Đề tài Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động xuất khẩu và phân tích hoạt động xuất khẩu

Tài liệu Đề tài Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động xuất khẩu và phân tích hoạt động xuất khẩu: Chương I Những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động xuất khẩu và phân tích hoạt Động xuất khẩu I. Khái niệm về hoạt động xuất khẩu và đặc điểm hoạt động kinh doanh xuất khẩu 1/ Khái niệm xuất khẩu hàng hoá, hiệu quả xuất khẩu và đặc điểm hoạt động kinh doanh xuất khẩu 1.1/ Khái niệm về xuất khẩu hàng hoá Xuất khẩu hàng hoá là hoạt động kinh doanh ngoại thương mà hàng hoá dịch vụ của quốc gia này bán cho quốc gia khác. * Xuất khẩu hàng hoá thường diễn ra dưới các hình thức sau: + Hàng hoá nước ta bán ra nước ngoài theo hợp đồng thương mại được ký kết của các thành phần kinh tế của nước ta với các thành phần kinh tế ở nước ngoài không thường trú trên lãnh thổ Việt Nam. + Hàng hoá mà các đơn vị, dân cư nước ta bán cho nước ngoài qua các đường biên giới, trên bộ, trên biển, ở hải đảo và trên tuyến hàng không. + Hàng gia công chuyển tiếp + Hàng gia công để xuất khẩu thông qua một cơ sở ký hợp đồng gia công trực tiếp với nước ngoài. + Hàng hoá do các doanh nghiệp có vốn đầu tư ...

doc103 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 942 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động xuất khẩu và phân tích hoạt động xuất khẩu, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương I Những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động xuất khẩu và phân tích hoạt Động xuất khẩu I. Khái niệm về hoạt động xuất khẩu và đặc điểm hoạt động kinh doanh xuất khẩu 1/ Khái niệm xuất khẩu hàng hoá, hiệu quả xuất khẩu và đặc điểm hoạt động kinh doanh xuất khẩu 1.1/ Khái niệm về xuất khẩu hàng hoá Xuất khẩu hàng hoá là hoạt động kinh doanh ngoại thương mà hàng hoá dịch vụ của quốc gia này bán cho quốc gia khác. * Xuất khẩu hàng hoá thường diễn ra dưới các hình thức sau: + Hàng hoá nước ta bán ra nước ngoài theo hợp đồng thương mại được ký kết của các thành phần kinh tế của nước ta với các thành phần kinh tế ở nước ngoài không thường trú trên lãnh thổ Việt Nam. + Hàng hoá mà các đơn vị, dân cư nước ta bán cho nước ngoài qua các đường biên giới, trên bộ, trên biển, ở hải đảo và trên tuyến hàng không. + Hàng gia công chuyển tiếp + Hàng gia công để xuất khẩu thông qua một cơ sở ký hợp đồng gia công trực tiếp với nước ngoài. + Hàng hoá do các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài bán cho người mua nước ngoài nhưng giao hàng tại Việt Nam + Hàng hoá do các chuyên gia, người lao động, học sinh, người du lịch mang ra khỏi nước ta. + Những hàng hoá là quà biếu, đồ dùng khác của dân cư thường trú nước ta gửi cho thân nhân, các tổ chức, huặc người nước ngoài khác. + Những hàng hoá là viện trợ, giúp đỡ của chính phủ, các tổ chức và dân cư thường trú nước ta gửi cho chính phủ, các tổ chức, dân cư nước ngoài. 1.2 / Hiệu quả xuất khẩu Trong điều kiện nước ta hiện nay, kinh tế đối ngoại có vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Vì vậy Đảng và nhà nước luôn coi trọng lĩnh vực này và nhấn mạnh “nhiệm vụ ổn định và phát triển kinh tế cũng như sự phát triển của khoa học kỹ thuật và công ngiệp hoá của nước ta tiến hành nhanh hay chậm, điều đó phụ thuộc một phần vào việc mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại”. Đảm bảo không ngừng nâng cao hiệu quả kinh tế xuất khẩu là mối quan tâm hàng đầu của bất kỳ nền kinh tế nói chung và cuả mỗi doanh nghiệp nói riêng. Hiệu quả hoạt động xuất khẩu chủ yếu được thẩm định bởi thị trường, là phương hướng cơ bản để xác định phương hướng hoạt động xuất khẩu. Tuy vậy hiệu quả đó là gì? như thế nào là có hiệu quả? Không phải là vấn đề đã được thống nhất. Không thể đánh giá được mức độ đạt được hiệu quả kinh tế của hoạt động xuất khẩu khi mà bản thân phạm trù này chưa được định rõ bản chất và những biểu hiện của nó. Vì vậy, hiểu đúng bản chất của hiệu quả kinh tế xuất khẩu cũng như mục tiêu đảm bảo hiệu quả kinh tế xuất khẩu của mỗi thời kỳ là vấn đề có ý nghĩa thiết thực không những về lý luận thống nhất quan niệm về bản chất của hiệu quả kinh tế xuất khẩu mà còn là cơ sở để xác định các tiêu chuẩn và chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế xuất khẩu, xác định yêu cầu đối với việc đề ra mục tiêu và biện pháp nâng cao hiệu của kinh tế ngoại thương. Cho đến nay còn có nhiều cách nhìn nhận khác nhau về hiệu quả kinh doanh nói chung và hiệu quả xuất khẩu nói riêng. Quan niệm phổ biến là hiệu quả kinh tế xuất khẩu là kết quả của quá trình sản xuất trong nước, nó được biểu hiện ở mối tương quan giữa kết quả thu được và chi phí bỏ ra. Trong thực tiễn cũng có người cho rằng hiệu quả kinh tế xuất khẩu chính là số lợi nhuận thu được thông qua xuất khẩu. Những quan niệm trên bộc lộ một số mặt chưa hợp lý. Một là, đồng nhất hiệu quả và kết quả. Hai là, không phân định rõ bản chất và tiêu chuẩn hiệu quả xuất khẩu với các chỉ tiêu biểu hiện bản chất và tiêu chuẩn đó. Cần phân biệt rõ khái niệm “kết quả” và “hiệu quả”. Về hình thức hiệu quả kinh tế là một phạm trù so sánh thể hiện mối tương quan giữa cái phải bỏ ra và cái thu về được. Kết quả chỉ là yếu tố cần thiết để tính toán và phân tích hiệu quả. Tự bản thân mình, kết quả chưa thể hiện nó tạo ra ở mức nào và với chi phí là bao nhiêu. Mỗi hoạt động trong sản xuất kinh doanh thương mại dịch vụ nói riêng là phải phấn đấu đạt được kết quả, nhưng không phải là kết quả bất kỳ mà phải là kết quả có mục tiêu và có lợi ích cụ thể nào đó. Nhưng kết quả có được ở mức độ nào với giá nào đó chính là vấn đề cần xem xét, vì nó là chất lượng của hoạt động tạo ra kết qủa. Vì vậy, đánh giá hoạt động kinh tế xuất khẩu không chỉ là đánh giá kết quả mà còn là đánh giá chất lượng của hoạt động để tạo ra kết quả đó. Vấn đề không phải chỉ là chúng ta xuất khẩu được bao nhiêu tỷ đồng hàng hoá mà còn là với chi phí bao nhiêu để có được kim ngạch xuất khẩu như vậy. Mục đích hay bản chất của hoạt động xuất khẩu là với chi phí xuất khẩu nhất định có thể thu được lợi nhuận lớn nhất. Chính mục đích đó nảy sinh vấn đề phải xem lựa chọn cách nào để đạt được kết quả lớn nhất. Từ cách nhìn nhận trên ta thấy các chỉ tiêu lượng hàng hoá xuất khẩu, tổng trị giá hàng hoá xuất khẩu chỉ là những chỉ tiêu thể hiện kết quả của hoạt động xuất khẩu chứ không thể coi là hiệu quả kinh tế của hoạt động xuất khẩu được, nó chưa thể hiện kết quả đó được tạo ra với chi phí nào Hiệu quả kinh tế Kết quả đầu ra = Chi phí đầu vào Nếu chỉ dừng lại ở đó thì còn rất trìu tượng và chưa chính xác. Điều cốt lõi là chi phí cái gì, bao nhiêu và kết quả được thể hiện như thế nào. trong hoạt động xuất khẩu, kết quả đầu ra thể hiện bằng số ngoại tệ thu được do xuất khẩu đem lại và chi phí đầu vào là toàn bộ chi phí doanh nghiệp đã bỏ ra nhưng có liên quan đến hoạt động xuất khẩu bao gồm chi phí mua huặc chi phí sản xuất gia công hàng xuất khẩu, chi phí vận chuyển, bốc dỡ, bảo quản, chi phí sơ chế, tái chế hàng xuất khẩu và những chi phí trực tiếp huặc gián tiếp khác gắn với hợp đồng xuất khẩu. Từ những nhận xét trên ta có công thức tính hiệu quả xuất khẩu như sau: Hiệu quả xuất khẩu Doanh thu ngoại tệ do xuất khẩu đem lại Chi phí liên quan đến hoạt động xuất khẩu = 2/ Các phương thức kinh doanh xuất khẩu * Phương thức kinh doanh xuất khẩu trực tiếp: Xuất khẩu trực tiếp là phương thức kinh doanh mà trong đó, đơn vị tham gia hoạt động xuất khẩu có thể trực tiếp đàm phán, ký kết hợp đồng với nước ngoài; trực tiếp giao nhận hàng và thanh toán tiền hàng. Các doanh nghiệp tiến hành xuất khẩu trực tiếp trên cơ sở tự cân đối về tài chính, có quyền tìm kiếm bạn hàng, định đoạt giá cả, lựa chọn phương thức thanh toán và thị trường, xác định phạm vi kinh doanh nhưng trong khuôn khổ chính sách quản lý xuất khẩu của nhà nước. * Phương thức kinh doanh xuất khẩu uỷ thác Xuất khẩu uỷ thác là phương thức kinh doanh mà trong đó, đơn vị tham gia hoạt động kinh doanh xuất khẩu không đứng ra trực tiếp đàm phán với nước ngoài mà phải nhờ qua một đơn vị xuất khẩu có uy tín thực hiện hoạt động xuất khẩu cho mình. Đặc điểm hoạt động xuất khẩu uỷ thác là có hai bên tham gia trong hoạt động xuất khẩu: + Bên giao uỷ thác xuất khẩu (bên uỷ thác): bên uỷ thác là bên có đủ điều kiện bán hàng xuất khẩu. + Bên nhận uỷ thác xuất khẩu (bên nhận uỷ thác): bên nhận uỷ thác xuất khẩu là bên đứng ra thay mặt bên uỷ thác ký kết hợp đồng với bên nước ngoài. Hợp đồng này được thực hiện thông qua hợp đồng uỷ thác và chịu sự điều chỉnh của luật kinh doanh trong nước. Bên nhận uỷ thác sau khi ký kết hợp đồng uỷ thác xuất khẩu sẽ đóng vai trò là một bên của hợp đồng mua bán ngoại thương. Do vậy, bên nhận uỷ thác sẽ phải chịu sự điều chỉnh về mặt pháp lý của luật kinh doanh trong nước, luật kinh doanh của bên đối tác và luật buôn bán quốc tế. Theo phương thức kinh doanh xuất khẩu uỷ thác, doanh nghiệp giao uỷ thác giữ vai trò là người sử dụng dịch vụ, còn doanh nghiệp nhận uỷ thác lại giữ vai trò là người cung cấp dịch vụ, hưởng hoa hồng theo sự thoả thuận giữa hai bên ký trong hợp đồng uỷ thác. * Xuất khẩu theo hiệp định: Bộ phận hàng hoá và dịch vụ xuất khẩu theo hiệp định của nhà nước ký kết với nước ngoài. Các doanh nghiệp thay mặt nhà nước ký các hợp đồng cụ thể và thực hiện các hợp đồng đó với nước bạn. *Xuất khẩu ngoài hiệp định: Bộ phận hàng hoá và dịch vụ xuất khẩu không nằm trong hiệp định của nhà nước phân bổ cho doanh nghiệp. 3/ Đặc điểm hoạt động kinh doanh xuất khẩu Hoạt động kinh doanh xuất khẩu có các đặc điểm sau: Đ Thời gian lưu chuyển hàng hoá xuất khẩu: Thời gian lưu chuyển hàng hoá trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu bao giờ cũng dài hơn so với thời gian lưu chuyển hàng hoá trong hoạt động kinh doanh nội địa do khoảng cách địa lý cũng như các thủ tục phức tạp để xuất khẩu hàng hoá. Do đó, để xác định kết quả hoạt động kinh doanh xuất khẩu, người ta chỉ xác định khi hàng hoá đã luân chuyển được một vòng hay khi đã thực hiện xong một thương vụ ngoại thương. Đ Hàng hoá kinh doanh xuất khẩu: Hàng hoá kinh doanh xuất khẩu bao gồm nhiều loại, trong đó xuất khẩu chủ yếu những mặt hàng thuộc thế mạnh trong nước như: rau quả tươi, hàng mây tre đan, hàng thủ công mỹ nghệ … ĐThời điểm giao, nhận hàng và thời điểm thanh toán: Thời điểm xuất khẩu hàng hoá và thời điểm thanh toán tiền hàng không trùng nhau mà có khoảng cách dài. Đ Phương thức thanh toán: Trong xuất khẩu hàng hoá, có nhiều phương thức thanh toán có thể áp dụng được tuy nhiên phương thức thanh toán chủ yếu được sử dụng là phương thức thanh toán bằng thư tín dụng. Đây là phương thức thanh toán đảm bảo được quyền lợi của nhà xuất khẩu. Đ Tập quán, pháp luật: Hai bên mua, bán có quốc tịch khác nhau, pháp luật khác nhau, tập quán kinh doanh khác nhau, do vậy phải tuân thủ luật kinh doanh cũng như tập quán kinh doanh của từng nước và luật thương mại quốc tế. II. Vai trò của xuất khẩu đối với sự phát triển của nền kinh tế 1/ Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ Công Nghiệp Hoá đất nước. Đất nước ta đang từng bước tiến tới Công Nghiệp Hoá - Hiện Đại Hoá đất nước. Đây là một nhiệm vụ cần thiết đáp ứng yêu cầu của Đảng ta là đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu từng bước phát triển nền kinh tế ngày một bền vững ổn định, xoá dần khoảng cách về kinh tế giữa nước ta và các nước trên thế giới. Nhìn chung các ngành sản xuất trong nước vẫn chưa thể đáp ứng được yêu cầu của quá trình hiện đaị hoá chính vì vậy mà chúng ta cần thiết phải nhập khẩu một số trang thiết bị kỹ thuật, công nghệ hiện đại từ nước ngoài vào Việt Nam. Nguồn vốn ngoại tệ để nhập khẩu có thể được hình thành từ các nguồn sau: + Đầu tư trực tiếp nước ngoài + Kinh doanh dịch vụ thu ngoại tệ + Vay nợ, nhận viện trợ + Xuất khẩu hàng hoá Các nguồn vốn ngoại tệ như: đầu tư trực tiếp nước ngoài, vay nợ, kinh doanh dịch vụ thu ngoại tệ không đóng góp nhiều lắm vào việc tăng thu ngoại tệ, chỉ có xuất khẩu hàng hoá là nguồn thu ngoại tệ lớn của đất nước, nguồn thu này dùng để nhập khẩu các trang thiết bị hiện đại phục vụ công nghiệp hóa và trang trải những chi phí cần thiết khác cho quá trình này, xuất khẩu không những nâng cao được uy tín xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nước mà còn phản ánh năng lực sản xuất hiện đại của chính nước đó. Trong tương lai, nguồn vốn bên ngoài sẽ tăng lên nhưng mọi cơ hội đầu tư, vay nợ của nước ngoài và các tổ chức quốc tế chỉ thuận lợi khi các chủ đầu tư và người cho vay thấy được khả năng xuất khẩu – nguồn vốn duy nhất để trả nợ – trở thành hiện thực. Điều này càng nói lên vai trò vô cùng quan trọng của xuất khẩu. 2/ Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế thúc đẩy sản xuất phát triển Cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới đã và đang thay đổi vô cùng mạnh mẽ. Đó chính là thành quả của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình Công Nghiệp Hoá phù hợp với xu hướng phát triển của kinh tế thế giới là tất yếu đối với nước ta. Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Một là: Xuất khẩu chỉ là việc tiêu thụ sản phẩm thừa do sản xuất vượt quá tiêu dùng nội địa. Trong trường hợp nền kinh tế nước ta còn quá lạc hậu và chậm phát triển như nước ta, sản xuất về cơ bản chưa đủ tiêu dùng. Nếu chỉ thụ động chờ ở sự “thừa ra” của sản xuất thì xuất khẩu sẽ vẫn cứ nhỏ bé và tăng trưởng chậm chạp, sản xuất và sự thay đổi cơ cấu kinh tế sẽ rất chậm. Hai là: Coi thị trường đặc biệt là thị trường thế giới là hướng quan trọng để tổ chức sản xuất. Điều đó có tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Sự tác động này đến sản xuất thể hiện ở chỗ: ă Xuất khẩu tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành khác có cơ hội phát triển. Khi chúng ta xuất khẩu một mặt hàng nào đó kéo theo đó là sự phát triển các ngành khác phục vụ cho việc xuất khẩu mặt hàng này. Chẳng hạn khi xuất khẩu các sản phẩm dệt may thì ngành sản xuất nguyên liệu như bông hay thuốc nhuộm cũng sẽ phát triển theo quy mô xuất khẩu sản phẩm may. Chính điều này làm cho cơ cấu kinh tế thay đổi một cách đồng bộ không có sự mất cân đối giữa các ngành với nhau. Như vậy xuất khẩu đã góp phần tạo ra một cơ cấu kinh tế phù hợp với xu thế phát triển của thế giới. ăXuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, góp phần cho sản xuất phát triển và ổn định. Bất kỳ doanh nghiệp nào cũng muốn mở rộng thị trường, nâng cao khả năng chiếm lĩnh thị trường từ đó thu lợi nhuận cao. Mặt khác mở rộng thị trường xuất khẩu là giảm sự phụ thuộc vào thị trường nội địa khi thị trường này có sự biến động ảnh hưởng không tốt đến việc kinh doanh của doanh nghiệp và tăng khả năng thoả mãn nhu cầu cho người tiêu dùng. Thị trường nước ngoài hầu như là những thị trường có sức tiêu thụ hàng hoá lớn hơn so với nhu cầu tiêu dùng trong nước, chính vì vậy mọi doanh nghiệp đều luôn cố gắng thoả mãn tốt nhất nhu cầu này để tăng doanh thu đạt lợi nhuận cao nhưng lợi nhuận càng cao thì rủi ro càng lớn, doanh nghiệp phảI chịu sự cạnh tranh gay gắt từ các doanh nghiệp khác. trong điều kiện như vậy doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển đòi hỏi doanh nghiệp phải tổ chức lại sản xuất kinh doanh, nâng cao năng lực sản xuất hiện có cả về số lượng và chất lượng bằng cách nhập các trang thiết bị kỹ thuật hiện đại, áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất để nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp khác. Như vậy xuất khẩu góp phần phát triển sản xuất ngày một hiện đại hơn và ổn định hơn. ă Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Điều này muốn nói đến xuất khẩu là điều kiện quan trọng tạo ra vốn và kỹ thuật, công nghệ từ bên ngoài vào Việt Nam, nhằm hiện đại hóa nền kinh tế của đất nước, tạo ra năng lực sản xuất mới. ă Xuất khẩu chính là việc hàng hoá được tiêu dùng ở nước ngoài, chịu sự cạnh tranh về giá cả, chất lượng. Doanh nghiệp muốn có một chỗ đứng trên thị trường thì phải có kế hoạch sản xuất kinh doanh sao cho có thể tận dụng hết mọi năng lực sản xuất hiện có để tạo ra những sản phẩm có chất lượng tốt đáp ứng được đòi hỏi của người tiêu dùng về tính năng công dụng của sản phẩm càng nhiều càng tốt nhưng lại phảI có mức giá cả hợp lý để vừa có thể cạnh tranh về giá với các doanh nghiệp khác vừa mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp. Điều này sẽ làm cho doanh nghiệp luôn cố gắng để sản xuất có hiệu quả tăng cường đổi mới và hoàn thiện công việc quản trị sản xuất kinh doanh, thúc đẩy sản xuất, mở rộng thị trường. Doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả cũng có nghĩa là nền kinh tế cũng ngày một đi lên, như vậy xuất khẩu không chỉ đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp mà còn làm cho nền kinh tế ngày một phát triển và ổn định. 3/ Xuất khẩu có tác dụng tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống của người dân. Hiện nay việc hàng trăm triệu người lao động đang đổ xô về thành phố kiếm việc làm đã gây ra nhiều vấn đề xã hội và làm cho sự quản lý của nhà nước thêm khó khăn. Nó cũng chứng tỏ người dân đặc biệt là những người dân ở các vùng nông thôn đang thiếu việc làm một cách trầm trọng. Xuất khẩu đã giải quyết được vấn đề công ăn việc làm cho người lao động, tạo thu nhập và cải thiện đời sống của dân cư. Đồng thời xuất khẩu cũng đóng góp vào ngân sách quốc gia một nguồn vốn ngoại tệ đáng kể. Đây là nguồn vốn dùng để nhập khẩu các vật phẩm tiêu dùng thiết yếu mà trong nước chưa sản xuất được nhằm phục vụ nhu cầu ngày càng cao của người dân. 4/ Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta. Chúng ta thấy rõ xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại có tác động qua lại phụ thuộc lẫn nhau. Có thể thấy hoạt động xuất khẩu có sớm hơn hoạt động kinh tế đối ngoại khác và tạo điều kiện thúc đẩy quan hệ này phát triển. Chẳng hạn, xuất khẩu thúc đẩy quan hệ tín dụng, đầu tư, mở rộng vận tảI quốc tế… Mặt khác, chính các quan hệ kinh tế đối ngoại lại tạo tiền đề cho mở rộng xuất khẩu. Tóm lại, đẩy mạnh xuất khẩu được coi là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để phát triển kinh tế và thực hiện công nghiệp hoá đất nước. III. Sự cần thiết phảI phân tích tình hình và hiệu quả kinh doanh xuất khẩu 1/ Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả xuất khẩu 2/ Sự cần thiết phải phân tích tình hình và hiệu quả kinh doanh xuất khẩu Trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp luôn phải chịu sự cạnh tranh gay gắt từ các đối thủ cạnh tranh về mọi mặt: giá cả, chất lượng, thị trường, khách hàng… nếu như doanh nghiệp không nhanh nhậy nắm bắt được tình hình thực tế cũng như không biết chính xác về tình hình kinh doanh, hiệu quả kinh doanh của chính doanh nghiệp mình thì doanh nghiệp sẽ có những ảo tưởng về kết quả mà doanh nghiệp đã đạt được điều này dẫn tới doanh nghiệp sẽ thất bại trong cuộc cạnh tranh với các doanh nghiệp khác, doanh nghiệp sẽ dần mất đi những gì mà mình đang có mà điều này cũng đồng nghĩa với việc doanh nghiệp đang dần suy vong và có nguy cơ dẫn đến phá sản. Đặc biệt đối với các doanh nghiệp tham gia vào lĩnh vực xuất khẩu hàng hoá thì sự cạnh tranh còn gay gắt hơn nhiều so với các doanh nghiệp trong nước bởi vì doanh nghiệp khi tham gia xuất khẩu hàng hoá sang thị trường nước ngoài không những phải chịu sự cạnh tranh của các doanh nghiệp từ nhiều nơi khác mà còn phải chịu áp lực từ chính nước mình xuất khẩu hàng hoá sang lý do là nhiều khi các nước đó áp dụng các chính sách quy chế gây cản trở cho các doanh ngiệp xuất khẩu mục đích là để bảo hộ cho ngành sản xuất trong nước của họ. Để giúp cho các chủ doanh nghiệp xuất khẩu luôn nắm bắt được tình hình kinh doanh thực tế cũng như biết được doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả không thì công tác phân tích tình hình xuất khẩu và hiệu quả xuất khẩu là một việc làm hết sức cần thiết không chỉ đối với các doanh nghiệp tham gia vào lĩnh vực xuất khẩu mà tất cả các doanh nghiệp đều phải chú trọng tới công tác phân tích. Phân tích tình hình và hiệu quả xuất khẩu đem lại rất nhiều lợi ích cho doanh nghiệp: + Việc phân tích tình hình xuất khẩu được thực hiện sau mỗi một kỳ kinh doanh giúp doanh nghiệp kiểm tra, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch xuất khẩu mà doanh nghiệp đã đề ra ở kỳ kế hoạch. Để thực hiện các nghiệp vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đòi hỏi chủ doanh nghiệp và các nhà quản lý phải xây dựng các chỉ tiêu kế hoạch sản xuất kinh doanh cũng như các kế hoạch tài chính, kế hoạch lao động, tiền lương … đó là những mục tiêu cần đạt được trong kỳ kế hoạch. Nhưng đồng thời nó cũng là cơ sở để chỉ đạo mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Do vậy, để nhận thức và đánh giá tình hình và kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ doanh nghiệp cần thiết phải phân tích để thấy được mức độ hoàn thành của các chỉ tiêu kế hoạch về phần trăm và số chênh lệch tăng giảm. Việc phân tích này là cần thiết bởi vì thông qua phân tích các nhà quản lý sẽ thấy được doanh nghiệp đã thực hiện kế hoạch đề ra ở mức độ nào, có hoàn thành kế hoạch đề ra hay không từ đó tìm ra nguyên nhân của việc không hoàn thành kế hoạch cũng như nhân tố góp phần vào việc hoàn thành vượt mức kế hoạch đặt ra và đưa ra các giải pháp để kỳ kinh doanh tiếp theo sẽ hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch đặt ra. Việc phân tích này sẽ giúp doanh nghiệp nhìn ra đâu là mặt mạnh cũng như những điểm còn yếu kém trong từng khâu của quá trình sản xuất kinh doanh để có thể tận dụng hết thế mạnh của mình, khắc phục dần những điểm còn tồn tại từ đó nâng cao lợi nhuận, mở rộng sản xuất kinh doanh, mở rộng thị trường nâng cao uy tín và vị thế của doanh nghiệp trên thương trường. Doanh nghiệp nào cũng có thị trường, khách hàng, mặt hàng riêng của mình, tuy nhiên doanh nghiệp cũng chia ra thành thị trường chính, mặt hàng chủ lực, khách hàng truyền thống để từ đó có kế hoạch cung ứng hàng hoá cho phù hợp. Nếu đối với các thị trường chính có sức tiêu thụ lớn mà ta lại không chú ý tới, không có kế hoạch cung ứng hàng hoá đầy đủ kịp thời đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng thì doanh nghiệp sẽ dần mất đi thị phần trên thị trường đó và các doanh nghiệp khác sẽ có cơ hội để chiếm lĩnh thị trường đó có nghĩa là doanh nghiệp đang đánh mất cơ hội làm tăng lợi nhuận của chính mình. Phân tích tình hình thực hiện kế hoạch xuất khẩu theo thị trường sẽ cho ta biết được mức độ hoàn thành kế hoạch đối với thị trường chính cũng như các thị trường khác để có kế hoạch cung ứng hàng hoá cho phù hợp. Như vậy việc phân tích tình hình thực hiện kế hoạch xuất khẩu là thật sự cần thiết đối với mỗi một doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. + Phân tích tình hình xuất khẩu ngay trong khi thực hiện kế hoạch xuất khẩu giúp doanh nghiệp phát hiện ra những thay đổi bất thường của thị trường có ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện kế hoạch xuất khẩu cũng như gây tổn thất cho doanh nghiệp về mặt kinh tế, những khó khăn mới nảy sinh cản trở tiến trình thực hiện xuất khẩu. Sau mỗi một kỳ kinh doanh, doanh nghiệp đều đưa ra những kế hoạch kinh doanh cho kỳ tiếp sau, mặc dù đã có sự chuẩn bị trước nhưng trong thực tế không phải lúc nào mọi hoạt động sản xuất kinh doanh đều diễn ra theo kế hoạch đã định. Thị trường luôn chứa đựng trong nó những biến động bất thường, những biến động này có thể là theo chiều hướng xấu đối với doanh nghiệp cũng có thể theo chiều hướng thuận lợi cho doanh nghiệp nhưng bất kể là xấu hay tốt thì nhiệm vụ của nhà quản lý doanh nghiệp là phải luôn đưa ra các quyết định chỉ đạo kinh doanh linh hoạt, phù hợp với tình hình thực tế đưa doanh nghiệp thoát khỏi tình trạng khó khăn do thị trường gây ra cũng như tận dụng cơ hội kinh doanh do thị trường đem lại. Để làm được điều này các nhà quản lý phải luôn nắm chắc tình hình kinh doanh xuất khẩu bằng cách tiến hành phân tích thường xuyên, cẩn thận, kỹ lưỡng tình hình xuất khẩu từ đó có sự điều chỉnh kế hoạch xuất khẩu cho phù hợp. Thị trường quốc tế luôn biến động hàng ngày hàng giờ nếu không phân tích một cách toàn diện, thường xuyên thì không thể đưa ra một quyết định tối ưu nhất, sáng suốt nhất. Một quyết định sai lầm, xa rời thực tế không giải quyết được yêu cầu đang đặt ra sẽ khiến cho hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp không được liên tục thông suốt, gây tổn thất cho doanh nghiệp. Để có thể đưa ra được những chính sách biện pháp và chỉ đạo quản lý một cách hiệu quả thì việc phân tích rất cần thiết phải được tiến hành ngay từ giai đoạn lập kế hoạch đến khi thực hiện kế hoạch và sau khi kế hoạch đã được thực hiện. + Phân tích hiệu quả xuất khẩu sẽ cung cấp những thông tin chính xác về kết quả kinh doanh, các nhân tố ảnh hưởng và nguyên nhân ảnh hưởng đến kết qủa kinh doanh, từ đó tìm ra những chính sách biện pháp thích hợp để nâng cao hiệu quả kinh doanh. Trong nền kinh tế tập trung bao cấp, các doanh nghiệp hoạt động dưới sự chỉ đạo của nhà nước bằng các hệ thống chỉ tiêu pháp lệch. Mọi khâu của quá trình sản xuất kinh doanh như: sản xuất cái gì? sản xuất cho ai? Sản xuất như thế nào đều do nhà nước trực tiếp chỉ đạo, doanh nghiệp chỉ như một cỗ máy hoạt động theo kế hoạch đã định sẵn. Bởi vậy mà việc doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả hay không không phải là vấn đề cần quan tâm trong thời kỳ đó, nếu doanh nghiệp làm ăn thua lỗ đã có nhà nước bù lỗ vì vậy doanh nghiệp chỉ quan tâm xem mình có đạt được các chỉ tiêu kế hoạch do bên trên giao hay không. Nhưng từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế nhà nước đã trao quyền tự chủ kinh doanh cho doanh nghiệp có nghĩa là chủ doanh nghiệp sẽ phải quyết định mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mình và chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp, nhà nước chỉ kiểm soát doanh nghiệp ở tầm vĩ mô:định hướng cho doanh nghiệp hoạt động, tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi và doanh nghiệp chỉ được phép hoạt động trong khuôn khổ mà nhà nước cho phép. Và khi mà sự suy vong hay phát triển của doanh nghiệp phụ thuộc vào nỗ lực của chính bản thân doanh nghiệp thì hiệu quả kinh doanh lại là một vấn đề sống còn đối với doanh nghiệp. Các doanh nghiệp luôn cố gắng để tìm ra các biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh, tìm cho mình một chỗ đứng trên thị trường. Muốn nâng cao hiệu quả kinh doanh thì trước hết ta phải biết được hiệu quả kinh doanh hiện tại như thế nào để từ đó tìm ra nguyên nhân cũng như những điểm đã đạt được, rút ra bài học cho kỳ sau. Định kỳ cứ sau mỗi kỳ kinh doanh doanh nghiệp cần phải tiến hành phân tích xem doanh nghiệp đạt hiệu quả kinh doanh cao hay thấp bằng các chỉ tiêu phân tích đã định trước phù hợp với yêu cầu và nội dung phân tích. Việc phân tích sẽ cung cấp những thông tin chính xác trung thực về chất lượng kinh doanh của doanh nghiệp, tìm ra các nhân tố và nguyên nhân ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp từ đó có kế hoạch chỉ đạo cho kỳ kinh doanh sau để làm sao doanh nghiệp đạt được hiệu quả kinh doanh cao hơn nữa. Nâng cao hiệu quả kinh doanh cũng đồng nghĩa với việc nâng cao lợi nhuận, phát triển mở rộng công việc kinh doanh của doanh nghiệp. Tiền đề của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh chính là tối ưu hoá trong việc sử dụng các loại nguồn lực. Nguồn lực ở đây được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm các nguồn lực tồn tại dưới dạng vật chất cụ thể và không tồn tại dưới dạng vật chất cụ thể. Tối ưu hoá trong việc sử dụng các loại nguồn lực phải được xem xét trong một tổng thể chung. Để đạt được điều này đòi hỏi phải tiến hành phân tích một cách toàn diện, đầy đủ tổng hợp toàn bộ các mặt có liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp để kịp thời phát hiện các nhân tố tích cực cũng như tiêu cực trong kinh doanh làm cơ sở đề ra các quyết định đúng đắn và kịp thời nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh. Hiểu quả kinh doanh phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, nhưng cũng cần phải thấy rằng: hoạt động kinh doanh cũng như các hoạt động khác nhiều khi cũng gặp những rủi ro làm giảm hiệu qủa kinh doanh và có khi còn làm cho doanh nghiệp phá sản. Phân tích giúp chủ động đối phó với các bất trắc có thể xảy ra và tránh các rủi ro. Không phải ngẫu nhiên mà các doanh nghiệp đều luôn quan tâm đến việc phân tích hiệu quả kinh doanh và họ cho là phân tích là điều cần thiết. Công việc này không những đem lại cho doanh nghiệp nhiều lợi ích mà còn giúp doanh nghiệp tận dụng được những khả năng tiềm tàng mà doanh nghiệp chưa sử dụng hết để thúc đẩy quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh mang lại lợi nhuận cao cho doanh nghiệp. Các doanh nghiệp xuất khẩu hoạt động có hiệu quả không những đem lại nguồn ngoại tệ cho doanh nghiệp mình mà còn góp phần tăng thu ngoại tệ cho đất nước, cải thiện cán cân thương mại, bình ổn tỷ giá hối đoái, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh cũng như uy tín của các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước. Việc phân tích hiệu quả kinh doanh xuất khẩu cần phải được tiến hành trên nhiều mặt, tiến hành một cách toàn diện từ đó mới có được những phương hướng hoạt động thích hợp cho kỳ kinh doanh sau để làm sao sử dụng hết nguồn lực vật chất hiện có nâng cao hơn nữa hiệu quả kinh doanh. + Phân tích tình hình và hiệu quả xuất khẩu là cơ sở khoa học cho việc đề ra các kế hoạch sản xuất kinh doanh ở kỳ tiếp theo Doanh nghiệp là một hệ thống bao gồm nhiều phần tử: phòng, ban, chi nhánh…mỗi một bộ phận đều có chức năng nhiệm vụ riêng, những chức năng đó dù là nhỏ nhất cũng đều có quan hệ với nhau tạo nên hiệu quả kinh doanh chung của toàn doanh nghiệp trong từng thời kỳ. Phân tích tình hình và hiệu quả kinh doanh xuất khẩu là cơ sở khoa học cho việc đề ra các kế hoạch sản xuất kinh doanh tiếp theo đó cũng chính là việc phối hợp hoạt động giữa các phòng ban trong doanh nghiệp sao cho ăn khớp, hoạt động nhịp nhàng, hợp lý, tất cả các phòng ban đều hướng tới một mục tiêu chung là lợi nhuận của doanh nghiệp thì doanh nghiệp sẽ đạt được hiệu quả kinh doanh cao. Trên cơ sở nhận xét đánh giá về kết quả doanh nghiệp đạt được ở kỳ này, phân tích hiệu quả kinh doanh cao hay thấp, chủ doanh nghiệp sẽ đưa ra một kế hoạch kinh doanh cũng như đưa ra các chỉ tiêu cần đạt được trong kỳ tiếp theo sao cho phù hợp với khả năng của doanh nghiệp để doanh nghiệp có thể hoàn thành vượt mức kế hoạch đề ra. Một kế hoạch kinh doanh đưa ra mà không dựa trên các kết quả đã đạt được trước đó rất có thể sẽ là một kế hoạch nằm ngoài khả năng thực hiện của doanh nghiệp, doanh nghiệp chỉ theo đuổi những mục tiêu xa vời mà không để ý đến thực lực của doanh nghiệp mình sẽ dẫn đến không hoàn thành kế hoạch và không đạt được hiệu quả kinh doanh như mong muốn. Các doanh nghiệp luôn đứng vững trước mọi thay đổi của thị trường là những doanh nghiệp có kế hoạch kinh doanh hợp lý, luôn thích ứng với sự thay đổi của thị trường, cung ứng hàng hoá kịp thời đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng. Các kế hoạch sản xuất kinh doanh không chỉ là mục tiêu mà doanh nghiệp cần đạt tới mà nó còn là định hướng cho doanh nghiệp hoạt động. Nói tóm lại, phân tích tình hình và hiệu quả kinh doanh xuất khẩu là một việc làm hết sức cần thiết trong mỗi doanh nghiệp, nó giúp doanh nghiệp nhận thức và đánh giá đúng đắn tình hình và hiệu quả hoạt động kinh doanh, thấy được những thành tích, kết quả đã đạt được, những mâu thuẫn tồn tại và những nguyên nhân ảnh hưởng để trong kỳ kinh doanh tới phát huy hơn nữa những thành tích đã đạt được, tránh lặp lại những sai lầm và giải quyết mâu thuẫn còn vướng mắc. Đúc kết được những bài học kinh nghiệm, những sáng kiến cải tiến rút ra từ thực tiễn, kể cả những bài học kinh nghiệm thành công huặc thất bại làm cơ sở cho việc đề ra những phương án, kế hoạch kinh doanh trong kỳ tới. IV. Nguồn tài liệu và phương pháp phân tích 1.Nguồn tài liệu Phân tích kinh tế nói chung cũng như phân tích hoạt động kinh tế nói riêng có một vai trò rất quan trọng trong quản lý kinh tế vĩ mô cũng như vi mô. Để quản lý tốt nền kinh tế quốc dân, quản lý một ngành hay quản lý một doanh nghiệp đòi hỏi các nhà quản lý phải đưa ra những chủ trương chính sách biện pháp quản lý đúng đắn, phù hợp với tình hình thực tiễn và quy luật phát triển khách quan. Muốn vậy đòi hỏi các nhà quản lý các cấp phải thường xuyên tiến hành phân tích các hiện tượng kinh tế cũng như quá trình và kết quả sản xuất kinh doanh. Để có thể tiến hành phân tích đòi hỏi phải thu thập một lượng thông tin cần thiết đầy đủ kịp thời phù hợp với mục đích yêu cầu về nội dung và phạm vi của đối tượng phân tích. Thông tin dùng trong phân tích hoạt động kinh tế là những số liệu tài liệu cần thiết làm cơ sở để tính toán và phân tích tình hình và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nó cũng là cơ sở cho việc đề ra các quyết định tối ưu trong kinh doanh và quản lý. Các quyết định của nhà quản lý nếu thiếu sự nghiên cứu, phân tích một cách đầy đủ toàn diện các số liệu thông tin thì sẽ dẫn tới những quyết định thoát ly thực tế không phù hợp với yêu cầu khách quan từ đó sẽ dẫn đến khả năng rủi ro thua lỗ trong sản xuất kinh doanh. Nguồn tài liệu ta có thể sử dụng để phân tích hoạt động kinh tế của doanh nghiệp gồm: nguồn tài liệu bên ngoài và nguồn tài liệu bên trong doanh nghiệp cung cấp. * Nguồn tài liệu bên ngoài là các nguồn tài liệu phản ánh chủ trương chính sách của Đảng nhà nước và các ngành về việc chỉ đạo, phát triển sản xuất và lưu thông trong và ngoài nước. + Chính sách kinh tế tài chính do nhà nước quy định trong từng thời kỳ như: chính sách cấp vốn huặc cho vay vốn, các chính sách thuế của nhà nước, chính sách về kinh tế đối ngoại, chính sách về ngoại giao…. + Tình hình thay đổi về thu nhập thị hiếu trong và ngoài nước. + Biến động về cung cầu giá cả trên thị trường trong và ngoài nước. * Nguồn tài liệu bên trong là các tài liệu liên quan đến việc phản ánh quá trình và kết quả hoạt động của doanh nghiệp + Tài liệu thông tin từ các kế hoạch sản xuất kinh doanh đã đặt ra bao gồm: kế hoạch tài chính, kế hoạch xuất khẩu hàng hoá, kế hoạch về sử dụng vốn… + Số liệu trên các báo cáo tài chính do phòng kế toán lập hàng kỳ: báo cáo kết quả kinh doanh, bảng cân đối kế toán, bảng cân đối tài khoản, báo cáo lưu chuyển tiền tệ, thuyết minh báo cáo tài chính. + Số liệu do các phòng kinh doanh cung cấp hàng tháng: báo cáo xuất khẩu theo tháng, theo quý. + Tài liệu hạch toán: các sổ sách kế toán, hạch toán tổng hợp, chi tiết, các chứng từ hoá đơn. Thông tin trong phân tích hoạt động kinh tế rất phong phú và đa dạng, trước khi tiến hành phân tích cần phải kiểm tra lại thông tin, số liệu tài liệu đã thu thập để đảm bảo tính đúng đắn về mặt nội dung kinh tế, thời điểm địa điểm phát sinh, phương pháp ghi chép, tính toán để tránh những sai sót vì sự sai sót về số liệu dùng trong phân tích sẽ ảnh hưởng đến kết quả phân tích. Tuỳ thuộc vào nội dung và yêu cầu phân tích mà nhà phân tích sẽ lựa chọn thông tin cho thích hợp. 2. Phương pháp phân tích Xuất phát từ nội dung, đối tượng và nhiệm vụ phân tích của doanh nghiệp, phân tích kinh tế vừa phải sử dụng các phương pháp nghiên cứu của các môn khoa học khác như thống kê, kế toán, tài chính, quản lý kinh tế… vừa có những phương pháp nghiên cứu riêng của mình, mỗi phương pháp đều có những ưu nhược điểm và điều kiện vận dụng nhất định, mang tính nghiệp vụ – kỹ thuật cụ thể, phải tuỳ thuộc vào loại hình doanh nghiệp, bản chất của các hiện tượng kinh tế, kết quả kinh tế, đối tượng cụ thể, các nguồn tài liệu, số liệu và vào mục đích phân tích… để lựa chọn phương pháp thích hợp. Sau đây là một số phương pháp thường được sử dụng: 2.1/ Phương pháp so sánh So sánh là phương pháp được sử dụng phổ biến để đánh giá kết quả, xác định vị trí và xu hướng biến động của các chỉ tiêu phân tích. Để áp dụng phương pháp so sánh cần phải đảm bảo các điều kiện có thể so sánh được của các chỉ tiêu: + Thống nhất về nội dung, phương pháp xác định, thời gian và đơn vị tính của chỉ tiêu so sánh. + Tuỳ theo mục đích phân tích để xác định gốc so sánh. Gốc so sánh có thể chọn gốc thời gian (kỳ kế hoạch, kỳ trước, cùng kỳ năm trước…) huặc gốc không gian (so với tổng thể, so với đơn vị khác có điều kiện tương đương, so với các bộ phận trong cùng tổng thể…) kỳ được chọn làm gốc so sánh gọi là kỳ gốc, còn kỳ được chọn để phân tích là kỳ phân tích. Các trị số của chỉ tiêu tính ra ở từng thời kỳ tương ứng là trị số chỉ tiêu kỳ gốc, kỳ phân tích. Có nhiều dạng so sánh, phải căn cứ vào mục đích và yêu cầu của việc phân tích để lựa chọn dạng so sánh. Mỗi dạng so sánh đều có ý nghĩa kinh tế riêng của nó, giúp cho doanh nghiệp biết được sự vận động của các hoạt động kinh tế trên mọi góc độ khác, từ đó có những phương pháp khai thác tiềm năng của bản thân doanh nghiệp và tiềm năng của xã hội mà doanh nghiệp có thể khai thác được. Qua so sánh ta biết được kết quả của việc thực hiện các nhiệm vụ đã đặt ra, biết được tốc độ phát triển của các hiện tượng kinh tế đồng thời biết được mức độ cụ thể của từng bộ phận cấu thành hệ thống chỉ tiêu cần phân tích. Phương pháp so sánh được sử dụng trong phân tích hoạt động kinh tế bao gồm nhiều nội dung khác nhau: ă So sánh giữa số thực hiện của kỳ báo cáo với số kế hoạch huặc số định mức để thấy được mức độ hoàn thành bằng tỷ lệ phần trăm (%) hay số chênh lệch tăng giảm. ă So sánh giữa số liệu thực hiện kỳ báo cáo với số liệu cùng kỳ năm trước huặc các năm trước. Mục đích của việc so sánh này là để thấy được sự biến động tăng giảm của các chỉ tiêu kinh tế qua những thời kỳ khác nhau và xu thế phát triển của chúng trong tương lai. ă So sánh giữa số liệu thực hiện của một đơn vị này với một đơn vị khác để thấy được sự khác nhau và mức độ,khả năng phấn đấu của đơn vị. Thông thường thì người ta thường so sánh với những đơn vị bình quân tiên tiến trở lên. Ngoài ra, trong phân tích hoạt động kinh tế người ta thường phải so sánh giữa doanh thu với chi phí đế xác định kết quả kinh doanh huặc so sánh giữa chỉ tiêu cá biệt với các chỉ tiêu chung để xác định tỷ trọng của nó trong chỉ tiêu chung… Để phục vụ cho mục đích cụ thể của phân tích người ta thường tiến hành so sánh bằng các phương pháp sau: * So sánh giản đơn So sánh giản đơn là phương pháp so sánh trực tiếp trị số của chỉ tiêu phân tích giữa hai kỳ (kỳ phân tích và kỳ gốc) 100 ´ Chỉ tiêu thực hiện Chỉ tiêu kế hoạch Tỷ lệ hoàn thành kế hoạch (%) = Mức chênh lệch = Chỉ tiêu thực hiện – Chỉ tiêu kế hoạch. Việc so sánh như trên sẽ cho biết khối lượng, quy mô mà doanh nghiệp đạt ở mức độ nào, với tỷ lệ đạt bao nhiêu. * So sánh có liên hệ: So sánh có liên hệ là phương pháp so sánh để xem xét sự biến động của chỉ tiêu phân tích nhưng có liên hệ với tình hình thực hiện của một chỉ tiêu khác có liên quan. 100 ´ Chỉ tiêu thực hiện Chỉ tiêu liên hệ thực hiện Tỷ lệ hoàn thành kế hoạch = ´ Chỉ tiêu kế hoạch (liên hệ với …) Chỉ tiêu liên hệ kế hoạch Phương pháp so sánh còn được dùng để phản ánh nhịp độ biến động hay tốc độ tăng trưởng của chỉ tiêu cần phân tích (thường là 5 năm). Tốc độ phát triển liên hoàn: Tốc độ phát triển định gốc: Tốc độ phát triển bình quân: Trong đó: : tỷ lệ phát triển liên hoàn : tỷ lệ phát triển bình quân : tỷ lệ phát triển định gốc : doanh thu bán hàng kỳ i : doanh thu bán hàng kỳ i -1 : doanh thu bán hàng kỳ gốc Phương pháp so sánh giản đơn được sử dụng để phân tích tình hình xuất khẩu theo thị trường, theo các đơn vị trực thuộc, theo các phòng kinh doanh và theo tháng. Thông qua việc so sánh này ta biết được các phòng kinh doanh xuất nhập khẩu có hoàn thành nhiệm vụ xuất khẩu của mình hay không cả về số tương đối và số tuyệt đối, phương pháp so sánh còn được sử dụng để theo dõi tình hình xuất khẩu qua các năm (thường là 5 năm trở lên) để thấy được xu hướng của xuất khẩu qua các năm là tăng hay giảm. Như vậy phương phương pháp so sánh được sử dụng hầu hết trong các nội dung phân tích tình hình xuất khẩu. Ngoài phương pháp so sánh còn có một số phương pháp cũng được sử dụng trong phân tích tình hình và hiệu quả xuất khẩu, sau đây là các phương pháp đó. 2.2/ Phương pháp biểu mẫu sơ đồ Trong phân tích kinh tế người ta phải dùng biểu mẫu, sơ đồ phân tích để phản ánh một cách trực quan qua các số liệu phân tích. Biểu phân tích nhìn chung được thiết lập theo các dòng cột để ghi chép các chỉ tiêu và số liệu phân tích. Các dạng biểu phân tích thường phản ánh mối quan hệ so sánh giữa các chỉ tiêu kinh tế có liên hệ với nhau: so sánh giữa số thực hiện với số kế hoạch, so với số cùng kỳ năm trước huặc so sánh giữa chỉ tiêu cá biệt với chỉ tiêu tổng thể. Số lượng các dòng cột tuỳ thuộc vào mục đích yêu cầu và nội dung phân tích. Tuỳ theo nội dung phân tích mà biểu phân tích có tên gọi khác nhau, đơn vị tính khác nhau. Còn sơ đồ, biểu đồ đồ thị được sử dụng trong phân tích để phản ánh sự biến động tăng giảm của các chỉ tiêu kinh tế trong những khoảng thời gian khác nhau huặc các mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau mang tính chất hàm số giữa các chỉ tiêu kinh tế. Khi tiến hành phân tích tình hình hay hiệu quả xuất khẩu thì ta đều phải lập bảng biểu để ghi các số liệu vào các dòng cột đã chọn thực chất chính là ta đang áp dụng phương pháp biểu mẫu sơ đồ, tuy nhiên phương pháp này không được sử dụng một mình nó nó còn kết hợp với các phương pháp khác như phương pháp so sánh, phương pháp số chênh lệch, tỷ trọng, tỷ suất. Ngoài ra, trong phân tích hoạt động kinh tế người ta còn sử dụng các phương trình quy hoạch tuyến tính huặc phương trình phi tuyến trong trường hợp các chỉ tiêu phân tích kinh tế có liên hệ với các chỉ tiêu khác bằng các phương trình trên. Các kết quả thu được khi sử dụng các hàm hồi quy thông qua ngoại suy chủ yếu phục vụ cho phân tích dự đoán để lập các chỉ tiêu cho các kế hoạch ngắn và dài hạn. Nhưng khi sử dụng các kết quả đó cần phải lưu ý rằng chúng được tính toán dựa trên các hiện tượng và kết quả kinh tế đã xảy ra trong quá khứ và lại được sử dụng cho hiện tại và tương lai gần, trong đó chúng còn chịu sự tác động của nhiều yếu tố khác. Do đó, cần phải tính đến sự tác động của các nhân tố đó để tiến hành điều chỉnh các chỉ tiêu đã được lập ra sao cho phù hợp với tình hình biến động của thực tế, đảm bảo tính hiện thực, tính khoa học của các chỉ tiêu, giúp cho công tác quản lý đạt được hiệu quả cao nhất. trọng, tỷ suất. Phương pháp này được dùng để phân tích tình hình xuất khẩu theo các nội dung như đã nêu ở phương pháp so sánh. Đây cũng là một phương pháp được sử dụng phổ biến giống như phương pháp so sánh. 2.3/ Phương pháp cân đối Trong hệ thống các chỉ tiêu kinh tế – tài chính của doanh nghiệp có nhiều chỉ tiêu có liên hệ với nhau bằng những mối liên hệ mang tính chất cân đối. Các quan hệ cân đối trong doanh nghiệp có hai loại: cân đối tổng thể và cân đối cá biệt Cân đối tổng thể là mối quan hệ cân đối của các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp. Ví dụ: giữa tài sản và nguồn vốn kinh doanh liên hệ với nhau bằng công thức: ồ Tài sản = ồ Nguồn vốn Huặc giữa các chỉ tiêu của lưu chuyển hàng hoá có mối quan hệ cân đối được phản ánh qua công thức: Hàng tồn đầu kỳ + Hàng nhập trong kỳ = Hàng bán trong kỳ + Hao hụt + Hàng tồn cuối kỳ Cân đối cá biệt là quan hệ cân đối của các chỉ tiêu kinh tế cá biệt Nợ phải thu khách hàng đầu kỳ + Nợ phải thu khách hàng trongkỳ = Nợ phải thu khách hàng đã thu trong kỳ + Nợ phải thu khách hàng cuối kỳ v.v… Từ những mối liên hệ mang tính cân đối nếu có sự thay đổi một chỉ tiêu nào đó sẽ dẫn sự thay đổi một chỉ tiêu khác từ đó xác định được ảnh hưởng của từng nhân tố đến đối tượng phân tích. Do vậy khi phân tích một chỉ tiêu kinh tế có liên hệ với các chỉ tiêu kinh tế khác bằng mối liên hệ cân đối ta phải lập công thức cân đối, thu thập số liệu, áp dụng phương pháp số chênh lệch để xác định mức độ ảnh hưởng của các chỉ tiêu đến chỉ tiêu phân tích. Ví dụ: Khi tính toán phân tích trị giá vốn của hàng xuất bán trong kỳ ta có công thức sau: Trị giá vốn hàng xuất bán = Trị giá hàng tồn kho đầu kỳ + Trị giá hàng mua vào trong kỳ - Hao hụt trong kỳ - Trị giá hàng tồn cuối kỳ Huặc Nợ phải thu khách hàng cuối kỳ = Nợ phải thu khách hàng đầu kỳ + Nợ phải thu khách hàng trong kỳ - Nợ phải thu khách hàng đã thu trong kỳ 2.4/ Phương pháp thay thế liên hoàn và phương pháp số chênh lệch Quá trình sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp luôn chịu sự tác động ảnh hưởng của các nhân tố trong đó có những nhân tố mang tính chất khách quan và có những nhân tố mang tính chất chủ quan. Về mức độ ảnh hưởng có nhân tố ảnh hưởng tăng, nhưng có những nhân tố ảnh hưởng giảm kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Do vậy, để phân tích các nhân tố ảnh hưởng qua đó thấy được mức độ và tính chất ảnh hưởng của các nhân tố đến đối tượng nghiên cứu ta phải áp dụng những phương pháp tính toán khác nhau trong đó có phương pháp thay thế liên hoàn và phương pháp số chênh lệch. Phương pháp thay thế liên hoàn được sử dụng trong trường hợp giữa đối tượng phân tích với các nhân tố ảnh hưởng có mối liên hệ phụ thuộc chặt chẽ được thể hiện bằng những công thức toán học mang tính chất hàm số trong đó có sự thay đổi của các nhân tố thì kéo theo sự biến đổi của chỉ tiêu phân tích. Ví dụ: khi phân tích doanh thu bán hàng ta thấy có hai nhân tố ảnh hưởng cơ bản là số lượng hàng bán và đơn giá bán. Hai nhân tố đó có liên hệ với doanh thu bán hàng bằng công thức sau: Doanh thu bán hàng = Số lượng hàng bán ´ Đơn giá bán Phương pháp thay thế liên hoàn cho phép thu nhận một dãy số những giá trị điều chỉnh bằng cách thay thế liên hoàn các giá trị ở kỳ gốc của các nhân tố bằng giá trị của các kỳ báo cáo. Số lượng nhân tố càng nhiều thì số điều chỉnh càng nhiều. Mỗi lần thay thế là một lần tính toán riêng biệt. Kết quả tính toán được khi thay thế trừ đi giá trị của kỳ gốc huặc giá trị thay thế lần trước thể hiện mức độ ảnh hưởng nhân tố đó đến đối tượng phân tích. Nếu số chênh lệch mang dấu (+) thì ảnh hưởng tăng và ngược lại. Khi thay thế một nhân tố thì phải giả định nhân tố khác không thay đổi. Các nhân tố thay đổi phải được sắp xếp trong công thức tính toán theo một trình tự hợp lý. Khi thay đổi trình tự thay thế có thể cho ta những kết quả khác nhau, nhưng tổng của chúng không thay đổi. Dạng tổng quát của phương pháp thay thế liên hoàn có thể được minh hoạ như sau: Giả sử một chỉ tiêu phân tích có hai nhân tố ảnh hưởng được thể hiện bằng biểu thức: Z = f(x,y) = x.y Trong đó: Z là chỉ tiêu tổng hợp cần phân tích F là hàm số x;y là những biến số biểu thị sự biến đổi của hai nhân tố ảnh hưởng. Ta có: là giá trị gốc là giá trị kỳ thực tế là giá trị điều chỉnh của nhân tố x là giá trị điều chỉnh của nhân tố y Số chênh lệch tuyệt đối của chỉ tiêu phân tích được xác định bằng công thức: Số chênh lệch do tác động của nhân tố x Số chênh lệch do tác động của nhân tố y Tổng hợp lại ta có: Trong thực tế phân tích, phương pháp thay thế liên hoàn còn được thực hiện bằng phương pháp số chênh lệch. Phương pháp số chênh lệch sử dụng ngay số chênh lệch của các nhân tố ảnh hưởng để thay thế vào các biểu thức tính toán mức độ ảnh hưởng của nhân tố đó đến chỉ tiêu phân tích. So với phương pháp thay thế liên hoàn, phương pháp số chênh lệch đơn giản hơn trong cách tính toán, cho ngay kết quả cuối cùng. Tuy nhiên phương pháp này chỉ được áp dụng trong trường hợp đối tượng phân tích liên hệ với các nhân tố ảnh hưởng bằng công thức tính giản đơn, chỉ có phép nhân, không có phép chia. Phương pháp chênh lệch được minh hoạ tổng quát như sau: là số chênh lệch của nhân tố x là số chênh lệch của nhân tố y là số chênh lệch do tác động của nhân tố x là số chênh lệch do tác động của nhân tố y phương pháp thay thế liên hoàn và phương pháp số chênh lệch không được dùng trong phân tích tình hình và hiệu quả xuất khẩu ở Công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm Hà Nội nhưng phương pháp này vẫn được đưa ra nhằm giúp cho công ty có thể dùng phương pháp này để xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến kim ngạch xuất khẩu. Để xác định mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố tới kim ngạch xuất khẩu có thể dùng công thức sau: Kim ngạch xuất khẩu (USD) = Số lượng hàng xuất khẩu ´ Đơn giá xuất khẩu ´ Tỷ giá ngoại tệ Sử dụng công thức trên cùng phương pháp thay thế liên hoàn huặc phương pháp số chênh lệch ta sẽ xác định được mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố trên đến kim ngạch xuất khẩu. 2.5 Phương pháp chỉ số Phương pháp chỉ số được áp dụng để tính toán phân tích sự biến động tăng giảm và mối liên hệ tác động phụ thuộc lẫn nhau của các chỉ tiêu kinh tế có một huặc nhiều yếu tố khác. Chỉ tiêu chỉ số được xác định bằng mối liên hệ so sánh của một chỉ tiêu kinh tế ở những thời điểm khác nhau, thường là so sánh kỳ báo cáo và kỳ gốc. Các chỉ số áp dụng trong phân tích kinh tế có hai loại: chỉ số chung và chỉ số cá thể. Chỉ số chung là chỉ số phản ánh sự biến động tăng giảm của một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp có nhiều yếu tố hợp thành. Ví dụ: Chỉ số tăng giảm của chỉ tiêu doanh thu bán hàng trong kỳ. Chỉ số cá thể là chỉ số phản ánh sự biến động tăng giảm của một chỉ tiêu kinh tế riêng biệt. Ví dụ: Chỉ số giá cả hàng hoá bán ra trong kỳ; chỉ số tăng giảm lao động huặc mức thu nhập của người lao động trong kỳ… Phân tích kinh tế bằng phương pháp chỉ số cho phép ta thấy được mức biến động tăng giảm và mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa các yếu tố hợp thành của một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp tại những thời điểm khác nhau. Ví dụ: Trong đó: chỉ số doanh thu bán hàng trong kỳ chỉ số số lượng hàng bán chỉ số giả cả hàng bán áp dụng công thức trên, kết hợp với phương pháp thay thế liên hoàn có thể xác định được mức độ ảnh hưởng của các nhân tố (số tuyệt đối) đến Doanh thu bán hàng, doanh thu xuất khẩu. + Tỷ trọng: là chỉ tiêu phản ánh tỷ lệ % của một chỉ tiêu cá thể so với chỉ tiêu tổng thể. 100 ´ Số cá biệt = Tỷ trọng (%) Số tổng thể Tỷ trọng được sử dụng trong phân tích tình hình xuất khẩu hàng hoá theo thị trường, dựa vào công thức này ta sẽ tính được từng thị trường có kim ngạch xuất khẩu chiếm tỷ trọng bao nhiêu trong tổng số. LN XK trước thuế (sau thuế) + Tỷ suất: là một chỉ tiêu phản ánh mối quan hệ so sánh giữa một chỉ tiêu này với một chỉ tiêu khác có liên hệ chặt chẽ và tác động lẫn nhau: tỷ suất chi phí, tỷ suất lợi nhuận, tỷ suất tự tài trợ, tỷ suất đầu tư. Nó được sử dụng trong phân tích hiệu quả kinh doanh xuất khẩu. Dựa vào tỷ suất như tỷ suất lợi nhuận ta sẽ biết được lợi nhuận doanh nghiệp thu được thực tế so với doanh thu là bao nhiêu, hay tỷ suất chi phí phản ánh tình hình sử dụng chi phí thực tế thể hiện việc tiết kiệm hay lãng phí chi phí. 100 ´ Doanh thu thuần Tỷ suất LNXK trên doanh thu = LN XK trước thuế (sau thuế) 100 ´ Tổng vốn kinh doanh bình quân Tỷ suất lợi nhuận trên vốn = chương II thực trạng về phân tích tình hình và hiệu quả kinh doanh xuất khẩu tại công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm hà nội Giới thiệu khái quát về công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm hà nội Tên công ty: Công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm Hà Nội Tên giao dịch: tocontap Trụ sở: 36 Bà Triệu – Quận hoàn kiếm – Hà Nội Quá trình hình thành và phát triển Tổng công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm Hà Nội được thành lập ngày 5/3/1956, trực thuộc Bộ Công Thương. Trong nền kinh tế tập trung với quy mô là một tổng công ty, công ty là một doanh nghiệp chủ đạo của nhà nước trong hoạt động ngoại thương. Với hơn 10 lần tách nhập, tổ chức của công ty có nhiều sự thay đổi: tách dần một số bộ phận để thành lập các công ty khác như: Artexport, Bartex, Textimex, Mecanimex… Theo quyết định số 333/TM – TCCB về việc sắp xếp lại các Doanh nghiệp nhà nước do Bộ Thương Mại ban hành ngày 31/03/1993, tổng công ty được đổi thành Công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm Hà Nội. Đây là một công ty có bề dầy lịch sử buôn bán quốc tế lâu năm nhất ở Việt Nam. Công ty đã xác lập mối quan hệ kinh tế – quốc tế với trên 70 nước và khu vực trên toàn thế giới. Hoạt động của công ty không chỉ hạn chế trong lĩnh vực XNK đơn thuần mà đã mở rộng ra nhiều lĩnh vực khác như: tiếp nhận gia công, lắp ráp, sản xuất theo mẫu mã kiểu dáng mà khách hàng yêu cầu, đổi hàng, hợp tác đầu tư xí nghiệp để sản xuất hàng XNK, đại lý nhập khẩu, chuyển khẩu… Các chi nhánh công ty trong và ngoài nước thuộc công ty: + Chi nhánh tocontap tại TPHCM: 1168D - Đường 312 – Quận 11 + Chi nhánh tocontap tại Hải Phòng: 96A – Nguyễn Đức Cảnh + Xí nghiệp tocan chuyên sản xuất chổi quét sơn, con lăn tường liên doanh với Canada. + Các văn phòng đại diện tại Đức, Nga, Séc, Hungari Chi nhánh TPHCM Đại diện công ty tại Đức, Nga, Hungari, Séc Công ty XNK tạp phẩm Hà Nội Xí nghiệp tocan Chi nhánh Hải Phòng Công ty là một đơn vị hạch toán độc lập có tư cách pháp nhân tự chủ về mặt tài chính, có tài khoản VNĐ và ngoại tệ tại ngân hàng và có con dấu riêng, công ty hoạt động theo luật pháp nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam và theo điều lệ tổ chức của công ty. 2. Chức năng, nhiệm vụ của công ty * Chức năng của công ty Trong cơ chế thị trường, công ty được trao quyền tự chủ kinh doanh, tìm kiếm bạn hàng, tự hạch toán kinh doanh và đảm bảo kinh doanh có lãi. Ngoài ra, công ty phải tiếp tục hoàn thành các chỉ tiêu do Bộ Thương Mại giao cho. Tạo lập tốt các mối quan hệ hợp tác kinh doanh lâu dài, đảm bảo tăng trưởng vốn và cải thiện đời sống cho cán bộ công nhân viên. Mục đích kinh doanh của công ty là thông qua các hoạt động XNK, sản xuất, liên doanh, hợp tác đầu tư sản xuất để khai thác có hiệu quả nguồn vật tư nguyên liệu và nhân lực của đất nước, đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu tăng thu ngoại tệ cho đất nước. Nội dung hoạt động: + XNK các mặt hàng tạp phẩm và vật tư, nguyên liệu để phục vụ nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước do công ty khai thác từ mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước và do công ty tự sản xuất và liên doanh, liên kết hợp tác đầu tư với tổ chức và cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế. + Nhận XNK uỷ thác, làm đại lý, môi giới mua bán các mặt hàng cho các tổ chức thuộc mọi thành phần kinh tế trong nước và nước ngoài theo quyết định của nhà nước và Bộ Thương Mại. + Tổ chức sản xuất gia công hàng XNK, liên doanh liên kết hợp tác đầu tư sản xuất, tiêu thụ sản phẩm với các tổ chức trong và ngoài nước. * Nhiệm vụ của công ty + Xây dựng và tổ chức có hiệu quả các kế hoạch sản xuất kinh doanh trong đó có kế hoạch xuất nhập khẩu + Tạo điều kiện cho các đơn vị trực thuộc, đơnvị liên doanh áp dụng các biện pháp có hiệu quả để nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu + Tự tạo nguồn vốn, đảm bảo tự trang trải về mặt tài chính, bảo toàn vốn, đáp ứng yêu cầu phục vụ phát triển kinh tế và XNK của đất nước. Quản lý sử dụng theo đúng chế độ và có hiệu quả các nguồn đó. + Tiếp cận thị trường, nghiên cứu khả năng sản xuất, nhu cầu thị trường, cải tiến mẫu mã, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật để nâng cao chất lượng hàng hoá, tăng năng lực cạnh tranh cho hàng hóa đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và nhu cầu xuất khẩu. + Tuân thủ các chế độ, chính sách, luật pháp quy định liên quan đến hoạt động của đơn vị. Thực hiện nghiêm chỉnh các hợp đồng kinh tế nói chung, hợp đồng ngoại thương nói riêng. Sau khi ký kết hợp đồng với khách hàng nước ngoài phải sao chụp hợp đồng gửi cho phòng KTTC. Tuân thủ sự quản lý của cấp trên thực hiện đúng nghĩa vụ với cơ quan cấp trên với nhà nước. + Không ngừng cải thiện điều kiện lao động nhằm nâng cao năng suất lao động từ đó nâng cao đời sống cho cán bộ công nhân viên và hiệu quả kinh tế. 3. Tổ chức bộ máy quản lý sản xuất kinh doanh Khi chuyển sang kinh doanh thích ứng với nền kinh tế thị trường, công ty cần phải có một bộ máy chỉ đạo kinh doanh ngọn nhẹ và nhạy bén để các bộ phận trong cơ cấu tổ chức có thể liên hệ mật thiết với nhau đảm bảo tính đồng bộ của toàn bộ hệ thống. Vì vậy, trướckia tocontap có 10 phòng quản lý, 1992 có 7 phòng hiện nay sắp xếp thu gọn còn lại 4 phòng, đồng thời công ty cũng phải giải thể những phòng kinh doanh kém hiệu quả, thành lập một số phòng kinh doanh mới năng động và hiệu quả hơn. Hiện nay Công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm Hà Nội có cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý như sau: Tổng giám đốc Phó tổng giám đốc Phòng tổ chức và quản lý lao động Các chi nhánh tại các tỉnh Phòng kinh doanh XNK1…XNK 8 Phòng tổng hợp Phòng hành chính quản trị Phòng tài chính kế toán Các đơn vị thuộc công ty Nhiệm vụ các phòng ban: + Tổng giám đốc là người đứng đầu công ty chịu trách nhiệm trước pháp luật và bộ thương mại về các hoạt động và hiệu quả kinh doanh toàn công ty. Điều hành quản lý công ty theo luật doanh nghiệp và các quy định khác có liên quan theo thoả ước lao động, hợp đồng lao động, quy chế điều khiển của công ty. + Phó giám đốc là người trực tiếp giúp tổng giám đốc điều hành hoạt động kinh doanh của công ty, chịu trách nhiệm trước tổng giám đốc về sự uỷ quyền đó. + Phòng tổ chức và quản lý lao động: tổ chức quản lý lao động của công ty theo nhiệm vụ của công ty, yêu cầu điều động, sắp xếp bố trí lao động của tổng giám đốc trên cơ sở nắm vững các quy định về tổ chức, lao động tiền lương quy định của bộ luật lao động. Làm kế hoạch tuyển dụng lao động theo mục đích sản xuất kinh doanh, giải quyết khiếu nại, vướng mắc về quyền lợi của người lao động trong công ty, bảo vệ chính trị nội bộ phòng gian bảo mật. + Phòng tổng hợp: tổng hợp các vấn đề đối nội, đối ngoại sản xuất kinh doanh. Thu thập nắm bắt thông tin mới nhất trong và ngoài nước có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Tìm hiểu, tìm kiếm đối tác để hợp tác kinh doanh cho công ty, phiên dịch, biên dịch các tài liệu giúp tổng giám đốc nắm được tình hình diễn biến hàng ngày. Thống kê và lập bảng biểu hướng dẫn các đơn vị sản xuất kinh doanh, xây dựng kế hoạch quý, tháng, năm. Tổng hợp và phân tích các dữ liệu, số liệu phát sinh, cung cấp cho tổng giám đốc kịp thời điều chỉnh sản xuất kinh doanh, làm các báo cáo định kỳ trình tổng giám đốc, bộ chủ quản, các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan. Tập trung những ý kiến bằng văn bản công việc có liên quan chung đến tổng giám đốc xem xét quyết định Theo dõi đôn đốc ghi sổ những hợp đồng kinh doanh xuất nhập khẩu thông qua giấy phép và tờ khai hải quan để từ đó giám đốc có thể nắm chắc hoạt động XNK của các phòng kinh doanh. Hàng tháng vào ngày 04 cung cấp các số liệu thực hiện kim ngạch của từng phòng để tính lương. + Phòng kế toán tài chính: Với chức năng giám đốc đồng tiền thông qua việc kiểm soát quản lý tiền vốn và tài sản của công ty. Phòng có chức năng: ã Hướng dẫn các đơn vị sản xuất kinh doanh về nghiệp vụ mở sổ sách theo dõi hoạt động của đơn vị, theo quyđịnh của chế độ báo cáo thống kê kế toán hạch toán nội bộ, theo quy định của công ty và hướng dẫn của bộ tài chính. ã Kiểm tra, kiểm soát các phương án kinh doanh đã được Tổng giám đốc duyệt. Thường xuyên đối chiếu chứng từ để các đơn vị hạch toán chính xác. Tham gia góp ý và chịu trách nhiệm về các kiến nghị của mình về từng phương án kinh doanh cụ thể xác định kết quả kinh doanh để tính trả lương cho các đơn vị. Xây dựng phương thức quy chế, hình thức cho vay vốn, giám sát theo dõi việc sử dụng vốn vay của công ty và bảo lãnh ngân hàng. Nắm chắc chu trình luân chuyển vốn của từng hợp đồng, phương án nhằm ngăn chặn nguy cơ sử dụng vốn kém hiệu quả, huặc mất vốn, không để tình trạng này xảy ra vì buông lỏng quản lý, vi phạm nguyên tắc quản lý tài chính tiền tệ. ã Lập quỹ dự phòng để giải quyết các phát sinh bất lợi trong sản xuất kinh doanh. Chủ động sử lý khi có những thay đổi về tổ chức nhân sự lao động có liên quan đến tài chính. +Phòng hành chính quản trị: chức năng chính là phục vụ sản xuất kinh doanh, quản lý hành chính văn thư lưu trữ dữ liệu, hồ sơ chung, phương tiện thiết bị đã mua sắm để phục vụ cho quản lý và điều hành sản xuất kinh doanh trong toàn công ty có hiệu quả và tiết kiệm. Ngoài ra phòng còn có chức năng khác như: Cất trữ bảo quản, giữ gìn những tài sản hiện có không để hư hỏng mất mát, xuống cấp huặc xảy ra cháy nổ. Đề xuất mua sắm các phương tiện làm việc và các nhu cầu sinh hoạt của công ty, sửa chữa, bảo vệ an toàn cơ quan. Duy trì thời gian làm việc, giữ gìn vệ sinh đảm bảo môi trường công ty sạch đẹp. Đáp ứng nhu cầu cần thiết của lãnh đạo và các phòng ban trong công ty về điều kiện làm việc như chống nóng, chống mất cắp và có biện pháp ngăn ngừa kẻ trộm đột nhập vào cơ quan lấy tài liệu. + Phòng kinh doanh: với người đại diện là trưởng phòng được giám đốc uỷ quyền ký kết các hợp đồng, uỷ thác theo phương án kinh doanh đã được giám đốc duyệt và phải chịu trách nhiệm trước giám đốc về sự uỷ nhiệm đó. Phòng kinh doanh XNK1: chuyên kinh doanh xuất nhập khẩu các mặt hàng sản phẩm bằng giấy, từ giấy như bột giấy, giấy báo, vở, giấy than, giấy in, các loại máy vi tính, máy in laser và phụtùng… Phòng kinh doanh XNK 2: chuyên kinh doanh các loại văn phòng phẩm, đồ dùng học sinh, dụng cụ thể thao. Các mặt hàng gốm sứ, mỹ nghệ sơn mài. Các loại đồ dùng bằng nhựa, các dụng cụ cầm tay trong gia đình và cho công việc nội trợ, nhạc cụ, đồ chơi trẻ em. Phòng kinh doanh XNK 3: chuyên kinh doanh các mặt hàng may mặc, hàng dệt kim, hàng len dạ, các nguyên vật liệu dùng cho ngành dệt như bông tự nhiên, bông tổng hợp, tơ len tự nhiên, tơ len nhân tạo… Phòng XNK 4: chuyên kinh doanh các mặt hàng về thiết bị điện, điện tử hàng gia dụng, thiết bị văn phòng, cáp điện các loại… Phòng XNK7: chuyên kinh doanh các mặt hàng nông lâm sản… Phòng XNK8: chuyên kinh doanh XNK các mặt hàng nông sản, thuỷ sản, thủ công mỹ nghệ tạp phẩm. Ngoài các mặt hàng chuyên doanh như trên các phòng còn XNK các mặt hàng khác khi có nguồn hàng và thị trường thích hợp đảm bảo kinh doanh có hiệu quả. Để nâng cao hiệu quả phòng XNK 5 sát nhập vào phòng XNK 8. 4. Đội ngũ lao động của công ty Công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm Hà Nội có 390 cán bộ công nhân viên bao gồm cả cán bộ quản lý. Năm nay so với năm trước thì công ty có không sự thay đổi về số lượng nhân viên nhưng có sự thay đổi về nhân sự. Một số người đến tuổi đã về hưu và những người trẻ tuổi vừa mới ra trường được công ty nhận vào làm việc. Toàn bộ nhân viên trong công ty đều là những người có trình độ đại học, cao đẳng huặc trung cấp. Mọi người từ giám đốc đến các nhân viên đều có tình thần làm việc tốt, sáng tạo, nhiệt tình trong công việc góp phần tạo nên thành công của công ty như ngày nay. Từ khi thành lập đến nay, công ty đã từng bước sắp xếp điều chỉnh phân công đúng người đúng việc, chọn lựa những sinh viên mới ra trường hay những người có năng lực nghiệp vụ chuyên môn để nhận vào làm tại công ty. Điều này không những giúp cho công ty có được đội ngũ lao động năng động, sáng tạo làm việc có hiệu quả mà còn góp phần tạo công ăn việc làm cho người dân. Bên cạnh những người làm việc có kinh nghiệm, kiến thức thì còn có một bộ phận những nhân viên trẻ năng động sáng tạo trong công việc đã tạo nên một không khí làm việc lành mạnh, hăng say góp phần không nhỏ vào việc thúc đẩy doanh nghiệp phát triển. Các nhân viên trong công ty được hưởng chế độ lao động theo quy định: bảo hiểm, khen thưởng, nghỉ phép, hưởng lương phù hợp với công việc của mỗi người. Mức thu nhập bình quân của nhân viên trong công ty được trình bày qua biểu sau: Chỉ tiêu Kỳ này Kỳ trước 1. Tổng quỹ lương 5.163.000.000 6.915.229.166 2. Tổng thu nhập 5.163.000.000 3. Lương bình quân 1.103.205 / tháng 1.381.940 Qua bảng trên ta thấy đời sống của cán bộ công nhân viên ngày càng được nâng cao. Như vậy các nhân viên trong công ty được quan tâm cả về vật chất lẫn tinh thần, họ sẽ làm việc ngày càng tốt hơn để làm cho doanh nghiệp kinh doanh ngày một hiệu quả. 5. Tình hình thực hiện công tác tài chính 5.1. Tình hình tổ chức và phân cấp quản lý tài chính * Tổ chức bộ máy kế toán Công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm Hà Nội là một đơn vị hạch toán kinh doanh độc lập. Theo quy định của bộ thương mại công ty được quyền tự chủ về tài chính, tự tổ chức kinh doanh theo quy định của nhà nước. Vì thế phòng kế toán tài chính của công ty có nhiệm vụ tổ chức quản lý tài chính, hạch toán với tư cách là đơn vị hạch toán độc lập. Bộ máy kế toán của công ty tổ chức hình thức kế toán tập trung. Để thực hiệntốt chức năng nhiệm vụ của mình nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh tại công ty đã áp dụng chế độ thống kê kế toán do Bộ Tài Chính ban hành. Năm tài chính của công ty bắt đầu từ ngày 1 tháng 1 đến ngày 31 tháng 12 hàng năm. Tại công ty việc phân tích hoạt động kinh doanh được tiến hành mỗi năm 1 lần theo quy chế hiện hành. Do áp dụng chế độ kế toán tập trung nên tại các chi nhánh Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh kế toán tiến hành thu thập chứng từ sử lý ban đầu sau đó gửi lên phòng kế toán công ty để hạch toán tổng hợp. Phòng kế toán của công ty gồm 10 người được phân công các phần hành kế toán cụ thể: - Trưởng phòng kế toán tài chính (kiêm kế toán trưởng) chịu trách nhiệm điều hành chung công tác hạch toán của công ty và các đơn vị trực thuộc. Là người trực tiếp thông tin báo cáo, giúp giám đốc lập phương án tự chủ tài chính. - Phó phòng kế toán giúp việc kế toán trưởng và thay kế toán trưởng chịu trách nhiệm điều hành chung công tác kế toán của công ty khi kế toán trưởng đi vắng. Đồng thời quản lý các nghiệp vụ liên quan đến tiền gửi, tiền vay ngân hàng. - Kế toán tổng hợp: có trách nhiệm kiểm tra đối chiếu tất cả các tài khoản vào cuối tháng, quý, năm lập các biểu kế toán, báo cáo quyết toán, bảng cân đối tài khoản, báo cáo kết quả kinh doanh. - Các nhân viên phụ trách các phần hành kế toán gồm: + Kế toán hàng hoá phụ trách việc xuất nhập khẩu của một phòng cụ thể, chịu trách nhiệm lượng hàng xuất nhập và theo dõi tiền hàng. + Kế toán chi phí kiêm kế toán máy: tập tập phân bổ mọi chi phí kinh doanh của công ty cho hợp lý. Đồng thời có trách nhiệm tập hợp số liệu để đưa vào máy vi tính, kiểm tra số liệu của báo cáo kế toán và bảng tổng kết tài sản. + Kế toán tiền lương và thanh toán nội bộ: có trách nhiệm về các khoản chi trong nội bộ doanh nghiệp. + Kế toán thanh toán đối ngoại: thực hiện các giao dịch với ngân hàng, chịu trách nhiệm về các khoản thanh toán với nước ngoài, kiểm tra và quản lý chứng từ ngoại. + Kế toán TSCĐ: theo dõi sự tăng giảm TSCĐ, tính và trích khấu hao TSCĐ theo chế độ quy định. + Thủ quỹ: quản lý giám sát số lượng tiền xuất nhập quỹ và tiền gửi ngân hàng. + Các nhân viên tại chi nhánh, đơn vị trực thuộc có trách nhiệm thu thập sử lý sơ bộ chứng từ, định kỳ gửi về phòng kế toán công ty để theo dõi tập trung. Sơ đồ phòng kế toán tài chính Trưởng phòng kế toán Phó phòng kế toán Phó phòng tài chính Kế toán tổng hợp Thủ quỹ Bộ phận kế toán TSCĐ và kế toán máy Bộ phận kế toán thanh toán đối ngoại Bộ phận kế toán lương và thanh toán nội bộ Bộ phận kế toán hàng hoá và thanh toán tiền lương Bộ phận kế toán chi phí Các nhân viên kế toán ở các đơn vị trực thuộc * Hình thức tổ chức ghi sổ kế toán của công ty Căn cứ vào chức năng nhiệm vụ của công tác kế toán, đặc điểm kinh doanh của công ty cũng như các hoạt động kinh tế, tài chính quy mô của công ty gắn liền với khối lượng mức độ phức tạp của các nghiệp vụ kinh tế phát sinh mà công ty lựa chọn hình thức kế toán chứng từ ghi sổ. Việc lựa chọn hình thức ghi sổ cái doanh nghiệp đăng ký với bộ tài chính. đồng thời tuân thủ các quy định về hệ thống sổ sách và phương pháp ghi chép theo hình thức kế toán đã lựa chọn. Việc công ty lựa chọn hình thức chứng từ ghi sổ là phù hợp với nội dung kinh tế phát sinh. đặc biệt hình thức này có ưu điểm là đơn giản dễ làm dễ kiểm tra, dễ đối chiếu. Chứng từ gốc Sổ quỹ Sổ đăng ký chứng từ ghi sổ Trình tự ghi sổ kế toán theo hình thức chứng từ – ghi sổ Sổ thẻ kế toán chi tiết Bảng tổng hợp chứng từ gốc Chứng từ ghi sổ Bảng tổng hợp chi tiết Sổ cái Bảng cân đối số phát sinh Báo cáo tài chính Ghi chú: Ghi hàng ngày Ghi cuối tháng Đối chiếu, kiểm tra 5.2. Tình hình xây dựng các kế hoạch tài chính và việc thực hiện các kế hoạch đó Trong nền kinh tế thị trường luôn luôn có sự biến động, sự biến động đó có thể là tốt cũng có thể là xấu đối với công ty. Công ty phải luôn tìm mọi biện pháp chủ động đối phó với sự biến động đó để có thể tận dụng được mọi cơ hội kinh doanh cũng như giảm thiểu đến mức thấp nhất thiệt hại có thể xảy ra. Để có thể làm ăn có hiệu quả cao trong nền kinh tế thị trường đòi hỏi mỗi một doanh nghiệp phải xây dựng cho mình một kế hoạch kinh doanh cụ thể. Kế hoạch này phải đảm bảo công ty sẽ tận dụng hết được năng lực vật chất hiện có để tạo ra lợi nhuận lớn nhất. Trong kế hoạch kinh doanh thì kế hoạch tài chính là một bộ phận quan trọng nó giúp cho công ty sử dụng có hiệu quả các nguồn tài chính đã hình thành trong công ty, tổ chức nguồn vốn hợp lý cho các dự án kinh doanh, phân phối sử dụng lợi nhuận đúng mục đích. Công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm hà nội luôn tuân thủ đúng việc lập kế hoạch tài chính một cách cẩn thận dựa trên các kết quả tài chính của năm trước, kế hoạch tài chính phù hợp với tình hình sản xuất kinh doanh của công ty, và phù hợp với yêu cầu của bộ thương mại. Kế hoạch tài chính do cán bộ phòng kế toán lập ra sau đó gửi lên Bộ Tài Chính để duyệt nếu Bộ Tài Chính chấp thuận thì công ty sẽ thực hiện kế hoạch tài chính đó với sự đôn đốc, giám sát của phòng kế toán. Việc lập kế hoạch tài chính là rất quan trọng, nó chính là mục tiêu mà công ty cần phải hoàn thành từ đó so sánh kết quả thực hiện được với kế hoạch đã đề ra công ty sẽ biết được năm qua tình hình tài chính của công ty có hoàn thành kế hoạch do bộ thương mại giao cho hay không từ đó tìm ra nguyên nhân và giải pháp để làm sao trong năm tới hoàn thành kế hoạch được giao. Kế hoạch tài chính chính là phương hướng hoạt động của công ty, nó giúp cho công ty hoạt động không bị lệch lạc chệnh hướng khỏi mục tiêu chung của toàn công ty đó là hiệu quả kinh doanh. Trong khi thực hiện kế hoạch công ty luôn tiến hành phân tích, đánh giá tình thình thực hiện kế hoạch để tìm ra những sự cố cũng như những diễn biến mới nảy sinh trong quá trình thực hiện để kịp thời điều chỉnh, thúc đẩy qúa trình thực hiện tốt kế hoạch đề ra. 5.3 Cơ cấu nguồn vốn Bất cứ một doanh nghiệp nào muốn hoạt động sản xuất kinh doanh đều phải cần một số vốn nhất định ban đầu. Vốn là một đầu vào quan trọng nhưng một vấn đề còn quan trọng hơn đặt ra cho mỗi doanh nghiệp là làm sao để sử dụng vốn có hiệu quả. Việc phân chia nguồn vốn cho hợp lý là vấn đề cần được quan tâm. Sau đây là cơ cấu nguồn vốn tại Công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm Hà Nội Nguồn vốn Số đầu năm Số cuối năm A. Nợ phải trả 92.938.498.922 95.429.366.326 I. Nợ ngắn hạn 65.040.010.552 60.457.266.378 II. Nợ dài hạn 23.832.339.110 34.972.099.948 B. Nguồn vốn chủ sở hữu 47.632.710.268 49.932.576.735 I. Nguồn vốn quỹ 46.899.812.023 48.080.781.409 II. Nguồn kinh phí, quỹ khác 732.898.245 1.851.795.326 Tổng nguồn vốn 140.571.209.190 145.361.943.061 Qua bảng trên ta thấy tổng nguồn vốn của công ty giảm tuy nhiên nguồn vốn chủ sở hữu vẫn tăng và nợ ngắn hạn giảm xuống. Điều này chứng tỏ doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả thì nguồn vốn chủ sở hữu mới tăng thêm, tăng được khả năng tự chủ về tài chính vì giảm được các khoản nợ vay. Nguyên nhân của việc tổng nguồn vốn giảm là do nợ dài hạn tăng lên và nguồn vốn quỹ cũng tăng lên, công ty cần có kế hoạch cũng như xem xét lại cơ cấu nguồn vốn cho thích hợp hơn nữa và có kế hoạch đối với các khoản nợ dài hạn cũng như việc trích lập các quỹ trong doanh nghiệp cho hợp lý. 5.4 Tình hình tăng giảm nguồn vốn nguồn vốn chủ sở hữu Nguồn vốn chủ sở hữu là nguồn vốn kinh doanh được đầu tư từ các chủ doanh nghiệp, nớ thể hiện quy mô của doanh nghiệp. Nguồn vốn này doanh nghiệp hoàn toàn có quyền sử dụng vào mục đích kinh doanh, không phải hoàn trả như nguồn công nợ (trừ khi có quyết định rút vốn của chủ sở hữu). Nguồn vốn chủ sở hữu được hình thành từ vốn đầu tư ban đầu (vốn pháp định) và vốn bổ sung từ lợi nhuận huặc từ các nguồn khác. Để phục vụ cho yêu cầu quản lý, nguồn vốn chủ sở hữu được phân thành nguồn vốn kinh doanh, nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản, các quỹ xí nghiệp và các nguồn khác. Sự tăng giảm nguồn vốn chủ sở hữu có ảnh hưởng đến khả năng đáp ứng của vốn cho nhu cầu sản xuất kinh doanh. Sau đây là số liệu về tình hình tăng giảm nguồn vốn chủ sở hữu của Công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm Hà Nội. Chỉ tiêu Số đầu kỳ Tăng trong kỳ Giảm trong kỳ Số cuối kỳ I. Nguồn vốn kinh doanh 45.210.346.469 35.715.060 45.246.061.529 1. NSNN cấp 17.804.697.480 17.804.697.480 2. Tự bổ sung 27.405.648.989 35.715.060 27.441.364.049 II. Các quỹ 926.029.016 948.966.671 35.715.060 1.839.280.627 1. Quỹ phát triển kinh doanh 792.779.397 888.259.405 35.715.060 1.645.323.742 2. Quỹ nghiên cứu KH, ĐT 3. Quỹ dự phòng tài chính 133.249.619 60.707.266 193.956.885 III. Nguồn vốn ĐTXD cơ bản 306.903.165 306.903.165 1. Ngân sách cấp 17.508.579 17.508.579 2. Nguồn khác 289.394.586 289.394.586 IV. Quỹ khác 732.898.245 730.559.353 1.076.873.816 2.540.331.414 1. Quỹ KT 211.486.540 476.352.860 170.000.000 517.839.400 2. Quỹ phúc lợi 454.826.895 223.852.860 906.873.816 598.669.755 3. Quỹ DP mất việc làm 66.584.810 30.353.633 96.938.443 Qua bảng trên ta thấy trong năm 2003 doanh nghiệp hoạt động có kết quả tốt thể hiện ở việc nguồn vốn kinh doanh tăng lên. Nguyên nhân không phải do nhà nước cấp mà do doanh nghiệp tự bổ sung từ lợi nhuận để lại cho doanh nghiệp. Nguồn vốn quỹ của doanh nghiệp cũng tăng chứng tỏ doanh nghiệp kinh doanh có lợi nhuận và quan tâm đến việc bổ sung nguồn vốn quỹ. Nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản không có sự biến động. Trong năm tiếp theo doanh nghiệp cần phát huy tốt hơn nữa thế mạnh của công ty mình để mở rộng quy mô của công ty. II. Thực trạng về phân tích tình hình xuất khẩu và hiệu quả xuất khẩu 1. Thực trạng về tổ chức phân tích a) Các hình thức phân tích Trong công tác hoạt động kinh tế có nhiều hình thức phân tích mỗi hình thức đều có một ưu điểm riêng, tuỳ vào mục đích phân tích, yêu cầu của nhà quản lý mà công ty lựa chọn hình thức phân tích cho phù hợp. Phòng tổng hợp tại công ty có nhiệm vụ thu thập nắm bắt những thông tin mới nhất về thị trường có liên quan tới hoạt động sản xuất kinh doanh, thu thập số liệu, tài liệu từ các phòng XNK1, XNK2 …. XNK8. Việc thu thập thông tin được thực hiện mỗi tháng và số liệu cũng được tổng hợp sau mỗi kỳ kinh doanh. Dựa vào yêu cầu quản lý và phân tích, phòng tổng hợp áp dụng hai hình thức phân tích đó là phân tích nghiệp vụ và phân tích định kỳ. * Phân tích nghiệp vụ Phân tích nghiệp vụ được tiến hành thường xuyên liên tục tại công ty xuất nhập khẩu Hà Nội. Công việc này là do phòng tổng hợp đảm nhận, phòng có chức năng tổng hợp phân tích dữ liệu số liệu phát sinh cung cấp cho tổng giám đốc để giúp giám đốc kịp thời điều chỉnh sản xuất kinh doanh, lập các báo cáo định kỳ trình tổng giám đốc, bộ chủ quản và các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan. Hàng tuần, hàng tháng phòng tổng hợp đều tập hợp số liệu về kim ngạch xuất khẩu của các phòng kinh doanh từ phòng xuất nhập khẩu 1 đến phòng xuất nhập khẩu 8, xí nghiệp tocan, chi nhánh Hải Phòng, chi nhánh TP HCM. Sau khi số liệu đã được kiểm tra kỹ lưỡng bởi các nhân viên trong phòng tổng hợp để chắc chắn rằng số liệu là khớp đúng như trong hợp đồng thì trưởng phòng tổng hợp tiến hành phân tích các số liệu đã thu thập được. Sau đây là báo cáo kinh doanh xuất nhập khẩu từ 1/1/2003 đến 31/3/2003 Sau khi đã phân tích về tình hình thực hiện xuất khẩu của các phòng so với kế hoạch, so với cùng kỳ năm trước thì phòng tổng hợp những số liệu trên lên phòng tổng giám đốc để giúp tổng giám đốc nắm vững tình hình kinh doanh xuất khẩu từ đó tổng giám đốc có sự chỉ đạo kế hoạch kinh doanh cho thích hợp với diễn biến tình hình thực tế. Ngoài ra phòng Tài chính - Kế toán cũng đóng góp vào việc nhận định tình hình tình hình kinh doanh, nhận ra những khó khăn đang xảy ra khi thực hiện hợp đồng như việc ký quỹ mở L/C, hay việc kiểm tra các hợp đồng xuất khẩu, tính toán các chi phí trong quá trình xuất khẩu… Kế toán trưởng là người trực tiếp chỉ đạo các nhân viên thực hiện các công việc liên quan đến xuất khẩu hàng hoá theo đúng quy định và phù hợp với tình hình diễn biến của thị trường. Kế toán trưởng cũng đưa ra những nhận xét, đánh giá về các nghiệp vụ kinh tế phát sinh dựa trên sự ghi chép hạch toán của phòng kế toán từ đó tham mưu cho giám đốc cũng như giúp giám đốc nắm được tình hình để đưa ra những quyết định đúng đắn. Phân tích nghiệp vụ có một ý nghĩa quan trọng, nó góp phần thúc đẩy thực hiện tốt các chỉ tiêu kế hoạch đã đề ra, phát hiện và ngăn ngừa kịp thời những mâu thuẫn tồn tại huặc những khó khăn mới nảy sinh. Công ty xuất nhập khẩu Hà Nội hiểu rõ tầm quan trọng của công tác phân tích nghiệp vụ nên các nghiệp vụ kinh tế phát sinh tại công ty luôn được phân tích một cách thường xuyên toàn diện để làm sao nắm bắt được trung thực, chính xác diễn biến kinh doanh từ đó đưa ra những quyết định đúng giúp cho hoạt động kinh doanh được liên tục thông suốt. * Phân tích định kỳ Cứ sau mỗi kỳ kinh doanh công ty đều tiến hành phân tích định kỳ. Số liệu dùng để phân tích là những số liệu tổng hợp do phòng kế toán cung cấp và số liệu do phòng tổng hợp thu thập và tổng hợp. Mục đích của việc phân tích này không nằm ngoài mục đích là kiểm tra đánh giá lại tình hình thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch đã đề ra, qua đó xác định chính xác kết quả kinh doanh. Đồng thời qua phân tích cũng tìm ra những mâu thuẫn tồn tại, những nguyên nhân ảnh hưởng khách quan cũng như chủ quan từ đó đề ra những phương hướng biện pháp cải tiến, hoàn thiện làm cơ sở căn cứ cho việc xây dựng kế hoạch kỳ tới. Tuy nhiên việc phân tích định kỳ tại công ty không được thực hiện như lý thuyết. Ngoài các báo cáo tài chính do phòng kế toán lập: báo cáo kết quả kinh doanh, bảng cân đối kế toán, báo cáo lưu chuyển tiền tệ, bảng cân đối tài khoản thì cuối năm công ty có lập một báo cáo tổng kết năm trong đó nêu lên những kết quả mà công ty đã đạt được, đưa ra những tồn tại cần phải khắc phục, đưa ra phương hướng và kế hoạch hoạt động cho năm sau. Sau đây là một vài nét chính trong Báo cáo tổng kết năm 2003 của Công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm Hà Nội Phần I Tình hình hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu 1/ Kế hoạch bộ giao cả năm 24.000.000 USD Trong đó: Xuất khẩu: 7.000.000 USD Nhập khẩu 17.000.000 USD 2/ Công ty đã thực hiện cả năm 25.892.479 USD Trong đó: Xuất khẩu: 6.751.486 USD Nhập khẩu: 19.141.011 USD Như vậy, cả năm công ty đã thực hiện kim ngạch XNK = 107,89% so với chỉ tiêu được giao và = 104,05% so với kim ngạch thực hiện năm 2002. Phần II Tình hình thực hiện các chỉ tiêu tài chính Vốn kinh doanh + Vốn lưu động : 25.827 triệu đồng + Vốn cố định: 19.165 triệu đồng II. Các chỉ tiêu tài chính cơ bản: kế hoạch thực hiện 1. Doanh thu (triệu đồng) 280.000 327.468 2. Các khoản nộp ngân sách (triệu đồng) 38.542 45.563 Thuế GTGT 16.000 16.936 Thuế XNK 17.870 23.613 Thuế TTĐB 4.000 4.345 Thuế TNDN 672 672 3. Phí trực tiếp (triệu đồng) 15.494 4. Phí quản lý (triệu đồng) 2.465 5. Lợi nhuận (triệu đồng) 2.100 6. Thu nhập bình quân người / tháng 2.100.000 Năm 2003, công ty đã nỗ lực phấn đấu hoàn thành và hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu tài chính được giao, cụ thể là: + Doanh thu đạt 327.468 triệu đồng, bằng 116,9% kế hoạch và bằng 113,9% năm 2002. + Nộp ngân sách đạt 45.563 triệu đồng, bằng 118,2% kế hoạch và bằng 105% năm 2002. + Lợi nhuận đạt 2.100 triệu đồng, bằng 100% kế hoạch và bằng 106% năm. Phần III Phương hướng công tác năm 2004 Năm 2004 là năm có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện kế hoạch 05 năm 2001 – 2005. Sự ổn định và phát triển của các doanh nghiệp, trong đó có công ty ta đóng góp một phần quan trọng trong việc thực hiện các chỉ tiêu kinh tế xã hội của đất nước. Phát huy những kết quả đạt được trong năm 2003, toàn thể cán bộ trong công ty trên dưới một lòng đoàn kết nhất trí, nỗ lực phấn đấu vì sự phồn vinh của công ty trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, luôn luôn tự học hỏi và tìm tòi sáng tạo để tự mình theo kịp sự tiến triển của xã hội, thực hiện hoàn thành các chỉ tiêu được giao là: 1. Kim ngạch xuất nhập khẩu: 26.500.000 USD Trong đó: + Xuất khẩu 7.500.000 USD + Nhập khẩu 19.000.000 USD 2. Doanh thu: 330 tỷ VNĐ 3. Nộp ngân sách: 41,7 tỷ VNĐ 4. Lợi nhuận: 2,2 tỷ VNĐ Để thực hiện các chỉ tiêu trên chúng ta phải thực hiện các biện pháp sau: + Củng cố và mở rộng thị trường ngoài nước để tăng mạnh kim ngạch xuất khẩu. Cần phải củng cố những mặt hàng đang xuất và mở rộng thêm mặt hàng mới vào thị trường truyền thống của công ty là Canada, Nam mỹ như chilê, argentina, đồng thời tích cực chào bán hàng cho các thị trường mới như Châu phi, trung đông, các nước ASEAN… tích cực tham gia các hoạt động xúc tiến thương mại để phát hiện và kịp thời nắm bắt các cơ hội kinh doanh, đẩy mạnh xuất khẩu. + Chủ động gắn bó với cơ sở sản xuất trong nước để tạo nguồn cung cấp hàng xuất khẩu ổn định, đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu phù hợp với nhu cầu, thị hiếu luôn thay đổi của thế giới, tạo ra những mặt hàng có giá thành rẻ, chất lượng cao, tạo sức cạnh tranh cho hàng xuất khẩu. + Mở rộng hoạt động của công ty sang lĩnh vực sản xuất để tạo sự cân bằng trong hoạt động kinh doanh của công ty có cả sản xuất và kinh doanh. + Giải quyết dứt điểm các công nợ đang tồn đọng và giải phóng nhanh hàng tồn kho. 2. Tổ chức công tác phân tích Công tác phân tích có ảnh hưởng đến kết quả phân tích. Nếu công tác phân tích được chuẩn bị tốt, kỹ lưỡng, cẩn thận thì sẽ có nhận xét đánh giá khách quan trung thực về tình hình sản xuất kinh doanh của công ty, tìm ra được những khó khăn trong quá trình kinh doanh từ đó mới đề ra được biện pháp điều chỉnh. Công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm hà nội là một công ty nhà nước trực thuộc bộ thương mại, mọi hoạt động kinh doanh đều do giám đốc chịu trách nhiệm điều hành và quản lý. Do vậy để phục vụ cho việc ra quyết định kinh doanh của mình luôn chính xác và có hiệu quả thì tổng giám đốc trực tiếp chỉ đạo công việc phân tích hoạt động kinh doanh trong công ty và phòng tổng hợp được giao nhiệm vụ đó. Bên cạnh phòng tổng hợp thì kế toán trưởng cũng có trách nhiệm trong việc nhận định tình hình kinh doanh. Kế toán trưởng trực tiếp chỉ đạo các nhân viên của mình lập các báo cáo tài chính để phản ánh trung thực tình hình tài chính của công ty từ đó tham mưu và giúp giám đốc có cái nhìn tổng quát về tình hình kinh doanh của công ty. Qua một thời gian thực tập tại công ty em thấy phòng tổng hợp tổ chức công tác phân tích như sau: +Chuẩn bị phân tích: công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm hà nội có tham gia vào hoạt động xuất khẩu vì vậy sau mỗi kỳ kinh doanh công ty đều tiến hành phân tích tình hình xuất khẩu và hiệu quả kinh doanh xuất khẩu của công ty. Trước khi phân tích thì phòng tổng hợp tiến hành thu thập thông tin số liệu từ phòng kinh doanh XNK 1 đến XNK 8 sau đó kiểm tra lại số liệu đã thu thập được để đảm bảo số liệu hiện có là khớp đúng về mọi mặt. Số liệu dùng để phân tích tình hình xuất khẩu là do phòng kinh doanh cung cấp còn số liệu để phân tích hiệu quả kinh doanh xuất khẩu là do phòng kế toán cung cấp. + phân tích: Sau khi đã thu thập và sử lý số liệu phòng tổng hợp tiến hành phân tích tình hình và hiệu quả kinh doanh xuất khẩu. Phương pháp được sử dụng để phân tích là phương pháp so sánh, phương pháp biểu mẫu phương pháp số chênh lệch. Nội dung phân tích tình hình xuất khẩu: phân tích tình hình xuất khẩu theo phòng kinh doanh, phân tích chung tình hình xuất khẩu, phân tích tình hình xuất khẩu theo các đơn vị trực thuộc, theo các mặt hàng chủ yếu. Các chỉ tiêu được chọn để phân tích hiệu quả xuất khẩu là lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu, tỷ suất lợi nhuận trên nguồn vốn chủ sở hữu, sau mỗi bảng biểu mà phòng lập ra đều có nhận xét đánh giá nhưng còn sơ sài, chung chung chưa chỉ ra được các nhân tố ảnh hưởng đến tình hình xuất khẩu và nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của công ty. Công ty không đi sâu phân tích từng nội dung cụ thể nào nên cũng không có các báo cáo phân tích được lập theo quy định mà việc lập biểu phân tích tình hình và hiệu quả xuất khẩu được phản ánh hết vào báo cáo tổng kết năm, trong báo cáo đó trình bày một cách khái quát tóm lược tình hình kinh doanh của công ty trong đó có tình hình xuất khẩu và hiệu quả xuất khẩu. Báo cáo tổng kết năm được công bố công khai cho mọi thành viên trong công ty được biết. Trên đây là các bước tiến hành phân tích sau mỗi kỳ kinh doanh, qua các bước trên ta thấy Công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm Hà Nội cũng chú trọng đến công tác phân tích hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên việc phân tích này vẫn còn nhiều thiếu sót cần phải thay đổi để phát huy vai trò của phân tích hoạt động kinh tế trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh. Thực trạng về nội dung phân tích tình và hiệu quả xuất khẩu 2.1/ Thực trạng về nội dung phân tích tình hình xuất khẩu 2.1.1 Phân tích chung tình hình xuất khẩu Sau mỗi một kỳ kinh doanh công ty tiến hành phân tích chung tình hình xuất khẩu để thấy được mức độ hoàn thành kế hoạch do bộ giao bằng cách so sánh doanh số xuất khẩu thực tế công ty đạt được và doanh số kế hoạch do Bộ giao cho. Biểu 1: Phân tích chung tình hình xuất khẩu Đơn vị tính: USD Chỉ tiêu Kế hoạch Thực hiện Chênh lệch Số tiền Tỷlệ (%) Tổng doanh số xuất khẩu 7.000.000 6.751.486 -248.514 -3.55 Về xuất khẩu: Năm 2003 kim ngạch xuất khẩu của công ty không hoàn thành so với kế hoạch đã định. Kim ngạch xuất khẩu đạt 6.751.486 USD giảm 248.514 USD so với kế hoạch tương ứng với tỷ lệ giảm 3,55%. Năm 2003 công ty thực hiện kim ngạch xuất khẩu thấp, chưa xứng với tiềm năng hiện có của công ty. Một mặt do nguyên nhân khách quan là kinh tế thế giới năm qua có nhiều khó khăn, sức mua giảm, giá thành hàng xuất khẩu Việt Nam còn cao nhưng yếu tố chủ quan của chúng ta là chính. Chúng ta thiếu sự gắn kết, hợp tác thực sự với các cơ sở sản xuất nên nguồn cung cấp hàng xuất khẩu cho chúng ta không ổn định, còn mang tính chất thu gom là chính. Nghiệp vụ giao dịch chào bán hàng xuất khẩu của cán bộ còn yếu, về tư tưởng còn ngại làm hàng xuất khẩu vì làm hàng xuất khẩu cần phải đầu tư thời gian, công sức, chi phí. Chính vì vậy kim ngạch của chúng ta còn thấp. Việc này nguyên nhân đã rõ, chúng ta cần rút kinh nghiệp, tìm ra biện pháp khắc phục để đẩy mạnh xuất khẩu năm 2004, phấn đấu đạt kế hoạch xuất khẩu Bộ giao năm 2004 cho công ty là 7,5 triệu USD. Phân tích tình hình xuất khẩu theo năm Phân tích tình hình xuất khẩu theo năm nhằm thấy được tốc độ phát triển của doanh thu xuất khẩu qua các năm, xu hướng biến động của doanh thu theo chiều hướng nào tăng hay giảmlàm cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch xuất khẩu cho phù hợp. Biểu 2: Phân tích tình hình xuất khẩu theo năm Chỉ tiêu 2000 2001 2002 2003 Tổng doanh thu 187.150.996.333 292.330.059.525 288.237.355.415 339.452.206.648 Doanh thu xuất khẩu 28.752.502.287 58.198.858.451 52.473.706.581 47.533.635.239 Tốc độ phát triển định gốc của tổng DT 100 156,2 154 181.3 Tốc độ phát triển định gốc của DTXK 100 178,1 182,5 165,3 Đơn vị tính: Đồng Tốc độ phát triển của tổng doanh thu có xu hướng tăng, giảm không đều qua các năm, năm 2002 tốc độ phát triển của doanh thu có giảm đi chút ít so với năm 2001 là 2,2% nhưng đến năm 2003 thì tốc độ phát triển của doanh thu lại cao hơn so với năm 2002 là 27,3%. Tốc độ phát triển của doanh thu xuất khẩu lên xuống thất thường. Trong năm 2001, 2002 thì tốc độ tăng của doanh thu rất cao so với năm 2000 nhưng đến năm 2003 thì tốc độ tăng của doanh thu lại giảm xuống. Như vậy công ty cần phải nâng cao kim ngạch xuất khẩu và ổn định tốc độ phát triển của doanh thu. 2.1.3 Phân tích tình hình xuất khẩu theo tháng Để thực hiện tốt kế hoạch xuất khẩu đòi hỏi công ty phải theo dõi kim ngạch xuất khẩu qua từng tháng, từng quý làm cơ sở căn cứ cho việc tổ chức chỉ đạo và quản lý kinh doanh. Phân tích tình hình xuất khẩu theo tháng nhằm mục đích thấy được mức độ và tiến độ hoàn thành kế hoạch xuất khẩu. Đồng thời qua phân tích cũng thấy được sự biến động của kim ngạch xuất khẩu ở các thời điểm khác nhau và những nhân tố ảnh hưởng của chúng để có chính sách và biện pháp thích hợp trong việc chỉ đạo kinh doanh. Hơn nữa việc phân tích tình hình xuất khẩu theo tháng cũng giúp công ty biết được tình hình xuất khẩu qua từng tháng có ổn định hay không, kim ngạch xuất khẩu cao hay thấp từ đó có biện pháp cải thiện và có kế hoạch ổn định tình hình xuất khẩu qua các tháng để không có tình trạng tháng thì xuất khẩu được tháng thì không hay tháng thì kim ngạch xuất khẩu cao tháng thì kim ngạch xuất khẩu thấp. Nội dung phân tích này là phù hợp với yêu cầu của công ty vì kim ngạch xuất khẩu của công ty qua các tháng là không đều nhau. Hàng tháng tại phòng tổng hợp của công ty có tập hợp số liệu về kim ngạch xuất khẩu để đánh giá tình hình xuất khẩu qua từng tháng. Sau đây là báo cáo xuất khẩu tháng 12 năm 2003 Biểu 3: Phân tích tình hình xuất khẩu theo tháng Đơn vị tính: USD Mặt hàng/Nước đvt xk tháng 12 Luỹ kế xk 12 tháng Số lượng Trị giá (USD) Số lượng Trị giá (USD) Tổng trị giá USD 446.294 6.751.486 _ Trong đó: MD " GC " 40.297 _ Tự doanh: " 446.294 6.703.902 _ Uỷ thác " 7.287 1/ Canada " 2.947.700 2/ úc " 100.054 396.154 3/ Lào " 474.811 4/ Anh " 155.783 5/ Hungari " 11.010 6/ Irắc " 318.118 2.091.600 7/ Philipin " 28.122 495.400 8/ Tây ban nha " 28.643 9/ Chilê " 37.950 10/ Nhật " 13.487 11/ Cộng hoà Séc " 5.000 12/Đức " 30.617 13/ Italia " 53.923 14/ U.A.E " 9.408 Mặt hàng/Nước đến 446.294 6.751.486 1. Chổi sơn " 346.240 3.483.157 _ Canada " 318.118 2.936.345 _úc " 28.122 391.029 _ Anh " 155.783 2. Quần áo Chiếc 41.972 _ Canada " 11.355 _ Đức " 30.617 *3.Mây tre đan USD 22.895 _ Nhật " 13.487 _ U.A.E " 9.408 4.Gốm sứ, sơn mài/TBN " 28.643 5.Đồ gỗ mỹ nghệ/Italia 53.923 6.Mỳ ăn liền / CH Séc 5.000 7. Ng.liệu sx mỳ/ Lào USD 100.054 474.811 8. VPP/ Irắc USD 2.091.600 9. Thảm cói / Hungari 11.010 10. Gạo /chile USD 538.475 Tổng kim ngạch xuất khẩu tháng 12 là 446.294 USD dẫn đến tổng kim ngạch xuất khẩu 12 tháng là 6.751.486 USD trong đó gia công là 40.297 USD, xuất khẩu trực tiếp là 6.703.902 USD, xuất khẩu uỷ thác là 7.287 USD. Như vậy kim ngạch xuất khẩu mà công ty đạt được chủ yếu là do công ty tự xuất khẩu, kim ngạch xuất khẩu do gia công và uỷ thác đem lại chỉ chiếm một phần rất nhỏ. Thông qua báo cáo xuất khẩu từng tháng như trên thì công ty biết được tổng trị giá xuất khẩu là bao nhiêu trong đó có chi tiết ra từng mục một đó là hàng mậu dịch, hàng gia công, hàng xuất khẩu uỷ thác, và hàng xuất khẩu trực tiếp. Báo cáo cũng cho biết công ty xuất khẩu sang thị trường nào, mặt hàng gì với giá trị xuất khẩu như thế nào. 2.1.4 Phân tích tình hình xuất khẩu theo các phòng kinh doanh Hàng tháng các phòng kinh doanh đều cung cấp số liệu cho phòng tổng hợp, phòng tổng hợp phân tích tình hình xuất khẩu theo các phòng này bằng bảng sau: Biểu 4: Phân tích tình hình xuất khẩu theo các phòng kinh doanh Đơn vị tính: USD Phòng kinh doanh Các chỉ tiêu kế hoạc năm 2003 (USD) Thực hiện năm 2003(USD) % hoàn thành kế hoạch xuất khẩu Phòng XNK 1 300.000 315.000 105 Phòng XNK 2 673.000 538.542 80 Phòng XNK 3 456.000 396.758 87 Phòng XNK 4 587.000 422.897 72,04 Phòng XNK 6 400.000 425.421 106,3 Phòng XNK 7 384.000 295.857 77,04 Phòng XNK 8 700.000 752.123 107,4 Xí nghiệp tocan 3.000.000 3.234.152 107,8 Chi nhánh Hải Phòng 200.000 170.000 85 Chi nhánhTP. HCM 300.000 200.736 66,91 Tổng cộng 7.000.000 6.751.486 96,5 Như vậy công ty không hoàn thành kế hoạch xuất khẩu, % hoàn thành kim ngạch xuất khẩu so với kế hoạch đạt 96,5% giảm 3,5%. đứng đầu về kim ngạch xuất khẩu của công ty là xí nghiệp tocan với kim ngạch xuất khẩu là 3.234.152 USD, đứng thứ 2 là phòng XNK 8 với kim ngạch xuất khẩu là 752.123 USD và đứng thứ 3 là phòng XNK 2 với kim ngạch xuất khẩu là 538.542 USD. Các bộ phận phòng ban đã có nhiều cố gắng để hoàn thành kế hoạch của công ty giao, tuy nhiên hoạt động của các bộ phận chưa đều tay. Công ty có 11 bộ phận kinh doanh, trong đó có 4 phòng ban đã hoàn thành và hoàn thành vượt chỉ tiêu kế hoạch: 1. Xí nghiệp tocan: 107,8% 3. Phòng XNK 6: 106,3% 2. Phòng XNK 8: 107,4% 4. Phòng XNK 1: 105% có 6 bộ phận không hoàn thành kế hoạch xuất khẩu đó là phòng XNK 2, XNK 3, XNK 4, XNK 7, chi nhánh Hải Phòng và chi nhánh TP. HCM Xí nghiệp tocan: Năm 2003 mặc dù có nhiều biến động như phải điều chuyển bố trí lại sản xuất, tình hình nước úng ngập kéo dài, cuối năm bị thiếu hụt nguyên liệu trầm trọng song xí nghiệp vẫn cố gắng khắc phục để hoàn thành các chỉ tiêu được giao như thực hiện kim ngạch XK là 3.234.152 bằng 107,8% so với kế hoạch. Hai chi nhánh tại Hải Phòng và tại T.P HCM: trong năm qua cả hai chi nhánh đều được củng cố lại và bắt tay vào hoạt động kinh doanh, tuy kim ngạch chưa cao nhưng đã đánh giá được sự ổn định và cố gắng của cả hai chi nhánh. Chi nhánh Hải Phòng có triển vọng trở thành một bộ phận kinh doanh khá của công ty. 2.1.6 Phân tích tình hình xuất khẩu theo các mặt hàng chủ yếu Công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm Hà Nội kinh doanh xuất nhập khẩu rất nhiều loại hàng hoá khác nhau, nhưng có những mặt hàng xuất khẩu là mặt hàng chủ lực của công ty. Để biết được các mặt hàng chủ yếu đã được thực hiện xuất khẩu so với kế hoạch như thế nào công ty sau mỗi kỳ kinh doanh công ty đã thống kê như sau: Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là: + Chổi quét sơn: 3.483.157/ 3.000.000 USD KH + Hàng văn phòng phẩm: 2.091.600 / 1.000.000 KH + Hàng nông sản: 538.475 USD +Hàng nguyên liệu xuất khẩu cho xí nghiệp liên doanh mỳ lào: 474.811 USD + Hàng xuất khẩu khác: 163.425 USD So với năm 2002, xuất khẩu năm 2003 vượt trên 15% (6,751 / 5,853 triệu USD). Tuy kim ngạch có tăng trưởng nhưng mặt hàng thì chưa được mở rộng và triển vọng duy trì tăng trưởng là không mấy sáng sủa. Kim ngạch xuất khẩu tập trung phần lớn là hàng chổi quét sơn của xí nghiệp tocan và hàng xuất đi Iraq. Trong thời gian qua việc đầu tư mở rộng sản xuất của đối tác nước ngoài vào xí nghiệp tocan là không có nên khả năng tăng trưởng xuất khẩu của mặt hàng chổi quét sơn là thấp. Chính vì vậy kế hoạch XNK của công ty giao cho xí nghiệp tocan năm 2004 chỉ bằng năm 2003. Do tình hình chiến tranh, việc xuất khẩu hàng hoá sang Iraq đã bị dừng lại từ đầu năm 2003. Hiện tại việc nối lại hàng xuất sang Iraq là không chắc chắn, rủi ro rất cao vì tình hình chính trị, an ninh của Iraq rất không ổn định, các vụ khủng bố xảy ra thường xuyên trong khi các hãng bảo hiểm lại không dám bán bảo hiểm chiến tranh cho hàng xuất đi Iraq. Trong khi đó, nhóm hàng truyền thống của công ty ta trong nhiều năm như gốm sứ, mây tre, thủ công mỹ nghệ ngày càng suy giảm. những mặt hàng khác như cao su, mỳ ăn liền, các loại gia vị… xuất khẩu bấp bênh, kim ngạch không đáng kể. Trong năm qua công ty đã xuất khẩu được gần 3000 tấn gạo đi Chile. Số lượng gạo xuất đi Chile tuy còn nhỏ nhưng nếu chúng ta làm tốt, đặc biệt là vấn đề thông tin giá cả, thị trường cho khách hàng thì có thể tăng trưởng khá. Trong năm 2003 đối với các mặt hàng chủ lực, công ty đã hoàn thành vượt mức và hoàn thành đúng kế hoạch đề ra. Mặt hàng chổi quét sơn có tỷ lệ phần trăm hoàn thành kế hoạch là 116% tăng 16% so với kế hoạch, mặt hàng văn phòng phẩm hoàn thành 209% kế hoạch đề ra. Trong năm 2004 công ty cần phát huy tốt hơn nữa thành tích này và mở rộng cơ cấu những mặt hàng chủ lực của công ty. 2.2 Thực trạng về phân tích hiệu quả xuất khẩu Một doanh nghiệp luôn có mục tiêu cụ thể và các hoạt động kinh doanh mà doanh nghiệp tiến hành đều hướng tới mục tiêu chung đó, đó chính là hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả cũng có nghĩa là doanh nghiệp sẽ tồn tại và phát triển không ngừng. Công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm Hà Nội đã xác định được các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả xuất khẩu từ đó cứ sau mỗi kỳ kinh doanh công ty đều tiến hành phân tích hiệu qủa xuất khẩu dựa vào các chỉ tiêu đã xác định. Phân tích hiệu quả xuất khẩu giúp cho công ty nhìn ra được kết quả mà công ty thu được so với chi phí đã bỏ ra, công ty sẽ không có những ảo tưởng về lợi nhuận đạt được từ đó sẽ có hướng kinh doanh đúng đắn. Có nhiều công ty do không hiểu một cách chính xác hiệu quả kinh doanh nên đã có những bước đi sai lầm gây hậu quả nghiêm trọng. Để phân tích hiệu quả xuất khẩu công ty sử dụng các chỉ tiêu sau: Tổng lợi nhuận Hiệu quả ở đây biểu hiện thông qua việc so sánh kết quả (doanh thu) và chi phí bỏ ra trong quá trình kinh doanh gắn với doanh thu đó. Lợi nhuận = Doanh thu – Chi phí Biểu 5: Phân tích chung tình hình lợi nhuận Đơn vị tính: Đồng Chỉ tiêu Năm 2002 (đồng) Năm 2003 (đồng) Chênh lệch Số tiền Tỷ lệ (%) Tổng doanh thu 288.237.355.4155 339.452.206.648 51.214.851.233 17,76 Trong đó: DTXK 52.473.706.581 47.533.635.239 -4.940.071.342 -9,41 1/ Doanh thu thuần 288.237.355.415 339.452.206.648 51.214.851.233 17,76 2/ Giá vốn hàng bán 266.517.631.904 317.894.348.178 51.376.716.274 19,27 3/ Lợi nhuận gộp 21.719.723.511 21.557.858.470 -161.865.041 -0,74 4/ Chi phí bán hàng 18.535.581.859 17.963.180.965 -572.400.894 -3,08 5/ Chi phí quản lý DN 1.818.210.509 2.478.619.139 660.408.630 36,32 6/ LN thuần từ HĐKD 1.365.931.143 1.116.058.366 -249.872.777 -18,29 + Thu từ hoạt động tài chính 1.925.882.721 2.324.932.525 399.049.804 20,72 + Chi phí hoạt động tài chính 1.194.576.255 1.304.991.445 110.415.190 9,24 7/ Lợi tức hoạt động tài chính 731.306.466 1.019.941.080 288.634.614 39,46 + Các khoản thu bất thường 1.330.073 821.117 -508.956 -38,26 + Chi phí bất thường 0 0 0 0 8/ Lợi tức bất thường 1.330.073 821.117 -508.956 -38,26 9/ Tổng LN trước thuế 2.098.567.682 2.136.820.563 38.252.881 1,82 10/ Thuế thu nhập 671.541.658 683.782.580 12.240.922 1,82 11/ Lợi tức sau thuế 1.427.026.024 1.453.037.983 26.011.959 1,82 Qua báo cáo kết quả kinh doanh ta thấy tình hình kinh doanh của công ty năm 2003 là tốt hơn so với năm 2002. Lợi nhuận sau thuế tăng 26.011.959 đồng so với năm 2001 tương ứng với tỷ lệ 1,82%. Các nhân tố dẫn đến lợi nhuận tăng là: + Tổng doanh thu tăng so với năm 2003 nhưng doanh thu xuất khẩu thì lại giảm làm cho doanh thu thuần tăng so với năm 2002 là 51.214.851.233 tương ứng với tỷ lệ là 17,76%. + Giá vốn hàng bán tăng với số tuyệt đối là 51.376.716.274 với tỷ lệ là 19,27%, điều này dẫn đến lợi nhuận gộp giảm với số tiền là (-161.865.041) tương ứng với tỷ lệ là 0,74%. + Chi phí bán hàng giảm và chi phí quản lý doanh nghiệp tăng do vậy lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh giảm (-249.872.777 ) với tỷ lệ là 18,29% + Lợi nhuận từ hoạt động tài chính tăng 288.634.614 tương ứng với tỷ lệ là 39,46% nhưng lợi nhuận bất thường giảm -508.956 đồng dẫn đến tổng lợi nhuận tăng -39.364.974 với tỷ lệ 1,84% và lợi nhuận sau thuế cũng giảm 1,84% với số tuyệt đối 26.768.183. Như vậy từ sự phân tích trên ta thấy tổng lợi nhuận tăng lên không phải do lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh tăng lên mà do lợi nhuận từ hoạt động tài chính tăng lên, sở dĩ lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh giảm xuống chủ yếu là do chi phí đi vay cao. Chính vì vậy trong kỳ kinh doanh tới doanh nghiệp cần phải giảm chi phí đi vay xuống ở mức độ hợp lý hơn để không làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên khi sử dụng lợi nhuận tuyệt đối để phân tích đánh giá hiệu quả kinh tế của một doanh nghiệp thì công ty thấy nếu chỉ dựa vào lợi nhuận để đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp thì sẽ không chính xác bởi vì khối lượng Lợi nhuận tuyệt đối thu được không phụ thuộc vào nỗ lực chủ quan của doanh nghiệp mà còn phụ thuộc vào yếu tố kết quả khác như giá cả của đầu vào, các chính sách thuế, thay đổi của tỷ giá hối đoái… Chính vì vậy công ty đã sử dụng chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu, tỷ suất lợi nhuận trên vốn và tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản để phản ánh hiệu quả xuất khẩu. 2/ Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu Đây là chỉ tiêu tương đối thể hiện mối quan hệ giữa lợi nhuận và doanh thu, phản ánh hiệu quả của quá trình sản xuất kinh doanh cho thấy lợi nhuận do doanh thu tiêu thụ sản phẩm mang lại cao hay thấp. Biểu 6: phân tích chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu Đơn vị tính 2002 2003 Tỷ suất lợinhuận trước thuế / Doanh thu % 0,73 0,63 Tỷ suất lợi nhuận sau thuế / Doanh thu % 0,5 0,43 Tỷ suất lợi nhuận trước thuế và sau thuế trên doanh thu năm 2003 giảm so với năm 2002. Tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên doanh thu giảm so với năm 2002 là 0,1% còn tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên doanh thu giảm 0,07%. Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu giảm cũng có nghĩa là lợi nhuận thu được do doanh thu xuất khẩu đem lại là giảm chứng tỏ hiệu quả xuất khẩu giảm sút. Mặc dù tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu giảm không đáng kể nhưng công ty cũng cần phải lưu ý và có biện pháp để nâng cao tỷ suất lợi nhuận trong năm 2004. 3/ Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản Biểu 7: Phân tích chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản Đơn vị tính 2002 2003 Tỷ suất lợi nhuận trước thuế /Tổng tài sản % 1,51 1,47 Tỷ suất lợi nhuận sau thuế / Tổng tài sản % 1,02 1 4/ Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên nguồn vốn chủ sở hữu Đây là một chỉ tiêu rất quan trọng phản ánh hiệu quả sử dụng nguồn vốn chủ sở hữu. Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng vốn chủ sở hữu bỏ ra thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. Nguồn vốn chủ sở hữu Lợi nhuận sau thuế Tỷ suất LN sau thuế / nguồn vốn chủ sở hữu = TS / NVCSH (2002) = 2,93 TS / NVCSH (2003) = 2,91 III. Nhận xét đánh giá về thực trạng tổ chức công tác phân tích tình hình và hiệu quả xuất khẩu tại Công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm Hà Nội Về tổ chức công tác phân tích: Công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm Hà Nội trong những năm vừa qua đã đ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKQ43.doc
Tài liệu liên quan