Tài liệu Đề tài Nghiên cứu một số yếu tố liên quan tới lựa chọn giới tính khi sinh của các bà mẹ đến sinh con tại Bệnh viện Phụ sản Hải Phòng năm 2012 – Vũ Đức Long: Y HỌC THỰC HÀNH (914) - SỐ 4/2014
68
NGHIÊN CỨU MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN TỚI LỰA CHỌN GIỚI TÍNH KHI SINH CỦA
CÁC BÀ MẸ ĐẾN SINH CON TẠI BỆNH VIỆN PHỤ SẢN HẢI PHÒNG NĂM 2012
VŨ ĐỨC LONG - Trường Cao đẳng Y tế Hải Phòng
TÓM TẮT
Nghiên cứu trên 996 các bà mẹ đến sinh con tại
Bệnh viện Phụ sản Hải Phòng về một số yếu tố liên
quan tới việc lựa chọn giới tính khi sinh, kết quả cho
thấy: Có mối liên quan về trình độ học vấn của các bà
mẹ tới việc lựa chọn giới tính khi sinh (OR =1,3,
P<0,05); yếu tố về huyết thống tới việc giới tính khi
sinh(OR =2,0, P <0,05); yếu tố do chưa sinh được con
trai tới việc sinh con thứ 3 (OR = 3,8, P < 0,05); có 1,4
các bà mẹ phá thai khi biết giới tính thai nhi không
mong muốn; gần 10% các bà mẹ bị ảnh hưởng tâm lý
trong cuộc sống gia đình (ngược đãi, ly hôn) khi sinh
con có giới tính không mong muốn.
Từ khóa: giới tính.
SUMMARY
RESEARCH OF FACTORS RELATED TO SEX
SELECTION OF MOTHERS WHO GAVE BIRTH
AT HAI PHONG ...
3 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 12/07/2023 | Lượt xem: 237 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Nghiên cứu một số yếu tố liên quan tới lựa chọn giới tính khi sinh của các bà mẹ đến sinh con tại Bệnh viện Phụ sản Hải Phòng năm 2012 – Vũ Đức Long, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y HỌC THỰC HÀNH (914) - SỐ 4/2014
68
NGHIÊN CỨU MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN TỚI LỰA CHỌN GIỚI TÍNH KHI SINH CỦA
CÁC BÀ MẸ ĐẾN SINH CON TẠI BỆNH VIỆN PHỤ SẢN HẢI PHÒNG NĂM 2012
VŨ ĐỨC LONG - Trường Cao đẳng Y tế Hải Phòng
TÓM TẮT
Nghiên cứu trên 996 các bà mẹ đến sinh con tại
Bệnh viện Phụ sản Hải Phòng về một số yếu tố liên
quan tới việc lựa chọn giới tính khi sinh, kết quả cho
thấy: Có mối liên quan về trình độ học vấn của các bà
mẹ tới việc lựa chọn giới tính khi sinh (OR =1,3,
P<0,05); yếu tố về huyết thống tới việc giới tính khi
sinh(OR =2,0, P <0,05); yếu tố do chưa sinh được con
trai tới việc sinh con thứ 3 (OR = 3,8, P < 0,05); có 1,4
các bà mẹ phá thai khi biết giới tính thai nhi không
mong muốn; gần 10% các bà mẹ bị ảnh hưởng tâm lý
trong cuộc sống gia đình (ngược đãi, ly hôn) khi sinh
con có giới tính không mong muốn.
Từ khóa: giới tính.
SUMMARY
RESEARCH OF FACTORS RELATED TO SEX
SELECTION OF MOTHERS WHO GAVE BIRTH
AT HAI PHONG MATERNITY HOSPITAL IN 2012
Research on 996 mothers who gave birth in Hai
Phong Maternity Hospital on a number of factors
related to sex selection at birth, results showed that:
There is an relationship between education
background of mothers and the sex selection at birth
(OR = 1.3, P < 0.05); elements of blood to the sex ratio
at birth (OR = 2.0, P < 0.05), the factors of bearing
without son to the 3rd parturition (OR = 3.8, P < 0.05),
there is 1.4% of mothers having abortions when they
know the undesirable sex of their fetuses; nearly 10%
of mothers suffer psychologically in family life (abuse,
divorce) when their children have unwanted gender.
Keywords: sex.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tại Việt Nam tỷ số giới tính khi sinh (TSGTKS) năm
2000 vẫn ở mức bình thường nhưng trong những năm
gần đây (từ 2006) đã có biểu hiện tăng đạt mức 110,6
năm 2009, tương đương mức năm 1990 của Trung
Quốc. Mất cân bằng giới tính khi sinh đang là tình
trạng phổ biến ở các địa phương trong cả nước[5].
Theo điều tra biến động dân số ngày 1-4-2012, tỷ số
giới tính khi sinh của nước ta đã đạt tới 112,3 bé
trai/100 bé gái. Nếu không có sự can thiệp tích cực
nhằm giảm tốc độ gia tăng mất cân bằng giới tính khi
sinh, thì tình trạng này sẽ dẫn đến những hệ lụy khó
lường ảnh hưởng tới an ninh, trật tự xã hội và sự phát
triển bền vững của đất nước. Theo dự báo của Quỹ
dân số liên hiệp quốc (UNFPA), nếu TSGTKS tiếp tục
tăng như vậy trong các năm tiếp theo nó sẽ tác động
nặng nề đến thế hệ nam thanh niên được sinh ra sau
năm 2005 vì khi bước vào độ tuổi lập gia đình vào
những năm 2030 thì nhóm nam giới này sẽ dư thừa so
với phụ nữ cùng lứa tuổi 10%[6].Tại Hải Phòng theo
số liệu báo cáo của Chi cục dân số kế hoạch hóa gia
đình thì TSGTKS đều cao hơn mức bình thường trong
những năm gần đây: năm 2007 là 117,8, năm 2008 là
112,7, năm 2010 là 116,3[2]. Để tìm hiểu một số yếu tố
liên quan tới mất cân bằng giới tính khi sinh, chúng tôi
nghiên cứu đề tài này nhằm mục tiêu: Mô tả một số
yếu tố liên quan tới việc lựa chọn giới tính khi sinh của
các bà mẹ đến sinh con tại bệnh viện Phụ sản Hải
Phòng năm 2012.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu: Các bà mẹ đến sinh
con tại Bệnh viện Phụ sản – Hải Phòng trong năm
2012.
2. Địa điểm nghiên cứu: Tại bệnh viện phụ sản
Hải Phòng.
3.Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 5 đến tháng 9
năm 2012.
4. Cỡ mẫu nghiên cứu
n = Z
2
1-
ỏ/2.
p.q
d2
n: Cỡ mẫu nghiên cứu tối thiểu.
Z21-ỏ/2: Hệ số tin cậy = 1,96.
p: 0,5 (Tỷ lệ các bà mẹ có lựa chọn giới tính khi
sinh).
q = 1-p.
d = 0,05 (sai số tuyệt đối).
Cỡ mẫu tính được n = 384 (Thực tế chúng tôi
nghiên cứu trên 996 bà mẹ).
5. Kỹ thuật chọn mẫu: Sử dụng cách chọn mẫu
ngẫu nhiên thuận tiện. Nhóm nghiên cứu tiến hành
phỏng vấn ngẫu nhiên tất cả các bà mẹ tính từ thời
điểm điều tra: lấy từ bà mẹ bắt đầu thứ nhất (số 1) đến
đủ cỡ mẫu nghiên cứu (số 996).
6. Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp
nghiên cứu mô tả cắt ngang.
7. Phương pháp thu thập số liệu: Nhóm nghiên
cứu: Gồm 3 bác sỹ là cán bộ giáo viên của bộ môn
chăm sóc sức khoẻ sinh sản của trường Cao đẳng y tế
Hải Phòng cùng 15 em học sinh lớp hộ sinh đang học
năm thứ 2 tại trường được tập huấn về mục đích, các
nội dung nghiên cứu để thu thập thông tin.Thông tin
được thu thập qua phiếu điều tra được lập sẵn.
8. Phương pháp xử lý số liệu: Các số liệu thu
được xử lý bằng phần mềm thống kê y học EPIINPO.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN
Bảng 1: Liên quan giữa trình độ học vấn tới việc
lưạ chọn giới tính khi sinh
KQNC*
ĐTNC**
Có lựa chọn
giới tính khi
sinh
Không lựa chọn
giới tính khi sinh
n % n %
Đại học/
Cao đẳng 245 41,3 239 59,3 484
Trình độ
khác*** 348 58,7 164 40,7 512
593 59,5 403 40,5 996
P < 0,05; OR =1,3
* =Kết quả nghiên cứu **= Đối tượng nghiên cứu
***Trình độ khác: Từ trung cấp trở xuống.
Nhận xét: Kết quả bảng trên cho thấy số các bà mẹ
có trình độ từ trung cấp trở xuống có tỷ lệ lựa chọn
giới tính khi sinh cao hơn so với các bà mẹ có trình độ
đại học và cao đẳng (58,7 % và 41,3 %). Sự khác biệt
Y HỌC THỰC HÀNH (914) - SỐ 4/2014
69
có ý nghĩa thống kê với (OR= 1,3; P < 0,05). Kết quả
nghiên cứu của chúng tôi khác với nghiên cứu của Vũ
Tài Anh (2011-Nam Định) [1], có thể là do địa bàn
nghiên cứu khác nhau hoặc đối tượng nghiên cứu của
chúng tôi chỉ khu trú trong một phạm vị hẹp hơn.
Chúng tôi cho rằng trình độ học vấn của các bà mẹ là
yếu tố tác động tới tư duy của người phụ nữ và khả
năng tiếp cận các thông tin truyền thông, những người
có trình độ học vấn thấp thường chịu những áp lực
trong gia đình về việc lựa chọn sinh con theo giới tính
cao hơn những người có trình độ học vấn cao.
Bảng 2. Liên quan về yếu tố huyết thống tới việc
sinh con theo giới tính
KQNC
ĐTNC
Sinh con trai Sinh con gái
n % n %
Anh chị em sinh
con 1 bề là con
trai
79 56,8 43 72,9 122
Anh chị em sinh
con 1 bề là con
gái
60 43,2 16 27,1 76
139 70,2 59 29,8 198
P< 0,05; OR=2,0
Nhận xét: Kết quả bảng trên cho thấy các bà mẹ có
anh chị em sinh con một bề là trai có tỷ lệ đẻ con trai
cao hơn 2 lần so với nhóm các bà mẹ có anh chị em
sinh con một bề là gái, sự khác biệt có ý nghĩa (P <
0,05).
Bảng 3. Liên quan của việc chưa sinh được con
trai tới việc sinh con thứ 3
KQNC
ĐTNC
Sinh con thứ
3
Không sinh con
thứ 3
n % n %
Chưa sinh con
trai 43 61,4 142 15,3 185
Đã sinh con trai 27 88,6 784 84,7 811
70 7,0 926 93,0 996
OR =3,8; P <0,05
Nhận xét: Kết quả bảng trên cho thấy tỷ lệ các bà
mẹ chưa sinh con trai sẽ sinh con thứ 3 cao hơn 3,8
lần so với bà mẹ đã sinh con trai, sự khác biệt có ý
nghĩa (P<0,05). Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù
hợp với nghiên cứu của Trần Thị Bích Ngọc (2009))
[3], qua đó cho thấy các cặp vợ chồng vẫn mong muốn
và quyết tâm để sinh con trai và khi chưa sinh được
con trai họ phải chịu áp lực trong việc sinh con thứ 3,
điều đó cũng được thể hiện rõ trong nghiên cứu của
chúng tôi cho thấy không có trường hợp nào sinh con
thứ 3 khi đã sinh được con trai.
Bảng 4. Liên quan của việc nạo phá thai tới việc
giới tính thai nhi không theo ý muốn.
KQNC
ĐTNC
Biết giới tính thai nhi không theo ý muốn
n %
Không phá
thai 794 98,6
Nạo phá thai 11 1,4
805 100
Nhận xét: Kết quả bảng trên cho thấy trong số các
bà mẹ biết giới tính thai nhi không theo ý muốn có
1,4% trường hợp các bà mẹ đã nạo phá thai. Đây là
kết quả qua điều tra cắt ngang, phỏng vấn trực tiếp
các bà mẹ, chúng tôi cho rằng con số thực tế có thể
còn cao hơn. Như vậy cho thấy yếu tố giới tính thai nhi
không mong muốn của các bà mẹ là một trong những
nguyên nhân làm tăng tỷ lệ nạo phá thai, tăng tỷ lệ tai
biến trong sản phụ khoa ảnh hưởng tới sức khỏe
người phụ nữ, là hệ lụy của mất cân bằng giới tính khi
sinh.
Bảng 5. Liên quan trong cuộc sống gia đình khi các
bà mẹ sinh con có giới tính không theo ý muốn
KQNC
ĐTNC
Các ảnh hưởng về mặt
tâm lý trong cuộc sống
gia đình
n %
Chồng ruồng bỏ, ngược đãi 81 8,1
Ly hôn 14 1,4
Cuộc sống gia đình
không bị ảnh hưởng 901 90,5
996 100,0
Nhận xét: Kết quả bảng trên cho thấy trên 996 đối
tượng nghiên cứu có 1,4% các bà mẹ phải ly hôn do
không sinh được con trai, có 8,1% bị chồng ruồng bỏ,
ngược đãi, gần 10% các bà mẹ khi không sinh được
con trai phải chịu yếu tố tâm lý trong gia đình,kết quả
của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của Nguyễn Thị
Vũ Thành (2009)) [4].Qua kết quả đó cho thấy rõ
những hệ lụy của việc mất cân bằng giới tính trong
cộng đồng là vấn đề xã hội cần hết sức quan tâm đòi
hỏi các tổ chức xã hội phải cùng chung tay thì tình
trạng mất cân bằng giới tính khi sinh mới dần được
giải quyết,sức khỏe người phụ nữ cũng như của cộng
đồng mới được cải thiện.
KẾT LUẬN
Qua kết quả nghiên cứu về một số yếu tố liên quan
tới việc lựa chọn giới tính khi sinh của các bà mẹ đến
sinh con tại bệnh viện Phụ sản Hải Phòng, chúng tôi
có một số kết luận sau:
- Có mối liên quan giữa yếu tố trình độ học vấn tới
việc lựa chọn giới tính khi sinh (OR = 1,3, P < 0,05);
- Yếu tố về huyết thống gia đình có mối liên quan
tới giới tính khi sinh (OR=2, P <0,05);
- Các bà mẹ chưa sinh được con trai có liên quan
tới việc sinh con thứ 3 (OR=3,8,P < 0,05);
- Có 1,4 % các bà mẹ nạo phá thai do giới tính thai
nhi không như mong muốn;
- Có gần 10% các bà mẹ bị yếu tố tâm lý nặng nề
trong cuộc sống gia đình (chồng ruồng bỏ, ngược đãi,
ly hôn) do sinh con có giới tính không như mong
muốn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Tài Anh (2011), Thực trạng tỷ số giới tính khi
sinh và kiến thức,thái độ,thực hành của các cặp vợ chồng
trong độ tuổi sinh đẻ tại Nam Định năm 2010-2011, Luận
văn thạc sỹ y tế công cộng, Trường Đại học Y Thái Bình,
Thái Bình.
2. Chi cục Dân số - KHHGĐ Hải Phòng (2010), Kết
quả sơ bộ tổng điều tra dân số và nhà ở 01/4/2009, Hội
nghị Công bố kết quả sơ bộ Tổng diều tra dân số và nhà
ở năm 2010, Hải Phòng.
3. Trần Thị Bích Ngọc (2009), Nghiên cứu các yếu tố
liên quan đến việc quyết định sinh con thứ 3 trở lên của
các cặp vợ chồng, Đề tài cơ sở, Viện Nghiên cứu Dân số
và Phát triển, Hà Nội.
Y HỌC THỰC HÀNH (914) - SỐ 4/2014
70
4. Nguyễn Thị Vũ Thành, Lê Cựu Linh (2009), Tìm
hiểu một số yếu tố ảnh hưởng tới sinh con thứ 3 trở lên ở
Hà Nội - Trường Đại học Y tế công cộng Hà Nội, Hà Nội.
5. Tổng cục thống kê (2011), Tổng điều tra dân số và
nhà ở Việt Nam 2009. Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội.
6. UNFPA(2009) Recentchange in the sex ratio at
birth in Vietnam.
NHËN XÐT CHUÈN T¢N Cæ §IÓN ë MéT NHãM SINH VI£N 18-25 TUæI
Cã KHU¤N MÆT HµI HßA TR£N ¶NH Kü THUËT Sè CHUÈN HãA
Vâ Tr¬ng Nh Ngäc, Tr¬ng M¹nh Dòng, Tèng Minh S¬n, TrÞnh ThÞ Th¸i Hµ
Viện Đào Tạo Răng Hàm Mặt
TÓM TẮT
Nghiên cứu được tiến hành trên 143 sinh viên tuổi 18-
25, bao gồm 63 nam và 80 nữ nhằm mục tiêu: (1) xác
định các chuẩn tân cổ điển trên khuôn mặt ở một nhóm
người Việt bình thường độ tuổi 18-25 bằng phương pháp
đo trên ảnh kỹ thuật số chuẩn hóa. (2) xác định các chuẩn
tân cổ điển ở một nhóm người Việt có khuôn mặt được
cho là hài hòa trong nhóm nghiên cứu trên. Phương pháp
nghiên cứu: mô tả cắt ngang trên ảnh chuẩn hóa kỹ thuật
số. Kết quả: - Chuẩn al-al / en-en: nam và nữ có al-al =
en-en rất thấp (nam: 4,7%, nữ: 1,2%, chuẩn en-en/en-ex :
không có trường hợp nào en-en = en-exKết luận: cả
nam và nữ, giữa nhóm hài hòa và không hài hòa không
có sự khác biệt về các chuẩn tân cổ điển. Xu hướng thẩm
mỹ của nhóm hài hòa giống với xu hướng thẩm mỹ của
châu Âu mặc dù các số đo phần lớn rất khác nhau.
Từ khóa: Chuẩn tân cổ điển, thẩm mỹ mặt
SUMMARY
Neoclassical canon in a group of
students aged 18-25 which have a
harmonized face on standardized digital
photo.
The study was conducted on 143 students aged 18-
25, including 63 male and 80 female with aims: (1) define
the neoclassical canon of normal face in a group of
Vietnamese people aged 18-25 by measurements on
standardized digital photos. (2) determine the neoclassical
canon of harmonized faces in the study group.
Methodology: cross-sectional description on
standardized digital photographs. Results: canon al-al =
en-en: men and women have al-al = en-en is very low
(male: 4.7%, female: 1.2%), canon en-en = en-ex: no
case en-en = en-ex
Conclusions: both men and women, between
harmonized group and not harmonized group, there are
not the difference in the neoclassical canon. The Aesthetic
tendance of harmony groups is like with aesthetic
tendance of Europe, although most measurements are
different.
Keywords: Neoclassical canon, aesthetic of face.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngày nay nhu cầu thẩm mỹ khuôn mặt và nghiên cứu
vẻ đẹp đã trở thành vấn đề cần thiết của xã hội. Việc các
bác sü chØnh nha, phÉu thuËt t¹o hình áp dông mét cách
phæ biÕn, cøng nh¾c các tiêu chuẩn của người Caucasian
ví dụ như tiêu chuẩn tân cổ điển để điều trị cho bệnh
nhân người Việt Nam liệu có lập lại được nét đẹp thuần
Việt phù hợp với đa số dân chúng hay không? §Ó gi¶i
quyết vấn đề này chúng ta cần phải cú cỏc nghiờn cứu
điều tra về quan điểm thẩm mỹ khuôn mặt của người Việt
Nam [1],[2]. Do vậy, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu đề
tài này với các mục tiêu sau: (1) Xác định các chuẩn tân
cổ điển trên khuôn mặt ở một nhóm người Việt bình
thường độ tuổi 18-25 bằng phương pháp đo trên ảnh kỹ
thuật số chuẩn hóa. (2) Xác định các chuẩn tân cổ điển ở
một nhóm người Việt có khuôn mặt được cho là hài hòa
trong nhãm nghiªn cøu trªn.
Phân tích trên ảnh chụp được thực hiện trên ảnh chụp
tư thế thẳng và nghiêng. Đây là phương pháp được sử
dụng phổ biến trong nhiều lĩnh vực khác nhau như nhân
trắc, hình sự với ưu điểm: rẻ tiền và có thể giúp đánh giá
tốt hơn về tương quan của các cấu trúc ngoài sọ gồm cơ
và mô mềm. Khi phân tích thẩm mỹ khuôn mặt nên quan
sát trực tiếp và phân tích qua ảnh. Hai phương pháp này
có tác dụng bổ trợ cho nhau. Phép đo ảnh chụp dễ đánh
giá về sự cân xứng của vùng mặt, cũng như dễ trao đổi
thông tin hơn. Đo đạc trên máy ảnh kỹ thuật số với phần
mềm đo thích hợp sẽ tiết kiệm được nhiều thời gian,
nhân lực và đỡ phức tạp hơn nhiều so với đo trực tiếp
trên người, có nhiều ưu điểm về khả năng thông tin, lưu
trữ và bảo quản. Qua ảnh, có thể đánh giá định tính đẹp
hay không đẹp, từ đó chúng ta có thể yêu cầu một
phương pháp khoa học để đánh giá định lượng. Có
nhiều tác giả đã phân tích khuôn mặt qua ảnh và đã đưa
ra các tiêu chuẩn để chụp mặt với các tư thế khác nhau
như Bishara, Farkas [3],[4],[5],[6], mục đích để chuẩn
hoá kỹ thuật chụp ảnh nhằm đánh giá và so sánh dễ
dàng hơn.
ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
Sinh viên độ tuổi 18-25 đang học tại trường Đại học
Răng Hàm Mặt nay là Viện Đào Tạo Răng Hàm Mặt-
Trường Đại Học Y Hà Nội.
Tiêu chuẩn lựa chọn: Đối tượng nghiên cứu là các
sinh viên, học viên khỏe mạnh, ở độ tuổi 18 - 25 tuổi của
Viện Đào Tạo Răng Hàm Mặt. Có bố mẹ, ông bà nội
ngoại là người Việt. Không mắc các dị tật bẩm sinh, các
chấn thương hàm mặt nghiêm trọng, chưa từng trải qua
phẫu thuật thẩm mỹ hàm mặt, chưa điều trị nắn chỉnh
răng. Không có các biến dạng xương hàm. Có đầy đủ các
răng.
Tiêu chuẩn loại trừ: Các đối tượng không đạt được
tiêu chuẩn lựa chọn.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu được thiết kế theo phương pháp mô tả
cắt ngang. Cỡ mẫu được xác định theo công thức tính cỡ
mẫu của nghiên cứu mô tả để xác định giá trị trung bình:
n = Z21- ỏ/2 x SD
2/ d2 (n: cỡ mẫu tối thiểu (đối với mỗi giới),
Z21- ỏ/2: là hệ số tin cậy, với độ tin cậy 95% thì hệ số tin
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nghien_cuu_mot_so_yeu_to_lien_quan_toi_lua_chon_gioi_tinh_kh.pdf