Tài liệu Đề tài Nghiên cứu phương pháp ghép màng ối điều trị loét Mooren – Hoàng Minh Châu: 74
NGHIÊN CỨU PHƯƠNG PHÁP GHÉP MÀNG ỐI
ĐIỀU TRỊ LOÉT MOOREN
HOÀNG MINH CHÂU
Bệnh Viện Mắt Trung Ương
NGUYỄN ĐÌNH NGÂN
Học Viện Quân Y
TÓM TẮT
Loét Mooren là một bệnh hiếm gặp, vấn đề nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh
của bệnh lý này cho tới nay vẫn chưa hoàn toàn sáng tỏ, nên đây vẫn là một bệnh lý gây
rất nhiều khó khăn trong điều trị đối với các nhà nhãn khoa.
Chúng tôi tiến hành phẫu thuật ghép màng ối trên 16 mắt của 13 bệnh nhân loét
Mooren: 11 nam, 2 nữ (không đáp ứng với các biện pháp điều trị khác) tại khoa Kết-
Giác Mạc (Bệnh viện Mắt TƯ) từ 1/2005 – 9/2006. Kết quả 87,5% (14/16 trường hợp)
đạt kết quả tốt sau 6 tháng, thời gian bắt đầu biểu mô hóa là từ 1 đến 7 ngày (trung
bình 3 ± 1,69 ngày), thời gian biểu mô hóa hoàn toàn là từ 5 đến 30 ngày (trung bình
13,8 ± 6,76 ngày).
Kết luận: ghép màng ối là phương pháp đơn giản, có hiệu quả trong điều trị loét
Mooren.
Loét Mooren là một bệnh hiếm
gặp, được đề cập đầu tiên bởi Bowman
(1849) và M...
9 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 11/07/2023 | Lượt xem: 313 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Nghiên cứu phương pháp ghép màng ối điều trị loét Mooren – Hoàng Minh Châu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
74
NGHIÊN CỨU PHƯƠNG PHÁP GHÉP MÀNG ỐI
ĐIỀU TRỊ LOÉT MOOREN
HOÀNG MINH CHÂU
Bệnh Viện Mắt Trung Ương
NGUYỄN ĐÌNH NGÂN
Học Viện Quân Y
TÓM TẮT
Loét Mooren là một bệnh hiếm gặp, vấn đề nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh
của bệnh lý này cho tới nay vẫn chưa hoàn toàn sáng tỏ, nên đây vẫn là một bệnh lý gây
rất nhiều khó khăn trong điều trị đối với các nhà nhãn khoa.
Chúng tôi tiến hành phẫu thuật ghép màng ối trên 16 mắt của 13 bệnh nhân loét
Mooren: 11 nam, 2 nữ (không đáp ứng với các biện pháp điều trị khác) tại khoa Kết-
Giác Mạc (Bệnh viện Mắt TƯ) từ 1/2005 – 9/2006. Kết quả 87,5% (14/16 trường hợp)
đạt kết quả tốt sau 6 tháng, thời gian bắt đầu biểu mô hóa là từ 1 đến 7 ngày (trung
bình 3 ± 1,69 ngày), thời gian biểu mô hóa hoàn toàn là từ 5 đến 30 ngày (trung bình
13,8 ± 6,76 ngày).
Kết luận: ghép màng ối là phương pháp đơn giản, có hiệu quả trong điều trị loét
Mooren.
Loét Mooren là một bệnh hiếm
gặp, được đề cập đầu tiên bởi Bowman
(1849) và Mc Kenzie (1854), nhưng đến
năm 1867 bệnh lý này mới được bác sỹ
Albert Mooren mô tả chi tiết đặc điểm
lâm sàng phân biệt với các bệnh lý khác
của giác mạc. Tuy nhiên vấn đề nguyên
nhân và cơ chế bệnh sinh của bệnh lý
này cho tới nay vẫn chưa hoàn toàn sáng
tỏ, nên đây vẫn là một bệnh lý gây rất
nhiều khó khăn trong điều trị đối với các
nhà nhãn khoa. Gần 150 năm qua đã có
nhiều phương pháp điều trị loét Mooren
được đưa ra, nhưng cho tới nay vẫn chưa
có phương pháp nào thực sự đạt hiệu quả
như mong muốn. Có hai lý do giải thích
điều này: thứ nhất, đây là bệnh lý rất
nặng nề, cơ chế bệnh sinh phức tạp, chưa
hoàn toàn rõ ràng; thứ hai, loét Mooren
là bệnh lý hiếm gặp vì vậy không thể tiến
hành các thử nghiệm lâm sàng mù ngẫu
nhiên để so sánh chính xác hiệu quả các
phương pháp điều trị này.
Hiện nay đa số các nhà nhãn khoa
đều thống nhất một số phương pháp
chính trong điều trị loét Mooren:
- Thuốc nhóm steroid: đường tại chỗ
và toàn thân.
- Cắt gọt kết giác mạc qua rìa (có thể
kết hợp với gọt giác mạc nông).
- Thuốc ức chế miễn dịch: đường tại
chỗ và toàn thân (hiện nay Cyclosporin
75
A là thuốc đang được nghiên cứu và ứng
dụng cho hiệu quả tốt).
- Các phẫu thuật phối hợp: ghép giác
mạc lớp nông có vành củng mạc, ghép
giác mạc xuyên...
Tuy vậy vẫn còn nhiều trường hợp
không đáp ứng với các biện pháp điều trị
trên dẫn đến mù loà.
Gần đây, việc ứng dụng màng ối
trong điều trị các tổn thương và phục hồi
bề mặt nhãn cầu đang bắt đầu được rất
nhiều nhà khoa học quan tâm và nghiên
cứu. Với những đặc tính ưu việt, màng ối
đã chứng tỏ là nguyên liệu quý báu, rất
có giá trị trong các bệnh lý khác nhau:
điều trị loét giác mạc khó hàn gắn, thoái
hoá giác mạc dải băng, phục hồi bề mặt
nhãn cầu trong điều trị dính mi cầu và xơ
co kết mạc nặng do bỏng, do hội chứng
Steven-Johson, do mộng thịt....Hiện nay
màng ối còn được sử dụng trong nuôi
cấy tế bào biểu mô vùng rìa giác mạc.
Việc sử dụng màng ối trong loét
Mooren cũng đã được một số tác giả
thực hiện. Hanada (2001), Solomon
(2002) đã sử dụng ghép màng ối một
hay nhiều lớp điều trị loét giác mạc dọa
thủng và thủng nhỏ cho kết quả tốt.
Trong số bệnh nhân của mỗi nghiên cứu
chỉ có một trường hợp loét Mooren, việc
ghép màng ối trên các bệnh nhân này
cũng cho hiệu quả tốt, tuy nhiên các tác
giả không có bàn luận về cơ chế của
ghép màng ối trong các trường hợp này.
Năm 2004, Ko-Hua Chen và cộng
sự công bố kết quả sử dụng màng ối phối
hợp phủ kết mạc điều trị một bệnh nhân
loét Mooren thủng, tuy nhiên ổ loét tái
phát xuất hiện sau 2 tháng. Các tác giả
nhận thấy sau khi ổ loét được gọt hết tổ
chức kết mạc đã phủ, ghép bổ sung màng
ối thì bệnh ổn định.
Xuất phát từ thực tế trên, chúng tôi
tiến hành nghiên cứu với mục đích đánh
giá hiệu quả của phương pháp ghép
màng ối điều trị loét Mooren.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng:
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu
trên các bệnh nhân loét Mooren được
điều trị tại khoa Kết-Giác Mạc (Bệnh
viện Mắt TW) từ 1/2005 – 9/2006, với
các tiêu chuẩn:
- Bệnh nhân mắc bệnh lần đầu tiên,
điều trị nội khoa không kết quả.
- Bệnh nhân xuất hiện bệnh tái phát
sau khi đã được điều trị bằng các phương
pháp khác.
Tiêu chuẩn loại trừ:
- Tình trạng nhiễm trùng ổ loét chưa
cho phép phẫu thuật.
- Loét thủng lớn, đường kính ổ loét
>3mm
- Bệnh nhân không chấp nhận phẫu
thuật hoặc có bệnh toàn thân nặng không
bảo đảm cho phẫu thuật.
2. Phương pháp nghiên cứu:
Thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu
tiến cứu, thử nghiệm lâm sàng không đối
chứng, đánh giá kết quả trên từng bệnh
nhân.
Chuẩn bị màng ối:
Màng ối được lấy từ bánh rau sản
phụ được mổ lấy thai tại Viện QY 103,
Viện bảo vệ Bà mẹ và trẻ sơ sinh. Cách
76
thức chuẩn bị và bảo quản theo phương
pháp đã được mô tả theo Tsubota (1995).
Quy trình phẫu thuật
- Tê cạnh nhãn cầu bằng Xylocain
2%, phối hợp tê bề mặt Dicain 1%.
- Cắt vành kết mạc nhãn cầu cạnh ổ
loét rộng khoảng 3 - 4mm (thường hết phần
kết mạc phù dày cao), ở 2 đầu cách đầu ổ
loét khoảng 1 giờ kinh tuyến. Phẫu tích kết
mạc bệnh lý khỏi củng mạc phía dưới đến
sát rìa, đốt cầm máu.
- Gọt ổ loét đi dọc theo chu vi giác
mạc lấy hết toàn bộ ổ loét, qua vùng rìa
và một phần thượng củng mạc cùng phần
kết mạc bệnh lý. Chiều sâu lấy hết đáy ổ
loét, và phần mạch máu xâm nhập vào
(loét toàn bộ chu vi giác mạc thì gọt toàn
bộ diện giác mạc, kể cả vùng giác mạc
chưa loét ở trung tâm).
- Lấy màng ối, đặt lên bề mặt ổ loét
đã gọt sạch theo chiều biểu mô quay lên
trên, diện màng ối phủ ra củng mạc
khoảng 3-4 mm, tùy độ sâu mà ghép 1
hoặc 2 lớp.
- Khâu cố định chỉ 10/0 nylon mũi
rời, đặt kính tiếp xúc.
- Tra Betadin 5%, tiêm cạnh nhãn
cầu gentamycin 1/2ml (20mg),
hydrocortison 1/2ml (12,5mg).
Bệnh nhân được khám hàng ngày
trong thời gian nằm viện, và hàng tháng
sau phẫu thuật.
Đánh giá kết quả phẫu thuật.
*Tốt:
- Ổ loét biểu mô hoá hoàn toàn,
màng ối phẳng, bóng.
- Tân mạch chỉ đến vùng rìa, hoặc
xâm nhập vào màng ối một khu vực nhỏ,
không cương tụ.
- Mắt hết kích thích.
*Trung bình:
- Ổ loét biểu mô hoá hoàn toàn
- Màng ối gồ ghề, đục
- Tân mạch gần toàn bộ màng ối,
cương tụ
- Mắt kích thích nhẹ
*Kém:
- Ổ loét không biểu mô hoá được,
hoặc loét tái phát
- Màng ối bong hoặc loét trên màng
ối
- Mắt kích thích
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Chúng tôi tiến hành phẫu thuật cho
16 mắt của 13 bệnh nhân (11 nam, 2
nữ), tuổi từ 28 đến 75 trung bình 53,42 ±
16,22
Tất cả các mắt trước mổ đều đã
được điều trị bằng kháng sinh phối hợp
với corticoid tra mắt nhưng không đỡ,
trong đó có 5 mắt đã sau ghép vành củng
giác mạc rìa (2 mắt đã gọt kết giác mạc
rìa trước đó).
Trong 16 mắt có: 10 mắt bị lần đầu
tiên; 6 mắt tái phát: 2 mắt tái phát lần 1,
3 mắt tái phát lần 2, 1 mắt tái phát lần 3
Bảng 1: Hình thức ghép và số lớp ghép.
77
Hình thức
Số lớp màng ối
< 180 độ 180 độ
Ghép phủ
toàn bộ
Tổng
Một lớp 2 4 1 7
Hai lớp 2 3 4 9
Tổng số PT 4 7 5 16
Thời gian bắt đầu biểu mô hóa: từ 1
đến 7 ngày (3,00 ± 1,69 ngày).
Thời gian biểu mô hóa hoàn toàn:
từ 5 đến 30 ngày (13,80 ± 6,76 ngày)
Bảng 2: Kết quả phẫu thuật ở các thời điểm
Thời gian
Kết quả
Xuất viện 1 tháng 3 tháng 6 tháng
Tốt 4 8 13 14
Trung bình 12 8 2 1
Kém 1 1
Thời gian theo dõi: từ 7 đến 20
tháng (12,67± 5,02 tháng)
Theo nghiên cứu của chúng tôi sau
phẫu thuật 6 tháng tình trạng mắt tương
đối ổn định, có 1 ca xuất hiện phản ứng
viêm và loét trên màng ối sau phẫu thuật
3 tháng, nhưng đáp ứng với điều trị ghép
lần 2. Tuy nhiên giác mạc biểu mô hóa
rất chậm (biểu mô hóa hoàn toàn sau 4
tháng, tính từ phẫu thuật lần
2).......................................................
Bảng 3: Thị lực sau mổ (đã chỉnh kính).
Thị lực < ĐNT 3m
ĐNT3m–
<3/10
3/10 – 7/10 8/10
Trước mổ 4 8 4 0
Sau mổ 1
tháng
4 6 5 1
Sau mổ 3
tháng
3 5 4 4
Sau mổ 6
tháng
2 5 4 5
78
BÀN LUẬN
Loét Mooren là bệnh lý gặp rất
nhiều khó khăn trong điều trị một phần là
do căn nguyên và cơ chế bệnh sinh đến
nay vẫn chưa rõ ràng. Với những nghiên
cứu hóa miễn dịch gần đây sinh lý bệnh
của loét đang dần được sáng tỏ. Hiện nay
đa số các tác giả đều xếp loét Mooren
vào nhóm bệnh do phản
ứng miễn type 2 gây ra, có vai trò của cả
đáp ứng miễn dịch qua trung gian tế bào
và qua dịch thể. Năm 1987 dựa trên các
nghiên cứu về miễn dịch, Martin và cộng
sự đã đưa ra giả thuyết về vòng xoắn
bệnh lý trong loét Mooren.
Cho đến nay người ta vẫn chưa xác
định rõ các rối loạn về miễn dịch trên
chính là cơ chế bệnh sinh hay chỉ là thứ
phát do hậu quả của tổn thương tổ chức
gây ra. Tuy nhiên các biện pháp tác động
đến miễn dịch tỏ ra có hiệu quả trong
điều trị loét Mooren .
Căn cứ từ giả thuyết của Martin ở
trên, việc điều trị loét Mooren dù theo cơ
chế nào cũng phải đảm bảo các mục tiêu
sau:
1. Ngăn chặn loét tiến triển,
thúc đẩy quá trình hàn gắn, liền biểu mô.
2. Phục hồi về giải phẫu tổ
chức giác mạc bị tổn thương.
3. Hạn chế, đến ngăn chặn
loét tái phát.
Ngoài các thuốc điều trị nội khoa
đã nêu, đã có rất nhiều phương pháp
ngoại khoa được các tác giả áp dụng, tuy
nhiên hiện nay chỉ có một số phương
pháp được áp dụng rộng rãi như cắt gọt
kết giác mạc qua rìa, gọt giác mạc nông,
ghép giác mạc lớp nông có vành củng
mạc, ghép giác mạc xuyên...
Cắt gọt kết giác mạc qua rìa là
phương pháp nhẹ nhàng, có thể thực hiện
79
tuy nhiên phương pháp này chỉ đáp ứng
được mục tiêu 1, tỷ lệ tái phát khá cao
(Stillma (1983) có 52% ca loét tái phát
sau phẫu thuật 3 tháng), hiện nay chủ yếu
được sử dụng như phẫu thuật bước đầu
phối hợp với các biện pháp khác trong
điều trị loét.
Gọt giác mạc nông (Superficial
lamellar keratectomy) mặc dù có thể làm
loét ngừng tiến triển và lành sẹo, tuy
nhiên phương pháp này không phục hồi
được cấu trúc giải phẫu của giác mạc. Do
đó dù ngăn chặn được loét nhưng thị lực
của bệnh nhân thường giảm nhiều do tật
khúc xạ.
Ghép giác mạc điều trị loét Mooren
đã được nhắc đến từ những năm 50 của
thế kỷ trước (Paton, 1954; H.J Rocha
1955), đặc biệt ghép giác mạc nông có
vành củng mạc đã được nhiều tác giả
nhắc đến và chứng minh là có hiệu quả
hơn trong điều trị loét Mooren. Hiện nay
đây là phương pháp thường được sử
dụng trong các trường hợp loét Mooren
nặng không đáp ứng với điều trị và
thường được phối hợp với thuốc ức chế
miễn dịch toàn thân hay tại chỗ. Tuy
nhiên ghép giác mạc nông có vành củng
mạc có hạn chế là phải có giác mạc, và
ghép giác mạc đồng loại ở vùng rìa dễ
gây phản ứng thải mảnh ghép phối hợp
với cơ chế miễn dịch trong loét Mooren
gây loét tái phát (đặc biệt khi không có
thuốc ức chế miễn dịch dùng kèm). Tô
Thị Oanh (1990) ghép giác mạc nông có
vành củng mạc cho 25 mắt loét Mooren,
có 4/25 trường hợp (16%) tái phát loét
trên miếng ghép. Một nghiên cứu trên
nhiều trung tâm tại Trung Quốc với kỹ
thuật tương tự trên 296 mắt, tỷ lệ khỏi là
89,6% (sau 1,2 hoặc 3 lần phẫu thuật, chỉ
có 69,3% ổn định sau 1 lần phẫu thuật) .
Màng ối với những đặc tính đặc
biệt là chất liệu được thực sự ứng dụng
và phát triển mạnh trong nhãn khoa từ
những năm 1990. Màng ối có khả năng
kích thích quá trình biểu mô hoá của kết
giác mạc, ức chế quá trình xơ hoá trên
giác mạc, đặc biệt màng ối còn có tác
dụng chống viêm, ức chế tăng sinh mạch
máu và ức chế miễn dịch.
Tác dụng chống viêm này do
màng ối tiết ra các cytokine có tác dụng
chống viêm như: lactoferin, yếu tố ức
chế thụ cảm thể interleukin 1
(interleukin-1 receptor antagonist),
interleukin-10, ngoài ra nhiều nghiên
cứu còn phát hiện trong màng ối còn có
TIMPS (tissue inhibitors of
metalloproteases) có tác dụng ức chế
hoạt động men proteinase và các men do
phức hợp ngoại bào tiết ra (MMP-matrix
metalloproteinase). Phức hợp ngoại bào
của màng ối có thể loại trừ các tế bào
viêm trên thỏ thực nghiệm và cô lập tế
bào lympho T trên người (Shimmura,
2001).
Màng ối còn có khả năng ức chế
tăng sinh tân mạch thông qua các yếu tố
như: endostatin, thrombospodin-1, đặc
biệt là PEDF (pigment epithelium-
derived factor) yếu tố ức chế tăng sinh tế
bào nội mạc mạch máu rất mạnh.
Tác dụng ức chế miễn dịch của
màng ối hiện nay đang dần được làm
sáng tỏ. Những nghiên cứu gần đây cho
thấy trong màng ối (cả tế bào biểu mô và
lớp đệm phía dưới) vẫn có những kháng
80
nguyên hoà hợp tổ chức lớp 1 cả 1a
(HLA-A, -B, -C, -DR) và cả 1b(HLA-G,
HLA-E), tuy vậy khi ghép màng ối vào
các tổ chức khác nhau đều không có sự
thải loại, điều này chứng tỏ trong màng
ối có các yếu tố liên quan đến quá trình
ức chế miễn dịch. Một trong các yếu tố
bắt đầu được quan tâm đến là Fas ligand
(yếu tố kích thích các quá trình tự chết
của các tế bào lympho hoạt tính) được
phát hiện trong tế bào của tổ chức đệm
của màng ối, chính yếu tố này giúp ngăn
chặn sự xâm nhập của tế bào lympho vào
màng ối. Ngoài ra, kháng nguyên hoà
hợp tổ chức lớp 1b có trong màng ối, như
HLA-G cũng đóng vai trò như chất ức
chế miễn dịch thông qua 2 cơ chế: HLA-
G kết hợp với thụ thể ức chế làm bất hoạt
các loại lympho hoạt tính, HLA-G hoạt
hoá lympho T CD8 làm tăng hoạt động
ức chế phản ứng quá mẫn của tế bào này.
Với những đặc tính trên màng ối đã
được sử dụng trong các bệnh lý khác
nhau của bề mặt nhãn cầu: trong điều trị
dính mi cầu xơ co kết mạc nặng do bỏng,
hội chứng Steven-Johnson, loét giác mạc
khó hàn gắn Tuy nhiên việc sử dụng
màng ối trong loét Mooren thì hầu như
chưa được nghiên cứu một cách hệ
thống, tuy nhiên Kubo (2001), Chen
(2004), Hao (2005) đều nhận xét rằng sử
dụng màng ối có thể có hiệu quả cao
trong các loét mang tính chất miễn dịch.
Theo chúng tôi việc ghép màng ối đã
thoả mãn cả 3 mục tiêu điều trị của loét:
điều trị loét, phục hồi cấu trúc giác mạc
tổn thương, ngăn ngừa loét tái phát trên
màng ối ghép.
Trong nghiên cứu có 5/16 mắt loét
tái phát sau ghép củng giác mạc tuy
nhiên ghép màng ối tỏ ra có hiệu quả rất
tốt. Chúng tôi không gặp trường hợp nào
có phản ứng thải loại mảnh ghép cấp
tính. Với đặc điểm kỹ thuật (gọt ổ loét
tới rìa giác mạc, ghép màng ối phủ lên cả
củng mạc qua rìa 3-4mm) nên đa số các
trường hợp sau ghép đều có đọng dịch
máu dưới màng ối từ mức độ rất ít đến
nhiều, tuy nhiên sau khi rạch tháo dịch
hầu hết màng ối đều áp tốt và được biểu
mô hoá. Chúng tôi chỉ gặp một trường
hợp hoại tử màng ối ở mắt được ghép 2
lớp phủ toàn bộ giác mạc, do diện gọt
giác mạc trung tâm chưa phẳng, cầm
máu chưa tốt gây đọng dịch máu dưói
màng ối. Phẫu thuật ghép lần 2 cho kết
quả thành công, màng ối bám chắc, giác
mạc biểu mô hoá hoàn toàn và ổn định.
Có 5 mắt được ghép màng ối phủ
toàn bộ giác mạc, thời gian bắt đầu biểu
mô hoá không có sự khác biệt với các
trường hợp khác, nhưng thời gian biểu
mô hoá hoàn toàn chậm hơn với các
trường hợp ghép một phần chu biên giác
mạc (p<0,01). Trong đó có 4 mắt, màng
ối trên giác mạc trong, xơ mạch chỉ xâm
lấn qua rìa giác mạc ở khe mi tạo thành
mộng giả nhưng mắt yên, mạch máu
không cương tụ. Chỉ có 1 mắt xuất hiện u
hạt và trợt biểu mô tái phát, sau khi phẫu
thuật lần 2 ổn định.
Sau ghép màng ối các triệu chứng
lâm sàng đặc biệt là đau nhức giảm hẳn,
mắt yên và hầu như hết kích thích khi
giác mạc biểu mô hoá hoàn toàn, tuy
nhiên mạch máu quanh màng ối ghép
vẫn còn cương tụ nhẹ. Đa số các trường
81
hợp mắt về trạng thái bình thường sau 3
đến 6 tháng. Trong thời gian theo dõi có
6/16 mắt xuất hiên mộng giả ở vùng khe
mi, tuy nhiên đều ở mức độ nhẹ, một mắt
mạch xâm nhập toàn bộ giác mạc nhưng
không cương tụ. Các trường hợp còn lại
xơ mạch chỉ xâm nhập đến vùng rìa,
không cương tụ..
Đa số bệnh nhân (13/16 mắt) màng
ối trong dần sau ghép giúp thị lực tăng
dần và ổn định trong 6 tháng đầu. Các
trường hợp theo dõi hơn 6 tháng, thị lực
hầu như không thay đổi. Ở một số trường
hợp sau ghép màng ối gây loạn thị bất
quy tắc, thị lực qua kính lỗ có thể 7/10,
tuy nhiên hầu như không chỉnh kính
được.
KẾT LUẬN
Mặc dù có một số hạn chế như: khó
thực hiện ở các trường hợp loét thủng
lớn, và gây ra loạn thị bất quy tắc ở mắt
sau mổ, nhưng ghép màng ối là phương
pháp đơn giản, hiệu quả trong điều trị
loét Mooren.
Tuy nhiên cần có thêm những
nghiên cứu với số lượng lớn trong thời
gian kéo dài để có những nhận xét chính
xác hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. NGUYỄN TRỌNG NHÂN, NGUYỄN DUY HOÀ (1970). “Một số kinh
nghiệm về điều trị loét rìa giác mạc (loét Mooren)”, Nội san nhãn khoa, 2,
pp 23.
2. TÔ THỊ OANH (1990). “Nghiên cứu hiệu quả và chỉ định của hai phương
pháp phẫu thuật điều trị loét Mooren”, luận án phó tiến sỹ y học, Trường
Đại Học Y Hà nội.
3. NGUYỄN DUY TÂN VÀ CỘNG SỰ (1978). “Phẫu thuật cắt gọt kết giác
mạc ngoại biên điều trị loét Mooren”, Nội san nhãn khoa, 1, pp 17.
4. AZUARA-BLANCO A., PILLAI CT., DUA HS. (1999). “Amniotic
membrane transplantation for ocular surface reconstruction”, Br J
Ophthalmol, 83, pp 399–402.
5. BROWN SI., MONDINO BJ. (1984). “Therapy of Mooren’s ulcer”, Am J
Ophthalmol, 98, pp 1-6.
6. CHEN K.H, et al (2004). “Relapsing Mooren’s Ulcer after amniotic
membrane transplantation combined with conjunctival autografting”,
Ophthalmology, 111, pp 792-795.
7. CHOW C., FOSTER CS. (1996). “Mooren’s ulcer”, Int Ophthalmol Clin,
36, pp 1–13.
8. FERNANDES M. et al (2005). “Amniotic membrane transplantation for
ocular surface reconstruction”, Cornea, 24, pp 643–653.
82
9. HAO L., JERRY Y., et al (2005). “Immunosuppressive factors secreted by
human amniotic epithelial cells”, Invest Ophthalmol Vis Sci, 46, pp 900–
907.
10. HANADA K., SHIMAZAKI J., SHIMMURA S., et al (2001). “Multi
layered amniotic membrane transplantation for severe ulceration of the
cornea and sclera”, Am J Ophthalmol, 131, pp 324–331.
11. JIAQUI CHEN et al (2000). “Mooren’s ulcer in China: a study of clinical
characteristics and treatment”, Br J Ophthalmol, 84, pp 1244-1249.
12. KUBO M., SONODA Y., MURAMATSU R., AND USUI M. (2001).
“Immunogenicity of human amniotic membrane in experimental
xenotransplantation”, Invest Ophthalmol Vis Sci., 42, pp 1539–1546.
13. SOLOMON A., MELLER D., PRABHASAWAT P., et al (2002).
“Amniotic membrane grafts for nontraumatic corneal perforations,
descemetocoeles and deep ulcers”, Ophthalmology, 109, pp 694–703.
14. WATSON PG. (1997). “Management of Mooren’s ulceration”, Eye, 11,
pp 349-356.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- de_tai_nghien_cuu_phuong_phap_ghep_mang_oi_dieu_tri_loet_moo.pdf