Tài liệu Đề tài Nghiên cứu một số đặc điểm lâm sàng của u mi – Nguyễn Quốc Anh: 77
NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG CỦA U MI
NGUYỄN QUỐC ANH, ĐỖ NHƯ HƠN
Bệnh viện Mắt Trung ương
TÓM TẮT
U mi là một bệnh thường gặp, chiếm tỷ lệ cao trong bệnh cảnh các khối u của mắt
bao gồm nhãn cầu, mi, kết mạc và hốc mắt.
Mục đích của nghiên cứu này nhằm tìm hiểu một số đặc điểm lâm sàng của u mi,
vị trí của một số loại u hay gặp cũng như mối liên quan giữa lâm sàng và giải phẫu
bệnh lý.
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu trên 160 bệnh nhân điều trị tại khoa chấn thương
– Bệnh viện mắt Trung ương có kết quả giải phẫu bệnh lý đối chứng trong 3 năm 2002,
2003 và 2004.
Kết quả nghiên cứu cho thấy nhóm u mi lành tính chiếm tỷ lệ cao hơn nhóm ung
thư (64,38 là lành tính so với 38,42 là ác tính). Trong nhóm ung thư mi, chúng tôi thấy
ung thư biểu mô tuyến bã, một u tương đối hiếm gặp trong các nghiên cứu của các tác
giả Âu Mỹ là tương đối cao (chiếm 33,33% các u ác tính).
Sự phù hợp giữa lâm sàng và giải phẫu bệnh trong một số loại u vẫn còn nhiều
khác...
9 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 11/07/2023 | Lượt xem: 280 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Nghiên cứu một số đặc điểm lâm sàng của u mi – Nguyễn Quốc Anh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
77
NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG CỦA U MI
NGUYỄN QUỐC ANH, ĐỖ NHƯ HƠN
Bệnh viện Mắt Trung ương
TÓM TẮT
U mi là một bệnh thường gặp, chiếm tỷ lệ cao trong bệnh cảnh các khối u của mắt
bao gồm nhãn cầu, mi, kết mạc và hốc mắt.
Mục đích của nghiên cứu này nhằm tìm hiểu một số đặc điểm lâm sàng của u mi,
vị trí của một số loại u hay gặp cũng như mối liên quan giữa lâm sàng và giải phẫu
bệnh lý.
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu trên 160 bệnh nhân điều trị tại khoa chấn thương
– Bệnh viện mắt Trung ương có kết quả giải phẫu bệnh lý đối chứng trong 3 năm 2002,
2003 và 2004.
Kết quả nghiên cứu cho thấy nhóm u mi lành tính chiếm tỷ lệ cao hơn nhóm ung
thư (64,38 là lành tính so với 38,42 là ác tính). Trong nhóm ung thư mi, chúng tôi thấy
ung thư biểu mô tuyến bã, một u tương đối hiếm gặp trong các nghiên cứu của các tác
giả Âu Mỹ là tương đối cao (chiếm 33,33% các u ác tính).
Sự phù hợp giữa lâm sàng và giải phẫu bệnh trong một số loại u vẫn còn nhiều
khác biệt (20% trong số ung thư biểu mô tế bào đáy còn có sự khác nhau giữa chẩn
đoán lâm sàng và mô bệnh học). Trong u lympho, việc chẩn đoán còn gặp khó khăn vì
ngoài xét nghiệm mô bệnh học thông thường, chúng tôi còn cần làm thêm hóa mô miễn
dịch để tăng giá trị của chẩn đoán.
U mi là một bệnh thường gặp,
chiếm một tỷ lệ cao trong bệnh cảnh các
khối u của mắt bao gồm nhãn cầu, mi và
hốc mắt. Biểu hiện lâm sàng u mi hết sức
đa dạng, phong phú từ kín đáo như
những vảy tiết ở bờ mi hay rụng lông mi
đến những biểu hiện lâm sàng rõ rệt mà
mắt thường có thể khám được. Hơn nữa
bệnh cũng đa dạng về thể loại (u lành, u
ác tính, bẩm sinh), đa dạng về vị trí, về
kích thước. Trong thực tế, có khá nhiều
trường hợp việc chẩn đoán không phải dễ
dàng vì biểu hiện của u kín đáo, không rõ
ràng, khó phân biệt giữa u và viêm.
Ngoài ra, chẩn đoán phân biệt trên lâm
sàng là u ác tính hay lành tính nhiều lúc
rất khó khăn và đó chính là một vấn đề
mà các nhà nhãn khoa lâm sàng rất quan
tâm. Do vậy việc chẩn đoán u mi không
thể tách rời với giải phẫu bệnh lý. U mi
78
cũng là một bệnh phức tạp về xử trí và
tiên lượng, đòi hỏi phải tạo hình sau khi
cắt bỏ khối u, thậm chí có những u còn
tương đối khó điều trị như u máu, u
lymphô.
U mi mắt, đặc biệt đối với ung thư
mi, trong nhiều trường hợp biểu hiện
giống như viêm bờ mi, viêm kết mạc và
viêm bờ mi dạng hạt. Việc điều trị bảo
tồn và giữ được chức năng chuyển động
của mi sẽ trở nên rất khó khăn nếu chẩn
đoán muộn.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHUƠNG PHÁP
1. Đôi tượng nghiên cứu:
- Là những bệnh nhân được chẩn
đoán u mi đến khám và điều trị tại Khoa
Chấn thương - Bệnh viện Mắt TW trong
năm 2002, 2003 và 2004 với chẩn đoán u
mi có kết quả giải phẫu bệnh lý. Số
lượng bệnh nhân nghiên cứu là 160 bệnh
nhân.
- Loại trừ những trường hợp chẩn
đoán không rõ ràng giữa viêm và u,
những bệnh án không đủ tiêu chuẩn
nghiên cứu như không mô tả kỹ về u,
không có kết quả giải phẫu bệnh.
2. Phương pháp nghiên cứu:
Là nghiên cứu mô tả lâm sàng
không có nhóm đối chứng
Sử dụng tư liệu, hồ sơ bệnh án để
mô tả một số đặc điểm lâm sàng. Trường
hợp nào có khai thác nhưng thông tin
không có trong hồ sơ thì được đánh giá
là không ghi nhận (KGN), khám lâm
sàng, đọc kết quả mô bệnh học và đối
chiếu với kết quả lâm sàng. Trong một số
trường hợp cần thiết bổ xung chúng tôi
gửi tiêu bản làm xét nghiệm mô bệnh
học.
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Bảng 1: Phân bố bệnh nhân theo giới
Giới Số bệnh nhân Tỷ lệ (%)
Nam 61 38,12
Nữ 99 61,88
Tổng số 160 100
Chúng tôi nhận thấy bệnh gặp ở nữ nhiều hơn nam với tỷ lệ tương ứng là 38,12 %
và 61,88%. Tỷ lệ nữ/ nam = 1,62.
Bảng 2: Phân bố bệnh nhân ung thư mi theo giới
Giới Số bệnh nhân Tỷ lệ (%)
79
Nam 18 31.58
Nữ 39 68.42
Tổng số 57 100
Ung thư mi gặp ở nữ nhiều hơn nam với tỷ lệ tương ứng là 68,42% và 31,58%.
Tỷ lệ nữ/nam = 2,17
Bảng 3: Tỷ lệ bệnh nhân bị u lành tính và bị u ác tính
Loại u Số bệnh nhân Tỷ lệ (%)
U lành tính 103 64,38
U ác tính 57 35,62
Tổng 160 100
Nhóm u lành tính là 103 bệnh nhân chiếm 64,38%; nhóm ung thư là 57 bệnh nhân
chiếm 35,62%.
Bảng 4: Phân bố tỷ lệ giữa các loại u lành tính
Bảng 5: Phân bố tỷ lệ giữa các loại u ác tính
Loại u ác tính Số bệnh nhân Tỷ lệ (%)
Ung thư biểu mô tế bào đáy 20 35,09
Ung thư biểu mô tuyến bã 19 33,33
Ung thư biểu mô tế bào vảy 5 8,77
U lymphô ác tính 5 8,77
U tế bào hắc tố ác tính 4 7,02
Dầy sừng quang hóa in situ 2 3,51
Loại u lành tính Số bệnh nhân Tỷ lệ (%)
Nốt ruồi 26 25,24
Những u lành tính của biểu mô bề mặt 44 42,72
U tuyến và nang lông 4 3,88
U mạch máu 15 14,56
U lympho lành tính 4 3,88
Các loại u lành tính khác (xơ và cơ vân thoái hoá
+ thoái hoá dạng bột + u xơ thần kinh +
xanthelasma + u tế bào schwannoma)
10 9,71
Tổng số bệnh nhân u lành tính 103 100
80
Shwannoma malin 1 1,75
Sarcoma mô mềm 1 1,75
Tổng số 57 100
Trong các trường hợp ung thư mi
đã được nghiên cứu, chúng tôi gặp 8 loại
ung thư mi: hai loại ung thư mi gặp chủ
yếu và nhiều nhất là ung thư biểu mô tế
bào đáy (35,09%) và ung thư biểu mô
tuyến bã (33,33%). Ung thư tế bào vảy
và u lymphô ác tính chiếm mỗi loại
8,77%. Các trường hợp khác ít gặp hơn
là ung thư tế bào hắc tố ác tính, u tế bào
schwann ác tính.
Bảng 6: Phân bố vị trí của u mi theo mắt
Mắt Số bệnh nhân Tỷ lệ (%)
Mắt phải 67 41,88
Mắt trái 91 56,87
Hai mắt 2 1,25
Tổng số 160 100
Bảng 7: Phân bố vị trí của ung thư biểu mô tế bào đáy
Loại
u
Vị
trí
Mi trên Mi dưới Hai mi
Góc
ngoài
Giữa
Góc
trong
Góc
ngoài
Giữa
Góc
trong
Góc
ngoài
Giữa
Góc
trong
n % n % n % n % n % n % n % n % n %
Ung
thư
tế
bào
đáy
Mắt
phải
(10)
1 10 1 10 2 20 5 50 1 10
Mắt
trái
(10)
1 10 2 20 2 20 1 10 1 10 2 20 1 10
Hai
mắt
Tổng
số
(20)
1 5 3 15 3 15 3 15 6 30 2 10 1 5 1 5
81
Trong nhóm ung thư biểu mô tế
bào đáy, u xuất hiện ở mi dưới là 11
trường hợp (chiếm 55%) và ở mi trên là
7 trường hợp (chiếm 35%), u ở cả hai mi
(góc ngoài và góc trong) là 2 trường hợp
(chiếm 10%).
Bảng 8: Phân bố vị trí của ung thư biểu mô tuyến bã
Loại
u
Vị
trí
Mi trên Mi dưới Hai mi
Góc
ngoài
Giữa Góc
trong
Góc
ngoài
Giữa Góc
trong
Góc
ngoài
Giữa Góc
trong
n % n % n % n % n % n % n % n % n %
Ung
thư
biểu
mô
tuyến
bã
Mắt
phải
(8)
4 50 1 12,5 1 12,5 2 25
Mắt
trái
(11)
1 9,09 7 63,64 1 9,09 1 9,09 1 9,09
Hai
mắt
Tổng
số
(19)
1 5,26 11 57,9 1 5,26 2 10,53 2 10,53 2 10,53
Chúng tôi nhận thấy ung thư biểu
mô tuyến bã gặp nhiều ở mi trên (chiếm
68,42%), ở góc ngoài mi trên (chiếm
5,26%), góc ngoài mi dưới chiếm
10,53%, ở góc ngoài 2 mi (chiếm
10,53%), ở góc trong mi trên (chiếm
5,26%) và ở giữa mi dưới (chiếm
10,53%). Sự khác biệt này có ý nghĩa
thống kê với p<0,001. Có thể do dụn mi
trên cao và nhiều tuyến hơn.
Trong nghiên cứu, với những loại
ung thư hay gặp nhất chúng tôi nhận
thấy: có 9 trường hợp khối u có kích
thước nhỏ dưới 1/4 chiều dài mi, 35
trường hợp kích thước khối u lớn hơn 1/4
chiều dài mi. Như vậy khả năng bảo tồn
mi sau phẫu thuật là vô cùng khó. Trong
những trường hợp ung thư như trên đòi
hỏi phải cắt bỏ khối u với toàn bộ chiều
dày của mi. Việc phục hồi lại mi phụ
thuộc vào mức độ mất chất của mi.
Ung thư biểu mô tuyến bã là một
trường hợp nặng, đòi hỏi phải cắt bỏ toàn
bộ khối u với toàn bộ chiều dày của mi.
82
Trong nghiên cứu có 13 trường hợp ở mi
trên, trong đó có 8 trường hợp khối u lớn
hơn 1/2 chiều dài mi. Hầu hết các trường
hợp này đều tạo hình thì hai sau phẫu
thuật cắt bỏ khối u.
Ung thư biểu mô tế bào vảy lại
thường tổn thương ở bờ tự do của mi, sau
khi cắt bỏ u đảm bảo đến tổ chức lành.
Các tác giả thấy thường gặp khó khăn
trong việc tạo hình lại mi, nhất là đối với
những u mi trên, góc trong, nhất là ung
thư biểu mô tế bào đáy.
Bảng 9: Tỷ lệ chẩn đoán ban đầu phù hợp với mô bệnh học
Chẩn đoán ban đầu đúng
Loại u mi
Phù hợp
Không
phù hợp
Tổng số
n % n % n %
Nốt ruồi 22 84,62 4 15,38 26 16,25
Những u lành tính của biểu mô bề mặt 38 86,36 6 13,64 44 27,5
U tuyến và nang lông 2 50 2 50 4 2,5
U mạch máu 15 100 15 9,38
U lympho lành tính 2 50 2 50 4 2,5
Các loại u lành tính khác 8 80 2 20 10 6,25
Ung thư biểu mô tế bào đáy 16 80 4 20 20 12,5
Ung thư biểu mô tuyến bã 18 94,74 1 5,26 19 11,88
Ung thư biểu mô tế bào vảy 4 80 1 20 5 3,12
U lymphô ác tính 4 80 1 20 5 3,12
U tế bào hắc tố ác tính 4 100 4 2,5
Dầy sừng quang hóa in situ 1 50 1 50 2 1,25
Shwannoma malin 1 100 1 0,62
Sarcoma mô mềm 1 100 1 0,62
Tổng số 139 86,88 21 13,12 160 100
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ
lệ chẩn đoán phù hợp giữa lâm sàng và
giải phẫu bệnh là tương đối cao. Tỷ lệ
chung của tất cả được chẩn đoán đúng là
86,88%. Sự phù hợp giữa lâm sàng và
giải phẫu bệnh tuỳ thuộc vào từng loại u.
Trong nhóm các u lành tính của biểu mô
bề mặt, 86,36% trường hợp có chẩn đoán
lâm sàng phù hợp với chẩn đoán mô
bệnh học; 13,64% trường hợp có chẩn
đoán lâm sàng khác với chẩn đoán mô
bệnh học. Những trường hợp bị nhầm là
giữa nốt ruồi với ung thư biểu mô tế bào
83
đáy và giữa chắp hoặc nhứ lành tính với
ung thư biểu mô tuyến sụn mi.
Các u có nguồn gốc mạch máu và
nốt ruồi có tỷ lệ chẩn đoán phù hợp giữa
lâm sàng và mô bệnh học cao.
Trong các u lành tính chúng tôi
thấy việc chẩn đoán phù hợp giữa lâm
sàng và mô bệnh học của những u lành
có nguồn gốc nang lông và u lymphô là
tương đối khó khăn, đặc biệt trong u
lymphô vì trên thực tế có nhiều trường
hợp phải làm thêm hoá mô miễn dịch
mới có thể cho chẩn đoán.
Đối với ung thư tế bào đáy: 4
trường hợp (chiếm 20%) có chẩn đoán
lâm sàng không phù hợp với giải phẫu
bệnh. Trong nghiên cứu chúng tôi thấy 1
trường hợp chẩn đoán lâm sàng ban đầu
là nốt ruồi, 1 trường hợp chẩn đoán ban
đầu là u nhú, 2 trường hợp chẩn đoán
lâm sàng ban đầu là ung thư biểu mô
tuyến bã, khi xác định bằng mô bệnh học
là ung thư biểu mô tế bào đáy. Trường
hợp nhầm giữa nốt ruồi và ung thư biểu
mô tế bào đáy, trên lâm sàng chúng tôi
thấy đây là ung thư biểu mô tế bào đáy
dạng nốt. Khối u nhỏ, kích thước 0,5cm
x 0,3cm, nằm gần bờ tự do của mi. Trên
bề mặt u có rất nhiều sắc tố, không có
loét da vùng u, không thấy hiện tượng
thâm nhiễm và giãn các mạch máu quanh
u. Khai thác tiền sử, bệnh nhân nói khối
u đã xuất hiện từ lâu. Một trường hợp có
chẩn đoán ban đầu là u nhú chúng tôi
khai thác bệnh án thấy u mới xuất hiện.
Như vậy, ung thư biểu mô tế bào đáy có
nhiều hình ảnh lâm sàng và sự phát triển
của u cũng rất phức tạp.
Trong hai trường hợp chẩn đoán
ban đầu là u biểu mô tuyến bã, kết quả
mô bệnh học là ung thư biểu mô tế bào
đáy, chúng tôi nhận thấy hình ảnh lâm
sàng của khối u rất dễ nhầm lẫn do khối
u vừa có loét trên mặt da lại vừa có sắc
tố xung quanh vùng da bị loét. Có thể
những sắc tố của máu đông tạo nên hình
ảnh như trên làm cho khối u giống với
ung thư biểu mô tế bào đáy dạng nốt loét.
Ngược lại, trong ung thư biểu mô tuyến
sụn mi, chúng tôi thấy tỷ lệ chẩn đoán
phù hợp là tương đối cao. Có 1 trường
hợp chẩn đoán ban đầu là ung thư tế bào
vảy, do khối u dã xâm lấn vào mặt trong
của mi, tổn thương chủ yếu là ở phần kết
mạc mi. Bề mặt kết mạc lổn nhổn và mi
dầy lên giống như hình ảnh ung thư biểu
mô tuyến bã.
Một nghiên cứu của Zurcher và
cộng sự trên 44 trường hợp chẩn đoán
ban đầu là ung thư biểu mô tuyến bã cho
kết quả: 8 trường hợp chẩn đoán đúng,
19 trường hợp là chắp, 4 trường hợp ung
thư biểu mô tế bào đáy, 4 trường hợp
carcinoma in situ, 3 trường hợp ung thư
biểu mô tế bào vảy và 6 trường hợp viêm
không đặc hiệu.
Trong nghiên cứu khác của
Doxanas và cộng sự, trên 40 bệnh nhân
được chẩn đoán ban đầu là ung thư biểu
mô tuyến bã cho kết quả sau: chẩn đoán
đúng (9 bệnh nhân), ung thư biểu mô tế
bào đáy (11 bệnh nhân), ung thư biểu mô
84
tế bào vảy (10 bệnh nhân) và các chẩn
đoán khác (10 bệnh nhân). Cũng trong
một nghiên cứu trên 14 bệnh nhân được
chẩn đoán ban đầu là ung thư biểu mô
tuyến bã của Dogru và cộng sự cho kết
quả sau: chẩn đoán đúng đầu tiên (5 bệnh
nhân), ung thư biểu mô tế bào vảy (4
bệnh nhân), ung thư biểu mô tế bào đáy
(1 bệnh nhân) và các u lành tính khác (4
bệnh nhân).
Như vậy, chẩn đoán ban đầu của
ung thư biểu mô tuyến bã là tương đối
khó khăn, đặc biệt là những trường hợp
bệnh nhân đến sớm, hoặc ở giai đoạn quá
muộn khi mà khối u đã xâm lấn nhiều tổ
chức khác nhau của mi thậm chí cả vào
nhãn cậu Trong nghiên cứu của chúng tôi
tỷ lệ chẩn đoán ban đầu đúng khá cao
(94,74%) có thể là do những bệnh nhân
trong nghiên cứu đến khám và điều trị ở
giai đoạn u ở vùng sụn mi, hình ảnh lâm
sàng đã rõ. Hơn nữa, tỷ lệ ung thư biểu
mô tuyến bã trong nghiên cứu cũng cao
hơn so với các tác giả khác.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu 160 trường hợp u
mi tại Bệnh viện Mắt Trung ương, chúng
tôi rút ra những kết luận sơ bộ như sau: u
lành tính chiếm tỷ lệ cao hơn u ác tính,
trong đó nữ gặp nhiều hơn nam. Trong
nhóm u lành tính các u lành tính của biểu
mô bề mặt là nhiều nhất, sau đó đến nốt
ruồi và u máu. Trong nhóm ung thư mi
hay gặp nhất là ung thư biều mô tế bào
đáy, tiếp theo là ung thư biểu mô tuyến
bã và ung thư biểu mô tế bào vẩy. U
lymphô ác tính ở mi đơn độc ít gặp hơn,
thường có tổn thương phối hợp trong hốc
mắt. Ung thư biểu mô tuyến bã tiến triển
chậm hơn ung thư biểu mô tế bào đáy,
nhưng ở thời điểm khám và điều trị bệnh
không thấy có sự khác nhau về kích
thước giữa hai loại u này.
Ung thư biểu mô tế bào vảy trên
lâm sàng dễ nhầm với nhiều loại u khác,
kể cả lành tính và ác tính. Sự phù hợp
giữa lâm sàng và giải phẫu bệnh có sự
khác nhau giữa các loại u. Khi khối u đã
phát triển xâm lấn tổ chức xung quanh,
chẩn đoán phân biệt giữa ung thư biểu
mô tế bào đáy, ung thư biểu mô tuyến bã
và ung thư biểu mô tế bào vảy trên lâm
sàng rất khó khăn. Chẩn đoán mô bệnh
học là rất quan trọng. Nó giúp cho lâm
sàng chẩn đoán xác định, chẩn đoán phân
biệt và tiên lượng bệnh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. ADENIS J.P., SMOLIK I., LASUDRY J (1998) “Chapitre 8: Tumeur
palpebrales”, Pathologie orbito - palpebrale, 311-339.
2. ALBEL D.M., JACOBIEC F.A. (1984), Principles and practice of
Ophthalmology: clinical practice, Saunders, Philadelphia, 3, 1745-1770.
85
3. BONIUK M., ZIMMERMAN L.E. (1968), “Sebaceous carcinoma of the
eyelid, eyebow, caruncle, and orbit” Trans. Am. Acad. Ophthalmol.
Otolaryngol, 72, 619-642.
4. DOXANAS M.T., GREEN W.R (1984) “Sebaceous gland carcinoma.
Review of 40 cases” Arch. Ophthalmol, 102, 145-249.
5. DOXANAS M.T., ILIFF J.W., ILIFF N.T., GREEN W.R. (1987),
“Squamous cell carcinoma of the eyelids”,Ophthalmology, 95(4), 538-541.
6. DUCASSE A., DESPHIEUX J.L., PLUOT M., SEGAL A. (1995), “Les
tumeurs malignes de paupiere”, Ophtalmologie. 9: 362-366.
7. FREDERICK A. JACOBIEC., et al (2000) “Sebaceous Tumors Of the
Ocular Adnexa”, Principles and Practice of Ophthalmology, SectionXIII.
Chapter 253 - 258
8. GOTZAMANIS A (1999) “Les tumeur de paupieres epidermiologie et
correlations anatomo - clinique”, These de doctorat en medecine.
9. MCLEAN I.W., BURNIER M.N., et al. (1993), Tumor of the eye and
ocular adnexa, Armed forces institute of pathology. Washington D.C, pp
1-49.
10. OLDER J.J. (1986), “Eyelid Tumors”, Raven Press, 1-51.
11. WANG J.K., LIAO S.L., JOU JR., LAI P.C., KAO S.C.S., HOU P.K.,
CHEN M.S. (2003), “Malignant eyelid tumors in Taiwan”, Eye, 17(2),
216-220.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- de_tai_nghien_cuu_mot_so_dac_diem_lam_sang_cua_u_mi_nguyen_q.pdf