Tài liệu Đề tài Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học và khả năng sản xuất của lợn Bảo Lạc, huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
-------------------------
MÔNG THỊ XUYẾN
NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC
VÀ KHẢ NĂNG SẢN XUẤT CỦA LỢN BẢO
LẠC, HUYỆN BẢO LẠC, TỈNH CAO BẰNG
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
THÁI NGUYÊN - 2009
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
-------------------------
MÔNG THỊ XUYẾN
NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC
VÀ KHẢ NĂNG SẢN XUẤT CỦA LỢN BẢO
LẠC, HUYỆN BẢO LẠC, TỈNH CAO BẰNG
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
CHUYÊN NGÀNH: CHĂN NUÔI
MÃ SỐ: 60.62.40
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. PHẠM THỊ HIỀN LƢƠNG
THÁI NGUYÊN - 2009
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn
này là hoàn toàn trung thực, chưa hề sử dụng cho bảo vệ một học vị nào.
Mọi sự giúp đỡ cho hoàn thành luận văn đ...
101 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1270 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học và khả năng sản xuất của lợn Bảo Lạc, huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
-------------------------
MÔNG THỊ XUYẾN
NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC
VÀ KHẢ NĂNG SẢN XUẤT CỦA LỢN BẢO
LẠC, HUYỆN BẢO LẠC, TỈNH CAO BẰNG
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
THÁI NGUYÊN - 2009
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
-------------------------
MÔNG THỊ XUYẾN
NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC
VÀ KHẢ NĂNG SẢN XUẤT CỦA LỢN BẢO
LẠC, HUYỆN BẢO LẠC, TỈNH CAO BẰNG
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
CHUYÊN NGÀNH: CHĂN NUÔI
MÃ SỐ: 60.62.40
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. PHẠM THỊ HIỀN LƢƠNG
THÁI NGUYÊN - 2009
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn
này là hoàn toàn trung thực, chưa hề sử dụng cho bảo vệ một học vị nào.
Mọi sự giúp đỡ cho hoàn thành luận văn đều đã được cảm ơn. Các thông
tin, tài liệu trình bày trong luận văn này đã được ghi rõ nguồn gốc.
Tác giả
Mông Thị Xuyến
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian thực tập và thực hiện đề tài này, tôi đã nhận được sự
quan tâm giúp đỡ của Ban giám hiệu Trường Đại học Nông Lâm Thái
Nguyên, Khoa sau đại học, Khoa chăn nuôi thú y, các thầy giáo, cô giáo, bạn
bè, đồng nghiệp, cơ quan và gia đình.
Trước tiên tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo TS.
Phạm Thị Hiền Lương, Khoa Chăn nuôi - Thú y, Trường Đại học Nông Lâm
Thái Nguyên - người hướng dẫn khoa học đã tận tình giúp đỡ tôi trong quá
trình hoàn thành luận văn này.
Đồng thời tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới toàn thể các thầy, cô giáo
trong khoa Sau đại học, các thầy giáo, cô giáo giảng dạy chuyên ngành,
Khoa Chăn nuôi Thú y, đã giúp đỡ hoàn thiện đề tài và có những đóng góp
ý kiến để tôi hoàn thành tốt bản luận văn này.
Nhân dịp này tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành nhất tới tất cả các
thầy giáo, cô giáo, bạn bè đồng nghiệp, cơ quan, gia đình và người thân đã
quan tâm động viên tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
Tác giả
Mông Thị Xuyến
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các bảng
Danh mục các biểu đồ
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
1.Tính cấp thiết của đề tài .......................................................................................... 1
2. Mục tiêu của đề tài ................................................................................................. 3
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU ............................................................................. 4
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài ................................................................................... 4
1.1.1. Cơ sở về việc nghiên cứu một số đặc điểm sinh học của lợn ......... 4
1.1.2. Tập tính của lợn ............................................................................ 6
1.1.3. Đặc điểm về sự thích nghi của lợn ................................................ 8
1.1.4. Đặc điểm ngoại hình, thể chất của lợn .......................................... 8
1.1.5. Đặc điểm về sinh trưởng, khả năng sản xuất và phẩm chất thịt của lợn .. 9
1.1.6. Đặc điểm sinh sản và khả năng sản xuất của lợn nái ................... 16
1.1.7. Cơ sở khoa học nghiên cứu một số chỉ tiêu huyết học ở lợn........ 27
1.2. Tình hình chăn nuôi lợn trên thế giới và ở Việt Nam ..................................... 29
1.2.1. Tình hình chăn nuôi lợn trên thế giới .......................................... 29
1.2.2. Tình hình chăn nuôi lợn trong nước ............................................ 32
1.3. Vài nét về đặc điểm tự nhiên kinh tế xã hội của huyện Bảo Lạc, tỉnh
Cao Bằng .......................................................................................................... 37
Chƣơng 2: ĐỐI TƢỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ........... 39
2.1. Đối tượng nghiên cứu ....................................................................................... 39
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu .................................................................... 39
2.2.1. Địa điểm nghiên cứu ................................................................... 39
2.2.2. Thời gian nghiên cứu .................................................................. 39
2.3. Nội dung nghiên cứu......................................................................................... 39
2.5.5. Phương pháp xác định thành phần hoá học của thịt nạc .............. 45
2.6. Phương pháp xử lý số liệu ................................................................................ 46
Chƣơng 3: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN ..................................................................... 47
3.1. Tình hình phát triển và tập quán chăn nuôi lợn của huyện Bảo Lạc ............. 47
3.1.1. Biến động về số lượng và phân bố đàn lợn qua 3 năm (2006 - 2008)
của huyện Bảo Lạc ................................................................................ 47
3.1.2. Cơ cấu đàn lợn tại 3 xã điều tra của huyện Bảo Lạc ....................... 49
3.1.3. Hiện trạng và tập quán chăn nuôi lợn của huyện Bảo Lạc .................. 51
3.2. Một số đặc điểm sinh học của lợn Bảo Lạc .................................................... 55
3.2.1. Đặc điểm ngoại hình các nhóm lợn theo màu sắc lông ................ 55
3.2.2. Một số chỉ tiêu sinh lý máu của lợn Bảo Lạc ............................. 58
3.3. Khả năng sản xuất của lợn nái Bảo lạc ............................................. 60
3.4. Khả năng sinh trưởng và sức sản xuất thịt của lợn Bảo Lạc .......... 67
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ .......................................................................... 83
1. Kết luận ................................................................................................................. 83
2. Đề nghị .................................................................................................................. 84
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 85
PHỤ LỤC .................................................................................................... 90
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1. Cơ cấu giống của đàn lợn huyện Bảo Lạc qua 3 năm (2006-2008) ... 47
Bảng 3.2. Cơ cấu đàn lợn tại 3 xã của huyện Bảo Lạc năm 2008 ..................... 49
Bảng 3.3. Phân loại lợn Bảo Lạc theo màu sắc lông tại 3 xã của huyện
Bảo Lạc ........................................................................................ 55
Bảng 3.4: Một số chỉ tiêu sinh lý máu của lợn Bảo Lạc ................................ 58
Bảng 3.5. Một số chỉ tiêu sinh lý sinh dục của lợn nái ................................. 60
Bảng 3.6. Một số chỉ tiêu về sức sản xuất của lợn nái Bảo Lạc .................... 64
Bảng 3.7. Khối lượng lợn con từ sơ sinh đến 8 tuần tuổi (kg/con) ................ 68
Bảng 3.8. Sinh trưởng tuyệt đối và tương đối của lợn con giai đoạn ss - 8
tuần tuổi ....................................................................................... 70
Bảng 3.9. Khối lượng lợn nuôi thịt Bảo Lạc qua các tháng tuổi (kg/con) ..... 72
Bảng 3.10. Sinh trưởng tuyệt đối và tương đối của lợn nuôi thịt Bảo Lạc ..... 74
Bảng 3.11. Khối lượng lợn cái hậu bị qua các tháng tuổi (kg/con)............... 76
Bảng 3.12. Sinh trưởng tuyệt đối và tương đối của lợn nái hậu bị Bảo Lạc ....... 77
Bảng 3.13. Khối lượng và một số chiều đo chính của lợn nái sinh sản
Bảo Lạc ........................................................................................ 79
Bảng 3.14. Kết quả mổ khảo sát sức sản xuất thịt của lợn Bảo Lạc ở 12
tháng tuổi (n = 4) .......................................................................... 80
Bảng 3.15. Thành phần hoá học của thịt lợn Bảo Lạc (%) ............................ 82
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ VÀ ĐỒ THỊ
Đồ thị 3.1: Sinh trưởng tích luỹ của lợn con ................................................. 69
từ sơ sinh đến 8 tuần tuổi.............................................................................. 69
Biểu đồ 3.1: Sinh trưởng tuyệt đối của lợn con ............................................. 70
Đồ thị 3.2: Sinh trưởng tương đối của lợn con ............................................. 71
Đồ thị 3.3: Sinh trưởng tích luỹ của lợn nuôi thịt ......................................... 73
Biểu đồ 3.2: Sinh trưởng tuyệt đối của lợn nuôi thịt Bảo Lạc ............................ 75
Đồ thị 3.4: Sinh trưởng tương đối của lợn nuôi thịt Bảo Lạc ............................ 75
Đồ thị 3.5: Sinh trưởng tích luỹ của lợn cái hậu bị Bảo Lạc ......................... 77
Biểu đồ 3.3: Sinh trưởng tuyệt đối của lợn cái hậu bị ................................... 78
Đồ thị 3.6: Sinh trưởng tương đối của lợn cái hậu bị ................................... 78
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Chữ đƣợc viết tắt
CS, ĐVT Cộng sự, Đơn vị tính
KL Khối lượng
g, g% Gam, Gam %
Hb Hemoglobin
HC Hồng cầu
BC Bạch cầu
NXBNN Nhà xuất bản nông nghiệp
NXBGD Nhà xuất bản giáo dục
STH Somato trophin Hormone
VCN Viện chăn nuôi
MC Móng cái
SS Sơ sinh
TCVN Tiêu chuẩn Việt Nam
NN & PTNT Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
WTO Tổ chức thương mại thế giới
FAO Tổ chức nông nghiệp và lương thực thế giới
AFTA Khu vực mậu dịch tự do Asean
BCTT Bạch cầu trung tính
VCK Vật chất khô
TS Tổng số
ĐBSCL Đồng Bằng Sông Cửu Long
TN Tây Nguyên
BTB Bắc Trung Bộ
DHNTB Duyên Hải Nam Trung Bộ
ĐBSH Đồng Bằng Sông Hồng
Y Yorkshire
L Landrace
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Chăn nuôi lợn trên thế giới cũng như ở Việt Nam giữ một vai trò rất
quan trọng, được phát triển ở hầu khắp các nước trên thế giới. Sở dĩ lợn có thể
phát triển một cách dễ dàng là do nó có nhiều đặc tính ưu việt: ăn tạp, chi
phí/1kg tăng khối lượng thấp, sức chịu đựng tốt với các điều kiện vệ sinh
chăm sóc khác nhau, chu kỳ sinh sản ngắn và tốc độ tăng trưởng nhanh, nên
khả năng cho sản phẩm rất lớn. Mỗi năm, 1 nái có thể đẻ từ 2 đến 2,4 lứa và
lượng thịt lợn được sản xuất từ một lợn nái cũng rất cao, có thể đạt tới 2
tấn/năm. Mặt khác, thịt lợn giàu dinh dưỡng, phẩm chất tốt, dễ chế biến, phù
hợp với khẩu vị của đa số người tiêu dùng, nên mức tiêu thụ rất cao. Lượng
thịt lợn tiêu thụ trên thế giới tương đương với thịt bò, ở mức khoảng 40%
tổng lượng thịt (FAO). Ở Việt Nam, thịt lợn là nguồn thực phẩm chính.
Ngoài việc cung cấp nguồn thực phẩm quan trọng, thì chăn nuôi lợn
còn cung cấp một lượng phân bón rất lớn cho ngành trồng trọt, khí biogas
phục vụ sinh hoạt ở nông thôn, cung cấp nguồn nguyên liệu cho ngành công
nghiệp chế biến, thuộc da…
Trước sức ép của thời kỳ hội nhập nền kinh tế quốc tế, cũng như các
ngành khác, ngành chăn nuôi lợn cũng có sự cạnh tranh xuất khẩu rất khắt
khe, đòi hỏi về số lượng và chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm cao. Từ
thực tế đó, Nhà nước đã và đang có những chính sách phát triển ngành chăn
nuôi lợn, áp dụng công nghệ tiên tiến nhất hiện nay, theo hướng phát triển
chăn nuôi lợn công nghiệp, thực hiện nhập khẩu một số giống lợn ngoại cao
sản trên thế giới như Landrace, Yorkshire, Doroc, Pietrain…, cải tiến giống
lợn nội và nâng cao năng suất, tăng nhanh số lượng thịt lợn, đồng thời nâng
cao chất lượng thịt, phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu. Các nhà
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
khoa học đã nghiên cứu lai tạo thành công giống lợn ngoại với một số lợn nội
tạo ra tập đoàn các giống lợn ngoại và lợn lai tại Việt Nam đáp ứng với tình hình
phát triển chăn nuôi lợn đa dạng, phù hợp với các vùng sinh thái của nước ta.
Bên cạnh việc quan tâm phát triển các giống lợn ngoại, lợn cao sản, thì
con lợn nội ít được đầu tư, chưa có những chính sách, định hướng cụ thể để
phát triển. Lợn nội chỉ được phát triển trong kinh tế hộ gia đình nhỏ lẻ, mang
tính tự cung tự cấp, không có sự đầu tư thoả đáng để có thể phát triển thành
hàng hoá. Chúng được nuôi phổ biến ở nông thôn, vùng miền núi và thực sự
đã trở thành loài vật nuôi lâu đời nhất, gần gũi đối với người dân Việt Nam.
Nước ta có tới hơn 60 giống lợn nội, chúng phân bố rộng khắp ở các vùng
sinh thái. Tại mỗi vùng đều có những giống lợn địa phương đặc trưng cho
vùng và thị hiếu riêng của cộng đồng vùng đó. Các giống lợn này đều có
chung đặc điểm là thích nghi tốt với điều kiện tự nhiên, chịu đựng kham khổ
tốt, thành thục sớm. Hiện nay, một số giống lợn nội đang có nguy cơ bị tuyệt
chủng như: lợn Ỉ, số lượng lợn nội ngày càng giảm, trong khi đó, nhu cầu về
thịt lợn nội ngày càng tăng. Lợn Bảo Lạc là một nhóm giống địa phương, có
vai trò quan trọng trong đời sống và sản xuất của người dân khu vực miền núi
vùng cao. Mặc dù còn một số hạn chế về tầm vóc và khả năng sinh sản,
nhưng nhóm giống lợn này có nhiều ưu việt như khả năng thích nghi với điều
kiện tự nhiên, tập quán và trình độ sản xuất của người dân, chất lượng thịt
thơm ngon, được người dân ưa chuộng..
Trong xu thế hiện nay, đời sống vật chất của con người ngày càng được
nâng cao, nhu cầu ăn không chỉ dừng lại ở no và đủ, mà hướng tới chất lượng,
an toàn. Thịt lợn Bảo Lạc cũng đã đáp ứng được phần nào nhu cầu đó. Trải
qua quá trình lịch sử lâu đời, con lợn bản địa vẫn tồn tại và phát triển cùng với
điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của huyện Bảo Lạc cho đến ngày nay. Tuy
nhiên, lợn Bảo Lạc còn bị hạn chế bởi tầm vóc nhỏ, khả năng sinh trưởng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
chậm, đó là hậu quả của phương thức chăn nuôi lạc hậu. Các nghiên cứu về
đặc điểm sinh học và khả năng sản xuất của chúng còn ít và thiếu hệ thống.
Từ thực tế trên, chúng tôi tiến hành đề tài: “Nghiên cứu một số đặc điểm sinh
học và khả năng sản xuất của lợn Bảo Lạc, huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng”.
2. Mục tiêu của đề tài
- Xác định được tập quán chăn nuôi lợn của người dân địa phương.
- Xác định được một số đặc điểm sinh học và khả năng sản xuất của lợn
Bảo Lạc.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Trên cơ sở nghiên cứu về một số đặc điểm sinh học và khả năng sản
xuất của lợn Bảo Lạc, để từ đó làm tiền đề cho việc hoạch định những định
hướng, chính sách phát triển chăn nuôi lợn bản địa tại địa phương, đồng thời
góp phần làm cơ sở cho việc bảo tồn nguồn gen lợn Bảo Lạc.
Đề tài đóng góp thêm những số liệu khoa học phục vụ cho nghiên cứu
và giảng dạy trong các trường Đại học, Cao đẳng và Viện nghiên cứu.
Định hướng cho người dân chăn nuôi lợn nội chất lượng, an toàn vệ
sinh thực phẩm và phát triển nông nghiệp bền vững tại địa phương.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài
1.1.1. Cơ sở về việc nghiên cứu một số đặc điểm sinh học của lợn
Đặc điểm về di truyền của lợn
Cũng như các loài gia súc khác, đặc điểm di truyền các tính trạng chất
lượng và số lượng trên lợn cũng tuân theo các quy luật di truyền của Mendel.
Màu sắc lông da như trắng, đen, vàng… là những tính trạng chất lượng do
một đôi gen quy định, không thay đổi qua các thế hệ. Còn các tính trạng: Số
con trên lứa, khả năng tăng trọng, phẩm chất thịt xẻ, chất lượng thân thịt… là
những tính trạng số lượng, do nhiều đôi gen quy định và chịu sự tác động của
ngoại cảnh với nhiều mức độ khác nhau (Nguyễn Văn Thiện và CS, 1998) [49].
Các tính trạng số lượng và chất lượng đều chịu sự tác động giữa kiểu di
truyền và môi trường. Kiểu di truyền hay kiểu gen là sự có mặt và hoạt động
của từng gen riêng rẽ để ảnh hưởng đến sự hình thành của tính trạng hoặc là
sự tổng hợp, sự tác động tương hỗ giữa các gen trong quá trình phát triển cá
thể, thể hiện như một thể thống nhất, toàn vẹn, điều hoà toàn bộ đời sống của
con vật. Kiểu di truyền là kết quả của quá trình tiến hoá lâu dài thông qua sự
chọn lọc tự nhiên. Kiểu hình là toàn bộ tính trạng của cá thể, hình thành biểu
hiện gắn với kiểu di truyền, nhưng có thể quan sát, phân tích được và chịu ảnh
hưởng thay đổi của các yếu tố môi trường, (Trần Đình Miên, Nguyễn Văn
Thiện và CS, 1995) [36].
Cũng theo tác giả trên cho biết: Sự phân chia đầu tiên của giá trị kiểu
hình là sự phân chia nó thành các phần có thể bị ảnh hưởng của kiểu gen và
môi trường. Kiểu gen là một tập hợp đặc biệt của các gen có được của một cá
thể và môi trường là tất cả các yếu tố không di truyền (non - genetic). Các giá
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
trị có liên hệ với kiểu di truyền và môi trường là giá trị kiểu gen và sai lệch
môi trường. Kiểu di truyền quy định một giá trị nào đó của cá thể và môi
trường gây ra một sự sai lệch từ giá trị này theo hướng này hoặc hướng khác.
Quan hệ này được biểu thị bằng công thức:
P = G + E.
P là giá trị kiểu hình của 1 tính trạng (Phenotype); G là giá trị kiểu gen
(Genotype) và E là giá trị ngoại cảnh hay gọi là sai lệch môi trường
(Environment). Giá trị kiểu gen (G) của giá trị số lượng do nhiều gen có hiệu
ứng nhỏ (minorgene) cấu tạo thành. Đó là các gen có hiệu ứng riêng biệt của
từng gen thì rất nhỏ, nhưng tập hợp nhiều gen nhỏ sẽ ảnh hưởng rất rõ rệt tới
tính trạng nghiên cứu, hiện tượng này gọi là hiện tượng đa gen (Polygen). Các
minorgene này tác động lên tính trạng theo 3 phương thức: Cộng gộp, trội và
át gen. Vì vậy giá trị kiểu gen hoạt động thể hiện qua công thức:
G = A + D + I
Trong đó: G : Giá trị kiểu gen
A : Giá trị cộng gộp
D : Giá trị sai lệch trội
I : Giá trị sai lệch tương tác
A là thành phần quan trọng nhất của kiểu gen vì nó ổn định, có thể xác
định được và di truyền cho đời sau. Hai thành phần D và I cũng có vai trò
quan trọng vì đó là giá trị giống đặc biệt và chỉ xác định được thông qua con
đường thực nghiệm.
Theo J. F. Lasley, 1974 (dẫn theo Trần Văn Tường và Nguyễn Quang
Tuyên, 2000) [57], những tính trạng có hệ số di truyền (h2) từ 0,12 - 0,30 là
những tính trạng có hệ số di truyền thấp.
Những tính trạng có hệ số di truyền bằng 0,4 - 0,5 là những tính trạng
có hệ số di truyền trung bình.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
Những tính trạng có hệ số di truyền bằng 0,5 trở lên là những tính trạng
có hệ số di truyền cao và cho hệ quả chọn lọc cao.
Những tính trạng cho hệ số di truyền thấp sẽ cho ưu thế lai cao.
Ngày nay, người ta thu được những bằng chứng cho thấy tác động bổ
sung một mình của gen không liên quan chặt chẽ với sự di truyền các tính
trạng số lượng, mà các kiểu tác động khác của gen như siêu trội, trội và át gen
cũng rất quan trọng, hơn nữa điều kiện ngoại cảnh là một nguyên nhân quan
trọng của sự biến thiên ở hầu hết các tính trạng. Việc xác định ảnh hưởng của
các nhân tố ngoại cảnh tới các tính trạng kinh tế ở gia súc sẽ rất có ích trong
việc đưa ra những biện pháp lai giống và chọn lọc có hiệu quả nhất (J.F.
Lasley, 1974) [20].
Trong chăn nuôi lợn, tính trạng số lượng quyết định đến các chỉ tiêu
kinh tế kỹ thuật, các tính trạng về năng suất ở lợn cũng như các vật nuôi khác
là kết quả tác động giữa các yếu tố di truyền và các yếu tố môi trường. Yếu tố
di truyền được thể hiện cao hay thấp phụ thuộc vào nhiều môi trường sống
như: Khí hậu, dinh dưỡng, thức ăn... Hai cá thể giống nhau về kiểu gen nhưng
có thể khác nhau về kiểu hình nếu được nuôi trong hai môi trường khác nhau.
Một cá thể có năng lực di truyền yếu nếu được nuôi trong môi trường thuận
lợi hơn dễ được xếp hạng cao hơn cá thể khác có năng lực di truyền cao
nhưng được nuôi trong môi trường kém (Nguyễn Thiện và CS, 2005) [47]. Vì
thế, trong thực tiễn công tác giống, muốn vật nuôi đạt năng suất chất lượng
cao thì ngoài việc thay đổi kiểu gen tạo ra những tổ hợp gen mới có năng suất
chất lượng cao, cần phải chú ý đến việc cải tiến môi trường nuôi dưỡng, chăm
sóc đối với con vật.
1.1.2. Tập tính của lợn
Theo Vũ Đình Tôn và CS, 2005 [52], lợn có tập tính sống theo bầy đàn
trong tự nhiên. Tuy nhiên, con đực có thể tách đàn đi riêng một mình, nó đủ
sức tự vệ, không cần sự che chở của con khác.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
Tập tính phòng vệ và đấu tranh sinh tồn của lợn: Lợn đực nhà nuôi
riêng, khi hai con gặp nhau, lông gáy dựng đứng, hai hàm răng va vào nhau
phát ra tiếng kêu kịch, kịch đe doạ lẫn nhau, bọt mép sùi ra hai bên mũi, lợn
đực xông lên nhằm đe doạ nhau; trong giao phối tự nhiên vào mùa sinh sản
của lợn thường xảy ra các cuộc chiến tranh dành lợn cái giữa các con đực.
Lợn có tính tò mò cao và rất hiếu động; lợn nhà được tập luyện cho ăn
với hiệu lệnh, đúng giờ ăn, ỉa, đái, nằm ngủ đúng chỗ quy định. Khi sợ hãi,
lợn thường kêu rít, cơ bắp run, chụm vào nhau ở một góc chuồng, lợn thích
ngủ nơi tối.
Lợn có một số tập tính hoạt động thông thường như đi lại, đứng và ngủ
trong thời gian nằm.
* Một số tập tính đặc thù của lợn:
- Hoạt động bú sữa của lợn: Khi cho con bú, con mẹ nằm nghiêng,
thẳng, hai hàng vú lộ rõ. Đàn con bú mỗi con một vú, tranh thủ mút liên tục
mỗi con 9 - 10 giây, con mẹ phát tiếng kêu “Ịt, ịt…” liên tục đều đặn trong
khi tiết sữa cho con bú. Lợn con mới sinh ra có thể đứng ngay được và có thể
tự tìm vú mẹ để bú, lợn mẹ vừa đẻ vừa cho con bú. Trong chăn nuôi lợn nái
xem xét hoạt động này để đánh giá một phần khả năng tiết sữa của lợn mẹ,
sức khoẻ và chất lượng đàn con. Nếu thời gian thúc vú nhiều mà mút sữa ít,
chứng tỏ khả năng sản xuất sữa của lợn mẹ hạn chế.
- Hoạt động phối giống của lợn đực: Con đực còn có hoạt động nhảy
cái, có bản năng phát hiện được con cái động dục, nó tìm cách tiếp cận, nếu
con cái tiếp nhận, thì lợn đực sẽ tiến hành giao phối.
- Hoạt động của lợn nái đẻ: Lợn nái chuẩn bị đẻ có biểu hiện tìm ổ, cào
phá. Biết được hoạt động của lợn nái đẻ người chăn nuôi lợn có thể quan sát
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
theo dõi lợn sinh sản tốt hơn, phát hiện tình trạng bệnh lý trong quá trình đẻ
của lợn để có can thiệp kịp thời (Vũ Đình Tôn và CS, 2005) [52].
Tập tính của lợn thể hiện ra hàng ngày, trong quá trình chăn nuôi chúng
ta theo dõi và phát hiện ra tập tính của lợn, để có phương pháp chăm sóc cũng
như quy trình chăn nuôi hợp lý, huấn luyện lợn theo phản xạ có điều kiện, làm
cho khả năng thích nghi của lợn trong điều kiện chăn nuôi tập trung trở nên
phong phú hơn, lợn có thể phát huy hết tiềm năng của nó.
1.1.3. Đặc điểm về sự thích nghi của lợn
Khả năng thích nghi của lợn là khả năng thích ứng với sự thay đổi môi
trường sống, từ môi trường cũ sang môi trường sống mới con lợn vẫn sinh tồn
phát triển, giữ vững được các tính năng sản xuất và di truyền các đặc điểm này
cho đời sau.
Lợn có khả năng thích nghi cao với các điều kiện khí hậu khác nhau, do
đó địa bàn phân bố của chúng tương đối rộng rãi trên thế giới.
Khả năng thích nghi của lợn còn thể hiện ở khả năng duy trì được các
đặc điểm về sinh trưởng phát triển, tính năng sản xuất và di truyền các đặc
điểm tốt này cho đời sau. Khi di chuyển từ vùng ôn đới sang nhiệt đới và
ngược lại, lợn vẫn giữ được các đặc điểm của giống.
Trong thực tiễn sản xuất, người ta lợi dụng đặc điểm này để tập cho lợn
có phản xạ có điều kiện thuận lợi như: tập cho lợn có phản xạ bài tiết phân,
nước tiểu đúng nơi quy định, tập cho lợn ăn đúng chỗ, đúng giờ, huấn luyện
đực giống nhảy giá để khai thác tinh trong truyền giống nhân tạo (Trần Văn
Phùng và CS, 2004) [38].
1.1.4. Đặc điểm ngoại hình, thể chất của lợn
Theo Trần Đình Miên và CS (1975) [35], thông qua việc đánh giá ngoại
hình và thể chất của gia súc, có thể chọn làm con giống, cũng như để nuôi thịt và
xác định giá trị của con vật. Hơn nữa, có những tính trạng không thể tiến hành
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
cân đo hoặc phân tích bằng phương pháp hoá lý sinh, cho nên, càng phải đánh
giá qua ngoại hình, thể chất.
Ngoại hình là hình dáng bên ngoài có liên quan đến thể chất, sức khoẻ,
hoạt động của các bộ phận bên trong cơ thể cũng như khả năng sản xuất của
gia súc và là hình dạng đặc trưng của một phẩm giống. Thể chất liên quan
chặt chẽ với sức khoẻ, con vật có thể chất tốt thì suốt đời khoẻ mạnh, nhanh,
có sức sản xuất cao, dù điều kiện ngoại cảnh có thay đổi khá nhiều. Thể chất
có biểu hiện qua ngoại hình là sức khoẻ đầy đủ, sức sống, sức đề kháng, sức
sinh sản, tính thích nghi của gia súc, ở cơ thể chắc chắn, ở bộ phận có liên
quan trực tiếp đến sức sản xuất như mông, vai, phát triển ở thịt lợn sẽ cho
nhiều thịt. Đặc trưng của một phẩm giống trước tiên bao giờ cũng nhìn qua
ngoại hình, nhất là đối với màu sắc lông, da hoặc là các bộ phận thuộc giới
tính và thông qua ngoại hình giúp ta biết được hướng sản xuất của con vật.
Ngoại hình, là một đặc điểm, mà khả năng di truyền ít chịu ảnh hưởng bởi
những yếu tố ngoại cảnh. Mầu sắc lông da là đặc điểm ngoại hình đặc trưng của
giống. Trong một đàn lợn giống thuần, nếu màu sắc không thuần nhất là có hiện
tượng biến dị xấu (Trần Cừ, Nguyễn Khắc Khôi, 1985) [7]
Dựa vào đặc điểm ngoại hình giúp chúng ta có thể khảo sát, phân biệt
giữa các nhóm lợn đặc thù của từng vùng sinh thái khác nhau.
1.1.5. Đặc điểm về sinh trưởng, khả năng sản xuất và phẩm chất thịt của lợn
1.1.5.1. Sinh trưởng, cơ sở di truyền của sự sinh trưởng
Sinh trưởng được nhiều tác giả nghiên cứu cho các khái niệm cũng
phần nào khác nhau.
Khi nghiên cứu về sinh trưởng, Johansson. L (1972) [21] đã có khái
niệm như sau: về mặt sinh học, sinh trưởng được xem như là quá trình tổng
hợp protein, cho nên người ta thường lấy việc tăng khối lượng cơ thể làm chỉ
tiêu đánh giá sự sinh trưởng. Tuy nhiên, cũng có khi tăng khối lượng không
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
phải là tăng trưởng. Sự tăng trưởng thực sự là sự tăng lên về khối lượng, số
lượng và các chiều của các tế bào mô cơ. Ông còn cho biết cường độ phát
triển qua giai đoạn bào thai và giai đoạn sau khi sinh có ảnh hưởng đến chỉ
tiêu phát triển của con vật.
Theo Trần Đình Miên và Vũ Kính Trực (1975) [35], sinh trưởng là một
quá trình tích luỹ các chất hữu cơ do đồng hoá và dị hoá, là sự tăng về chiều
dài, chiều cao, bề ngang, khối lượng của các bộ phận và toàn cơ thể con vật
trên cơ sở tính chất di truyền từ đời trước. Sinh trưởng mang tính chất giai
đoạn, biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Khi nói đến sự sinh trưởng
có nghĩa là nói đến sự phát dục vì 2 quá trình này đồng thời diễn ra trong cơ thể sinh
vật, nếu như sinh trưởng là sự tích luỹ về lượng thì phát dục là sự tích luỹ về chất.
Phát dục diễn ra trong quá trình thay đổi về cấu tạo, chức năng, hình
thái, kích thước các bộ phận cơ thể. Phát dục của cơ thể con vật là quá trình
phức tạp trải qua nhiều giai đoạn từ khi rụng trứng tới khi trưởng thành, khi
con vật trưởng thành, quá trình sinh trưởng chậm lại, sự tăng sinh các tế bào ở
các cơ quan, tổ chức không nhiều lắm, cơ thể to ra, béo thêm, nhưng chủ yếu
là tích luỹ mỡ, còn phát dục xem như ở trạng thái ổn định.
Để xác định sinh trưởng thường dùng phương pháp cân định kỳ khối
lượng và đo kích thước các chiều của cơ thể. Ở lợn thường đo ở 4 chiều: Dài
thân, vòng ngực, cao vây, vòng ống và thường cân đo ở các tháng tuổi: sơ
sinh, 1, 2, 4, 6, 8, 10, 12, 18, 24, 36.
Đối với lợn sinh sản, ngoài việc cân, đo còn phải chú ý tới các thời kỳ
thành thục, thời kỳ trưởng thành và thời kỳ già, có như vậy ta mới biết được
nên phối giống cho lợn vào thời kỳ nào là tốt nhất, để không những cơ thể lợn
mẹ phát triển tốt, mà chất lượng đàn con cũng cao, biết được thời kỳ nào ta
nên loại thải lợn nái, để đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
1.1.5.2. Các giai đoạn sinh trưởng và phát dục của lợn
Quá trình sinh trưởng phát dục của gia súc nói chung cũng như ở lợn
nói riêng đều tuân theo các quy luật:
- Quy luật sinh trưởng và phát dục không đồng đều. Quy luật này thể
hiện ở chỗ cường độ sinh trưởng và tốc độ tăng trọng thay đổi theo tuổi.
- Quy luật sinh trưởng và phát dục theo giai đoạn, quy luật này được
chia ra làm 2 giai đoạn đó là trong thai và ngoài thai.
+ Giai đoạn trong thai gồm: Thời kỳ phôi thai từ 1 - 22 ngày, thời kỳ
tiền phôi thai từ 23 - 38 ngày, thời kỳ thai nhi từ 39 - 114 ngày.
Trong thực tế sản xuất người ta chia ra: lợn chửa kỳ I là bắt đầu từ khi
thụ thai đến 1 tháng trước khi đẻ. Lợn chửa kỳ II rất quan trọng, ảnh hưởng
rất lớn đến khối lượng sơ sinh và tỷ lệ nuôi sống, 3/4 khối lượng sơ sinh được
sinh trưởng ở giai đoạn chửa kỳ II. Theo Trương Lăng và Nguyễn Văn Thiện
(1995) [27], bào thai lợn tháng thứ 2 phát triển tăng 33,5 lần so với tháng thứ
nhất, tháng thứ 3 phát triển tăng 8,7 lần và 3 tuần tháng thứ 4 chỉ tăng 2,2 lần.
Nếu lợn chửa kỳ II mà nuôi dưỡng kém, sau khi sinh, dù nuôi dưỡng tốt, vẫn
chậm lớn, ảnh hưởng đến khối lượng cai sữa và thời gian nuôi cho đến khối
lượng xuất chuồng.
+ Giai đoạn ngoài cơ thể mẹ gồm: Thời kỳ bú sữa, thời kỳ thành thục,
thời kỳ trưởng thành, thời kỳ già cỗi.
Thời kỳ bú sữa của lợn ở Việt Nam thông thường là 60 ngày. Hiện nay,
một số cơ sở chăn nuôi đã tiến hành cai sữa sớm ở 21, 28, 35 hay 45 ngày
tuổi, thức ăn của lợn con chủ yếu ở thời kỳ này là bú sữa mẹ.Tuy nhiên, muốn
lợn con sinh trưởng nhanh hơn, khối lượng khi cai sữa cao hơn, ta phải bổ
sung thêm thức ăn. Sau khi tách mẹ, những ngày đầu thức ăn phải đảm bảo
sao cho lợn con tăng trọng đều mỗi ngày như khi bú mẹ. Có như vậy, lợn con
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
đưa vào nuôi thịt hay hậu bị không bị chậm lớn. Đây là điều kiện để cai sữa
sớm cho lợn con có kết quả (Nguyễn Văn Thiện và cộng sự, 1998) [49].
Theo D.A.Kislowsky, 1930 (dẫn theo Nguyễn Ân và CS, 1983) [2] đã
cho biết: Thời gian của các giai đoạn sinh trưởng dài hay ngắn, số lượng giai
đoạn và sự đột biến trong sinh trưởng của từng giống, từng cá thể có sự khác
nhau. Sự sinh trưởng phát dục không đồng đều được biểu hiện ở sự thay đổi
rõ rệt về tốc độ sinh trưởng và cường độ tăng trọng của cơ thể con vật ở từng
lứa tuổi, sự sinh trưởng không đều còn thể hiện ở từng bộ phận, cơ quan (mô,
xương, cơ), có bộ phận ở thời kỳ này phát triển nhanh, nhưng ở thời kỳ khác
lại phát triển chậm.
Trên cơ sở nắm được quy luật sinh trưởng, phát dục của gia súc, sẽ giúp
cho con người xác định các điều kiện ngoại cảnh, xây dựng các khẩu phần thức
ăn thích hợp, để điều khiển sự sinh trưởng phát dục của vật nuôi, theo hướng có
lợi nhất. Để con lợn phát triển tốt, thì ở một mức độ nhất định nào đó, phải chú ý
nhiều hơn ngay lúc con mẹ có thai và trong giai đoạn con vật còn non sẽ dễ dàng
thích nghi với điều kiện sống ngoài cơ thể mẹ, nâng cao sức sản xuất và phẩm
chất giống sau này.
1.1.5.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến sinh trưởng phát dục và khả năng cho
thịt của lợn
Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sinh trưởng, năng suất và
phẩm chất thịt.
* Giống: Theo Nguyễn Thiện và cộng sự, (2005) [47]: Giống là yếu tố
quan trọng ảnh hưởng đến sinh trưởng, phát dục, năng suất và phẩm chất thịt.
Thông thường các giống lợn nội cho năng suất thấp hơn so với những giống
ngoại nhập nội. Lợn Ỉ, Móng Cái nuôi 10 tháng tuổi trung bình đạt khoảng 60
kg. Trong khi đó, lợn ngoại (Landrace, Yorkshire…) nuôi tại Việt Nam có thể
đạt 90 - 100 kg lúc 6 tháng tuổi. Lợn nội mức tiêu tốn thức ăn thường rất cao
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
từ 4,5 - 5 kg thức ăn cho 1 kg tăng trọng, lợn ngoại nhập (Landrace,
Yorkshire) chỉ cần từ 3,2 - 3,5 kg thức ăn cho 1 kg tăng trọng. Các giống khác
nhau cũng có phẩm chất thịt xẻ và phẩm chất thịt khác nhau, lợn Móng Cái có
tỷ lệ nạc 37%, trong khi đó lợn Yorkshire có tỷ lệ nạc từ 52 - 53%.
Các giống gia súc khác nhau có khả năng tăng khối lượng khác nhau,
phụ thuộc vào các gen quy định tính trạng này. Cùng một khối lượng như
nhau, cùng kiểu gen, nhưng khi trưởng thành, những con có khối lượng lớn
hơn, có khả năng tăng khối lượng nhanh hơn lại có ít mỡ hơn những con có
khối lượng nhỏ hơn. Theo Nguyễn Văn Đức (1997), (dẫn theo Giang Hồng
Tuyến, 2009) [56].
* Thức ăn: Dinh dưỡng là yếu tố quan trọng của yếu tố ngoại cảnh chi
phối đến sinh trưởng và khả năng cho thịt của lợn. Trần Văn Phùng và CS,
(2004) [38] cho rằng: Các yếu tố di truyền không thể phát huy tối đa, nếu
không có một môi trường dinh dưỡng và thức ăn hoàn chỉnh. Một số thí
nghiệm đã chứng minh rằng, khi chúng ta cung cấp cho lợn các mức dinh
dưỡng khác nhau có thể làm thay đổi tỷ lệ các phần trong cơ thể. Khẩu phần
có mức năng lượng cao và mức protein thấp thì lợn sẽ tích luỹ mỡ nhiều hơn
so với những khẩu phần có mức năng lượng thấp và hàm lượng protein cao.
Khẩu phần có mức protein cao, thì gia súc nói chung và lợn nói riêng, sẽ có tỷ
lệ nạc cao hơn. Trong thời gian mang thai ảnh hưởng của nuôi dưỡng rất rõ,
nuôi dưỡng gia súc mẹ tốt trong thời gian mang thai sẽ giúp gia súc mẹ nhiều
con và gia súc con khoẻ mạnh.
Lượng thức ăn cho ăn cũng như thành phần dinh dưỡng ảnh hưởng trực
tiếp đến tốc độ tăng trọng của lợn, theo Robinson, 1930 (dẫn theo Vũ Đình Tôn
và CS, 2005) [52]: Hàm lượng xơ thô tăng từ 2,4% lên 11% thì tăng trọng mỗi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
ngày của lợn giảm từ 566g xuống 408g và thức ăn cần cho một kg tăng trọng
tăng lên 62%.
* Môi trường: (Trần Văn Phùng và CS, 2004) [38] cho biết: Môi trường
xung quanh gồm nhiệt độ và ẩm độ, mật độ, ánh sáng. Nhiệt độ và ẩm độ ảnh
hưởng chủ yếu đến năng suất và phẩm chất thịt, khi lợn được nuôi ở điều kiện
nhiệt độ và ẩm độ không thích hợp. Nhiệt độ thích hợp cho lợn nuôi béo từ 15
- 18
0C, cho lợn sinh sản không thấp hơn 10 - 120C. Nhiệt độ chuồng nuôi có
liên quan mật thiết với ẩm độ không khí, ẩm độ không khí thích hợp cho lợn ở
vào khoảng 70%. Tác giả Nguyễn Thiện và CS, (2005) [47] cho biết: Ở điều
kiện nhiệt độ và ẩm độ cao lợn phải tăng cường quá trình toả nhiệt thông qua
quá trình hô hấp (vì lợn có rất ít tuyến mồ hôi) để duy trì thăng bằng thân
nhiệt. Ngoài ra khi nhiệt độ cao sẽ làm cho khả năng thu nhận thức ăn của lợn
hàng ngày giảm. Do đó, tăng trọng bị ảnh hưởng và khả năng chuyển hóa
thức ăn kém dẫn đến sự sinh trưởng, phát dục của lợn bị giảm.
Các tác giả trên đều cho rằng ánh sáng có ảnh hưởng đến sinh trưởng
và phát triển của lợn. Đối với lợn con từ sơ sinh đến 70 ngày tuổi, nếu không
đủ ánh sáng, thì tốc độ tăng khối lượng sẽ giảm từ 9,5 - 1,5%, so với lợn con
được vận động dưới ánh sáng mặt trời. Ánh sáng mặt trời có tác dụng tăng
cường hoạt động sống và quá trình sinh lý của cơ thể vật nuôi. Dưới ánh sáng
mặt trời cơ thể phát sinh những phản ứng bên trong và bên ngoài có lợi, tăng
cường sinh trưởng phát dục, hồi phục cơ thể. Tuy nhiên, ánh sáng gay gắt
cũng làm mỡ của những vật nuôi béo bị oxy hoá mạnh. Do vậy, khi trời nóng
bức không nên để vật nuôi làm việc nặng dưới trời nắng lâu.
Mật độ lợn trong chuồng nuôi có ảnh hưởng chủ yếu đến năng suất.
Khi ta nhốt lợn ở mật độ cao, hay số con/ô chuồng quá lớn sẽ ảnh hưởng đến
tăng trọng hàng ngày của lợn và phần nào ảnh hưởng đến sự chuyển hoá thức
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
ăn. Do vậy, khi nhốt ở mật độ cao sẽ tăng tính không ổn định trong đàn. Sự
không ổn định này là do tăng sự tấn công lẫn nhau, giảm bớt thời gian ăn và
nghỉ của lợn. Nghiên cứu của Mỹ (Bord) cho thấy: Khi nuôi lợn với mật độ
thấp, sẽ làm tăng được tốc độ tăng trọng cũng như giảm mức tiêu tốn thức ăn.
Chăm sóc ảnh hưởng chủ yếu đến năng suất, chuồng vệ sinh kém dễ gây
bệnh, chuồng nuôi ồn ào, không yên tĩnh đều làm năng suất giảm. Sức khoẻ
trong giai đoạn bú sữa kém như thiếu máu, còi cọc thì đến giai đoạn nuôi thịt
tăng trọng kém (Theo Vũ Đình Tôn, 2005) [52].
Phương thức nuôi dưỡng như cho ăn tự do sẽ làm tăng tốc độ tăng
trọng của cả lợn đực thiến và lợn cái so với ăn hạn chế, những giống lợn
hướng mỡ nên cho ăn hạn chế ngay từ đầu, với những giống lợn hướng nạc
cho ăn tự do sẽ có được năng suất và chất lượng tốt nhất.
Theo quan điểm di truyền học thì hầu hết các tính trạng về sản xuất của
gia súc gia cầm như: Sinh trưởng, cho lông, cho thịt, trứng, sản lượng sữa,
sinh sản… đều là tính trạng số lượng. Tính trạng số lượng là những tính trạng
ở đó sự sai khác giữa các cá thể là sự sai khác nhau về mức độ, hơn là sự sai
khác nhau về chủng loại. Darwin đã chỉ rõ sự sai khác này chính là nguyên
liệu cho chọn lọc tự nhiên và chọn lọc nhân tạo. Tính trạng số lượng còn gọi
là tính trạng đo lường (metriccharacter), sự nghiên cứu chúng phụ thuộc vào
sự đo lường như: Khối lượng cơ thể, tốc độ tăng trọng, sản lượng trứng, kích
thước các chiều đo… (Trần Đình Miên và CS, 1975) [35].
Ảnh hưởng của năm: năm thí nghiệm gây ảnh hưởng lớn đến tính trạng
tỷ lệ nạc của lợn. Theo Nguyễn Văn Đức (1997), (dẫn theo Giang Hồng
Tuyến, 2009) [56] cho biết: Ở lợn Móng Cái, yếu tố năm gây ảnh hưởng đến
tính trạng tỷ lệ nạc. Điều này có thể giải thích rằng điều kiện ngoại cảnh mỗi
năm có những thay đổi nhất định.
Ngoài ra, quá trình trao đổi chất trong cơ thể cũng là một trong những
yếu tố ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát dục của lợn. Quá trình trao đổi chất
xảy ra dưới sự điều khiển của các hormoe. Hormone thuỳ trước tuyến yên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
STH là loại rất cần thiết cho sinh trưởng của cơ thể. Theo Hoàng Toàn Thắng
và Cao Văn (2006) [44]: STH có tác dụng sinh lý chủ yếu kích thích sự sinh
trưởng của cơ thể bằng cách làm tăng sự tổng hợp protein và kích thích sụn
liên hợp phát triển, tăng tạo xương (nhất là các xương dài).
Để chăn nuôi lợn đạt được mục đích cuối cùng là tạo ra sản phẩm thịt
cung cấp cho con người, thì việc nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến sinh
trưởng và năng suất, chất lượng thịt lợn là rất quan trọng. Qua đó định hướng
cho các biện pháp kỹ thuật tác động về giống, thức ăn và dinh dưỡng…. Phù
hợp với nhu cầu của từng loại lợn, sẽ giúp cho cơ thể lợn sinh trưởng đạt mức
tối đa, tạo ra lợi ích kinh tế cao nhất trong quá trình chăn nuôi lợn.
1.1.6. Đặc điểm sinh sản và khả năng sản xuất của lợn nái
Sinh sản là điều kiện để duy trì nòi giống của tất cả các cơ thể sinh vật
sống. Ở gia súc, quá trình sinh sản không chỉ là sự truyền thông tin di truyền
từ thế hệ này đến thế hệ khác, mà còn liên quan tới sự điều chỉnh nội tiết, đến
các giai đoạn khác nhau của quá trình đó.
Khi gia súc sinh trưởng phát triển đến một giai đoạn nhất định, thì có sự
thay đổi, biểu hiện đầu tiên của sinh sản đó là sự thành thục về tính. Hoàng Toàn
Thắng và Cao Văn, (2006) [44] cho biết: Thành thục về tính là tuổi con vật bắt
đầu có phản xạ sinh dục và có khả năng sinh sản. Bộ máy sinh dục đã phát triển
tương đối hoàn chỉnh, con cái có khả năng sinh ra tế bào trứng, con đực có khả
năng sinh ra tinh trùng, tinh trùng và trứng gặp nhau có khả năng thụ thai.
Lợn là gia súc đa thai, sinh đẻ dễ dàng, khả năng thành thục về tính
sớm. Nguyễn Văn Thiện và CS (1998) [49] cho biết: Lợn cái nội 3 đến 4
tháng tuổi đã có hiện tượng rụng trứng, lợn đã động dục.
1.1.6.1. Đặc điểm sinh lý sinh dục lợn cái
* Chu kỳ động dục của lợn cái
Lợn cái sau khi thành thục về tính thì có biểu hiện động dục, cứ sau
một khoảng thời gian nhất định, cơ quan sinh dục của nó có những biến đổi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
đặc biệt, kèm theo sự rụng trứng và động dục, hiện tượng này lặp đi lặp lại
nhiều lần gọi là chu kỳ động dục, chu kỳ động dục của lợn cái trung bình 21
ngày (18 - 21 ngày)
* Tuổi động dục đầu tiên
Là thời gian từ sơ sinh cho đến khi lợn cái hậu bị có biểu hiện động dục
lần đầu tiên. Tuổi động dục lần đầu khác nhau tuỳ theo giống. Lợn nội tuổi
động dục lần đầu sớm hơn lợn ngoại, ở lợn nái lai tuổi động lần đầu muộn
hơn so với lợn nái nội thuần. Phạm Hữu Doanh, Lưu Kỷ (2006) [9] cho biết:
Tuổi động dục đầu tiên ở lợn nội (Ỉ, Móng Cái) rất sớm 4 - 5 tháng tuổi khi
khối lượng đạt từ 20 - 25 kg. Ở lợn nái lai tuổi động dục đầu tiên muộn hơn so
với lợn nội thuần. Ở lợn lai F1 (có 1/2 máu nội) động dục bắt đầu lúc 6 tháng
tuổi, khi khối lượng cơ thể đạt 50 - 55kg. Ở lợn ngoại động dục muộn hơn so
với lợn lai, tức là động dục lúc 6 -7 tháng tuổi, khi lợn có khối lượng 65 - 68
kg, không cho lợn phối giống ở thời kỳ này, vì cơ thể lợn chưa phát triển đầy
đủ, chưa tích tụ được chất dinh dưỡng nuôi thai, trứng chưa chín một cách
hoàn chỉnh. Để đạt được hiệu quả sinh sản tốt và duy trì con nái sinh sản bền
lâu, cần bỏ qua 1 - 2 chu kỳ động dục rồi mới cho phối giống.
Tuổi động dục lần đầu còn phụ thuộc vào mùa vụ và chịu ảnh hưởng
của ngoại cảnh, thời gian chiếu sáng, nhiệt độ môi trường cũng như chế độ
dinh dưỡng, mức độ sinh trưởng trước và sau cai sữa (Nguyễn Tấn Anh,
Nguyễn Duy Hoan, 1998) [1].
Hiện tượng lợn cái không động dục có thể do nhiều nguyên nhân như:
Phát hiện động dục không đúng, stress do thời tiết nóng, động dục thầm lặng,
ốm đau, thiếu protein hoặc năng lượng. (Dwane R.Zimmerman và CS, 1996) [12].
* Tuổi phối giống lần đầu
Thông thường ở lần động dục lần đầu tiên người ta chưa phối giống, vì
ở thời điểm này lợn chưa thành thục về thể vóc, số trứng rụng còn ít. Người ta
thường cho phối giống vào lần động dục thứ hai hoặc ba. Tuổi phối giống lần
đầu của lợn thường được tính bằng cách cộng tuổi động dục lần đầu với thời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18
gian động dục của một hoặc hai chu kỳ nữa hoặc tuổi tại thời điểm phối giống
lần đầu. Thường phối giống vào lúc 6 - 7 tháng tuổi khi khối lượng đạt 40 - 50
kg, đối với lợn ngoại do khối lượng động dục lần đầu lớn, cho nên có thể phối
giống từ lần động dục đầu tiên. Lợn lai phối giống vào lúc 8 tháng tuổi với
khối lượng không dưới 65 - 70 kg và lợn ngoại phối giống vào lúc 9 tháng
tuổi với khối lượng không dưới 80kg.
Theo Kiều Minh Lực và Jirawit Rachatanam (2006) [30]. Lợn nái có số
lứa đẻ thấp nhất là 1 lứa và cao nhất 11 lứa. Tuổi phối giống đậu thai lần đầu
được tính từ tuổi đẻ lứa thứ 1 trừ cho thời gian mang thai trung bình 115 ngày,
năng suất sinh sản đạt cao nhất khi lợn nái được phối giống và mang thai lần
đầu vào lúc 38 tuần tuổi và mức độ lớn hơn trung bình đàn là 5,76%. Nếu lợn
mang thai lần đầu ở độ tuổi trước 34 tuần tuổi thì năng suất thấp hơn trung bình
là 8,27% và nếu mang thai muộn sau 44 tuần tuổi thì năng suất thấp hơn trung
bình là 1,25%. Đặc biệt nếu phối giống đậu thai lần đầu lúc 30 tuần tuổi thì
mức độ thiệt hại trong suốt đời sống sản xuất của một lợn nái là 17,02%.
Vậy, tuổi phối giống lần đầu tiên của lợn cái hậu bị là một vấn đề cần
được quan tâm và phối giống cho đúng thời điểm, khi lợn đã thành thục về
tính, có tầm vóc và sức khoẻ đạt yêu cầu sẽ nâng cấp được khả năng sinh sản
của lợn nái và nâng cao được phẩm chất đời sau. Thực tế đã chứng minh rằng,
nếu phối giống quá muộn sẽ gây lãng phí kinh tế, ảnh hưởng đến sinh trưởng
phát dục của lợn cũng như hoạt động về tính của nó (Nguyễn Khánh Quắc và
CS, 1995) [39].
* Tuổi đẻ lứa đầu
Là tuổi lợn mẹ đẻ lứa đầu tiên. Sau khi phối giống, lợn có chửa 114
ngày (112 - 116 ngày), cộng thêm số ngày mang thai này lợn sẽ có tuổi đẻ lứa
đầu. Theo Phạm Hữu Doanh, Lưu Kỷ (2006) [9]: Lợn nái nội trong sản xuất,
tuổi đẻ lứa đầu thường 11- 12 tháng, lứa đầu cho phối lúc 7 tháng tuổi, khối
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19
lượng cần đạt từ 45 - 50 kg nếu cho phối với đực ngoại để có đàn con lai kinh
tế. Lợn nái lai và lợn nái ngoại nên cho đẻ lần đầu lúc 12 tháng tuổi nhưng
không quá 14 tháng tuổi, vậy phải phối giống lứa đầu ở lợn lai lúc 8 tháng
tuổi với khối lượng lớn không dưới 65 - 70 kg, đối với lợn ngoại cho phối
giống lúc 9 tháng tuổi với khối lượng không dưới 80 - 90 kg. Theo Trần
Quang Hân, (2004) [15]: Lợn nái trắng Phú Khánh có tuổi đẻ lứa đầu tương
đối muộn (436,05 ngày), nhưng năng suất sinh sản đạt khá cao với số con còn
sống, số con cai sữa/lứa tương ứng là 9,11 và 8,00 con; khối lượng trung bình
một lợn con sơ sinh, 21 và 60 ngày tuổi tương ứng là 1,05; 4,29 và 10,55kg,
số lứa đẻ /nái/năm là 1,78.
* Lợn nái động dục trở lại sau đẻ
Phạm Hữu Doanh, Lưu Kỷ (2006) [9] cho biết: Sau cai sữa (lúc 50 –
55 ngày) khoảng 3 đến 5 ngày thì lợn nái động dục trở lại. Thời gian này cho
phối giống lợn dễ thụ thai và trứng chín nhiều, dễ có số con đông. Sau khi đẻ
và nuôi con cơ thể lợn mẹ thường bị hao mòn từ 10- 20% so với trước khi đẻ,
cần có biện pháp tránh sự hao mòn của cơ thể mẹ sau khi đẻ, không ép phối,
nếu lợn nái sau khi cai sữa con, mà cơ thể hao mòn gầy sút. Cần bỏ qua một
chu kỳ để lợn nái lại sức và nuôi được bền lâu hơn.
Theo John R. Diehl và cộng sự, (1996) [22]: Trong chăn nuôi công nghiệp,
có thể gây động dục đồng loạt bằng cách cai sữa đồng thời ở một nhóm lợn
mẹ. Sau cai sữa 3 - 5 ngày (lúc lợn con 45 - 50 ngày tuổi) lợn nái động dục trở
lại. Cho phối lúc này lợn sẽ thụ thai, trứng rụng nhiều đạt số lượng con cao.
Đối với lợn sau cai sữa từ 3 - 7 ngày thường động dục trở lại (Hội Chăn nuôi
Việt Nam, (2006) [19].
* Đặc điểm động dục của lợn cái
Sự lớn nhanh và phát triển mạnh của cơ quan sinh dục của lợn cái, đặc
biệt là buồng trứng và tử cung, xảy ra ở độ tuổi 6 - 9 tháng với lợn ngoại, 4 - 5
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
20
tháng với lợn nội. Cùng với sự phát triển của cơ quan sinh dục, quá trình rụng
trứng cũng được tăng dần theo độ tuổi, số lượng trứng rụng qua mỗi giai đoạn
khác nhau. Ở lợn cái, khi 15 tuần tuổi mới xuất hiện các nang trứng đầu tiên,
khi ở giai đoạn hậu bị trung bình rụng từ 8 - 14 trứng và số trứng rụng cao
nhất ở giai đoạn lợn cái cơ bản là 12 - 20 trứng. Số lượng trứng rụng còn phụ
thuộc vào giống và tuổi.
Biểu hiện động dục của lợn nái có thể chia làm 3 giai đoạn:
- Giai đoạn trước khi chịu đực (bắt đầu): Lợn nái thay đổi tính tình:
Kêu rít nhỏ, kém ăn, nhảy lên lưng con khác, âm hộ đỏ tươi, sưng mọng, có
nước nhờn chảy ra nhưng chưa chịu cho đực nhảy, không nên cho lợn phối
vào lúc này, vì sự thụ thai chỉ thể hiện sau khi có các hiện tượng trên từ 35 -
40 giờ, đối với lợn nội thường sớm hơn từ 25 - 30 giờ.
- Giai đoạn chịu đực (phối giống): Lợn kém ăn, đứng yên, mê ì, lấy tay
ấn trên lưng gần mông, lợn đứng im, đuôi vắt về một bên, đồng thời âm hộ
giảm độ sưng có nếp nhăn, màu sẫm hoặc mầu mận chín, có nước nhờn chảy
dính đục, con đực lại gần thì đứng im, chịu phối. Thời gian này kéo dài
khoảng 2 ngày, nếu được phối giống thì lợn sẽ thụ thai. Ở lợn nội thường
ngắn hơn, khoảng 28 - 30 giờ.
- Giai đoạn sau chịu đực (kết thúc): Các dấu hiệu động dục giảm dần,
lợn trở lại bình thường, ăn uống như cũ. Âm hộ giảm bớt độ mở, se nhỏ,
thâm, niêm dịch chảy ra ít, trắng đục và rất dễ đứt. Với lợn nái không được
thụ tinh, lại tiếp tục chu kỳ sinh dục mới. Lợn nái đã được thụ tinh thì thể
vàng tồn tại và chu kỳ động dục sẽ mất đi.
Để lợn nái đạt tỷ lệ thụ tinh cao, số con đẻ ra nhiều, cần tiến hành phối
giống đúng lúc, vì thời gian trứng tồn tại và có hiệu quả thụ thai rất ngắn,
trong khi đó tinh trùng có thể sống trong tử cung khoảng 45 - 48 giờ. Do vậy,
thời điểm phối giống thích hợp nhất là giữa giai đoạn chịu đực, đối với lợn nái
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
21
lai và ngoại cho phối vào cuối ngày thứ 3 và sáng ngày thứ 4, nếu tính từ lúc
bắt đầu động dục hoặc sau khi có hiện tượng chịu đực, khoảng 6 - 8 tiếng cho
phối giống, đối với lợn nái nội cần sớm hơn cho phối vào cuối ngày thứ 2 và
sáng ngày thứ 3
Thời gian động dục của lợn nái nội kéo dài 3 - 4 ngày, lợn nái lai, nái
ngoại 4 - 5 ngày. Do vậy, thời điểm phối giống tốt nhất là giai đoạn giữa
chịu đực: Nái lai và nái ngoại cho phối vào cuối ngày thứ 3 và sáng ngày
thứ 4, lợn nái nội cho phối vào cuối ngày thứ 2 và sáng ngày thứ 3, nếu
tính từ lúc bắt đầu động dục. Trong sản xuất, thụ tinh nhân tạo khi lợn có
triệu chứng chịu đực buổi sớm thì buổi chiều cho phối, nếu có triệu chứng
vào buổi chiều thì sớm hôm sau phối, nhằm “chặn đầu khoá đuôi” của thời
kỳ rụng trứng (Phạm Hữu Doanh và CS, 2006) [9]. Theo các kết quả
nghiên cứu của Nguyễn Thiện, Nguyễn Tấn Anh (1993) [45], trứng rụng
vào lúc 36 - 42 giờ sau khi xuất hiện động dục. Thời điểm phối giống thích
hợp là 24 đến 39h kể từ khi xuất hiện động dục.
1.1.6.2. Khả năng sinh sản của lợn nái
Lợn là loài đa thai có khả năng đẻ nhiều con mỗi lứa và nhiều lứa trong
một năm, mỗi lứa có thể đẻ từ 6 - 14 con tuỳ theo từng giống. Sở dĩ lợn đẻ
được nhiều con mỗi lứa là do số trứng rụng nhiều mỗi lần động dục, trung
bình từ 20 - 25 trứng. Tuy nhiên, số con đẻ ra thường thấp hơn số trứng rụng.
Nhìn chung, ta có thể tăng được số con đẻ ra mỗi lứa nếu tăng tỷ lệ thụ thai và
nuôi dưỡng chăm sóc lợn nái hợp lý khi có chửa.
Khả năng sinh sản của lợn nái được đánh giá theo những chỉ tiêu số
lượng và chỉ tiêu chất lượng đàn con.
- Số con sơ sinh sống đến 24h/lứa đẻ: Đây là chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật
rất quan trọng, nó phản ánh khả năng đẻ nhiều con hay ít con của giống, kỹ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
22
thuật chăm sóc nuôi dưỡng lợn nái có chửa và kỹ thuật thụ tinh nhân tạo của
dẫn tinh viên. Trong vòng 24h sau khi đẻ, những lợn con được sinh ra nếu
không đạt trọng lượng sơ sinh trung bình của giống, không phát dục hoàn toàn,
đầu to, mông bé… sẽ bị chết.
- Tỷ lệ nuôi sống: Trong một số ổ lợn, số lượng lợn sinh ra nhiều,
nhưng để đảm bảo cho sự phát triển bình thường của lợn con, người ta chỉ để
lại 1 số lợn con nhất định phù hợp với khả năng nuôi con của lợn mẹ để nuôi.
Tỷ lệ nuôi sống càng cao thì càng tốt.
- Số lợn con cai sữa/nái/năm: Chỉ tiêu này là sự đánh giá tổng quan
nhất đối với nghề nuôi lợn nái. Người nuôi lợn nái có thể thu lãi hay không là
nhờ số lượng lợn con cai sữa trên nái trên năm. Nếu tăng số lứa đẻ/nái/năm và
tăng số lượng lợn con cai sữa trong mỗi lứa thì số lượng lợn cai sữa/nái/năm
sẽ cao. Nó phụ thuộc vào khả năng tiết sữa của lợn mẹ, kỹ thuật chăn nuôi lợn
con theo mẹ, cũng như khả năng hạn chế các yếu tố bệnh tật cho lợn con.
Thời gian cai sữa dài hay ngắn phụ thuộc vào tập quán chăn nuôi, kỹ thuật
chăn nuôi và trình độ chế biến thức ăn cho lợn con. Ở các nước tiên tiến
người ta cho lợn con tách mẹ ở 21, 28 hoặc 35 ngày tuổi. Mục đích của việc
tách con sớm là để cho số lứa đẻ của một nái trên năm tăng lên đồng thời hạn
chế được một số bệnh hay lây lan từ mẹ sang con.
Ở Việt Nam số lượng lợn con cai sữa của đàn nái ngoại nuôi tại các cơ
sở giống lợn đạt khoảng 20 con/nái/năm. Lúc cai sữa lợn con đạt 6,5 kg/con,
như vậy, khối lượng lợn giống đạt: 20 con x 6,5 kg = 130 kg/nái (Võ Trọng
Thành, 2007) [42].
Theo các số liệu công bố của Vũ Kính Trực (1994) [54]: Trước năm
1980, mặc dù lợn Móng Cái có số con đẻ rất cao 11 - 12 con/ổ, nhưng do kỹ
thuật chăn nuôi lợn con bú sữa thấp, nên số lợn con cai sữa chỉ đạt 7 - 7,5
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
23
con/lứa. Ngày nay, số con cai sữa/lứa không ngừng tăng lên, tỷ lệ nuôi sống
đến cai sữa có thể đạt 85 - 95%.
Nguyễn Thiện và CS, (1996) [46] cho biết: Thời gian cai sữa lợn ở
nước ta thường là 60 ngày, số lợn con cai sữa trên lứa là một chỉ tiêu kinh tế
kỹ thuật rất quan trọng quyết định năng suất của nghề chăn nuôi lợn. Nó phụ
thuộc vào khả năng tiết sữa của lợn mẹ, kỹ thuật chăn nuôi lợn con theo mẹ,
cũng như khả năng hạn chế các yếu tố bệnh tật cho lợn con.
Các chỉ tiêu chất lượng đàn con bao gồm:
- Khối lượng sơ sinh toàn ổ: Là chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật quan trọng, nói
lên trình độ kỹ thuật chăn nuôi, đặc điểm của giống và khả năng nuôi thai của
lợn nái. Khối lượng sơ sinh/ổ là khối lượng được cân sau khi lợn con đẻ ra,
cắt rốn, lau khô và chưa cho bú sữa đầu. Khối lượng sơ sinh/ổ là khối lượng
của tất cả lợn con sinh ra còn sống và được phát dục hoàn toàn, khối lượng sơ
sinh/ổ cao thì tốt, lợn sẽ tăng trọng nhanh ở các giai đoạn phát triển sau
(Nguyễn Văn Thiện và CS, 1998) [49].
Các giống lợn khác nhau cho khối lượng sơ sinh khác nhau. Các giống
lợn nội (Móng Cái): 0,5 - 0,7kg/con, lợn Ỉ 0,45kg/con. Lợn ngoại Yorshise
nuôi tại Việt Nam 1,24 kg/con, lợn Duroc 1,2 - 1,5kg/con (Trần Văn Phùng
và CS (2004) [38].
Ngoài ra, khối lượng sơ sinh có liên quan và tỷ lệ thuận với khối lượng
của lợn nái. Vì thế, trong giai đoạn lợn nái chửa và nhất là thời gian 20 ngày
trước khi đẻ cần chăm sóc nuôi dưỡng cho lợn nái tốt, thức ăn đầy đủ các chất
dinh dưỡng như: Protein, vitamin, khoáng để cho thai phát triển tốt. Khi khối
lượng con sơ sinh cao, thì lợn có khả năng sinh trưởng, phát triển nhanh, khối
lượng con cai sữa sẽ cao và khối lượng xuất chuồng lớn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
24
- Khối lượng toàn ổ 21 ngày tuổi: Là chỉ tiêu đánh giá khả năng tăng
trọng của lợn con, và chỉ tiêu đánh giá khả năng tiết sữa của lợn mẹ. Khả
năng tiết sữa của lợn mẹ đạt cao nhất ở ngày thứ 21, sau đó sẽ giảm dần.
- Khối lượng toàn ổ cai sữa: Ngày nay kỹ thuật chế biến thức ăn cho
lợn con có bước phát triển lớn, tuỳ theo khối lượng lợn con khi cai sữa, thời gian
bắt đầu cai sữa: 24, 28 hay 35 ngày tuổi mà có loại thức ăn phù hợp. Do vậy, có
thể tách lợn con khỏi lợn mẹ sớm, mà không cần đợi lợn con tới 56 ngày hoặc 60
ngày tuổi mới cai sữa. Tuy nhiên, khối lượng cai sữa ở 21 hoặc 28 ngày tuổi chỉ
có tác dụng trong việc định mức dinh dưỡng cho chúng, còn thành tích sản xuất
của lợn nái thì phải cân khối lượng lợn con ở 56 ngày hoặc 60 ngày tuổi, thì mới
so sánh đánh giá được.
Trong chăn nuôi lợn con từ khi sơ sinh đến khi cai sữa có một ý nghĩa
rất quan trọng, vì đó chính là cơ sở vật chất để phát triển đàn lợn nái sinh sản
và nâng cao năng suất chăn nuôi. Khối lượng toàn ổ khi cai sữa ảnh hưởng rất
lớn tới khối lượng xuất chuồng.
Khối lượng cai sữa/ổ của các giống lợn khác nhau cho khối lượng
không giống nhau. Lợn Móng Cái có khối lượng cai sữa/ổ lúc 2 tháng tuổi là
58,20 - 60,88 kg; lợn F1 (Đại bạch x Móng cái) có khối lượng 60 ngày/ổ là
61,80 kg (Nguyễn Văn Thiện và cộng sự, 1998) [49].
Khối lượng cai sữa của lợn con cao hay thấp, sức khoẻ tốt hay xấu, sinh
trưởng phát dục nhanh hay chậm, đều có ảnh hưởng trực tiếp đến phẩm chất
đàn giống và khả năng nuôi thịt của lợn sau này. Nuôi dưỡng tốt lợn con còn
là cơ sở thuận lợi cho công tác chọn giống, chọn phối, là cơ sở tốt để con vật
có thể di truyền khả năng sinh sản cho đời sau.
Khối lượng cai sữa có liên quan chặt chẽ tới khối lượng sơ sinh, làm
nền tảng và điểm xuất phát cho khối lượng xuất chuồng. Vì vậy, để có khối
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
25
lượng cai sữa/ổ cao, ta phải chăm sóc, nuôi dưỡng tốt lợn có chửa và lợn con
bú sữa, đặc biệt là bổ sung thức ăn sớm cho lợn con, giúp cho lợn con sinh
trưởng phát triển mạnh, giảm sự hao mòn của lợn mẹ, đồng thời làm giảm tỷ
lệ lợn con mắc bệnh và chết xuống mức thấp nhất.
- Khoảng cách lứa đẻ: Là thời gian để hoàn thành một chu kỳ sinh sản.
Bao gồm: Thời gian chửa + thời gian nuôi con + thời gian chờ động dục lại
sau cai sữa và phối giống có chửa. Trong 3 yếu tố trên thì thời gian mang thai
là không thể thay đổi, còn thời gian nuôi con và thời gian chờ phối là có thể
thay đổi, để rút ngắn khoảng cách giữa 2 lứa đẻ. Khoảng cách lứa đẻ ngắn sẽ
làm tăng số lứa đẻ của nái/năm.
- Khả năng tiết sữa: Khả năng tiết sữa của lợn mẹ là chỉ tiêu phản ánh
khả năng nuôi con của lợn mẹ, đặc điểm của giống và kỹ thuật chăm sóc nuôi
dưỡng lợn nái của cơ sở chăn nuôi.
(Theo Nguyễn Khánh Quắc và CS, 1995) [39]: Sản lượng sữa và chất
lượng sữa ở các vị trí khác nhau của bầu vú cũng không giống nhau: các vú
trước ngực sản lượng sữa cao, phẩm chất tốt, các vú phía sau nhìn chung kém.
Trương Lăng (1996) [25] cho biết: Vú trước lượng sữa tiết nhiều hơn, trong
thời kỳ tiết sữa, lợn con bú vú sau được 32 - 39 kg thì vú trước cho 36 - 45 kg
sữa, vì oxytoxin theo máu đến tuyến vú phía trước nhiều hơn.
Vì vậy, để đảm bảo tính đồng đều toàn ổ lợn ta nên cố định những con
nhỏ hơn bú vú trước, cần tách riêng những lợn con đẻ trước chờ đến khi mẹ
đẻ xong mới chọn lợn và cho cả đàn vào bú. Nhất thiết phải cho lợn con bú
sữa đầu chậm nhất là 2 giờ sau khi đẻ, để lợn con có đủ kháng thể cho 5 tuần
đầu của cuộc sống, vì trong sữa đầu của lợn mẹ có chứa globulin giúp cho
cơ thể lợn con có sức đề kháng với ngoại cảnh.
Một số tác giả đã có nhận định chung rằng: Khả năng tiết sữa của lợn
mẹ không chỉ nói lên sản lượng sữa, mà còn nói đến chất lượng sữa, đặc biệt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
26
là sữa đầu liên quan đến sức kháng của đàn con: Theo Trịnh Văn Thịnh
(1978) [50] cho rằng: Thức ăn đầu tiên của lợn con là sữa đầu. Sữa đầu có
màu hơi vàng và đặc, tiết ra 2 -3 ngày đầu sau khi đẻ. Trong sữa đầu, thành
phần hóa học đều đậm đặc hơn sữa thường, lượng protein gấp 3 lần sữa
thường (17 -18% so với 5 - 6%). Theo Từ Quang Hiển và CS (2000) [17] thì
cần thiết phải cho lợn con bú sữa đầu, vì trong sữa đầu có hàm lượng albumin
và globulin cao hơn sữa thường, đây là chất chủ yếu giúp cho lợn con có sức
đề kháng. Nên cần chú ý cho lợn con sơ sinh bú sữa trong 3 ngày đầu, bảo
đảm được toàn bộ số con trong ổ được bú hết lượng sữa đầu của me. .
Theo Nguyễn Thiện và CS (1996) [46] cho biết: Thời gian cai sữa
lợn ở nước ta thường là 60 ngày, số lợn con cai sữa trên lứa là một chỉ
tiêu kinh tế kỹ thuật rất quan trọng, quyết định năng suất của nghề chăn
nuôi lợn. Nó phụ thuộc vào khả năng tiết sữa của lợn mẹ, kỹ thuật chăn
nuôi lợn con theo mẹ, cũng như khả năng hạn chế các yếu tố bệnh tật cho lợn con.
1.1.6.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sản xuất của lợn nái
(Theo Nguyễn Thiện và CS, 2005) [47] : Trong các nhân tố ảnh hưởng
tới sức sản xuất của lợn nái có thể chia thành 2 loại: Nhân tố di truyền và
nhân tố ngoại cảnh. Trong nhân tố ngoại cảnh có nhân tố tác động do thiên
nhiên, như thời tiết, khí hậu và nhân tố tác động do con người, như kỹ thuật chăn
nuôi, thụ tinh nhân tạo, cai sữa sớm, bố sung thức ăn cho lợn con…
Giống là yếu tố quyết định tới sức sản xuất của lợn nái. Giống với đặc
tính sản xuất của nó gắn liền với năng suất, giống khác nhau cho năng suất
khác nhau. Lợn Móng Cái đẻ 12 - 14 con/ lứa; Lợn Ỉ 8 - 10 con/lứa; Yorkshire
đẻ 10 - 13 con/lứa. Phương pháp nhân giống: Phương pháp nhân giống khác
nhau sẽ cho năng suất khác nhau. Cho nhân giống thuần chủng, thì năng suất
của chúng cũng chính là năng suất của giống đó. Cho lai giống thì năng suất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
27
sẽ cao hơn 2 giống gốc, các giống gốc càng thuần thì khi lai giống cho ưu thế
lai càng cao. Tuổi và khối lượng phối giống lứa đầu phụ thuộc vào đặc điểm
của giống và điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc, quản lý. Do đó, cần có kế
hoạch chăn nuôi ngay từ khi còn là lợn nái hậu bị.
Khả năng sản xuất của lợn nái bị ảnh hưởng rất nhiều bởi các lứa đẻ
khác nhau. Lợn cái hậu bị ở lứa đẻ thứ nhất cho số lượng con/ổ thấp, sau đó
từ lứa thứ 2 trở đi, số lợn con/ổ sẽ tăng dần lên cho đến lứa đẻ thứ 6, thứ 7 thì
bắt đầu giảm dần. Trong sản xuất, người ta thường chú ý giữ vững số lượng
lợn con/ổ ở các lứa từ thứ 6 trở đi bằng kỹ thuật chăn nuôi, quản lý, chăm sóc
sao cho lợn mẹ không tăng cân quá và cũng không gầy sút quá. Giữ vững
năng suất bằng cách kéo dài “thành tích” sinh sản của các lứa đẻ từ thứ 6 trở
đi cho đến lứa thứ 10, sẽ có lợi nhiều hơn là loại thải chúng sớm, để thay thế
bằng đàn nái hậu bị. Nếu tăng số lợn nái hậu bị đẻ lứa 1 vào đàn nái sinh sản
sẽ làm tăng giá thành của 1 kg trọng lượng lợn con cai sữa, làm giảm lợi
nhuận của cơ sở chăn nuôi.
Kỹ thuật phối giống có ảnh hưởng đến số lượng lợn con/lứa, chọn thời
điểm phối giống thích hợp sẽ làm tăng tỷ lệ thụ thai và số con sơ sinh/lứa.
Cho phối giống quá sớm hoặc quá muộn, thì tỷ lệ thụ thai và số con sinh ra/ổ
sẽ giảm sút nhanh chóng. Mặt khác, dinh dưỡng đối với lợn cái hậu bị có chửa
và lợn nái cơ bản có chửa là yếu tố quan trọng bậc nhất, ảnh hưởng tới thành
tích sản xuất của lợn nái. Một khẩu phần ăn đã cân bằng, đủ chất dinh dưỡng
sẽ đạt kết quả sinh sản cao nhất.
1.1.7. Cơ sở khoa học nghiên cứu một số chỉ tiêu huyết học ở lợn
Các chỉ tiêu sinh lý máu ở gia súc, gia cầm, nói chung khá ổn định, ít
biến đổi và được di truyền như các tính trạng khác của con vật. Việc nghiên
cứu chỉ tiêu sinh lý máu có ý nghĩa quan trọng trong việc phát hiện, dự đoán
hoặc có những kết luận chắc chắn hơn về các tính trạng sản xuất của gia súc.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
28
- Hồng cầu: Hồng cầu gia súc có hình đĩa, lõm hai mặt, không có nhân,
khác với hồng cầu của gia cầm hình bầu dục, có nhân.
Số lượng và kích thước của hồng cầu thay đổi theo giống, tuổi, tính
biệt, chế độ dinh dưỡng, trạng thái cơ thể và sinh lý… Hồng cầu có đường
kính từ 7 - 8 micromet, dày 2 - 3 micromet. Tổng diện tích bề mặt là 27 -
32m
2
trên 1 kg thể trọng. Số lượng hồng cầu thay đổi theo tuổi và giống của
gia súc như: lợn lớn có số lượng là 5,0 triệu/mm3 máu, lợn con là 4,7 - 5,8
triệu/mm3 máu, lợn Móng Cái là 5 - 6 triệu/mm3 máu, lợn Lang hồng 5,2 - 5,8
triệu/mm3 máu (Hoàng Toàn Thắng, Cao Văn, 2006) [44].
- Bạch cầu: Bạch cầu là những tế bào có nhân và bào tương, có khả
năng di động. Số lượng bạch cầu thường ít, khoảng 1000 lần so với hồng cầu,
được tính theo đơn vị nghìn/mm3 máu. Số lượng bạch cầu là một trong những
chỉ tiêu để xét đoán phản ứng đề kháng của cơ thể vật nuôi. Các đáp ứng miễn
dịch chủ yếu được thực hiện là do hoạt động của các bạch cầu. Các bạch cầu
này bao gồm các tế bào lympho B, T, lympho chứa hạt to trong tế bào chất,
các đại thực bào, các tế bào bạch cầu trung tính, bạch cầu ưa axít, các tế bào
phụ trợ, bạch cầu ưa kiềm, các tế bào mast, các tế bào dạng tấm và một số tế
bào của mô, (Đỗ Ngọc Liên, 1999) [28].
Theo Trịnh Bình và CS (2004) [4], bạch cầu có hạt gồm: Bạch cầu ưa
axit, bạch cầu ưa kiềm và bạch cầu trung tính; Bạch cầu không hạt gồm:
Lympho bào và bạch cầu đơn nhân lớn. Mỗi loại bạch cầu sẽ tăng, giảm trong
trạng thái sinh lý và bệnh lý nhất định. Lympho bào càng nhiều thì cơ thể có
sức đề kháng càng cao. Bạch cầu trung tính tăng khi cơ thể bị nhiễm vi khuẩn,
do chức năng thực bào mạnh. Bạch cầu đơn nhân lớn tăng khi nhiễm ký sinh
trùng, viêm nội tâm mạc cấp và lao. Bạch cầu ưa axit tăng khi bị cảm nhiễm,
dị ứng. Bạch cầu ái kiềm có tỷ lệ rất thấp, thực bào yếu, tham gia vào phản
ứng miễn dịch của cơ thể.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
29
Hoàng Toàn Thắng và Cao Văn (2006) [44] cho biết: Số lượng bạch
cầu thường ít ổn định và phụ thuộc vào trạng thái sinh lý của cơ thể. Số lượng
bạch cầu thường tăng sau khi ăn, khi đang vận động, khi con vật có thai, giảm
khi tuổi tăng lên. Số lượng bạch cầu của lợn lớn 20 nghìn/mm3 máu, lợn con 15
nghìn/mm
3
máu. Trong trường hợp bệnh lý, bạch cầu tăng mạnh khi bị viêm
nhiễm có sự suy tuỷ, bị nhiễm phóng xạ, tiếp xúc hoá chất, bị nhiễm độc
benzen... Vì vậy, xác định số lượng bạch cầu có ý nghĩa rất lớn trong chẩn đoán.
- Hemoglobin (Hb) (huyết sắc tố): Là thành phần chủ yếu của hồng cầu,
chiếm 90% vật chất khô của hồng cầu và đảm nhận các chức năng của hồng cầu.
Hemoglobin là một hợp chất protein phức tạp dễ tan trong nước, trong
thành phần cấu tạo có một phân tử globin (chiếm 96%) kết hợp với 4 phân tử
Hem (chiếm 4%). Phân tử globin gồm 4 chuỗi polypeptid trong đó có 2 chuỗi
và 2 chuỗi cùng 4 phân tử (Hem) gắn trên lưng 4 chuỗi polypeptid đó.
Globin có tính đặc trưng cho từng loài. Vì vậy, kiểu Hb mang đặc trưng di
truyền của phẩm giống, trong chăn nuôi, có thể xác định giống qua kiểu Hb
của từng cá thể. Ở đây số lượng hồng cầu phản ánh phẩm chất con giống, số
lượng hồng cầu càng nhiều, thì sức sống con vật càng tốt. Hàm lượng huyết
sắc tố đối với lợn lớn là 11,5 g%; lợn đực giống 12,2g%; lợn con 10,5g%.
Mỗi 1g Hb có khả năng bão hoà tối đa 1,34 ml O2. Từ đó có thể tính được
lượng O2 mà máu động vật kết hợp trong quá trình hô hấp, khi biết được hàm
lượng Hb trong máu.
1.2. Tình hình chăn nuôi lợn trên thế giới và ở Việt Nam
1.2.1. Tình hình chăn nuôi lợn trên thế giới
Nghề chăn nuôi lợn ra đời rất sớm, cách đây một vạn năm, chăn nuôi
lợn đã xuất hiện và phát triển ở Châu Âu và Châu Á. Sau đó, khoảng thế kỷ
XVI bắt đầu phát triển ở Châu Mỹ và thế kỷ XVIII phát triển ở Châu Úc, đến
nay, nuôi lợn đã trở thành một nghề truyền thống của nhiều quốc gia. Ở nhiều
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
30
nước, chăn nuôi lợn có công nghệ cao và có tổng đàn lợn lớn như: Nga, Anh,
Pháp, Nhật, Canada, Hà Lan, Đan Mạch, Thuỵ Điển, Đức, Ý, Úc, Trung
Quốc, Singapo, Đài Loan….Nói chung, ở các nước tiên tiến, nghề chăn nuôi
lợn phát triển lợn theo hình thức công nghiệp và đạt trình độ chuyên môn hoá
cao. Tuy vậy, đàn lợn trên thế giới phân bố không đều ở các châu lục. Có tới
70% số đầu lợn được nuôi ở châu Á và Âu, khoảng 30% ở các châu lục khác.
Trong đó, tỷ lệ đàn lợn được nuôi nhiều ở các nước có nghề chăn nuôi lợn
tiên tiến. Nơi nào có nhu cầu thịt lợn cao, nơi đó nuôi nhiều lợn. Tính đến
nay, chăn nuôi lợn ở các nước châu Âu chiếm khoảng 52%, Châu Á 30,4%,
Châu Úc 5,8%, Châu Phi 3,2%, Châu Mỹ 8,6%. Nhìn chung, sản phẩm ngành
chăn nuôi lợn được sử dụng rộng rãi khắp nơi trên thế giới (trừ ở các nước
theo tín ngưỡng hồi giáo). Giá trị dinh dưỡng cao của thịt lợn là nguồn thực
phẩm tốt cho con người, không những thế, nghề chăn nuôi lợn đã đem lại lợi nhuận
không nhỏ cho nền kinh tế của các nước này. (Nguyễn Quang Linh và CS, 2008) [29].
Một số kết quả đạt được ở một số nước trên thế giới:
* Hoa Kỳ
Tổng đàn lợn là 61,2 triệu con, tính đến tháng 12 năm 2005, tăng bình
quân 1,15% năm, trong đó có 6,01 triệu con là nái cơ bản, nái hậu bị và lợn
đực giống. Số lợn cai sữa trung bình 9,03 con/lứa, năm 2005 so với 8,96 năm
2004, tăng 0,87%. Số lợn cai sữa trung bình từ 7,50/lứa, ở các cơ sở chăn nuôi
có qui mô từ 1- 99 con lên 9,10 ở các trang trại với qui mô trên 5000 con.
Khoảng 39% tổng đàn lợn được nuôi theo kiểu gia công, trong năm 2005.
* Cộng đồng châu Âu với 25 thành viên
Về chí phí sản xuất cho một kg thịt lợn xẻ, Canada là nước có chi phí
thấp nhất (≈ 5,6 Đô la Mỹ), thứ hai là Hoa Kỳ (≈ 6,2 Đô la Mỹ) và cao nhất là
Liên hiệp Anh (≈ 7,8 Đô la Mỹ). Chi phí thức ăn cho một kg thịt xẻ thấp nhất
là Canada (≈ 3,15 Đô la Mỹ), thứ hai là Hà Lan (≈ 3,29 Đô la Mỹ) và cao nhất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
31
cũng là là Liên hiệp Anh (≈ 4,27 Đô la Mỹ). Hà Lan có chi phí thức ăn công
nghiệp/kg tăng trọng thấp nhất (2,6 kg), thứ hai là Liên hiệp Anh (2,65 kg) và
cao nhất là Canada (3,29 kg).
* Hà Lan
Ứng dụng các thành tựu công nghệ về giống lợn, thức ăn, quản lý trang
trại..., Hà Lan đã thành công trong việc đưa tỉ lệ thịt xẻ trung bình của tất cả
các loại lợn được giết mổ từ 53,2% năm 1990, lên 64,4 % năm 2004. Tỷ lệ
thịt loại ngon và rất ngon tăng từ 83% năm 1989, lên trên 90% năm 2004.
Năm 2005, Công ty Topigs của nước này thông báo tỉ lệ lợn con cai sữa trung
bình/nái/năm tăng từ 24 con lên 25 con chỉ sau 5 năm; tỉ lệ lợn sơ sinh còn
sống trung bình là 12,1con /lứa đẻ; tỉ lệ chết trước cai sữa trung bình là
11,8%; và số lứa đẻ trung bình là 2,36/nái/năm. Các đàn lợn nái tốt nhất
chiếm 10%, sinh trung bình 27,9 con/nái/năm, trong đó có 12,7 con còn
sống/lứa, tỉ lệ lợn con chết trung bình là 9,8 %, đạt số lứa đẻ trung bình là
2,34 lứa/nái/năm.
* Trung Quốc
Ở châu Á, Trung Quốc đứng thứ nhất về sản xuất thịt lợn và đứng thứ 4
về sản xuất thịt bò trên thế giới. Nước này là một thị trường nhập khẩu lớn cả
thịt lợn và thịt bò. Tổng đàn lợn của Trung Quốc tăng từ 454 triệu con năm
2001, lên 519 vào tháng 1 năm 2006, tăng trưởng bình quân 3,58% năm. Tỉ lệ
lợn nái ở Trung Quốc chiếm 9,80% tổng đàn lợn năm 2005. Ở Trung Quốc,
chăn nuôi qui mô nhỏ, với số lượng dưới 90 con/cơ sở, chiếm tới 70-80%.
Trung quốc sẽ trở thành nước nhập khẩu thịt lợn và các sản phẩm chăn nuôi
khác lớn nhất trong những năm tới, để đáp ứng như cầu trong nước, do tăng
dân số, thu nhập và tốc độ đô thị hoá cao. Hiện nay, lợn hướng nạc chiếm
khoảng 25-30% tổng đàn lợn đưa vào giết mổ. Trung bình mỗi nái đẻ 1,7l
lứa/năm với tỉ lệ sống chỉ có 70-85%, trong khi đó, ở Hoa Kỳ tỉ lệ trung bình
là 2,3 lứa/nái/năm và tỉ lệ sống là 95%.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
32
* Thái Lan
Thái Lan cũng là một nước sản xuất thịt lợn chủ yếu của thế giới và
đang chuyển đổi từ các trang trại qui mô nhỏ, thành các xí nghiệp chăn nuôi
lớn. Các công ty lớn quyết định tới sự tăng trưởng sản lượng thịt lợn tại Thái
Lan. Bốn công ty lớn là CP, Betagro, Laemthong và Mittraparp đã liên kết với
nhau và chiếm tới 20% tổng sản lượng thịt lợn. Tổng đàn lợn của Thái Lan
đạt 15,44 triệu con năm 1999, tăng lên 16,55 triệu con năm 2002 và năm 2003
là 16,76 triệu con. Năm 2003, Thái Lan xuất chuồng khoảng 10,5 triệu
lợn/năm, với trọng lượng hơi trung bình đạt 100 kg. Tổng đàn nái của nước
này khoảng 826.087, với số lợn con cai sữa trung bình đạt 17 con/nái/năm, tỉ
lệ nái thay thế là 33%. (Theo Cục chăn nuôi, 2006) [5].
Sản xuất thịt lợn trên thế giới trong những năm gần đây
Chỉ tiêu 2006 2007 2008 Tăng 2008 so với 2007
Triệu tấn %
Sản xuất thịt lợn 101.7 98.8 100.6 1.8
Buôn bán thịt lợn 5.0 5.0 5.3 5.2
Nguồn: FAO World Food Outlook, 2008 [13].
1.2.2. Tình hình chăn nuôi lợn trong nước
Chăn nuôi lợn ở Việt Nam có từ lâu đời. Theo một số tài liệu của khảo
cổ học, nghề chăn nuôi lợn ở Việt Nam có từ thời đồ đá mới, cách đây khoảng
1 vạn năm. Từ khi con người biết sử dụng công cụ lao động là đồ đá, họ đã
săn bắn, hái lượm và bắt được nhiều thú rừng, trong đó có nhiều lợn rừng. Khi
đó, họ bắt đầu có ý thức trong việc tích trữ thực phẩm và lương thực cho
những ngày không săn bắn và hái lượm được và họ đã giữ lại những con vật
đã săn bắt được và thuần dưỡng chúng. Cũng từ đó, nghề chăn nuôi lợn đã
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
33
được hình thành. Trải qua thời kỳ Bắc thuộc và dưới ách đô hộ của phong
kiến phương Bắc, đời sống của nhân dân ta rất khổ cực, ngành nông nghiệp
nói chung và chăn nuôi lợn nói riêng không phát triển được. Vào khoảng cuối
thế kỷ XVIII, khi có trao đổi văn hóa giữa Trung Quốc và Việt Nam, chăn
nuôi lợn được phát triển. Dân cư phía Bắc đã nhập các giống lợn lang Trung
Quốc vào nuôi tại các tỉnh miền Đông Bắc bộ. Tuy nhiên, trong thời kỳ này,
trình độ chăn nuôi lợn vẫn còn rất thấp. Trong thời kỳ Pháp thuộc, khoảng
1925, Pháp bắt đầu cho nhập các giống lợn châu Âu vào nước ta như giống
lợn Yorkshire, Berkshire và cho lai tạo với các giống lợn nội nước ta như lợn
Móng Cái, lợn Ỉ, lợn Bồ Xụ. Cùng với việc tăng nhanh về số lượng, chất
lượng đàn lợn cũng không ngừng được cải thiện. Các phương pháp nhân
giống thuần chủng và các phép lai được thực hiện. Trong thời gian từ 1960,
chúng ta đã nhập nhiều giống lợn cao sản thông qua sự giúp đỡ của các nước
XHCN anh em. Từ năm 1986 đến nay, nước ta chuyển đổi nền kinh tế,
chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi phù hợp với môi trường sinh thái và
nông nghiệp sản xuất hàng hóa, để tham gia thị trường khu vực (AFTA) và
tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Chăn nuôi lợn trong cả nước đã có
nhiều thành công đáng kể, như đàn lợn đã tăng tỷ lệ nạc từ 33,6% ở lợn nội,
lên 40,6% ở lợn lai (miền Bắc) và 34,5% ở lợn nội, lên 42% tỷ lệ nạc ở lợn
lai (miền Nam). Đối với lợn lai 3 máu ngoại (Landrace x Yorkshire) x Duroc
tỷ lệ nạc trong nghiên cứu đạt 58-61%, trong đại trà sản xuất đạt 52-56%.
Năm 2001, cả nước có 21.741 ngàn con lợn, sản xuất 1513 ngàn tấn thịt lợn
hơi, xuất khẩu 27,3 ngàn tấn thịt xẻ, chiếm 2,6% số thịt lợn sản xuất ra.
(Theo Nguyễn Đăng Vang, 2002), (dẫn theo Nguyễn Quang Linh và CS, 2008) [29].
Năm 2000, Việt Nam đã xuất khẩu được 12.200 tấn thịt lợn và năm
2001 là gần 30 ngàn tấn, đạt kim ngạch xuất khẩu khoảng 40 triệu USD. Ba
mặt hàng thịt lợn xuất khẩu là lợn sữa, lợn mảnh và lợn choai, trong đó sản
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
34
phẩm lợn choai có tỷ lệ nạc cao 50 - 55% đã có nhiều thuận lợi hơn về thị
trường và giá cả xuất khẩu. Ta thường xuất khẩu thịt lợn mảnh vào thị trường
Liên bang Nga, tuy nhiên, số lượng giảm dần, do khó khăn về giá cả và
phương thức thanh toán. Thịt lợn sữa và thịt lợn choai ta xuất khẩu sang Hồng
Kông, Trung Quốc và Malayxia. Việc xuất khẩu thịt lợn nhìn chung còn ít về
số lượng và bị cạnh tranh về giá cả rất gay gắt với thịt lợn của Braxin và
Trung Quốc. Mặc dù ở gần một số thị trường tiêu thụ chính như Trung Quốc,
Nga, Hồng Kông, Nhật Bản... nhưng sản xuất và xuất khẩu thịt lợn của Việt
Nam vẫn chưa có được sức cạnh tranh, Cục Chăn nuôi (2006) [5].
* Kết quả sản xuất chăn nuôi lợn năm 2008
Số liệu thống kê 1/4/2008, tổng đàn lợn cả nước có mặt 25,58 triệu con
giảm 3% so với cùng kỳ năm trước, đàn lợn nái 3,76 triệu con giảm 2,1%.
Vùng có tỷ lệ giảm cao là ĐBSCL 9,7%, DHNTB 8,9%, BTB 5,6%, TN và
ĐBSH 4%. Chăn nuôi lợn đã có dấu hiệu khôi phục nhanh, theo báo cáo của
các địa phương tổng đàn lợn cả nước năm 2008 có thể đạt 27 triệu con tăng
1,5% năm 2007, sản lượng thịt ước đạt 2,7 triệu tấn tăng 5,8%, Cục chăn nuôi (2008) [6].
Trải qua quá trình chọn lọc, các giống lợn ở nước ta đã thích nghi với
điều kiện kinh tế sinh thái của địa phương. Chúng có các đặc điểm di truyền
quý giá, đó là khả năng sử dụng các loại thức ăn thô, nghèo dinh dưỡng, tính
chống chịu các bệnh nhiệt đới nhất là bệnh ký sinh trùng. Một số giống đẻ
nhiều con và phẩm chất thịt ngon, một số giống thích nghi với các vùng núi
cao nhiệt độ tương đối thấp như lợn Mẹo, lợn Mường Khương, một số chịu
được với môi trường ẩm ướt như lợn Ỉ, Móng Cái. Đây là đặc tính nguồn gen
rất quý của giống lợn nội nước ta, do đó nó được sử dụng là nguồn cung cấp
gen để lai tạo giống (Lê Viết Ly, 1994) [31].
Không ngừng nâng cao chất lượng, số lượng con giống và sản phẩm
trong chăn nuôi lợn, kịp thời đáp ứng nhu cầu về tiêu dùng và xuất khẩu. Các
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
35
nhà khoa học chuyên ngành, nhà chăn nuôi đã và đang tích cực tìm kiếm
nhiều giải pháp trên nhiều phương diện về sinh học, hoá học, lý học…. nghiên
cứu về con lợn.
Kết quả nghiên cứu của Lê Thanh Hải, Nguyễn Văn Đồng và CS
(2008) [14] đã cho biết khả năng sinh trưởng và cho thịt của lợn thương phẩm
3,4 và 5 giống ngoại nuôi tại trung tâm nghiên cứu lợn Thuỵ Phương, lợn lai
giữa 3 giống L, Y và Duroc có nguồn gốc từ Mỹ. Các dòng lợn thương phẩm
này đều được thị trường chấp nhận và ưa chuộng. Kết quả đã cho thấy, tỷ lệ
nạc của nhóm lợn lai 3 giống đạt 59,83 %, tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng
(kg) là 2,70; Độ dày mỡ lưng (mm) 11,27; Diện tích cơ thăn 46,24cm2; Tăng
trọng bình quân/ngày (g) 756,16; tỷ lệ móc hàm 76,75%. Nhóm lợn lai 3 máu
này mang đầy đủ tiềm năng di truyền cao về khả năng tăng khối lượng, khả
năng chuyển hoá thức ăn và tỷ lệ nạc.
Với nguy cơ biến mất của các giống gia súc, gia cầm nội, năm 1989,
Bộ Khoa học và Công nghệ đã chính thức thực hiện: “Đề án bảo tồn nguồn
gen vật nuôi Việt Nam”. Từ đó đến nay, các bộ và các cơ quan tổ chức có
liên quan đã làm được nhiều việc từ kiểm kê quỹ gen vật nuôi, phát hiện một
số giống mới, xây dựng hệ thống lưu giữ quỹ gen, xuất bản 4 đầu sách và tạp
chí chuyên đề, đề xuất các chủ trương và biện pháp bảo vệ nguồn gen vật
nuôi bản địa.
Tác giả Lê Viết Ly (1999) [32] cho biết: Hiện nay đề án bảo tồn nguồn
gen vật nuôi Việt Nam đã và đang triển khai tốt chương trình lưu giữ quỹ gen
một số giống có nguy cơ biến mất là lợn Mẹo ở Nghệ An, lợn Sóc ở Buôn Mê
Thuột và triển khai nhiều biện pháp đồng bộ để bảo vệ, giữ gìn khai thác nguồn
gen đã phát hiện được.
Tại tỉnh Quảng Trị, ngoài những giống lợn cho năng suất cao còn có
một giống lợn tồn tại và gắn bó từ lâu đời với người dân tộc Pa-cô, Vân Kiều.
Giống lợn này có khả năng dùng được những loại thức ăn thô xanh cao, chịu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
36
được khí hậu khắc nghiệt, phương thức chăn nuôi đơn giản, khả năng chống
đỡ bệnh tật tốt, thịt thơm ngon, có thể sánh ngang với thịt lợn rừng. Đó chính
là giống lợn Vân Pa. Năm 2004, giống lợn Vân Pa được chính thức có tên gọi
trong “Át Lát các giống vật nuôi ở Việt Nam”-Bộ NN&PTNT- với các thông
tin: “Giống lợn Vân Pa hay có tên gọi khác là lợn Mini. Có nguồn gốc từ vật
nuôi của người dân tộc Vân Kiều, Pa Cô, tỉnh Quảng Trị. Phân bổ chủ yếu ở
các huyện Hướng Hóa, Đakrông, Gio Linh, Vĩnh Linh (tỉnh Quảng Trị). Hình
thái có sắc lông da đen bạc, thỉnh thoảng có màu phớt vàng hung, lưng thẳng,
thân hình gọn, đầu và cổ to, mõm nhọn, tai nhỏ. Thịt ngon, ít mỡ...”, theo
Trần Thị Hân (2008) [16].
Trước nhu cầu phát triển kinh tế cũng như để cung cấp 70% nhu cầu
thịt lợn cho người tiêu dùng, con lợn cổ truyền Việt Nam đang có nguy cơ bị
tuyệt chủng. Theo một số tài liệu ghi chép, Việt Nam có khoảng 60 giống lợn,
nhưng hiện vẫn chưa có con số nào thống kê chính thức lợn giống của Việt
Nam còn bao nhiêu. Bởi vì, trong thời gian qua, một số giống lợn địa phương
bị mai một. Hiện chúng ta chỉ còn lợn Móng Cái. Còn lợn Ỉ, lợn Mường
Khương đang có nguy cơ tuyệt chủng.
Một số địa phương miền núi vẫn còn những giống lợn bản địa, như lợn
Cỏ Nghệ An, lợn Mán, lợn Sóc (Tây Nguyên), nhưng vẫn chưa có đợt khảo
sát để xác minh lợn ở các địa phương thuộc một giống hay nhiều giống. Gần
đây, nước ta có nhập rất nhiều giống lợn ngoại, do vậy, người dân thường
nuôi lợn lai tạo, mà hiện cũng chỉ còn từ 5-6 giống. Đặc điểm giống lợn
truyền thống Việt Nam rất nhiều mỡ và sinh trưởng chậm. Do vậy, những
giống lợn truyền thống này không phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế.
Cũng chính vì thế, hiện nay, người dân Viêt Nam có xu hướng nuôi những
con lợn lai nhập ngoại. Điều này đã khiến cho Việt Nam đang mất dần đi
những giống lợn bản địa. Trước thực tiễn trên, trong hoàn cảnh nước ta hiện
nay, đúng vào năm Đinh Hợi, năm đầu tiên Việt Nam là thành viên của Tổ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
37
chức Thương mại Thế giới WTO, các nhà khoa học đang có thêm một hướng
nghiên cứu mới về con lợn. Đó là nghiên cứu nuôi lợn sữa từ một số giống
lợn cổ truyền của Việt Nam, như lợn Móng Cái... để xuất khẩu sang các nước
châu Á. Một hướng khác là xuất khẩu lợn nuôi làm cảnh sang Mỹ và các
nước Châu Âu. Như vậy, con lợn nội địa Việt Nam hiện nay không những có
giá trị ở trong nước, mà còn có ý nghĩa về mặt văn hoá ở ngoài nước. Vì vậy,
cần phải bảo tồn và phát huy những giá trị đích thực của con lợn nội địa Việt
Nam.Theo tác giả Đặng Vũ Bình (2007) [3].
1.3. Vài nét về đặc điểm tự nhiên kinh tế xã hội của huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng
Bảo lạc là một huyện vùng cao biên giới phía Đông Bắc của Tổ quốc,
nằm trong khoảng toạ độ địa lý từ 22034 phút đến 23008 phút vĩ độ Bắc,
205
031 phút đến 105053 phút độ kinh đông. Nằm về phía tây của tỉnh Cao
Bằng, trung tâm Bảo Lạc cách thị xã Cao Bằng 128 km theo đường Quốc lộ
34. Địa hình huyện Bảo Lạc phổ biến là núi cao và núi trung bình. Nhìn
chung, địa hình phức tạp, chia cắt mạnh, các khu vực bằng và thung lũng
chiếm tỷ lệ nhỏ. Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nên khí hậu của
Bảo Lạc là sự kết hợp khí hậu vùng nhiệt đới gió mùa với tính chất khí hậu
vùng cao cận nhiệt đới. Hàng năm có hai mùa rõ rệt: mùa mưa và mùa khô.
Mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến hết tháng 10, tập trung 90% lượng mưa cả
năm; mùa khô bắt đầu từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, lượng mưa không
đáng kể, khí hậu mát và lạnh, độ ẩm thấp. Nhiệt độ trung bình mùa mưa là
26
0
C và mùa khô là 18,8
0C, độ ẩm không khí trung bình năm là 84%. Do sự
chênh lệch về độ cao giữa 2 vùng, nên hình thành tiểu vùng khí hậu á nhiệt
đới ở một số xã vùng cao trong huyện.
Bảo Lạc có truyền thống lịch sử lâu đời, vốn có nền văn hoá đậm đà
bản sắc dân tộc trong đời sống văn hoá tinh thần cũng như văn hoá trong hoạt
động sinh sống. Toàn huyện có 5 dân tộc chủ yếu cùng sinh sống. Dân tộc
Tày chiếm 28,15% dân số toàn huyện; dân tộc Nùng chiếm 23,07%, dân tộc
Mông chiếm 15,52%, dân tộc Dao chiếm 14,36%, dân tộc Kinh chiếm 0,73%.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
38
Phần lớn các dân tộc thiểu số có trình độ dân trí thấp, đời sống kinh tế chủ
yếu dựa vào chăn nuôi và trồng trọt tại gia đình, mức thu nhập thấp. Bảo Lạc
là một huyện miền núi nghèo nằm trong 61 huyện nghèo của cả nước. Chính
vì vậy, huyện đã được nhà nước quan tâm, một số chính sách lớn để phát triển
kinh tế nông thôn miền núi nghèo. Với nhiều dự án như: Dự án giảm nghèo,
Dự án cải tạo và phát triển chăn nuôi… và một số dự án nước ngoài khác, làm
cho nền kinh tế xã hội của huyện Bảo Lạc phát triển khá ổn định, giao thông,
cơ sở vật chất hạ tầng có thuận lợi hơn. Trong những năm gần đây, ngành
chăn nuôi huyện Bảo Lạc được xác định là chuyển dịch mạnh trong cơ cấu
sản xuất nông nghiệp, giá trị sản lượng tăng nhanh, dẫn tới giá trị nông nghiệp
cũng tăng nhanh, nâng cao thu nhập của người nông dân đã làm thay đổi diện
mạo ngành chăn nuôi của huyện. Trong đó chăn nuôi lợn đã có những tiến bộ
đáng kể, nhân dân cũng đã có ý thức tích luỹ và nắm bắt được lợi thế của việc
phát triển đàn lợn bản địa của địa phương mình, nên giống lợn bản địa vẫn tồn
tại và phát triển tại các xã trong huyện cho đến tận bây giờ. Số lượng đàn lợn
năm 2008 có 137.826 con, chủ yếu là giống lợn bản địa, phân bố khắp trong
địa bàn huyện, được các hộ nông dân nuôi dưỡng theo tập quán chăn nuôi của
địa phương, mùa khô thả rông và giao phối tự nhiên, mùa vụ nhốt chuồng.
Thức ăn chủ yếu là rau rừng hỗn tạp và lượng thức ăn tinh rất ít, năng suất
chăn nuôi lợn rất thấp. Vì vậy, cần có biện pháp nghiên cứu, khắc phục, góp
phần phát triển nông nghiệp nông thôn ở miền núi còn nhiều khó khăn (Uỷ
ban nhân dân huyện Bảo Lạc (2005) [58].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
39
Chƣơng 2
ĐỐI TƢỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đàn lợn Bảo lạc nuôi tại một số xã của huyện Bảo Lạc
2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
2.2.1. Địa điểm nghiên cứu
Đề tài được tiến hành tại ba xã: Cô Ba, Bảo Toàn, Khánh Xuân huyện
Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng.
2.2.2. Thời gian nghiên cứu
Tháng 11 năm 2007 đến tháng 3 năm 2009.
2.3. Nội dung nghiên cứu
- Tình hình và tập quán chăn nuôi lợn Bảo Lạc.
- Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học và sức sản xuất của lợn Bảo Lạc.
2.4. Phƣơng pháp nghiên cứu
2.4.1.Phương pháp điều tra
- Điều tra qua số liệu thống kê hàng năm về tình hình chăn nuôi lợn của
Phòng thống kê huyện Bảo Lạc.
- Điều tra, thống kê màu sắc lông của lợn, mô tả đặc điểm ngoại hình
và minh hoạ bằng hình ảnh.
- Lập phiếu điều tra với các thông tin cần thiết về tập quán chăn nuôi
lợn Bảo Lạc.
2.4.2. Phương pháp theo dõi trực tiếp
Tại 3 xã, chọn mỗi xã 3 xóm, mỗi xóm 3 hộ có số đầu lợn trên 10 con
trở lên, trong đó có ít nhất 1 nái sinh sản. Lập phiếu theo dõi các chỉ tiêu sinh
trưởng và sinh sản, kết hợp với các hộ gia đình để theo dõi.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
40
2.4.3. Phương pháp mổ khảo sát lợn thịt
Dựa theo phương pháp mổ khảo sát của Nguyễn Văn Thiện và CS
(1998) [49].
2.4.4. Phương pháp phân tích
- Phân tích thành phần hoá học của thịt nạc tại Viện Khoa học sự sống,
Đại học Thái Nguyên.
- Phân tích các chỉ tiêu huyết học của lợn. Thông qua máy xét nghiệm
huyết học tự động 18 thông số của Bệnh viện đa khoa tỉnh Cao Bằng.
2.5. Các chỉ tiêu và phƣơng pháp nghiên cứu
2.5.1. Tình hình phát triển và tập quán chăn nuôi lợn Bảo Lạc
- Biến động đàn lợn qua các năm.
- Cơ cấu đàn lợn tại 3 xã điều tra.
- Hiện trạng và tập quán chăn nuôi lợn Bảo Lạc.
2.5.2. Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học của lợn Bảo Lạc
- Đặc điểm ngoại hình màu sắc lông da của lợn Bảo Lạc. Thống kê tính
tỷ lệ và minh hoạ bằng hình ảnh.
- Chỉ tiêu về huyết học: Lấy máu lợn ở tĩnh mạch rìa tai bằng xy lanh
có tráng chất chông đông máu. Xác định số lượng hồng cầu, bạch cầu và
công thức bạch cầu; Xác định hàm lượng huyết sắc tố (Hb) bằng máy xét
nghiệm huyết học tự động 18 thông số Moden Celltac của hãng Nihok
Kohden, tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Cao Bằng.
2.5.3.Chỉ tiêu sinh sản và khả năng sản xuất của lợn nái sinh sản Bảo Lạc
2.5.3.1.Chỉ tiêu sinh lý sinh dục:
+ Tuổi động dục lần đầu (ngày): Theo dõi và xác định khoảng thời gian
kể từ sơ sinh đến khi động dục lần đầu. Kết hợp với hộ gia đình trực tiếp quan
sát và ghi chép vào biểu.
+ Khối lượng động dục lần đầu (kg/con): Cân khối lượng của lợn cái
khi động dục lần đầu.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
41
+ Tuổi phối giống lần đầu (ngày): Theo dõi trực tiếp và xác định
khoảng thời gian từ sơ sinh đến khi phối giống lần đầu tại những hộ gia đình
được chọn ngẫu nhiên để nghiên cứu.
+ Khối lượng phối giống lần đầu (kg/con): Cân khối lượng lợn cái khi
phối giống lần đầu.
+ Thời gian động dục (ngày): Theo dõi trực tiếp và xác định khoảng thời
gian khi lợn có biểu hiện bắt đầu động dục đến khi kết thúc biểu hiện động dục.
+ Chu kỳ động dục (ngày): Là khoảng thời gian tính từ lần động dục
này đến lần động dục kia. Theo dõi trực tiếp và ghi chép.
2.5.3.2.Chỉ tiêu về khả năng sản xuất của lợn nái sinh sản Bảo lạc
Theo tiêu chuẩn Việt Nam (2008) [51 ].
+ Số con sơ sinh/ổ (con): Đếm số con đẻ ra còn sống, số con đẻ ra đã
chết và số con thai gỗ.
+ Số con sơ sinh sống đến 24 h/lứa đẻ: Đếm số con còn sống đến 24h
kể từ khi con mẹ đẻ xong con cuối cùng.
+ Tỷ lệ nuôi sống của lợn con tới cai sữa (%):
Tỷ lệ nuôi sống tới
cai sữa (%)
=
Số con sống tới cai sữa (con)
100
Số con đẻ ra (con)
+ Khối lượng toàn ổ 30 ngày tuổi (kg): Cân tổng khối lượng của tất cả
các lợn con do con nái đó nuôi đến 30 ngày tuổi.
+ Khối lượng toàn ổ lúc cai sữa (60 ngày tuổi), (kg): Cân khối lượng
toàn ổ lúc 60 ngày tuổi.
+ Khả năng tiết sữa của lợn mẹ. Tính gián tiếp thông qua việc cân khối
lượng của đàn con tại các ổ lợn được theo dõi. Theo Nguyễn Thiện, Phạm Sỹ
Lăng và CS (2005) [48], tính khả năng tiết sữa của lợn mẹ bằng công thức:
Khả năng tiết sữa M = M1 + M2
M1 = (W30 - Wss) x 3
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
42
W30 là khối lượng toàn ổ lúc 30 ngày tuổi.
Wss là khối lượng toàn ổ lúc sơ sinh.
M2 = 4/5M1
+ Thời gian động dục lại sau đẻ (ngày): Là thời gian tính từ lúc lợn nái
đẻ đến khi động dục.
+ Khoảng cách lứa đẻ (ngày): Là khoảng thời gian từ lứa đẻ này tới lứa
đẻ kế tiếp. Gồm thời gian nuôi con + thời gian chờ phối lại sau khi tách con
đến có chửa + Thời gian chửa. Tính số lượng ngày và ghi chép sổ sách.
+ Số lứa đẻ bình quân/nái/năm (lứa): Xác định số lứa đẻ/nái/năm của
toàn bộ lợn nái được chọn để theo dõi rồi tính bình quân chung.
2.5.4. Chỉ tiêu sinh trưởng và khả năng sản xuất của lợn nuôi thịt Bảo Lạc
2.5.4.1.Chỉ tiêu sinh trưởng của lợn con, lợn nuôi thịt và lợn cái hậu bị:
- Sinh trưởng tích luỹ (kg/con):
Khối lượng lợn con từ sơ sinh đến 8 tuần tuổi và khối lượng lợn nuôi
thịt, lợn cái hậu bị được xác định bằng cách cân khối lượng vào các thời điểm
đúng quy định, lợn con cân sau 1 tuần, lợn thịt và lợn cái mỗi tháng cân 1 lần.
Lợn nuôi thịt cân từ 3 tháng tuổi đến 12 tháng tuổi. Lợn cái hậu bị cân từ lúc
3 tháng tuổi đến 8 tháng tuổi; Cân bằng cân treo, cân vào buổi sáng sớm trước
khi ăn, kết hợp với các hộ gia đình để cân và theo dõi, ghi chép số liệu. Lợn
thịt và lợn nái hậu bị trên 50 kg, xác định khối lượng thông qua các chiều đo,
khi đó để lợn đứng ở vị trí bằng phẳng không ngẩng đầu hoặc không cúi đầu
và ghi chép số liệu vào biểu theo dõi. Được tính theo công thức của Trương Lăng (1997) [26].
KL = VN
2
x DT x 87,5
Trong đó: KL: Khối lượng (kg)
DT: Dài thân (m)
VN: Vòng ngực (m)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
43
Khối lượng cơ thể bình quân qua các tuần và tháng là chỉ tiêu sinh
trưởng tích luỹ về khối lượng, hay còn là khối lượng cơ thể qua các thời điểm
theo dõi (tuần tuổi, tháng tuổi). Đó là chỉ tiêu đầu tiên phải xác định.
- Sinh trưởng tuyệt đối và sinh trưởng tương đối, được tính theo công
thức của Nguyễn Thiện, Phạm Sỹ Lăng và CS (2005) [48].
+ Sinh trưởng tuyệt đối (g/con/ngày)
Là khối lượng cơ thể tăng lên trên một đơn vị thời gian và được tính
theo công thức sau:
A =
W1 - W0
t1 - t0
Trong đó: A là Sinh trưởng tuyệt đối (g/con/ngày)
W0, t0: Là khối lượng, kích thước đầu kỳ, ứng với thời gian t0.
W1, t1: Là khối lượng, kích thước cuối kỳ, ứng với thời gian t1.
+ Sinh trưởng tương đối (%)
Trong đó: R là sinh trưởng tương đối (%)
W0 là khối lượng đầu kỳ (kg/con)
W1 là khối lượng cuối kỳ (kg/con).
2.5.4.2.Chỉ tiêu về khả năng sản xuất thịt của lợn Bảo Lạc
Dựa vào các chỉ tiêu mổ khảo sát chất lượng thân thịt để đánh giá khả
năng sản xuất thịt của lợn Bảo Lạc.
Theo Nguyễn Văn Thiện và CS (1998) [49] cho biết: phương pháp mổ như sau:
W1 - W0
R(%) = x 100
W1 + W0
2
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
44
- 24 giờ trước khi giết thịt không cho gia súc ăn.
- Cân khối lượng sống.
- Chọc tiết (Rạch lớp da và mỡ tìm động mạch cổ để cắt, máu sẽ chảy
từ từ và chảy hết).
- Cạo lông: Dội từ từ nước nóng 70 đến 800C, khi thấy dễ nhổ lông và
bóc được lớp màng biểu bì chết bên ngoài là được. Sau đó rửa sạch, mổ lợn
để xác định các chỉ tiêu.
- Mổ: Dùng dao nhọn thật sắc rạch đúng giữa đường trắng, từ cổ xuống
đến hậu môn, sau đó lấy hết nội tạng ra, không làm thủng ruột.
- Cân khối lượng sau khi mổ kể cả 2 lá mỡ: gọi là khối lượng móc hàm.
Tỷ lệ móc hàm (%) =
Khối lượng thịt móc hàm (kg)
100
Khối lượng sống (kg)
- Cắt đầu và 4 chân: Đầu cắt gần sát hai gốc tai rồi cân trọng lượng đầu.
Chân: cắt đúng khớp khuỷu chân, cân trọng lượng 4 chân. Cân trọng lượng
thịt xẻ (bỏ đầu, 4 chân, nội tạng).
P thịt xẻ = P móc hàm - ( Pđầu + P4 chân)
Tỷ lệ thịt xẻ (%) =
P thịt xẻ (kg)
100
P sống (kg)
- Tách đôi thân thịt thành 2 nửa: Rạch giữa cột sống chia đôi thành 2
nửa bằng nhau. Cân trọng lượng của mỗi nửa. Lấy nửa trái để đo các chiều và
phân ly xương thịt mỡ da.
Tỷ lệ thịt nạc (%) =
P nạc (kg)
2 100
P xẻ (kg)
Tỷ lệ thịt mỡ (%) =
P mỡ (kg)
2 100
P xẻ (kg)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
45
Tỷ lệ xương (%) =
P xương (kg)
2 100
P xẻ (kg)
Tỷ lệ da (%) =
P da (kg)
x 2 x 100
P xẻ (kg)
- Dài thân thịt: Dùng thước dây kéo thẳng, đo từ đốt sống ngực thứ nhất
(Xương sườn đầu tiên) đến mấu xương khum.
- Độ dày mỡ lưng: Dùng thước kẹp. Độ dày mỡ lưng được tính bằng độ
dày bình quân của điểm đo: độ dày mỡ lưng ở vị trí xương sườn thứ nhất ứng
với độ dày mỡ gáy, độ dày ở xương sườn 6 - 7, độ dày mỡ ứng với xương
sườn cuối và độ dày ở khớp thận-khum.
Độ dày mỡ lưng (mm) =
Sườn 1 + Sườn 6,7 + Sườn cuối + Thận - khum
4
- Diện tích cơ thăn: Cắt thịt thăn ở giữa xương sườn 6,7 thẳng góc với
dài thân, sau đó ở độ nhiệt từ 20 - 80 trong 1 giờ, sau đó đưa ra cắt ở hai mặt
ngoài thật phẳng, đo diện tích diện tích bằng giấy kẻ ô ly (tinh diện tích bằng
cách cân khối lượng mảnh giấy có diện tích 25 cm2 trên cân điện tử và mảnh
giấy bằng diện tích mắt thịt để tính ra diện tích "mắt thịt".
2.5.5. Phương pháp xác định thành phần hoá học của thịt nạc
* Phương pháp lấy mẫu
Sau khi mổ lợn xong lấy mẫu thịt nạc tại các điểm thân thịt khác nhau,
thịt thăn, mông khoảng 300g/mẫu. Sau khi lấy mẫu xong gửi đến Viện Khoa
học sự sống, Đại học Thái Nguyên để phân tích các chỉ tiêu.
* Các chỉ tiêu phân tích
- Vật chất khô: Theo TCVN 3426 - 1986, sấy khô tới khối lượng không
đổi ở 1050 C.
- Protein thô: Theo TCVN 3428 - 1986 phương pháp Kjeldalh.
- Lipit thô: Theo TCVN 4331 - 1986, xác định theo phương pháp chiết
trong Eter ở trên thiết bị Shoxlet.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
46
- Khoáng tổng số: Được đốt trong lò nung ở nhiệt độ 525 ± 250C.
2.5.6. Một số chiều đo chính của lợn nái sinh sản Bảo Lạc
Các chiều đo vòng ngực, dài thân, vòng ống được tiến hành trực tiếp đo
tại các hộ gia đinh được chọn theo dõi, ghi chép số liệu trên từng nái sinh
sản. Phương pháp đo các chiều đo dựa theo phương pháp đo của Nguyễn Hải
Quân, Nguyễn Thiện và CS, (1977) [40].
- Dài thân: Đo từ điểm giữa đường nối 2 gốc tai đi theo cột sống đến
khấu đuôi. (đo bằng thước dây). Thước dây phải đặt sát da cột sống theo chiều
cong hay vòng của cột sống.
- Vòng ngực: Đo chu vi xung quanh lồng ngực phía sau tiếp giáp với
xương bả vai. (đo bằng thước dây).
- Cao vây: Đo từ mặt đất đến đỉnh cao nhất của xương bả vai chiếu lên.
(đo bằng thước gậy).
- Vòng ống: Đo chu vi 1/3 phía trên của xương bàn chân trái phía trước
(thước dây).
2.6. Phƣơng pháp xử lý số liệu
Các số liệu được xử lý bằng phương pháp thống kê sinh vật học, sử
dụng phần mềm Minitab 13.0 và Excel.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
47
Chƣơng 3
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Tình hình phát triển và tập quán chăn nuôi lợn của huyện Bảo Lạc
Những năm qua, nghề chăn nuôi lợn của huyện Bảo Lạc đã không
ngừng phát triển, bởi có điều kiện tự nhiên thuận lợi, nguồn nguyên liệu sẵn
có tại địa phương dồi dào, phục vụ chủ yếu cho chăn nuôi lợn. Chăn nuôi lợn
luôn được phát triển ngay tại các hộ gia đình nông dân miền núi, tại đây con
lợn là gia súc được chăn nuôi chính, hình thành nên một tập quán chăn nuôi
của nhân dân trong huyện, thể hiện bởi số lượng, quy mô và các phương thức
chăn nuôi …Qua đó, làm cơ sở khoa học cho các nhà chuyên môn hoạch định
chiến lược phát triển, bảo tồn, phát huy tiềm năng chăn nuôi lợn tại địa phương.
Với sự cần thiết như vậy, chúng tôi tiến hành điều tra, khảo sát về số lượng, cơ
cấu, hình thức chăn nuôi và phân bố đàn lợn của huyện để vẽ lên một bức tranh
về hiện trạng chăn nuôi lợn của huyện Bảo Lạc.
3.1.1. Biến động về số lượng và phân bố đàn lợn qua 3 năm (2006 - 2008) của
huyện Bảo Lạc
Thông qua số liệu của phòng Thống kê huyện Bảo lạc và quá trình điều
tra, khảo sát, chúng tôi thấy: Biến động về số lượng và cơ cấu giống lợn ở
Bảo Lạc chủ yếu là 3 giống lợn là: Lợn Bảo Lạc, lợn Móng Cái, Lợn lai. Kết
quả được trình bày ở bảng 3.1.
Bảng 3.1. Cơ cấu giống của đàn lợn huyện Bảo Lạc qua 3 năm (2006-2008)
STT Loại lợn
2006 2007 2008
Số lƣợng
(con)
Tỷ lệ
(%)
Số lƣợng
(con)
Tỷ lệ
(%)
Số lƣợng
(con)
Tỷ lệ
(%)
1 Lợn Bảo Lạc 27.405 97,99 27.837 99,12 30.002 98,79
2 Lợn lai nuôi thịt 546 1,95 235 0,84 353 1,16
3 Lợn Móng Cái 15 0,05 13 0,04 15 0,05
4 Tổng số 27.966 100 28.085 100 30.368 100
Nguồn: Phòng thống kê huyện Bảo Lạc, 2008 [37]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
48
Kết quả bảng 3.1 cho thấy: Đàn lợn của huyện Bảo Lạc trong năm 2006,
toàn huyện có 27.966 con lợn, đến năm 2008 có 30.368 con, tăng lên 2.402 con
(tăng 7,92%). Năm 2006 - 2007 đàn lợn tăng lên không đáng kể, (tăng 119 con,
tương đương 0,71%). Nhìn vào sự phát triển đàn lợn trong 3 năm cho thấy chiều
hướng phát triển chăn nuôi lợn của huyện không ổn định và tăng chậm. Nguyên
nhân của sự tăng chậm này là do thời điểm này dịch lợn tai xanh và dịch Lở
mồm long móng đang diễn ra ở một số tỉnh phía Bắc, nên hầu như không nhập
thịt lợn lai ở miền xuôi đưa lên, mà chủ yếu là nhóm giống lợn Bảo Lạc, được
nuôi đại trà trong dân theo phương thức chăn nuôi cổ truyền cho năng xuất thấp.
- Lợn Bảo Lạc trong cả 3 năm có số lượng và tỷ lệ cao nhất và tăng dần
theo các năm. Năm 2006 là 27.405 con (chiếm 97,99% tổng đàn ); Năm 2008
có 30.002 con (chiếm 98,79% tổng đàn). Đàn lợn Bảo Lạc vốn đã có nhiều đặc
tính ưu việt, chịu đựng kham khổ, thích nghi với điều kiện tự nhiên và tập quán
lâu đời của người dân Bảo Lạc, đồng thời thịt lợn Bảo Lạc được người tiêu
dùng ưa chuộng, bởi thịt thơm ngon, giá thịt lợn hơi giao động từ 35.000 đến
40.000đ/kg; Lợn con giống giao động từ 50.000 - 60.000đ/kg. Trong quá trình
phỏng vấn, người dân cho biết: Trước tình hình thực tại và xu hướng trong tương
lai, nhu cầu tiêu thụ thịt lợn ngày càng tăng, nhất là loại lợn bản địa vừa tiêu thụ
tại địa phương và vừa được bán ra các vùng lân cận. Nắm bắt được những vấn
đề trên, nhiều hộ dân tập trung nuôi nhiều lợn nái hơn, điều đó đã làm cho số
lượng lợn tăng. Vì vậy, con lợn bản địa luôn tồn tại và phát triển ở khắp các
vùng trong huyện.
- Trong khi đó, số lượng lợn lai tương ứng qua các năm là 546 con , năm
2006 (chiếm 1,95%); năm 2008 giảm xuống còn 353 con (chiếm 1,16%); Lợn
Móng Cái, năm 2006 có 15 con (chiếm 0,05%), năm 2008 là 15 con (chiếm
0,05%). Lợn lai và lợn Móng cái có số lượng không đáng kể và có chiều hướng
giảm dần, chỉ được nuôi rải rác ở một số hộ khu vực thị trấn, tại những hộ gia
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
49
đình làm nghề phụ như nấu rượu, làm đậu, tận dụng phế phụ phẩm để nuôi lợn,
đồng thời con giống không được đầu tư tại chỗ, mà phải nhập từ nơi khác. Mặt
khác, về điều kiện kinh tế, người dân chưa đủ khả năng để nuôi lợn lai và lợn
Móng Cái... nên việc phát triển đàn lợn lai và Móng Cái ngày càng bị thu hẹp,
chính vì vậy, số lượng đàn lợn lai và Móng Cái rất thấp.
Số lượng đàn lợn của huyện Bảo lạc cho thấy tình hình chăn nuôi lợn ở
đây phát triển khá tốt, hầu như gia đình nào ở nông thôn miền núi đều nuôi lợn.
Qua điều tra, khảo sát thấy : Số đầu lợn/hộ gia đình trung bình từ 10 - 15 con.
Điều đó cho thấy, chăn nuôi lợn ở địa phương đã góp phần đem lại thu nhập
kinh tế cho gia đình, thúc đẩy sự phát triển chăn nuôi lợn. Nó không những cung
cấp con giống tại chỗ, mà còn có thể cung cấp một lượng thịt đặc sản cho miền
xuôi (Thông qua các lái buôn - Tại các phiên chợ, họ thu mua lợn Bảo Lạc, loại
lợn choai từ 15 – 20kg, do người dân địa phương mang ra bán). Chính vì vậy,
con lợn Bảo Lạc ngày càng khẳng định vị trí trên thị trường nội địa.
3.1.2. Cơ cấu đàn lợn tại 3 xã điều tra của huyện Bảo Lạc
Kết hợp với việc chọn hộ để theo dõi một số chỉ tiêu sinh học của lợn,
chúng tôi tiến hành điều tra về cơ cấu đàn lợn tại 3 xã Bảo Toàn, Khánh Xuân,
Cô Ba để đại diện cho toàn huyện. Các xã này đều xa trung tâm của huyện trung
bình là 13km, điều kiện kinh tế xã hội và giao thông còn nhiều khó khăn. Kết
quả được trình bày ở bảng 3.2.
Bảng 3.2. Cơ cấu đàn lợn tại 3 xã của huyện Bảo Lạc năm 2008
Xã
Nái sinh sản Đực giống
Lợn thịt,
lợn con Tổng
số
(con)
Bản địa
(con)
Tỷ lệ
(%)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 16LV_09_DHNL_CHANNUOI_MONG THI XUYEN.pdf