Tài liệu Đề tài Nghiên cứu phẫu thuật tán nhuyễn thể thuỷ tinh và đặt thuỷ thể tinh nhân tạo trên mắt viêm màng bồ đào – Lê Thị Đông Phương: 8
NGHIÊN CỨU PHẪU THUẬT TÁN NHUYỄN THỂ THUỶ
TINH
VÀ ĐẶT THUỶ THỂ TINH NHÂN TẠO TRÊN MẮT VIÊM
MÀNG BỒ ĐÀO
LÊ THỊ ĐÔNG PHƯƠNG, ĐẶNG BÍCH THUỶ
Bệnh viện TW Quân đội 108
TÓM TẮT
Mục đích: nghiên cứu ứng dụng phương pháp phẫu thuật tán nhuyễn thể thuỷ tinh
(TTT) và đặt thể thuỷ tinh nhân tạo (TTTNT) trên mắt viêm màng bồ đào (VMBĐ).
Đối tượng và phương pháp: 42 mắt bị đục TTT trên mắt VMBĐ được điều trị tại
khoa Mắt bệnh viện Trung ương Quân đội 108 từ 1/2002 đến 6/2005.
Kết quả: Tuổi trung bình 60,52. Tỉ lệ nam 23 và nữ là 17. VMBĐ trước 59,52%;
VMBĐ sau 16,67%; VMBĐ trung gian 11,9%; VMBĐ toàn bộ 11,9%. Hầu hết bệnh
nhân ra viện thị lực đều được cải thiện đáng kể . Kết quả thị lực sau 6 tháng đạt trên
hoặc bằng 0,5 là 50%. Tỉ lệ thị lực dưới 0,1 sau 1 tháng là 16,67%. Nguyên nhân thị
lực ≤ 0,1: thoái hoá võng mạc 9,56%; Phù hoàng điểm 2,4%; Bong võng mạc 2,4%;
lõm teo gai thị 4,76%; Xơ hoá dịch kính 4,76%.
Kết luận: Sự phục hồi thị lực ở bệnh nhân đục TT...
9 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 11/07/2023 | Lượt xem: 253 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Nghiên cứu phẫu thuật tán nhuyễn thể thuỷ tinh và đặt thuỷ thể tinh nhân tạo trên mắt viêm màng bồ đào – Lê Thị Đông Phương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
8
NGHIÊN CỨU PHẪU THUẬT TÁN NHUYỄN THỂ THUỶ
TINH
VÀ ĐẶT THUỶ THỂ TINH NHÂN TẠO TRÊN MẮT VIÊM
MÀNG BỒ ĐÀO
LÊ THỊ ĐÔNG PHƯƠNG, ĐẶNG BÍCH THUỶ
Bệnh viện TW Quân đội 108
TÓM TẮT
Mục đích: nghiên cứu ứng dụng phương pháp phẫu thuật tán nhuyễn thể thuỷ tinh
(TTT) và đặt thể thuỷ tinh nhân tạo (TTTNT) trên mắt viêm màng bồ đào (VMBĐ).
Đối tượng và phương pháp: 42 mắt bị đục TTT trên mắt VMBĐ được điều trị tại
khoa Mắt bệnh viện Trung ương Quân đội 108 từ 1/2002 đến 6/2005.
Kết quả: Tuổi trung bình 60,52. Tỉ lệ nam 23 và nữ là 17. VMBĐ trước 59,52%;
VMBĐ sau 16,67%; VMBĐ trung gian 11,9%; VMBĐ toàn bộ 11,9%. Hầu hết bệnh
nhân ra viện thị lực đều được cải thiện đáng kể . Kết quả thị lực sau 6 tháng đạt trên
hoặc bằng 0,5 là 50%. Tỉ lệ thị lực dưới 0,1 sau 1 tháng là 16,67%. Nguyên nhân thị
lực ≤ 0,1: thoái hoá võng mạc 9,56%; Phù hoàng điểm 2,4%; Bong võng mạc 2,4%;
lõm teo gai thị 4,76%; Xơ hoá dịch kính 4,76%.
Kết luận: Sự phục hồi thị lực ở bệnh nhân đục TTT do VMBĐ phụ thuộc vào hai
yếu tố: sự thành công của chính phẫu thuật bao gồm cả điều trị sau phẫu thuật, và mức
độ tổn hại cấu trúc do VMBĐ gây nên.
Tổn hại thể thuỷ tinh (TTT) trong
viêm màng bồ đào (VMBĐ) vừa là hậu
quả của quá trình VMBĐ, vừa là của
corrticosteroit dùng để điều trị viêm, do
đó làm suy giảm nặng nề chức năng thị
giác. Hơn nữa, đục TTT không chỉ đơn
thuần mà thường kết hợp với các biến
chứng khác của VMBĐ như dính sau,
xơ hoá đồng tử, thoái hóa giác mạc, tổ
chức hoá dịch kính, tăng sinh võng mạc
v..v... gây nên những rối loạn sâu sắc
cho nhãn cầu. Vì vậy phẫu thuật TTT
thêm khó khăn, chi phí tốn kém mà
nhiều khi bệnh nhân vẫn phải chịu hậu
quả mù lòa. Việc lựa chọn phương
pháp phẫu thuật TTT trên bệnh nhân
VMBĐ là thách thức cho phẫu thuật
viên nhãn khoa không chỉ xung quanh
quan điểm phẫu thuật TTT mà còn cả
những kỹ thuật tinh tế chuyên sâu để
cứu chữa biến chứng cho bệnh nhân
VMBĐ.
Từ năm 2002 khoa Mắt Bệnh viện
TƯQĐ đã ứng dụng các phương pháp
phẫu thuật tán nhuyễn TTT trên mắt
VMBĐ và đặt TTT nhân tạo (NT) đã
đem lại những kết quả khả quan. Vì vậy
chúng tôi tiến hành đề tài: ‘Nghiên cứu
phẫu thuật tán nhuyễn TTT và đặt
TTTNT trên mắt viêm màng bồ đào’ với
hai mục đích:
9
1. Nghiên cứu ứng dụng phương pháp
phẫu thuật tán nhuyễn TTT và đặt
TTTNT trên mắt VMBĐ.
2. Đánh giá kết quả chức năng, biến
chứng trong và sau phẫu thuật.
Từ đó đề xuất chỉ định và chống
chỉ định cho phương pháp phẫu thuật
TTT trên mắt VMBĐ.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng: Nghiên cứu được tiến
hành trên 42 mắt bị đục TTT trên mắt
VMBĐ được điều trị tại khoa Mắt bệnh
viện Trung ương Quân đội 108 từ 1/2002
đến 6/2005.
1.1. Tiêu chuẩn chọn: Đục TTT với
các hình thái trên mắt VMBĐ đã ổn định
ít nhất 3 tháng; Đục TTT có tiền sử
VMBĐ khi khám có di chứng rõ rệt:
Dính mống mắt vào mặt trước TTT hoặc
có sắc tố ở mặt sau giác mạc, đục dịch
kính, bong dịch kính sau; Chức năng
thị giác dưới hoặc bằng 0,1.
1.2. Tiêu chuẩn loại trừ: Viêm MBĐ
chưa ổn định còn mủ tiền phòng hoặc mủ
dịch kính; mất chức năng thị giác hoàn
toàn. Tình trạng toàn thân không cho
phép phẫu thuật.
2. Phương pháp nghiên cứu:
2.1. Kỹ thuật tán nhuyễn TTT bằng
siêu âm (Phacoemulsification)
Mở vào tiền phòng bằng dao
3,2mm vị trí phía thái dương đi từ vùng
rìa song song với mống mắt đi trong giác
mạc 1,5mm, sau đó đầu mũi dao chúi
xuống hướng về tâm của bao trước và đi
vào tiền phòng. Chú ý không đâm mạnh
gây tổn hại bao trước.
Bơm chất nhày vào tiền phòng
bằng kim đầu tù để duy trì độ sâu và tách
dính, dùng panh (Forcep) xé vạt bao
trước theo hình vòng liên tục.
Tách nhân bằng nước
(hydrodissection) để tách các lớp vỏ sau
khỏi bao và tách dính mống mắt. Tách
các lớp của nhân bằng nước
(hydrodelineation). Biện pháp này làm
cho nhân mềm ra, làm cho qua trình tán
nhân được dễ hơn
Tán nhuyễn nhân bằng siêu âm và
hút ra ngoài. Kỹ thuật hai tay kinh điển:
xé bao trước hình quả lê; tán nhân bằng
kỹ thuật “Divide and Conquer”. Rửa hút
chất TTT, hút vỏ chất TTT. Bơm chất
nhầy vào hậu phòng trong túi bao để trải
rộng bao sau và đặt TTT NT được trong
túi bao dễ dàng hơn.
2.2. Điều trị và theo dõi:
2.2.1. Điều trị trước phẫu
thuật: Tất cả bệnh nhân VMBĐ phải
được điều trị ổn định ít nhất 3 tháng,
ngoại trừ đục TTT gây VMBĐ. Trước
khi phẫu thuật 2 ngày mỗi bệnh nhân
được uống Prednisolon 1mg/kg/ngày vào
mỗi sáng hoặc Diclofenac 0,5mg uống 2
viên/ngày. Đối với những trường hợp đã
điều trị VMBĐ tái phát trên 2 lần thì
tiêm thêm tĩnh mạch Depersolon 30mg x
1 ống/ngày trong giai đoạn trước phẫu
thuật. Tra thuốc cortison phối hợp kháng
sinh như Tobradex 3 lần/ngày.
2.2.2. Điều trị sau phẫu thuật:
Thuốc tra mắt: Indocollyre 1% tra
4lần/ngày và Mỡ Tobradex tra 2
lần/ngày. Tra thuốc dãn như
Neosynephrine 10% hoặc Atropin 1%
hoặc Atropin 4% để chống dính tuỳ theo
10
diễn biến. Tiêm cạnh nhãn cầu hoặc dưới
cùng đồ kết mạc mi dưới Gentamycin
40mg phối hợp với Depo-Medrol 20mg
cách nhật. Thuốc dùng toàn thân: Uống
kháng sinh và tiếp tục liều corticoid hoặc
nonsteroid trước khi phẫu thuật.
Sau 5-7 ngày bệnh nhân ra viện
được hẹn khám lại định kì: sau 2 tuần;
sau 1 tháng; sau 3 tháng; sau 6 tháng, 1
năm, 2 năm
KẾT QUẢ
1. Đặc điểm tình hình bệnh nhân:
Tuổi trung bình 60,52, thấp nhất là
19 tuổi và cao nhất 80 tuổi. Tỉ lệ nam 23
và nữ là 17. Hình thái đục TTT hoàn
toàn chiếm tỉ lệ cao nhất 38,1%; sau đó
đục TTT dưới vỏ chiếm 35,7%; đục TTT
lan toả chiếm 23,8%, đục khu trú chỉ có
2,4%. VMBĐ trước 59,52%; VMBĐ sau
16,67%; VMBĐ trung gian 11,9%;
VMBĐ toàn bộ 11,9%.
Biến chứng kết hợp với đục TTT:
dính sau và dính đồng tử từ 450 - 2700
chiếm tỉ lệ 60,05% (29/42) trong đó dính
bít đồng tử 5 mắt chiếm 11,9% (5/42); 4
mắt tăng nhãn áp phối hợp đục TTT.
Tình trạng dịch kính (đánh giá bằng siêu
âm) có 35 mắt đục dịch kính chiếm tỉ lệ
83,33%. Trong đó đục dịch kính dạng
mảng 12 mắt chiếm 28,57%; bong dịch
kính sau 2,4%; một số mắt đục TTT khi
giãn đồng tử còn có thể quan sát được
đáy mắt: tổn hại võng mạc chiếm 7,1%
(3/42), lõm gai là 2,4% (1/42). Tỉ lệ này
chưa được chính xác vì đục TTT nên hạn
chế quan sát đáy mắt.
2. Kết quả phẫu thuật:
5 mắt dính bít đồng tử cần phải xẻ
đồng tử chiếm 11,9% để tạo điều kiện
lấy TTT và 9,52% cắt bè phối hợp. Sau
phẫu thuật nhãn áp điều chỉnh, không có
trường hợp nào tăng nhãn áp sau phẫu
thuật.
Bảng 1. Kết quả thị lực qua quá trình theo dõi
Thị lực
Thời gian
ST(+) -<0,1 ≥0,1- <0,3 ≥0,3 – <0,5 ≥0,5 Tổng số
n % n % n % n % n %
Vào viện 38 90,48 4 9,52 42 100
Ra viện 11 26,19 14 33,33 10 23,8 7 16,67 42 100
2 tuần 8 19,05 8 19,05 11 26,19 15 35,71 42 100
1 tháng 7 16,67 10 23,8 7 16,67 18 42,86 42 100
3 tháng 7 16,67 7 16,67 7 16,67 21 50 42 100
6 tháng 7 16,67 8 19,05 6 14,28 21 50 42 100
12 tháng 3 17,64 1 5,88 4 23,53 9 52,94 17 100
24 tháng 2 13,33 1 6,66 4 13,33 8 53,33 15 100
11
Hầu hết bệnh nhân ra viện thị lực
đều được cải thiện đáng kể. Tỉ lệ thị lực
dưới 0,1 giảm rõ rệt từ 90,48% trước mổ
giảm xuống khi ra viện chỉ còn là
26,19%, sau 2 tuần 19,05%, sau 1 tháng
là 16,67%. Kết quả này tuy rất khiêm tốn
song trong một số trường hợp bệnh nhân
bị cả hai mắt trước mổ chỉ còn cảm giác
sáng tối thì chút ít thị lực này cũng giúp
ích bệnh nhân rất nhiều trong sinh hoạt.
Đáng chú ý khi vào viện chỉ có 9,52% thị
lực 0,1, khi ra viện đã có thị lực lớn hơn
0,3 là 23,8% thậm chí có những mắt thị
lực lớn hơn 0,5 là 16,67% và số mắt này
tăng dần theo thời gian đến tháng thứ 6
có 50% mắt thị lực bằng hoặc lớn hơn
0,5.
Nguyên nhân thị lực ≤ 0,1: Thoái
hoá võng mạc 9,56%; Phù hoàng điểm
2,4%; Bong võng mạc 2,4%; Lõm teo gai
thị 4,76%; Xơ hoá dịch kính 4,76%.
Bảng 2. Kết quả thị lực sau 6 tháng phẫu thuật
Thị lực
Vị trí
VMBĐ
ST(+) -<0,1 ≥0,1- <0,3 ≥0,3 – <0,5 ≥0,5 Tổng số
n % n % n % n % n %
Trước 2 8 5 20 6 24 12 48 25 100
Trung gian 0 0 0 0 0 0 5 100 5 100
Sau 1 14,28 2 28.57 0 0 4 57,14 7 100
Toàn bộ 4 80 1 20 0 0 0 0 5 100
Tổng số 7 16,67 8 19,05 6 14,28 21 50 42 100
Bảng 2 cho thấy: Kết quả thị lực
sau 6 tháng đạt trên hoặc bằng 0,5 là
50%. Trong đó VMBĐ trung gian là
100%; ở VMBĐ sau là 57,14%; ở
VMBĐ trước 48% còn VMBĐ toàn bộ
không có trường hợp nào. Sự khác biệt
này là có ý nghĩa thống kê với P<0,05;
Điều này chứng tỏ kết quả thị lực phụ
thuộc vị trí VMBĐ hơn là phương pháp
phẫu thuật TTT.
3. Biến chứng:
3.1. Biến chứng trong phẫu thuật: Sót
chất nhân chiếm 4,76%. 1 mắt phải rửa
hút lại, còn 1 mắt chất nhân ít không gây
phản ứng và tự tiêu sau một thời gian.
Rách bao sau chiếm 4,76%: rách còn đủ
để đặt TTTNT.
3.2. Biến chứng sau phẫu thuật: Phản
ứng MBĐ với triệu chứng màng xuất tiết
và tủa, sắc tố gặp ngày mổ đầu tiên
chiếm 26,19%. Chúng tôi đã dùng tra
giãn đồng tử Neosynephrin 10% 2
lần/ngày, Tobradex 4-5 lần/ngày,
Indocollyre 1% 4-5 lần/ngày, kết hợp
tiêm Gentamycin 20mg với
Hydrocortison 25mg cạnh nhãn cầu.
Tình trạng này mất dần đi sau 2 ngày đến
2 tuần. Có 2 mắt xuất tiết dai dẳng hình
thành màng đồng tử chiếm 4,76% điều trị
tra thuốc dãn Atropin 4% và tiêm phá
dính bằng Adrenalin 1mg pha với
12
Atropin 1/4mg và Depo-Medrol 20mg
cạnh nhãn cầu, màng xuất tiết co lại và
tiêu đi.
Dính mống mắt sau phẫu thuật
chiếm 21,43%. Dính mống mắt thường
gặp sau phẫu thuật ngày thứ 7 đến ngày
thứ 10 phần lớn gặp trên những mắt dính
mống mắt rộng trên 180o trước phẫu
thuật. .
Bảng 3. Biến chứng sau phẫu thuật
Vị trí VMBĐ
Biến chứng
Trước
N = 25
Trung gian
N =5
Sau
N = 7
Toàn bộ
N = 5
Tổng số
N = 42
n % n % n % n % n %
Phù giác mạc 12 48 2 40 1 14,28 1 20 16 38,1
Phản ứng
MBĐ
7 28 1 20 1 14,28 2 40 11 26,19
Màng xuất tiết 0 0 0 0 0 0 2 40 2 4,76
Đục bao sau 6 24 0 0 2 28,57 1 20 9 21,43
Dính sau 3 12 1 20 2 28,57 3 60 9 21,43
VMBĐ tái phát 2 8 1 20 2 28,57 3 60 8 19,04
Di lệch TTT 1 4 0 0 0 0 0 0 1 2,4
Tỉ lệ VMBĐ tái phát sau phẫu thuật
gặp 8 mắt chiếm 19.04%. Trong đó tỉ lệ
tái phát ở VMBĐ toàn bộ 60%; Ở
VMBĐ sau 28,57%; Ở VMBĐ trung
gian 20% và ở VMBĐ trước 8%. Tuy
nhiên sự khác biệt này là không có ý
nghĩa thống kê, điều này cho thấy tỉ lệ
VMBĐ tái phát không phụ thuộc vào vị
trí VMBĐ mà phụ thuộc vào nguyên
nhân gây bệnh.
BÀN LUẬN
1. Nhận xét về kĩ thuật lấy thể thuỷ
tinh: Đục TTT tiến triển ở mắt viêm
MBĐ thì xử lí hoàn toàn phức tạp hơn ở
mắt không viêm MBĐ bởi vì quá trình
viêm để lại những di chứng như dính sau
(dính mống mắt với bao trước TTT),
màng xuất tiết, dính bít đồng tử và thậm
chí phản ứng viêm ngay cả trong khi phẫu
thuật làm cho phẫu thuật khó khăn hơn và
sau phẫu thuật diễn biến phức tạp hơn.
Chúng tôi mở vào tiền phòng qua
vùng rìa đi trong giác mạc 1,5mm nhận
thấy tiền phòng duy trì ổn định, thao tác
tip phaco dễ dàng hơn nhất là khi đồng tử
co nhỏ, hạn chế cọ sát mống mắt với đầu
Phaco vì có vạt giác mạc ở mép dưới,
không gây phòi kẹt mống mắt và phẫu
thuật dễ dàng tán và hút nhân bằng siêu
âm.
Trường hợp đồng tử dính bít hoặc
và dính mống mắt hậu quả của VMBĐ.
Trước khi phẫu thuật một ngày chúng tôi
tra thuốc Atropin 1%, trước mổ 1 giờ tra
Mydrin P 15 phút /1 lần. Trong khi phẫu
thuật bơm chất nhày ở đồng tử và dưới
mống mắt, luồn spatul xuống dưới mống
13
mắt tách dính từ bờ đồng tử ra đến chân
mống mắt. Để duy trì dãn đồng tử chúng
tôi cho vào chai dịch tưới rửa Ringer
lactat 500ml pha với Adrenalin 50mg.
Nếu đồng tử vẫn giãn kém thì bơm
Adrenalin 25mg pha với 3ml dung dịch
Ringer lactat vào tiền phòng. Khi tán
nhuyễn TTT một tay dùng hook vi phẫu
nâng kéo dãn mống mắt đủ để có thể
quan sát đưa đầu Phaco vào đúng vùng
trung tâm của nhân để đào rãnh, từ từ
phá nhân ra từng mảnh nhỏ đưa lên tiền
phòng hút dần. Theo dõi sau phẫu thuật
chúng tôi nhận thấy hầu hết đồng tử phục
hồi được chức năng và hình dáng ban
đầu. Không có rách mống mắt. 16 trường
hợp phù giác mạc do thời gian Phaco
phải kéo dài để tán nhuyễn TTT. Để bảo
vệ nội mô giác mạc nên bơm chất nhày
vào tiền phòng nhiều lần. 5 mắt dính bít
đồng tử sau khi tách dính bằng spatyn
chúng tôi áp dụng phương pháp cắt xẻ
đồng tử hình nan hoa 2 - 4 điểm đối diện
nhau. Sau đó bơm chất nhầy, dùng hook
vi phẫu kéo giãn đồng tử là đủ để tán
nhuyễn TTT. Qua theo dõi sau phẫu
thuật đồng tử ít bị biến dạng, tuy nhiên
chức năng co giãn đồng tử không còn vì
cơ mống mắt bị tổn hại do bản thân
VMBĐ và 1 mắt di lệch TTTNT.
Phẫu thuật tán nhuyễn TTT trên
mắt đồng tử giãn không đủ là vấn đề
thường gặp ở mắt VMBĐ. Ở những mắt
này đồng tử không chỉ nhỏ mà còn, tổ
chức xơ dính bao trước TTT. Sau khi
dính được giải phóng thì sắc tố và máu
đầy tiền phòng cản trở sự quan sát của
phẫu thuật viên, sự quan sát bao trước
không rõ do co đồng tử sẽ dẫn đến những
rủi ro khi phẫu thuật 2 mắt sót chất nhân,
2 mắt rách bao sau. Nói chung khi can
thiệp các phương pháp kéo giãn đồng tử
bằng thuốc mà đồng tử không đủ giãn thì
mới sử dụng phương pháp can thiệp phẫu
thuật mống mắt.
2. Nhận xét về kết quả thị lực:
Qua phân tích thị lực trên 42 mắt
VMBĐ được phẫu thuật tán nhuyễn TTT
đặt TTTNT cho thấy kết quả thị lực trên
hoặc bằng 0,5 giữa hình thái VMBĐ
trước và trung gian là cao hơn VMBĐ
sau và toàn bộ là có ý nghĩa. Điều này
cho thấy những biến chứng của VMBĐ
như tăng nhãn áp, xơ hoá dịch kính, tổn
hại võng mạc và bong võng mạc đã làm
hạn chế kết quả thị lực, cho dù kĩ thuật
phẫu thuật TTT hoàn toàn hợp lí và hoàn
hảo.
Bảng 3. Kết quả thị lực sau 6 tháng của chúng tôi với các tác giả
Tác giả 0,1 0,2 - <0,6 0,6
GN. Holland (1999)(3) 6,25% 12,5% 81,25%
M.F.G. Estafanous (2001(1) ) 0 5% 95%
Lê Đông Phương (2005) 16,67% 33,33% 50%
14
Qua phân tích những mắt thị lực ≤
0,1 sau phẫu thuật chúng tôi nhận thấy:
Nguyên nhân đầu tiên là VMBĐ tái
phát tiến triển sau phẫu thuật là nguy cơ
đáng sợ đối với thị lực của bệnh nhân
VMBĐ được phẫu thuật TTT. Chúng tôi
gặp 19,04% trong đó 71,4% thị lực dưới
1/10. GN. Holland (1998)(3) gặp 20,08%
VMBĐ tái phát thì có 66,67% là thị lực
dưới 1/10. Estafanous (2001)(1) gặp 41%
viêm tái phát có 25% thị lực dưới 0,1.
Các tác giả đều đồng ý với chúng tôi là
không nên đặt TTTNT trên mắt đang
VMBĐ hoặc VMBĐ vừa mới ổn định.
Để hạn chế VMBĐ tái phát chỉ bằng liệu
pháp corticoid kết hợp với non-steroid
toàn thân và tại mắt một cách tích cực
trước trong và sau phẫu thuật.
Nguyên nhân thứ hai là tổn hại
võng mạc chiếm 9,56% trong đó 4,76%
là thoái hoá hoàng điểm; 2,4% phù
hoàng điểm, Bong võng mạc 2,4%. GN.
Holland và cộng sự (1999)(3) gặp 50%
đều là phù hoàng điểm với các dấu hiệu
nghi ngờ như biến đổi sắc tố hoặc thoái
hoá dạng nang hoặc cả hai. Estafanous
và cộng sự (2001)(1) gặp 48% tổn hại
võng mạc trong đó 33,33% mắt phù
hoàng điểm và 2,56% màng trước võng
mạc; 3% viêm võng mạc và 3% bong
biểu mô sắc tố võng mạc. Quan điểm của
chúng tôi là kết quả thị lực của mắt
VMBĐ được phẫu thuật TTT hoàn toàn
phụ thuộc vào tình trạng của võng mạc
đặc biệt là hoàng điểm. Để hạn chế biến
chứng chúng tôi đồng ý với CS. Foster
(1989)(2) cho rằng lí tưởng nhất là điều trị
corticoit kết hợp non-steroit sớm trước,
trong và sau phẫu thuật, khi mà những
tổn hại võng mạc do VMBĐ còn có thể
thoái lui được trước khi có biến đổi cấu
trúc vĩnh viễn.
Nguyên nhân thứ ba là lõm teo gai
do glôcôm thứ phát sau VMBĐ chiếm
4,76%. Chúng tôi nhận thấy lõm teo gai
là do tăng nhãn áp thường không liên
quan đến quá trình phẫu thuật mà xuất
hiện trước hoặc sau phẫu thuật do tiến
triển của bệnh VMBĐ.
Vấn đề TTTNT có liên quan đến kết
quả thị lực hay không? Năm 2003, GN.
Hollan(4) và cộng sự đánh giá xử lí biến
chứng VMBĐ ở trẻ em cho rằng việc
phục hồi thị lực với kính đeo hoặc kính
tiếp xúc là rất tốt nếu trẻ em không có
TTT do VMBĐ cả hai mắt. Ngược lại,
phục hồi thị lực rất kém với trẻ em được
phẫu thuật một mắt. Vì vậy cần cân nhắc
để đặt TTTNT khi phẫu thuật TTT.
Phẫu thuật tán nhuyễn TTT là
phương pháp để tốt có thể cải thiện thị
lực trên mắt VMBĐ. Có 50% thị lực đạt
trên 0,5, nhưng những biến chứng bong
võng mạc, thoái hoá võng mạc và
VMBĐ tái phát là nguyên nhân chính
cản trở phục hồi thị giác. Quan điểm của
chúng tôi là cần phải khám xét kĩ trước
khi mổ để phát hiện những tổn hại cấu
trúc nhãn cầu do quá trình VMBĐ gây
nên, từ đó có kế hoạch phẫu thuật điều trị
thích hợp thì mới góp phần cải thiện thị
lực cho bệnh nhân.
3. Biến chứng sau phẫu thuật
Phù giác mạc gặp 38,1%.
Estafanous (2001)(1) gặp 2,56%. Trong
phẫu thuật Phaco nguyên nhân gây phù
là do năng lượng siêu âm để tán nhuyễn
15
TTT, năng lượng siêu âm càng cao, thời
gian tán nhuyễn càng dài thì nguy cơ
phù giác mạc càng lớn, nhưng phù giác
mạc chỉ là thoáng qua và tạm thời, từng
phần có hồi phục.
Phản ứng màng bồ đào gặp
19,04% Trong đó có 2 mắt (4,76%) hình
thành màng đồng tử dày che kín đồng tử
xuất hiện vào tuần thứ hai sau phẫu thuật
phải điều trị tích cực dãn đồng tử, sau khi
đồng tử giãn màng tách khỏi mống mắt
thì tiêu đi một cách dễ dàng từ 2-3 ngày.
Ngoài việc dùng thuốc dãn đồng tử, có
thể dùng laser YAG để tách màng khỏi
bờ đồng tử, tiêm Depo-Medrol 40mg với
Gentamyxin 80mg dưới kết mạc, màng
co lại và tiêu chậm. Đôi khi được giải
phóng với laser YAG, nhưng chúng vẫn
có xu hướng tái lập. Vì vậy, điều trị cần
chú ý trong 6 và 12 tuần đầu sau phẫu
thuật, điều trị tích cực ngay khi có dấu
hiệu phản ứng ở tiền phòng. Quan điểm
của chúng tôi qua thực tiễn lâm sàng
nhận thấy màng xuất tiết là phản ứng tự
nhiên của mống mắt sau phẫu thuật với
có và không có đặt TTTNT trên mắt
VMBĐ. Tuy nhiên, cần phải được điều
trị tích cực bằng corticoid tại chỗ cùng
với thuốc giãn đồng tử ngay những ngày
đầu tiên sau phẫu thuật, để ngăn ngừa
hình thành màng đồng tử và dính sau
mống mắt nguyên nhân dẫn đến VMBĐ
dai dẳng sau phẫu thuật.
Dính mống mắt là dính mống mắt
trực tiếp với vạt bao TTT trước còn lại
hoặc bao sau. Chúng tôi gặp 21,43%
dính sau, trong đó dính với màng đồng tử
với TTTNT là 4,76%, Estafanous
(2001)(1) gặp 8% trong đó 5,13% dính
màng đồng tử. Qua theo dõi lâm sàng
chúng tôi thấy bản thân VMBĐ gây nên
một quá trình viêm dính sau mống mắt
hoặc dính góc hoặc cả hai. Dính mống
mắt có thể dính một phần, dính rải rác
trên vài điểm hoặc dính toàn bộ. Mặt
khác mống mắt khi bị viêm thường là
giảm hoặc mất trương lực co giãn vận
động kém nên có xu hướng dính lại vị trí
đã dính trước khi phẫu thuật, trừ khi
VMBĐ tái phát sau phẫu thuật nhiều lần
thì mới xuất hiện những điểm dính mới.
Dính mống mắt có thể xuất hiện sớm sau
phẫu thuật khi có VMBĐ xảy ra.
KẾT LUẬN
Sự phục hồi thị lực ở bệnh nhân
đục TTT do VMBĐ phụ thuộc vào hai
yếu tố: sự thành công của chính phẫu
thuật bao gồm cả điều trị sau phẫu thuật,
và mức độ tổn hại cấu trúc do VMBĐ
gây nên. Vì vậy chỉ định phẫu thuật dựa
trên ba yếu tố: Bước đầu tiên là đánh giá
phân loại chính xác bệnh lí nguyên nhân
gây VMBĐ, thứ hai là tổn hại cấu trúc
nội nhãn kèm theo, thứ ba là tính hoạt
động của viêm.
TTTNT hiện nay được coi là đem
lại hiệu quả trong điều trị quang học cho
mắt VMBĐ có đục TTT, tuy nhiên cần
phải chú ý những tổn hại phần sau do
VMBĐ gây nên để có chỉ định thích hợp,
giảm được chi phí cho bệnh nhân mà vẫn
đạt kết quả thị lực đảm bảo sinh hoạt
bình thường của bệnh nhân.
16
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. ESTAFANOUS MFG., LOWDER CY, MEISLER DM., (2001):
Phacoemulsification Cataract Extraction and Posterior Chamber Lens
Implantation in Patients With Uveitis. Am. J. Ophthalmol 2001; 131: 620-
625
2. FOSTER CS., FONG LP., SINGH G., (1989): Cataract Surgery and
Intraocular Lens Implantation in Patients with Uveitis. Ophthalmology
1989; 96: 281-288
3. HOLLAND GN., VAN HORN SD., MARGOLIS TP., (1998): Cataract
Surgery With Ciliary Sulcus Fixation of Intraocular Lenses in Patients with
Uveitis. Am. J. Ophthalmol 1998; 108: 310-314
4. HOLLAND GN., STIEHM ER.,(2003): Special consideration in the
evaluation and Management of uveitis in children. Am. J. Ophthalmol
2003; 135: 867-878
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- de_tai_nghien_cuu_phau_thuat_tan_nhuyen_the_thuy_tinh_va_dat.pdf