Đề tài Nghiên cứu những giải pháp nhằm đẩy nhanh việc thực hiện các cam kết của Việt Nam trong khuôn khổ AFTA

Tài liệu Đề tài Nghiên cứu những giải pháp nhằm đẩy nhanh việc thực hiện các cam kết của Việt Nam trong khuôn khổ AFTA: lời nói đầu AFTA dù ít, nhiều mang ý nghĩa quan trọng đối với tương lai kinh tế Việt Nam. Thách thức của AFTA yêu cầu phải nâng cao tính năng động và hiệu quả của cả nền kinh tế, con đường tham gia AFTA đòi hỏi tiêu chuẩn hiệu quả phải đưa lên hàng đầu trong các lĩnh vực quản lý, hoạch định chính sách của Nhà nuớc, trong hoạt động sản xuất kinh doanh của chính các doanh nghiệp, buộc Việt Nam phải có nỗ lực lớn về cải cách kinh tế và hành chính, cải cách doanh nghiệp Nhà nước theo hướng hiệu suất hoá. Cho dù còn rất nhiều vấn đề cần tiếp tục được làm sáng tỏ, AFTA đã thể hiện một bước chuyển đổi chiến lược đúng đắn của sự hợp tác kinh tế ASEAN. AFTA là cơ sở để xây dựng khu vực mở và là một đóng góp quan trọng vào tiến trình tự do hoá thương mại toàn cầu. Bản thân AFTA là bước mở đầu để đưa Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á đi từ liên minh thương mại đến các liên minh về thuế quan, liên minh tiền tệ, liên minh kinh tế. Để đẩy nhanh tiến trình thực hiện AFTA, các doanh nghiệp trong nướ...

doc82 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1024 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Nghiên cứu những giải pháp nhằm đẩy nhanh việc thực hiện các cam kết của Việt Nam trong khuôn khổ AFTA, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lời nói đầu AFTA dù ít, nhiều mang ý nghĩa quan trọng đối với tương lai kinh tế Việt Nam. Thách thức của AFTA yêu cầu phải nâng cao tính năng động và hiệu quả của cả nền kinh tế, con đường tham gia AFTA đòi hỏi tiêu chuẩn hiệu quả phải đưa lên hàng đầu trong các lĩnh vực quản lý, hoạch định chính sách của Nhà nuớc, trong hoạt động sản xuất kinh doanh của chính các doanh nghiệp, buộc Việt Nam phải có nỗ lực lớn về cải cách kinh tế và hành chính, cải cách doanh nghiệp Nhà nước theo hướng hiệu suất hoá. Cho dù còn rất nhiều vấn đề cần tiếp tục được làm sáng tỏ, AFTA đã thể hiện một bước chuyển đổi chiến lược đúng đắn của sự hợp tác kinh tế ASEAN. AFTA là cơ sở để xây dựng khu vực mở và là một đóng góp quan trọng vào tiến trình tự do hoá thương mại toàn cầu. Bản thân AFTA là bước mở đầu để đưa Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á đi từ liên minh thương mại đến các liên minh về thuế quan, liên minh tiền tệ, liên minh kinh tế. Để đẩy nhanh tiến trình thực hiện AFTA, các doanh nghiệp trong nước cần căn cứ theo hướng phát triển trong tình hình mới để có những quyết định kịp thời và phù hợp. Doanh nghiệp cần xem xét, đánh giá cụ thể các yếu tố liên quan đến sản xuất, tiêu thụ của từng mặt hàng trong tương quan các mặt hàng cùng loại từ ASEAN. Qua đó, doanh nghiệp có thể tìm ra các sản phẩm mới, hay phát triển các sản phẩm có tiềm năng xuất khẩu, tìm ra thị trường mới cho sản phẩm của mình, các giải pháp để có thể làm chủ được thị trường nội địa và sau đó phải tìm kiếm khả năng xuất khẩu, định hướng về các sản phẩm chủ lực, thị trường trọng điểm để có phương án sản xuất-kinh doanh đáp ứng các nhu cầu xuất khẩu sang ASEAN hoặc ngoài ASEAN. Hơn nữa, các doanh nghiệp sản xuất trong nước cần đánh giá các chọn lựa và đưa ra các giải pháp cụ thể trước mắt và giải pháp lâu dài. Xuất phát từ những quan điểm trên, em đã chọn nội dung của khoá luận tốt nghiệp và đề cập những giải pháp nhằm đẩy nhanh việc thực hiện các cam kết của Việt Nam trong khuôn khổ AFTA. Chương I : tổng quan về khu vực mậu dịch tự do asean (AFTA) I. MộT Số VấN Đề CHUNG Về LIÊN KếT KINH Tế KHU VựC 1.Khái niệm: Khu vực mậu dịch tự do là một liên minh quốc tế giữa hai hoặc nhiều nước nhằm mục đích tự do hoa hoá việc buôn bán về một hoặc một số nhóm mặt hàng nào đó. Biện pháp sử dụng là bãi miễn các công cụ thuế quan và phi thuế quan giữa các nước thành viên song các nước thành viên vẫn thi hành chính sách ngoại thương độc lập với các nước ngoài liên minh. 2.Cấp độ liên kết: Khu vực mậu dịch tự do là một liên minh quốc tế ở cấp độ thấp nhất trong các hình thức liên kết quốc tế 3.tác động của khu vực mậu dịch tự do Khu vực này thiết lập nên một mối quan hệ mậu dịch giữa các nước thành viên,mở rộng quan hệ xuất khẩu với nhau và tiến tới mở rộng ra ngoài khối, điều này cho thấy nó tác động tích cực đến buôn bán quốc tế nói chung.Việc di chuyển sản xuất từ các nhà sản xuất có hiệu quả cao hơn ,người sản xuất và người tiêu dùng đều có lợi II. TổNG QUAN Về AFTA: 1. Sự hình thành và phát triển của AFTA: Tuyên bố thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) được đưa ra tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 4 tại Singapore ngày 28 tháng 1 năm 1992 với thời hạn dự định thực hiện 15 năm, bắt đầu từ ngày 1 tháng 1 năm 1993 và hoàn thành vào năm 2008. “Tuyên bố chung Singapore - 1992” mở ra một thời kỳ mới trong hợp tác ASEAN nhằm tạo cơ hội ổn định và phát triển khu vực. Trên cơ sở đó, hội nghị đã quyết định thành lập “Khu vực mậu dịch tự do ASEAN” (AFTA). Lúc đầu, chương trình AFTA dự định thực hiện trong vòng 15 năm kể từ ngày 1 tháng 1 năm 1993. là phải bắt đầu từ ngày 1 tháng 1 năm 1998 Nhưng do yêu cầu đẩy nhanh tốc độ phát triển, đầu tháng 7 năm 1994, Hội nghị Bộ trưởng kinh tế lần thứ 26 tháng 9 năm 1994 tại Chiềng Mai quyết định rút thời hạn xuống 10 năm, tức là hoàn thành vào năm 2003. Việt Nam là hội viên mới, được thực hiện chậm 5 năm, tức. Khối ASEAN không phải là một khối có sức mạnh kinh tế lớn so với các khối khác như NAFTA (700 tỉ USD); EU (600 tỉ USD); Nhật (3.500 tỉ USD); AFTA (400 tỉ USD) tuy nhiên, được đánh giá là khối phát triển năng động nhất. Tốc độ tăng bình quân 5 năm qua là 7,5% so với 3% của toàn thế giới. Tỉ trọng thương mại của ASEAN cao hơn nhiều so với các khu vực khác, xuất khẩu trên 50% tổng sảm phẩm quốc dân, đặc biệt Singapore là 139% (* số liệu 1994). AFTA ra đời là phù hợp với quy luật vận động nội tại của các nền kinh tế ASEAN trong bối cảnh khu vực hoá, toàn cầu hoá. Song với tư cách là một tổ chức hợp tác kinh tế có thể chế, AFTA dường như là một dạng của "mô hình phát triển rút ngắn" của kiên kết kinh tế khu vực và trên thực tế, nó không có được những điều kiện chuẩn bị chín muồi về các bước liên kết khu vực giống như EU, NAFTA. Do đó, AFTA hình thành trước tiên chỉ như là một hiệp định khung, có phần hơi đơn giản; còn các nội dung và lịch trình của hiệp định lại chỉ được soạn thảo, sửa đổi và bổ sung đồng thời với tiến trình tổ chức và thực hiện chúng. Nền kinh tế của các nước Đông Nam á đang chuyển động theo những thay đổi lớn trên thị trường tài chính và hàng hoá thế giới, trên khung cảnh hợp tác khu vực, trước hết là khu vực Châu á - Thái Bình Dương, với sự hoạt động hết sức sôi động của các công ty đa quốc gia. Sự di chuyển ồ ạt các dòng vốn đầu tư, công nghệ và tri thức kinh doanh kéo theo sự biến động trong lợi thế so sánh của nhiều nước. Thị trường khu vực ngày càng phát triển và thể chế hợp tác khu vực ngày càng được định hình đã làm thay đổi nhanh chóng vị trí và chiến lược phát triển của từng nước. Mặc dù khủng hoảng kinh tế đã diễn ra trong những năm giữa thập kỷ 80, tốc độ tăng trưởng kinh tế của ASEAN từ năm 1981 đến 1994 là 5,4% (* thống kê của Ban thư ký ASEAN) gần gấp hai lần tốc độ tăng trưởng trung bình của thế giới. Với tốc độ phát triển kinh tế như vậy cùng với mục đích hợp tác toàn diện trên mọi lĩnh vực kinh tế - chính trị - khoa học - xã hội ngay từ khi mới thành lập, lẽ ra hợp tác kinh tế của ASEAN đã rất phát triển nhưng trên thực tế thành tựu lớn nhất mà ASEAN đạt được trong suốt 25 năm tồn tại đầu tiên là hợp tác trong lĩnh vực chính trị quốc tế và an ninh nội bộ của các nước thành viên. Mặc dù nhấn mạnh vào hợp tác kinh tế, nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau, cho tới năm 1992, việc hợp tác này vẫn tiến triển rất chậm chạp. Từ năm 1976, vấn đề hợp tác kinh tế ASEAN đã được chú trọng trở lại với Kế hoạch Hợp tác kinh tế mà lĩnh vực đầu tiên là cung ứng và sản xuất các hàng hoá cơ bản, các xí nghiệp công nghiệp lớn, các thoả thuận thương mại ưu đãi và các quan hệ kinh tế đối ngoại. Tuy đã có rất nhiều nỗ lực để thúc đẩy hợp tác kinh tế trong ASEAN, nhưng kết quả của những nỗ lực đó không đạt được những mục tiêu mong đợi. Chỉ đến năm 1992, khi các nước thành viên của ASEAN ký kết một Hiệp định về Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN - AFTA thì hợp tác kinh tế các nước ASEAN mới thực sự được đưa lên một tầm mức mới. Trước khi AFTA ra đời, hợp tác kinh tế ASEAN đã trải qua nhiều kế hoạch hợp tác kinh tế khác nhau. Đó là: Thoả thuận thương mại ưu đãi (PTA) Các dự án công nghiệp ASEAN (AIP) Kế hoạch hỗ trợ công nghiệp ASEAN (AIC) và Kế hoạch hỗ trợ sản xuất công nghiệp cùng nhãn mác (BBC). Liên doanh công nghiệp ASEAN (AIJV) Các kế hoạch hợp tác kinh tế kể trên là những nỗ lực không nhỏ của ASEAN tuy nhiên tác động của nó đến thương mại nội bộ ASEAN rất nhỏ và không đủ khả năng ảnh hưởng đến đầu tư trong khối. Có nhiều lý do khác nhau dẫn đến sự không thành công này. Đó là việc vạch kế hoạch kém, vội vã liên kết mà không có các bước nghiên cứu khả thi kỹ càng, quản lý thiếu hiệu quả, trong nhiều trường hợp, việc quyết định đầu tư vào ngành công nghiệp nào lại do các Chính phủ chứ không phải thị trường quyết định tức là còn dựa nhiều vào những ý tưởng chủ quan mà thiếu đi sự gắn kết với thực tiễn. Hợp tác kinh tế ASEAN cũng bị ảnh hưởng một phần vì cơ cấu tổ chức với một Ban thư ký có quá ít quyền hạn độc lập, không đủ khả năng để thực hiện vai trò cơ bản trong việc đẩy nhanh và tăng cường hợp tác kinh tế khu vực. Nếu như nguyên tắc nhất trí của ASEAN đã thúc đẩy việc thống nhất và ổn định thì chính nó cũng làm cho các bước đi hợp tác kinh tế vị chậm lại hoặc bị điều chỉnh chỉ bởi một nước thành viên thận trọng nào đó. Tuy nhiên, các hoạt động hợp tác kinh tế của ASEAN đã có khuynh hướng tiến đến hiệu quả hơn từ AIP đến AIJV. Khu vực tư nhân đã được chú trọng hơn, quy luật thị trường dần dần được tuân thủ, các thủ tục liên quan được đơn giản hoá và một số trường hợp các thủ tục rườm rà đã được loại bỏ, mức ưu đãi (MOP) được tăng cường. Tuy không đạt được kết quả mong đợi nhưng các kế hoạch hợp tác kinh tế này thực sự là những bài học quý báu cho việc hợp tác kinh tế giữa các nước đang phát triển. AFTA đã ra đời trên cơ sở đúc rút kinh nghiệm từ những kế hoạch hợp tác kinh tế trước AFTA. Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN họp tại Singapore năm 1992 đã quyết định thành lập một Khu mậu dịch Tự do ASEAN (AFTA) theo sáng kiến của Thái lan. AFTA thực sự là một bước ngoặt trong hợp tác kinh tế ASEAN, là kết quả tất yếu của những chuyển động về hợp tác kinh tế ASEAN được tính kể từ năm 1976 - năm tổ chức Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ nhất tại Bali (Indonesia) và là bước đánh dấu sự chú trọng trở lại với các kế hoạch phát triển kinh tế mà các lĩnh vực ưu tiên chủ yếu là sản xuất và cung ứng các hàng hoá cơ bản, phát triển các xí nghiệp công nghiệp lớn, thực hiện các thoả thuận thương mại ưu đãi và phát triển các quan hệ kinh tế đối ngoại. Nói tóm lại, AFTA ra đời là kết quả phức hợp giữa sự tác động của các nhân tố bên trong và bên ngoài mà ta có thể xem xét khái quát như sau: Về nhân tố bên trong, có thể thấy rằng công nghiệp hoá trong 2 thập kỷ qua đã làm tăng nhanh chóng quy mô buôn bán qua lại giữa các nền kinh tế ASEAN. Người ta tính rằng vào đầu những năm 90, phần xuất khẩu nội bộ ASEAN trong tổng kim ngạch xuất khẩu của nhóm nước này đã đạt tới khoảng 20% (* số liệu thống kê trên và điều đó chứng tỏ khuynh hướng liên kết thương mại khu vực đã ngày càng trở nên mạnh mẽ. Các nền kinh tế ASEAN đã mang đặc tính hướng ngoại dựa vào xuất khẩu và hơn bao giờ hết nhu cầu bức thiết trong việc tìm kiếm và liên kết thị trường, trước hết là các thị trường láng giềng kề cận lại trở nên quan trọng như vậy. Điều này càng được thúc đẩy nhanh hơn nhờ sự tác động tích cực của tăng trưởng kinh tế khu vực đối với các chiến lược phi điều chỉnh và các biện pháp tự do hoá thương mại và theo đó, các nước này dễ dàng đi đến những mặc nhiên thừa nhận AFTA. Chính phủ của từng nước ASEAN cũng đã thấy rõ trở ngại của chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch trong chiến lược phát triển, đã đi đến nhất trí cởi bỏ nó bằng việc theo đuổi các chiến lược tự do hoá theo hướng xuất khẩu. Do đó, về thực chất, chính sự chuyển đổi trong chiến lược phát triển và tình hình kinh tế của các nước ASEAN đã khiến cho đề xuất về một khu vực mậu dịch tự do ASEAN mang tính khả thi. Về các nhân tố bên ngoài, vào đầu những năm 90, môi trường chính trị, kinh tế quốc tế và khu vực đã có những thay đổi quan trọng do chiến tranh lạnh đã kết thúc. ở kỷ nguyên hậu chiến tranh lạnh, vị trí của ASEAN trong chiến lược khu vực và quốc tế của các cường quốc đã bị hạ thấp. Điều đó có nghĩa là Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nga sẽ giảm bớt cam kết an ninh và giúp đỡ về kinh tế cho ASEAN. Chính sách mới của các cường quốc và những biến đổi theo hướng tích cực trên bán đảo Đông Dương đưa lại cho ASEAN những cơ hội và thách thức mới. ở thời kỳ hậu chiến tranh lạnh, kinh tế các nước ASEAN đứng trước những thách thức lớn khiến cho các nước ASEAN không dễ vượt qua nếu không có sự cố gắng chung của toàn Hiệp hội. Đó là sự xuất hiện những tổ chức hợp tác khu vực như EU, NAFTA có nguy cơ trở thành các khối thương mại khép kín, sẽ làm cho hàng hoá ASEAN vấp phải những trở ngại hơn nữa khi thâm nhập vào các thị trường trên. Mặc dù trong gần một thập niên qua, kinh tế ASEAN đã tăng trưởng với nhịp độ cao nhưng nền kinh tế các nước này vẫn phụ thuộc nặng nề vào nguồn vốn từ bên ngoài. Vị thế và triển vọng tăng trưởng của các nền kinh tế này sẽ không được củng cố và thúc đẩy nếu như toàn hiệp hội không tạo dựng được sự nỗ lực chung. Đây là nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với sự cấp thiết thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN. Trong đó, việc liên kết thị trường khu vực như một trung tâm sản xuất và thương mại quốc tế là điều kiện căn bản để cải thiện thế thương lượng cạnh tranh của ASEAN trong việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài - một nhân tố được coi là động lực tăng trưởng và tạo ra sự năng động của châu á trong những năm gần đây. Việc thành lập AFTA sẽ mở ra một thị trường tự do rộng lớn và dồi dào tiềm năng ở khu vực Đông Nam á. Tham gia AFTA, các nước ASEAN sẽ liên kết với nhau để phát triển kinh tế chặt chẽ hơn và rút ngắn khoảng cách về sự phát triển giữa các quốc gia thành viên, nâng cao vai trò của ASEAN trong khu vực và trên thế giới. Chúng ta hoàn toàn có cơ sở để khẳng định ASEAN sẽ thành công trong việc tạo lập AFTA. Thứ nhất, từ giữa những năm 80, các thành viên ASEAN đã lần lượt thực hiện phi tập trung hoá và tự do hoá nền kinh tế của mình, đã cải thiện đáng kể (mặc dù chưa đồng bộ) về môi trường đầu tư và thương mại và trên cơ sở này, AFTA sẽ đặt từng quốc gia thành viên ASEAN trước những nhu cầu bức thiết phải tiến hành cải cách nền kinh tế quốc gia nhằm thích ứng với các yêu cầu chung của khu vực. AFTA sẽ góp phần đáng kể vào việc cải thiện hiệu quả sản xuất cho mọi quốc gia thành viên với chi phí ít hơn, hay nói đúng hơn, AFTA sẽ hỗ trợ cho các nền kinh tế này trở thành các nền kinh tế có hiệu suất thông qua sự phối hợp chặt chẽ giữa điều chỉnh cơ cấu kinh tế khu vực với cơ cấu kinh tế nội địa của từng nước. Thứ hai, tạo ra AFTA, về thực chất, ASEAN sẽ thực hiện một cam kết chính trị đầy đủ, nghĩa là các Chính phủ ASEAN không chỉ thể hiện những nỗ lực của mình ở trong nước mà thông qua AFTA, họ còn muốn có sự điều hoà, giải quyết các khó khăn riêng cho từng quốc gia thành viên. Thứ ba, các nước ASEAN đã có những bài học kinh nghiệm trong việc thực hiện Hiệp định thương mại ưu đãi ASEAN (PTA) không mấy thành công từ cuối những năm 70. Do vậy, có thể nói rằng AFTA là thành tựu và là nấc thang mới trong chiến lược hợp tác kinh tế ASEAN hiện nay. AFTA giúp các nhà sản xuất giảm chi phí đầu vào khi các thị trường ASEAN mở cửa. Mặt khác, các nhà sản xuất hàng hoá sẽ được kích thích bởi tiến trình tự do hoá nhập khẩu nhờ AFTA và đồng thời nhờ đó có thể được lợi do nhận được chi phí về các sản phẩm trung gian cấu thành đầu vào giảm. Cũng tương tự như vậy, đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ tăng lên do chỗ các nhà đầu tư nước ngoài muốn được hưởng các ưu đãi đặc biệt của AFTA. 2. Những mục tiêu cơ bản của AFTA: 2.1. Tăng cường trao đổi buôn bán trong nội bộ khối bằng việc loại bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế quan giữa các nước ASEAN Đây là mục tiêu quan trọng nhất của AFTA. Bởi lẽ các nước thành viên ASEAN đều có nền kinh tế hướng ngoại dựa vào xuất khẩu với tỉ trọng mậu dịch với các nước ngoài khối khoảng 77% trong đó Mỹ chiếm khoảng 20%, Nhật 14% và EU 15% trong khi đó tỉ trọng mậu dịch nội bộ khối chỉ chiếm khoảng 23% theo số liệu thống kê trung bình từ năm 1993 là năm bắt đầu thực hiện Hiệp định CEPT đến năm 1998. Thêm vào đó cơ cấu hàng hoá xuất nhập khẩu của các nước ASEAN tương đối giống nhau vì các nền kinh tế ASEAN chủ yếu đều là các nền kinh tế đang phát triển có các điều kiện và nhu cầu xuất nhập khẩu tương đối giống nhau. Vì vậy kim ngạch thương mại chịu ảnh hưởng trực tiếp của AFTA sẽ không lớn. Về mặt này, AFTA sẽ không thể so được với các thoả thuận thương mại khu vực khác như EU hay NAFTA trong đó có sự liên kết giữa các nền kinh tế rất phát triển với những nền kinh tế kém phát triển hơn như trường hợp của Mỹ và Mexico. Tuy nhiên mục tiêu này nhằm thúc đẩy sự hợp tác kinh tế trong nội bộ ASEAN. Thông qua AFTA, tạo ra một thị trường chung ASEAN mà trong đó các nước thành viên được hưởng ưu đãi hơn so với các nước không thuộc Hiệp hội. Từng bước, tiến tới xoá bỏ về cơ bản thuế nhập khẩu hàng hoá thuộc các nước thành viên ASEAN với nhau, nhưng vẫn giữ nguyên thuế nhập khẩu đối với hàng hoá của các nước khác. Như vậy, với mục tiêu thúc đẩy buôn bán giữa các nước trong khu vực thông qua chế độ ưu đãi thuế quan, AFTA sẽ tăng sức cạnh tranh của hàng hoá ASEAN trên thương trường thế giới. 2.2. Thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào khu vực bằng việc đưa ra một khối thị trường thống nhất - xây dựng khu vực đầu tư ASEAN (AIA): Mục tiêu của AFTA là biến các nước ASEAN thành khu vực hợp tác kinh tế thông qua việc thực hiện các chương trình kinh tế mà quan trọng nhất là chương trình ưu đãi thuế quan (CEPT). Mục tiêu trung tâm này góp phần làm tăng cường năng lực kinh tế của các nước thành viên ASEAN nhằm tạo ra sức mạnh để tự bảo vệ mình và vươn lên trong sự cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn của nền kinh tế Thế giới, tăng sức hấp dẫn của môi trường đầu tư nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Vào đầu thập kỷ 90, từ địa vị là địa bàn đầu tư hấp dẫn các nước ASEAN ở vào thế bị cạnh tranh gay gắt với các nước khác như Trung Quốc, Nga, các nước Đông Âu, và cả Việt Nam. AFTA sẽ tạo ra một thị trường thống nhất, cho phép việc khai thác lợi thế kinh tế về qui mô và tạo nhiều điều kiện thuận lợi khác cho việc hấp dẫn đầu tư nước ngoài. Khi đầu tư nước ngoài vào ASEAN tăng lên, do việc mở rộng khai thác các lợi thế của AFTA, chắc chắn sẽ dẫn đến việc gia tăng trao đổi buôn bán giữa các nước ASEAN về các sản phẩm đầu vào của quá trình sản xuất. Tuy vây, khối lượng buôn bán trao đổi về các sản phẩm đầu vào như vậy chắc chắn sẽ tăng nhưng tỷ trọng so với tổng kim ngạch thương mại của ASEAN sẽ không lớn vì những lý do mang tính cơ cấu hàng hoá xuất nhập khẩu như đã nêu trên, đặc biệt trong giai đoạn đầu thực hiện AFTA khi quá trình chuyển dịch cơ cấu đầu tư và sản xuất quốc tế và khu vực xuất phát từ việc thành lập AFTA và sau này là việc hình thành khu vực đầu tư ASEAN (AIA). Mục tiêu của AIA là xây dựng một khu vực đầu tư ASEAN thông thoáng, rõ ràng và hấp dẫn nhất nhằm đẩy mạnh đầu tư vào ASEAN từ cả các nguồn trong và ngoài Hiệp hội. Tinh thần của AIA là muốn các nước thành viên "mở cửa ngay lập tức" các ngành nghề và "dành ngay lập tức" chế độ đối xử quốc gia. Đầu tư trực tiếp vào các nước ASEAN sẽ tăng vì kết quả trao đổi mậu dịch giữa các quốc gia này sẽ tăng theo AFTA và do đó, sẽ kích thích các công ty Nhật, Mỹ, EU và NIEs đầu tư nhiều hơn để giữ thị trường này thay vì trước đây họ thường cung ứng từ các cơ sở sản xuất ngoài ASEAN. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào ASEAN sẽ tăng nhờ sự lớn mạnh của chính thị trường khu vực ASEAN và theo đó, sẽ ngày càng có nhiều dự án đầu tư trực tiếp nhằm cung cấp sản phẩm cho các thị trường này. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu này, các thành viên ASEAN còn phải nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư và thông qua AFTA làm cho các môi trường đầu tư của ASEAN trở nên hấp dẫn hơn so với các khu vực khác. Vấn đề đáng lưu ý là ASEAN cần phải đón bắt được các dòng đầu tư quốc tế đang trong xu hướng chuyển mạnh từ các khu vực Âu, Mỹ trở lại châu á. Dĩ nhiên, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ASEAN không phải là một hiện tượng mới, song những tác động của tiến trình AFTA sẽ nâng cao và thúc đẩy chúng khởi sắc. Với định hướng phát triển ra ngoài khu vực trên cơ sở liên kết thị trường bên trong AFTA, ASEAN hoàn toàn có thể hy vọng tới khả năng đẩy mạnh thế thương lượng cạnh tranh về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. 2.3. Hướng ASEAN thích nghi với những điều kiện kinh tế quốc tế đặc biệt là xu thế tự do hoá thương mại thế giới Chương trình CEPT là sẽ đưa ASEAN AFTA trở thành một khu vực mở và là sự phản ứng đáp lại với các mô hình bảo hộ mậu dịch ở cả trong và ngoài khu vực. Hay nói cách khác mục tiêu này liên quan đến sự đáp ứng của ASEAN đối với xu hướng đang gia tăng của chủ nghĩa khu vực trên thế giới. Trước những biến động của bối cảnh quốc tế, AFTA buộc phải đẩy nhanh tiến độ thực hiện và tương lai có thể không chỉ dừng lại ở một khu vực mậu dịch hay liên minh quan thuế mà sẽ tiếp tục được phát triển thành một liên minh tiền tệ, một liên minh kinh tế. Nhờ tăng buôn bán trong và ngoài khu vực, AFTA sẽ trợ giúp cho các quốc gia thành viên ASEAN thích ứng được với chế độ thương mại đa biên đang tăng lên ngày càng nhanh chóng, hoà nhập với xu thế thương mại chung của thế giới. 3. Nội dung cơ bản của AFTA 3.1 Chương trình thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung - CEPT sự thoả thuận giữa các nước thành viên ASEAN về việc cắt giảm thuế quan trong nội bộ xuống còn 0 - 5%, hạn chế về định lượng và các hàng rào phi quan thuế từ ngày 1/1/1993 đến ngày 1/1/2003. Chương trình thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung này sẽ thực hiện theo 4 danh mục. Danh mục 1 là giảm thuế nhập khẩu, được chia làm 2 phần: Phần thứ 1 là cắt giảm nhanh, áp dụng cho các loại sản phẩm có mức thuế suất từ 20% trở xuống và phần thứ 2 là cắt giảm thuế quan thông thường, áp dụng cho các loại hàng hoá có mức thuế suất nhập khẩu cao hơn 20%. Danh mục này được áp dụng cho 15 nhóm sản phẩm công nghiệp chế biến của ASEAN như: xi măng, hoá chất, phân bón, chất dẻo, hàng điện tử, hàng dệt, dầu thực vật, sản phẩm da, sản phẩm cao su, giấy, đồ gốm và thuỷ tinh, đồ dùng bằng gố và song mây, dược phẩm với khoảng 3200 mặt hàng, chiếm tới 43% tổng số danh mục giảm thuế của toàn ASEAN. Danh mục 2 là Danh mục loại trừ tạm thời, chưa cắt giảm thuế nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho một số thành viên ASEAN tham gia vào tiến trình tự do hoá thương mại mà không bị sốc về kinh tế, tiếp tục các chương trình đầu tư đã được đưa ra trước khi tham gia kế hoạch CEPT hoặc có thời gian để hỗ trợ cho sự ổn định thương mại hoặc để chuyển hướng sản xuất đối với một số sản phẩm tương đối trọng yếu trong buổi đầu tham gia CEPT, không bị ảnh hưởng xấu đến hoạt động sản xuất, kinh doanh trong nước. Sau 5 năm, những hàng hoá này sẽ phải chuyển dần sang Danh mục giảm thuế, mỗi năm 20% số sản phẩm trong Danh mục loại trừ tạm thời. Danh mục 3 là Danh mục loại trừ hoàn toàn, bao gồm các sản phẩm không tham gia CEPT nhưng phải có điều kiện phù hợp với quy chế Tổ chức Thương mại quốc tế WTO. Đây là các mặt hàng có ảnh hưởng tới an ninh quốc gia, đạo đức xã hội, vốn sống và sức khoẻ con người, động vật, thực vật, các giá trị lịch sử, văn hoá, giáo dục, nghệ thuật của mỗi nước. Danh mục 4 là sản phẩm nông sản chưa qua chế biến. Các mặt hàng nông sản chưa chế biến có khả năng gây ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế các nước ASEAN. Thời hạn đưa các mặt hàng trong danh mục này vào Danh mục giảm thuế sẽ bắt đầu từ 2001 và kết thúc vào 2003, đối với Việt Nam là 2004 và 2006. Hơn nữa, chương trình CEPT còn cho phép các nước thành viên đưa ra một danh mục tạm thời chưa thực hiện tiến trình giảm thuế theo kế hoạch CEPT để các nước có thời gian chuẩn bị, nâng cao hơn khả năng cạnh tranh hàng hoá của nước mình. Danh mục các mặt hàng thuộc CEPT của Việt Nam năm 1998: - Danh mục giảm thuế: 1.661 dòng thuế - Danh mục loại trừ tạm thời: 1.317 dòng thuế - Danh mục nhạy cảm: 26 dòng thuế - Danh mục loại trừ hoàn toàn: 213 dòng thuế Tổng cộng là 3.217 dòng thuế (* nguồn Bộ Tài chính và Ban thư ký ASEAN) Như vậy, cốt lõi của việc thành lập khu vực mậu dịch tự do là thực hiện chương trình CEPT, nhằm giảm dần thuế nhập khẩu hàng hoá giữa các nước ASEAN với nhau tới mức 0 - 5%, nhằm mục đích khuyến khích thương mại giữa các nước thành viên. Theo chương trình này, các nước thành viên đưa ra danh mục những mặt hàng sẽ tham gia vào CEPT, cắt giảm những biện pháp hạn chế phi thuế quan khác, và đưa ra lịch trình triển khai. Chương trình này bắt đầu vào năm 1993, dự kiến kéo dài 15 năm, nhưng mới đây được rút bớt 5 năm, tức là kết thúc vào năm 2003. Theo quy ước của AFTA, ngoài các loại nông sản chưa chế biến hoặc sơ chế là những mặt hàng không nằm trong CEPT, mỗi nước xác định và đăng ký 3 loại mặt hàng tuỳ theo mức độ tham gia CEPT; không tham gia hoàn toàn, tạm thời chưa tham gia và tham gia. Các mục tiêu của AFTA sẽ được thực hiện thông qua một loạt các thoả thuận trong hiệp định AFTA như là: sự thống nhất và công nhận tiêu chuẩn hoá hàng hoá giữa các nước thành viên, công nhận việc cấp giấy xác nhận xuất xứ hàng hoá của nhau, xoá bỏ những quy định hạn chế đối với ngoại thương, hoạt động tư vấn kinh tế vĩ mô... trong đó CEPT là cơ chế thực hiện chủ yếu. CEPT, về thực chất, đó là một thoả thuận giữa các thành viên ASEAN về việc giảm thuế quan trong nội bộ ASEAN xuống còn 0-5% thông qua "cơ cấu thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung" đồng thời loại bỏ tất cả các hạn chế về định lượng và các hàng rào phi quan thuế trong vòng 10 năm, được bắt đầu từ 1/1/1993 và hoàn thành vào 1/1/2003. Hiệp định này sẽ được áp dụng đối với mọi loại sản phẩm công nghiệp chế biến, bao gồm cả các hàng hoá tư bản và các sản phẩm công nghiệp đã qua chế biến. Tuy vậy, trong khung hiệp định đó, CEPT được nhấn mạnh cho các mặt hàng công nghiệp chế biến là đối tượng chủ yếu được thụ hưởng các ưu đãi của chương trình giảm thuế quan. Việc cắt giảm thuế quan cho chúng sẽ được áp dụng trong một lịch trình cụ thể theo 2 kênh giảm nhanh và giảm thông thường đồng tuyến, nghĩa là trong vòng 7 đến 10 năm, phải đưa được khoảng 90% trong số hơn 44.000 dòng thuế của các nước ASEAN xuống mức thuế dưới 5% vào năm 2000 và sau đó sẽ đưa được mức thuế quan bình quân của toàn ASEAN vào năm 2003 khoảng 2,63%. Kênh giảm thuế nhanh (còn gọi là kế hoạch giảm thuế quan tăng tốc) có lịch trình giảm thuế nhanh sẽ được phân định thành hai nấc: các sản phẩm có thuế suất trên 20% được giảm xuống còn 0-5% vào 1/1/2000 và các sản phẩm có thuế suất bằng hoặc thấp hơn 20% được giảm xuống còn 0-5% vào 1/1/1998. Kênh giảm thuế bình thường (còn gọi là chương trình giảm thuế quan theo lịch trình thông thường) sẽ áp dụng cho tất cả các sản phẩm công nghiệp chế biến còn lại. Đối với những sản phẩm có thuế suất trên 20%, việc giảm thuế ở kênh này sẽ được tiến hành theo hai nấc: sẽ giảm thuế suất của chúng xuống tới 20% vào năm 1998 và sau đó sẽ tiếp tục giảm xuống còn 0-5% vào năm 2003. Đối với sản phẩm đã có thuế suất bằng hoặc thấp hơn 20% sẽ được giảm thuế đến 0-5% trong vòng 7 năm, tức là kết thúc vào năm 2000. Các danh mục giảm thuế theo kênh thông thường hiện chiếm tỷ lệ lớn nhất trong tổng số các danh mục hàng hoá tham gia CEPT với 49%. Với các tỷ lệ lớn của hai danh mục giảm thuế trong chương trình thực hiện CEPT (khoảng 93%), các lịch trình giảm thuế này nếu được thực hiện, về căn bản, chúng đã gần như hoàn thành tỷ suất tự do hoá thương mại nội bộ ASEAN. Điều đáng lưu ý ở dây là sau một số năm thực hiện CEPT, các nước thành viên ASEAN đã có đề xuất về một lịch trình giảm thuế linh hoạt, nghĩa là không nhất thiết phải tuân thủ theo hai kênh đồng tuyến với các quy định rạch ròi cho các suất thuế cần cắt giảm qua từng thời kỳ. Tuỳ theo đặc điểm cơ cấu thuế quan xuống còn 0-5% càng sớm càng tốt trước năm 2003. Hiện nay Hội đồng AFTA đã chấp nhận đề xuất đó như một sáng kiến nhằm đáp ứng các yêu cầu về việc tạo dựng một khu vực tự do hoá thương mại ASEAN trước thời hạn đã định. Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 6 tại Hà Nội (15-16/12/1998), với sáng kiến thực hiện các thoả thuận đa phương và song phương, đã khẳng định một lần nữa việc đẩy nhanh tiến trình AFTA. ít ra là phải hoàn thành AFTA vào năm 2000 đối với 6 nước thành viên ASEAN đã kết nạp trước năm 1995. Cũng xuất phát từ hoàn cảnh đặc biệt của từng quốc gia thành viên mà CEPT còn quy định danh mục các sản phẩm tạm thời chưa tham gia giảm thuế (còn gọi là danh mục loại trừ tạm thời) để tạo điều kiện thuận lợi cho các nước này Các sản phẩm trong danh mục này sẽ không được hưởng nhượng bộ từ các nước thành viên và chỉ tồn tại mang tính chất tạm thời, nghĩa là sau 5 năm, chúng sẽ buộc phải chuyển sang danh mục giảm thuế theo hai kênh đồng tuyến đã định. Do đó, kể từ 1/1/1996 đến 1/1/2000, danh mục loại trừ tạm thời sẽ phải chuyển sang danh mục giảm thuế theo CEPT bình quân 20% mỗi năm. Dĩ nhiên, loại danh mục này không nhiều, chỉ chiếm khoảng 8% tổng số các danh mục tham gia giảm thuế. Một vấn đề gây tranh luận nhiều nhất trong việc xây dựng chương trình CEPT là vấn đề đưa hay không đưa các sản phẩm nông nghiệp chưa qua chế biến vào danh mục giảm thuế. Theo Hiệp định CEPT năm 1992, các sản phẩm nông nghiệp chưa qua chế biến không được đưa vào danh mục giảm thuế theo CEPT. Nhưng đến tháng 9/1994, các thành viên ASEAN đã đồng ý đưa chúng vào danh mục này. Do đó, cùng với các danh mục giảm thuế là loại trừ thuế tạm thời, phạm vi sản phẩm tham gia tiến trình tự do hoá thương mại theo CEPT đã được mở rộng tới 98% tổng số dòng thuế của toàn khối ASEAN. Các sản phẩm nông nghiệp chưa qua chế biến cũng sẽ được phân định thành ba danh mục: danh mục giảm thuế, danh mục loại trừ hoàn toàn và một danh mục đặc biệt khác là danh mục các sản phẩm nông nghiệp nhạy cảm. Trừ một số nhỏ hàng nông nghiệp chưa qua chế biến được đưa vào danh mục loại trừ hoàn toàn, hiện hành nông nghiệp chưa qua chế biến của toàn bộ ASEAN bao gồm 1823 dòng thuế, chiếm 4% tổng số dòng thuế sẽ giảm theo CEPT của các quốc gia này. Các sản phẩm thuộc danh mục nhạy cảm là đối tượng cần có cơ chế tự do hoá riêng phù hợp với các quy định của Hiệp định về nông sản của WTO. Tuy nhiên, mức cam kết giảm thuế của các sản phẩm thuộc danh mục này ở ASEAN sẽ cao hơn mức mà các nước thành viên đã cam kết tại vòng đàm phán Urugoay. Đến nay, theo đề xuất của các quốc gia thành viên, những mặt hàng này đã được phép kết thúc lịch trình giảm thuế đến 0-5% vào ngày 1/1/2010. Như vậy, xét một cách tổng quát, cấu trúc CEPT bao gồm 3 danh mục chính: danh mục giảm thuế, danh mục các sản phẩm tạm thời chưa giảm thuế và danh mục các sản phẩm nông nghiệp chưa qua chế biến. Tuy nhiên, để vận dụng đúng hơn về CEPT, các thành viên ASEAN đã thống nhất xây dựng một danh mục loại trừ hoàn toàn một số sản phẩm ra khỏi lịch trình giảm thuế theo CEPT, tức là việc cắt giảm thuế đối với những sản phẩm này sẽ không được áp dụng theo các quy định của CEPT. Đó là những sản phẩm có ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, đạo đức xã hội, cuộc sống và sức khoẻ con người, đến việc bảo tồn các giá trị văn hoá nghệ thuật, các di tích lịch sử, khảo cổ... Khi vận dụng CEPT, chúng ta không được quên một điều kiện bổ sung cho cơ chế giảm thuế theo CEPT, đó là những nhượng bộ trao đổi giữa các quốc gia ASEAN khi thực hiện CEPT trên các nguyên tắc có đi có lại. Nguyên tắc này bắt buộc các nước thành viên để được hưởng ưu đãi về thuế quan của nhau khi xuất khẩu theo CEPT cần đảm bảo đúng các yêu cầu sau đây: thứ nhất, sản phẩm đó phải nằm trong danh mục cắt giảm thuế của cả nước xuất khẩu và nước nhập khẩu và phải có mức thuế quan tối đa là 20%; thứ hai, sản phẩm đó phải có chương trình giảm thuế được Hội đồng AFTA thông qua và thứ ba, sản phẩm đó phải là những sản phẩm có hàm lượng xuất xứ từ các nước thành viên ASEAN với ít nhất là 40%. Nếu một sản phẩm đảm bảo được ba yêu cầu đó, chúng sẽ được hưởng ưu đãi hoàn toàn từ phía các quốc gia nhập khẩu. Để xác định các sản phẩm có đủ điều kiện hưởng thuế quan ưu đãi theo chương trình CEPT hay không, mỗi nước thành viên hàng năm phải công bố "tài liệu trao đổi ưu đãi CEPT" trong đó cần thể hiện được mức thuế quan của các sản phẩm theo CEPT và các sản phẩm có đủ điều kiện ưu đãi. Tóm lại, CEPT được thực hiện sẽ đẩy nhanh tiến trình tự do hoá thương mại trong nội bộ ASEAN. Bởi vì dựa vào các kế hoạch giảm thuế đã được các nước thành viên ASEAN cam kết theo chương trình CEPT, đến năm 2000 chắc chắn 87,7% tổng số các dòng thuế tham gia giảm thuế sẽ có mức thuế 0-5%. Điều này hoàn toàn có cơ sở khi mà hiện nay các sản phẩm CEPT đã tăng rất nhanh trong tổng kim ngạch xuất khẩu nội bộ ASEAN, từ 81,38% năm 1994 lên 84,7% năm 1995. 3.2. Huỷ bỏ hạn chế về định lượng hàng rào phi quan thuế Đây là cơ chế quan trọng thứ hai được tiến hành đồng thời với thực hiện chương trình CEPT. Các nước thành viên ASEAN sẽ xoá bỏ tất cả các hạn chế về số lượng đối với các sản phẩm CEPT trên cơ sở chế độ ưu đãi thuế quan được áp dụng cho các sản phẩm đó. Các hàng rào phi quan thuế khác cũng sẽ được xoá bỏ dần dần trong vòng 5 năm sau khi sản phẩm được hưởng ưu đãi. Đây là sự hỗ trợ cực kỳ quan trọng cho tiến trình AFTA vì lẽ cắt giảm thuế là biện pháp cần thiết, đầu tiên song đó không phải là biện pháp duy nhất để thực hiện tự do hoá thương mại. Các khía cạnh như: các kênh giảm thuế đồng tuyến, danh mục loại trừ tạm thời, danh mục hàng nông nghiệp chưa qua chế biến... tạo nên tính kỹ thuật của chính sách tự do hoá thương mại, còn cấu thành nên sự tác động có tính chất hành chính, pháp lý giữa các quốc gia trong tiến trình chu chuyển thương mại đó là các biện pháp về giấy phép xuất nhập khẩu, hạn ngạch, các hạn chế về tỷ giá hối đoái, các biện pháp về tiêu chuẩn kỹ thuật hàng hoá... Đây là những rào cản trong thực tiễn hoạt động thương mại, nó gắn chặt với các chính sách bảo hộ mậu dịch nặng nề và theo đó, việc loại bỏ chúng sẽ không dễ dàng nếu không có sự cải cách toàn diện ở tầm vĩ mô nền kinh tế của từng nước. Hơn nữa, hiện nay, những biện pháp này còn rất không đồng nhất giữa các nước thành viên ASEAN. Do vậy, để chuẩn bị tốt tiến trình xoá bỏ các hàng rào phi quan thuế, Uỷ ban Phối hợp thực hiện CEPT/AFTA của ASEAN đã tiến hành các bước như sau: Bước 1: Các nước thành viên cùng thống nhất định nghĩa về các biện pháp phi quan thuế dựa trên sự phân loại của UNCTAC. Bước 2: tập trung trước tiên việc giảm các hàng rào phi thuế quan đối với các sản phẩm có tỷ trọng lớn trong giao dịch thương mại nội bộ ASEAN. Bước 3: Ban thư ký ASEAN sẽ tập hợp thông tin các hàng rào phi quan thuế của các nước thành viên từ nhiều nguồn, gồm: báo cáo của các quốc gia thành viên, bản đánh giá chính sách thương mại của GATT, báo cáo của Phòng thương mại-Công nghiệp ASEAN, hệ thống thông tin và phân tích dữ liệu thương mại của UNCTAC... để có một chính sách điều hoà thích hợp. Trừ một số lý do được phép duy trì các hàng rào phi quan thuế như: sự cần thiết phải bảo hộ một số sản phẩm thuộc danh mục loại trừ hoàn toàn, sự bảo hộ đối với một số sản phẩm trong thời gian còn được hưởng chế độ miễn trừ tạm thời... việc xoá bỏ các hàng rào phi quan thuế cần được phối hợp đồng bộ với chương trình CEPT, trong đó quan trọng nhất và khó khăn nhất là việc thống nhất các tiêu chuẩn về hàng hoá và việc thừa nhận lẫn nhau về tiêu chuẩn hoá hàng hoá giữa các nước thành viên. Hiện tại, Uỷ ban về tiêu chuẩn Chất lượng của ASEAN (ACCSQ) đang tiến hành thống nhất hoá các tiêu chuẩn về kỹ thuật của các sản phẩm CEPT thuộc nhóm những hàng hoá có kim ngạch buôn bán lớn giữa các nước ASEAN. Tất nhiên, ở đây cần phân biệt rõ giữa hàng rào phi quan thuế và các biện pháp phi quan thuế bởi vì rất nhiều biện pháp phi quan thuế lại có tác dụng tốt cho việc tạo dựng môi trường thương mại. Ví dụ, chính sách trợ giá xuất khẩu của Chính phủ, biện pháp chống bán phá giá... Dĩ nhiên, việc thống nhất và xoá bỏ các hàng rào phi quan thuế là một công việc khó khăn vì ba lý do: thứ nhất, các hàng rào phi quan thuế đa dạng và thường ẩn dấu đằng sau các chính sách (ví dụ chính sách kiểm dịch, chính sách duy trì hạn ngạch để hỗ trợ công nghiệp, chính sách đánh giá cao giá trị của đồng bản tệ...); thứ hai, các bộ luật thuế quan của các nước ASEAN vẫn còn chưa được điều hoà (Việt Nam theo hệ thống điều hoà thuế quan (HS) 6 chữ số, Thái Lan là HS-8, Malaysia và Singapore là HS-9...), và theo đó, cơ quan hải quan trong từng nước thành viên khó có thể áp dụng đúng thuế, đúng sản phẩm. Thứ ba là, các nguyên tắc về xuất xứ sản phẩm cũng sẽ làm phức tạp hơn các tình thế xử lý về mặt phi quan thuế theo CEPT khi đầu tư và thương mại giữa các nước ASEAN trở nên thường xuyên và mật thiết. Để giải quyết các vấn đề này, phòng Thương mại và Công nghiệp ASEAN có nhiệm vụ đẩy nhanh quá trình điều hoà các bộ luật thuế quan với sự ưu tiên trước hết giành cho các sản phẩm chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch buôn bán nội bộ ASEAN và những sản phẩm thuộc 15 danh mục hàng hoá tham gia kênh giảm thuế nhanh của CEPT. Hội đồng CEPT đã tán thành kế hoạch hành động để điều hoà về các tiêu chí luật thuế và phi quan thuế trên toàn khu vực vào năm 1997. 3.3. Sự phối hợp trong ngành hải quan Các nước ASEAN đã xác định việc hợp tác hải quan là một trong những nhân tố quan trọng để thực hiện mục tiêu của AFTA, do vậy ngay sau khi Hiệp định CEPT được ký kết, các nước đã tăng cường hợp tác trên lĩnh vực này. Phối hợp hải quan là cơ chế thực hiện của chương trình CEPT khi nó hỗ trợ các nước thành viên thống nhất biểu thuế quan theo Hệ thống điều hoà (HS) của nó. Hơn nữa, nó tạo thuận lợi cho việc thực hiện giảm thuế và phi quan thuế khi hệ thống tính giá hải quan được thống nhất, các luồng xanh ưu đãi cho hàng hoá theo CEPT của ASEAN được hình thành và đặc biệt thủ tục hải quan được thống nhất. Như vậy, tiến trình AFTA nhanh hay chậm, được điều chỉnh hay bổ sung đều tuỳ thuộc đáng kể vào các chương trình hợp tác hải quan. Thuế quan trung bình theo CEPT trong giai đoạn 1998-2003 của ASEAN Nước thành viên 1998 1999 2000 2001 2002 2003 Bruney Indonesia Lào Malaysia Mianma Philipin Singapore Thailand Việt Nam 1,4 6,1 5,0 3,4 4,5 7,4 0,0 10,6 3,9 1,3 5,3 5,0 3,0 4,5 6,5 0,0 9,8 3,9 1,0 4,6 5,0 2,6 4,4 5,3 0,0 7,4 3,0 1,0 4,4 5,0 2,4 3,3 4,8 0,0 7,4 3,0 0,9 4,1 5,0 2,3 3,3 4,5 0,0 6,0 2,7 0,9 3,7 5,0 2,0 3,2 3,6 0,0 4,6 1,8 ASEAN 5,1 4,6 3,7 3,5 3,2 2,6 Đơn vị: % (* nguồn: Ban thư ký ASEAN, 1999) Ghi chú: Thuế suất theo CEPT của toàn ASEAN là bình quân gia quyền với quyền số là dòng thuế trong Danh mục cắt giảm ngay (IL) năm 1998. Chúng ta thấy, thuế quan bình quân ASEAN vào thời điểm này của từng nước ASEAN-6 đều đã đạt xấp xỉ dưới 5% (ngoại trừ Thailand và Philipin vẫn còn thuế suất bình quân khá cao). Như vậy có thể nói các nước ASEAN-6 về cơ bản đã hoàn thành việc chuyển các dòng thuế trong các danh mục, đặc biệt là Danh mục loại trừ tạm thời sang Danh mục cắt giảm ngay đồng thời giảm thuế trong Danh mục cắt giảm ngay. Đối với các thành viên mới, vì thời hạn hoàn thành CEPT còn xa hơn, do đó, tiến độ chuyển các dòng thuế từ các danh mục, đặc biệt là Danh mục loại trừ tạm thời sang Danh mục cắt giảm ngay chậm hơn. Tới năm 2000, mới chỉ có khoảng 50% số dòng thuế được đưa vào Danh mục này. Đối với Việt Nam, năm 2000 sẽ đạt 3.573 dòng thuế trên tổng số 4.827 dòng trong Danh mục cắt giảm ngay, tương đương khoảng 74% tổng số dòng thuế. Đây là tỷ lệ cao nhất so với các thành viên mới khác của ASEAN. Cũng căn cứ vào số liệu do Ban thư ký ASEAN cung cấp, trong năm 2000, mức thuế quan bình quân thực hiện CEPT của Việt Nam đạt 3,4% từ mức 3,9% năm 1999, đây là một sự cắt giảm đáng kể. So với mức thuế quan bình quân hiện nay tính gia quyền theo kim ngạch thương mại cho tất cả các dòng thuế (kể cả dòng có thuế suất bằng 0) trên 11% thì chúng ta đã thực hiện thuế theo CEPT chỉ thấp bằng 1/3 của mức thuế suất bình quân hiện hành áp dụng chung cho các nước có quan hệ thương mại với Việt Nam. Trên cơ sở thực hiện Hiệp định CEPT với các nước ASEAN, thời gian vừa qua Việt Nam đã đạt được nhiều thuận lợi về thương mại với các nước ASEAN, điều dó tạo điều kiện để kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam tăng nhanh chóng. Khu vực các nước ASEAN đã và sẽ ngày càng chiếm một vị trí quan trọng trong mối quan hệ thương mại với Việt Nam. Tổng cục Hải quan đã tham gia với các nước thành viên ASEAN khác trong mọi lĩnh vực hợp tác hải quan ASEAN: Điều hoà thống nhất danh mục biểu thuế quan của các nước ASEAN; Điều hoà thống nhất các hệ thống xác định trị giá hải quan để tính thuế; Điều hoà thống nhất quy trình thủ tục hải quan ASEAN; Xuất bản sách Hướng dẫn về các quy trình thủ tục hải quan của các nước; Triển khai Hệ thống Luồng xanh để nhanh chóng hoàn thành các thủ tục hải quan cho các sản phẩm của CEPT; Xây dựng tờ khai hải quan chung; Xây dựng Hiệp định Hải quan của các nước ASEAN. Tuy nhiên, trong lĩnh vực này do những sự khác biệt giữa Việt Nam và các nước về quy định của Luật thuế xuất nhập khẩu, danh mục biểu thuế, quy trình thủ tục hải quan nên ta đang có những khó khăn khi tham gia các nội dung hợp tác này. 4. Triển vọng của AFTA Tỷ lệ xuất khẩu của ASEAN sang các đối tác ngoài khối tăng 10.5% tương đương 200,5 tỉ đô la năm 1999 từ 178,4 tỉ đô la năm 1998. Điều này có sự đóng góp rất lớn của các mặt hàng xuất khẩu sang EU, tiếp theo là Mỹ, Hàn Quốc và Nhật Bản. Trong khi lượng nhập khẩu từ các đối tác này cũng tăng vào năm 1999 trừ Mỹ, lượng nhập chỉ còn 5 tỉ đô la. Sự gia tăng nhập khẩu trong số các đối tác thuộc khối chủ yếu là từ Hàn Quốc và Nhật Bản. Các quốc gia thành viên dược thụ hưởng các điều kiện ưu đãi do AFTA mang lại: có thị trường chung rộng lớn, các yếu tố đầu vào giảm, thu hút mạnh mẽ đầu tư nước ngoài và thông qua AFTA từng bước hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Trên cơ sở này, các nước thành viên ngày càng phát huy được các lợi thế so sánh của mình. Cũng vì vậy, người ta đã dự báo rằng trong những năm đầu của thế kỷ XXI, ASEAN vẫn là những nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao nhất, vẫn là những nền kinh tế có hiệu suất của khu vực phát triển năng động nhất thế giới. Với việc Việt Nam gia nhập APEC vào năm 1998, ASEAN ngày càng có ảnh hưởng đáng kể đối với Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Khu vực Châu á - Thái Bình Dương. Hiện tại, Hiệp hội ASEAN đã quyết định kết nạp thành viên cuối cùng của Đông Nam á là Campuchia vào tổ chức của mình. từ ASEAN - 9 đến ASEAN -10 và theo đó là việc nghiễm nhiên Campuchia tham gia AFTA, khu vực mậu dịch tự do ASEAN sẽ được mở rộng về quy mô, đa dạng về trình độ, và là sự bổ sung về mặt cơ cấu để cả khu vực ASEAN thành một thể chế kinh tế thống nhất. Những kinh nghiệm và các vấn đề bức xúc đặt ra trong tiến trình thực hiện AFTA hiện nay sẽ là những bài học quý giá cho các thành viên đi sau. Nhìn chung, triển vọng ở AFTA không phải chỉ là hiệu quả thương mại và đầu tư nội bộ khu vực mà là ở việc AFTA đã đặt tất cả các nền kinh tế thành viên trước những sự chuyển đổi cần thiết từ bên trong, tìm được ra những điểm tương đồng, bổ sung và thúc đẩy nhau với tư cách là một thể chế thống nhất có sức mạnh và ảnh hưởng lớn tới các tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu khác. AFTA với tư cách là một sự nhất thể hoá thị trường khu vực, sẽ làm tăng sự lệ thuộc lẫn nhau vì sự cần thiết phải phối hợp với nhau về các chính sách kinh tế. Mọi sự chênh lệch về mức thuế quan sẽ được thu hẹp và khả năng mở ra cho một khu vực thương mại tự do hơn sẽ được đẩy mạnh. Những nhân tố chủ yếu quyết định sự thành công của AFTA mà chúng ta có thể thấy là: thứ nhất, với sự hội tụ của công nghiệp hoá, giảm thuế quan và các hàng rào phi quan thuế, phi điều chỉnh và tư nhân hoá, nguồn gốc tiềm tàng của xung đột và các vấn đề nảy sinh trong khu vực thương mại tự do sẽ bị thu hẹp. Thứ hai, với chương trình giảm thuế CEPT được kết hợp chặt chẽ với chương trình hợp tác công nghiệp ASEAN (AICO), các lợi ích thu được từ AFTA sẽ được nhân lên gấp bội. Cùng với các chương trình hợp tác rộng rãi về nhiều lĩnh vực: tài chính, tiền tệ, sở hữu trí tuệ... và hợp tác theo vùng kinh tế khu vực như là với các tam giác, tứ giác tăng trưởng ASEAN sẽ được thúc đẩy mạnh mẽ. Thứ ba, sự hài hoà trong khu vực về các tiêu chuẩn công nghiệp, luật đầu tư và các chính sách nội địa khác sẽ góp phần đẩy nhanh tiến ttrình nhất thể hoá. Thứ tư, với những thành công trong vòng đàm phán Urugoay và với sự tăng cường của WTO, APEC, Hiệp hội ASEAN nhất thiết phải cố gắng giảm thuế quan và phi quan thuế nhanh cho tất cả đối với các nước thành viên và không phải thành viên. Do đó, thực hiện AFTA trong bối cảnh khu vực hoá và toàn cầu hoá hiện nay đang tạo cơ hội tốt nhất cho các nước thành viên ASEAN tiếp tục mở rộng sự tăng trưởng năng động của nó. ) 5. Những tác động của AFTA đến các nước thành viên Khi tham gia vào AFTA có ba loại chủ thể chịu tác động là Nhà nước, doanh nghiệp và người tiêu dùng. Đối với Nhà nước, khi gia nhập AFTA, nguồn thu từ thuế xuất nhập khẩu sẽ giảm xuống. Nếu việc tham gia AFTA không làm tăng khối lượng biôn bán đến lúc mà số lượng thuế thu được do tăng doanh thu không bù đắp được sự cắt giảm thu do giảm thuế suất. Đối với doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh thương mại chịu hai loại tác động ngược chiều, tăng khả năng cạnh tranh về giá cả và chịu sức ép cạnh tranh lớn hơn do xoá bỏ các hàng rào bảo hộ. Đối với người tiêu dùng, họ sẽ có lợi về giá cả rẻ hơn, chủng loại hàng hoá phong phú đa dạng hơn. Họ đước quyền lựa chọn lớn hơn và mức độ thoả mãn trong tiêu dùng cao hơn. Chương II: việc thực hiện các cam kết của Việt Nam trong khuôn khổ afta I. NHữNG CAM KếT CủA VIệT NAM TRONG KHUÔN KHổ AFTA 1. áp dụng quy chế tối huệ quốc - MFN Việt Nam cam kết áp dụng trên cơ sở có đi có lại, ưu đãi tối huệ quốc và ưu đãi quốc gia cho các nước thành viên ASEAN, cung cấp các thông tin phù hợp về chính sách thương mại theo yêu cầu. Có thể nói, hợp tác kinh tế là quá trình hợp tác trên cơ sở "có đi có lại", trong đó các nước thành viên giành sự đối xử ưu đãi cho nhau trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc của tổ chức, chấp nhận các luật lệ và tập quán quốc tế. Quá trình tự do hoá thương mại và đầu tư trong tổ chức ASEAN nói riêng và APEC, GATT, WTO nói chung đều được thực hiện trên cơ sở giải thoát các nước ra khỏi tình trạng phân biệt đối xử nghiêm trọng trong các quan hệ thương mại gây cản trở lớn cho phát triển kinh tế thế giới, trong đó mọi thành viên đều bình đẳng, mọi quyết định đều đạt tới bằng sự nhất trí chung tôn trọng quan điểm của các nước tham gia. Trên nguyên tắc vừa hợp tác vừa đấu tranh để tiến hành các cuộc thương lượng tập thể nhằm thiết lập các thoả thuận và và các luật lệ chung, việc tham gia các tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực nói chung và AFTA nói riêng giúp chúng ta tránh khỏi tình trạng bị phân biệt đối xử trong trong quan hệ với các nước, đặc biệt là những nước lớn, tạo dựng được thế và lực trong thương mại quốc tế, tranh thủ được lợi ích tập thể của cả khối để nâng cao vai trò và sức cạnh tranh của mình trong quan hệ với các cường quốc, giải quyết các tranh chấp thương mại với các nước thành viên. 2. Cắt giảm thuế quan Việt Nam - AFTA theo CEPT Tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lần thứ VI, các nguyên thủ quốc gia ASEAN đã quyết định đẩy nhanh hơn nữa việc thực hiện AFTA. Theo các cam kết của ASEAN thì: 8Sáu nước ASEAN gồm Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan sẽ hoàn thành AFTA vào năm 2002, cụ thể là: + Đạt ít nhất 85% số dòng thuế của Danh mục giảm thuế (IL) có thuế suất 0 - 5% vào năm 2000 + Đạt ít nhất 90% số dòng thuế của IL có thuế suất 0- 5% vào năm 2001 + Đạt 100% số dòng thuế của IL có thuế suất 0 - 5% vào năm 2002, nhưng có một số linh hoạt 8Việt Nam sẽ tối đa số dòng thuế 0 - 5% vào năm 2003, mở rộng số dòng 0% vào năm 2006 8Lào và Myanma sẽ tối đa số dòng thuế 0 - 5% vào năm 2005, mở rộng số dòng thuế 0% vào năm 2008 Tại Hội nghị AEM Retreat (3/1999), các Bộ trưởng kinh tế ASEAN đã đặt mục tiêu phấn đấu đạt 60% số dòng thuế trong Danh mục cắt giảm thuế (IL) có thuế suất 0% vào năm 2003. Danh mục loại trừ hoàn toàn (GEL) gồm những mặt hàng sẽ được loại trừ vĩnh viễn ra khỏi chương trình CEPT. Danh mục này được xây dựng phù hợp với điểm 9 của Hiệp định CEPT và bao gồm những nhóm mặt hàng có ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, đạo đức xã hội, cuộc sống và sức khoẻ con người, động vật, thực vật, các giá trị lịch sử, văn hoá, giáo dục, nghệ thuật của mỗi nước… Danh mục loại trừ hoàn toàn của Việt Nam ban đầu gồm 213 dòng thuế, chiếm 6,2% tổng số dòng thuế của biểu thuế nhập khẩu. Sau đó được chuyển bớt một số sang Danh mục loại trừ tạm thời và cơ cấu lại còn 127 dòng thuế. Danh mục loại trừ tạm thời (TEL) chủ yếu được sử dụng để nhằm đạt được yêu cầu không ảnh hưởng lớn đến nguồn thu ngân sách và bảo hộ các ngành sản xuất trong nước. Danh mục này gồm các sản phẩm mà các nước ASEAN chưa sẵn sàng cắt giảm thuế ngay. Trong vòng 5 năm, kể từ 1/1/1996 (đối với Việt Nam là 1/1/1999), các sản phẩm thuộc danh mục này phải được chuyển dần vào Danh mục giảm thuế, mỗi năm 20% số sản phẩm trong Danh mục. Đối với các sản phẩm có thuế suất trên 20% và được chuyển sang Danh mục giảm thuế trước 1/1/1998, đến 1/1/1998 thuế suất phải được giảm xuống 20%. Đối với các sản phẩm được chuyển sang Danh mục giảm thuế sau 1/1/1998, thuế suất khi đưa vào phải bằng hoặc nhỏ hơn 20%, để từ đó giảm tiếp xuống 0 - 5%. Danh mục loại trừ tạm thời của Việt Nam bao gồm 1147 dòng thuế chiếm 39,2 % tổng số dòng thuế trong biểu thuế nhập khẩu. Danh mục giảm thuế (IL) Theo quy định của Hiệp định CEPT/AFTA (đã sửa đổi), những mặt hàng được đưa vào IL là những mặt hàng sẽ phải cắt giảm thuế để có thuế suất cuối cùng từ 0% đến 5% vào năm 2003 (đối với Việt Nam là năm 2006, đối với Lào và Myanma là năm 2008). Kể từ năm 1996, mỗi năm các nước ASEAN phải đưa thêm 20% các mặt hàng từ danh mục hàng tạm thời chưa giảm thuế (TEL) sang IL. Các thời hạn tương ứng đối với Việt Nam là năm 1999, với Lào và Myanma là năm 2001, Campuchia là 2003. Trong quan hệ thương mại giữa hai nước ASEAN, chỉ khi một mặt hàng nằm trong IL của cả hai nước thì mới được hưởng các ưu đãi nói cách khác ưu đãi được đưa ra trên cơ sở có đi có lại. Danh mục giảm thuế của Việt Nam gồm 1718 dòng thuế, chiếm 53% tổng số dòng thuế của biểu thuế nhập khẩu. Danh mục các mặt hàng nông sản chưa chế biến nhạy cảm (SL) Danh mục các mặt hàng nông sản chưa chế biến có khả năng gây ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế ASEAN nếu thực hiện giảm thuế quan theo lịch biểu của chương trình CEPT. Danh mục này được xây dựng dựa trên cơ sở tham khảo danh mục này của các nước ASEAN và căn cứ vào yêu cầu bảo hộ cao của sản xuất trong nước đối với một số mặt hàng nông sản chưa chế biến. Thời hạn đưa các mặt hàng trong Danh mục này vào Danh mục giảm thuế sẽ bắt đầu từ 2001 và kết thúc vào 2003 (đối với Việt Nam là 2004 và 2006). Các mặt hàng trong Danh mục này được kéo dài thời hạn giảm thuế quan xuống 0 - 5% cho đến năm 2010 thay vì 2003 như các mặt hàng khác (đối với Việt Nam là 2013). Đây là các mặt hàng quan trọng đối với mỗi nước nên thường được bảo hộ rất cao, vì thế bên cạnh thời hạn giảm thuế, các mặt hàng này còn cần phải có thoả thuận cụ thể về thuế suất bắt đầu thực hiện giảm thuế và các chế độ đãi ngộ khác. sống ngành. Danh mục cắt giảm thuế quan chủ yếu bao gồm các mặt hàng hiện đang có thuế suất thấp hơn 20% và một số mặt hàng có thuế suất cao hơn nhưng Việt Nam đang có lợi thế xuất khẩu. Việt Nam đã đưa ra nội dung và kế hoạch thực hiện chương trình cắt giảm thuế quan nhập khẩu theo cam kết CEPT/AFTA trong năm 2000 và những năm sau đó. Theo Tổng cục thuế - Bộ Tài chính đến hết năm 1999, Việt Nam đã cắt giảm thuế 3.580 mặt hàng, chiếm 60 % tổng số dòng thuế dự kiến đưa vào thực hiện , Danh mục nhạy cảm của Việt Nam gồm 23 dòng thuế, bao gồm các mặt hàng như: các loại thịt, trứng gia cẩm, động vật thóc, gạo lức, đường ăn,… Các mặt hàng này hiện đang được áp dụng các biện pháp phi thuế quan như quản lý theo hạn ngạch, quản lý của Bộ chuyên chương trình cắt giảm thuế. Trong năm 2000, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ phê chuẩn ban hành danh mục CEPT. Danh mục CEPT 2000 của Việt Nam gồm khoảng 4.230 dòng thuế, trong đó có hơn 640 dòng mới chuyển từ danh mục loại trừ tạm thời vào thực hiện CEPT 2000, đạt 65% tổng số dòng thuế dự kiến đưa vào cắt giảm theo cam kết với các nước ASEAN với khoảng 2.960 dòng thuế có mức thuế suất từ 0 - 5% và 1.270 dòng thuế có thuế suất từ 5 - 50%. So sánh mục tiêu chủ yếu của Chương trình cắt giảm thuế quan CEPT là các nước thành viên sẽ giảm thuế nhập khẩu đối với đa số các mặt hàng nhập khẩu từ các nước thành viên ASEAN khác xuống còn từ 0 - 5% với Biểu thuế nhập khẩu hiện hành của Việt Nam hơn tổng số 3211 nhóm mặt hàng của Biểu thuế nhập khẩu hiện hành của Việt Nam hơn nửa tổng số nhóm mặt hàng đã phù hợp với mức thuế tiêu chuẩn đặt ra cho Chương trình CEPT, điều đó có nghĩa là về thực chất Việt Nam chỉ phải thực hiện giảm thuế cho gần 50% của tổng số nhóm mặt hàng trong Biểu thuế nhập khẩu. So với các nước thành viên ASEAN khác khi bắt đầu thực hiện chương trình cắt giảm thuế quan theo CEPT của Việt Nam nhiều hơn rất nhiều. Ví dụ Indonesia khi bắt đầu tham gia CEPT chỉ có 9% tổng số nhóm mặt hàng có thuế suất dưới 5%, Thái Lan có 27%, Philippin có 32%. Trong cơ cấu của Biểu thuế nhập khẩu của Việt Nam, mức thuế suất thấp chủ yếu áp dụng cho các mặt hàng là nguyên vật liệu là đầu vào phục vụ cho sản xuất, xuất khẩu. Tỷ trọng lớn của số các thuế suất trong khoảng 0 - 5% phù hợp với điều kiện của Việt Nam trong giai đoạn khi nhiều nguyên vật liệu là đầu vào mà sản xuất trong nước chưa đủ khả năng đáp ứng. Các thuế suất cao hơn phần lớn là áp dụng với các mặt hàng trong nước đã sản xuất được nhằm bảo về các nhà sản xuất trong nước hoặc các mặt hàng không khuyến khích nhập khẩu. Các mức thuế suất trên 60% được áp dụng chủ yếu với các mặt hàng xa xỉ phẩm, đồ dùng thiết bị với mục đích điều chỉnh tiêu dùng. Do đó hiện nay khi nền sản xuất trong nước của Việt Nam đã phần nào phát triển và đáp ững được một phần các sản phẩm cần thiết phục vụ cho sản xuất mà trước đây phải nhập từ nước ngoài, nhu cầu nâng cao các mức thuế suất thuế nhập khẩu nhằm mục đích bảo hộ cho các ngành sản xuất trong nước là thật sự cần thiết. Điều này sẽ phần nào mâu thuẫn với nội dung thực hiện của chương trình cắt giảm thuế khi Việt Nam cam kết tham gia thực hiện AFTA. Ngoài ra khi cân nhắc, xem xét để thực hiện chương trình cắt giảm thuế theo Hiệp định CEPT một vấn đề nữa cũng được đặt ra là Biểu thuế nhập khẩu của Việt Nam có một số điểm không thật sự phù hợp với thông lệ quốc tế do đó gây khó khăn khi Việt Nam tham gia thực hiện các Hiệp định quốc tế như Hiệp định CEPT. Trong quá trình xây dựng các Danh mục hàng hoá và chương trình giảm thuế theo Hiệp định CEPT, chúng ta đã gặp không ít khó khăn do xuất phát điểm của nền kinh tế Việt Nam thấp hơn so với các nước thành viên khác. Hơn nữa về mặt kỹ thuật, ngoài các điểm còn khác biệt về hệ thống thuế áp dụng đối với hàng xuất nhập khẩu và hệ thống mã số của Biểu thuế Việt Nam so với các nước ASEAN khác, các thuế suất của Biểu thuế hiện hành đòi hỏi được điều chỉnh cơ bản để phù hợp với sự phát triển của các ngành sản xuất trong nước. 3. Huỷ bỏ các hạn chế về định lượng và hàng rào phi quan thuế Các biện pháp phi thuế quan mà các nước ASEAN áp dụng là rất đa dạng, đặc biệt là các biện pháp về tiêu chuẩn kỹ thuật. ở Việt Nam, những biện pháp phi thuế quan còn rất đơn giản và chủ yếu là các biện pháp giấy phép, hạn ngạch,… Do đó để việc thực hiện loại bỏ các biện pháp phi thuế quan theo Hiệp định CEPT của Việt Nam có lợi nhất, đáp ứng được yêu cầu của bảo hộ sản xuất trong nước, ta đã có phương án nghiên cứu ban hành bổ sung các biện pháp phi quan thuế tương tự như các nước ASEAN đang áp dụng trước khi loại bỏ chúng. Chính phủ Việt Nam đã có nỗ lực trong việc huỷ bỏ việc kiểm soát bằng hạn ngạch trừ một số sản phẩm như gạo và những mặt hàng nước nhập khẩu phân bổ hạn ngạch cho nước ta. Một thành công nữa là cải thiện một cách triệt để về giấy phép xuất nhập khẩu mà nhờ đó hầu hết các doanh nghiệp có thể tham gia xuất nhập khẩu trực tiếp những mặt hàng không thuộc danh mục hạn chế hoặc cấm xuất nhập khẩu: Chúng tha đang nghiên cứu và áp dụng dần hiệp định Trị giá tính thuế quan của GATT thông qua thực hiện hiệp định GVA tính từ năm 2000-2004. Danh mục nhạy cảm cao (HSL) bao gồm một số rất ít các nông sản chưa chế biến mà một số nước ASEAN cho là đặc biệt nhạy cảm đối với nền kinh tế, do đó khi đưa vào cắt giảm thuế quan theo Chương trình CEPT thì cần phải có quy chế đặc biệt cho phép linh hoạt hơn về thuế suất, thời gian khi bắt đầu và kết thúc giảm thuế, về việc loại bỏ Hạn chế định lượng (QR) và các hàng rào phi thuế quan (NTB), về các biện pháp tự vệ. Danh mục này của các nước ASEAN có 23 dòng thuế, bao gồm một số mặt hàng như gạo, đường, thuốc lá, gỗ,.. Việt Nam không đưa ra danh mục này. Song song với việc tham gia thực hiện AFTA từ góc độ tổ chức thực hiện của các Bộ ngành quản lý Nhà nước, vấn đề quan trọng hơn mà chúng ta cần xem xét là khía cạnh kinh tế của việc cắt giảm thuế quan và loại bỏ hàng rào phi quan thuế, khả năng cạnh tranh của hàng hoá trong nước khi không còn hàng rào bảo hộ, khả năng tận dụng các ưu đãi để thâm nhập thị trường các nước mà đi liền với nó chính là sự chuẩn bị của khu vực kinh doanh để thích ứng với điều kiện mới. Bởi vì tham gia AFTA không sớm thì muộn sẽ đặt các doanh nghiệp trong nước trước một môi trường cạnh tranh quốc tế. Hệ thống các chính sách phi quan thuế được khẩn trương nghiên cứu vì ngoài mục đích công bố với ASEAN, những định hướng trong chính sách áp dụng và loại bỏ các biện pháp phi quan thuế cần phải được kết hợp song song với các biện pháp về thuế để bảo hộ cho các ngành sản xuất trong nước trong một chừng mực có thể. Để tiến tới việc hoàn thành AFTA, Điều 5 của Hiệp định CEPT còn xác định mục tiêu loại bỏ các hàng rào phi thuế quan như hạn chế số lượng, hạn ngạch giá trị nhập khẩu, giấy phép nhập khẩu có tác dụng hạn chế định lượng... trong vòng năm năm sau khi một sản phẩm được hưởng ưu đãi thuế quan. Các nước đã xác định nhiều biện pháp ảnh hưởng rộng và chủ yếu đối với thương mại hàng hoá trong khu vực ASEAN là phụ thu hải quan và Các hàng rào cản trở thương mại (TBT). Tại phiên họp Hội đồng AFTA lần thứ tám, các nước ASEAN đã thống nhất quyết định thời hạn loại bỏ Các hàng rào cản trở thương mại là hết năm 2003. Các hàng rào phi thuế quan phổ biến nhất của ASEAN theo dòng thuế năm 1995 Phụ thu hải quan: 2.683 dòng thuế Phụ phí: 126 dòng thuế Nhập khẩu theo kênh độc quyền: 65 dòng thuế Điều hành của thương mại nhà nước: 10 dòng thuế Các hàng rào cản trở thương mại (TBT): 568 dòng thuế Yêu cầu về đặc điểm sản phẩm: 407 dòng thuế Các yêu cầu về tiếp thị: 3 dòng thuế Các quy định kỹ thuật: 3 dòng thuế (* nguồn: Ban thư ký ASEAN, 1995) Về phần mình, Việt Nam đã cam kết đệ trình danh mục hạn chế về số lượng (QRs) và các hàng rào phi quan thuế khác (NTBs). Song do các biện pháp phi thuế quan của Việt Nam đơn giản, chủ yếu là biện pháp giấy phép, hạn ngạch cho nên trước mắt Việt Nam chưa hoàn thành được bản danh mục loại bỏ các biện pháp phi quan thuế này. Theo yêu cầu của CEPT, các biện pháp về tiêu chuẩn kỹ thuật, một hàng rào phi quan thuế đang được Việt Nam với tư cách là thành viên chính thức đang nghiên cứu vận dụng trên cơ sở có sự phối hợp chặt chẽ với các hoạt động của Uỷ ban Tư vấn ASEAN về tiêu chuẩn chất lượng. Hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu theo giấy phép của Bộ Thương mại thời kỳ 2001 - 2005 Hàng xuất khẩu: + Hàng dệt may xuất khẩu theo hạn ngạch mà Việt Nam thoả thuận với nước ngoài, do Bộ Thương mại công bố cho từng thời kỳ(toàn bộ thời kỳ 2001 - 2005) + Hàng cần kiểm soát xuất khẩu theo quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia, do Bộ Thương mại công bố cho từng thời kỳ (toàn bộ thời kỳ 2001 - 2005) Hàng nhập khẩu: + Hàng cần kiểm soát xuất khẩu theo quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia, do Bộ Thương mại công bố cho từng thời kỳ(toàn bộ thời kỳ 2001 - 2005) + Xi măng portland, đen và trắng (đến ngày 31/12/2002) + Kính trắng phẳng có độ dày từ 1,5mm đến 12mm (đến ngày 31/12/2002) + Kính màu trà từ 5 - 12mm; kính màu xanh đen từ 3 - 6mm (đến ngày 31/12/2002) + Một số loại thép tròn, thép góc, thép hình; một số loại ống thép hàn; một số loại thép lá, thép mạ (đến ngày 31/12/2002) + Một số loại dầu thực vật tinh chế dạng lỏng (đến ngày 31/12/2002) + Đường tinh luyện, đường thô (toàn bộ thời kỳ 2001 - 2005) + Xe hai bánh, ba bánh gắn máy nguyên chiếc mới 100% và bộ linh kiện lắp ráp không có đăng ký tỷ lệ nội địa hoá; máy và khung xe hai bánh, ba bánh gắn máy các loại, trừ loại đi theo bộ linh kiện đã đăng ký tỷ lệ nội địa hoá (đến ngày 31/12/2002) + Phương tiện vận chuyển hành khách từ 9 chỗ ngồi trở xuống, loại mới bao gồm cả loại vừa chở khách vừa chở hàng, có khoang chở hàng và khoang chở khách chung trong một cabin (đến ngày 31/12/2002) (* theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về quản lý xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá thời kỳ 2001 - 2005 của Bộ Thương mại) 4. Hợp tác trong ngành hải quan Ngay sau khi Việt Nam gia nhập ASEAN, Tổng cục hải quan đã triển khai kế hoạch thuế quan ưu đãi và phi thuế bắt đầu từ 1996 - 2003, giảm dần mức thuế suất 15 nhóm mặt hàng với khoảng 40.000 loại hàng hoá với mức thuế từ 20% xuống còn 5% và đến 0%. Số còn lại thuộc nhóm thứ 2 sẽ tiếp tục giảm trong thời gian sau đó theo lộ trình chung của AFTA. Đồng thời điều chỉnh thuế nhập khẩu đi tới thống nhất với ASEAN: theo chương trình CEPT. Mặt khác, ngành hải quan đã phối hợp với các ngành chức năng xây dựng danh mục 200.000 mặt hàng xuất nhập khẩu đi tới thống nhất mã số 8 con số theo mã số chung của ASEAN thay cho mã số 6 con số. Ngày 29/9/1999, tại Hội nghị lần thứ 13 Hội đồng AFTA họp ở Singapore, các nước tham gia đã bàn các biện pháp đẩy nhanh tiến trình thực hiện AFTA tiến tới loại bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan trong ASEAN, và thoả thuận tạo thuận lợi cho nhau giao lưu thương mại trong thời gian tới. Đối với 6 nước thành viên cũ sẽ thực hiện đưa 85% số sản phẩm có thuế suất từ 0 đến 5% vào năm 2000, và đến 2002 sẽ đưa 100% sản phẩm có thuế suất đó (sớm hơn 1 năm). Đồng thời, hội nghị cũng khuyến khích các nước thành viên mới giảm thuế suất còn 0 - 5% vào năm 2003 đối với Việt Nam, và 2005 đối với Lào và Mianma. Đến năm 2005, thuế suất nhập khẩu của 6 nước thành viên cũ là 0%, và 4 nước thành viên mới sẽ thực hiện mức thuế này vào năm 2008. Việt Nam đệ trình 4 Danh mục hàng hoá của mình để tham gia chương trình cắt giảm thuế quan. Việc phân loại hàng hoá vào các Danh mục về cơ bản được tiến hành theo như các quy định của ASEAN. Trên thực tế, hướng chính khi xây dựng các Danh mục là đưa các mặt hàng hiện đang có thuế suất thấp vào các Danh mục cắt giảm và mở rộng phạm vi của Danh mục loại trừ tạm thời để trì hoãn thời điểm thực hiện việc cắt giảm, đảm bảo yêu cầu không gây ra tác động lớn cho nền kinh tế trong một thời gian trước mắt, kéo dài đến mức có thể sự bảo hộ đối với sản xuất trong nước để có thêm thời gian chuẩn bị. Việt Nam tham gia tích cực vào quá trình đơn giản hoá các thủ tục xuất nhập khẩu như: Thủ tục nộp khai hoá hàng hoá khi xuất khẩu, nhập khẩu, kiểm tra hàng hoá, cấp giấy chứng nhận xuất xứ hồi tố, hoàn thuế. Việc hải quan Việt Nam cùng với hải quan các nước ASEAN thống nhất thành lập cửa giải quyết thủ tục hải quan riêng cho các mặt hàng nhập khẩu theo Hiệp định CEPT tại cửa khẩu của mỗi nước thành viên mà thủ tục hải quan trung bình giảm xuống còn 3 giờ 45 phút thay giờ 9 giờ 30 phút. 5. Thiết lập khu vực đầu tư ASEAN - AIA: Theo tinh thần Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lần thứ V (Bangkok 12/1995), bên cạnh việc hướng tới hình thành nột khu vực thương mại tự do về hàng hoá (AFTA), ASEAN bắt đầu mở rộng tự do hoá sang các lĩnh vực dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ. ý tưởng về một Khu vực đầu tư ASEAN - AIA được hình thành với mục tiêu chung là loại bỏ các biện pháp hạn chế đầu tư, thúc đẩy dòng đầu tư giữa các nước ASEAN với nhau và thu hút đầu tư từ bên ngoài vào ASEAN, qua đó tăng thêm tính cạnh tranh của các lĩnh vực kinh tế ASEAN. Trong quá trình thảo luận Hiệp định khung về Khu vực đầu tư ASEAN để tạo nên khung pháp lý cho việc ra đời cơ cấu AIA, ASEAN gặp phải một số điểm chưa thống nhất, trong đó nổi bật là việc dành đãi ngộ quốc gia cho các nhà đầu tư ASEAN các nhà đầu tư nước ngoài; định nghĩa về nhà đầu tư ASEAN. Thời điểm hình thành AIA dự tính là năm 2010. AIA là một kỳ vọng nữa của ASEAN nhằm nối tiếp các chương trình AFTA, AICO nhằm chứng tỏ tính luôn luôn năng động của ASEAN và tạo nên hình ảnh ASEAN hấp dẫn hơn nữa với các nhà đầu tư cả trong và ngoài khu vực. Từ khi Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN, vốn đầu tư vào Việt Nam của các doanh nghiệp ASEAN, thực chất là vốn đầu tư từ 5 "cường quốc" ASEAN là Singapore, Thailand, Malaysia, Philipines và Indonesia, không ngừng tăng lên về tuyệt đối lẫn tương đối, mặc dù tốc độ gia tăng gần đây có chậm lại do khủng hoảng kinh tế khu vực. Kể từ khi Hiệp định khung AIA được ký kết vào tháng 7/1998, một bước tiến mới của Việt Nam trên con đường hội nhập kinh tế đã được xác lập. Theo tinh thần của AIA, là nhằm tạo ra một khu vực tự do trong nội bộ các nước ASEAN vào năm 2010 và cho các nước ngoài ASEAN vào năm 2020 thông qua hàng loạt các chương trình tự do hoá, thu hút và tạo thuận lợi cho đầu tư. Việt Nam cũng cam kết mở cửa các ngành nghề để dành lấy chế độ đối xử quốc gia đồng thời cũng đưa ra danh mục loại trừ tạm thời và danh mục nhạy cảm theo điều 7 của Hiệp định AIA. Liên doanh công nghiệp ASEAN (AIJV) Nhằm tăng cường khai thác các cơ sở nông nghiệp và công nghiệp động viên sự tham gia của khu vực tư nhân vào các chương trình hợp tác ASEAN, Phòng Thương mại - công nghiệp ASEAN đã đề xuất việc thành lập các liên doanh công nghiệp ASEAN. Ngày 7/11/1983 tại Jakarta, các Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN đã ký Hiệp định cơ bản về liên doanh công nghiệp ASEAN. Theo Hiệp định này, một liên doanh công nghiệp ASEAN (AIJV) là một tổ chức sản xuất bất kỳ sản phẩm nào có trong Danh mục Sản phẩm AIJV (APL) đã được các Bộ trưởng kinh tế ASEAN phê chuẩn; có sự tham gia của ít nhất hai nước thành viên; có sở hữu cổ phần ASEAN tối thiểu 51% (trừ một số trường hợp ngoại lệ). Các nhà đầu tư của một AIJV được tự do lựa chọn địa điểm đặt dự án. Trong 4 năm đầu tiên kể từ khi AIJV đi vào sản xuất chính thức, các nước tham gia sẽ dành cho sản phẩm của AIJV đó mức ưu đãi thuế quan tối thiểu là 50%. II. kết quả bước đầu trong việc thực hiện những cam kết của Việt Nam Giai đoạn 1996 - 2000 mới bắt đầu đưa vào cắt giảm những mặt hàng mà ta có lợi thế về xuất khẩu hoặc có nhu cầu nhập khẩu mà trong nước chưa có khả năng sản xuất được. Những mặt hàng này có mức thuế suất nhập khẩu thấp, chủ yếu dưới 20% và phần lớn là những nhóm hàng có mức thuế suất 0 - 5%, do vậy việc thực hiện cắt giảm thuế suất theo AFTA hầu như chưa diễn ra trong thời gian này. Do vậy, chưa thể có những tác động lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Thực tế trong thời gian qua cho thấy ASEAN chưa phải là thì trường tiềm năng đối với các mặt hàng truyền thống của Việt Nam, mà hội nhập ASEAN chỉ là một bước tập dượt chuẩn bị cho Việt Nam bước vào một thị trường rộng lớn hơn. Số lượng mặt hàng của Việt Nam trong lộ trình giảm thuế tăng nhanh Đến hết năm 1999, Việt Nam đã thực hiện cắt giảm thuế 3.580 mặt hàng, chiếm 60% tổng số dòng thuế dự kiến đưa vào thực hiện chương trình cắt giảm thuế. Trong năm 2000, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ phê chuẩn ban hành Danh mục CEPT 2000 của Việt Nam bao gồm khoảng 4.320 dòng thuế. Trong đó có hơn 640 dòng mới chuyển từ danh mục loại trừ tạm thời vào thực hiện CEPT 2000, đạt 65% tổng số dòng thuế có mức thuế suất từ 0 - 5%; còn lại 1.270 dòng thuế có mức thuế suất từ 5 - 50%. Nhìn lại những năm trước đây, năm 1996 là năm đầu tiên Việt Nam thực hiện cắt giảm thuế theo Hiệp định CEPT. Tại Nghị định 91/CP ngày 18-12-1995 của Chính phủ, 875 mặt hàng đã được đưa vào danh mục cắt giảm theo CEPT của Việt Nam. Năm 1997, tại Nghị định 82/CP ngày 13-12-1996 của Chính phủ, Việt Nam đã đưa 1.496 mặt hàng vào thực hiện CEPT, trong đó có 621 mặt hàng mới, bổ sung cho danh mục của năm 1996. Năm 1998, tại Nghị định số 15/1998/NĐ-CP ngày 12-3-1998 của Chính phủ, Việt Nam đã công bố Danh mục thực hiện CEPT năm 1998 gồm 1.633 mặt hàng, trong đó có 1.496 mặt hàng đã được đưa vào từ năm 1997 và 137 mặt hàng mới. Một số ngành hàng chính thực hiện theo tiến trình cắt giảm thuế quan theo CEPT/AFTA được trình bày dưới đây (* số liệu của phòng Tổng hợp - Bộ Ngoại Giao Việt Nam). Mặt hàng nông sản: + Cà phê: Đối với sản phẩm cà phê hạt (nhóm 0901) đã được đưa vào thực hiện CEPT từ năm 2000 trở về trước. Đối với sản phẩm cà phê chế biến sâu (phân nhóm 2101.11) đưa vào thực hiện CEPT/AFTA từ năm 2003. + Điều: Hạt điều thô (0801.31.00 và 0801.32.00) đã đưa vào thực hiện CEPT từ năm 2000 trở về trước. Hạt điều chế biến (2008.19.10) đưa vào thực hiện CEPT từ năm 2003. + Lúa gạo: chất lượng gạo của ta chưa đều, các khâu chế biến chưa tốt nên còn hạn chế về mặt giá cả và dịch vụ đi kèm. Tuy Việt Nam có thế mạnh về xuất khẩu gạo song khó có thể được hưởng ưu đãi thuế quan CEPT từ các nước ASEAN trong một vài năm tới. + Chè: các mặt hàng chè chưa chế biến (nhóm 0902 và 0903) và chè chế biến (2101.20.00) đều đã đưa vào thực hiện CEPT/AFTA từ năm 2000 trở về trước. + Các mặt hàng gỗ chế biến, gỗ ván, gỗ dán nhân tạo: dự kiến sẽ đưa vào thực hiện CEPT từ năm 2003, mức thuế suất sẽ bằng mức thuế suất ưu đãi hiện hành tại thời điểm đó. + Dầu thực vật tinh chế: đưa vào thực hiện từ năm 2003 + Rau quả: phần lớn đã đưa vào thực hiện từ năm 2000 trở về trước; Riêng nho tươi hoặc khô (nhóm 0806) dự kiến đưa vào thực hiện từ 2001. Nhóm các mặt hàng thuỷ sản : + Đối với những mặt hàng có lợi thế xuất khẩu như cá và thuỷ sản chưa chế biến (nhóm 1605) đã đưa vào thực hiện CEPT từ năm 2000 trở về trước. Những mặt hàng còn lại gồm sản phẩm tinh khiết, nước ép và chế biến thì được đưa vào thực hiện từ 2002. Ngành hàng dệt may : Đối với sản phẩm vải dự kiến đưa vào cắt giảm từ 2003. Đối với lĩnh vực hàng may mặc đã được đưa vào thực hiện cắt giảm từ năm 2000 trở về trước. Ngành da giầy : Nguyên liệu da được đưa vào thực hiện từ 2000 trở về trước. Sản phẩm bằng da thuộc thực hiện CEPT/AFTA được đẩy nhanh hơn là năm 2001. Giày dép (nhóm 6403-6405) thực hiện vào năm 2001. Nhóm sản phẩm hoá chất : Hoá chất hữu cơ là năm 2002. Phân bón là năm 2003. Sản phẩm cao su : Đối với cao su nguyên liệu đã được đưa vào thực hiện từ năm 2000 trở về trước. Lốp, xăm xe ô tô và xe máy đưa vào thực hiện CEPT từ năm 2003. Hoá mỹ phẩm, xà phòng và chất tẩy rửa : Nước hoa, nước thơm thực hiện năm 2002, mỹ phẩm, đồ trang điểm, chế phẩm dùng cho tóc và vệ sinh thực hiện năm 2001 ; pin, ắc quy là năm 2002. Ngành hàng xi măng : dự kiến các mặt hàng clinker và xi măng thành phẩm sẽ được đưa vào thực hiện CEPT/AFTA từ năm 2003. Ngành hàng gốm sứ thủ tinh xây dựng : Các sản phẩm xây dựng bằng gốm (năm 2001), các loại tấm lát đường, gạch ốp lát tường và lát nền bằng gốm, khối khảm bằng gốm sứ (năm 2003), bồn rửa, chậu giặt, bồn tắm… bằng gốm sứ (năm 2003), thuỷ tinh đúc và thuỷ tinh cán ở dạng tấm hoặc hình (năm 2003). Ngành hàng điện tử - tin học : Micro, loa, tai nghe (năm 2001), máy hát, máy chạy băng, cát sét (năm 2001), máy ghi âm băng từ (năm 2001), máy thu phát video (năm 2001), băng đĩa đã ghi âm thanh (năm 2002), máy thu hình (năm 2003). Nhóm mặt hàng sản phẩm thiết bị tin học phần mềm và dịch vụ : dự kiến năm 2001để tạo điều kiện mở rộng khả năng tiếp cận, lĩnh hội và phát triển phần mềm của ta. Nhóm sản phẩm cơ khí + Sản phẩm máy động lực và máy nông nghiệp và các thiết bị : Động cơ đốt trong dùng cho ô tô và xe máy (năm 2003), động cơ diesel đẩy thuỷ dùng cho ô tô và các dạng xe cộ khác (năm 2001), các bộ phận dùng cho các dạng động cơ thuộc hai nhóm trên (năm 2002), máy kéo (năm 2003). + Sản phẩm phục vụ ngành giao thông vận tải, chủ yếu là các phương tiện vận tải : Ô tô chở khách từ 50 người trở lên (năm 2003), ô tô chở khách loại đặc biệt và xe chuyên dụng (năm 2001), các bộ linh kiện CKD, IKD của các loại ô tô (năm 2001), khung gầm và thân xe (năm 2002), phụ tùng và các bộ phận phụ trợ cho các dạng xe ô tô (năm 2003), xe đạp (năm 2003), tàu thuyền và các dạng phương tiện vận tải đường thuỷ khác (năm 2003). 2.Nỗ lực trong việc huỷ bỏ hàng rào phi quan thuế Cắt giảm bảo hộ và tiến tới tự do hoá hoàn toàn thương mại là xu thế chung của nền kinh tế thế giới, được các nền kinh tế phát triển cao khởi xướng và dẫn dắt. Các nước chậm phát triển hơn, dù muốn hay không, đều bị cuốn hút vào quá trình này. Vấn đề đặt ra cho các nước này là lựa chọn một chiến thuật thực hiện hợp lý, sao cho vừa thúc đẩy được nền sản xuất bản địa phát triển lại vừa lợi dụng được những lợi ích kinh tế mà tự do hoá mậu dịch đem lại. Những mặt hàng quản lý bằng hạn ngạch hiện nay chỉ còn gạo, dệt may và một số mặt hàng mà nước nhập khẩu phân bổ hạn ngạch cho Việt Nam. Một bước tiến lớn mà không thể không nhắc tới đó là việc Việt Nam đã cho phép hầu hết các doanh nghiệp được tham gia xuất nhập khẩu trực tiếp những mặt hàng không thuộc danh mục hạn chế hoặc cấm xuất - nhập khẩu. Việt Nam cũng đã áp dụng các phương pháp xác định trị giá tính thuế hải quan đúng theo Hiệp định GVA và đã tham gia HS từ ngày 01/01/2000. Việt Nam cũng cam kết trong khuôn khổ ASEAN về tính trị giá tính thuế quan theo đúng Hiệp định Trị giá tính thuế quan của GATT từ năm 2000 qua hạn ngạch ô Th ng và giấy phép xuất - nhập khẩu đã được cải thiện một. cách triệt để. Một số ngành công nghiệp trong nước đang đòi hỏi phải có chính sách bảo hộ thông qua hàng rào thuế quan, đồng thời một số mặt hàng Việt Nam không khuyến khích nhập khẩu cũng đang chịu thuế suất cao để hướng dẫn tiêu dùng trong nước. Nếu thực hiện giảm thuế với đa số mặt hàng thì một số ngành công nghiệp như: dầu thực vật, phân bón, hoá chất, sản phẩm cao su, giấy, dược phẩm, đồ da, hàng thuỷ tinh và điện tử gia dụng… sẽ bị ảnh hưởng. Có một số mặt hàng mặc dầu hiện không phải chịu mức thuế nhập khẩu cao, nhưng hiện nay được bảo vệ cho sản xuất trong nước bằng chỉ tiêu chỉ định hướng. Như vậy nếu đưa những mặt hàng này vào thực hiện chương trình giảm thuế thì các biện pháp bảo hộ này sẽ phải được loại bỏ. Một số mặt hàng khác không khuyến khích nhập khẩu như ô tô, mỹ phẩm hiện đang có thuế suất cao nếu được giảm thuế có thể gây mất định hướng tiêu dùng và dẫn đến “chảy máu” ngoại tệ mạnh vì giá các mặt hàng này sẽ giảm đi nhiều trong điều kiện Việt Nam đang phải tiết kiệm ngoại tệ cho các mục tiêu chiến lược… Có thể thấy, những nỗ lực của Việt Nam trong việc dỡ bỏ các hàng rào phi quan thuế là rất lớn. Để thực hiện Hiệp định GVA kể từ năm 2000 đến năm 2004 hoặc 2006, Việt Nam đang nghiên cứu và áp dụng dần, có bảo lưu, Hiệp định bằng cách thông qua GVA, đào tạo đội ngũ cán bộ, học phương pháp kiểm tra sau khi thông quan - PCA, tận dụng sự trợ giúp của cộng đồng quốc tế và đang dự kiến ban hành luật Hải quan theo đúng GVA và WTO/GATT (2000-2001). 3. Thực hiện tốt các cam kết trong ngành hải quan Ngay sau khi ta gia nhập ASEAN, một nhóm công tác liên Bộ về xây dựng các Danh mục hàng hoá theo Chương trình cắt giảm thuế quan CEPT đã được thành lập dưới sự chủ trì của Tổng cục thuế (Bộ Tài chính) với sự tham gia của các Bộ Thương mại, Bộ Công nghiệp, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Xây dựng, Bộ Y tế, Bộ Khoa học công nghệ và Môi trường, Tổng cục Hải quan, Tổng cục Thống kê… Nhóm nghiên cứu liên Bộ đã có những đóng góp hết sức quan trọng để hoàn thành các Danh mục hàng hoá, đảm bảo cho Việt Nam có thể đệ trình đúng thời hạn và đã góp phần thể hiện được thiện chí của Việt Nam trong quá trình hội nhập với ASEAN. Trong năm 1997, Hải quan của các nước ASEAN qua 11 lần họp đã đưa ra được một Danh bạ thuế quan hài hoà chung của ASEAN (AHTN) gồm 6.600 dòng thuế (gọi tắt là AHTN - 6600) nhằm tạo thuận lợi cho thương mại trong nội bộ lhối, tạo thuận tiện cho việc trao đổi nhượng bộ CEPT, góp phần thúc đẩy tiến trình thực hiện AFTA. Tuy nhiên, việc áp dụng Danh bạ này giữa các nước thành viên vẫn chưa được thống nhất do vẫn còn có sự khác biệt trong yêu cầu phân loại hàng hoá. Brunei và Philipines đã sẵn sàng thực hiện từ năm 1998, Lào thông báo thực hiện trong năm 1999, còn đa số các nước thành viên còn lại trong đó có Việt Nam, đều cam kết thực hiện từ năm 2000, với yêu cầu đưa những khác biệt về phân loại hàng hoá của mình vào Danh mục nhưng không vượt quá 7000 dòng thuế. Trên cơ sở ý kiến đóng góp của các Bộ, Ngành có liên quan, theo đề nghị của Tổng cục Hải quan, ngày 30/8/1997, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định áp dụng Danh mục AHTN - 6600 từ năm 2000, bổ sung các điểm khác biệt của Việt Nam để chuyển đổi thành danh mục 7000 dòng thuế. Đồng thời Việt Nam cũng đã cam kết thực hiện tính giá trị hải quan theo GATT1994 từ năm 2000. Tổng cục Hải quan đã thành lập Tổ nghiên cứu về Hiệp định trị giá GATT và góp phần tích cực vào việc thực hiện các cam kết này. Theo tinh thần báo cáo của Ban thư ký ASEAN về các vấn đề nảy sinh cùng các đề xuất cũng như các quyết định của các cơ quan chức năng của ASEAN liên quan đến việc triển khai thực hiện Form D, Bộ Thương mại đã phối hợp với Tổng cục Hải quan triển khai cấp 358 bộ giấy chứng nhận xuất xứ Form D cho hàng hoá thuộc diện CEPT xuất khẩu sang các nước ASEAN. Tổng giá trị hàng hoá được cấp giấy chứng nhận là 13.446.490,8 USD, chiếm 0,7% tổng trị giá hàng hoá xuất khẩu sang các nước ASEAN vào năm 1998. Hàng hoá xuất khẩu sử dụng Form D chủ yếu nằm trong những nhóm mặt hàng: nông sản (lạc nhân, đậu xanh, chè, nấm rơm, dầu dừa, hạt tiêu), hải sản khô và đông lạnh, đá granit, hương muỗi, hàng dệt, giày dép. Tuy nhiên, số liệu này thấp hơn trị giá hàng hoá xuất khẩu thuộc diện CEPT trên thực tế vì nhiều doanh nghiệp chưa hiểu hết được yêu cầu của form D - CEPT/AFTA nên khi xuất khẩu lâu nay vẫn quen sử dụng form B do Phòng Thương mại và công nghệ Việt Nam cấp cho hàng hoá xuất sang ASEAN. Ngoài ra, Việt Nam còn tham gia tích cực vào quá trình đơn giản hoá các thủ tục xuất khẩu và nhập khẩu chung dưới các lĩnh vực: Thủ tục nộp khai báo hàng hoá khi xuất khẩu. Thủ tục nộp khai báo hàng hoá khi nhập khẩu. Kiểm tra hàng hoá. Cấp giấy chứng nhận xuất xứ hồi tố. Hoàn thuế. Việc đơn giản hoá thủ tục hải quan sẽ được tiến hành dựa trên những hướng dẫn tại Công ước Kyoto - Công ước quốc tế về thủ tục hải quan. Thủ tục hải quan sẽ được hài hoà hoá trên các nguyên tắc: rõ ràng, thống nhất, thúc đẩy tính hiệu quả và đơn giản trong quản lý hải quan. 4. Tích cực tham gia vào việc thiết lập khu vực đầu tư ASEAN - biến các nước ASEAN thành khu vực kinh tế thông qua việc thực hiện các chương trình hợp tác kinh tế Tham gia AFTA, Chính phủ Việt Nam đã lựa chọn những mặt hàng mà hiện nay còn cần bảo hộ cho sản xuất trong nước bằng thuế suất nhập khẩu cao để đưa vào danh sách những mặt hàng trước mắt chưa tham gia CEPT. Các cơ sở sản xuất sẽ có được một số năm để chuẩn bị đối phó với việc giảm dần bảo hộ qua thuế và sau đó cắt cả các biện pháp bảo hộ không phải thuế (như hạn ngạch, giấy phép buôn bán). Như vậy, phải đuổi kịp và vượt các nước ASEAN về chất lượng, mẫu mã, giá cả hàng hoá, nếu không thì sẽ phá sản và trao thị trường Việt Nam cho các đối thủ láng giềng. Đó là thách thức mà AFTA đặt cho các nhà sản xuất Việt Nam. Do đó, để cho toàn khu vực ASEAN trở nên hấp dẫn đầu tư và phát huy được lợi thế so sánh của tất cả các nước, các thành viên ASEAN phải có một chiến lược sắp xếp cơ cấu sản xuất hợp lý vào sự phân công lao động khu vực ASEAN theo hướng chuyên môn hoá, hiện đại hoá, từng bước nâng cao các lợi thế để có thể thực hiện cạnh tranh bình thường trên cả thị trường khu vực và thế giới. Một sản phẩm được coi là có xuất xứ ASEAN, theo quy định của AFTA, nếu 40% hàm lượng giá trị của sản phẩm này được chế tạo từ một nước ASEAN bất kỳ. Qua đó, việc đầu tư để sản xuất tại một nước nằm bên trong AFTA và bán sản phẩm cho các nước thuộc AFTA sẽ mang lại lợi ích cho các nhà đầu tư nhờ được hưởng các ưu đãi của nó. Vì vậy, khi đầu tư vào các nước ASEAN, các nhà đầu tư nước ngoài đã không chỉ xem xét thị trường tiêu thụ của nước đó mà còn tính tới thị trường của cả ASEAN. Thị trường ASEAN còn giúp các nhà đầu tư nước ngoài có chiến lược xây dựng các cơ sở của mình ở các nước ASEAN theo một mạng lưới chung nhằm “tối ưu hoá” việc khai thác các lợi thế so sánh của từng quốc gia và việc sử dụng các nguồn lực theo hướng chuyên môn hóa. AFTA sẽ không phải là một khối thương mại khép kín, đối lập với các nước bên ngoài ASEAN. Khi các nền kinh tế ASEAN có năng lực cạnh tranh cao, chúng sẽ ngày càng có lợi thế trong các xu thế tự do hoá thương mại đa biên. Hơn nữa, trên thực tế, các nền kinh tế hướng ngoại của ASEAN lại rất nhạy cảm trong việc đeo đuổi các chính sách thương mại ngoài khu vực. Hiệp định AIA không chỉ khuyến khích các doanh nghiệp ASEAN đầu tư vào Việt Nam mà còn khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư vào các nước thành viên khác. Nhờ có Nghị định 22/1999/NĐ-CP về đầu tư ra ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam, trong năm 1999 đã có 10 dự án của Việt Nam đầu tư sang Lào, Campuchia và Singapore với tổng vốn đầu tư 18,14 triệu USD, gấp nhiều lần thời kỳ trước đó. Đầu tư hai chiều trong nội bộ ASEAN là bộ phận quan trọng bậc nhất trong quan hệ hợp tác ASEAN. Nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư trong khu vực là trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của các nước thành viên. Luật Đầu tư nước ngoài vừa sửa đổi là một cố gắng lớn trên con đường đổi mới của Việt Nam với mong muốn đóng góp tích cực vào quá trình phát triển chung ASEAN. II. Những CƠ HộI Và THáCH THứC Đối với Việt Nam trong việc thực hiện các cam kết của afta 1.Về cơ hội 1.1. Bắt kịp với xu hướng phát triển chung của nền kinh tế thế giới Khi tham gia AFTA, chúng ta sẽ có điều kiện thuận lợi để thúc đẩy tốc độ phát triển kinh tế và thương mại, thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, bởi AFTA ảnh hưởng trực tiếp đến xuất khẩu, đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Như vậy, sẽ kích thích các doanh nghiệp trong nước tập trung lao động, tích cực khai thác tài nguyên sẵn có để xuất hàng hoá xuất khẩu. Tham gia AFTA sẽ là một dịp để Việt Nam tiếp cận với thị trường thế giới và nhanh chóng hội nhập với cộng đồng quốc tế, giảm sự lệ thuộc vào một số thị trường lớn. Đó là xu hướng chung của nền kinh tế bởi mục tiêu tối hậu của hội nhập kinh tế là vì sự tăng trưởng kinh tế. Nếu xét theo khía cạnh năng động và ở tầm dài hạn, thì hội nhập kinh tế có thể đóng góp cho sự tăng trưởng kinh tế và phát triển của đất nước thông qua các kênh: tri thức - đem lại tăng trưởng năng suất; tích tụ vốn nhân lực và vật lực; và thúc đẩy công cuộc đổi mới. Hội nhập kinh tế trước hết sẽ đem lại sự thâm nhập tốt hơn các tri thức tiên tiến của nước ngoài dưới dạng thiết bị, máy móc, công nghệ hiện đại, phương pháp quản lý khoa học, và do đó đưa đến nâng cao năng suất. Tự do hoá thương mại và đầu tư có thể kích thích lợi nhuận trên vốn, cả vốn vật chất và vốn nhân lực, và đến lượt mình điều này sẽ kích thích đầu tư trong và ngoài nước. Trong quá trình hội nhập kinh tế sức ép cạnh tranh sẽ tăng lên; để có thể thích nghi được với hoàn cảnh mới, tốc độ cải cách trong nước cần được đẩy mạnh trên tất cả mọi lĩnh vực, bao gồm: cả những biện pháp để tạo ra sự ổn định kinh tế vĩ mô, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý và luật lệ, nâng cấp cơ sở hạ tầng và phát triển nguồn nhân lực. Tuy nhiên, một nước thành viên mới tham gia hội nhập khu vực và thế giới được lợi bao nhiêu phụ thuộc vào chính những chính sách kinh tế riêng của mình. Nhìn chung tham gia vào AFTA sẽ đưa đất nước ta lên một vị thế mới, khắc phục được tình trạng bị các cường quốc lớn phân biệt đối xử, có điều kiện khai thác thêm những lợi thế riêng của mỗi khối để phát triển quan hệ thương mại, thu hút đầu tư mà trước mắt là hạn chế tác động của chính sách phân biệt đối xử của một số nước. Tham gia AFTA tạo cho Việt Nam có điều kiện mở rộng thị trường, tranh thủ những ưu đãi về thương mại, đầu tư và các lĩnh vực khác được áp dụng trong nội bộ tổ chức. Đây là kết quả của nhiều năm hợp tác và đàm phán nhất là các lĩnh vực giảm thuế nhanh đối với những mặt hàng đòi hỏi nhiều nhân công mà Việt Nam có ưu thế. Chương trình Hợp tác công nghiệp - AICO, chương trình thành lập Khu vực đầu tư ASEAN - AIA có những ưu đãi đặc biệt mà tham gia tổ chức thương mại này, Việt Nam đã và đang nâng cao thế và lực trên trường quốc tế trong điều kiện thế giới đang hình thành xu thế đa cực. Chúng ta sẽ khai thác lợi thế của mỗi tổ chức để xử lý tốt hơn mối quan hệ với các nước lớn, đồng thời nâng cao vai trò của Việt Nam trên trường quốc tế, góp phần tích cực vào công cuộc bảo vệ hoà bình và an ninh trong khu vực và thế giới. 1.2. Có điều kiện thâm nhập một thị trường rộng lớn với hơn 500 triệu dân Trước mắt, Việt Nam sẽ thu được nguồn lợi lớn, do mậu dịch tự do mang lại. Đồng thời, Việt Nam có điều kiện hơn để xuất hàng của mình vào một thị trường rộng lớn của các nước thành viên ASEAN, với khoảng 500 triệu dân mà không đòi hỏi quá cao về chất lượng sản phẩm, khi các hàng rào mậu dịch đã được tháo gỡ. Một thị trường rộng lớn nằm kề bên, có đòi hỏi về chất lượng không phải quá cao, với các ưu đãi buôn bán sẽ được mở ra cho các doanh nghiệp Việt Nam. Có được thị trường tiêu thụ mới là một yếu tố giúp huy động tiềm năng lao động và tài nguyên dồi dào của Việt Nam vào phát triển xuất khẩu. Mục tiêu thị trường của AFTA được thực hiện thông qua việc giảm dần từng bước đi tới triệt tiêu hàng rào phi quan thuế, dùng thuế là công cụ bảo hộ chủ yếu, đồng thời tiến hành giảm thuế, thực hiện các chương trình hợp tác khoa học kỹ thuật nhằm hỗ trợ nhau phát triển sản xuất, mở rộng thị trường. Điều này sẽ tạo dựng được môi trường thông thoáng cho phát triển kinh tế, mở rộng thị trường về mọi mặt, đặc biệt là cho hoạt động xuất khẩu của Việt Nam. 1.3. Tham gia vào phân công lao động quốc tế và khu vực Việc tham gia vào AFTA giúp hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam sang các nước ASEAN được hưởng mức thuế suất ưu đãi CEPT thấp của các nước ASEAN, làm tăng cường khả năng cạnh tranh về giá của các hàng hoá này, tạo điều kiện thúc đẩy xuất khẩu. Với xu hướng toàn cầu hoá kinh tế thế giới ngày nay, nếu không hội nhập mà vẫn tiếp tục đóng cửa thì nguy cơ tụt hậu tất yếu trở thành hiện thực. Theo đuổi chính sách hội nhập một cách thận trọng và khôn khéo, vừa nâng cao trình độ, chuẩn mực về hoạch định chính sách, tạo thuận lợi cho thương mại, và duy trì được mức bảo hộ hợp lý cho các ngành kinh tế và giúp cho các doanh nghiệp tiếp cận được với công nghệ hiện đại, kỹ năng quản lý tiến tiến cũng như tham gia vào mạng lưới sản xuất quốc tế, nâng cao sức cạnh tranh cả trong nước cũng như quốc tế. Các doanh nghiệp sản xuất của Việt Nam sẽ hưởng lợi thế nhập khẩu vật tư nguyên liệu từ các nước ASEAN với mức thuế suất nhập khẩu thấp, góp phần giảm chi phí thúc đẩy phát triển sản xuất, tiêu dùng và phát triển thị trường trong nước. Với việc tham gia AFTA, các nước ASEAN có điều kiện mở rộng hợp tác và thu hút đầu tư nước ngoài nhằm khuyến khích sản xuất trong nước, từng bước nâng cao chất lượng hàng hoá, dịch vụ, tức là tăng thế thương lượng cạnh tranh ngay cả trên thị trường nội địa và khu vực. Mặt khác, các chương trình này cũng tạo cơ hội để chọn lựa các doanh nghiệp trong nước, tạo động lực cho các cơ sở sản xuất mở rộng thị trường, làm ăn có lãi đồng thời buộc các doanh nghiệp yếu kém phải mau chóng đổi mới công nghệ, cải tiến cung cách làm ăn trên thương trường. Nói cách khác, các doanh nghiệp phải được sắp xếp hợp lý, tham gia vào sự phân công lao động khu vực ASEAN theo hướng chuyên môn hoá, từng bước nâng cao các lợi thế để có thể thực hiện cạnh tranh bình đẳng ở ngay cả trên thị trường trong nước và khu vực. Việc Việt Nam thực hiện cam kết tham gia AFTA là một bước tập dượt để chuẩn bị hội nhập sâu rộng hơn nữa trên thị trường quốc tế và điều này cũng thể hiện quyết tâm của Chính phủ Việt Nam trong việc cải cách mở cửa và hội nhập. 1.4. Thu hút đầu tư nước ngoài Với các nước ngoài khu vực, do việc thành lập AFTA, ASEAN sẽ trở thành thị trường hợp nhất khá lớn, với sự phân công lao động chặt chẽ hơn, sẽ là địa bàn thu hút đầu tư của nhiều công ty đa quốc gia và tập đoàn kinh tế lớn từ Nhật Bản, Tây Âu, Mỹ và các nước NIEs. Xét về mặt kinh tế, khuynh hướng này trong quan hệ đầu tư giữa ASEAN và các nước ngoài khu vực trước hết xuất phát từ tính năng động và lợi thế so sánh và thị trường rộng mở của các nước ASEAN trong những năm trước mắt, cũng như trong tương lai lâu dài. Là nước nằm trong khu vực Đông Nam á, với những lợi thế so sánh nhất định về lao động, tài nguyên thiên nhiên và thị trường có dung lượng lớn, hoạt động đầu tư nước ngoài vào Việt Nam sẽ trở nên hấp dẫn nếu tạo được môi trường đầu tư và chính sách hợp lý. Điều này nhằm góp phần dịch chuyển cơ cấu mạnh sang các ngành có hàm lượng kỹ thuật cao, sử dụng ít nhân công trong khu vực như Singapore, Malaysia, Thái Lan. Tiến trình thực hiện AFTA của Việt Nam sẽ có tác dụng thu hút thêm đầu tư nước ngoài vào Việt Nam không chỉ từ các nước ASEAN mà còn từ các khu vực khác. Đặc biệt với sự phối hợp với các chương trình hợp tác khác trong ASEAN như hợp tác công nghiệp ASEAN - AICO, hợp tác dịch vụ ASEAN…, các doanh nghiệp trong nước của Việt Nam có cơ hội tiếp cận với nguồn vốn và công nghệ sản xuất và quản lý mới, tiên tiến, tăng cường và mở rộng năng lực cạnh tranh của mình trên thị trường trong nước lẫn trên thị trường khu vực và quốc tế. Thực hiện AFTA tức là tạo dựng một thị trường chung rộng lớn hơn trong lòng ASEAN để có thể thu hút được nhiều đầu tư của nước ngoài cũng như giữa các nước trong khuôn khổ AFTA. AFTA sẽ tích cực tăng cường khả năng cạnh tranh của ASEAN trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài và đến lượt mình, đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ lại củng cố và thúc đẩy tiến trình nhất thể hoá khu vực, đóng góp vào việc nhanh chóng hoàn tất AFTA. Điều này hoàn toàn phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế hướng ngoại của Việt Nam trong đó AFTA sẽ tạo cho Việt Nam những mối quan hệ kinh tế rộng mở với thế giới Ngoài ra, tham gia AFTA còn giúp Việt Nam có điều kiện để tiếp thu công nghệ và đào tạo kỹ thuật cao ở các ngành cần nhiều lao động mà các nước đang cần chuyển giao, tận dụng ưu thế về lao động rẻ và có hàm lượng chất xám cao để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang các nước trong khu vực, sử dụng vốn và kỹ thuật cao của các nước trong khu vực để khai thác khoáng sản và xây dựng cơ sở hạ tầng... Việc chung tiếng nói và lợi ích kinh tế trong khuôn khổ AFTA sẽ tạo cho các nước thành viên một thế thương lượng cạnh tranh vững vàng hơn trong quan hệ với các liên minh kinh tế khác, đặc biệt là với cộng đồng Châu Âu (EU) và khu dịch mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA), vốn là những bạn hàng lớn của các thành viên ASEAN. Những thách thức 2.1.Thách thức chung Tham gia AFTA và CEPT là một cơ hội để chúng ta mở rộng sự tiếp xúc với thị trường hàng hoá, vốn tài chính, công nghệ, khoa học, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý… Tuy nhiên, cơ hội và thách thức vẫn là “cặp phạm trù” thường song hành với nhau. Đó là sức ép sẽ ngày càng tăng đối với các doanh nghiệp trong cũng như ngoài khu công nghiệp, khu chế xuất. Với quy chế của AFTA, hàng hoá của các nước thành viên ASEAN sẽ nhập vào thị trường nước ta ngày càng nhiều với thuế suất giảm dần đến 0% tạo nên sự cạnh tranh ngày càng quyết liệt trong quá trình quốc tế hoá thương mại. Trong quá trình xây dựng các Danh mục hàng hoá và chương trình giảm thuế theo Hiệp định CEPT, chúng ta đã gặp không ít khó khăn do xuất phát điểm của nền kinh tế Việt Nam thấp hơn so với các nước thành viên khác. Hơn nữa về mặt kỹ thuật, ngoài các điểm còn khác biệt về hệ thống thuế áp dụng đối với hàng xuất nhập khẩu và hệ thống mã số của Biểu thuế Việt Nam so với các nước ASEAN khác, các thuế suất của Biểu thuế hiện hành đòi hỏi được điều chỉnh cơ bản để phù hợp với sự phát triển của các ngành sản xuất trong nước. Theo lịch trình cắt giảm thuế tổng thể của Chính phủ thì các doanh nghiệp thực hiện lịch trình này trong giai đoạn từ 2000 - 2006 sẽ chịu những tác động bất lợi. Đối với trong nước, việc cắt giảm thuế mạnh và đột ngột vào những năm cuối sẽ khiến cho các doanh nghiệp đang được hưởng mức bảo hộ cao từ thế quan sẽ rơi vào tình trạng khó khăn. Ngoài ra, việc cắt giảm thuế quan muộn sẽ gây tâm lý thiếu chủ động cho các doanh nghiệp để phấn đấu nâng cao khả năng cạnh tranh ở cả thị trường trong nước và quốc tế. Về mặt đối ngoại, theo tinh thần của CEPT, năm 2001 tất cả các mặt hàng sẽ đưa vào cắt giảm của Việt Nam có thuế suất CEPT cao hơn 20% đều phải đưa xuống bằng hoặc thấp hơn 20%; còn mức thuế suất thực hiện CEPT những mặt hàng bắt đầu được chuyển vào thực hiện cắt giảm từ những năm sau đó cũng không được cao hơn 20%, như vậy Việt Nam cũng sẽ vấp phải không ít khó khăn, vướng mắc. Theo lịch trình cắt giảm thuế quan tổng thể của Chính phủ thì các doanh nghiệp trong nước thực hiện lịch trình này trong giai đoạn còn lại từ 2000 - 2006 sẽ bị những ảnh hưởng không được thuận lợi. Việc cắt giảm thuế mạnh, đột ngột vào những năm cuối sẽ khiến cho các doanh nghiệp đang được hưởng mức bảo hộ cao từ thuế quan rơi vào tình trạng khó khăn. Ngoài ra, việc cắt giảm thuê quan muộn sẽ gây tâm lý thiếu chủ động cho các doanh nghiệp trong quá trình phấn đấu nâng cao khả năng cạnh tranh ở cả thị trường trong nước và quốc tế. Việc thực hiện cắt giảm nhiều dòng thuế có mức thuế suất cao vào những năm cuối sẽ khiến Việt Nam khó có khả năng bảo vệ được một số mặt hàng chủ yếu và thực sự cần thiết bảo hộ. Những nước có chính sách điều chỉnh bảo hộ công nghiệp nặng nề trước đây như Indonesia, Philipin và có trình độ phát triển còn thấp như Việt Nam chắc chắn sẽ không thích ứng ngay được với quá trình chuyển đổi quá nhanh như vậy. Việc kết thúc nhanh AFTA có ý nghĩa là sự “bắt kịp” với các chuyển đổi nhanh chóng của APEC, WTO và nâng cao thế thương lượng cạnh tranh của ASEAN với EU, NAFTA, nhưng bên cạnh đó cũng cần phải tính đến sự lớn mạnh của bản thân từng quốc gia thành viên. Các nước có trình độ phát triển như Singapore, Malaysia, Thái Lan cũng thể “kéo” được các quốc gia khác khi mà các nước đó không đủ năng lực để tiếp nhận tự do hoá. Tính bất cập của sự liên kết nội bộ ASEAN còn được nhân lên khi mà theo điều kiện hoàn cảnh cụ thể của mỗi quốc gia thành viên, lộ trình AFTA ở các nước thành viên ASEAN được bắt đầu và kết thúc không cùng lúc. 2.2. Về sức cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ Việc hạ thấp hàng rào thuế quan và phi quan thuế theo AFTA đối với Việt Nam ngay lập tức sẽ gây ra một cuộc cạnh tranh gay gắt mà các ngành công nghiệp non trẻ của Việt Nam sẽ gặp khi phải đối mặt với các loại hàng hoá nhập khẩu giá hạ từ các nước ASEAN ngay tại thị trường trong nước. Khả năng cạnh tranh của hàng hoá phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó quan trọng nhất là chất lượng, chủng loại và mẫu mã giá cả. Tham gia AFTA sẽ có một tác động trực tiếp tới yếu tố giá cả của hàng hoá, bởi vì với việc cắt giảm thuế, đơn giản hoá các thủ tục buôn bán, thì giá bán của hàng hoá sẽ hạ hơn. Các yếu tố khác như chất lượng, mẫu mã cũng sẽ thay đổi do sức ép của cạnh tranh trong nội bộ AFTA. Tính cạnh tranh sẽ rất mạnh và sự thay đổi hàng rào thuế quan sẽ có tác dụng quyết định. Đồng thời, khả năng tạo lập sự hợp tác và chuyên môn hoá cũng lớn. Nếu cơ cấu kinh tế của các nước thành viên là khác nhau và mang tính chất bổ sung cho nhau, đã có tồn tại chuyên môn hoá sản xuất giữa các nước thành viên trước khi hình thành khu vực mậu dịch tự do, thì tác động của việc hình thành khu vực mậu dịch tự do đó sẽ là không lớn. Trình độ phát triển kinh tế của Việt Nam vẫn còn thấp, chuyển dịch cơ cấu diễn ra chậm, sức cạnh tranh của hàng hoá kém, đặc biệt về mẫu mã, chất lượng. Tham gia AFTA, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ đứng trước sự thua kém về thế thương lượng cạnh tranh do nghèo vốn, kỹ thuật thấp, chất lượng yếu và không có khả năng cạnh tranh về giá cả. Đó là chưa kể kinh nghiệm thương trường do nghèo vốn, kỹ thuật thấp, chất lượng yếu và không có khả năng cạnh tranh về giá cả của các doanh nhân Việt Nam còn yếu. Tuy nhiên, thách thức này cũng có thể coi như một cơ hội hối thúc sự trỗi dậy của các doanh nghiệp Việt Nam trước xu thế tự do hoá thương mại. AFTA trở thành cơ sở để bình tuyển và xác nhận bản lĩnh của các doanh nghiệp trong nước. Hội nhập một mặt tạo thêm rất nhiều cơ hội thâm nhập thị trường quốc tế đồng thời cũng dần dần phải mở cửa thị trường Việt Nam cho hàng hoá các nước nhập vào (theo nguyên tắc có đi có lại). Nếu không chuẩn bị tốt, chủ động chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh mà cứ đầu tư dàn trải, không đổi mới công nghệ thì không thể nào nâng cao sức cạnh tranh. Đây là sức ép lớn không chỉ với Việt Nam mà ngay cả các nước có sức mạnh kinh tế cũng phải chấp nhận đương đầu, thậm chí có lúc phải từ bỏ một số ngành nghề để tạo cơ hội phát triển cho những ngành có lợi thế so sánh hơn đồng thời có kế hoạch và biện pháp cụ thể để chủ động thích ứng và vượt lên. Trước yêu cầu phải tháo gỡ dần hàng rào thuế và phi thuế để mở đường cho thương mại phát triển, một mặt chúng ta phải tính toán để có chính sách bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước (bảo hộ có điều kiện, có chọn lọc, có thời gian, có lộ trình). Thực tế 2/3 thành viên của WTO là các nước đang phát triển, một số nước thành viên của các tổ chức khu vực cũng đang ở trình độ phát triển thấp, có những nét tương đồng với Việt Nam. Vấn đề đặt ra là ta không ngồi chờ mà luôn có biện pháp thích hợp với từng ngành, từng thời kỳ nhằm nâng cao nội lực của nền kinh tế, và khả năng cạnh tranh. 2.3. Về khả năng của các doanh nghiệp Hiện nay các doanh nghiệp lớn của nước ta vẫn chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung nay chuyển sang nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, các doanh nghiệp này vẫn chưa thực sự thích ứng với cơ chế mới. Các doanh nghiệp khác, mới được thành lập trong thời kỳ đổi mới kinh tế, chủ yếu là doanh nghiệp tư nhân có quy mô rất nhỏ dù có sự mềm dẻo linh hoạt trong hoạt động. Trong điều kiện như vậy, áp dụng các nguyên tắc về đãi ngộ tối huệ quốc và đãi ngộ quốc gia đối với chúng ta sẽ rất khó khăn. Mặt khác, Việt Nam chưa có đẩy đủ các thông tin về các chương trình hợp tác đã và đang có thực hiện của ASEAN. Đội ngũ cán bộ quản lý và kỹ thuật của Việt Nam chưa được chuẩn bị tốt và trang bị đầy đủ về kiến thức, phương pháp làm việc và ngoại ngữ để thích ứng với các hoạt động phối hợp của ASEAN. Quả vậy, doanh nghiệp ta thường có quy mô nhỏ, vốn ít, khả năng tổ chức thị trường yếu, một số vẫn chưa bỏ được tư tưởng ỷ lại vào sự trợ giúp của Nhà nước. Nếu không sắp xếp lại, tăng cường khả năng tích tụ và tập trung vốn, hoàn thiện cơ chế quản lý và định chế tài chính cho các doanh nghiệp thì chúng ta càng khó khăn, đặc biệt khi phải áp dụng chế độ đãi ngộ quốc gia tức là không phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp nội địa với các doanh nghiệp nước ngoài ở nước ta. Tuy nhiên đây cũng là quá trình buộc các doanh nghiệp phải tích tụ và tập trung quy mô thích hợp để tồn tại và phát triển. Đối với các doanh nghiệp, việc thực hiện các nguyên tắc về không phân biệt đối xử (MFN) dành cho các doanh nghiệp của các nước thành viên sẽ đặt ra những thách thức gay go. Theo nguyên tắc này, các doanh nghiệp nước ngoài sẽ được phép thành lập các công ty và triển khai hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, thương mại và dịch vụ trên thị trường Việt Nam, đương nhiên theo lộ trình từng bước. 2.4. Về hệ thống chính sách kinh tế thương mại Về mặt số học đơn thuần, hiện nay các nước ASEAN chiếm khoảng 1/3 tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam trong khi số thu từ thuế nhập khẩu của Việt Nam chiếm đến 1/4 trong tổng số thu ngân sách. Do đó nếu dự kiến thương mại giữa các nước ASEAN và Việt Nam vẫn giữ ở mức hiện nay trong khi giảm toàn bộ thuế suất thuế nhập khẩu xuống mức thuế suất chung là 5% trong các điều kiện hiện hành về các chính sách thì số thu từ thuế có thể sẽ giảm đi đáng kể do việc giảm nguồn thu từ thế nhập khẩu đánh vào hàng hoá từ các nước ASEAN. Chính sách thương mại ngày càng có tầm quan trọng cho phép nâng cao năng lực cạnh tranh vừa mở rộng vừa củng cố vị trí của mỗi mặt hàng, và thị trường. Hệ thống chính sách kinh tế thương mại phải được hình thành để một mặt đáp ứng được các nguyên tắc của WTO, mặt khác có tác dụng hỗ trợ đàm phán mở cửa thị trường, làm chỗ dựa cho hàng hoá dịch vụ và thương nhân, trong đó quan trọng nhất là hệ thống chính sách thuế và chính sách phi thuế.quan Cho tới nay, hệ thống chính sách này vẫn còn rất nhiều bất cập, kỹ thuật xây dựng còn thô sơ, không đồng bộ. Việc xây dựng những chính sách này còn áp đặt ý muốn chủ quan nên thường xuyên phải điều chỉnh, thay đổi thất thường, gây tâm lý mất lòng tin trong giới doanh nghiệp trong và ngoài nước. Đặc biệt những biện pháp chính sách tạo lợi thế cho kinh tế thương mại nước nhà mà các tổ chức quốc tế thừa nhận,thì ta lại chưa có( thí dụ chính sách thuế và phi thuế theo đãi ngộ tối huệ quốc MFN, đãi ngộ quốc gia - NT, chế độ hạn ngạch thuế quan, biện pháp cán cân thanh toán, quyền tự vệ, qui chế xuất xứ… ) Trong khi đó một số b

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKQ50.doc
Tài liệu liên quan