đề có ảnh h−ởng lớn tới sức khoẻ ng−ời phụ nữ [38]. Các nghiên cứu
27
của Đặng Ph−ơng Kiệt, Đỗ Kim Liên và Lê Hùng Lâm cho thấy cảnh đông con
bà mẹ càng phải lao động vất vả để tạo thu nhập nuôi sống gia đình, từ đó điều
kiện nghỉ ngơi càng ít, ăn uống càng không đầy đủ. Tình trạng bà mẹ đẻ dày,
đẻ nhiều sẽ càng làm cho kinh tế gia đình giảm sút, bà mẹ càng không có điều
kiện chăm sóc sức khoẻ và dinh d−ỡng, do vậy dẫn đến nguy cơ tăng tỷ lệ SDD
ở trẻ em [22],[38].Nhiều công trình nghiên cứu của một số tác giả đã cho thấy
có sự liên quan chặt chẽ giữa tình trạng đông con trong gia đình với tình trạng
SDD trẻ em. Nghiên cứu của Phạm Kim Ngân năm 2000 cho thấy thứ tự sinh từ
con thứ 3 trong gia đình trở lên có nguy cơ SDD cao gấp 2 lần so với những đứa
con khác [25].
Trên thực tế còn một yếu tố nguy cơ khác có liên quan đến tình trạng
SDD của trẻ em nh− tình trạng sức khoẻ, bệnh tật của trẻ. Theo kết quả nghiên
cứu của Đặng Ph−ơng Kiệt và cộng sự (1993) nghiên cứu tại Kiến X−ơng -Thái
Bình và Cai Lậy - Tiền Giang cho thấy các yếu tố nh− thể lực, tình trạng bệnh
tật của trẻ đều có liên quan tới SDD trẻ em [21]. Kết quả nghiên cứu về ảnh
h−ởng của một số yếu tố tới tình trạng SDD trẻ em tại 3 xã thuộc đồng bằng
Bắc bộ miền Trung và miền núi phía Bắc của Ninh Thị Nhung và cs (1999)
cho thấy mẹ đẻ nhiều trên 2 con, tuổi của mẹ khi sinh trên 35, trẻ mắc bệnh
tiêu chảy hoặc mắc bệnh đ−ờng hô hấp đều là những nguy cơ dẫn tới tình
trạng suy đinh d−ỡng trẻ em [26].
Khảo sát yếu tố nguy cơ ảnh h−ởng đến SDD trẻ em tại xã H−ơng Hồ,
H−ơng Trà, Thừa Thiên Huế bằng nghiên cứu ngang tìm căn nguyên ở trẻ em
từ 6- 36 tháng tuổi giữa hai nhóm trẻ gồm 198 trẻ SDD và 91 trẻ bình th−ờng
trong thời gian từ tháng 1/ 1999 đến tháng 2/2000, các tác giả Phan Kim Ngân
và cs năm 2000 cũng cho thấy trẻ có cân nặng sơ sinh thấp (d−ới 2.500 g), trẻ
mắc tiêu chảy bị SDD cao hơn nhóm trẻ không mắc tiêu chảy [25]..v.v...
Phong tục tập quán và tập quán đinh d−ỡng cũng đóng một vai trò quan
trọng đối với tình trạng dinh d−ỡng trẻ em nhất là khu vực miền núi. Đặc điểm
kiêng khem trong ăn uống hàng ngày vẫn còn khá phổ biến ở bà mẹ ng−ời dân
28
tộc miền núi. Dân tộc Sán Chay có nhiều kiêng kị khác nhau trong cách ăn
uống nh− họ không ăn thịt chó, đặc biệt đối với ng−ời đ−ợc cấp sắc. Trong
ngày rằm họ không ăn thịt trâu. Khi mang thai ng−ời phụ nữ dân tộc Sán Chay
phải kiêng rất nhiều thứ, nh− kiêng không ăn đu đủ chín, kiêng không ăn chuối
đinh đôi. Sau khi đẻ phải ăn kiêng trong một tháng... Đối với dân tộc Sán Dìu
cũng có những kiêng kỵ trong ăn uống với những lý do dinh d−ỡng và tín
ng−ỡng điển hình cho kiêng kỵ trong ăn uống là sản phụ sau khi sinh nở.
Ng−ời sản phụ là dân tộc Sán Dìu phải tuân thủ chế độ ăn kiêng nghiêm ngặt
trong suốt thời gian mang thai cũng nh− thời kỳ ở cữ. Đối với dân tộc Mông và
Da , bữa ăn hàng ngày của họ rất đơn giản chỉ có cơm khô, hoặc mèn mén dẫn
đến chất l−ợng bữa ăn của ng−ời mẹ không đảm bảo dinh d−ỡng. Phụ nữ ng−ời
Dao, đặc biệt là Dao đỏ và Dao áo dài sau khi đẻ phải kiêng một số thực phẩm
nh− kiêng ăn thịt lợn nái, trâu bò, h−ơu nai và gà trống [43].v.v. Tình trạng
kiêng khem đã dẫn đến tỷ lệ phụ nữ có thai thiếu máu, thiếu sắt, thiếu năng
l−ợng chiếm tỷ lệ cao. Đó cũng là nguy cơ dẫn tới SDD trẻ em.
Nh− vậy, yếu tố nguy cơ dẫn tới tình trạng SDD của trẻ em d−ới 5 tuổi là
rất đa dạng. Nhiều yếu tố nguy cơ nh−: tình trạng kinh tế, văn hoá ng−ời mẹ,
tình trạng bú sữa mẹ của trẻ, cân nặng của trẻ khi sinh, số con trong gia
đình.v.v. đã đ−ợc đề cập nghiên cứu bởi nhiều tác giả trong và ngoài n−ớc. Tập
quán dinh d−ỡng của một số dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc cũng phải đ−ợc
coi là các yếu tố nguy cơ đặc thù liên quan tới tình trạng dinh d−ỡng trẻ em.
Điều đặc biệt đáng quan tâm là trong các tập quán dinh d−ỡng có những tập
quán bất lợi ảnh h−ởng tới tình trạng dinh d−ỡng con ng−ời nói chung và đặc
biệt là các bà mẹ và trẻ em của dân tộc thiểu số nói riêng đã trở thành nếp
trong đời sống xã hội khu vực miền núi. Ngành y tế cần tập trung nghiên cứu
những vấn đề bất lợi cho sức khoẻ trong tập quán dinh d−ỡng của ng−ời dân tộc
thiểu số để góp phần nâng cao chất l−ợng, hiệu quả ch−ơng trình quốc gia
phòng chống SDD trẻ.
29
Ch−ơng 2
Đối t−ợng và ph−ơng pháp nghiên cứu
2.1. Đối t−ợng nghiên cứu
- Phụ nữ có con d−ới 5 tuổi
- Trẻ em d−ới 5 tuổi
- Già làng, tr−ởng bản
- Lãnh đạo cộng đồng: Hội phụ nữ, cán bộ y tế, cán bộ văn xã
2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
2.2.1. Địa điểm: Một số vùng dân tộc thiểu số đặc thù cho nhóm ngôn ngữ Tày
- Thái và Mông - Dao ở khu vực miền núi phía Bắc Việt Nam.
- Dân tộc Tày: Xã Yên Trạch - Phú L−ơng - Thái Nguyên
- Dân tộc Sán Chay: Xã Phú Đô và Yên Lạc - Phú L−ơng - Thái Nguyên
- Dân tộc Mông và Dao: Xã Tả Phìn - Sa Pa - Lào Cai
2.2.2. Thời gian nghiên cứu: 1/2007-12/2007
2.3. Ph−ơng pháp nghiên cứu: Nghiên cứu định tính kết hợp định l−ợng
2.3.1. Nghiên cứu định tính
Tại địa điểm nghiên cứu, chọn các xã/ bản thuần nhất một dân tộc thiểu số
để thu thập các thông tin về tập quán dinh d−ỡng của dân tộc thiểu số bằng các
kỹ thuật PRA [54].
Phỏng vấn sâu: Đối với mỗi dân tộc, tiến hành phỏng vấn sâu các đối t−ợng
sau:
- Già làng
- Cán bộ văn xã
- Hội tr−ởng hội phụ nữ
- Phụ nữ có thai
- Bà mẹ có con d−ới 5 tuổi
Thảo luận nhóm: Đối với mỗi dân tộc, tiến hành thảo luận với các nhóm
30
đối t−ợng sau:
- Phụ nữ có thai
- Bà mẹ có con d−ới 5 tuổi
- Bà mẹ đã qua tuổi sinh đẻ
Quan sát:
- Cách chế biến thức ăn: một số món ăn đặc tr−ng của các dân tộc, cách
bảo quản thực phẩm, cách chế biến thức ABS cho trẻ...
- Loại thực phẩm sẵn có tại địa ph−ơng.
2.3.2. Nghiên cứu định l−ợng
Đánh giá tình trạng dinh d−ỡng trẻ em d−ới 5 tuổi dân tộc Sán Chay
* Cỡ mẫu: Sử dụng công thức tính cỡ mẫu kiểm định sự khác biệt về tỷ lệ suy
dinh d−ỡng giữa dân tộc Kinh và dân tộc Thiểu số
( )
( )221
2
2211β1α/21
PP
)P(1P)P(1PZP)2P(1Z
−
−+−+−= −−n
Trong đó:
n: Cỡ mẫu nghiên cứu
P1 : Tỷ lệ SDD trẻ em d−ới 5 tuổi dân tộc thiểu số, theo kết quả điều tra tại
Thái Nguyên là 40% [24]
P2 : Tỷ lệ SDD trẻ em 5 tuổi dân tộc Kinh, theo kết quả điều tra tại Thái
Nguyên là 28% [24]
P = (P1 + P2)/ 2
α: Mức ý nghĩa thống kê hay xác xuất sai lầm loại I, chọn α = 0,05
β: Xác xuất sai lầm loại II, chọn β = 0,05 (lực mẫu = 95%)
Nh− vậy cần nghiên cứu ít nhất 335 trẻ em dân tộc Kinh và 335 trẻ em dân
tộc thiểu số
* Chọn mẫu: Chọn 2 xã có trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên thoả mãn các điều
kiện:
31
- Ng−ời Kinh và ng−ời dân tộc Thiểu số cùng sinh sống
- T−ơng đồng về điều kiện địa lý, kinh tế - xã hội.
ặ Từ các xã thoả mãn điều kiện trên, chọn ngẫu nhiên xã Phú Đô và Yên Lạc
vào nghiên cứu. Tại xã đ−ợc chọn, chọn toàn bộ trẻ em d−ới 5 tuổi theo cỡ mẫu
nghiên cứu.
Xác định yếu tố nguy cơ SDD trẻ em d−ới 5 tuổi
* Cỡ mẫu: Sử dụng công thức tính cho nghiên cứu bệnh chứng:
Tính theo công thức n= [ ]2 2211
)2/1(
2
)-ln(1
1
qp
1
ε
⎥⎦
⎤⎢⎣
⎡ +−
qp
Z a
Trong đó:
n là cỡ mẫu nghiên cứu ở mỗi nhóm
Z(1-α/2) là hệ số giới hạn tin cậy=1,96
ε là độ chính xác mong muốn, chọn ε = 0,3
p2 là tỷ lệ phơi nhiễm với yếu tố nguy cơ −ớc l−ợng cho nhóm chứng theo
nghiên cứu tr−ớc là 34,5% (tỷ lệ trẻ thiếu sữa) [35] với tỷ suất chênh OR =2,5.
p1 là tỷ lệ phơi nhiễm với yếu tố nguy cơ −ớc l−ợng cho nhóm bệnh dựa
trên công thức:
P1= )1(OR.P
OR.P
22
2
P−+ = 655,0345.0.5,2
345,0.5,2
+ = 0,57
q1=1-p1
q2=1-p2
Thay vào công thức trên ta có n = 228.
Tỷ lệ nhóm bệnh : nhóm chứng là 1 : 1. Nh− vậy mỗi nhóm tối thiểu phải
có 228 trẻ d−ới 5 tuổi.
* Chọn mẫu:
- Chọn nhóm bệnh: chọn toàn bộ trẻ em d−ới 5 tuổi có cân nặng/tuổi <-2SD so
với quần thể NCHS đã đ−ợc xác định qua nghiên cứu mô tả.
32
- Chọn nhóm chứng: chọn những trẻ d−ới 5 tuổi có cân nặng/tuổi > -2SD t−ơng
đồng với nhóm bệnh về tuổi, giới, dân tộc.
Hồi cứu số liệu sẵn có tại trạm y tế về tình trạng dinh d−ỡng trẻ em d−ới
5 tuổi từ năm 2000 - 2005.
2.3.3. Chỉ tiêu nghiên cứu
Tập quán dinh d−ỡng của dân tộc Tày, Sán Chay, Mông, Dao ở miền núi
phía Bắc Việt Nam
- Tập quán dinh d−ỡng nói chung của đồng bào dân tộc thiểu số dòng
ngôn ngữ Tày - Thái, Mông - Dao
- Tập quán dinh d−ỡng khi mang thai
- Tập quán chăm sóc và nuôi d−ỡng trẻ
- Cách chế biến, sử dụng và bảo quản thức ăn của các dân tộc
Tình trạng dinh d−ỡng trẻ em d−ới 5 tuổi dân tộc Sán Chay
- Tỷ lệ SDD cân nặng/ tuổi, chiều cao/ tuổi, cân nặng/ chiều cao
- Tỷ lệ SDD theo nhóm tuổi
- Tỷ lệ SDD trẻ em d−ới 5 tuổi giữa dân tộc Sán Chay và dân tộc Kinh.
- Diễn biến tỷ lệ SDD trong 5 năm 2001 - 2006
Mối liên quan giữa tập quán dinh d−ỡng và tình trạng dinh d−ỡng trẻ em
d−ới 5 tuổi dân tộc Sán Chay.
- Liên quan với yếu tố chăm sóc, nuôi d−ỡng: thời điểm ABS,chất l−ợng
bữa ABS, thời gian cai sữa...
- Liên quan với các yếu tố kinh tế xã hội và gia đình: đói nghèo, trình độ
học vấn, dân tộc, tuổi khi mang thai, số con trong gia đình...
- Liên quan với các yếu tố cá nhân: bệnh tiêu chảy, NKHH cấp, cân nặng
sơ sinh...
2.4. Ph−ơng pháp thu thập số liệu
2.4.1. Nhân trắc
- Cân nặng: Sử dụng cân đồng hồ loại 30kg của Nhơn Hoà có độ chính xác
0,1kg. Cân đã đ−ợc kiểm tra, chuẩn hoá, chỉnh về 0 tr−ớc khi tiến hành nghiên
33
cứu và luôn điều chỉnh lại sau mỗi buổi cân. Kết quả đ−ợc ghi theo đơn vị
kilogam với 1 số lẻ.
- Chiều cao: Sử dụng th−ớc đo bằng gỗ của ch−ơng trình mục tiêu Quốc gia có
độ chính xác 0,1cm. Kết quả đ−ợc tính theo đơn vị centimet với 1 số lẻ.
Đối với trẻ < 24 tháng tuổi đo chiều cao nằm.
Đối với trẻ ≥ 24 tháng tuổi đo chiều cao đứng.
2.4.2. Phỏng vấn trực tiếp ng−ời nuôi d−ỡng trẻ, phỏng vấn sâu, thảo luận
nhóm... theo mẫu phiếu điều tra.
2.5. Ph−ơng pháp phân tích và xử lý số liệu
- Epidata: nhập và kiểm soát số liệu.
- Epinut: tính toán các chỉ số nhân trắc với cơ sở dữ liệu là quần thể tham khảo
của Trung tâm thống kê sức khoẻ quốc gia Hoa Kỳ (NCHS).
- SPSS 16.0: xử lý và phân tích các yếu tố liên quan bằng các thuật toán thống
kê y sinh học
34
Ch−ơng 3
kết quả nghiên cứu
3.1. Tập quán dinh d−ỡng của dân tộc Tày, Sán Chay, Mông, Dao ở miền
núi phía Bắc Việt Nam
Tập quán dinh d−ỡng là những thói quen đã thành nếp trong đời sống xã
hội, trong sản xuất và sinh hoạt th−ờng ngày đ−ợc mọi ng−ời công nhận và làm
theo. Mỗi dân tộc do sống trong những điều kiện tự nhiên khác nhau nên đã
hình thành những cách kiếm sống, cách ăn uống, cách chế biến và cách tổ chức
bữa ăn khác nhau. Mỗi vùng miền trên đất n−ớc lại có những món ăn khác
nhau và mang ý nghĩa riêng biệt tạo nên bản sắc của từng dân tộc. Tập quán
nấu ăn, cách ăn uống của mỗi dân tộc cũng ảnh h−ởng nhất định tới chất l−ợng
bữa ăn, sức khoẻ các thành viên trong gia đình, trong đó đặc biệt là trẻ em.
Tại cộng đồng các xã đ−ợc nghiên cứu, chúng tôi đã tiến hành một số
cuộc thảo luận nhóm với các nhà lãnh đạo địa ph−ơng và ng−ời dân. Các cuộc
thảo luận nhóm tập trung vào các vấn đề tập quán dinh d−ỡng của các dân tộc
nh− tập quán dinh d−ỡng của dân tộc Sán Chay, dân tộc Sán Dìu, dân tộc Mông
và dân tộc Dao, các tập quán dinh d−ỡng liên quan tới các vấn đề sức khoẻ của
họ. Chúng tôi đã thu đ−ợc một số kết quả nh− sau:
3.1.1. Tập quán dinh d−ỡng của dân tộc Tày
Nông phẩm chính của dân Tày là lúa tẻ, vì vậy cơm gạo tẻ là thành phần
chủ yếu trong các bữa ăn th−ờng ngày của họ, ngoài ra còn các thực phẩm
nguồn gốc từ động vật nh− cá, thịt với một tỷ lệ nhất định.
Việc xử lý, chế biến món ăn của ng−ời Tày chịu ảnh h−ởng của kỹ thuật
ng−ời Hoa, Ngái, nhờ đó mà tạo ra các món ăn khá phong phú nh− bánh đúc,
bánh đa, bánh dậm, món cốm, thịt lợn quay, thịt gà quay và cất r−ợu....
Cơ cấu bữa ăn quen thuộc trong ngày của họ gồm 2 bữa ăn chính và 2
hoặc 3 bữa ăn phụ. Thực phẩm cho bữa ăn hàng ngày của họ là măng, rau, đậu
35
là chủ yếu. Các thực phẩm t−ơi giàu chất đạm nh− cá, thịt, trứng, cua, ốc....
chiếm một tỷ lệ thấp và không th−ờng xuyên.
Cách phân phối bữa ăn của ng−ời Tày mang tính bình đẳng hơn so với
các dân tộc thiểu số khác. Trong bữa ăn, mọi thành viên ngồi chung một mâm,
cùng ăn, không phân biệt trai - gái, dâu - rể, nội - ngoại, chỉ phân biệt chủ -
khách . Khách đ−ợc −u ái hơn. Ng−ời phụ nữ sinh con th−ờng đ−ợc gia đình
chăm sóc ăn uống tốt hơn, nh− đ−ợc ăn cơm nếp, cơm nóng, thịt gà...Đặc biệt ở
dân tộc Nùng còn có phong tục tập quán hỗ trợ mang tính cộng đồng cao nh−:
ng−ời phụ nữ khi đẻ đ−ợc bà con thôn xóm, họ hàng gần xa tặng gạo nếp, chân
giò, gà để thịt ăn dần trong các ngày sau đẻ. Sự t−ơng trợ công cộng này ngày
nay đã mất dần và đ−ợc thay thế bởi cơ chế thi tr−ờng.
Một phụ nữ ng−ời Tày cho biết: “Hỗ trợ nhau trong xóm tr−ớc đây rất
th−ờng xuyên và rất tốt, tôi rất thích điều này nh−ng ngày nay tập quán đó đã
gần mai một đi và chủ yếu là mọi thứ đều phải mua mới có, không còn cho
không nh− tr−ớc nữa... ”
Nhìn chung, bên cạnh các món ăn đặc thù, nhiều món ăn và cách ăn của
ng−ời Tày đã đ−ợc đồng hoá bởi các món ăn, cách ăn và cả cách chuẩn bị món
ăn của nhiều dân tộc khác nhau. Chính vì vậy, các món ăn trở nên đa dạng và
phòng phú hơn so với các dân tộc thiểu số khác. Tuy vậy, tính đa dạng các món
ăn cũng ch−a đ−ợc đảm bảo, các bữa ăn sang trọng cũng chỉ th−ờng tập trung
vào các ngày lễ, ngày tết. Còn các bữa ăn ngày th−ờng vẫn không đảm bảo
đ−ợc tính cân đối trong khẩu phần ăn cho các thành viên trong gia đình.
3.1.2. Tập quán dinh d−ỡng của dân tộc Sán Chay
Dân tộc Sán Chay còn mang nhiều tên gọi khác nhau: Cao Lan, Mán
Cao Lan, Hờn Bản, Sán Chỉ, Sán Chí, Sán Chấy, Sán Tử , Sán Ti và Trại Cao
(phân biệt với cách gọi nhóm tộc ng−ời Sán Dìu). Ng−ời Sán Chay c− trú nhiều
nhất và tập trung nhất ở các tỉnh Thái Nguyên và Tuyên Quang với dân số
147.315 ng−ời, đứng thứ 13 trong số 54 dân tộc cả n−ớc [43].
36
Ng−ời Sán Chay có những đặc điểm về tập quán dinh d−ỡng là: Nguồn
thức ăn chủ yếu là cơm tẻ, các loại củ, rau quả, còn các thực phẩm có nguồn
gốc từ động vật thì chiếm tỷ lệ rất thấp và th−ờng chỉ tập trung vào các ngày
ma chay, lễ, ngày c−ới mới có. Họ có thói quen sử dụng nhiều đồ nếp, nh− xôi
đỗ anh, xôi cẩm, xôi đen, xôi đỏ và nhiều loại bánh khác nhau chế từ gạo nếp
(bánh ch−ng, bánh dậm bánh dày...). Các loại xôi màu của ng−ời Sán Chay họ
ít khi dùng phẩm mầu nhân tạo mà th−ờng dùng màu từ các loại cây thảo mộc
nh− lá cây cẩm (mổ cắm), lá cây sau sau (phóng ngọc diệp ) giã ngâm lấy n−ớc
mầu của lá cây để ngâm với gạo nếp làm xôi mầu.
Cách chế biến các món ăn của ng−ời Sán Chay chủ yếu là nấu, lam, đồ
và luộc đối với thịt lơn và thịt gà. Để tăng h−ơng vị thức ăn, trong quá trình nấu
n−ớng ng−ời Sán Chay còn sử dụng các h−ơng liệu và gia vị nh− gừng, ớt ,
muối, mẻ, tuơng và các loại rau thơm đ−ợc chế biến theo nhiều cách đa dạng
và phong phú với trình độ khá cao d−ới các hình thức chủ yếu là đun nấu trong
nồi, đồ trong chõ, lam trong ống tre hay phơi khô trên gác bếp để bảo quản lâu
dài.
Về cách ăn, họ th−ờng ăn xôi hoặc cơm nếp vào buổi sáng, bữa tối mới
ăn cơm tẻ. Khi nấu cơm, họ th−ờng chắt n−ớc cơm ra để uống thay n−ớc canh
trong khi ăn cơm, họ cho rằng n−ớc cơm này bổ và mát kích thích tiêu hoá tốt.
Trong một năm, ng−ời Sán Chay th−ờng tổ chức ăn nhiều tết: Tết mồng 3 tháng
3 đồng bào gọi là tết cúng cơm đen. Tết này là một trong tết tứ quí của đồng
bào. Tết thứ hai trong tứ quí là tết mồng 5 tháng 5. Tết ngày 14 tháng 7 đây là
tết thứ 3 trong tứ quí. Tết cuối cùng trong tứ quí cũng đ−ợc gọi là tết đông đủ,
tổ chức vào ngày 9 tháng 11 hàng năm.
Xuất phát từ những tín ng−ỡng và quan niệm khác nhau nên trong mỗi
dòng họ Sán Chay có sự kiêng kỵ khác nhau. Tất cả những họ thờ Ngọc Hoàng
Th−ợng Đế đều kiêng không ăn thịt chó (họ Lâm, họ Trần, họ Hoàng). Họ
V−ơng kiêng không ăn thịt ếch; họ Hoàng kiêng không ăn cá quả, cá chuối; họ
Hồ, họ Trần kiêng không ăn thịt rùa, thịt trâu. Một cụ đã đ−ợc cấp sắc nói
rằng: “ hầu nh− tất cả các họ của đồng bào Sán Chay đều kiêng không ăn thịt
37
chó vì chó là một con vật xấu xa, lừa lọc. Đặc biệt tất cả những ng−ời đ−ợc cấp
sắc đều không đ−ợc ăn thịt chó. Tr−ờng hợp những ng−ời có cấp sắc mà cố tình
ăn thịt chó sẽ bị thánh t−ớng vật chết, nếu ăn nhầm sẽ bị đau ốm...”
Ng−ời phụ nữ Sán Chay khi mang thai phải kiêng rất nhiều thứ, trong đó
nh− không ăn đu đủ chín, không ăn chuối dính đôi vì họ sợ rằng sau này sẽ đẻ
sinh đôi. Sau khi đẻ sản phụ phải kiêng ăn trong một tháng. Thức ăn của sản
phụ th−ờng là rau ngót, họ kiêng không ăn trứng, cá mè. Khi có đám tang trong
nhà, con cháu phải ăn chay, chỉ đ−ợc ăn rau, kiêng ăn thịt cá.v.v. Những đặc
điểm về một số tập quán dinh d−ỡng nói trên dễ dẫn đến sự mất cân đối trong
khẩu phần ăn (những bữa ăn có thức ăn nguồn gộc từ động vật rất ít và chủ yếu
tập trung vào các ngày lễ, ngày tết), thiếu dinh d−ỡng của các bà mẹ và ảnh
h−ởng tới tình trạng dinh d−ỡng của trẻ em, nhất là trẻ em d−ới 5 tuổi.
3.1.3. Tập quán dinh d−ỡng của dân tộc Mông - Dao
Dân tộc Mông và Dao có dân số khoảng 700.000 ng−ời, đứng thứ 8
trong số 54 dân tộc của cả n−ớc. Dân tộc Mông, Dao th−ờng c− trú ở các tỉnh
miền núi phía Bắc: Hà Giang, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái [43].
Nguồn gốc thực phẩm của đồng bào Dao chủ yếu là ngô, gạo và một số
thực phẩm có nguồn gốc từ động vật khác với tỷ lệ rất khiêm tốn.
Cách chế biến thức ăn của ng−ời Dao rất đơn giản, thông th−ờng họ
dùng ngô hoặc cơm trộn với mỡ, thịt mỡ.
Món ăn đặc tr−ng của dân tộc Mông là “thắng cố ”. Bữa ăn th−ờng ngày
của đồng bào Mông - Dao rất đơn giản chủ yếu là cơm không hoặc cơm với thịt
mỡ, ít khi có món rau. Họ th−ờng dùng cơm trộn mỡ, ngô trộn mỡ... Món ăn
truyền thống của dân tộc Mông và Dao là bột ngô đồ còn gọi là mèn mén.
Cách chế biến khá phức tạp, mỗi ngày, mỗi gia đình đồ một chõ để ăn cả ngày.
Về mùa đông để chống rét, đồng bào Mông - Dao th−ờng xuyên sử dụng
mỡ lợn: cơm trộn mỡ, ngô trộn mỡ... Đồng bào th−ờng ăn nhiều ngô, cho nên
khẩu phần ăn th−ờng mất cân đối, đặc biệt thiếu một acit amin quan trọng nh−
triptophan nên phải phối hợp với đậu đỗ để bổ sung cho nhau.
38
Cũng nh− các dân tộc thiểu số khác, ng−ời Mông cũng có tập quán kiêng
khem trong ăn uống. Điển hình là trong thời gian phụ nữ mang thai, ng−ời Dao
kiêng không ăn thức ăn có nhiều dinh d−ỡng, kiêng không ăn thịt trâu. Phụ nữ
đẻ xong phải kiêng một số thực phẩm nh− thịt lợn nái, thịt trâu, bò, h−ơu nai,
gà trống.
Một điều rất khác với các dân tộc thiểu số khác, đồng bào Mông - Dao
rất quan tâm tới việc ăn uống của trẻ em. Thời kỳ đầu chủ yếu đứa trẻ đ−ợc bú
sữa mẹ, sau khi đầy tháng đứa trẻ đ−ợc ăn thêm n−ớc cơm, n−ớc cháo hoặc
cơm nhai thật kỹ với chuối rồi mớm cho trẻ. Họ không có thói quen cho trẻ ăn
bột. Đ−ợc 5 - 6 tháng đ−a trẻ đ−ợc tập ăn cơm nát hoặc cháo đặc hầm với thịt
hoặc rau. Đồng bào Mông th−ờng có thói quen cho con bú th−ờng xuyên khi
đ−ợc 2 - 3 tuổi hoặc đến khi sinh con lần sau. Trong ăn uống trẻ nhỏ th−ờng
đ−ợc −u tiên hơn. Mỗi khi thịt gà nhất thiết phải dành đùi gà cho trẻ.
Kết quả nghiên cứu định tính về tập quán dinh d−ỡng của các dân tộc
cho thấy:
- Thực phẩm cho các bữa ăn th−ờng nghèo nàn, không có tính đa dạng, mặc dù
tại địa ph−ơng không thiếu thực phẩm
- Cách chế biến thức ăn phong phú nhất là dân tộc Tày, Sán Chay, chế biến các
món ăn đơn giản nhất là dân tộc Dao.
- Các bữa ăn nghèo chất dinh d−ỡng, không đảm bảo năng l−ợng cho các đối
t−ợng trong gia đình đặc biệt là trẻ em và phụ nữ có thai, nuôi con nhỏ. Các
bữa ăn giàu chất dinh d−ỡng chiếm tỷ lệ rất thấp trong năm và th−ờng chỉ tập
trung vào các ngày lễ, ngày tết.
- Tập quán kiêng khem trong ăn uống còn rất phổ biến trong các dân tộc thiểu
số, Đặc biệt đối với phụ nữ có thai, nuôi con nhỏ. Kiêng khem chủ yếu tập
trung vào các món ăn giàu chất dinh d−ỡng. Tập quán kiêng khem đã dẫn tới
hậu quả thiếu dinh d−ỡng của ng−ời mẹ, trẻ em, làm tăng tỷ lệ SDD trẻ em.
- Một đặc điểm chung nữa của các dân tộc thiểu số là th−ờng uống nhiều r−ợu.
Trong các ngày vui, ngày buồn, ngày lễ hội và cả ngày th−ờng họ đều uống
39
r−ợu. Vì uống nhiều r−ợu, nhiều gia đình đã phải sử dụng tới 1/3 số l−ơng thực
có đ−ợc để nấu r−ợu hoặc mua đây cũng là một đặc điểm đã góp phần ảnh
h−ởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới tình trạng mất an ninh l−ơng thực của gia
đình.
- Tập quán dinh d−ỡng trong đồng bào các dân tộc thiểu số còn chứa đựng
nhiều yếu tố tác hại cho sức khoẻ cộng đồng nói chung, đặc biệt đối với bà mẹ
và trẻ em d−ới 5 tuổi và đây cũng là một trong những nguyên nhân làm tăng tỷ
lệ SDD trẻ em tại khu vực này đã kéo dài trong nhiều năm nay.
- Qua khảo sát tại các địa ph−ơng, chúng tôi thấy các địa ph−ơng điều có nhiều
loại thực phẩm. Nh−ng do các tập quán, tín ng−ỡng đã hạn chế sử dụng các loại
thực phẩm sẵn có để phục vụ cho sức khoẻ chính mình. Điều này cho thấy cần
phải có những thay đổi những điểm bất lợi cho sức khoẻ trong tập quán dinh
d−ỡng của các dân tộc thiểu số tại địa ph−ơng. Để làm đ−ợc điều này, ngoài
giải pháp nâng cao chất l−ợng dịch vụ y tế chăm sóc sức khoẻ cho ng−ời dân,
các cấp chính quyền cần có các biện pháp thúc đẩy nội lực địa ph−ơng tự cải
thiện chất l−ợng đời sống của ng−ời dân.
40
3.2. Tình trạng dinh d−ỡng trẻ em d−ới 5 tuổi dân tộc Sán Chay và Kinh
tại Thái Nguyên
Bảng 3.1. Tỷ lệ SDD giữa dân tộc Kinh và dân tộc thiểu số
Kinh (n=387) Sán Chay (n=458)
Thể SDD
Số l−ợng % Số l−ợng %
p
(test χ2)
Nhẹ cân 112 28,9 187 40,8 < 0,001
Thấp còi 151 39,0 200 43,7 > 0,05
Gầy còm 33 8,5 45 9,8 > 0,05
Nhận xét: Tỷ lệ SDD trẻ em dân tộc Sán Chay cao hơn so với trẻ em dân tộc
Kinh cùng khu vực. Đặc biệt SDD thể nhẹ cân còn ở mức rất cao chiếm 40,8%,
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,001.
Bảng 3.2. Tỷ lệ SDD nhẹ cân theo nhóm tuổi và dân tộc
Kinh (n=387) Sán Chay (n=458)
Tháng tuổi
Số l−ợng % Số l−ợng %
p
(test χ2)
0- 6 th 0 0,0 2 4,1 -
7 - 24 th 30 28,3 52 37,4 < 0,01
25 - 60 th 82 34,0 133 49,3 < 0,01
Nhận xét: ở nhóm trẻ bú mẹ (0-6 tháng) hầu nh− ch−a xuất hiện tình trạng
SDD, Tỷ lệ SDD bắt đầu tăng cao ở nhóm trẻ trong độ tuổi ABS (7-24 tháng)
và tiếp tục tăng ở nhóm trẻ đã cai sữa (25-60 tháng).
Bảng 3.3. Mức độ SDD nhẹ cân theo dân tộc
41
Kinh (n=387) Sán Chay (n=458)
Mức độ
Số l−ợng % Số l−ợng %
p
(test χ2)
Độ I 96 24,8 155 33,8 < 0,01
Độ II 13 3,4 28 6,1 > 0,05
Độ III 3 0,8 4 0,9 > 0,05
Nhận xét: Hầu hết SDD ở mức độ nhẹ (độ I), ở dân tộc Sán Chay cao hơn so
với dân tộc Kinh (p < 0,01). SDD vừa và nặng (độ II và độ III) chiếm tỷ lệ thấp
và không có sự khác biệt giữa các dân tộc.
Hình 3.1. Diễn biến SDD trong 5 năm 2001-2005 tại địa bàn nghiên cứu
Nhận xét: Tỷ lệ SDD trẻ em thay đổi theo từng năm và mức giảm không đáng
kể trong 5 năm qua.
Năm
Tỷ lệ %
42
3.3. Mối liên quan giữa tập quán dinh d−ỡng và tình trạng dinh d−ỡng trẻ
em d−ới 5 tuổi
3.3.1. Yếu tố kinh tế xã hội và gia đình
Bảng 3.4. Mối liên quan giữa kinh tế gia đình và SDD nhẹ cân của trẻ
TTDD
Kinh tế
SDD Bình th−ờng
Nghèo 160 121
Không nghèo 139 178
OR = 1,69 95% CI {1,23 - 2,34} p < 0,01
Nhận xét: Kết quả tại bảng 3.4 cho ta thấy trẻ em ở gia đình nghèo có nguy
cơ SDD cao gấp 1,69 lần so với trẻ ở gia đình đủ ăn (p < 0,01).
Bảng 3.5. Mối liên quan giữa trình độ văn hoá của mẹ và SDD nhẹ cân
TTDD
TDVH
SDD Bình th−ờng
Từ tiểu học trở xuống 256 252
Từ THCS trở lên 43 47
OR = 1,11 95% CI {0,71 - 1,73} p > 0,05
Nhận xét: Không có sự liên quan có ý nghĩa thống kê giữa trình độ văn hoá
của mẹ với SDD nhẹ cân của trẻ.
43
Bảng 3.6. Mối liên quan giữa dân tộc của mẹ và SDD nhẹ cân của trẻ
TTDD
Dân tộc
SDD Bình th−ờng
Thiểu số 173 161
Kinh 126 138
OR = 1,18 95% CI {0,85 - 1,63} p > 0,05
Nhận xét: Không có sự liên quan có ý nghĩa thống kê giữa dân tộc của mẹ và
SDD nhẹ cân của trẻ.
Bảng 3.7. Mối liên quan giữa tuổi của mẹ khi mang thai và SDD nhẹ cân
TTDD
Tuổi mẹ
SDD Bình th−ờng
D−ới 22 hoặc trên 35 tuổi 103 101
Từ 22-35 tuổi 196 198
OR = 1, 03 95% CI {0,74 - 1,45} p > 0,05
Nhận xét: Không có sự liên quan có ý nghĩa giữa tuổi khi mang thai của mẹ và
SDD nhẹ cân của trẻ.
Bảng 3.8. Mối liên quan giữa số con trong gia đình với SDD nhẹ cân của trẻ
TTDD
Số con
SDD Bình th−ờng
> 2 con 30 30
≤ 2 con 269 269
OR = 1,00 95% CI {0,59 - 1,71} p > 0,05
Nhận xét: Không có sự liên quan có ý nghĩa thống kê giữa số con trong gia
đình với SDD nhẹ cân của trẻ.
Bảng 3.9. Mô hình hồi qui các yếu tố KTXH và gia đình với SDD nhẹ cân
44
95%CI
Yếu tố KTXH và gia đình
Hệ số
hồi qui
p OR
Thấp nhất Cao nhất
Trình độ học vấn
Tiểu học trở xuống 0,049 0,837 1,050 0,660 1,670
Trên THCS - - 1,0 - -
Tuổi khi mang thai
D−ới 22 /trên 35 tuổi 0,074 0,678 1,077 0,759 1,527
Từ 22-35 tuổi - - 1,0 - -
Dân tộc
Thiểu số 0,105 0,531 1,111 0,799 1,545
Kinh - - 1,0 - -
Điều kiện kinh tế
Nghèo 0,523 0,002 1,688 1,214 2,347
Không nghèo - - 1,0 - -
Số con trong gia đình
Đông con 0,073 0,796 0,930 0,537 1,611
ít con - - 1,0 - -
Nhận xét: Kết quả phân tích hồi qui tại bảng 3.9 cho thấy điều kiện kinh tế
gia đình là yếu tố nguy cơ của SDD nhẹ cân của trẻ. Các yếu tố khác nh− trình
độ văn hoá, dân tộc, tuổi khi mang thai của mẹ, số con trong gia đình không
phải là yếu tố nguy cơ với SDD thể nhẹ cân của nhóm trẻ này.
45
3.3.2. Yếu tố chăm sóc trẻ em
Bảng 3.10. Mối liên quan giữa bú mẹ sớm sau đẻ với SDD nhẹ cân của trẻ
TTDD
Bú mẹ
SDD Bình th−ờng
Sau 6 giờ 24 14
Tr−ớc 6 giờ 275 285
OR = 1,78 95% CI {0,90 - 3,51} p > 0,05
Nhận xét: Không có sự liên quan có ý nghĩa thống kê giữa bú sớm sau đẻ và
SDD nhẹ cân của trẻ.
Bảng 3.11. Mối liên quan giữa thời điểm ABS với SDD nhẹ cân của trẻ
TTDD
ăn bổ sung
SDD Bình th−ờng
Không đúng 66 38
Đúng 231 259
OR = 1,95 95% CI {1,23 - 3,09} p < 0,01
Nhận xét: Trẻ ABS không đúng thời gian có nguy cơ bị SDD nhẹ cân cao gấp
1,95 lần so với trẻ ABS đúng thời gian (p < 0,01)
46
Bảng 3.12. Mối liên quan giữa thành phần thức ABS với SDD nhẹ cân
TTDD
ăn bổ sung
SDD Bình th−ờng
Không đủ 4 nhóm thực phẩm 222 174
Đủ 4 nhóm thực phẩm 75 123
OR = 2,09 95% CI {1,45 - 3,01} p < 0,01
Nhận xét: Trẻ ABS không đủ 4 nhóm thực phẩm có nguy cơ bị SDD nhẹ cân
cao gấp 2,09 lần so với trẻ đ−ợc ABS đủ 4 nhóm thực phẩm (p < 0,01).
Bảng 3.13. Mối liên quan giữa thời gian cai sữa với SDD nhẹ cân của trẻ
TTDD
Cai sữa
SDD Bình th−ờng
Không đúng 111 60
Đúng (18 - 24 tháng) 135 186
OR = 2,55 95% CI {1,74 - 3,74} p < 0,01
Nhận xét: Trẻ bị cai sữa không đúng có nguy cơ bị SDD thể nhẹ cân cao gấp
2,55 lần so với trẻ đ−ợc cai sữa đúng thời gian (p < 0,01).
47
Bảng 3.14. Mô hình hồi qui về các yếu tố chăm sóc và tình trạng SDD
95% CI
Yếu tố chăm sóc
Hệ số
hồi quy
P OR Thấp
nhất
Cao
nhất
Bú sớm sau đẻ
Sau 6 giờ 0,642 0,121 1,900 0,844 4,279
Tr−ớc 6 giờ - - 1,0 - -
Thời điểm ABS
Không đúng 0,665 0,009 1,925 1,174 3,158
Đúng độ tuổi - - 1,0 - -
Thành phần bữa ABS
Không đủ 4 nhóm thực phẩm 0,664 0,001 1,942 1,315 2,867
Đủ nhóm thực phẩm - - 1,0 - -
Thời gian cai sữa
Không đúng độ tuổi 0,791 0,000 2,206 1,483 3,281
Đúng độ tuổi - - 1,0 - -
Nhận xét: Các yếu tố nguy cơ của SDD thể nhẹ cân qua phân tích hồi qui
logistic là: thời điểm ABS (OR= 1,925), thành phần bữa ABS (OR= 1,942),
thời gian cai sữa (OR= 2,206).
48
3.3.3. Yếu tố cá nhân
Bảng 3.15. Mối liên quan giữa cân nặng lúc đẻ của trẻ với SDD nhẹ cân
TTDD
CNSS
SDD Bình th−ờng
< 2500g 55 24
> 2500g 244 275
OR = 2,58 95% CI {1,56 - 4,23} p < 0,01
Nhận xét: Trẻ có cân nặng lúc đẻ < 2500g có nguy cơ bị SDD nhẹ cân cao gấp
2,58 lần trẻ có cân nặng lúc đẻ > 2500g (p <0,01).
Bảng 3.16. Mối liên quan giữa tiêu chảy trong 2 tuần qua với SDD nhẹ cân
TTDD
Tiêu chảy
SDD Bình th−ờng
Có 13 6
Không 286 293
OR = 2,22 95% CI {0,83 - 5,92} p > 0,05
Nhận xét: Không có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa tiêu chảy 2 tuần
qua với SDD nhẹ cân của trẻ.
49
Bảng 3.17. Mối liên quan giữa NKHH trong 2 tuần qua với SDD nhẹ cân
TTDD
NKHH
SDD Bình th−ờng
Có 73 48
Không 226 251
OR = 1,67 95% CI {1,13 - 2,53} p < 0,01
Nhận xét: Trẻ bị NKHH cấp trong 2 tuần qua có nguy cơ bị SDD nhẹ cân cao
gấp 1,67 lần so với trẻ không bị NKHHC trong 2 tuần qua.
Bảng 3.18. Mô hình hồi qui về các yếu tố cá nhân và tình trạng SDD
95%CI
Yếu tố cá nhân
Hệ số
hồi qui
p OR
Thấp nhất Cao nhất
Cân nặng sơ sinh
< 2500g 0,929 0,000 2,531 1,516 4,226
≥ 2500g - - 1,0 - -
Tiêu chảy trong 2 tuần
Có 0,717 0,159 2,048 0,756 5,548
Không - - 1,0 - -
NKHH trong 2 tuần
Có 0,479 0,023 1,615 1,069 2,439
Không - - 1,0 - -
Nhận xét: Kết quả tại bảng 3.18 cho thấy các yếu tố cân nặng sơ sinh của trẻ
(OR= 2,531), nhiễm khuẩn hô hấp cấp (OR= 1,615) là các yếu tố liên quan đến
SDD thể nhẹ cân của trẻ. Yếu tố tiêu chảy trong hai tuần qua không thấy có
mối liên quan với SDD thể nhẹ cân.
Bảng 3.19. Mô hình hồi qui các yếu tố nguy cơ của SDD thể nhẹ cân
50
95%CI
Các yếu tố nguy cơ
Hệ số
hồi qui
p OR
Thấp nhất Cao nhất
NKHH trong 2 tuần qua 0,783 0,004 2,188 1,293 3,702
Cai sữa không đúng độ tuổi 0,765 0,000 2,150 1,425 3,244
CNSS d−ới 2500g 0,703 0,021 2,020 1,111 3,672
Ăn bổ sung không đủ 4
nhóm thực phẩm
0,637 0,002 1,891 1,264 2,828
Ăn bổ sung tr−ớc 4 tháng 0,638 0,013 1,893 1,143 3,136
Gia đình nghèo 0,564 0,004 1,759 1,200 2,577
Nhận xét: Kết quả nghiên cứu ở bảng 3.19 cho thấy các yếu tố: NKHH cấp,
cai sữa không đúng độ tuổi, cân nặng sơ sinh thấp, ABS không đúng, gia đình
nghèo là những yếu tố nguy cơ của SDD nhẹ cân của trẻ.
51
Ch−ơng 4
Bàn luận
4.1. Tập quán dinh d−ỡng của dân tộc Tày, Sán Chay, Mông, Dao ở miền
núi phía Bắc Việt Nam
Qua tìm hiểu tập quán dinh d−ỡng của một số dân tộc thiểu số miền núi
phía Bắc Việt Nam cho thấy những món ăn, thức uống không chỉ là sản phẩm
vật thể trong cuộc sống đời th−ờng mà nó còn là sản phẩm tinh thần có giá trị
lớn về mặt văn hoá, nhân văn, giúp hiểu sâu hơn về tộc ng−ời đó. Nó phản ánh
đời sống kinh tế, văn hoá tộc ng−ời và sự giao l−u văn hoá giữa các tộc ng−ời
với nhau. Thông qua văn hoá ẩm thực, có thể tìm thấy những yếu tố tín
ng−ỡng, tâm linh, đạo đức, luân lý, thuần phong mỹ tục và cả thị hiếu ẩm thực
của dân tộc đó.
Có thể thấy, văn hoá có mối liên hệ mật thiết với tình trạng dinh d−ỡng
của con ng−ời và là thành tố không thể thiếu khi xem xét các vấn đề dinh
d−ỡng. ở những nơi mà tỷ lệ nghèo l−ơng thực còn cao nh− các dân tộc thiểu
số n−ớc ta, ảnh h−ởng của văn hoá đến dinh d−ỡng càng sâu sắc. ảnh h−ởng đó
thể hiện qua cách sử dụng nguồn thực phẩm, cách chế biến món ăn và thói
quen ăn kiêng. Cách tiếp cận truyền thống và sinh thái trong dinh d−ỡng là một
h−ớng nghiên cứu phù hợp với quá trình tiến hoá của con ng−ời. “Con ng−ời và
đất không phải là hai sự vật khác nhau” mà “con ng−ời là hoa của đất”, vì vậy
con ng−ời luôn gắn liền với môi tr−ờng sinh thái nơi họ sinh ra. D−ới ánh sáng
của dinh d−ỡng học hiện đại, văn hoá ẩm thực truyền thống của ng−ời Việt
Nam đã thể hiện đ−ợc nhiều nét độc đáo, có cơ sở khoa học và đậm đà bản sắc
dân tộc. Một số tác giả đã phân tích tính hợp lý trong cách ăn truyền thống
Việt Nam [6],[27],[34] hoặc đ−a ra những nhận xét về cách ăn d−ới góc độ
dinh d−ỡng [2],[5],[30], song vẫn còn quá ít so và ch−a thực sự đầy đủ so với
nền văn hoá ẩm thực n−ớc nhà.
52
Thông qua việc ăn uống trong ngày th−ờng, ngày mùa hoặc bữa ăn có sự
tham gia của cộng đồng có thể nhận thấy cơ cấu bữa ăn của đồng bào dân tộc
thiểu số thay đổi một cách khéo léo cho phù hợp với hoàn cảnh kinh tế, thói
quen cũng nh− tập quán của từng dân tộc. Từ đó, có thể đ−a ra công thức chung
về cơ cấu bữa ăn của họ nh− sau:
- ăn ngày th−ờng: Cơm tẻ, cháo hoặc ngô (chủ yếu) + thức ăn có nguồn
gốc từ thực vật. Bữa ăn ngày th−ờng khá thanh đạm, thiên về thức ăn nguồn
gốc thực vật mà thiếu protit, lipit từ động vật. Chế độ ăn uống hợp lý không
khuyến khích ăn nhiều thịt, nhiều mỡ mà phải có sự cân đối giữa nguồn thực
phẩm động vật và thực vật, tăng c−ờng rau và hoa quả chín [15]. Vì vậy, đồng
bào các dân tộc thiểu số nên giữ gìn cách ăn thiên về thực vật nh− hiện nay
song không chỉ lệ thuộc vào thiên nhiên với các loại rau rừng, măng rừng, chim
thú... mà cần gieo trồng trong v−ờn nhà những cây trồng có hàm l−ợng protit,
lipit cao nh− đậu đỗ, lạc vừng... để thể thay cho thịt cá trong bữa ăn hàng ngày.
Đồng thời phát triển chăn nuôi lợn, gà... để cung cấp thêm nguồn protit động
vật, không nên đợi đến dịp lễ tết mới giết gà, mổ lợn.
- ăn ngày lễ, tết: Cơm tẻ, cơm nếp (thứ yếu) + Thức ăn có nguồn gốc từ
động vật (chủ yếu) + Thức ăn có nguồn gốc từ thực vật (rất ít). Trái ng−ợc với
bữa ăn ngày th−ờng, bữa ăn ngày lễ tết có quá nhiều thực phẩm nguồn gốc
động vật. Mâm cỗ ngày này có tới hàng chục món, nh−ng rất ít rau, chủ yếu là
thịt, cá, giò chả, nem các loại và r−ợu... Để bữa ăn trở lên cân đối, ngày tết ăn
nhiều thịt, đừng quên món rau, d−a nén, d−a hành và món măng. Măng là món
ăn th−ờng ngày của đồng bào các dân tộc thiểu số, về dinh d−ỡng măng không
cung cấp nhiều chất bổ nh−ng lại cung cấp nhiều chất xơ giúp chống táo bón
và quét sạch các chất độc, chất thải và cholesterol thừa ra khỏi cơ thể nhất là
ngày tết ăn nhiều thịt [9]. Bữa ăn ngày lễ tết là những hoạt động văn hoá, tín
ng−ỡng của đồng bào các dân tộc thiểu số song cần hiểu rõ ý nghĩa và tổ chức
sao cho phù hợp với thực tế của từng gia đình tránh lãng phí và mất đi sự cân
đối trong khẩu phần.
53
Một số đặc điểm về cách ăn uống của đồng bào dân tộc thiểu số khu vực
miền núi phía Bắc đ−ợc tìm hiểu qua nghiên cứu này cũng mang đặc điểm
chung của cách ăn truyền thống Việt Nam đó là chế độ ăn thiên về thực vật và
phối hợp nhiều loại thực phẩm từ thiên nhiên. Chế độ ăn này ch−a bị ảnh h−ởng
bởi nền kinh tế thị tr−ờng với các thức ăn công nghiệp hoá. Bên cạnh đó vẫn
còn một số thói quen, tập quán ăn uống ch−a thực sự hợp lý nh− uống nhiều
r−ợu, ăn kiêng do tín ng−ỡng và đặc biệt là vệ sinh ăn uống. Nhìn chung phong
cách ăn uống của các dân tộc miền núi có những nét t−ơng đồng, thể hiện ở
những điểm chính nh− sau:
Cách ăn của đồng bào các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc thể hiện
tính cộng đồng rất cao. Các thành viên trong gia đình ăn cùng mâm, cùng quây
tròn bên những vò r−ợu. Đồ ăn trong các buổi tế lễ đ−ợc chia đều cho mọi
ng−ời, mọi thành viên trong cộng đồng đều có quyền “h−ởng lộc” một cách
bình đẳng. Ng−ời Hmông cho toàn bộ con vật hiến sinh vào chảo nấu thành
món canh “thắng cố” để mọi thành viên của cộng đồng đều có thể th−ởng thức
đ−ợc toàn thể bộ phận của con vật.
Cách ăn còn thể hiện sự kính trọng và nh−ờng nhịn. Ng−ời d−ới đợi kẻ
trên, nh−ng ng−ợc lại ng−ời trên nh−ờng kẻ d−ới. Những thức ăn ngon luôn
đ−ợc −u tiên dành phần cho ng−ời cao tuổi hoặc trẻ nhỏ.
Chủ yếu sử dụng thực phẩm nguồn gốc thực vật. Các món ăn đều đ−ợc
chế biến theo cách phối hợp nhiều loại thức ăn tạo nên cảm giác ngon miệng và
sự cân đối về thành phần các chất dinh d−ỡng trong khẩu phần.
Sử dụng nhiều gia vị từ thiên nhiên. Gia vị có tác dụng kích thích niêm
mạc miệng, dạ dày làm tăng hoạt động tiết dịch của các tuyến tiêu hoá. Một số
gia vị còn có tác dụng làm tăng miễn dịch của cơ thể vì có ảnh h−ởng rõ rệt tới
hoạt động thực bào của bạch cầu.
Hầu hết các dân tộc thiểu số đều th−ờng xuyên ăn cháo, cháo vừa là đồ
ăn vừa là thức uống rải rác trong ngày. Cách ăn này có tác dụng bồ bổ sức khoẻ
54
sau khi đi rừng, làm n−ơng, bát cháo nóng còn làm toát mồ hôi chẳng khác gì
tác dụng của nồi n−ớc xông làm nhẹ ng−ời.
So với đồng bào miền xuôi, các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc sử
dụng nhiều gạo nếp. Gạo nếp có giá trị dinh d−ỡng cao hơn gạo tẻ song dễ
chán, không ăn đ−ợc nhiều vì vậy đồng bào đã khéo léo chế biến thành nhiều
sản phẩm khác nhau phục vụ cho bữa ăn ngày th−ờng cũng nh− tế lễ nh− xôi
nhiều màu, bánh các loại.
Đồng bào các dân tộc thiểu số còn có tập tục uống nhiều r−ợu. Họ uống
r−ợu trong ngày Tết, đám c−ới, đám ma, lễ hội,... ngày vui cũng nh− ngày buồn
đều không thể thiếu đ−ợc r−ợu, thậm chí cả những ngày th−ờng nhật, “khách
đến nhà, tr−ớc uống r−ợu sau uống trà”. R−ợu làm cho ng−ời ta cởi mở với
nhau hơn, cuộc vui thêm vui nh−ng r−ợu cũng ảnh h−ởng đến sức khoẻ đ−a đến
các bệnh dạ dày, gan, thận, tâm thần kinh... Một số đồng bào vùng cao cho
rằng uống r−ợu để chống rét, để làm ấm, nóng ng−ời lên. Khi uống r−ợu, mạch
máu ngoại vi giãn nở toả ra rất nhiều năng l−ợng, da dẻ trở lên hồng hào, song
chỉ có tác động rất ngắn. Cơ thể tiêu nhiệt, cơ chế điều hoà thân nhiệt bị rối
loạn, khi gặp trời lạnh sẽ rất nguy hiểm. Nh− vậy, uống r−ợu cũng có mặt tốt
và không tốt, những ngày lễ tết, để hoà nhập với mọi ng−ời, cần một chút h−ng
phấn thì có thể uống cho vui nh−ng không nên uống nhiều.
Do đặc điểm địa bàn c− trú, đồng bào các dân tộc thiểu số miền núi phía
Bắc luôn phải đối phó với các bệnh tật từ đơn giản đến phức tạp vì vậy họ đã
tích luỹ đ−ợc nhiều kinh nghiệm trong việc dùng thức ăn, thức uống để trị và
phòng bệnh theo nguyên lý âm d−ơng. “Thức ăn là thuốc, thuốc là thức ăn”, so
với đông y và tây y, thuốc nam dễ tìm kiếm, không gây ngộ độc mà ít tốn kém,
phù hợp với tập tục của đồng bào các dân tộc thiểu số.
Những kiêng kị trong ăn uống cũng nh− trong đời sống của các dân tộc
thiểu số tồn tại nh− một qui tắc ứng xử tự nhiên. Nhìn chung, nội dung kiêng kị
của các dân tộc là t−ơng đối giống nhau, nh−ng hình thức thể hiện ở mỗi dân
tộc mỗi khác. Do đặc tính “huyền bí” chúng đã khiến họ phục tùng một cách tự
55
nhiên nh− phục tùng những sự vật tự nhiên và tin rằng sự vi phạm ắt sẽ mang
đến cho họ sự trừng phạt nghiêm ngặt nhất mà không cần biết đến lý do của sự
cấm đoán kiêng kị [13]. Những lý do này dựa trên những chi tiết hầu nh−
chẳng có giá trị gì nh−: kiêng ăn thịt trâu, bò, chó sợ uế tạp, phụ nữ có thai
kiêng ăn uống các loại cây có gai vì sợ con bị mụn nhọt, không ăn chuối dính
đôi vì sợ sinh đôi, kiêng ăn ốc sợ con bị thè l−ỡi nh− ốc, kiêng không ăn thịt
dúi sợ sau này con hay khịt mũi, kiêng ăn măng sợ về già vừa nói chuyện vừa
lúc lắc đầu nh− măng, kiêng không ăn quả bí sợ sau này bào thai biến thành
quả bí, không dám ăn nhiều sợ con to khó đẻ... ng−ời bị ốm không ăn thịt trâu,
thịt lợn sề, kiêng ăn thực vật có thân rỗng vì cho rằng ăn vào sẽ làm “rỗng”
x−ơng cốt... Về quan điểm dinh d−ỡng, các thức ăn kiêng này đều là những
thực phẩm giầu dinh d−ỡng. Phụ nữ có thai, ng−ời ốm nhu cầu dinh d−ỡng cao
hơn bình th−ờng vì vậy cần đ−ợc ăn uống nhiều hơn, đặc biệt là thức ăn giầu
protein và vitamin, không nên kiêng bất cứ thực phẩm nào trừ các chất kích
thích. Nếu kiêng khem quá mức sẽ dẫn đến tình trạng suy dinh d−ỡng, thiếu
vitamin A, thiếu máu thiếu sắt, trẻ dễ bị mắc các bệnh nhiễm khuẩn, ng−ời ốm
càng ốm nặng thêm.
Mặc dù còn khá nhiều kiêng kị trong ăn uống với nhiều lý do khác nhau
nh−ng tựu chung lại, việc ăn kiêng là biện pháp mà con ng−ời tin rằng sẽ giúp
cho họ nâng cao sức khoẻ, phòng, tránh đ−ợc bệnh tật. Ng−ời làm công tác y tế
cần hiểu rõ tập quán dinh d−ỡng của từng dân tộc để có cách ứng xử văn hoá,
khoa học trên cơ sở tôn trọng tín ng−ỡng, giữ gìn và phát huy những tập quán
dinh d−ỡng có lợi, khéo léo vận động bài trừ dần dần các tập quán dinh d−ỡng
không có lợi cho sức khoẻ nhân dân. Nhìn chung, các tập quán dinh d−ỡng ở
đồng bào các dân tộc thiểu số đã đ−ợc nghiên cứu cho thấy yếu tố có hại cho
sức khoẻ nhiều hơn yếu tố có lợi cho sức khoẻ con ng−ời, đặc biệt là đối với bà
mẹ và trẻ em. Mặc dù đã qua nhiều năm, nhiều tác động của các yếu tố xã hội,
của các hoạt động giáo dục sức khoẻ, các điểm bất lợi cho sức khoẻ con ng−ời
trong các tập quán dinh d−ỡng vẫn ch−a đ−ợc cải thiện. Vì lẽ đó, cho đến nay
tỷ lệ SDD trẻ em ở dân tộc thiểu số vẫn ở mức cao, cao hơn mức toàn quốc năm
56
2007. Nếu so sánh với tỷ lệ SDD trẻ em d−ới 5 tuổi cách đây 5 năm tại khu vực
này thì cho tới nay (2008) tình trạng SDD trẻ em ở khu vực này vẫn ch−a đ−ợc
cải thiện. Tuy nhiên, các tập quán dinh d−ỡng hiện có ở các dân tộc thiểu có
đều có thể thay đổi đ−ợc thông các hoạt động truyền thông, giáo dục sức khoẻ
cho cộng đồng. Trong các giải pháp này, cần có sự chỉ đạo của các cấp Đảng,
Chính quyền địa ph−ơng hoặc chính sách đối với dân tộc và không thể thiếu
đ−ợc sự tham gia đồng thuận của cộng đồng.
4.2. Tình trạng dinh d−ỡng trẻ em d−ới 5 tuổi dân tộc Sán Chay tại Thái
Nguyên
SDD trẻ em có nhiều thể khác nhau nh− thể nhẹ cân, thể thấp còi và thể
gầy còm. Đã có nhiều nghiên cứu cho thấy ở hầu hết các dân tộc tỷ lệ SDD thể
nhẹ cân và thấp còi th−ờng có tỷ lệ cao hơn thể gầy còm. Kết quả nghiên cứu
của chúng tôi cũng cho thấy tỷ lệ SDD thể nhẹ cân và thấp còi đều cao hơn thể
gầy còm. Trong đó ở dân tộc Sán Chay cao hơn dân tộc Kinh.
Tại khu vực nghiên cứu, tỷ lệ SDD cả 3 thể ở cả hai dân tộc đều cao hơn
tỷ lệ SDD chung của toàn quốc năm 2007 (cân nặng theo tuổi: 21,2%; chiều
cao theo tuổi: 33,9% và cân nặng theo chiều cao: 7,1%) [47]. Kết quả nghiên
cứu cho thấy, SDD trẻ em dân tộc Sán Chay ở mức rất cao: đối với thể nhẹ cân
là 40,8%; thấp còi: 43,7% và gầy còm 9,8%.
SDD thể nhẹ cân đ−ợc xem xét nh− 1 tỷ lệ chung của thiếu dinh d−ỡng
ở cộng đồng vì dễ theo dõi nh−ng không biết đ−ợc đặc điểm cụ thể đó là loại
SDD vừa mới xảy ra hay tích luỹ từ lâu. Kết quả nghiên cứu đã phản ánh mức độ
phổ biến của SDD ở dân tộc Sán Chay với tỷ lệ SDD lên đến 40,8%. Tỷ lệ này cao
hơn so với tỷ lệ chung của toàn tỉnh Thái Nguyên (24,6%) và toàn quốc (23,4%)
trong cùng thời điểm [46]. So với một số quốc gia khác, tỷ lệ SDD trong
nghiên cứu của chúng tôi cũng cao hơn nhiều so với kết quả nghiên cứu của
một số tác giả ở Thổ Nhĩ Kỳ (4,8%) [56], Oman (7,0%) [49], Luxi ,Trung
Quốc (19,5%) [59], Uganda (20,5%) [53]. Tuy nhiên, theo kết quả nghiên cứu
về tình trạng DD của trẻ em từ 0 - 5 tuổi ở vùng sa mạc của Tây Rajasthan, ấn
57
Độ cho thấy tỷ lệ SDD nhẹ cân là 60% [64] và kết quả nghiên cứu về SDD
protein, năng l−ợng trên 798 trẻ em d−ới 5 tuổi tại Luangprabang, Lào cho thấy
tỷ lệ SDD nhẹ cân là 45% [63], thì kết quả nghiên cứu của chúng tôi lại thấp
hơn nhiều.
SDD thể thấp còi phản ánh tiền sử dinh d−ỡng của trẻ em dân tộc Sán
Chay còn rất cao với tỷ lệ 43,7%, cao hơn tỷ lệ SDD thấp còi của các tỉnh vùng
Đông Bắc (36,2%), Tây Bắc (37,6%) [46]. Kết quả của chúng tôi cũng cao hơn
so với nghiên cứu của một số n−ớc nh−: Aydin, Thổ Nhĩ Kỳ năm 2007 (10,9%)
[56], vùng nông thôn ở Clômbia năm 2005 (17,1%) [60].
SDD thể gầy còm thể hiện tình trạng thiếu ăn gần đây. Tỷ lệ này ở các
n−ớc nghèo nếu không thiếu thực phẩm thì th−ờng dừng ở mức 5%, nếu từ 10-
14% là cao và trên 15% là rất cao. Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ SDD
thể thấp còi ở dân tộc Sán Chay là 9,8% và dân tộc Kinh là 8,5% cao hơn so
với mức chung toàn quốc (7,2%) và Thái Nguyên là 6,8% [46]. So với kết quả
nghiên cứu của một số tác giả khác thì tỷ lệ SDD thể gầy còm ở trẻ em d−ới 5
tuổi dân tộc Sán Chay khu vực nghiên cứu cũng cao hơn tỷ lệ SDD tại Hải
D−ơng (8,4%), Bắc Kạn (8,9%), Hoà Bình (8,7%) và Lào Cai (8,4%) [1].
Khi phân tích tỷ lệ SDD thể nhẹ cân theo nhóm tuổi và dân tộc cho
thấy: ở dân tộc Sán Chay trẻ ở nhóm tuổi 25 - 60 tháng chiếm tỷ lệ cao nhất
(49,3%) và tiếp theo là nhóm tuổi 7 - 24 tháng (37,4%) và ở nhóm tuổi 0 - 6
tháng tuổi là (4,1%), tỷ lệ này cao hơn dân tộc Kinh cùng khu vực nghiên cứu (
0,0%; 28,3% và 34,0% t−ơng ứng). Nh− vậy, kết quả trên cho ta thấy tỷ lệ SDD
ở các nhóm tuổi ở dân tộc Sán Chay và dân tộc Kinh tại khu vực nghiên cứu
đều ở mức rất cao, và SDD trẻ em ở khu vực nghiên cứu chủ yếu gặp ở nhóm
tuổi từ 7 đến 60 tháng tuổi (bảng 3.2). Kết quả nghiên cứu tỷ lệ SDD của chúng
tôi cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu của nhiều tác giả khác: Phan Lê Thu
Hằng, Lê Thanh Sơn ở Hà Tây [12]... Nguyên nhân tỷ lệ SDD tăng cao ở nhóm
tuổi này là theo một số tác giả thì ở lứa tuổi này trẻ phát triển nhanh, đòi hỏi
nhu cầu năng l−ợng cao vừa để cho phát triển vừa để cho các hoạt động vận cơ
58
tăng nh−ng quá trình cung cấp lại thiếu nhiều. Đối chiếu với điều kiện thực tế
khu vực nghiên cứu cho thấy ở các đồng bào dân tộc Sán Chay trẻ vừa thiếu ăn
tiềm tàng, cấu trúc bữa ăn gia đình nghèo nàn, các bà mẹ thiếu kiến thức nuôi
trẻ, trẻ em lại ít đ−ợc chăm sóc, đặc biệt các bà mẹ đã thực hiện chế độ kiêng
khem sau đẻ khá nghiêm ngặt. Vì vậy ảnh h−ởng đến tình trạng dinh d−ỡng
của trẻ em ở nhóm tuổi này. Điều này cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu
định tính khi nghiên cứu tập quán dinh dinh d−ỡng ở các bà mẹ dân tộc Sán
Chay đều cho thấy 100% các bà mẹ ng−ời Sán Chay đều kiêng kỵ ngặt nghèo
một tháng, trong tháng kiêng kị này chế độ dinh d−ỡng ng−ời mẹ rất hạn chế
về tình trạng dinh d−ỡng do đó đã ảnh h−ởng đến tình trạng dinh d−ỡng trẻ em.
ở dân tộc Kinh, tuy cùng điều kiện môi tr−ờng sống, nh−ng tỷ lệ SDD ở
trẻ em đều thấp hơn dân tộc Sán Chay. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<
0,01 (bảng 3.2). Nh−ng ở dân tộc Kinh không có chế độ kiêng khem nh− dân
tộc Sán Chay, hơn nữa mức sống gia đình và chế độ chăm sóc trẻ em ở dân tộc
Kinh tốt hơn dân tộc Sán Chay. Nh− vậy, càng cho thấy nguyên nhân của sự
khác biệt tỷ lệ SDD của hai dân tộc chủ yếu phụ thuộc vào tập quán dinh
d−ỡng về cách ăn uống và nuôi con. Điều cho thấy trong ch−ơng trình phòng
chống SDD cho trẻ em phải có biện pháp dự phòng ngay từ khi trẻ d−ới 6 tháng
tuổi, đối với khu vực đồng bào Sán Chay cần chú ý cải thiện tập quán dinh
d−ỡng không có lợi cho sức khoẻ đặc biệt đối với bà mẹ và trẻ em.
Về mức độ SDD thể nhẹ cân ở hai dân tộc, kết quả nghiên cứu đều cho
thấy tỷ lệ SDD ở trẻ em dân tộc Sán Chay đều cao hơn trẻ em dân tộc Kinh ở
cả 3 mức độ. Trong đó tỷ lệ SDD độ 1 chiếm tỷ lệ cao nhất ở cả 2 dân tộc (dân
tộc Kinh: 24,8% và dân tộc Sán Chay: 33,8%). Nh− vậy, SDD trẻ em ở cộng
đồng 2 dân tộc Kinh và Sán Chay chủ yếu là thể vừa và nhẹ. Điều này cho thấy
đặc điểm chung về nguyên nhân SDD có từ nguyên nhân kinh tế xã hội. Nh−
vậy đối với khu vực miền núi giải quyết vấn đề SDD trẻ em, bên cạnh việc
nâng cao trình độ, kỹ năng nuôi d−ỡng trẻ cho các bà mẹ, cần đặc biệt quan
59
tâm phát triển kinh tế, tăng thu nhập cho các hộ gia đình, nh− vậy mới có thể
cải thiện tình trạng SDD trẻ em của khu vực.
Chúng tôi có tiến hành nghiên cứu các số liệu tỷ lệ SDD trẻ em từ năm
2001 đến thời điểm nghiên cứu đã cho thấy trong vòng 5 năm từ 2001 đến
2005 tỷ lệ SDD ở hai xã miền núi Phú Đô và Yên Lạc không có sự giảm đáng
kể, tỷ lệ SDD ở hai xã này luôn ở mức cao so với tỷ lệ chung của toàn quốc
năm 2007, đặc biệt là xã Yên Lạc (biểu đồ 3.1). Kết quả này cho thấy, ngoài
các can thiệp của y tế, rõ ràng còn tồn tại những nguy cơ tiềm ẩn liên quan tới
tình trạng SDD trẻ em của khu vực, trong đó chúng tôi cho rằng yếu tố kinh tế
gia đình và các tập quán dinh d−ỡng là các yếu tố đáng đ−ợc quan tâm.
4.3. Yếu tố liên quan đến tình trạng SDD trẻ em d−ới 5 tuổi
Có nhiều yếu tố liên quan tới SDD trẻ em. Tuỳ theo từng vùng sinh thái
khác nhau mà các yếu tố nguy cơ dẫn tới SDD trẻ em có thể khác nhau. Yếu tố
kinh tế gia đình phản ánh sự đầy đủ hay không đầy đủ nhu cầu dinh d−ỡng của
trẻ và các nhu cầu khác. Nhiều nghiên cứu đã cho thấy, thiếu l−ơng thực hộ gia
đình ảnh h−ởng rất lớn tới tình trạng dinh d−ỡng trẻ em [14],[41]. Kết quả
nghiên cứu của chúng tôi cho thấy: nhóm trẻ ở hộ nghèo có nguy cơ bị SDD
cao hơn nhóm trẻ gia đình không nghèo 1,69 lần với OR =1,69, p < 0,01. Khi
phân tích hồi qui lôgstic thì đây vấn là yếu tố liên quan với tình trạng SDD của
trẻ, còn các yếu tố trình độ văn hoá của mẹ, yếu tố dân tộc, tuổi mẹ khi mang
thai và số con trong gia đình đều không có liên quan với tình trạng SDD trẻ em.
Trong khi đó, nhiều nghiên cứu ở các vùng khu vực miền núi đều cho thấy đó
là những yếu tố liên quan đến tình trạng SDD trẻ em [8],[10], [24],[28]. Nh−
vậy có thể nói rằng sau nhiều năm thực hiện ch−ơng trình quốc gia phòng
chống SDD trẻ em, tại khu vực này nhiều yếu tố nguy cơ của SDD trẻ em tr−ớc
đây đã đ−ợc cải thiện, không đ−ợc coi là yếu tố nguy cơ về SDD của khu vực
này, chỉ còn yếu tố kinh tế gia đình vẫn đ−ợc coi là yếu tố nguy cơ của SDD trẻ
em. Điều này khẳng định rằng tại nơi nghiên cứu ch−ơng trình quốc gia về
phòng chống SDD trẻ em và các hoạt động dịch vụ y tế khác đã có hiệu quả
60
nhất định. Nh− vậy, để cải hiện tình trạng SDD trẻ em ở đây chủ yếu phải đặc
biệt quan tâm yếu tố kinh tế gia đình, tăng thu nhập cho gia đình để cải thiện
chất l−ợng bữa ăn cho các thành viên trong gia đình, trong đó có bà mẹ, trẻ em.
Ngoài các yếu tố kinh tế - xã hội và gia đình, các yếu tố về chăm sóc trẻ
em nh−: bú sớm sau đẻ, ABS và thời gian cai sữa ... cũng đóng vai trò quan
trọng trong SDD trẻ em. Kết quả nghiên cứu cho thấy thời gian cai sữa trẻ,
thành phần thức ABS và thời gian ABS cho trẻ là có mối liên quan với tình
trạng SDD của trẻ em khu vực nghiên cứu với (OR = 2,55, p<0,01 ; OR =
2,09, p < 0,01 và OR = 1,95 , p < 0,01 t−ơng ứng). Yếu tố trẻ đ−ợc bú sớm sau
đẻ cũng không còn là yếu tố liên quan với tình trạng SDD trẻ em. Điều này cho
thấy sau nhiều năm thực hiện ch−ơng trình phòng chống SDD trẻ em, các hoạt
động truyền thông giáo dục sức khoẻ đã có tác dụng rõ rệt tới các bà mẹ miền
núi nói chung và hai xã nghiên cứu nói riêng, nhờ đó mà số số bà mẹ cho con
bú tr−ớc 6 giờ đã đ−ợc tăng lên. Theo kết quả nghiên cứu của tác giả L−ơng
Thị Hà tại khu vực này và cùng thời gian đã cho thấy tỷ lệ trẻ đ−ợc bú sớm đạt
tỷ lệ cao (94,0%) [11]. Điều này cũng là kết quả lý giải và đã góp phần làm
sáng tỏ kết quả nghiên cứu của chúng tôi.
Kết quả chúng tôi cho thấy, thành phần thức ABS và thời gian ABS có
liên quan với tình trạng SDD của trẻ. ở nhóm trẻ ABS không đủ 4 nhóm thức
phẩm có nguy cơ bị suy đinh d−ỡng nhẹ cân cao gấp 2,09 lần so với trẻ đ−ợc
ABS đủ 4 nhóm thực phẩm (OR = 2,09; p < 0,01).
Thời gian cai sữa và thời gian ABS có ý nghĩa quan trong đối với tình
trạng dinh d−ỡng của trẻ. ABS hợp lý là phải hợp lý cả về thời gian và chất
l−ợng bữa ăn. Trong quá trình tìm hiểu về tập quán dinh d−ỡng, chúng tôi thấy
vấn đề chăm sóc dinh d−ỡng trẻ em của các bà mẹ ng−ời dân tộc Sán Chay và
các bà mẹ dân tộc Mông đều không đạt đ−ợc tính hợp lý của việc ABS cho trẻ.
Các bà mẹ đã cho trẻ em ABS rất sớm, hơn thế nữa chất l−ợng bữa ăn của trẻ
đề rất nghèo dinh d−ỡng, chỉ có n−ớc cháo, cơm nhá và số l−ợng bữa ăn của trẻ
trong ngày cũng hạn chế. Đây là những tập quán nuôi d−ỡng trẻ ch−a hợp lý
61
cần đ−ợc khắc phục, đồng thời đây cũng là một trong những nguyên nhân làm
tăng tỷ lệ SDD trẻ em trong cộng đồng các dân tộc Sán Chay và dân tộc Dao.
Kết quả l−ợng giá nguy cơ của các yếu tố này, chúng tôi đều thấy ở nhóm trẻ
thời gian cai sữa không đúng có nguy cơ bị SDD thể nhẹ cân cao gấp 2,55 lần
so với những trẻ đ−ợc cai sữa đúng thời gian với OR = 2,55 và p < 0,01 (bảng
3.13). T−ơng tự nh− vậy, ở những trẻ có thời gian ABS không đúng có nguy cơ
bị SDD nhẹ cân cao gấp 1,95 lần so với những trẻ ABS đúng thời gian với OR
= 1,95; p < 0,01 (bảng 3.11). Khi phân tích hồi qui logistic cho thấy thời gian
ABS và thời gian cai sữa không đúng vẫn là yếu tố liên quan với SDD trẻ em
(bảng 3.14). Kết quả nghiên cứu về tập quán dinh d−ỡng của các bà mẹ ng−ời
Sán Chay cho thấy họ cho trẻ ABS rất sớm ngay từ khi trẻ đ−ợc 3 tháng tuổi.
Đây là điều không có lợi cho sức khoẻ của trẻ vì tr−ớc 4 tháng tuổi, trẻ ch−a
cần đến thức ăn ngoài sữa mẹ, cho trẻ ABS sớm khiến cho trẻ bú ít đi, sữa mẹ
đ−ợc sản sinh ra ít hơn và trẻ mất đi nguồn dinh d−ỡng quí giá từ sữa mẹ. Hơn
nữa ở tuổi này, bộ máy tiêu hoá của trẻ ch−a hoàn chỉnh, vì vậy cho trẻ ABS
sớm, trẻ rất dễ bị tiêu chảy và nguy cơ dẫn đến SDD.
Các yếu tố cá nhân của trẻ nh− cân nặng lúc đẻ cũng đều liên quan tới
tình trạng dinh d−ỡng của trẻ. Kết quả nghiên cứu ở bảng 3.15 cho thấy tỷ lệ
SDD nhẹ cân ở nhóm trẻ có cân nặng d−ới 2.500 gam cao gấp 2,58 lần so với
nhóm trẻ có cân nặng trên 2.500 gam, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với
p<0,01. Kết quả này cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu của các tác giả Lê
Danh Tuyên [41], Vũ Thanh H−ơng, Phạm Văn Hoan [17].
Trên thực tế, ta thấy trẻ sơ sinh nhẹ cân tình trạng sức khoẻ yếu, khả
năng phát triển chậm, th−ờng kết hợp với các bệnh nhiễm khuẩn, trong đó có
NKHH cấp tính. Chính những yếu tố này càng làm cho trẻ dễ bị SDD và làm
cho tỷ lệ SDD của nhóm trẻ này tăng lên. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi
cho thấy nhóm trẻ bị NKHH cấp có nguy cơ bị SDD cao gấp 1,67 lần so với
nhóm trẻ không bị NKHH cấp trong 2 tuần qua, sự khác biệt có ý nghĩa thống
kê với p < 0,01. Kết quả của chúng tôi cúng phù hợp với kết quả nghiên cứu
62
của một số tác giả khác nh−: Nguyễn Hải Anh [1], Vũ Thanh H−ơng, Phạm
Văn Hoan [17].
Tóm lại, kết quả phân tích về các yếu tố nguy cơ của SDD thể nhẹ cân ở
trẻ em d−ới 5 tuổi tại 2 xã nghiên cứu cho thấy:
Các yếu tố nguy cơ liên quan với tình trạng SDD trẻ em d−ới 5 tuổi tại
thời điểm nghiên cứu so với các yếu tố truyền thống đ−ợc đề cập bởi nhiều
nghiên cứu tr−ớc đây đã có sự thay đổi đáng kể.
Hiện tại còn có các yếu tố nguy cơ liên quan tới tình trạng SDD trẻ em
khu vực nghiên cứu là: cai sữa không đúng độ tuổi, ABS không đủ 4 nhóm thực
phẩm, kinh tế gia đình nghèo, trẻ mắc bệnh nhiễm khuẩn hô hấp trong hai tuần
qua, yếu tố cân nặng trẻ sơ sinh d−ới 2.500 gam.
Chất l−ợng dịch vụ y tế, trong đó các dịch vụ y tế chăm sóc sức khoẻ trẻ
em nh− các ch−ơng trình quốc gia về phòng chống SDD trẻ em, ch−ơng trình
CDD... đã có hiệu quả, nghĩa là chất l−ợng dịch vụ y tế nói chung đã đ−ợc cải
thiện nhờ đó mà một số yếu tố nguy cơ liên quan với tình trạng SDD trẻ em
vốn có tr−ớc dây đã đ−ợc loại dần ở khu vực nghiên cứu nh− (các yếu tố văn
hoá, yếu tố tuổi của mẹ khi mang thai, yếu tố số con trong gia đình, yếu tố
bệnh tiêu chảy và yếu tố dân tộc của mẹ). Cho tới thời điểm này còn tồn tại chủ
yếu các yếu tố nguy cơ chủ yếu thuộc về các vấn đề chăm sóc trẻ và yếu tố cá
nhân của trẻ.
Trong các yếu tố nguy cơ còn tồn tại tác động mạnh đối với tình trạng
SDD của trẻ có liên quan đến tập quán dinh d−ỡng của các bà mẹ dân tộc thiểu
số (chọn nguồn thực phẩm, cách chế biến, cách ăn, cách nuôi d−ỡng trẻ), trong
cộng đồng các dân tộc thiểu số còn nhiều tập quán bất lợi cho sức khoẻ của trẻ.
Vì vậy, đòi hỏi các nhà hoạch định chính sách cần quan tâm nhiều hơn các yếu
tố kinh tế xã hội, cải thiện các yếu tố bất lợi cho sức khoẻ trong các tập quán
dinh d−ỡng vốn có để cải thiện mức sống của các gia đình, cải thiện tình SDD
trẻ em là rất bức thiết trong thời gian hiện nay.
63
Kết luận
1. Tập quán dinh d−ỡng của một số dân tộc thiểu số khu vực nghiên cứu
ở một số dân tộc thiểu số (Sán Chay, Tày, Mông, Dao) còn nhiều phong
tục tập quán dinh d−ỡng ảnh h−ởng bất lợi tới tình trạng dinh d−ỡng của bà mẹ
và trẻ em biểu hiện ở nhiều khía cạnh:
- Cách chế biến thức ăn rất phong phú nh−ng không khoa học.
- Cơ cấu bữa ăn không hợp lý, khẩu phần dinh d−ỡng tốt th−ờng chỉ tập trung
vào những ngày lễ, ngày tết.
- Chế độ kiêng khem còn khá nặng nề, đặc biệt đối với phụ nữ có thai cho con
bu dẫn đến không đảm bảo dinh d−ỡng cho ng−ời mẹ và trẻ em.
- Ch−a biết tận dụng các thực phẩm sẵn có tại địa ph−ơng để cải thiện chất
l−ợng bữa ăn của gia đình.
2. Tình trạng dinh d−ỡng của trẻ em dân tộc Sán Chay tại Thái Nguyên
- Tỷ lệ SDD trẻ em dân tộc Sán Chay ở mức rất cao đối với thể nhẹ cân
(40,8%) và thấp còi (43,7%), SDD thể gầy còm ở mức độ trung bình (9,8%).
- Tỷ lệ SDD nhẹ cân ở trẻ em dân tộc Sán Chay cao hơn trẻ em dân tộc Kinh
cùng khu vực (28,9%) với p<0,001. Không có sự khác biệt về SDD thấp còi và
gầy còm giữa 2 dân tộc.
- Tỷ lệ SDD tăng dần theo tuổi, cao nhất ở nhóm trẻ đã cai sữa (Kinh: 34%,
Sán Chay: 49,3%).
- SDD độ III chiếm 0,8% ở dân tộc Kinh và 0,9% ở dân tộc Sán Chay (p>0,05)
3. Một số yếu tố liên quan đến tình trạng SDD trẻ em d−ới 5 tuổi
- Yếu tố liên quan đến tập quán chăm sóc, nuôi d−ỡng trẻ:
Thời gian ăn bổ sung không đúng OR=1,85 (1,2 - 2,85)
Chất l−ợng thức ăn bổ sung không đảm bảo OR= 2,07 (1,46 - 2,93)
Thời gian cai sữa không đúng OR= 2,55 (1,74 - 3,74)
- Yếu tố khác:
64
Cân nặng lúc đẻ thấp OR= 2,58 (1,56 - 4,23)
Nhiễm khuẩn hô hấp cấp OR= 1,67 (1,13 - 2,53)
Kinh tế gia đình nghèo OR=1,69 (1,23 - 2,34)
65
khuyến nghị
1. Dựa trên bằng chứng về tập quán dinh d−ỡng của các dân tộc thiểu số để
xây dựng các tài liệu truyền thông phù hợp với từng dân tộc.
2. Cần có các can thiệp dinh d−ỡng đặc thù cho đồng bào các dân tộc thiểu
số, tập trung vào yếu tố nuôi d−ỡng và chăm sóc trẻ.
Cơ quan chủ quản
Hội Dinh d−ỡng Việt Nam
(Họ, tên, chữ ký và đóng dấu)
Cơ quan chủ trì
Tr−ờng ĐH Y khoa Thái Nguyên
(Họ, tên, chữ ký và đóng dấu)
Chủ nhiệm đề tài
(Họ, tên và chữ ký)
66
DANH MụC Sản phẩm khoa học của đề tài
01 đề tài đạt giải Nhì giải th−ởng “Sáng tạo kỹ thuật Việt Nam -
VIFOTEX” năm 2007.
01 giải th−ởng “Sinh viên nghiên cứu khoa học” của Bộ Giáo dục và Đào
tạo năm 2007.
01 đề tài đạt giải Nhì “Hội nghị KHCN tuổi trẻ các tr−ờng Đại học Y
D−ợc Việt Nam lần thứ 14” năm 2008.
01 luận văn Thạc sĩ Y học mã số 60.72.73 bảo vệ ngày 21/6/2008 tại
tr−ờng Đại học Y Thái Nguyên.
“Tập quán dinh d−ỡng một số dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc”,
Chuyên đề về nguy cơ sức khoẻ và một số bệnh đặc thù ở khu vực miền
núi, Nxb Y học, Hà Nội, tr. 125 - 139.
“Nghiên cứu tập quán dinh d−ỡng và mối liên quan đến tập quán dinh
d−ỡng trẻ em d−ới 5 tuổi dân tộc Sán Chay tại Thái Nguyên”, Tạp chí Y
học thực hành, (606+607), tr. 149 - 155.
67
TàI LIệU THAM KHảO
Tài liệu tiếng Việt
1. Nguyễn Thị Hải Anh, Lê Thị Hợp (2005), “Tình trạng dinh d−ỡng và một
số yếu tố liên quan đến suy dinh d−ỡng trẻ em d−ới 5 tuổi tỉnh Lào Cai
năm 2005, Tạp chí Dinh d−ỡng và thực phẩm, 2(3+4), tr 29-35.
2. Tr−ơng Bút (2007), “Một số suy nghĩ về truyền thống ăn uống của ng−ời
Việt Nam”, Tạp chí Dinh d−ỡng và thực phẩm, 3(2+3), tr. 62 - 66.
3. Bế Văn Cẩm, Lê Thị Nga và Nguyễn Đình Học (2001),“Thực trạng bệnh
tật trẻ em dân tộc ở một số tỉnh miền núi phía Bắc”, Kỷ yếu hội thảo nâng
cao năng lực chăm sóc sức khoẻ cho đồng bào các dân tộc những vùng
khó khăn ở khu vực miền núi phía Bắc, Thái nguyên 12/ 2001.
4. Chính phủ (2001), Chiến l−ợc quốc gia về dinh d−ỡng giai đoạn 2001-2010
(đã đ−ợc Thủ t−ớng Chính phủ phê duyệt tại quyết định số 21/2001/QĐ-TTg
ngày 22/2/2001), Nxb Y học, Hà Nội.
5. Lê Doãn Diên (2007), “Một số ý kiến về nền văn hoá ẩm thực truyền
thống Việt Nam d−ới ánh sáng của dinh d−ỡng học hiện đại”, Tạp chí
Dinh d−ỡng và thực phẩm, 3(2+3), tr. 30 - 35.
6. Khổng Diễn (2003), Dân tộc Sán Chay ở Việt Nam, Nxb Văn hoá dân
tộc, Hà Nội.
7. Nguyễn Ngọc Diệp, Nguyễn Thị H−ơng Nga, Hạc Văn Vinh và Đàm
Khải Hoàn (2001), “Thực trạng SDD trẻ em d−ới 5 tuổi ở một số khu vực
miền núi phía Bắc”, Kỷ yếu hội thảo nâng cao năng lực chăm sóc sức
khoẻ cho đồng bào các dân tộc những vùng khó khăn ở khu vực miền núi
phía Bắc, Thái nguyên 12/ 2001.
8. Hoàng Văn Gia (2004), Mô tả thực trạng dinh d−ỡng của bà mẹ và trẻ
em d−ới 5 tuổi ở xã Phúc Lợi, huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái, Chuyên đề
tốt nghiệp chuyên khoa cấp I, Tr−ờng Đại học Y khoa Thái Nguyên, Thái
Nguyên.
9. Từ Giấy (2000), Một số vấn đề dinh d−ỡng ứng dụng, Nxb Y học, Hà
68
Nội.
10. Cao Thị Hồng Hà, Lò Thị Dân, Đỗ Thị Lan và cộng sự (2002), “Nhận xét
về tỷ lệ trẻ em suy dinh d−ỡng ở tỉnh Sơn La”, Tạp chí Y học dự phòng, 3
(54), tr. 111-112.
11. L−ơng Thị Hà (2008), Nghiên cứu thực trạng SDD thiếu protein - năng
l−ợng ở trẻ em d−ới 5 tuổi tại hai xã của huyện Phú L−ơng tỉnh Thái
Nguyên, Luận văn Thạc sỹ y học, Tr−ờng Đại học Y Thái Nguyên.
12. Phan Lê Thu Hằng, Lê Thanh Sơn (2004), “Thực trạng một số yếu tố
liên quan đến tình trạng dinh d−ỡng trẻ em d−ới 5 tuổi tại 4 xã tỉnh Hà
Tây”, Tạp chí Y học thực hành, 4(478), tr. 39.
13. Lê Nh− Hoa (2002), Văn hoá ứng xử các dân tộc Việt Nam, Nxb Văn
hoá Thông tin, Thanh Hoá.
14. Phạm Văn Hoan, Từ Ngữ, Nguyễn Thị Lâm và Cs (1998), “An ninh thực
phẩm hộ gia đình và tình trạng dinh d−ỡng của bà mẹ và trẻ em d−ới 5
tuổi tại một xã ở Tam Thanh, Phú Thọ, 12/1997” Tạp chí Y học dự
phòng, Tập VIII, 4(38), tr. 65 -71.
15. Lê Thị Hợp, Nguyễn Công Khẩn (2007), “Những lời khuyên dinh d−ỡng
hợp lý cho giai đoạn 2006-2010”, Tạp chí Dinh d−ỡng và thực phẩm,
3(2+3), tr. 106 - 115.
16. Phạm Mạnh Hùng (2007), Thực trạng suy dinh d−ỡng và một số yếu tố
liên quan đến suy dinh d−ỡng ở trẻ em d−ới 5 tuổi tại tỉnh Lai Châu,
Chuyên đề tốt nghiệp chuyên khoa cấp I, Tr−ờng Đại học Y khoa Thái
Nguyên, Thái Nguyên.
17. Vũ Thị Thanh H−ơng, Phạm Văn Hoan (2007), “Tình trạng dinh d−ỡng
của trẻ em d−ới 5 tuổi huyện Sóc Sơn - Hà Nội năm 2001, 2006 và một số
yếu tố liên quan”, Tạp chí Y học thực hành, 3(566+567), tr. 88 - 90.
18. Hà Huy Khôi (1997), Ph−ơng pháp dịch tễ học dinh d−ỡng, Nxb Y học,
Hà Nội.
69
19. Hà Huy Khôi (1998), Góp phần xây dựng đ−ờng lối dinh d−ỡng ở Việt
Nam, Nxb Y học, Hà Nội.
20. Hà Huy Khôi (2006), Một số vấn đề dinh d−ỡng cộng đồng ở Việt Nam,
Nxb Y học, Hà Nội.
21. Đặng Ph−ơng Kiệt, Nguyễn Thị Hoài Đức và Cs (1994), "Sức khoẻ bệnh
tật bà mẹ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7105R.pdf