Tài liệu Đề tài Nghiên cứu quá trình chuyển đổi và phát triển các mô hình hợp tác xã kiểu mới ở huyện Vụ Bản tỉnh Nam Định: PHẦN 1
I.TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Trên thế giới các hợp tác xã (HTX) đã hình thành hơn 150 năm. Ở nhiều nước có thể chế độ chính trị xã hội khác nhau, hiện nay các hợp tác xã vẫn tồn tại và một số nước đang có xu hướng mở rộng.
Ở Việt Nam, trong quá trìn0h thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng khơi xưởng và lãnh đạo, cơ chế quản lý tập trung bao cấp từng bước bị xóa bỏ, cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước hình thành và ngày càng được hoàn thiện để điều tiết các quan hệ kinh tế trong nền kinh tế quốc dân. Trong những năm qua, các HTX tổ chức theo mô hình cũ đối mặt với khó khăn và thác thức nghiêm trọng vì không thích ứng được với cơ chế kinh tế mới. Đại bộ phận các HTX tồn tại một cách hình thức, không có phương hướng và nội dung hoạt động dẫn đến nhiều hợp tác xã đã tan rã.
Trong tiến trình đổi mới nền kinh tế Nhà nước đã ban hàng nhiều chủ trương chính sách nhằm tạo điều kiện cho các hộ nông dân trở thành đơn vị kinh tế tự chủ. Chính sách đất đai đã quy định : Nhà nước gi...
90 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1298 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Nghiên cứu quá trình chuyển đổi và phát triển các mô hình hợp tác xã kiểu mới ở huyện Vụ Bản tỉnh Nam Định, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN 1
I.TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Trên thế giới các hợp tác xã (HTX) đã hình thành hơn 150 năm. Ở nhiều nước có thể chế độ chính trị xã hội khác nhau, hiện nay các hợp tác xã vẫn tồn tại và một số nước đang có xu hướng mở rộng.
Ở Việt Nam, trong quá trìn0h thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng khơi xưởng và lãnh đạo, cơ chế quản lý tập trung bao cấp từng bước bị xóa bỏ, cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước hình thành và ngày càng được hoàn thiện để điều tiết các quan hệ kinh tế trong nền kinh tế quốc dân. Trong những năm qua, các HTX tổ chức theo mô hình cũ đối mặt với khó khăn và thác thức nghiêm trọng vì không thích ứng được với cơ chế kinh tế mới. Đại bộ phận các HTX tồn tại một cách hình thức, không có phương hướng và nội dung hoạt động dẫn đến nhiều hợp tác xã đã tan rã.
Trong tiến trình đổi mới nền kinh tế Nhà nước đã ban hàng nhiều chủ trương chính sách nhằm tạo điều kiện cho các hộ nông dân trở thành đơn vị kinh tế tự chủ. Chính sách đất đai đã quy định : Nhà nước giao cho các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài. Người sử dụng đất có quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế, thế chấp và cho thuê và được bồi thường thiệt hại trong trường hợp đất bị thu hồi. Sự biến đổi về quan hệ ruộng đất cũng đã tạo ra cơ sở và động lực cho sự tự chủ của người nông dân, trên cơ sở đó góp phần dân chủ hóa đời sống kinh tế, xã hội ở nông thôn, xây dựng nông thôn mới. Việc thực hiện các chính sách khác như phát triển các thành phần kinh tế, chính sách thị trường, chính sách đầu tư và nhiều mối quan hệ giữa Nhà nước và nông dân đã có những thay đổi cơ bản, tạo cơ sở và động lực phát triển lực lượng sản xuất (LLSX), chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Nhờ vậy, nông nghiệp và cơ cấu kinh tế nông thôn của nước ta trong hơn thập kỷ qua đã đạt được những thành tựu nổi bật, tạo ra những bước chuyển biến quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội ở nông thôn.
Cả nước nói chung và huyện Vụ Bản tỉnh Nam Định nói riêng từ khi các hợp tác xã kiểu cũ được tiến hành chuyển đổi thành lập các HTX kiểu mới hoạt động theo luật thi các ngành nông nghiệp và cơ cấu kinh tế nông thôn đã có sự chuyển biến lớn, tạo thuận lợi để chuyển sang nền kinh tế hàng hoá. Trong khi điều kiện huyện mới được thành lập sau một năm bắt đầu thực hiện luật HTX. Từ đó cho đến nay nền kinh tế của huyện đã đạt được kết quả khả quan. Đặc biệt là HTX nông nghiệp ngoài ra còn có HTX khác cũng đang trên đà tiến chuyển.
Tuy nhiên kết quả bước đầu đã đạt được như vây. Song để cho quá trình hoạt động của HTX trong các bước tiếp theo mang lại hiệu quả kinh tế cao cả về số lượng và chất lượng và theo cùng với sự phát triển kinh tế của đất nước thì việc nghiên cứu một số nội dung, điều kiện chuyển đổi và phát triển các hình thức hợp tác và tổ hợp tác trong nông thôn là rất có ý nghĩa và mang tính cấp thiết. Chính vì vậy chúng tôi nghiên cứu đề tài : "Nghiên cứu quá trình chuyển đổi và phát triển các mô hình hợp tác xa kiểu mới ở huyện Vụ Bản tỉnh Nam Định".
II. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI.
Để góp phần giải quyết vấn đề bức xúc cấp thiết trên, đề tài nhằm vào các mục đích sau:
- Nghiên cứu đặc điểm, điều kiện hình thành các hình thức hợp tác và tổ hợp tác trước khi áp dụng luật HTX ở huyện Vụ Bản - tỉnh Nam Định.
- Nghiên cứu quá trình chuyển đổi và phát triển các hình thức hợp tác và tổ hợp tác qua ba năm từ khi áp dụng luật hợp tác xã ở huyện Vụ Bản - tỉnh Nam Định.
- Góp phần đề xuất phương hướng phát triển các mô hình HTX ở huyện Vụ Bản - tỉnh Nam Định.
III. GIỚI HẠN CỦA ĐỀ TÀI
Đề tài chỉ đi sâu nghiên cứu quá trình chuyển đổi và phát triển các mô hình HTX ở huyện Vụ Bản - tỉnh Nam Định. Trong phạm vi nghiên cứu luận văn, với khả năng và thời gian có hạn, đề tài tập trung nghiên cứu quá trình chuyển đổi và phát triển một số mô hình HTX vận tải (HTXVT), HTX nông nghiệp (HTXNN). Trên cơ sở lý luận về HTX trước khi chuyển đổi, trong, sau chuyển đổi và quá trình phát triển của nó để từ đó đề xuất một số biện pháp phát triển KTHT ở huyện Vụ Bản - tỉnh Nam Định.
PHẦN II
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN TÀI LIỆU CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU ĐỔI MỚI HTX
Việt nam đã trải qua hơn 10 năm đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp, trên cơ sở xác định hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ. Kinh tế gia đình đã phát triển với nhiều loại hình hợp tác trong sản xuất và lưu thông hàng hoá, thực chất là sự trở lại tư tưởng của những nhà sáng lập ra chủ nghĩa xã hội (CNXH) khoa và và những học giả khác trong lịch sử về chế độ HTX. Điều đó xuất phát từ nhu cầu cấp bách phải cải tổ, đổi mới mô hình kinh tế quốc dân cũng như đổi mới chế độ hợp tác trong nông nghiệp.
I. NHỮNG LUẬN ĐIỂM CƠ BẢN VỀ KINH TẾ HỢP TÁC VÀ HTX
1. Một số khái niệm HT, HTX và HTXNN.
- Hợp tác (HT) được mô tả như là một nhóm người cùng nhau làm việc và hướng về một mục đích và lợi ích chung.
- Hợp tác xã (KTX) là tổ chức kinh tế tự chủ do những người lao động có nhu cầu, lợi ích chung tự nguyện cùng góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của pháp luật để phát huy sức mạnh của tập thể và của từng xã viên nhằm giúp nhau thực hiện có hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và cải thiện đời sống, góp phần phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
- Hợp tác xã nông nghiệp (HTXNN) là tổ chức kinh tế tự chủ do nông dân và những người lao động có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện cùng góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của pháp luật để phát huy sức mạnh của tập thể và của từng xã viên nhằm giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động dịch vụ hỗ trợ cho kinh tế hộ gia đình xã viên và kinh doanh trong lĩnh vực sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản và kinh doanh ngành nghề ở nông thôn phục vụ cho sản xuất nông nghiệp.
2. Cơ sở lý luận về kinh tế hợp tác và hợp tác xã
HTX là sản phẩm của lịch sử. Nó có từ trước khi chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời. Lúc đầu khi phê phán nghiên cứu các nhà CNXH không tưởng, Mác và Ăngghen chưa thấy được vai trò to lớn của HTX đối với hình thái kinh tế xã hội. Sơ dĩ như vậy là do hai ông cho rằng có thể chuyển trực tiếp từ chủ nghĩa tư bản (CNTB) lên CNXH mà không cần có những bước quá độ trung gian. Nhưng từ giữa thập kỷ 60 chú ý đến thực tiễn của lịch sử về sự hình thành của các "HTX công nhân".
Sau cuộc cách mạng dân chủ tư sản ở Châu Âu (1848 - 1894). Mác và Ăngghen đã dần thấy được triển vọng của chế độ HTX trong xã hội tương lai. Trong tuyên ngôn độc lập hội liên hiệp công nhân quốc tế (Quốc tế I) Mác và Ăngghen đã đi đến thống nhất vai trò to lớn của HTX sau khi giai cấp công nhân giành chính quyền. Vào năm 1886, Mác và Ăngghen khẳng định rõ "khi chuyển sang nền kinh tế cộng sản chủ nghĩa hoàn toàn chúng ta phải ứng dụng rộng rãi nền sản xuất hợp tác hoá (HTH) làm khâu trung gian".
Tư tưởng HTH của các nhà kinh điển bao trùm tất cả đời sống kinh tế xã hội mới, trong đó nông nghiệp có những nét đặc thù nào? vấn đề này còn xem xét sự phát triển của tư tưởng của Mác, Ăngghen và LêNinh trong quá trình xã hội hóa nền nông nghiệp.
Thấy được vai trò to lớn của "Nông trại gia đình" đối với "nghề nông hợp lý" song điều đó không có ý nghĩa là Mác tuyệt đối hóa tính chất bền vững của nền kinh tế tiểu nông. Mác nhận thấy rằng đối với "Nghề nông hợp lý" phải có "bàn tay của người tiểu nông sống bằng lao động của mình" hoặc là phải có "Sự kiểm soát của những người sản xuất có liên kết với nhau". Đây là cơ sở đầu tiên về một chế độ hợp tác trong nông nghiệp mà Mác chưa kịp hoàn chỉnh. Hơn nữa, đối với nông dẫn, Cac Mác và Ăngghen đều tỏ một thái độ hết sức thận trọng. Chính vì thế mà Ăngghen nêu luận điểm "Cần để cho người nông dẫn suy nghĩ trên luống cày của họ". Ăngghen đã khẳng định một điều kiên quyết rằng khi giai cấp vô sản giành được chính quyền thì tuyệt đối không được tước đoạt những người tiểu nông dù bất kỳ dưới hình thức gì nhưng buộc phỉa làm đối với những chủ đâtài sản lớn. Nhà nước vô sản phải bằng những biện pháp hết sức tỷ mỉ, khuyến khích họ "Liên hợp kinh tế của họ với hiệp hội, mà trong đó có thể ngày càng giảm bớt sự bóc lột làm thuê, những hiệp hội đó dần dần sẽ chiếm được đa số áp đảo trong những bộ phận cấu thành của hiệp hội sản xuất toàn xã hội vĩ đại với quyền lợi và nghĩa vụ bình đẳng.
Chính sự phát triển LLSX của kinh tế hộ nông dân đã dẫn đến nhu cầu hợp tác phong phú và đa dạng. Kế thừa các tổ chức HTX truyền thống đã ra đời hàng thế kỷ trước. Ngày nay ở hầu hết các nước TBCN phát triển, các hình thức kinh tế hợp tác (KTHT) giữa nông hộ, nông trại vẫn được duy trì, phát triển và ngày càng phát huy tác dụng tích cực trong "Nghề nông hợp lý" ở trình độ cao.
Bằng phương pháp biện chứng Macxit và bằng hoạt động thực tiễn của mình Lenin đã có những đóng góp quan trọng vào việc phát triển những luận điểm của Mác và Ăngghen. Năm 1908 khi bàn về việclựa chọn con đường phát triển của nông nghiệp nước Nga, Lênin đã nhận thấy rằng : Không thể phát triển nông nghiệp theo con đường CNTB, CNTB phổ vì đó là kiểu phát triển kém hiệu quả mà phải là kiểu "Một chủ trại tự do trên mảnh đất tự do, nghĩa là mảnh đất đó được dọn sạch tàn tích trung cổ. Đó là kiểu Mỹ".
Lenin cho rằng : Causky đã đặt vấn đề rất chính xác và đúng đắn khi nói rằng nông nghiệp không phát triển theo cùng một kiểu với chủ nghĩa. Thực cho đến ngày nay càng khẳng định sự thắng thế của con đường khác với kiểu "Nông trại kỹ nghệ ở Anh" hoặc điền trang "kiểu phổ" mà Mác, Lênin phê phán ở nhiều nước, trong đó có những nước thuộc khu vực chúng ta.
Lênin nhìn nhận những hình thức hợp tác như vậy có vai trò gì trong chế độ mới? Điều này có liên quan đến quan niệm về mô hình kinh tế mới qua sự phát triển về lý luận của từng người trong từng giai đoạn lịch sử.
Trong hệ thống kinh tế mới (NEP), Lênin đã thừa nhận rằng: "Những HTX, với tư cách là đơn vị kinh tế độc lập, hạch toán kinh tế, gắn sự trao đổi là một trong những hình thức kinh tế hết sức quan trọng của Nhà nước TBCN". Điều này đã được khẳng định rõ hơn khi Lênin thừa nhận kinh tế HTX - Nhà nước. Năm 1921, Lênin lo ngại rằng những HTX như vậy "Sẽ nhất định sinh ra những quan hệ tư bản, tiểu tư sản, góp phần phát triển những quan hệ ấy, đẩy những nhà tư bản lên hàng đầu và mang lại cho họ những lợi ích lớn nhất". Sở dĩ như vậy Lênin cho rằng việc sử dụng những quan hệ hàng hoá - tiền tệ nhất định sẽ nảy sinh ra các quan hệ sản xuất TBCN.
Theo Lênin, HTX là thiết chế kinh tế xã hội nhờ đó kinh tế nông dân hoạt động trong mạng lưới của nền kinh tế xã hội, thực hiện quá trình xã hội hóa nền kinh tế của họ. Lênin cũng cho rằng, đây là khâu trung gian mà Nhà nước vô sản cầm nắm lấy để chuyển nông dân từ chỗ là người nông dân riêng lẻ vào quỹ đạo của CNXH. Lênin cho rằng HTX của nông dân là con đường tất yếu, uyển chuyển dễ chấp nhận đối với nông dân để đưa họ lên CNXH.
Trong HTH phải giải quyết mối quan hệ giữa ba lợi ích (lợi ích xã hội, lợi ích tập thể và lợi ích cá nhân) mà nổi cộm lên là lợi ích tập thể và lợi ích cá nhân, tất yếu phát sinh của nền kinh tế hàng hoá, đó là quan hệ CNTB, các HTX mang tính chất TBCN. Trái lại, trong Nhà nước vô sản HTX là hình thức CNTB - Nhà nước. Lênin cho rằng: "Chế độ của những xã viên HTX văn minh là chế độ CNXH" và khả năng này thông qua kiểu tổ chức kinh tế đó để Nhà nước giúp đỡ, kiểm soát và hướng dẫn nông dân xây dựng chế độ kinh tế mới. Kiểu tổ chức HTX như vậy đem lại khả năng kết hợp được những nguyên tắc dường như trái ngược nhau giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội đảm bảo cho "lợi ích cá nhân" phục tùng "lợi ích chung", điều mà trước đây nan giải đối với CNXH. Trong sự kết hợp đó không được xóa bỏ quyền sở hữu tư nhân về vật phẩm tiêu dùng và TLSX của nông dân. Nhà lý luận HTX Nga - Tchayanoy (1889 - 1939) đã có nhiều công trình nghiên cứu về nông thôn - nông nghiệp được Lênin đánh giá cao. Ông đã nghiên cứu tỉ mỉ sự gắn bó, dung hợp, tác động qua lại lẫn nhau giữa kinh tế hộ nông dân với kinh tế HTX. Năm 1927, ông đã đưa ra định nghĩa về HTX như sau: "HTX là hiệp hội các hộ nông dân. HTX chỉ là xã hội hóa một phần sản xuất, chính phần của sản xuất lớn có ưu thế hơn sản xuất nhỏ. Quá trình này có thể thực hiện mà không phá hoại nông dân lao động, bằng cách tổ chức các ngành và hoạt động mà sự liên hiệp lại trên nguyên tắc sao cho có hiệu quả kinh tế. HTH là một quá trình xã hội hóa từng bước kinh tế nông dân, kinh tế HTX ra đời và phát triển không phá vỡ kinh tế gia đình nó tách dần một số lĩnh vực và một số công việc và nếu làm ở gia đình không có lợi bằng HTX là sự bổ sung cho kinh tế hộ nông dân, phục vụ cho nó, mà vì thế thiếu kinh tế nông nghiệp thì HTX không có ý nghĩa gì cả". Sự tách rời này diễn ra trước hết và phổ biến ở những khâu những quá trình cách xa công việc trực tiếp của người nông dân với sinh vật. Ông đề xuất tập chung hóa tối thiểu ở những quá trình sinh học, dần dần từng bước tập trung ở những lĩnh vực có liên quan từ gần đến xa từ những khâu trong quá trình lưu thông, chế biến nông sản dịch vụ kỹ thuật…
Sự tách rời và kết hợp lại như vậy sẽ biến đổi dần nền kinh tế nông dân, tạo ra những nhân tố của nền sản xuất XHCN. Con đường đó sẽ từng bước chuyển nền kinh tế nông dân biệt lập sang hình thức cao nhất của sản xuất xã hội. Sự chuyển biến đó dài hay ngắn còn tùy thuộc vào trình độ phát triển của LLSX. Sự tích tụ trong sản xuất nông nghiệp đi liền với sự phát triển của những hình thức HTH theo chiều từ dưới lên trên. Sự hình thành phát triển chế độ HTX như thế là quá trình tự nguyện của kinh tế hộ nông dân.
Nhà lý luận về HTX Mỹ - Rmelianov (1942) cho rằng HTX không phải là một doanh nghiệp tập thể. HTX có điểm giống như công ty cổ phần vì vốn do nhiều người góp lại. HTX có thể có cổ phần ở đây chỉ có nghĩa là các xã viên cùng góp một số vốn vào để cùng hoạt động. Cổ phần mang tính chất cá nhân rõ rệt chứ không phải mang tính vô danh như trong các công ty cổ phần mang tính chất hạn chế. Các hộ nông dân tham gia vẫn giữ được tính độc lập của họ. Do hộ nông dân tham gia vào HTX với những phần không đều nhau nên phải đảm bảo tính công bằng của phần dịch vụ phí không sử dụng (lãi) phải chia theo số lượng dịch vụ mà HTX đã thực hiện cho các hộ, nghĩa là doanh số dịch vụ.
Về nguyên tắc: HTX đã được 28 người thợ dệt ở Rochdadale (Anh) thành lập HTX tiêu thụ đầu tiên năm 1844 đề ra trong đó có nguyên tắc :Tự do gia nhập; kiểm soát quản lý dân chủ, thể nhiện bằng quy tắc mỗi người một phiếu; trả lãi dịch vụ phí thừa tỉ lệ với doanh số do HTX thực hiện… Những nguyên tắc này đã được thử thách thực tế ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển. Vấn đề này, Mác và Ăngghen đều tỏ thái độ hết sức thận trọng đối với nông dân, coi đây là phương hướng, nguyên tắc của HTX.
Từ Đại hội VIII, Đảng cộng sản Nga, tháng 3 năm 1919, Lênin đã phê phán gay gắt "ở đây dùng bạo lực thì có nghĩa là làm nguy hại đến toàn bộ sự nghiệp. ở đây cần phải làm công tác giáo dục lâu dài… và không được dùng mệnh lệnh". "Chỉ những HTX do những người nông dân điều hành theo sáng kiến của họ và lợi ích của các HTX ấy được kiểm nghiệm trên thực tế mới có giá trị".
Những luận điểm cơ bản trên đây cũng như lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin được chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc và vận dụng thành công trong hoạt động thực tiễn ở Việt Nam. Người cho rằng khi xem xét vấn đề nông dân phải kết hợp chặt chẽ vấn đề chính trị với vấn đề gốc rễ là vấn đề kinh tế nông nghiệp. Việc quan tâm hàng đầu của người khi giành chính quyền là độc lập dân tộc là người cày có ruộng. Trong "Đường cách mệnh" (1927), Hồ Chí Minh viết : "Đảng cộng sản cầm quyền tổ chức ra Chính phủ công, nông, binh phát đất cho nông dân người cày có ruộng… ra sức tổ chức kinh tế mới". Trong giai đoạn phát triển kinh tế đất nước, lợi ích của nhân dân và nông dân được đặt lên hàng đầu. Chính trị là sự biểu hiện trong luận điểm "Nếu nước độc lập mà dân không hướng mục đích tự do thì độc lập chẳng có ý nghĩa gì". Trong thời kỳ đất nước khôi phục và phát triển kinh tế nhiều thành phần, bắt đầu từ nông nghiệp đã có thắng lợi to lớn để chứng minh tư tưởng ấy. Người đã tiếp cận tư tưởng Mác về "Nghề nông hợp lý", đã đóng góp hoàn thiện và áp dụng trong điều kiện cụ thể tại Việt Nam. Người đặc biệt nhấn mạnh đặc điểm to lớn của nước ta trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên CNXH. Hồ Chí Minh đã hiểu rõ sức mạnh của sự hợp tác, liên kết, nhưng làm thế nào để tổ chức ra sự tổ chức và liên kết đó, nhất là trong nông thôn lạc hậu, nông nghiệp manh mún ở nước ta. Theo người "Sửa chữa cái xã hội ấy mấy ngàn năm (trì trệ, lạu hậu nhân dân không có ruộng, canh tác manh mun…), làm xã hội mới XHCN ấy mới là khó khăn. Nhưng biết làm đồng tâm hợp lực thì chắc chắn làm được".
Về mục đích: Của các tổ hợp tác tuy cách làm thì khác nhau rất nhiều nhưng mục đích thì nước nào cũng như nhau, đó là mưu lợi của những người tham gia HTX, giúp đỡ tương trợ nhau, hạn chế bóc lột CNTB và đế quốc.
Về lý luận: Người sử dụng ngay tục ngữ Việt nam "Nhóm lại thành giầu chia ra thành khổ"… Người nói: "Muốn làm hòn núi cao phải vào tổ đổi công và HTX vì nhiều người hợp lại thì sẽ làm được nhiều và tốt hơn".
Về loại hình: Người đưa ra bốn loại hình HTX: Một là HTX tín dụng, hai là HTX mua bán, ba là HTX sản xuất, bốn là HTX vận tải. Và giải thích HTX khác với hội buôn vì hội buôn lợi riêng, HTX lợi chung và tuy HTX là để giúp đỡ nhau nhưng không giống các hội buôn từ thiện. Theo Người, ngoài nguyên tắc chung của HTX là tự nguyện, cùng có lợi, dân chủ, còn mang tính tương trợ giúp đỡ lẫn nhau và chống sự bóc lột. HTX tín dụng là ngân hàng của dân, là nơi cung cấp vốn cho sản xuất và đời sống hoạt động phải có hiệu quả và tạo được uy tín tín dụng trong nông thôn. Vai trò tác dụng của mua bán là mang tính chất hợp tác nhằm có lợi cho nông dân đi mua bán, chứ chưa nhấn mạnh tính chất kinh doanh thuần túy. Đối với HTX sản xuất Người đưa ra ví dụ: "Người trồng bông khôn gcó bàn đánh bông, không có đồ kéo sợi, cho nên phải bán bông rẻ. Nếu góp nhau làm HTX, mua đủ đồ ra mà làm thì ít công mà lợi nhiều". Có thể nói thiên tài của Người không chỉ đưa ra một lý thuyết về kinh tế hợp tác mà còn thể hiện tầm nhìn xa, với một tinh thần thân ái, nhân văn sâu sắc đối với người nông dân. Có lẽ vậy, ngay từ khi viết "Đường cách mệnh" để tuyên truyền tư tưởng cách mạng giành độc lập dân tộc, Hồ Chí Minh đã chuẩn bị con đường phát triển kinh tế - xã hội trong nông nghiệp - nông thôn là HTX.
Về phương châm: Theo Người chỉ cần phát triển đổi công từng vụ việc tiến tới đổi công thường xuyên mùa này sang mùa khác.
Về nguyên tắc : Một là, không được cưỡng bức ai hết; hai là, làm sao cho những gia đình trong tổ đổi công đều có lợi; ba là, quản trị phải dân chủ và phương pháp tổ chức đổi công là: không nên làm ham, làm mau, làm rầm rộ, mà phải đi bước nào vững chắc bước ấy; phải thiết thực; phải làm từ nhỏ đến lớn. Tư tưởng này cho thấy, Người đã vận dụng khéo léo các nguyên tắc HTH của chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh thực trạng nông thôn Việt Nam lúc đó. Theo người muốn xây dựng tổ đổi công và HTX được tốt, phải đoàn kết, phải làm cho mọi người tham gia và phải bàn bạc dân chủ và tính toán cho công bằng hợp lý.
Về quy mô : Theo Người không nhất thiết phải làm theo địa giới hành chính. Việc lập một hay nhiều HTX tùy thuộc vào yêu cầu và các điều kiện cụ thể từng nơi. Đây là tư tưởng liên hiệp HTX, vừa là kết quả vừa là tiền đề tất yếu về mặt tổ chức trong sự phát triển HTHT trong nông thôn, trên cơ sở đa dạng hóa nền kinh tế nhiều thành phần.
Như vậy, đối với Hồ Chí Minh, kinh tế hợp tác và HTX không phải là mục đích mà chỉ là phương tiện thúc đẩy kinh tế phát triển. Hồ Chí Minh đã thấy được trình độ non yếu trong công tác quản lý của cán bộ ta, nhất là tư tưởng nóng vội, chủ quan, duy ý chí trong việc phát triển KTHT ở nông thôn. Hồ Chí Minh nói "Nông dân cần trông thấy lợi ích bộ phận và lợi ích toàn cuộc. Cho nên việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh". Mục đích của việc xây dựng và phát triển của HTX là nhằm cải thiện đời sống cho nhân dân.
Tóm lại, các luận điểm cơ bản của các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học về chế độ kinh tế môi trường và HTX tập trung chủ yếu vào vấn đề sau:
Do đặc điểm của ngành sản xuất nông nghiệp kiểu tổ chức trang trại gia đình có hiệu quả cao, ưu việt hơn những trang trại có quy mô lớn và không thể tổ chức theo kiểu xí nghiệp công nghiệp.
HTX chỉ là phương tiện đưa nông dân đến sự ấm no, văn minh, chống sự bóc lột và cũng là con đường đơn giản nhất, dễ tiếp thu nhất đối với nông dân trong quá trình xây dựng chế độ mới.
Sự ra đời của chế độ hợp tác p;hải dựa vào trên cơ sở tự nguyện của người tham gia, theo yêu cầu sản xuất của người kinh doanh , cũng từ đó sẽ đảm bảo được các nguyên tắc HTH và HTX hoạt động có hiệu quả hơn. các quan hệ hợp tác nẩy sinh trên cơ sở của nhu cầu kinh tế gia đình, kinh tế nông trại, dù bất kỳ hình thức nào cũng không được dùng mệnh lệnh cưỡng bức nông dân vào HTX hoặc tước đoạt TLSX của nông dân.
Chế độ KTHT và HTX phải giải quyết hài hoà các quan hệ lợi ích giữa nông dân với xã hội và giữa hộ nông dân với các tổ chức kinh tế hợp tác và HTX.
2. Hợp tác hóa nhìn từ kinh nghiệp của các nước trên thế giới.
2.1. Hợp tác xã nông nghiệp ở Trung Quốc
Ở Trung Quốc, sau cách mạng năm 1919, ở nông thôn do nhu cầu sản xuất đã thể hiện các hình thức hợp tác đơn giản; đổi công, tương trợ, các HTX cấp thấp về sản xuất, tiêu thụ, vận chuyển, tín dụng… Từ năm 1955 đến năm 1957 có 87% hộ nông dân và 800.000 HTX, thực tế đó là các công xã nhân dân với quy mô cao nhất là tập trung cao độ về ruộng đất và lao động phân phối theo ngày công. Hình thức tổ chức HTX ở đây áp dụng hình thức công xã giống như trong quân đội. Đội sản xuất là đơn vị cấp cơ sở gồm 30 hộ trở nên với diện tích canh tá từ 15 đến 20 ha. Trên đội sản xuất là đại đội, mỗi đại đội gồm 10 đội, trên đại đội là trung đoàn sản xuất bao gồm khoảng 10 đại đội. Nhiệm vụ của các trung đoàn là xây dựng các kết cấu hạ tầng cơ sở, thủy lợi, xưởng thủ công và xí nghiệp nông thôn. Trên trung đoàn là công xã gồm khoảng 50.000 lao động, nhiệm vụ chủ yếu làm chức năng hành chính. Sản phẩm của công xã nộp cho Nhà nước (thuế, giá bán do Nhà nước quy định…) sau đó Nhà nước phân phối lại theo chế độ khẩu phần. Trong công xã, những gia đình nghèo được phân phối không theo kết quả lao động. Thực chất tổ chức mô hình công xã như vậy là xóa bỏ quan hệ hàng hoá tiền tê, thực hiện chế độ bao cấp gần như hoàn toàn. Trong sản xuất mọi sáng kiến và động lực cá nhân không được khuyến khích đã kìm hãm sản xuất. Trước tình hình đó từ năm 1978 các công xã sản xuất bị giải thể, thực hiện giao khoán dài hạn cho hộ nông dân tổ chức sản xuất theo từng hộ gia đình và đang phát triển các hình thức liên kết kinh tế mới, các hình thức HTX dịch vụ cho các nông hộ.
2.2. Hợp tác xã nông nghiệp ở Thái Lan.
Ở Thái Lan, HTX đầu tiên được thành lập từ năm 1916 với 16 thành viên, mục đích của HTX là giúp đỡ nông dân trang trải những món nợ và bảo vệ quyền canh tác trên ruộng đất đi thuê. Do hoạt động có hiệu quả cao cùng với sự giúp đỡ của Nhà nước nên chỉ 2 năm sau đã có hơn 60 HTX nông nghiệp được thành lập ở hầu hết các tỉnh trong cả nước. Cho đến nay HTX nông nghiệp ở Thái Lan vẫn giữ vai trò quan trọng trong hệ thống HTX cả nược. Hoạt động của các HTX nông nghiệp rất đa dạng, có thể kể đến một số hoạt động chính của HTX như : cho xã viên vay vốn, nhận tiền gửi tiết kiệm của xã viên, thu mua nông sản của xã viên để kinh doanh, cung ứng vật tư, máy móc nông nghiệp, hạt giống cho xã viên, cung ứng các loại dịch vụ cho xã viên.
Hệ thống tổ chức HTX nông nghiệp theo 3 cấp : HTX cấp huyện, tỉnh và quốc gia. HTX cấp huyện do một ban thường trực quản lý, thành viên của ban này gồm đại diện của tất cả các Hiệp hội nông dân cấp xã trong phạm vi huyện, để giúp đỡ các HTX có một ban cố vấn bao gồm chủ yếu là các quan chức Nhà nước do người đứng đầu huyện làm chủ tịch, ba hoặc nhiều HTX cấp huyện hợp thành HTX cấp tỉnh. Các HTX nông nghiệp ở Thái Lan được hình thàn từ những người nông dân tự nguyện liên kết lại với nhau. Cơ quan quyền lực cao nhất của HTX là đại biểu đại hội xã viên hay đại hội đại biểu xã viên, đại hội bầu ra hội đồng ban quản trị, hội đồng ban quản trị chỉ định chủ nhiệm, chủ nhiệm lập và điều hanh bộ máy quản lý HTX.0
2.3. Hợp tác xã nông nghiệp ở Liên Xô.
Ở Liên Xô cũ, do nền sản xuất hàng hoá TBCN phát triển chậm hơn nên các hình thức HTX cũng phát triển muộn hơn so với các nước TBCN. Các hình thức HTX trong nông nghiệp phát triển chủ yếu vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Các HTX được hình thành một cách tự nguyện của những hộ nông dân trong các lĩnh vực tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ, tín dụng…
Cách mạng tháng 10 thành công, Nhà nước Sô Viết thực hiện khẩu hiệu "Người cày có ruộng". Sau đó trong những năm nội chiến (1918 - 1920), về cơ bản nông nghiệp nước Nga vẫn là cá thể. Cũng trong giai đoạn này, tư tưởng tả khuynh nảy nở. Họ cho rằng tập thể hóa (TTH) và HTX càng nhanh càng sớm thì càng nhanh có chủ nghĩa xã hội, từ đso kinh tế tiểu nông đã bị xóa bỏ, đưa nông dân vào các doanh nghiệp nông nghiệp Nhà nước và cho đó là làm ăn lớn. Tiến hành phong trào TTH tuyệt đối đại bộ phận nông dân trong vòng 3 đến 4 năm để hoàn thành cải tạo CNXH và áp dụng biện pháp cưỡng chế.
Nội chiến kết thúc, với chính sách kinh tế mới (NEP) và những tư tưởng mới về HTH đã chỉ ra biện chứng của quá trình phát triển : phục hồi củng cố và phát triển kinh tế tiểu nông vào cuộc xây dựng CNXH. Khả năng đó chính là nhờ con đường HTH tự nguyện, vì lợi ích của nông dân, thông qua lợi ích của họ để gắn bó với lợi ích xã hội, chứ không phải con đường TTH cưỡng bức phi kinh tế. Nhờ đó mà nước Nga thoát khỏi khủng hoảng và có bước phát triển mạnh trong thời kỳ 1921 - 1928. Tuy nhiên, sau khi Lênin mất, phong trào HTH lại tiếp diễn và ngày càng gay gắt hơn.
Sau này, những nhà lãnh đạo Liên Xô, những nhà khoa học và kể cả những người dân đều thấy rõ bản chất mô hình trang trại tập thể. Viện sỹ V.Tikhonov khi nói về quá trình TTH cưỡng bức như sau: "Sau bài học đẫm máu ấy, người nông dân trở thành thế nào? Bị tách khỏi ruộng đất khỏi sự phân phối sản phẩm, anh ta tđã từ chỗ làm chủ trở thành người thừa hành các công việc". Và kết luận sự ngu dốt về mặt lý luận và do đó sự bất lức trong chính sách quản lý. Đó là một tệ hại nặng nhất mà đất nước phải gánh chịu. Chính vì vậy những năm 1980, Liên Xô đã phải thi hành cải tổ căn bản lĩnh vực nông nghiệp. Đã xuất hiện một cách tự nguyện các HTX sản xuất cung tiêu, dịch vụ với quy mô nội dung khác nhau ở trong và ngoài nông trường quốc doanh và nông trường tập thể, nông trại gia đình đã hình thành và hoạt động có hiệu quả.
2.4. HTX nông nghiệp ở Nhật Bản
Khác với các nước Đông Âu - nơi phát triển mạnh các HTX chuyên ngành, ở Nhật Bao bìả lại phổ biến phát triển các HTX tổng hợp chiếm tới 99,2% số nông trại. Hệ thống HTX ở Nhật Bản gồm 3 cấp : cấp Trung wong hình thành liên hiệp toàn quốc gia HTX Nhật Bản (AZENOH) bao gồm các hiệp hội, liên đoàn toàn quốc về ngân hàng tín dụng nông nghiệp, bảo hiểm nông nghiệp, xuất bản thông tin nông nghiệp. Sau cấp Trung ương là cấp quận thành phố (KRZALEN) làm nhiệm vụ cung ứng trực tiếp cho các nông trại vốn tín dụng, dịch vụ kỹ thuạt mua nông sản. Liên hiệp HTX nông nghiệp quận với 10.000 hộ xã viên thường có 500 đến 600 cơ sở cấp xã, thị trấn và các HTX cơ sở, các HTX cơ sở tập hợp 99,2% số nông trại tham gia. Nhìn chung quy mô các HTX ngày càng tăng lên và số HTX giảm đi.
Ở NHật Bản, các hợp tác xã không làm nhiệm vụ chỉ đạo, quản lý trực tiếp đất đai, lao động hoạt động sản xuất của các nông trại mà chỉ làm các dịch vụ cho sản xuất như là ấp trứng, xưởng chế biến, xưởng sửa chữa công cụ máy móc. Ngoài ra còn một số cơ sở phục vụ sinh hoạt như nhà văn hóa, cửa hàng ăn uống, hệ thống thông tin liên lạc… quy mô đất canh tác của các HTX ở các vùng trồng lúa thường nhỏ còn quy mô canh tác ở các HTX trồng loại cây trồng khác và chăn nuôi bò thường lớn hơn. Bên cạnh hình thức HTX tổng hợp, ở Nhật Bản còn phát triển các HTX chuyên ngành như: Nuôi ong, nuôi lợn, gia cầm, nghề vườn và các HTX thủ công nghiệp.
Tóm lại, qua tóm tắt sơ lược về quá trình HTH là HTX nông nghiệp ở một số nước trên thế giới cho thấy : HTX là một hình thức tổ chức kinh tế có khả năng thu hút số đông người tham gia nhằm giải quyết những mục đích, nhu cầu chung cả về kinh tế và xã hội. HTX hỗ trợ giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho sản xuất kinh doanh của các thành viên, đồng thời bảo vệ những lợi ích chính đáng của họ nhất là trong cơ chế thị trường.
Cơ sở cho sự hình thành và phát triển kinh tế HTX nông nghiệp là kinh tế hộ nông dân hay kinh tế trang trại. HTX không phải là mục tiêu cuối cùng của tổ chức sản xuất mà chỉ là một hình thức và biện pháp nhằm thúc đẩy và phát triển sản xuất nông nghiệp và nó là con đường xã hội hóa nền nông nghiệp.
Đa số các HTX được hình thành không phải trên cơ sở tập thể hóa mà bằng góp vốn và phân chia lợi ích, do vậy không đụng chạm đến quyền sở hứu của từng hộ, nông trại. Mặt khác nó lại tạo điều kiện làm tăng thêm năng lực sản xuất và lợi ích của từng hộ, nông trại. Do vậy hội nông dân dễ dàng chấp nhận và tham gia một cách hoàn toàn tự nguyện.
3. Hợp tác hóa nông nghiệp ở Việt Nam và những vấn đề cần đặt ra khi đổi mới hiện nay.
3.1. Hợp tác xã nông nghiệp ở Việt Nam
Kinh tế HTX ở nước ta hình thành từ những năm 1950 và phát triển mạnh trong những namư (1960- 1962) ở miền Bắc và năm (1976 - 1980) ở miền Nam. Trong thời gian dài, nhất là trong những năm kháng chiến chống Mỹ, phong trào HTX ở miền Bắc đã góp phần tích cực tạo công ăn việc làm, góp sức người sức của cho thắng lợi trên cả hai miền đất nước. Năm 1987 là năm đạt tới đỉnh cao nhất của sự phát triển về số lượng HTX, tiếp đó là giai đoạn có nhiều biến đổi lớn nhất là từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Đến cuối năm 1987 cả nước có 17.022 HTX nông nghiệp và có 36.352 tập đoàn sản xuất nông nghiệp, (thực cất là HTX bậc thấp có quy mô ở các tỉnh Nam Bộ cũ) đã thu hút 93% số hộ vào làm ăn tập thể. Từ khi tiến hành đổi mới kinh tế theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng CNXH. Việc đổi mới HTX trở thành một yêu cầu khách quan và bức xúc. Nghị quyết 10 của bộ chính trị (khóa VI) ngày 5 tháng 4 năm 1998 và các nghị quyết tiếp theo của Trung ương đã xác định : hộ xã viên là đơn vị kinh tế tự chủ kinh tế hợp tác có nhiều hình thức từ thấp đến cao, mọi tổ chức sản xuất kinh doanh do những người lao động tự nguyện góp vốn, góp sức, được quản lý theo nguyên tắc dân chủ không phân biệt quy mô, mức độ tập thể hóa TLSX. Nghị quyết ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 5 (Khóa VII ngày 10 tháng 6 năm 1993) chủ trương : "Tiếp tục đổi mới HTX theo hướng phát huy tiềm năng to lớn và vị trí quan trọng lâu dài của kinh tế hộ xã viên, đồng thời làm tốt quy hoạch hướng dẫn sản xuất phát triển kinh doanh công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ mà từng hộ xã viên không làm được hoặc làm không có hiệu quả, cùng với chính quyền địa phương chăm lo sự nghiệp phúc lợi xã hội. Thực hiện đúng nguyên tắc tự nguyện, dân chủ, cùng có lợi".
Thực hiện Nghị quyết của Đảng, các HTX nông nghiệp đã tập trung giải quyết những vấn đề cơ bản để phát huy vai trò tự chủ của hộ xã viên. Đến nay ruộng đất và hều hết các TLSX cơ bản đã khác và đã có chủ cụ thể hóa về ruộng đất và các tư liệu sản xuất cơ bản, HTX chỉ giữ lại những cơ sở vật chất kỹ thuật có liên quan trực tiếp đến đời sống chung của xã viên và cũng giao khoán cho các hộ nhóm lao động hoặc người lao động quản lý sử dụng như các công trình thủy lơi, đường điện trạm biến thế, các cơ sở dịch vụ máy móc lớn… phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt; phần lớn các tài sản còn lại đã hóa giá bán cho hộ xã viên hoặc hóa giá và chuyển sang UBND xã quản lý để phục vụ chung cho của xã ví dụ: Qua điều tra 360 HTX ở tỉnh Hải Hưng, giá trị bình quân mỗi hợp tác xã là 411.276.000 đồng, Hợp tác xã giữ lại chỉ chiếm 21,2%; chuyển nhượng cho hộ cá nhân 39,9%; chuyển giao sang UBND xã 40,9%.
Hiện nay các HTX đã và đang tiếp tục giao quyền sử dụng ruộng đất ổn định lâu dài cho hộ xã viên HTX rút dần sự can thiệp trực tiếp vào quyền chủ động sản xuất kinh doanh cho hộ xã viên. Hộ xã viên tự quyết định việc sản xuất kinh doanh của hộ xã viên, tự do mua vật tư, thuê dịch vụ, bán sản phẩm. HTX và hộ xã viên quan hệ bình đẳng thông qua hợp đồng kinh tế, việc thu quỹ cho hợp tác xã về cơ bản đã được xóa bỏ. Chính quyền không giao chỉ tiêu pháp lệnh cho kế hoạch sử dụng của hợp tác xã, bỏ việc giao nghĩa vụ bán nông sản đối với xã viên giảm bớt những công việc HTX phải làm thay cho chính quyền và những khoản đóng góp khác.
Khi chuyển sang cơ chế thị trường, HTX chuyển sang kinh doanh dịch vụ cho hộ xã viên và hướng dẫn sản xuất cho kinh tế hộ cá nhân phát triển, phải cạnh tranh trong cơ chế thị trường nhiều thành phần kinh tế tham gia sản xuất hàng hoá, nhiều HTX không có khả năng trụ vững đã phải giải thể. Từ năm 1988 đến năm 1994 đã có 2.958 HTX tự giải thể chiếm 17,4% tổng số HTX v có 33.804 tập đoàn sản xuất như tỉnh An Giang, Minh Hải, Cần Thơ, Trà Vinh, Cao Bằng. Một số khá đông HTX tồn tại chỉ là hình thức chiếm 43,3% những HTX này đang là lực cản nặng nề đối với kinh tế hộ xã viên. Việc chuyển những HTX loại này sang hình thức hợp tác khác còn đang lúng túng và không ít những HTX chỉ hoạt động được vài khâu, vài việc nhưng mức độ và kết quả thấp. Một số ít HTX đổi mới đã có kết quả. Theo báo cáo của các tỉnh đến cuối năm 1994 số lượng HTX đã đổi mới có kết quả là 2.560 HTX chiếm 16,3% tổng số nhưng trên thực tế tỷ lệ này chỉ vào khoảng 10% và đang có xu hướng giảm. Các HTX đổi mới có kết quả đã chuyển sang kinh doanh dịch vụ, giúp cho kinh tế hộ xã viên phát triển; tổ chức thêm ngành nghề mới hoặc khôi phục ngành nghề truyền thống để tạo thêm việc làm và tăng thu nhập cho xã viên; hướng dẫn xã viên tiếp cận thị trường chuyển giao tiến bộ khoa học công nghệ mới cho các hộ chăm lo xây dựng cơ sở hạ tầng, phát huy việc làm tình nghĩa thực hiện một số phục lợi xã viên; có quy chế quản lý thích hợp như khoán vốn cho chủ nhiệm HTX, tổ chức dịch vụ.
Ở nhiều nơi HTX nông nghiệp cũ giải thể hoặc tuy còn nhưng vai trò bị lu mờ, các hộ nông dân trở thành đơn vị kinh tế tự chủ đã xuất hiện nhu cầu HTX mới nên nhiều nơi nông dân đã tự nguyện lập ra các hình thức kinh tế hợp tác đa dạng như:
Các tổ dẫn nước xuất hiện nhiều nơi ở đồng bằng sông Cửu Long, nhiều hộ trên cùng một cánh đồng rủ nhau bỏ công sức làm chung một đường dẫn nước.
Các tổ liên gia giúp nhau vay vốn ngân hàng
Các hội nghề nghiệp làm vườn, nuôi tôm, nuôi hươu… giúp nhau tiếp cận với khoa học, công nghệ mới, kinh nghiệm làm ăn giao dịch tiêu thụ sản phẩm …
Các hình thức góp vốn góp sức xây dựng cơ sở hạ tầng như đường điện, kênh dẫn nước, giao thông…
Những tổ hợp tác mới có khi chỉ hình thành trong một thời gian nhất định nhưng xu hướng đang hình thành đơn vị kinh doanh có đủ tư cách pháp nhân hoạt động thực sự theo cơ chế HTX. Hiện nay nhìn chung các tổ hợp tác kiểu mới có quy mô nhỏ trên dưới 10 hộ tổ chức gọn nhẹ, nội dung hoạt động còn đơn giản nhưng thiết thực, phân chia lợi ích công bằng, cùng có lợi nên được nông dân đồng tình hưởng ứng; Nhiều tổ hợp tác kiểu mới xuất hiện ngay trong HTX kiểu cũ. Ngoài sự xuất hiện những HTX kiểu mới đã một số HTX trên cơ sở hợp nhất một số tập đoàn sản xuất nông nghiệp một cách tự nguyện thành lập HTX để tập trung vốn, tổ chức hoạt động dịch vụ cho xã viên tốt hơn.
3.2. Những vấn đề đặt ra khi đổi mới HTX hiện nay.
Nền kinh tế nước ta xuất phát từ nền kinh tế nông nghiệp, sản xuất nhỏ lạc hầu, sang nền kinh tế sản xuất hàng hoá nhiều thành phần tham gia theo cơ chế thị trường, phát triển đa dạng các hình thức kinh tế hợp tác trong đó có HTX. Đây cũng là thời gian chuẩn bị cho công cuộc công nghiệp hóa đất nước, thì hàng loạt các vấn đề mới lại nảy sinh yêu cầu cần phải giải quyết. Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn vẫn là một trong xí nghiệp chiến lược phát triển kinh tế xã hội chủ yếu của nước ta cho nên việc giải quyết những mẫu thuận để cho kinh tế hộ và kinh tế HTX phát triển dựa trên kinh tế hộ tự chủ làm cho hai nhân tố này trở thành những nhân tố cộng sinh. Do vậy trong tình trạng hiện nay, việc tạo điều kiện thuận lợi để cho kinh tế hợp tác ra đời và phát triển mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế nông nghiệp nông thôn cũng là việc tháo gỡ những mâu thuẫn vướng mắc và những yêu cầu đặt ra mà mức chủ yếu là :
Cần lựa chọn các hình thức hợp tác thích hợp. Mọi hình thức hợp tác kiểu mới phải xuất phát từ lợi ích kinh tế của người nông dân, người lao động. Lợi ích kinh tế là mục tiêu đồng thời là tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả của chế độ hợp tác. Bất kỳ hình thức kinh tế hợp tác nào, ngành nào lựa chọn nếu không tôn trọng lợi ích của người nông dân thì người nông dân cũng sẽ từ chối hoặc thờ ơ vì quyền lợi kinh tế đóng vai trò quyết định "Cần phải nêu cao tính hơn hẳn của HTX bằng những kết quả thiết thực là làm cho thu nhập của xã viên được tăng thêm, làm cho xã viên sau khi vào HTX thu hoạch nhiều hơn hẳn kho còn ở ngoài. Như thế xã viên sẽ phấn khởi gắn bó chặt chẽ với HTX của mình".
Biểu 1: So sánh đặc trưng giữa mô hình HTX nông nghiệp kiểu cũ và mô hình HTX kiểu mới
STT
Tiêu thức
HTX NN kiểu cũ
HTX kiểu mới
1
Cơ sở ra đời
Theo chủ trương của cấp trên
Từ nhu cầu sản xuất kinh doanh của họ
2
Mức độ tự nguyễn
Thấp
Cao
Hình thức tổ chức
Lớn, đơn giản, gần với địa giới hành chính thôn xã một người chỉ tham gia một HTX
Nhỏ, đa dạng, không lệ thuộc vào ranh giới hành chính một người có thể tham gia vào người HTX với các ngành khác nhau
4
Chủ thể tham gia
Người lao động xã viên
Hộ, cổ đông
5
Cơ sở kinh tế tham gia
Ruộng đất và tư liệu sản xuất chủ yếu được tập thể hóa
Chủ yếu là sở hữu riêng sử dụng chung
6
Tính chất vốn tài sản
Ruộng đất và tư liệu sản xuất chủ yếu được tập thể hóa
Chủ yếu là đóng góp cổ phần
7
Nội dung kinh doanh
Chủ yếu là sản xuất thuần nông, tự cấp
Chủ yếu làm dịch vụ đầu vào, đầu ra cho kinh tế hộ
8
Cơ chế quản lý
Chủ yếu là hiện vật bao cấp
Kinh doanh theo cơ chế thị trường
9
Tính chất hoạt động
Để phát triển kinh tế tập thể của chính bản thân mỗi HTX và thay thế căn bản hoạt động kinh tế mỗi hộ
Vì yêu cầu và mục tiêu phát triển kinh tế của mỗi hộ có thành viên đã góp cổ phần góp sức để thành lập HTX nên nó vì kinh tế hộ chứ không phải thay thế kinh tế hộ
10
phân phối
Đề ra theo lao động nhưng còn mang nặng tính bình quân
Theo lao động vốn cổ phần và mức độ sử dụng
11
Mục đích thành lập
Đưa nông dân vào làm ăn tập thể và phát triển kinh tế tập thể
Không coi lợi nhuận là mục tiêu tối cao mà vì sự phát triển và hiệu quả của kinh tế hộ.
Biểu 2: So sánh đặc trưng giữa mô hình hợp tác và hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới
STT
Tiêu thức
Tổ hợp tác
HTX nông nghiệp kiểu mới
1
Bản chất kinh tế và nguyên tắc tổ chức hoạt động
Căn bản giống HTX
Theo luật HTX quy định
2
Quy mô
Nhỏ
Tối thiểu có 7 xã viên
3
Tính chất pháp lý
Không có tư cách pháp nhân thực hiện theo luật dân sự
Có tư cách pháp nhân thực hiện theo luật HTX hiện hành.
4
Mức độ định
Mang tính chất tạm thời
ổn định lâu dài
5
Tài sản
Không có tài sản độc lập
Có tài sản độc lập tự chịu trách nhiệm về các hoạt động bằng tài sản của HTX
6
Tổ chức
Chưa có bộ máy tổ chức chặt ché
Cơ cấu tổ chức và bộ máy quản lý chặt chẽ
7
Cơ sở hoạt động
Hợp đồng giữa các tổ viên
Theo luật và điều lệ của HTX
8
Hướng phát triển
HTX
Tổ chức kinh tế. Từ với quy mô ngày càng lớn (liên hiệp liên minh với các HTX NN)
Trong mấy năm gần đây hàng vạn tổ chức hợp tác với nhiều hình thức phong phú, đa dạng như tổ nhóm hợp tác từng vụ, từng việc và HTX từng khâu, từng giai đoạn của quá trình sản xuất. HTX kinh doanh tổng hợp đã được các hộ nông dân xây dựng ở nhiều địa phương trong cả nước, trong đó phần lớn các tổ chức hợp tác đơn giản. Những dạng hợp tác đó mang mở ra triển vọng trên con đường phát triển ở nông thôn. Chúng ta không phủ nhận việc chuyển đổi HTX kiểu cũ sang kiểu mới, nhưng việc mở rộng xu hướng đó một cách ồ ạt theo phong trào sẽ không đem lại kết quả thiết thực.
ở những vùng nông nghiệp có trình độ sản xuất hàng hoá cao, để gắn bó chặt chẽ giữa sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm, để bảo vệ lợi ích của mình trong nền kinh tế thị trường nông dân dễ nhận thấy động cơ lợi ích và tham gia một cách tự nguyện tổ chức HTX tại những vùng nông nghiệp hàng hoá có môi trường thuận lợi và có nội dung để hoạt động. Có thể hình thành những HTX đa ngành (kinh doanh tổng hợp), HTX chuyên ngành hoặc các HTX thực hiện một vài công đoạn của sản phẩm trong quá trình sản xuất hoặc dịch vụ. Cần khuyến khích hình thành và phát triển các dạng HTX đơn giản như tổ, nhóm hợp tác từng khâu, từng việc của quá trình sản xuất hoặc dịch vụ để tiến tới hình thành và phát triển của các hợp tác xã chuyên ngành hoặc HTX đa ngành.
Đối với những vùng sản xuất hàng hoá chưa phát triển, chủ yếu là sản xuất tự cấp tự túc thì nên lựa chọn các hình thức hợp tác thấp để giải quyết một số khó khăn của hộ nông dân trong sản xuất tiêu thụ sản phẩm và đời sống. Hình thức hợp tác có thể là tổ, nhóm hợp tác với quy mô nhỏ, hoạt động trong một số khâu làm đất, cung cấp giống… Cùng với sự phát triển sản xuất, nâng cao trình độ sản xuất hàng hoá, những hình thức đơn giản trên sẽ phát triển, từ đó hình thành các HTX. Trước mắt ở những vùng này không nên đưa nông dân vào các hình thức hợp tác bậc cao hoặc chuyển đổi HTX kiểu cũ sang HTX kiểu mới một cách nhanh chóng khi trình độ lực lượng sản xuất còn thấp kém. Bước đi trên đây là hợp quy luật, sẽ đưa phong trào HTX ở nước ta đi từng bước vững chắc để tiếp tục đổi mới và phát triển
PHẦN III
ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
I. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN
1. Vị trí địa lý
Vụ Bản là 1 trong 10 huyện, thành phố của tỉnh Nam Định. Một tỉnh trọng điểm nông nghiệp của đồng bằng châu thổ sông Hồng.
Vụ Bản nằm ở phía tây bắc của tỉnh Nam Định, có trung tâm huyện lỵ (thị trấn Gôi) cách thành phố Nam Định (Trung tâm tỉnh Ninh Bình) là 13 km, có đường sắt Bắc - Nam và quốc lộ 10A chạy qua với 13 km, có 2 tỉnh lộ và tỉnh lộ 12 và 56 cắt vuông góc chạy qua huyện.
- Phía Đông giáp thành phố Nam Định.
- Phía Nam giáp sông Đào.
- Phía Tây và Tây nam giáp huyện ý Yên.
- Phía Bắc giáp huyện Mỹ Lộc.
- Phía Tây Bắc giáp huyện Bình Lục (Hà Nam) và 1 phân của huyện ý Yên.
Với vị trí địa lý như trên Vụ Bản rất thuận lợi để giao lưu kinh tế - văn hóa, tập trung các nguồn lực cho phát triển kinh tế nói chung và sản xuất nông nghiệp nói riêng
2. Địa hình.
Nhìn chung Vụ Bản có địa hình tương đối bằng phẳng, phía Bắc vùng thượng huyện đất hơi thấp và được cao dần lên ở phía Nam (Phần giáp quốc lộ 10).
Từ đất đai, địa hình và các tiêu chí khác, người ta chia Vụ Bản thành hai tiểu vùng sinh thái kinh tế khác nhau:
- Vùng thượng huyện có 8 xã: Minh Thuận, Tân Khánh, Hiền Khánh, Hợp Hưng, Minh Tân, Cộng Hoà, Trung Thành, Đại An.
- Vùng miền hạ huyện có 9 xã và 1 thị trấn: Gôi, Tam Thanh, Liên Minh, Liên Bảo, Kim Thái, Quang Trung, Vĩnh Hào, Đại Thắng, Thành Lợi và Tân Thành.
3. Khí hậu thời tiết, thủy văn
Vụ Bản mang đặc trưng chung của khí hậu nhiệt đới gió mùa, có mùa Đông lạnh, mùa Hè nóng, ẩm, mưa nhiều của vùng đồng bằng sông Hồng. Nhiệt độ trung bình năm là 23,70C từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau, nhiệt độ không khí trung bình < 210C tháng giêng là tháng có nhiệt độ trung bình thấp nhất là 16,70C với nhiệt độ trên Vụ Bản có thể trồng 3 vụ /1 năm với 2 cây trồng nhiệt đới và 1 cây trồng ôn đới trong vụ đông.
* Độ ẩm: ẩm độ không khí trung bình năm khá cao (trê 80%) sự chênh lệch giữa các tháng không lớn (3- 8%), ẩm độ tương đối có cực đại vào tháng 3, 4 và cực tiểu vào tháng 11 , 12.
* Lượng mưa: Tổng lượng mưa trung bình của năm là 1757 mm, mặc dù có lượng mưa khá cao nhưng lại phân bố không đều, cường độ mưa dao động lớn. Mùa mưa, lượng mưa tới 1465 mm (chiếm trên 80% tổng lượng mưa cả năm). Tháng 9 là tháng có mưa lớn nhất (397 mm), trong khi đó tháng 1 lại thường có mưa ít nhất là 27,7 mm).
* Lượng bốc hơi có cực đại là vào tháng 7 với 104,7 mm và cực tiểu là tháng 3 có 39,4 mm. Tổng lượng bốc hơi trung bình hàng năm là 835,89 mm » 1/2 lượng mưa cả năm.
* Nắng: Tổng số giờ trung bình trong năm là 1670,3 giờ, tháng có số giờ nắng thấp nhất là các tháng 2, 3 tháng có giờ cao nhất là tháng 7.
* Gió: Mùa Đông có gió thịnh hành Đông Bắc, mùa Hè có hướng gió thịnh hành là Đông Nam.
Từ đặc điểm khí hậu trên cho thấy Vụ Bản nằm trong vùng khí hậu có thể cho phép đa dạng hóa cây trồng.
4. Đặc điểm thuỷ văn.
- Vụ Bản có sông Đào là nhánh của sông Hồng chảy qu (Ranh giới giữa Vụ Bản và Nam Trực) với chiều dài của sông là 15 km. Ngoài ra còn có sông Sắt (Nằm trong hệ tiêu của vùng 6 trạm bơm lớn của Nam Hà trước đây) là sông nhỏ hơn với chiều dài chạy dọc biên giới Vụ Bản, ý Yên, Bình Lục (Hà Nam) là 20 km ngoài 2 sông chính trên, trực tiêu Tiên Hương, Hùng Vương là 1 số sông tiêu nhỏ khác nằm trong huyện cũng liên quan tác động đến đặc điểm thủy văn của Vụ Bản.
5. Đặc điểm về đất đai.
Đất đai với tư cách vừa là đối tượng của sản xuất nông nghiệp ngành trồng trọt, nhưng vừa là tư liệu sản xuất đặc biệt quan trọng.
Biểu 3: Kết quả sử dụng đất đai của huyện Vụ Bản
qua 3 năm 1999 - 2001
Chỉ tiêu
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Diện tích (ha)
Cơ cấu (%)
Diện tích (ha)
Cơ cấu (%)
Diện tích (ha)
Cơ cấu (%)
Tổng diện tích đất tự nhiên
14766,23
100
14766,23
100
14766,23
100
I. Đất nông nghiệp
10562,15
71,55
1058,92
71,51
10524,23
71,28
1. Đất canh tác
9724,27
92,07
9721,88
92,07
9689,1
92,07
Đất 1 vụ
1029,27
10, 59
1027,38
10,57
1015,63
10,48
Đất 2 vụ
7248,65
74,54
7251,33
74,59
7237,7
74, 7
Đất 3 vụ
426,25
4,38
425,81
4,38
421,96
4,35
Đất chuyên mạ
903,18
9,29
902,85
9,29
901,89
9,31
Đất chuyên mầu
101,46
1,04
99,32
1,02
96,86
1,0
Đất chuyên rau
15,19
0,16
15,19
0,15
15,06
0,16
2. Đất trồng cây lâu năm
12,57
0,12
12,54
0,12
11,92
0,11
3. Đất mặt nước
527,36
4,99
526,82
4,99
527,03
5,1
4. Đất vườn tạp
297,95
2,82
297,68
2,82
296,67
2,82
II. Đất lâm nghiệp
12,0
0,08
12,0
0,08
12,0
0,08
III. Đất chuyên dùng
2332,11
15,79
2333,0
15,8
2352
15,93
IV. Đất ở
707,71
4,79
710,34
4,81
729,74
4,94
V. Đất chưa sử dụng
1152,23
7,81
1151,97
7,8
1146,99
7,77
(Nguồn: Phòng thống kế huyện Vụ Bản)
Qua bảng 1 cho thấy tổng số diện tích đất tự nhiên của huyện là 14.766,23 ha, thì diện tích đất nông nghiệp là 10.588,92 ha, chiếm 71,51% so với tổng diện tích đất tự nhiên. Đến năm 2001 thì diện tích đất nông nghiệp là : 10.524,72 ha, chiếm71,82%.
Trong đất nông nghiệp thì đất canh tác trồng cây hàng năm chiếm diện tích chủ yếu, tiếp đến là diện tích đất mặt nước, đất vườn tạp và cuối cùng ít nhất là diện tích trồng cây lâu năm.
Đất lâm nghiệp ổn định qua các năm với diện tích là 12 ha, chiếm 0,08 %, cây lâm nghiệp được trồng chủ yếu trên diện tích các đồi núi như Núi Gôi, Núi Ngăm, Núi Tiên Hương để bảo vệ đất, chống xói mòn, tạo cảnh quan và môi trường, góp phần làm tăng thu nhập cho người dân. Diện tích đất chuyên dùng và đất ở (thổ cư) lại tăng qua các năm, nhằm giải quyết các vấn đề xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật hạ tầng phục vụ cho sản xuất, đời sống của nhân dân trong huyện. Năm 1999, diện tích đất ở chiếm 707,71 ha = 4,79% và đất chuyên dùng là 2332,1 ha = 15,79%. Đến năm 2001 diện tích đất ở là 710,34 ha, chiếm 4,81 % và đất chuyên dùng là 2333 ha, chiếm 15,8%.
Diện tích đất chưa sử dụng giảm qua các năm, năm 1999 có 1152,23 ha, chiếm 7,81 % đến năm 2001 có 1146,99 ha, chiếm 7,77%, nguyên nhân giảm là đưa vào canh tác sản xuất nông nghiệp.
Tóm lại: Với những đặc điểm về điều kiện tự nhiên của Vụ Bản cho thấy Vụ Bản có nhiều tiềm năng lớn để phát triển kinh tế nói chung và phát triển kinh tế nông nghiệp nói riêng, đặc biệt là sản xuất ngành trồng trọt.
II. ĐIỀU KIỆN KINH TẾ XÃ HỘI
1. Tình hình biến động dân số và lao động xã hội
Tình hình biến động dân số và lao động xã hội của Vụ Bản qua 3 năm (1999 - 2000) được biểu hiện qua bảng số 4:
Bảng 4: Tình hình dân số và lao động của huyện Vụ Bản qua 3 năm (1999 - 2001)
Chỉ tiêu
Đơn vị tính
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Số người
Cơ cấu (%)
Số người
Cơ cấu (%)
Số người
Cơ cấu (%)
1. Tổng số nhân khẩu
người
128.579
100
129.947
100
131.391
100
- Nam
-
60.589
47,12
61.386
47m24
62.112
47,28
- Nữ
-
68.008
52,88
68.561
52,76
69.269
52,72
2. Tổng số hộ
hộ
32.026
100
32.064
100
32.288
100
- Hộ nông nghiệp
hộ
30.452
95,09
30.476
95,05
30.500
94,46
3. Tổng số lao động
LĐ
58.702
100
59.327
100
59.530
100
a. Chia theo ngành nghề
- LĐ nông nghiệp
LĐ
51.092
87,09
51.454
86,73
51.391
86,33
- LĐ phi nông nghiệp
LĐ
7.610
12,96
7.873
13,27
8.139
13,67
b. Chia theo độ tuổi
- Trong tuổi LĐ
người
51.417
87,59
51.965
87,59
52.230
87,74
- Ngoài tuổi LĐ
người
7.285
12,41
7.362
12,41
7.300
12,26
4. Một số chỉ tiêu khác
- Bình quân khẩu/ hộ
người
4,015
4,053
4,07
- Bình quân LĐNN/hộ
-
1,595
1,60
1,59
- BQ đất canh tác/hộ
m2
3.040
3030
3.000
- BQ đất canh tác/LĐ
m2
1.660
1640
1.628
(Nguồn: Phòng thống kê huyện Vụ Bản)
Qua bảng 2 cho thấy dân số Vụ Bản tăng lên mỗi năm. Năm 1999 nhân khẩu toàn huyện là 128.597 người, đến năm 2000 có 129,947 người, đến năm 2001 thì tổng nhân khẩu toàn huyện là 131,391 người.
Tổng số hộ trong huyện cũng tăng lên qua các năm, một phần do dân số tăng song chủ yếu là tăng do tách hộ. Năm 1999 có 32.026 hộ, đến năm 2001 đã có 32.288 hộ.
Tổng số lao động của Vụ Bản cũng tăng lên qua các năm, năm 1999 tổng số lao động có 58,702, trong đó có 51.092 lao động trong sản xuất nông nghiệp, chiếm 87,04%, đến năm 2001 có tổng số lao động là 59,530 người, trong đó lao động sản xuất nông nghiệp là 51,391, chiếm 86,33%. Như vậy lao động trong nông nghiệp có xu hướng giảm. Lý do là chuyển sang các lĩnh vực phi nông nghiệp.
Điều đáng lưu ý ở đây là bình quân đất canh tác trên hộ và trên lao động là có giảm nhưng vẫn khá cao. Năm 1999 mỗi hộ có 3040 m2 đất canh tác đến năm 2001 có 3000 m2, giảm 40 m2 / hộ. Đất canh tác / lao động năm 1999 có 1660 m2, đến năm 2001 có 1628 m2 giảm 32 m2/ lao động. Tuy nhiên trong sản xuất lao động lại mang tính thời vụ cao, thời gian tập trung cho sản xuất nông nghiệp ở 2 vụ chính chiếm khoảng trên 4 tháng. Nếu không phát trển sản xuất vụ Đông và mở mang dịch vụ trong nông thôn, thì lao động nhàn rỗi vẫn lớn. Mặt khác nếu sản xuất nông nghiệp không đạt năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế cao chắc chắn sẽ không tăng thu nhập cho nông dân. Đời sống nhân dân sẽ kém được cải thiện.
2. Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ sản xuất và đời sống
Trong những năm gần đây, thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về xây dựng và phát triển nền kinh tế đất nước. Đặc biệt với chủ trưởng phải đẩy nhanh tiến độ của quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa trong nông nghiệp và nông thôn. Huyện Vụ Bản đã tập trung vào đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống, bộ mặt nông thôn của Vụ Bản ngày càng được đổi mới. Cơ sở vật chất kỹ thuật hạ tầng ngày càng được tăng cường. Kết quả trên được biểu hiện qua bảng số 5:
Bảng 5: Cơ sở vật chất kỹ thuạt của huyện năm 2001
(Tính đến thời điểm 31/12/2001)
CHỈ TIÊU
ĐƠN VỊ TÍNH
SỐ LƯỢNG
1. Giao thông
Đường quốc lộ
km
13
Đường tỉnh lộ
km
26
Đường liên xã, liên thôn
km
44
Xã có đường ôtô đến trung tâm xã
%
100
2. Thủy lợi
- Trạm bơm tưới tiêu
cái
4
- Trạm bơm tiêu
cái
1
- Trạm bơm di động
cái
42
- Trạm bơm cố định HTX
cái
116
- Diện tích được tưới tiêu do HT thủy lợi
ha
8038,68
- Số km kênh được kiên cố
km
55,00
3. Hệ thống điện
- Số trạm biến áp
trạm
54
- Xã có điện
xã
18
- Số hộ dùng điện
%
100
4. Công trình phúc lợi
- Xã có bưu điện văn hóa xã
xã
11
- Xã có chợ nông thôn
xã
15
* Trường học
- Cấp I
trường
26
- Cấp II
trường
19
- Cấp III
trường
2
- Mẫu giáo, mầm non
trường
19
- Bệnh viện
cái
1
- Phòng khám khu vực
cái
2
- Trạm xá
cái
18
(Nguồn: Phòng thống kê huyện Vụ Bản)
- Về giao thông: Là huyện cửa ngõ phía Tây của thành phố Nam Định, lại là trung điểm của hai trung tâm kinh tế - văn hóa - xã hội của 2 tỉnh Nam Định và Ninh Bìn. Có tuyến đường sắt Bắc - Nam và quốc lộ 10A chạy dọc theo hướng đông tây xuyên qua trung tâm huyện. Đường tỉnh lộ, đường huyện và đường liên thôn, liên xã đã cơ bản được rải nhựa, đổ bê tông, gạch, đá dăm nước, do vậy chất lượng và năng lực phục vụ cho phát triển kinh tế cũng như phục vụ đời sống dân sinh cho Vụ Bản là khá tốt, hầu hết các thôn xóm có đường ôtô đến tận nơi.
- Về hệ thống điện: Mạng lưới hệ thống điện gồm các trạm biến áp và đường dây điện (Cao thế - Trung thế và Hạ thế) đã được hoàn thiện từ lâu và ngày càng được nâng cấp, làm mới để phục vụ cho sản xuất và đời sống. Tất cả các hộ đều dùng điện sinh hoạt, tỷ lệ hộ dùng điện cho sản xuất kinh doanh các ngành, nghề TTCN, dịch vụ có xu hướng tăng dần qua các năm.
- Hệ thống thủy lợi, thủy nông:
Do đặc điểm là một huyền vùng trũng, cốt đất thấp, là huyện nằm trong vùng 6 trạm bơm lớn của tỉnh Nam Hà trước đây. Do vậy hệ thống thuỷ nông của huyện đã được quy hoạch và xây dựng đã lâu để đáp ứng cho yêu cầu sản xuất.
+ Hệ thống tiêu: Tiêu qua trạm bơm Cốc Thành và trạm bơm sông Chanh là chủ yếu, kết hợp từng thời điểm điều tiết qua cống Cánh Gà tiêu qua hệ thống tiêu Vĩnh Trụ (ý Yên), sông tiêu chính là sông Tiên Hương, sông Sắt, sông Hùng Vương và các sông tiêu như T3, T4, T5, T6, T8, T10….
Hệ số tiêu của trạm bơm Cốc Thành là 4,1/s.ha, tuy nhiên do lâu ngày không được nạo vét, do vậy dòng tiêu bị ùn tắc do bùn bồi lắng.
+ Hệ thống tưới: Kênh tưới cấp I (3 kênh) có chiều dài 29,285 km hiện tại đã được kiên cố hóa 13 km(kênh Nam hệ Cốc Thành).
Kênh tưới cấp II (25 kênh) có chiều dài là 70,503 km - hiện tại đã được kiên cố hóa 11 km.
Kênh tưới cấp III (560 kênh) có chiều dài là 470,260 km, đã kiên cố được 31 km.
Hệ số tưới theo năng lực thiết kế của công trình là 0,82 l/s/ha.
+ Hệ thống các trạm bơm:
Có 1 trạm bơm lớn và trạm bơm Cốc Thành 7 máy x 32.000 m3/hoặc phục vụ tiêu cho Vụ Bản và 1 phần thành phố Nam Định và huyện Mỹ Lộc.
Có 1 trạm bơm vừa với 34 máy x 4.000 m3/h
Có 1 trạm bơm trung bình có 7 máy x 2.500 m3/h
Có 1 trạm bơm nhỏ với 21 máy x 10003/h
Ngoài ra còn có 116 trạm bơm điện của các HTX với công suất là từ 540 m3/hoặc đến 2.500 m3/h. Tổng công suất của các trạm bơm trong địa bàn huyện vào khỏng 406.100 m3/h.
Do có sự quan tâm đầu tư rất lớn của Nhà nước các cấp, đặc biệtlà sự đóng góp của nhân dân trong những năm gần đây, hệ thống thủy lợi, thủy nông của Vụ Bản đã và đang tiếp tục được cải tạo, nâng cấp. Diện tích được phục vụ nước tưới, tiêu được nâng lên từ 7651 ha năm 1999 đến năm 2001 đã lên tới » 8.000 ha.
Trong đó: Diện tích chủ động là 3.900 ha
Diện tích chủ động 1 phần là 1.500 ha
Diện tích tạo nguồn là 2.600 ha
Nét nổi bật nhất là sự huy động đóng góp của nhân dân để làm kiên cố hóa kênh mương, bước đầu đã đem lại kết quả đáng phấn khởi.
III. KẾT QUẢ SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA HUYỆN TRONG 3 NĂM QUA (1999 - 2001)
Bảng 6: Kết quả sản xuất kinh doanh của huyện qua 3 năm (1999 - 2001)
Chỉ tiêu
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Số lượng (triệu đ)
Cơ cấu (%)
Số lượng (triệu đ)
Cơ cấu (%)
Số lượng (triệu đ)
Cơ cấu (%)
I. Tổng giá trị sản xuất
443.436
100,00
427.739
100,00
478.664
100,00
1. Ngành N.L. Thủy sản
276.156
62,28
314.969
66,63
318.988
66,64
a. Nông nghiệp
270.709
98,03
309.471
98,25
313.462
98,27
b. Lâm nghiệp
570
0,21
627
0,20
652
0,20
c. Thủy sản
4.877
1,76
4.871
1,55
4.874
1,53
2. Ngành CN - TTCn
96.939
14,42
48.149
10,18
49.330
10,31
3. Ngành T. nghiệp - dịch vụ
103.314
23,3
109.621
23,19
110.346
23,05
II. Các chỉ tiêu bình quân
1. Lương thực BQ/năm (kg)
618
730
735
2. BQ thu nhập người/năm (tr.đ)
1,93
2,14
2,31
(Nguồn: Phòng thống kế huyện Vụ Bản)
Qua bảng 6 cho thấy giá trị sản xuất năm 1999 đạt 443.436 triệu đồng, đến năm 2001 đạt 472.664 triệu đồng (tăng 6,61%). Bình quân trong 3 năm tăng 3,9%/năm. Trong tổng giá trị sản xuất thì giá trị sản xuất Nông - Lâm - Thuỷ sản hiện chiếm tỷ trọng cao. Năm 1999 chiếm 62,28%, năm 2001 chiếm 66,64%. Giá trị sản xuất ngành Công nghiệp - TTCN chiếm tỷ lệ thấp (Namư 1999 chiếm 04,4242%, năm 2001 chiếm 10,31%). Giá trị sản xuất ngành Thương nghiệp - Dịch vụ năm 1999 chiếm 23,19%, năm 2001 chiếm 23,05%. Nhìn chung qua 3 năm giá trị sản xuất Nông - Lâm nghiệp - Thủy sản có tốc độ tăng đáng kể (7,48%). Trong khi ngành Thương nghiệp -Dịch vụ chỉ tăng 3,33%, riêng ngành TTCN - CN lại giảm (21,17%). Nguyên nhân là do thị trường tiêu thụ sản phẩm gặp nhiều khó khăn.
Trong Nông nghiệp - Lâm nghiệp - Thủy sản thì giá trị ngành Nông nghiệp luôn chiếm tỷ trọng rất cao. Năm 1999 nông nghiệp có giá trị sản xuất chiếm 98,03%, năm 2000 có giá trị sản xuất chiếm 98,27%.
Như vậy xét trên góc độ tổng thể các điều kiện tự nhiên (Đất - Nước - Khí hậu - Thủy văn) là cơ sở vật chất kỹ thuật hạ tầng, các vấn đề về phát triển kinh tế - xã hội nói chung cho thấy Vụ Bản là một huyện có nhiều tiềm năng, thế mạnh để phát triển kinh tế nói chung - đặc biệt là sản xuất nông nghiệp, nhất là sản xuất ngành trồng trọt nhưng vẫn chưa được quản lý, khai thác - sử dụng có hiệu quả. Bên cạnh đó các hạn chế, khó khăn cũng không ít trở ngại. Vấn đề cốt lõi hiện nay là Vụ Bản phải tập trung mọi nguồn lực để phát triển sản xuất trên cơ sở khai thác hợp lý các nguồn lực đó.
IV.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
1. Giới thiệu phương pháp nghiên cứu.
Mỗi môn khoa học đều nghiên cứu phạm vi điều kiện nhất định xảy ra trong tự nhiên và trong xã hội. Trong quá trình nghiên cứu người ta phải sử dụng các phương pháp khác nhau, đặc đỉem của phương pháp bắt nguồn từ tính chất của hiện tượng nghiên cứu. Tổng thể các phương pháp nhằm nhận thức hiện tượng nghiên cứu. Như vậy, phương pháp bắt nguồn từ thực tiễn khách quan, phản ánh các quy luật của khác quan của đối tượng mình nghiên cứu. Tầm quan trọng của phương pháp nghiên cứu là phản ánh và thực tiễn một công cụ có hiệu quả để nghiên cứu cải tạo thế giới quan. Chính vì thế chúng tôi đã chọn phương pháp sau để nghiên cứu đề tài "Nghiên cứu quá trình chuyển đổi và phát triển các mô hình HTX kiểu mới ở huyện Vụ Bản - Nam Định".
- Phương pháp thống kế kinh tế : là phương pháp nghiên cứu mặt lượng (của các hiện tượng trong tất cả các lĩnh vực hoạt động và sản xuất) trong mối liên hệ với mặt chất của số lớn các hiện tượng kinh tế xã hội xảy ra trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, trong điều kiện địa điểm và thời gian cụ thể.
- Phương pháp điều tra chọn mẫu điển hình.
- Phương pháp điều tra và đánh giá phát triển nông thôn và một số phương pháp khác.
2. Áp dụng các phương pháp nghiên cứu.
Áp dụng phương pháp trên vào nghiên cứu đề tài chúng tôi tiến hành giải quyết các vấn đề sau:
a. Phương pháp thu thập tài liệu
- Thu thập tài liệu thứ cấp: Tài liệu của phòng kế hoạch, thống kê kinh tế của UBND huyện Vụ Bản như tình hình cơ bản, báo cáo tổng kết của các HTX, tài liệu nói về kinh tế hợp tác và HTX qua sách báo, tạp chí có liên quan đến đề tài.
- Thu thập tài liệu sơ cấp: các báo cáo tổng kết của các HTX được nghiên cứu cụ thể, các thông tin về HTX từ ban quản lý xã viên của HTX và các hộ nông dân trước, trong và sau khi chuyển đổi HTX theo luật
Thu thập các quan điểm và ý kiên đánh giá của các chuyên gia và cán bộ trực tiếp chỉ đạo côg tác này.
b. Tổng hợp tài liệu và phân tích tài liệu
- Dùng phương pháp thống kê kinh tế để phân tích tài liệu tổng hợp và phân loại các loại chỉ tiêu so sánh như tốc độ tăng trưởng và so sánh các ngành giữa các mô hình…
- Dùng phương pháp duy vật biện chức và duy vật lịch sử để xem xét các hiện tượng, phân tích và đánh giá sự phù hợp của việc đổi mới sang mô hình HTX kiểu mới với quy luật phát triển cũng như chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước.
- Dùng phương pháp điều tra đánh giá phát triển nông thôn nhằm vào các mục tiêu sau:
+ Đánh giá nhu cầu phát triển nông nghiệp - nông thôn và phát triển chung của cộng đồng. Từ đó xem xét tính phù hợp và những thành tích đạt được của mô hình HTX kiểu mới bên cạnh đó tìm ra những tồn tại và vấn đề mới nảy sinh để tiếp tục nghiên cứu và giải quyết.
+ Xác định các vấn đề cần ưu tiên để tiếp tục nghiên cứu nhu cầu phát triển của nó.
+ Đánh giá khả năng thực hiện (theo tiêu chuẩn kinh tế, xã hội và kỹ thuật) của sự can thiệp đổi mới có kế hoạch.
+ Xác định các điểm cần ưu tiên trong quá trình hoạt động của các mo hình HTX kiểu mới.
+ Tiến hành các hoạt động chính thức cũng như phụ trợ để các mô hình HTX kiểm mới phát triển tốt hơn.
+ Có kế hoạch giám sát các hoạt động phát triển ở những mô hình HTX kiểu mới để kịp thời có những giải pháp giải quyết những vấn đề nảy sinh trong quá trình phát triển, để các mô hình HTX này ngày càng hoàn thiện và phát triển.
PHẦN IV: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
I. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CÁC HTX Ở HUYỆN VỤ BẢN TRƯỚC THỜI KỲ ĐỔI MỚI.
1. Thực trạng HTX nông nghiệp huyện Vụ Bản.
Kinh tế hợp tác và HTX trong nông nghiệp nông thôn huyện Vụ Bản quá trình đổi mới từ năm 1986 đến cuối năm 1996 được chia làm ba giai đoạn.
* Giai đoạn từ năm 1986 đến năm 1988
Đây là giai đoạn tiếp tục thực hiện chỉ thị 100 của Ban bí thư Trung ương Đảng (Khóa V) năm 1981. Với nội dung đổi mới cơ chế quản lý HTX từ khoán việc sang khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động. Các HTX mới đã thực hiện được một bước cơ bản là giải phòng sức lao động tạo điều kiện để xã viên tự chủ sử dụng sức lao động của mình chăm lo cho những mảnh ruộng nhận khoán để tăng sản lượng, tăng thu nhập… Tuy rằng kế hoạch đặt ra như vậy nhưng về động lực vẫn chưa đủ mạnh, không lâu vì phần giá thành thu từ vượt khoán và chi phí sản xuất ngày càng tăng. Hệ thống tổ chức sản xuất HTX được xây dựng từ nhiều năm nay đã bộc lộ rõ không còn phù hợp với sự phát triển của LLSX dẫn đến quản lý bị lỏng lẻo, rong công, phóng điểm, công nợ ngày một tăng, phân phối không theo sự lao động đóng góp của xã viên, làm triệt tiêu mất động lực phát triển sản xuất, nông dân giảm lòng tin đối với kinh tế HTX.
Việc xây dựng quan hệ sản xuất tập thể chưa tìm ra bước đi thích hợp, phù hợp với điều kiện từng ngành nghề không phân biệt sự khác nhau giữa tập thể hóa và hợp tác hóa, nặng về quan hệ sở hữu, ít chú ý đến quan hệ hợp tác liên kết trong sản xuất dưới nhiều hình thức đa dạng, quan hệ về phân phối theo lao động bị vi phạm nghiêm trọng.
* Giai đoạn từ năm 1988 đến năm 1993
Những thiếu sót trên đã được Nghị quyết 10 của Bộ chính trị ngày 5 tháng 4 năm 1998 đã định hướng tháo gỡ. Thực hiện Nghị quyết 10 ngày 12 tháng 5 năm 1998 tỉnh ủy Nam Hà nay thuộc tỉnh Nam Định ra Nghị quyết 115 về "Đổi mới tổ chức quản lý HTX nông nghiệp". UBND tỉnh ban hành Quyết định 376 năm 1993 quy định cụ thể về phân chia giao quỹ đất đến hộ nông dân, đổi mới tổ chức quản lý HTX… ngay trong năm 1988 hầu hết các HTX đã tiến hành giao toàn bộ ruộng đất canh tác khoán cho hộ nông dần dưới hai quỹ đất. Quỹ đất khoán đảm bảo yêu cầu lương thực cơ bản của hộ nông dân và quỹ đất đấu thầu thâm canh cao với năng suất khoán được điều chỉnh hợp lý.
Về tổ chức quản lý các HTX nông nghiệp đã có bước thay đổi quan trọng. Ruộng đất được giao khoán lâu dài cho người lao động, các TLSX do tập thể quản lý sử dụng kém hiệu quả đã được định giá bán lại chuyển nhượng cho xã viên tạo điều kiện đầy đủ để hộ nông dân trở thành đơn vị kinh tế tự chủ. Chuyển từ trực tiếp quản lý điều hành sản xuất sang chế độ hợpd dồng trách nhiệm, tăng cường quyền tự chủ quản lý điều hành cho hộ xã viên trong đầu tư thâm canh, phát triển sản xuất trên diện tích nhận khoán. Bộ máy quản lý HTX được tinh giảm gọn nhẹ, nhất là sau khi thực hiện Quyết định 115 của Ban thường vụ tỉnh ủy đã xóa bỏ chế độ phân phối theo công điểm và bao cấp thực hiện hạch toán theo định mức khoán, xác định mức thu gồm thuế quỹ và các khoản dịch vụ. Tuy vậy hoạt động của các HTX chuyển biến không mạnh, không phát huy được vai trò tác dụng. Ngược lại còn bộc lộ ro những thiếu sót, nhược điểm cản trở sự phát triển của HTX…
* Giai đoạn từ năm 1994 đến cuối năm 1996
Trước yêu cầu thực tiễn, ngoài việc tiếp tục thực hiện Quyết định 115 của UBND tỉnh và nghị quyết Trung ương 5 (Khóa VII). Thực hiện thông báo số 264 TB/TU ngày 21 tháng 8 năm 1995 của Ban thường vụ tỉnh ủy Nam Định về đổi mới phát triển kinh tế xã hội nông thôn. Quyết định 990 của UBND tỉnh ngày 28 tháng 8 năm 1995 về việc sử dụng quỹ đất nông nghiệp dự trữ. Hướng dẫn thi hành số 161 của Sơ địa chính và hướng dẫn số 146 của Sở nông nghiệp về tiếp tục đổi mới quản lý HTX nông nghiệp. UBND huyện hướng dẫn một số nội dung chủ yếu thực hiện năm 1995 - 1996 cụ thể là:
Về quản lý ruộng đât: UBND xã và HTX nông nghiệp tổ chức thực hiện theo hướng thi hành số 161 của Sở địa chính ngày 11 tháng 10 năm 1995 (Về việc xử lý đất nông nghiệp). Trong quá trình quản lý quỹ đất nông nghiệp dự trữ phải kết hợp điều chỉnh đúng vị trí đất quy hoạch đến năm 2010 - 2013 và thực hiện theo hướng quy định 990; đất tạm giữ của hộ nông dân còn nợ tồn đọng nay giao hết lại cho hộ đó để sử dụng lâu dài. Để tiếp tục thu hồi vốn về cho HTX và ngăn việc nợ nần dây dưa của các HTX đã phải vận dụng theo hướng giao lại ruộng theo tỷ lệ thanh toán nợ hoặc HTX tiếp tục quản lý cho thầu để trừ nợ dần.
Về tổ chức HTX nông nghiệp : Thực tiễn trong đầu những năm vừa qua tổ chức quản lý HTX nông nghiệp đã khẳng định vai trò vị trí của HTX trong việc quản lý kinh tế xã hội như phòng chống thiên tai dịch hại, hướng dẫn kinh tế hộ phát triển, xây dựng cơ sở vật chất phục vụ sản xuất và đời sống. Mô hình tổ chức HTX nông nghiệp theo quy mô liên thôn, xã như hiện nay cơ bản là phù hợp với yêu cầu sản xuất. Tuy nhiên hình thức tổ chức nội dung hoạt động phải tiếp tục đổi mới cho phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế và trình độ quản lý của HTX. Đồng thời khuyến khích các hình thức hợp tác kinh doanh một khâu hoặc nhiều khâu trong sản xuất chế biến tiêu thụ sản phẩm theo hướng Nhà nước nhằm bổ sung tốt hơn nhu cầu kinh tế hộ.
Về cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý HTX nông nghiệp : Nhìn chung phần lớn các HTX hiện nay vẫn quen với cách làm ăn cũ, năng lực và trình độ còn hạn chế, chưa thực chất năng động sáng tạo vươn lên đáp ứng với cơ chế thị trường.
Qua điều tra ở 32 HTX cho thấy chủ nhiệm có trình độ đại học chiếm 14,7%; trung cấp chiếm 20,6% còn lại phần lớn các cán bộ chưa qua đào tạo chiếm 64,7%. Về đội ngũ cán bộ nghiệp vụ, tỷ lệ chưa qua đào tạo chiếm khá cao, đặc biệt là đội ngũ cán bộ kế toán trưởng tỷ lệ trung cấp chiếm đa số là 73,5%, đại học chiếm 8,8% còn lại chưa qua đào tạo chiếm 14,7%. Về đội ngũ cán bộ trong ban quản trị có trình độ đại học chiếm 9,2%; trung cấp chiếm 52,3%. Qua đây ta có thể thấy đội ngũ cán bộ chủ chốt của các HTX phần lớn chưa có chuyên môn nghiệp vụ, trình độ văn hóa thấp, lại chưa được quan tâm đào tạo thường xuyên dẫn đến vai trò điều hành của các HTX bị thu hẹp, bộ máy quản lý yếu kém, thiếu năng động sáng tạo. Tuy rằng có bước chuyển biến mới song sự tồn tại của các HTX chỉ là hình thức không còn vai trò tác dụng đối với hộ nông dẫn. Hoạt động của các HTX mang tính chất phục vụ không hạch toán sản xuất kinh doanh nên chất lượng không cao.
Về vốn quỹ của HTX: Cơ cấu vốn quỹ của các HTX tuy có khác nhau nhưng nhìn chung quỹ HTX đã giảm nhiều so với thời kỳ khoán 10. Bình quân ngang huyện quỹ để 4,66%, sản lượng khoán xấp xỉ 5kg /sào/vụ. Số quỹ thu cả năm của huyện là 5.634 tấn thóc nhưng tỷ lệ thu không đảm bảo kế hoạch đề ra thậm chí sử dụng vượt kế hoạch không đúng mục đích. Qua 2 năm 1995 - 1996 sử dụng quỹ phát triển sản xuất mới gần 30% cho việc sản xuất, số còn lại cộng với quỹ tích lũy trước kia chủ yếu tập trung cho xây dựng cơ bản phục vụ đời sống sản xuất và bù lỗ cho các quỹ dịch vụ. Nguồn vốn các HTX trong huyện tính đến ngày 31 tháng 8 năm 1995 là 44.504 triệu đồng. Bình quân có 780 triệu đồng trên một HTX trong đó 55 % là vốn cố định, 45% là vốn lưu động và các quỹ trong đó vốn lưu động chiếm dụng chiếm 80%; vốn hoạt động có 20% cho nên nhiều HTX không có điều kiện để tổ chức sản xuất kinh doanh hoặc hiệu quả kinh doanh thấp.
II. THỰC HIỆN CHỦ TRƯƠNG ĐỔI MỚI HTX THEO LUẬT HTX Ở HUYỆN VỤ BẢN.
1. Quan điểm đổi mới HTX ở huyện vụ Bản
* Yêu cầu và nguyên tắc chung: Đổi mới tổ chức và quản lý HTX là công việc quan trong, nó liên quan đến sản xuất và đời sống của hộ nông dân nhằm chuyển đổi HTX nông nghiệp hiện nay trở thành HTX sản xuất dịch vụ nông nghiệp thực sự là một tổ chức kinh tế được lập ra theo yêu cầu sản xuất và nguyện vọng của nông dân góp phần thực hiện thắng lợi đường lối phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, thúc đẩy kinh tế xã hội nông thôn phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đổi mới tổ chức quản lý HTX sản xuất dịch vụ nông nghiệp phải triệt để tuân thủ theo các nguyên tắc cơ bản về HTX; tự nguyên, dân chủ cùng có lợi, tự quản. Đổi mới HTX được tiến hành toàn diện và đồng bộ, chuyển hoạt động của các HTX nông nghiệp từ mô hình cũ theo mô hình chức năng nhiệm vụ mới ở mỗi khâu, mỗi lĩnh vực sản xuất kinh doanh dịch vụ trên nền tảng kinh tế hộ nông dân, hộ gia đình.
* Nội dung vụ thể về việc đổi mới HTX: Đổi mới chức năng nhiệm vụ của HTX. HTX không còn quản lý điều hành trực tiếp và toàn diện về sản xuất, lao động, phân phối TLSX nữa mà chuyển sang làm chức năng dịch vụ phục vụ sản xuất cho các hộ nông dân với những nhiệm vụ chủ yếu sau: Xây dựng thực hiện hướng dẫn sản xuất tiếp cận với thị trường theo quy hoạch trước mắt và lâu dài ở từng địa phương. Thông qua thị trường hướng dẫn hộ nông dân đổi mới cơ cấu sản xuất, sử dụng đất đai có hiệu quả. Tổ chức hướng dẫn các hộ xã viên áp dụng tiến bộ KHKT sản xuất đạt kết quả cao, tổ chức làm dịch vụ phục vụ hộ nông dân dưới nhiều hình thức đa dạng. HTX trực tiếp nắm và điều hành từng khâu dịch vụ thiết yếu, gắn với cơ sở vật chất ở địa phương trước hết là thủy lợi, điện, giống và BVTV… thông qua những dịch vụ này để tập hợp hướng dẫn nông dân sản xuất có hiệu quả, bảo toàn và sinh lời vốn, thực hiện hạch toán kinh tế trên cơ sở làm tốt công tác phân loại, nắm chắc các loại vốn, xác định chính xác số vốn còn thực chất hoạt động hoặc vốn điều lệ của HTX để giao khoán cho chủ nhiệm HTX sử dụng đầu tư cho các hoạt động dịch vụ với mức độ vừa đảm bảo được vốn gốc và có một phần lãi suất hợp lý.
- Tổ chức lại mô hình HTX: Phương hướng chuyển đổi mô hình phải căn cứ vào nội dung hoạt động, phạm vi kinh doanh dịch vụ của các HTX hiện nay để xây dựng chuyển sang mô hình HTX sản xuất và dịch vụ nông nghiệp. Có thể tổ chức theo mô hình HTX sản xuất kinh doanh dịch vụ chuyên khâu tạo thêm việc làm và tăng thu nhập cho xã viên.
Về quy mô: Phải tổ chức sắp xếp lại theo hướng đa dạng hóa, không hạn chế quy mô hợp tác, phải đảm bảo cho từng đơn vị cơ sở hoạt động theo quy mô, lĩnh vực, ngành nghề, khâu công việc dịch vụ. Tổ chức bộ máy quản lý HTX trước hết là yêu cầu phải đổi mới tổ chức và quản lý HTX, phát huy quyền làm chủ của xã viên tham gia vào các hoạt động của HTX và trên cơ sở quy mô sản xuất kinh doanh dịch vụ của HTX đã xác định, đòi hỏi bộ máy quản lý của HTX phải được tổ chức sắp xếp lại gọn nhẹ và thực sự có hiệu lực. Xã viên bầu ra hội đồng quản trị (HĐQT). HĐQT sẽ tuyển chọn bầu chủ nhiệm HTX để điều hành sản xuất kinh doanh của HTX, đại hội xã viên là cơ quan có quyền lực cao nhất HTX, quyền hạn, trách nhiệm và nội dung làm việc của đại hội xã viên thực hiện nghị quyết đại hội xã viên thực hiện nghị quyết đại hội xã viên do đại hội xã viên bầu ra. Số lượng thành viên HĐQT tùy theo mô hình HTX và yêu cầu của đại hội xã viên quy định, chủ nhiệm là người điều hành thực hiện các nhiệm vụ thường xuyên của HTX theo nghị quyết của đại hội xã viên, chủ nhiệm, kế toán trưởng quyền hạn và nhiệm vụ phụ cấp tiền lương, tiền thù lao chủ nhiệm HTX donghị quyết của đại hội xã viên là điều lệ HTX quy định. Ngoài ra chức năng quản lý của chủ nhiệm bao gồm.
- Hoạch định dịch vụ sản xuất kinh doanh và đời sống xã viên.
- Tổ chức nội bộ HTX, tổ chức dịch vụ, tổ chức sản xuất kinh doanh.
- Điều khiển chỉ huy các hoạt động của HTX.
- Kiểm tra hoạt động dịch vụ, sản xuất của các đội tổ hay các cá nhân được chủ nhiệm giao nhiệm vụ.
- Đổi mới cách quản lý thường xuyên để phù hợp với sự nhạy bén của cơ chế thị trường.
Như vậy sơ đồ về tổ chức và quản lý HTX nông nghiệp được xây dựng như sau
Sơ đồ 1: Tổ chức bộ máy quản lý HTX nông nghiệp kiểu cũ
Đại hội xã viên
Ban quản lý HTX
Đội sản xuất
Tổ nhóm sản xuất
Tổ chức kinh tế cá nhân khác
Ban kiểm soát
2. Những giải pháp tổ chức chỉ đạo đổi mới HTX theo luật HTX ở huyện Vụ Bản
Tăng cường công tác chỉ đạo: Củng cố các ban chỉ đạo chuyển đổi theo luật HTX ở các xã để hoạt động có hiệu quả. Huyện cần tập trung chỉ đạo tiếp tục chuyển đổi HTX còn lại, giúp xí nghiệp HTX đã chuyển đổi khắc phục việc chưa đúng luật HTX, thực hiện những nội dung đã nêu trong phương án hoạt động sản xuất kinh doanh của HTX. Huyện cần tăng cường chỉ đạo xuống cơ sở, mỗi cán bộ đảm nhận ba đến bốn HTX (HTX quy mô toàn xã), trực tiếp hướng dẫn các HTX các nghiệp vụ cụ thể về chuyển đổi HTX hoặc thành lập mới. Ban chỉ đào cần có sự phân công trách nhiệm cụ thể cho các đơn vị có liên quan phối hợp triển khai thực hiện luật HTX trong lĩnh vực nông nghiệp theo quy định nghị định 02/CP của Chính phủ.
Tăng cường công tác tuyên truyền HTX và các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về HTX bằng các hình thức đa dạng: Các tổ chức đoàn thể, quần chúng theo chức năng của mình vận động các thành viên tham gia học tập cùng cấp ủy Đảng, chính quyền và HTX làm cho mọi công dân, xã viên nắm được mọi chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển HTX, nhất là nhận biết HTX mới theo luật khác với HTX kiểu cũ, xử lý các vấn đề của HTX cũ gia nhập HTX mới một cách tự nguyện. Tổ chức các đợt tập huấn tổ chức tuyên truyền phải phù hợp với đối tượng, đặc biệt là đối với nông dân phải ngắn gọn dễ hiểu, tập trung vào vấn đề chính, phương pháp tuyên truyền phải phong phú để nông dân tiếp thu một cách nhanh nhất.
Đào tạo bồi dưỡng cán bộ: Việc đào tạo bồi dưỡng cán bộ quản lý, cán bộ chuyên môn, nghiệp vụ cho HTX đang là nhu cầu cần thiết ở hầu hết các HTX. UBND tỉnh cần phối hợp với các trường quản lý của Bộ và các trường của tỉnh để đào tạo cán bộ quản lý HTX theo cơ chế mới. Trong đó tập huấn chế độ kế toán HTX nông nghiệp cho kế toán và chủ nhiệm HTX.
Làm rõ mối quan hệ giữa tổ chức Đảng, chính quyền với HTX: HTX nông nghiệp là tổ chức kinh tế tự nguyện của nông dân, quyền quyết đinh cao nhất trong HTX là đại hội xã viên. Song để HTX thực sự mang lại lợi ích cho xã viên phát triển đúng hướng, thực hiện tốt các chủ trương chính sách của Đảng và Chính phủ cần có sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Vì vậy cấp ủy Đảng cơ sở cần tổ chức tuyên truyền, quán triệt tới cán bộ Đảng viên HTX, tinh thần mới của luật HTX hỗ trợ tích cực các HTX có hiệu quả. Chính quyền xã thôn có trách nhiệm kiểm tra giám sát HTX trong việc thực hiện luật HTX và các chủ trương chính sách của Đảng và Chính phủ mà không can thiệp trực tiếp vào công tác tổ chức quản lý nội bộ như luật HTX và điều lệ HTX đã quy định. Chính quyền tạo điều kiện cho HTX hoạt động theo khuôn khổ pháp luật, không làm chức năng của HTX. HTX phải nghiêm chỉnh chấp hành sự lãnh đạo của Đảng và tạo điều kiện cho tổ chức Đảng và các tổ chức quần chúng khác của nông dân trong HTX hoạt động nhưng cũng không làm thay bao biện công việc của chính quyền, bao cấp, làm suy yếu HTX.
Ổn định bộ máy tổ chức quản lý trong HTX: Trước hết là Ban quản trị mới phải ổn định tổ chức bộ máy cán bộ HTX. Sắp xếp bộ máy tinh gọn theo yêu cầu công việc và phù hợp với khả năng của từng cán bộ, ban hành quy chế làm việc của Ban quản trị, Ban kiểm soát và các bộ phận chức năng khác, đảm bảo bộ máy hoạt động không chồng chéo, đảm bảo quyền chủ động điều hành và trách nhiệm trước xã viên và chủ nhiệm.
III. QUÁ TRÌNH CHUYỂN ĐỔI TỪ HTX KIỂU CŨ SANG MÔ HÌNH HTX KIỂM MỚI.
Mô hình HTX dịch vụ nông nghiệp ở huyện đã có từ trước chuyển đổi HTX theo luật. Ban đầu chỉ có một vài HTX trong huyện hoạt động dịch vụ ở vài khâu thiết yếu như thủy lợi, bảo vệ thực vật… tuy ban đầu còn gặp nhiều khó khăn về cơ sở vật chất cũng như trình độ quản lý và vốn để sản xuất cộng với yếu tố khách quan và yếu tố chủ quan đưa lại đặc biệt là từ phía hộ nông dân. Song nhìn chung hoạt động dịch vụ ở một số HTX đã được tổ chức phù hợp với điều kiện kinh tế (vốn, cơ sở vật chất, kỹ thuật…) và trình độ quản lý của từng HTX cùng với quốc doanh và các tổ chức kinh tế khác. Các HTX đáp ứng ngày càng có hiệu quả các dịch vụ trước, trong và sau quá trình sản xuất tới hộ xã viên. Nhận thấy mô hình dịch vụ thực sự đưm lại lợi ích cho HTX cho nên các HTX đã chuyển hẳn tổ chức dịch vụ sang hạch toán kinh doanh. Quá trình chuyển đổi được thực hiện có hiệu quả hay không, kết quả đem lại thế nào được thể hiện qua các vấn đề sau:
Về công tác tổ chức: Trước hết xác định việc đổi mới các HTX nông nghiệp kiểu cũ sang mô hình HTX dịch vụ nông nghiệp theo luật HTX và theo Nghị định 43/CP của Chính phủ và Nghị định số 04 của Ban thường vụ tỉnh ủy tỉnh Nam Định hiện nay là một vấn đề lớn, phức tạp tác động trực tiếp đến sự ổn định chính trị, xã hội và phát triển sản xuất. Dưới sự chỉ đạo của huyện ủy và UBND huyện cùng các ban ngành trong huyện, "Ban chỉ đạo đổi mới HTX nông nghiệp của huyện được thành lập và trực tiếp chỉ đạo mọi công việc".
- Trước hết cần quán triệt sâu rộng chủ trương đổi mới HTX nông nghiệp đến cấp ủy Đảng và chính quyền, đoàn thể nhất là các tầng lớp nhân dân trong huyện, thấy rõ vai trò của HTX trong sự phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn hiện nay, sự cần thiết đổi mới HTX nông nghiệp cũ xây dựng các hình thức hợp tác mới phù hợp nhằm tiếp tục đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp.
- Các xã trong huyện đã thành lập ban chỉ đạo đổi mới HTX nông nghiệp trong đó chủ tịch UBND xã làm trưởng ban, chủ nhiệm HTX cũ làm phó ban và một số thành viên do thường vụ Đảng uỷ xã quyết định và lãnh đạo trực tiếp.
- Đổi mới HTX gắn liền với tăng cường quản lý Nhà nước đối với các HTX. Cụ thể là định rõ chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế của hệ thống chính quyền cơ sở, tăng cường quản lý hành chính, chăm lo xây dựng kết cấu hạ tầng cơ sở để phát triển kinh tế xã hội, thông qua đổi mới HTX nông nghiệp, tiếp tục đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tổ chức tốt hệ thống dịch vụ, đào tạo đội ngũ cán bộ nhằm đáp ứng nhu cầu kinh doanh của HTX trong cơ chế thị trường.
- Các tổ chức đoàn thể với chức năng của mình, đi sát cơ sở nắm nguyện vọng của nông dân, cùng cấp ủy và chính quyền cơ sở làm tốt công tác chính trị tư tưởng để nông dân có nhận thức đúng và quyết tâm đổi mới HTX khẩn trương, thận trọng và vững chắc.
* Các bước tiến hành.
- Sau khi thành lập "Ban chỉ đạo đổi mới HTX nông nghiệp cấp xã". Tiến hành lập hội đồng kiểm kê, thanh lý tài sản, vốn quỹ, công nợ của HTX cũ ở những HTX phải giải thể thành lập "Hội đồng giải thể HTX nông nghiệp".
- Tiến hành tổng kết kiểm kê tài sản, vốn quỹ, công nợ của HTX và xây dựng phương án giải quyết cho từng loại.
- Đại hội xã viên tổng kết HTX nông nghiệp cũ, thảo luận hướng đổi mới HTX nông nghiệp và quyết định phương án giải quyết tài sản, công nợ, vốn quỹ của HTX cũ.
- Tiến hành đăn gký tại xã viên HTx mới xã hội điều lệ HTX mới. Tiến hành đại hội xã viên thảo luận đề án hoạt động và bầu hội đồng quản trị cơ quan quản lý điều hành HTX.
- Hoàn thành thủ tục, lập hồ sơ xin giải thể bao gồm: Bản tường trình của HTX nêu rõ lý do, nguyên nhân giải thể, báo cáo tổng hợp các mặt hoạt động, tình trạng thua lỗ, hiện nay về vốn công quỹ, công nợ của HTX đến thời điểm xin giải thể. Biên bản nghị quyết của đại hội xã viên đề nghị xin giải thể và phương án xử lý khi giải thể. Hồ sơ xin giải thể HTX được gửi tới UBND huyện và ban chỉ đạo đổi mới HTX xét duyệt.
* Kết quả của quá trình chuyển đổi từ HTX kiểu cũ sang mô hình HTX kiểu mới
Sau khi thực hiện Nghị định 43/CP của Chính phủ và chỉ thị số 04/CT -TU ngày 1/1/1997 huyện Vụ Bản đã tiến hành việc chuyển đổi từ HTX kiểu cũ sang mô hình HTX kiểu mới theo luật với mục tiêu nhằm đáp ứng nhu cầu kinh tế xã hội ở địa phương và xu thế tất yếu của thời đại.
Cho đến thời điểm hiện nay toàn huyện Vụ Bản có 2 mô hình HTX.
Biểu 7: Tình hình thực hiện đổi mới các HTX trong huyện năm 2001
Diễn giải
Số lượng HTX
Tỷ lệ (%)
1. Tổng số HTX trong huyện
32
100,00
2. Số HTX chưa chuyển đổi
1
2,94
3. Số HTX đã chuyển đổi
31
97,06
- Giải tán HTX cũ thành lập HTXNN mới
3
9,09
- Đổi mới HTX cũ
29
90,09
4. Hình thức HTX sau khi chuyển đổi
32
100,00
- Số HTX dịch vụ chuyên khâu
0
0
- Số HTX dịch vụ tổng hợp
32
97,06
(Nguồn: Phòng thống kê huyện Vụ Bản)
HTX đó là mô hình HTXDVNN và mô hình HTXVT. Số lượng từng loại mô hình là: mô hình HTXDVNN có 31 HTX. Nếu phân theo từng giai đoạn trước năm 1997 toàn huyện có 3 mô hình HTX đó là mô hình HTXDVNN, mô hình HTXTTCN, mô hình HTXTD. Do cơ chế thị trường, nhu cầu đáp ứng của hộ nông dân cũng như trong quá trình sản xuất kinh doanh không đem lại hiệu quả cho nên HTXTTCN và HTXTD đã phải giải thể. Sau khi giải thể được sự nhất trí của huyện ủy, UBND huyện HTXTTCN và HTXTD đã chuyển sang hoạt động dịch vụ nông nghiệp.
Tình hình thực hiện đổi mới HTX như thế nào đều được thể hiện qua (Biểu ): Qua biểu ta thấy toàn huyện có 32 HTX trong đó có một HTX chưa chuyển đổi chiếm 2,94%. 31 HTX được chuyển đổi theo luật chiếm 9706%. Đa số các HTX được chuyển đổi đều có giấy phép kinh doanh, thời gian chuyển đổi đều được thực hiện đầu năm 1997, nội dung hoạt động chủ yếu là hoạt động dịch vụ tổng hợp không có HTX nào có dịch vụ chuyên khâu. Điều đó cũng phù hợp vớ cưo sở vật chất kỹ thuật hiện có được bàn giao cho HTX mới phù hợp với nhu cầu hợp tác của các hộ nông dân trong huyện.
Từ khi thực hiện đường lối, chủ trương đổi mới cơ chế quản lý kinh tế trong nông nghiệp, hộ nông dân được xác định là đơn vị sản xuất tự chủ, được giao đất ổn định lâu dài, tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất của mình, lời ăn, lỗ chịu… đó là yếu tố quan trọng và nó tạo ra động lức mới thúc đẩy mạnh mẽ quá trình phát triển kinh tế nông thôn, đổi mới cơ cấu nông nghiệp, tăng năng suất ruộng đất, lao động và thu nhập cho hộ nông dân.
Kết quả điều tra ở huyện Vụ Bản được thể hiện qua biểu với mô hình HTXDVNN bình quân một HTX có 1.589 hộ với 4.200 xã viên, diện tích bình quân một HTX là 314,2 ha. Tài sản bình quân một HTX có 1.344 triệu đồng trong đó TSCĐ và XDCB là 800 triệu đồng chiếm 59,5%; tài sản lưu động có 544 triệu đồng chiếm 40,5%. Trong số tài sản lưu động thì tài sản bị chiếm dụng là484 triệu đồng chiếm 89% và tài sản lưu động đang hoạt động là 60 triệu đồng chiếm 11,1%. Nguồn vốn chủ sở hữu bình quân một HTX có 1150 triệu đồng, nguồn vốn phải trả bình quân một HTX có 194 triệu đồng. Nói chung, việc đổi mới HTX ở huyện Vụ Bản đã chuyển đổi 31 trên tổng số 32 HTX trong toàn huyện được nông dân đồng tình hướng ứng.
Biểu 8: Thông tin về HTX dịch vụ nông nghiệp năm 2001
Diễn giải
ĐVT
Quy mô HTX
BQ các HTX ở huyện
HTX lớn nhất
HTX nhỏ nhất
1. Số hộ trong HTX
hộ
3014
1125
1.589
2. Số xã viên trong HTX
người
6038
266,1
4.200
3. Diện tích đất canh tác của HTX
ha
524,51
237,57
314,2
4. Tài sản của HTX
trđ
1212,5
615,4
1344
- TSCĐ và XDCB
trđ
896,5
271
800
- TSLĐ
-
316
344,4
544
+ Tài sản bị chiếm dụgn
-
190,5
57
488
+ Tài sản lưu động đang hoạt động
-
125,5
287,4
60
5. Nguồn vốn chủ sở hữu
-
697,2
306,9
1150
6. Nguồn vốn phải trả
-
57,5
59
194
IV. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CÁC MÔ HÌNH HTX KIỂU MỚI THEO LUẬT HTX Ở HUYỆN VỤ BẢN.
1. Mô hình HTX dịch vụ nông nghiệp
a. Dịch vụ điện
Qua điều tra thực tế ở các HTX trong huyện cho thấy việc quản lý dịch vụ này ở các HTX đều theo hai cấp; cấp một được tính từ công tơ tổng của xã đến công tơ tổng của thôn do HTX quản lý, cấp hai từ công tơ tổng của thôn đến hộ gia đình sản xuất, sinh hoạt HTX giao cho một hoặc hai người cán bộ thôn quản lý. Các HTX đều thành lập tổ dịch vụ do một đồng chí phó chủ nhiệm phụ trách kinh doanh, tổ trưởng, kế toán và thủ quỹ HTX làm nhiệm vụ kiểm kê thanh toán điện. Thông thường tổ dịch vụ điện có từ 10 đến 20 người có nhiệm vụ bán điện tới các thôn trong HTX. HTX là người tiếp nhận toàn bộ hệ thống đường dây, máy biến áp và các thiết bị về điện. HTX có trách nhiệm quản lý và sửa chữa về đường dây cao thế, hạ thế và máy biến áp. Việc thu tiền điện đều được ấn định trước. HTX phải ổn định giá điện sản xuất, sinh hoạt, trên cơ sở đó tiến hành trích khấu hao để làm tăng và bảo toàn giá thành tài sản. Giá điện mà các HTX bán cho các hộ đều căn cứ vào khung giá điện do Nhà nước quy định và tình hình thực tế ở địa phương cho nên việc cam kết về dịch vụ này giữa xã viên và HTX đều được thông qua đề án khoán được trình trước đại hội xã viên nhiệm kỳ làm cơ sở cho việc xây dựng hợp đồng khoán giữa HTX và xã viên đảm bảo tính hệ thống trong quan hệ giữa tác nhân dịch vụ, dựa trên cơ sở ràng buộc về mặt kinh tế, thống nhất về giá cả và mức độ cung cấp điện. Về tư liệu để hoạt động trong dịch vụ này gần như các HTX trong huyện được các hộ nông dân đóng góp vào quá trình tu sửa đường dây, trạm biến áp và mua sắm trang thiết bị phục vụ cho ngành điện. Những tài sản, đường điện thuộc địa phận của tư nhân thì tư nhân có trách nhiệm quản lý, tu bổ sửa chữa nhỏ và hàng tháng cán bộ thôn thu tiền điện của các hộ trả cho HTX sau đó HTX trả cho Nhà nước. Sau khi đã trả cho Nhà nước phần lãi thu được đều đưa về lãi chờ phân phối bao gồm bổ sung cho nguồn vốn bằng 50% lãi, trích lập quỹ công ích 30% còn lại 20% thưởng cho cán bộ xã viên và cán bộ HTX. Cho nên muốn tăng được thu nhập thì việc đòi hỏi mỗi cán bộ xã, thôn phải có trách nhiệm, có chuyên môn kỹ thuật am hiểu về ngành điện. Ngoài những cơ sở trên đây, để nghiên cứu quá trình hoạt động trong dịch vụ này qua các năm chúng tôi tiến hành thí điểm ở hai HTX qua biểu 9
Trong 3 năm hoạt động các HTX đã trích lập khấu hao từ 1,8 đến 2 triệu đồng/ 1 năm. Năm 1999, tổng doanh thu của HTXNN là 351,2 triệu đồng, năm 2000 là 426 triệu đồng và năm 2001 là 447,2 triệu đồng. Sau khi trừ hết các khoản chi phí phần lãi thu được của HTX từ dịch vụ này có xu hướng tăng lên qua các năm cụ thể là: năm 1999 lãi thu được là 20,7 triệu đồng, năm 2000 lãi thu được là 28,6 triệu đồng tăng 8,2% so với năm 1999 và năm 2001 tăng 4,9% so với năm 2000. Với HTXNN Trùng Khánh, doanh thu năm 1999 là 243 triệu đồng, năm 2000 là 273,6 triệu đồng và năm 2001 là 302,9 triệu đồng. Về lãi thu được từ dịch vụ này có xu hướng tăng qua các năm. Năm 1999 lãi thu được là 15 triệu đồng, năm 2000 là 18,2 triệu đồng tăng 21,4% so với năm 1999 và năm 2001 tăng 25,3% so với năm 2000.
Như vậy qua 3 năm hoạt động dịch vụ điện về doanh thu cũng như lãi đạt được HTXNN Duy Tân cao hơn HTXNN Trùng Khánh, tuy nhiên mức độ đáp ứng yêu cầu của hai HTX này ngang nhau nhưng số hộ sử dụng điện, mức trang bị cơ sở vật chất về hệ thống điện và quá trình quản lý điện ở HTXNN Duy Tân có phần khá hơn. Nhìn chung hoạt động dịch vụ điện ở các HTX so với trước chuyển đổi đã được phát triển một cách rõ rệt đặc biệt là công tác quản lý, giá điện cũng như mức độ đáp ứng của hộ nông dân trong HTX… Tuy nhiên các HTX còn phải khắc phục nhiều hơn nữa về công tác hoạt động dịch vụ, tránh tình trạng thất thoát điện, sử dụng điện có nơi thừa, nơi thiếu…
b. Dịch vụ thủy lợi
Khâu dịch vụ thủy lợi là khâu then chốt trong các khâu dịch vụ mà HTX đảm nhận. HTX có định mức và thù lao cụ thể để các thành viên đảm nhiệm phấn đấu nêu cao tinh thần trách nhiệm phục vụ các hộ nông dân đạt hiệu quả cây trồng cao. Đồng thời HTX ra nội quy bảo vệ đồng ruộng, kênh mương, đường dẫn nước để mọi người dân trong xã cùng thực hiện.
Qua quá trình điều tra nghiên cứu trên địa bàn huyện cho thấy: hiện nay hầu hết các HTX đã tổ chức dịch vụ tưới tiêu nước, tổ chức nạo vét, tu bổ hệ thống kênh mương nội đồng ở mức độ khác nhau. Các HTX đã xây dựng đơn giá dịch vụ, thực hiện khoán đến từng đội sản xuất có một tổ nông viên dẫn nước và quản đồng, một bộ phận kỹ thuật làm nhiệm vụ vận hành máy. Thông thường mỗi tổ dịch vụ có từ 10 đến 20 người trong một HTX làm dịch vụ này. Đồng chí phó chủ nhiệm trồng trọt làm tổ trưởg dịch vụ tưới tiêu ở các HTX đã cố gắng đáp ứng yêu cầu thâm canh của hộ xã viên, việc ký hợp đồng, theo dõi, nghiệm thu, thanh lý hợp đồng ngày càng rõ ràng cụ thể và chi tiết hơn. Nhờ đó công tác dịch vụ ngày càng tốt, mức thu trên đầu xào giảm. Trong 3 năm vừa qua, các HTX kết hợp với công ty thủy nông của huyện đã đáp ứng được đa số nước tưới kịp thời cho diện tích gieo trồng, phần diện tích còn lại là sử dụng nước tự chảy. Phần lớn các HTX đều trồng lúa với hai vụ, vụ đông xuân và vụ hè thu còn lại một số HTX trồng màu nhưng vẫn đủ cung cấp nước tưới thường xuyên. Việc xây dựng đơn giá từ đầu nhiệm kỳ đã trình đại hội xã viên rồi thu theo đơn giá được đại hội xã viên biểu quyết. Về hạch toán đơn giá của các HTx đều đảm bảo thu bù chi phí sản xuất, các HTX có bơm tát đã trích khấu hao. Vụ mùa năm 2001 có 100% HTX bình toán có lãi. Về trả công cho cán bộ thủy nông các HTX thực hiện giao khoán việc và HTX tổ chức nghiệm thu. Đơn giá do hội nghị xã viên biểu quyết đều thông qua hợp đồng kinh tế giữa ban quản trị, tổ thủy nông và hộ xã viên. Công của cán bộ trong tổ dịch vụ này bằng 80% công của đội trưởng sản xuất. Về xử lý lãi đều đưa về lãi chờ phân phối. Về kinh doanh và phát triển dịch vụ này ở huyện như thế nào chúng tôi chọn thí điểm ở hai HTX và được phản ánh qua biểu 10
Đây là khâu dịch vụ chủ yếu của HTX, qua 3 năm hoạt động dịch vụ về lãi cũng như doanh thu ở 2 HTX có chiều hướng có tăng lên. Năm 1999 doanh thu của HTXNN Duy Tân là 148,2 triệu đồng, năm 2000 là 158,1 triệu đồng và năm 2001 là 179,3 triệu đồng. Sau khi trừ đi các khoản chi phí số lãi thu được như sau: năm 1999 lãi thu được là 6,5 triệu đồng, năm 2000 là 8,5 triệu đồng tăng 30,8% so với năm 1999 và năm 2001 tăng 36,5% so với năm 2000.
Với HTXNN Trùng Khánh doanh thu năm 1999 là 227 triệu đồng, năm 2000 là 234,5 triệu đồng và năm 2001 là 264,2 triệu đồng. Số lãi thu được qua các năm có xu hướng tăng. Năm 1999 là 8,5 triệu đồng năm 2000 là10,5 triệu đồng tăng 23,5% so với năm 1999 và năm 2001 tăng 42,9% so với năm 2000. Như vậy qua đây ta thấy doanh thu của HTXNN Trùng Khánh coa hơn HTXNN Duy Tân dẫn đến mức lãi đạt được qua các năm cũng cao hơn. Nguyên nhân dẫn đến sự chênh lệch này là do trong quá trình điều hành công việc các HTX đã giảm được chi phí gián tiếp, nghiệm thu chặt chẽ, mức độ đáp ứng cao hơn, công tác quy hoạch bờ vùng, bờ thửa chặt chẽ hơn nên việc thất thoát nước giảm… So với tình hình trước thời kỳ khoán 10 thì hiện nay hầu như các HTX trong huyện làm tốt dịch vụ tưới tiêu hệ thống kênh mương được tu bổ sửa chữa, khai thông đáp ứng được yêu cầu dẫn nước vào ruộng. Khi tiêu nước các HTX đã chủ động khi có bão lụt xảy ra khẩn trưởng khắc phục hậu quả. Tuy nhiên bên cạnh đó còn có nhiều mặt phải khắc phục như tình trạng buông lỏng quản lý, tình trạng HTX yếu chưa tổ chức được dịch vụ đầu bờ để tư nhân làm dẫn đến HTX không có nguồn thu, tình trạng nợ đọng thủy lợi phí cao do vậy ảnh hưởng tới việc đầu tư trở lại cho HTX của xí nghiệp thủy nông.
c. Dịch vụ làm đất
Để hỗ trợ cho nông dân gieo cấy kịp thời vụ, dịch vụ làm đất cũng là một trong những dịch vụ rất quan trọng. Tuy nhiên trên thực tế hiện nay lao động nông nghiệp ở các HTX còn dư thừa nhiều khi người ta chưa tìm được việc nào khác để chi phí cơ hội của nó lớn hơn việc làm đất này thì họ vẫn tự túc làm lấy. Qua điều tra thực tế ở các HTX trong huyện cho thấy những HTX còn làm máy tập thể, vẫn tổ chức dịch vụ tốt không những phục vụ kịp thời sản xuất mà còn hạ mức thu đầu xào so với máy tư nhân từ 500 đến 1000 đồng / 1 xào. Trích được khấu hao máy từ 1,5 đến 3 triệu đồng/1 máy/1 vụ. Những HTX không có máy kéo thì tổ chức ký kết hợp đồng với xí nghiệp máy kéo hoặc tư nhân đảm bảo bình toán có lãi chút ít, phục vụ kịp thời cho xã viên. Không có HTX nào lỗ ở dịch vụ này. Việc cam kết giữa HTX và xã viên trên cơ sở hợp đồng kinh tế đều được thông qua đề án khoán trước đại hội xã viên nhiệm ký và được tổ chức hạch toán như các dịch vụ khác hoặc khoán gòn cho từng máy với doanh thu được ấn định trước do ban chỉ đạo điều hành công việc và được sự thỏa thuận của bà con xã viên trong HTX. Việc thanh toán, ký kết hợp đồng đều do ban chủ nhiệm đứng ra làm chủ trì. Sau khi xây dựng đơn giá đều được xã viên đồng tình hưởng ứng đa số xã viên tham gia ký kết trong dịch vụ này về xử lý lãi đều đưa về lãi chờ phân phối. Nhìn chung hầu hết các HTX trong huyện sau khi thực hiện chuyển đổi theo luật HTX sau 1 năm các HTX mới bắt đầu đi vào tổ chức hoạt động dịch vụ chính thức kết quả đạt được thể hiện qua biểu 11.
Qua khảo sát ở 3 HTX cho thấy tuy các HTX hoạt động khâu dịch vụ này được 2 năm nhưng cũng đáp ứng yêu cầu cho bà con xã viên rất cao, mức độ đáp ứng cao nhất là 99,2% thấp nhất là 76,7%. Số phần trăm chưa đáp ứng được thì tư nhân hoặc hộ gia đình tự làm lấy. Với mức độ đáp ứng như vậy kết quả đạt được như sau: Về doanh thu ở HTXNN Duy Tân namư 2000 là 110 triệu đồng, năm 2001 là 116,8 triệu đồng. HTXNN Trùng Khánh doanh thu năm 2000 là 182 triệu đồng, năm 2001 là 191,2 triệu đồng và HTXNN Nam Thái năm 2000 doanh thu đạt 128,4 triệu đồng năm 2001 là 138,8 triệu đồng. Sau khi đã trừ đi các khoản chi phí tỷ lệ lãi đạt được ở 3 HTX lần lượt là 51,8%; 26,5%; 42,9%.
Như vậy qua đây ta thấy HTX nào có diện tích gieo trồng lớn thì khả năng cho tỷ lệ lãi cao với diện tích gieo trồng qua các năm ở 3 HTX không thay đổi nhưng mức độ đáp ứng nhu cầu của xã viên mỗi năm một tăng đây là yếu tố thuận lợi cho HTX cũng như bà con xã viên khi tham gia vào dịch vụ này của HTX. So với thời kỳ cơ chế tập trung bao cấp thì trong thời kỳ này hoạt động dịch vụ của các HTX có khá hơn cả về chức năng quan lý điều hành công việc, mức đảm nhận công việc đến hạch toán kinh doanh đều rõ ràng cụ thể. Tuy nhiên bên cạnh đó các HTX còn gặp không ít khó khăn nhất là sau khi thực hiện chuyển đổi HTX theo luật hầu như tất cả các HTX trong huyện sau một năm mới đưa dịch vụ này vào hoạt động chính thức. Nguyên nhân chủ yếu do đây là dịch vụ thỏa thuận cho nên nhiều hộ gia đình có trâu hoặc phương tiện làm đất bằng máy… họ không tham gia vào dịch vụ này dẫn đến vai trò hoạt động dịch vụ đi xuống. Sau một năm chuyển đổi các HTX đã đi vào hoạt động chính thức và cho đến nay bên cạnh những mặt đã đạt được còn không ít những khó khăn mà HTX phải khắc phục.
d. Dịch vụ vật tư
Dịch vụ này rất đa dạng trên thị trường với sự tham gia của nhiều tác nhân số tác nhân làm dịch vụ phân hóa học trên thị trường rất nhiều. Lượng phân bón được HTX làm dịch vụ mua từ công ty vật tư nông nghiệp huyện tỉnh sau đó bán cho hộ nông dân qua dịch vụ HTX. Rút ra bài học kinh nghiệm từ những năm trước, dịch vụ HTX đã vận dụng kinh doanh hóa linh hoạt, hỗ trợ lượng phân bón hóa học cho nông dân tới sau thời vụ thu hoạch hộ nông dân mới phải trả. Chính nhờ vậy dịch vụ HTX đã được hộ nông dân cam kết tham gia vào dịch vụ này rất cao từ đó dịch vụ HTX có lãi trong điều kiện cạnh tranh phức tạp với phương thức bán phục vụ cho hộ nông dân phát triển sản xuất từ đó với sự cạnh tranh thị trường bên ngoài và chênh lệch giá nhưng dịch vụ HTX vẫn chiếm lĩnh được trên thị trường là sự tin cậy của hộ nông dân. Về doanh thu trong dịch vụ này có những HTX tự bỏ vốn ra mua nguyên vật liệu sau đó khoán mức doanh thu trên vốn hoặc HTX nào không có vốn thì khoán khấu hao kho. Nhiệm vụ chủ yếu là cung cấp kịp thời phân hóa học cho hộ xã viên và đảm bảo chất lượng thông qua hợp đồng kinh tế giữa HTX và xã viên. Sau khi đã trừ đi các khoản chi phí, số lãi thu được đều đưa vào lãi chờ phân phối.
Do không được phân bổ, phân bón dự trữ. Việc kinh doanh của HTX gặp nhiều khó khăn theo thời vụ. Nhưng dịch vụ HTX đã đáp ứng được nhu cầu phân hóa học cho nông dân, số lượng còn lại được cung ứng bởi các nguồn khác. Thực hiện chế độ hạch toán độc lập, dịch vụ HTX với phương thức kinh doanh tổng hợp đã phát huy lợi thế trong việc sử dụng vốn kinh doanh và dịch vụ phù hợp với hộ nông dân điều đó được xem qua biểu 12.
Dịch vụ vật tư của 2 HTX đã cung ứng được số lượng cần thiết, thời gian đảm bảo. Về mức độ đáp ứng qua các năm của 2 HTX tuy có tăng nhưng chưa đảm bảo yêu cầu. Trong 3 năm 2 HTX này đã cung cấp được từ 23,3 đến 50,2 tấn và từ 73,7 đến 110,5 tấn. Mặt hàng chủ yếu ở đây là phân đạm. Với số lượng cung cấp như vậy về doanh thu cũng như lãi đạt được ở hai HTX qua các năm như sau: HTXNN Duy Tân năm 1999 doanh thu là 46,6 triệu đồng, năm 2000 là 67 triệu đồng và năm 2001 là 100,4 triệu đồng. Sau khi đã trừ đi chi phí năm 1999 HTX này không có lãi, năm 2000 lãi thu được là 2 triệu đồng và năm 2001 lãi thu được là 2,5 triệu đồng tăng 25% so với năm 2000. HTXNN Trùng Khánh doanh thu năm 1999 đạt 147,4 triệu đồng, năm 2000 đạt 196,4 triệu đồng và năm 2001 đạt 220,9 triệu đồng. Về lãi đạt được qua các năm đều có xu hướng tăng năm 1999 lãi đạt được là 9 triệu đồng, năm 2000 lãi đạt được là 12 triệu đồng tăng 33,4% so với năm 1999 và năm 2001 lãi đạt được là 17,8 triệu đồng tăng 48,4% so với năm 2000.
Như vậy qua 3 năm hoạt động dịch vụ này ở hai HTX về doanh thu cũng như lãi đạt được có sự chênh lệch nhau. Nguyên nhân dẫn đến sự chênh lệch này là trong 3 năm vừa qua HTXNN Trùng Khánh làm ăn kinh doanh có hiệu quả, thu hút được sức mua của người dân, công lao động cũng như trình độ nhạy bén trên thị trường của cán bộ làm dịch vụ này rất tốt. HTXNN Duy Tân trong 3 năm vừa qua chưa thu hút được sức mua của người dân, công lao động của cán bộ làm dịch vụ này thấp cho nên họ chưa nhiệt tình với công việc. Do vậy để cho dịch vụ này của HTX tồn tại và phát triển HTX phải có kế hoạch đặt ra trong kinh doanh để thu hút được sức mua của người dân cũng như việc chiếm lĩnh trên thị trường.
e. Dịch vụ giống
Khác với dịch vụ thủy lợi, dịch vụ về giống được đảm nhận từ nhiều nguồn khác như thị trường ngoài huyện, ngoài tỉnh. HTX làm dịch vụ về giống nhằm giúp hộ nông dân tiếp cận với giống mới, kỹ thuật mới. HTX làm dịch vụ giống nhằm phục vụ phát triển sản xuất cho hộ nông dân. Nhiệm vụ chủ yếu của các HTX là hướng dẫn chỉ đạo về mặt kỹ thuật, cung ứng giống đầu dòng cho các hộ nông dân trên địa bàn xã. Việc sản xuất và cung ứng giống của các HTX cho hộ nông dân chính là việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, áp dụng khoa học kỹ thuật mới vào phát triển sản xuất. Tình hình dịch vụ về giống của các HTX được thể hiện quả biểu 13.
Với tình tình sâu bệnh, dịch hại HTX đã có biện pháp phòng trừ. Việc trả công cho cán bộ trong tổ BVTV đều do chủ nhiệm HTX và được sự thỏa thuận của các hộ xã viên trả vào cuối vụ. Về công lao động trong dịch vụ của cán bộ khá cao vì đây là dịch vụ bắt buộc cho nên đa số hộ nông dân tham gia vào dịch vụ này. Các hộ sản xuất được sự hướng dẫn các biện pháp phòng trừ kết hợp bố trí cây trồng hợp lý đã hạn chế được đối tượng gây hại, khi có dịch bệnh sẽ được diệt trừ nhanh chóng không thể lây lan ra diện rộng. Vì thế đã giảm được chi phí cho hộ nông dân, giúp cho hộ nông dân đảm bảo được năng suất sản lượng, chất lượng nông sản, bảo vệ sức khoẻ con người và môi trường. Kết quả hoạt động kinh doanh dịch vụ này được thể hiện qua biểu 14
Qua biểu 14 cho thấy với tổng diện tích gieo trồng không thay đổi, diện tích được BVTV đạt từ 55,5% đến 81%. Để bảo toàn vốn kinh doanh các HTX đã phải đặt mức thu lên 0,5kg/1 sào (vụ chiêm), còn đối với vụ mùa do thời tiết trong các tháng này không phù hợp với cây trồng do vậy sâu bệnh nhiều hơn cho nên các HTX đã phải thu 0,6kg/1 sào. Với mức thu như vậy do với thị trường có cao hơn cho nên chưa thu hút điều sức mua của người dân. Kết quả đạt được như thế nào ta xem xét về mức độ doanh thu và lãi đạt được qua các năm ở 2 HTX. Đối với HTXNN Duy Tân : Doanh thu năm 1999 là 7,1 triệu đồng, năm 2000 là 8,8 triệu đồng và năm 2001 là 10,2 triệu đồng sau khi trừ đi các khoản chi phí năm đầu HTX này không có lãi, năm thứ hai số lãi đạt được là 0,8 triệu đồng, năm 2001 là 1 triệu đồng tăng 25% so với năm 2000; với HTXNN Trùng Khánh doanh thu năm 1999 là 10,3 triệu đồng, năm 2000 là 14,7 triệu đồng và năm 2001 là 15,2 triệu đồng, mức độ lãi đạt được như sau: năm 1999 là 1,5 triệu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- NNo06.docx