Tài liệu Đề tài Nghiên cứu marketing quốc tế và vấn đề nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Bắc Mỹ: Lời nói đầu
Ngành dệt may Việt Nam vốn là một trong những ngành truyền thống và có thế mạnh từ lâu trong lịch sử phát triển của dân tộc. Đến nay, cùng với sự phát triển của ngoại thương, ngành dệt may cũng vươn lên chiếm một vị trí quan trọng, đạt kim ngạch xuất khẩu lớn thứ hai trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước (chỉ sau dầu thô). Đảng và Nhà nước ta rất chú trọng vào vấn đề phát triển ngành dệt may, coi đây là một trong những ngành công nghiệp mũi nhọn của Việt Nam trong tương lai. Chính sách Đổi mới đã " mở " cho ngành dệt may Việt Nam vươn ra thị trường thế giới rộng lớn như EU, Nhật Bản, các nước khác... Song đến nay, một số thị trường truyền thống đã bộc lộ nhiều bất lợi: Thị trường EU thiếu quota, thị trường Nhật Bản cũng bị hạn chế. Trước tình hình đó, việc tìm kiếm và thâm nhập các thị trường mới đang là mối quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam. Trong số các thị trường mới, Bắc Mỹ là một thị trường giàu tiềm năng mà chúng ta không thể bỏ qua, nhất l...
101 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1126 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Nghiên cứu marketing quốc tế và vấn đề nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Bắc Mỹ, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Ngành dệt may Việt Nam vốn là một trong những ngành truyền thống và có thế mạnh từ lâu trong lịch sử phát triển của dân tộc. Đến nay, cùng với sự phát triển của ngoại thương, ngành dệt may cũng vươn lên chiếm một vị trí quan trọng, đạt kim ngạch xuất khẩu lớn thứ hai trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước (chỉ sau dầu thô). Đảng và Nhà nước ta rất chú trọng vào vấn đề phát triển ngành dệt may, coi đây là một trong những ngành công nghiệp mũi nhọn của Việt Nam trong tương lai. Chính sách Đổi mới đã " mở " cho ngành dệt may Việt Nam vươn ra thị trường thế giới rộng lớn như EU, Nhật Bản, các nước khác... Song đến nay, một số thị trường truyền thống đã bộc lộ nhiều bất lợi: Thị trường EU thiếu quota, thị trường Nhật Bản cũng bị hạn chế. Trước tình hình đó, việc tìm kiếm và thâm nhập các thị trường mới đang là mối quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam. Trong số các thị trường mới, Bắc Mỹ là một thị trường giàu tiềm năng mà chúng ta không thể bỏ qua, nhất là trong điều kiện thuận lợi như hiện nay, bởi lẽ mối quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước Bắc Mỹ ( đặc biệt là Mỹ ) có nhiều tiến triển tốt đẹp. Tuy nhiên để thâm nhập thị trường này, khó khăn cũng không phải là nhỏ. Làm thế nào để các doanh nghiệp dệt may Việt Nam tận dụng được thời cơ thâm nhập thị trường, đứng vững và phát triển sản phẩm của mình trên thị trường Bắc Mỹ? Câu hỏi đó cũng khẳng định tính cấp thiết của tình hình hiện nay.
Xuất phát từ những bức xúc đó, tác giả đã quyết định lựa chọn đề tài : " Marketing quốc tế và vấn đề nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Bắc Mỹ " cho- khoá luận tốt nghiệp của mình. Cần nhấn mạnh rằng, phạm vi nghiên cứu của đề tài là thị trường Bắc Mỹ mở rộng thuộc khối thương mại tự do Bắc Mỹ(NAFTA) hiện nay, gồm 3 nước là Mỹ, Canada và Mêhicô. Nội dung khoá luận được kết cấu theo ba chương như sau:
Chương I: Những vấn đề lí luận chung về Marketing quốc tế và tổng quan về thị trường hàng dệt may Bắc Mỹ.
Chương II: Tình hình xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào thị trường Bắc Mỹ.
Chương III: Định hướng và giải pháp Marketing cho cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Bắc Mỹ.
Do những hạn chế về thời gian, về tài liệu và kiến thức của người viết, chắc chắn khoá luận này không tránh khỏi những sai sót. Tác giả rất mong nhận được sự chỉ dẫn tận tình của các thầy cô giáo và góp ý của đông đảo độc giả. Qua đây, tác giả cũng xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành tới các thầy cô giáo Trường đại học Ngoại thương đã hướng dẫn tác giả hoàn thành khoá luận tốt nghiệp này.
Chương I:Những vấn đề lí luận chung về Marketing quốc tế và tổng quan về thị trường hàng dệt may Bắc Mỹ
I. Những vấn đề lý luận chung về Marketing quốc tế
1. Khái quát chung về Marketing quốc tế và vấn đề cạnh tranh quốc tế hiện nay
1.1. Các định nghĩa về Marketing quốc tế
Từ đầu thế kỷ 20, thuật ngữ Marketing và Marketing quốc tế (International Marketing) bắt đầu được nhắc nhiều trong các sách báo ở nước Mỹ, trong chương trình giảng dạy của các trường đại học cũng như trong chiến lược phát triển kinh doanh của các tập đoàn. Hiện nay, trong các tác phẩm về Marketing trên thế giới có tới trên 2000 định nghĩa khác nhau về Marketing, dù về thực chất thì cũng không khác nhau lắm, nhưng chưa có định nghĩa nào là duy nhất đúng vì mỗi tác giả định nghĩa về Marketing quốc tế đều xuất phát từ mỗi góc độ nghiên cứu và nhìn nhận khác nhau.
Thực vậy, theo định nghĩa của Hiệp hội Marketing Mỹ (Mỹ là quê hương của thuật ngữ Marketing quốc tế) : " Marketing quốc tế là một quá trình đa quốc gia để lập ra kế hoạch và thực hiện các chính sách giá, xúc tiến và hỗ trợ kinh doanh, chính sách phân phối hàng hoá, ý tưởng hay dịch vụ để tiến hành hoạt động trao đổi nhằm thoả mãn mục đích của các tổ chức cá nhân " [30].
Theo khái niệm của I. Ansoff: "Marketing quốc tế là khoa học về lĩnh vực trao đổi, theo đó toàn bộ hoạt động sản xuất- tiêu thụ của công ty đều căn cứ vào nhu cầu biến động của thị trường thế giới (lấy nhu cầu của thị trường thế giới làm định hướng).
Theo giáo sư Philip. R. Cateora: " Marketing quốc tế là sự tiến hành hoạt động kinh doanh hướng tới dòng sản phẩm từ công ty tới người tiêu dùng trên phạm vi nhiều nước nhằm thu được lợi nhuận dự kiến (Target profit) ".
Theo cuốn "International Marketing" của hai giáo sư Vern Tepstra và Ravi Sarathy, " Marketing quốc tế là các hoạt động bao gồm những hình thức kinh doanh như : xuất nhập khẩu, sản xuất ở nước ngoài, liên doanh liên kết với công ty nước ngoài chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu hàng hoá, quyền công nghệ, bí quyết sản xuất kinh doanh" [31].
International Marketing cũng được hiểu là hoạt động thị trường quốc tế và bản chất của nó gắn liền với nghiên cứu về thị trường quốc tế. Như vậy, theo cách hiểu đó, " Marketing quốc tế là việc đánh giá đúng nhu cầu của thị trường, và khả năng thực tế của doanh nghiệp, từ đó xây dựng chiến lược kinh doanh cho sản phẩm của mình, nhằm thoả mãn tốt nhất nhu cầu của từng thị trường nước ngoài và thu được lợi nhuận tối ưu".
Vì thế, nội dung và kết cấu của khoá luận được xây dựng theo quan niệm trên nhằm đạt được mục tiêu đề ra.
1.2. Bản chất và đặc trưng của Marketing quốc tế
Yếu tố cốt lõi trong Marketing quốc tế chính là thị trường quốc tế. Trong bất kỳ thị trường nào, hai trục cung và cầu luôn đóng vai trò chi phối toàn bộ hoạt động, đặc tính của thị trường đó. Bản chất của Marketing quốc tế xuất phát từ nhu cầu của người tiêu dùng nước ngoài: tìm nhu cầu và thoả mãn tốt nhất nhu cầu. Marketing quốc tế chính là chìa khoá giúp các doanh nghiệp đạt được mục tiêu kinh doanh : đó là lợi nhuận và mở rộng thị trường tiêu thụ.
Đặc trưng của Marketing quốc tế (khác với Marketing quốc gia) chính là sự di chuyển qua biên giới quốc gia của các sản phẩm (Object), sự khác nhau về quốc tịch của các chủ thể mua bán (Subject), đồng tiền thanh toán là ngoại tệ đối với ít nhất một trong các bên, hành trình phân phối kéo dài cả về không gian và thời gian, vòng đời sản phẩm phải được kéo dài hơn so với trong nước và sự việc xây dựng kế hoạch chiến lược phải được cụ thể hoá cho từng quốc gia cụ thể. Tuy nhiên, phạm vi hoạt động dù vươn ra thị trường quốc tế nhưng Marketing quốc tế vẫn phải đảm bảo những nội dung cơ bản, đó là:
Thứ nhất, phân tích và dự báo thị trường trên cơ sở phân tích nhu cầu khách hàng, tình hình cạnh tranh, các trung gian phân phối, phân tích môi trường chính trị, kinh tế, công nghệ.
Thứ hai, hoạch định chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp phù hợp với nhu cầu và đIều kiện thị trường, tác động đến nhu cầu thị trường bằng các chính sách sản phẩm giá cả, phân phối, yểm trợ.
Marketing quốc tế cũng không có nghĩa là Marketing trong nước trên một phạm vi rộng hơn, vì Marketing trong nước thì chỉ liên quan đến những yếu tố môi trường (không kiểm soát được) trong nước, còn Marketing quốc tế liên quan đến hàng loạt các yếu tố không kiểm soát được của nhiều nước khác nhau: môi trường văn hoá, hệ thống tiền tệ, môi trường chính trị, pháp luật.
Marketing quốc tế được xét trong phạm vi đề tài này sẽ đi sâu hơn vào Marketing xuất khẩu: sản xuất những sản phẩm thích ứng theo những tiêu chuẩn, những đòi hỏi của thị trường nước ngoài. Đó là trong giai đoạn hiện nay. Còn với tầm nhìn chiến lược xa hơn, Marketing quốc tế sẽ đi sâu vào những mảng nghiệp vụ khác nhau, nghiên cứu dự đoán thị trường, các nhà quản lí Marketing vạch ra chiến lược không những chỉ xuất khẩu mà còn nhiều loại hình kinh doanh khác như lập xí nghiệp liên doanh, trao đổi khoa học công nghệ, đại lý, bán bản quyền, sản xuất và gia công. Với xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế như hiện nay, các hoạt động Marketing quốc tế của doanh nghiệp hướng tới giai đoạn " Marketing toàn cầu" mà thị trường thế giới được xem như một thị trường thống nhất, tương đồng về văn hoá, sở thích, xu hướng tiêu dùng...ở thị trường các nước khác nhau. Đó chính là xu hướng phát triển trong nội dung của Marketing quốc tế.
1.3 Chức năng cơ bản của Marketing quốc tế.
Thị trường nước ngoài và thị trường trong nước dĩ nhiên có sự khác biệt rất lớn. Nếu các doanh nghiệp muốn sử dụng "chìa khoá" kinh doanh quốc tế thì phải chú trọng những chức năng cơ bản sau của Marketing quốc tế.
Nghiên cứu thị trường thế giới để nhận biết và dự báo một cách chính xác biến động của thị trường.
Xây dựng các chiến lược Marketing quốc tế có hiệu quả trên cơ sở đánh giá toàn diện các yếu tố khách quan về môi trường và thị trường cũng như các yếu tố chủ quan của bản thân doanh nghiệp.
Tổ chức thực hiện thành công các chiến lược Marketing quốc tế nói trên thông qua cơ chế quản lí điều hành năng động và hệ thống thông tin nhanh nhạy.
Kiểm tra điều chỉnh kịp thời hoạt động kinh doanh sao cho giảm thiểu những rủi ro và khai thác tối đa những cơ hội kinh doanh nhằm đảm bảo có hiệu quả tối ưu.
2. Cạnh tranh quốc tế và những cơ hội, thách thức hiện nay
Trong cơ chế kinh tế thị trường, người ta luôn luôn phải chú trọng đến ba quy luật cơ bản: quy luật giá cả, quy luật cạnh tranh,và quy luật cung cầu. Trong đó quy luật cạnh tranh chính là động lực của quá trình phát triển. Thật vậy, cạnh tranh là một trong những quy luật tất yếu của nền sản xuất hàng hoá.Trên thực tế, sản xuất hàng hoá càng phát triển thì qui mô và mức độ cạnh tranh càng cao. Đứng trên góc độ doanh nghiệp,cạnh tranh là quá trình giành giật những lợi thế từ phía đối thủ về phía mình nhằm thực hiện thắng lợi những mục tiêu của doanh nghiệp. Cạnh tranh là áp lực bên ngoài buộc các nhà doanh nghiệp phải tìm mọi biện pháp để nâng cao năng suất lao động, đưa ra thị trường các sản phẩm có chất lượng và giá cả hợp lý, mở rộng kinh doanh, tăng tích luỹ cho doanh nghiệp. Cạnh tranh lành mạnh như là một động lực quan trọng để phát triển lực lượng sản xuất, tiến bộ khoa học kỹ thuật, quản lí, là điều kiện để giáo dục tính năng động, nhạy bén và óc sáng tạo của những nhà doanh nghiệp.
Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, với nền kinh tế mở và xu hướng quốc tế hoá, bất luận lĩnh vực, ngành hàng nào cũng phải đối mặt với quá trình cạnh tranh gay gắt hơn. Bởi lẽ, thị trường nào cũng có sự ngăn cách giữa doanh nghiệp trong và ngoài nước. Bản thân các doanh nghiệp cũng không bao giờ tự bằng lòng với phần thị trường mình chiếm lĩnh được (vì như vậy có nghĩa là chấp nhận bị tiêu diệt, mà điều này rất nguy hiểm), mà luôn tìm cách vươn lên, mở rộng thị trường. Để đạt được điều này, các doanh nghiệp phải có khả năng cạnh tranh và phải cạnh tranh có hiệu quả. Vì vậy, xây dựng một chiến lược cạnh tranh với những công cụ, biện pháp thích hợp nhằm phát triển khả năng cạnh tranh - là cơ sở đảm bảo giúp doanh nghiệp đứng vững và phát triển trong điều kiện cạnh tranh gay gắt trên thị trường.
2.1. Tính chất khốc liệt của cạnh tranh quốc tế hiện nay
Bản thân câu : "Thương trường như chiến trường" - đã khẳng định tính khốc liệt của cạnh tranh trên thương trường. Cạnh tranh trong thị trường nội địa đã khốc liệt, nhưng cạnh tranh trên thị trường thế giới còn khốc liệt và gay gắt hơn rất nhiều lần. Nhưng để giành giật lợi nhuận và thị trường, các doanh nghiệp phải chấp nhận cạnh tranh như một quy luật tất yếu, phải ganh đua với nhau, phải luôn không ngừng tiến bộ để giành ưu thế vượt trội so với đối thủ. Nếu như lợi nhuận là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh thì cạnh tranh buộc họ phải tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh một cách có hiệu quả nhất nhằm thu được lợi nhuận tối ưu.
Nói tới cạnh tranh là nói tới thị trường, và ngược lại nói tới thị trường là nói tới cạnh tranh. Từ thế kỷ 17, cạnh tranh kinh tế thị trường vẫn được tiến hành tập trung vào bốn trọng điểm mà ngày nay vẫn là vấn đề thời sự: bảo hộ mậu dịch, chiếm lĩnh công nghệ, chinh phục lãnh thổ và chiến tranh giá cả.
Sau chiến tranh lạnh, cạnh tranh quốc tế trở nên quyết liệt hơn. Thế giới từ hai cực đối đầu chuyển sang đa cực với đặc điểm là ưu thế của an ninh quân sự nhường chỗ cho an ninh kinh tế, xã hội và môi trường. Các nước đều ưu tiên phát triển và cải thiện vị thế của mình trong trật tự kinh tế quốc tế mà điều này chỉ có thể có được bằng sự thắng lợi trong cạnh tranh kinh tế quốc tế trên thị trường thế giới.
Cạnh tranh kinh tế quốc tế hiện nay khốc liệt hơn bởi nhiều lí do. Trước hết là sự suy yếu tương đối của Mỹ (về kinh tế) so với sự nổi lên và độc lập tương đối của Nhật bản và EU cùng với các nước NICS (Châu á). Hai là, quá trình quốc tế hoá đang đi đến nấc thang toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới, cung vượt quá cầu và sự cạnh tranh tất yếu sẽ trở lên khốc liệt hơn. Quá trình này được đẩy nhanh từng giờ, từng phút chính từ sự bùng nổ của khoa học công nghệ thông tin. Nền kinh tế “số hoá” kể từ đầu thập niên 90 với công nghệ World Wide Web phát triển đã tác động đến mọi mặt của nền kinh tế xã hội và đặc biệt là Marketing quốc tế. Nó không chỉ tạo ra cách thức giao tiếp, trao đổi mới mà còn tạo ra các công ty theo mô hình và cách thức tiến hành kinh doanh mới. Các sản phẩm giá trị gia tăng cũng như hình thức tiêu dùng mới. Ba là, tầm quan trọng của các cường quốc kinh tế đang tăng lên, tầm quan trọng của sức mạnh kinh tế đang được đẩy lên hàng đầu. Bốn là, từ sau đại chiến thế giới thứ hai, những vòng đàm phán về thương mại nối tiếp nhau trong khuôn khổ GATT đã dẫn đến một sự giảm bớt đầy kinh ngạc về hàng rào thuế quan và sự tăng trưởng của nền thương mại thế giới. Kể từ sau vòng đàm phán Uruguay cùng với việc mở rộng dần điều kiện mậu dịch quốc tế theo xu hướng tự do hoá thương mại, đẩy những cuộc cạnh tranh quốc tế lên những nấc thang cao hơn. Sân chơi "bằng phẳng" hơn và luật chơi càng thoáng, rõ ràng hơn làm cho các cuộc cạnh tranh cũng càng trở nên quyết liệt hơn.
2.2. Những yếu tố quyết định khả năng cạnh tranh quốc tế
Bất kỳ một doanh nghiệp nào,khi bước ra khỏi thị trường nội địa để tham gia vào thị trường thế giới, đều không thể phủ nhận được sự tồn tại cũng như tính khốc liệt của cạnh tranh quốc tế. Vậy thì, muốn tồn tại và đứng vững để tham gia một "cuộc chơi" các doanh nghiệp buộc phải tìm hiểu luật chơi, mà trước tiên phải tìm hiểu được tính chất, những yếu tố quyết định khả năng cạnh tranh quốc tế, để từ đó chuẩn bị cho mình vũ khí cạnh tranh có hiệu quả nhất.
Nói về khả năng cạnh tranh, hay năng lực cạnh tranh, thuật ngữ này được sử dụng rất rộng rãi trong các phương tiện thông tin đại chúng, trong sách báo chuyên môn, ngay cả trong giao tiếp hàng ngày của các chuyên gia kinh tế, các nhà kinh doanh. Song cho đến nay vẫn chưa có sự nhất trí cao trong giới chuyên môn về khái niệm và cách thức đo lường, phân tích năng lực cạnh tranh cả ở cấp doanh nghiệp hay phạim vi quốc tế. Đối với một số người " khả năng cạnh tranh" chỉ có ý nghĩa rất hẹp, được thể hiện qua các chỉ số về tỷ giá thực trong mối quan hệ thương mại. Trong khi đó, thực tế khái niệm khả năng còn bao gồm khả năng sản xuất hàng hoá dịch vụ đáp ứng đòi hỏi cạnh tranh quốc tế và yêu cầu đảm bảo mức sống cao cho người dân trong nước. Theo Micheal Porter (Đại học Havard) trong cuốn "lợi thế cạnh tranh của các quốc gia" (1990): yếu tố quyết định cạnh tranh chính là năng suất. Còn theo Krugman (1994): "khả năng cạnh tranh" chỉ phù hợp ở mức độ công ty, nếu công ty không đủ khả năng bù đắp chi phí thì phải từ bỏ kinh doanh. Còn theo "Quan điểm quản trị chiến lược" cũng của Micheal Porter thì yếu tố quyết định khẳ năng cạnh tranh dù trong hay ngoài nước cũng được quy định bởi 5 yếu tố, đó là:
Số lượng các công ty mới tham gia vào một ngành (đe doạ cạnh tranh của các doanh nghiệp sẽ gia nhập ngành)
Sự có mặt (hay thiếu vắng) những sản phẩm thay thế.
Vị thế của nhà cung ứng.
Vị thế của bên tiếp nhận (hay sự trả giá của người mua)
áp lực cạnh tranh của các đối thủ cạnh tranh hiện tại trong ngành.
Đây là 5 yếu tố quyết định khẳ năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường nhưng những yếu tố này mang tính chất "ngoại vi" - hay nói cách khác, đó là những áp lực cạnh tranh từ bên ngoài đối với khả năng cạnh tranh của một sản phẩm. Còn nếu xét về bản thân nội tại năng lực cạnh tranh quốc tế của một sản phẩm, thì điều trước hết chính là lợi thế so sánh của sản phẩm đó. Lợi thế so sánh của sản phẩm ở đây chủ yếu được nhắc đến là lợi thế so sánh về chi phí sản xuất (nhân công, nguyên vật liệu...) và năng suất. Bởi lẽ các yếu tố chi phí sản xuất thấp thường được coi là điều kiện cơ bản của lợi thế cạnh tranh. Nếu xét trên phạm vi quốc tế, lợi thế so sánh còn bao gồm cả lợi thế về các điều kiện thuận lợi về giao thông buôn bán quốc tế, cũng như các biện pháp, chính sách của Nhà nước khuyến khích sản xuất, xuất khẩu sản phẩm, kể cả lợi thế về các chi phí bán hàng, xúc tiến yểm trợ, thuế quan v.v .
Nói chung, yếu tố quyết định khả năng cạnh tranh quốc tế hay cạnh tranh trong nước thường bao gồm cả yếu tố khách quan và yếu tố chủ quan. Đối với những yếu tố khách quan tồn tại ngoài ý muốn chủ quan của doanh nghiệp cho nên bản thân doanh nghiệp cần phải tìm hiểu và nắm bắt nhanh nhạy để khai thác có hiệu quả thời cơ tốt nhất. Còn với những yếu tố chủ quan thuộc phạm vi kiểm soát của doanh nghiệp (như tài chính, nhân sự, công nghệ..) đây mới là điều quan trọng để chính bản thân mỗi doanh nghiệp tự đánh giá và lượng sức mình trong quyết định vươn ra thị trường thế giới. Tất nhiên, để thắng thế trong cạnh tranh kinh nghiệm thực tế thường cho thấy cần phải hội tụ đủ "Thiên thời, địa lợi, nhân hoà". Tuy nhiên,đối với các doanh nghiệp điều quan trọng là phải biết và hiểu rõ khi nào " thiên thời", khi nào "địa lợi" và "nhân hoà", để đưa ra chiến lược thích hợp giành thắng lợi trên thị trường, đặc biệt là thị trường quốc tế.
2.3. Cơ hội và thách thức chủ yếu trong cạnh tranh quốc tế hiện nay.
Trong môi trường cạnh tranh khốc liệt hiện nay, quan điểm "biết người biết ta" (tri kỉ tri bỉ) lại càng quan trọng hơn bao giờ hết. Bởi có hiểu rõ thị trường mới nắm bắt được cơ hội cũng như đối phó được với những thách thức do cạnh tranh đem lại, giúp cho doanh nghiệp đứng vững và phát triển được. Vậy trong giai đoạn hiện nay, những cơ hội và thách thức chủ yếu của cạnh tranh quốc tế là gì? Có giải đáp được vấn đề này, doanh nghiệp mới có thể nâng cao được sức cạnh tranh cho sản phẩm của mình được. Tuy nhiên nói đến cơ hội và thách thức, hai diều này thường có mối quan hệ biện chứng với nhau. Bởi lẽ trong cơ hội có thách thức và trong thách thức có cơ hội. Cơ hội cho mình nhưng cũng đồng thời là cơ hội cho đối thủ cạnh tranh của mình, như vậy cơ hội cũng chính là thách thức khi cạnh tranh với đối thủ của mình trên thương trường. Thế nhưng xét một cách tổng thể môi trường cạnh tranh quốc tế hiện nay, có các vấn đề cần chú ý:
Tham gia vào môi trường cạnh tranh quốc tế sẽ tạo cơ hội chung cho nền kinh tế, trong đó có ngành dệt may: Các nước tham gia được thực sự hoà nhập vào quĩ đạo chung của nền kinh tế thế giới, tiếp cận một môi trường thương mại quy mô toàn cầu, có hệ thống, tiếp cận với các qui tắc pháp lí công bằng và hiệu quả hơn so với việc giải quyết tranh chấp thương mại nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia, đồng thời giúp ta rèn luyện, đào tạo, nâng cao năng lực và kinh nghiệm trong công cuộc hội nhập.
Tham gia vào môi trường cạnh tranh quốc tế cũng có nghĩa là được tham gia vào "sân chơi chung", thị trường xuất nhập khẩu được mở rộng và được hưởng các quy tắc đãi ngộ, giảm hàng rào thuế quan và phi thuế quan, tạo điều kiện cho các mặt hàng xuất khẩu chủ lực (trong đó có dệt may) thâm nhập kịp thời vào các thị trườngkhó tính. Bên cạnh đó, cơ hội "cọ xát" trực tiếp giữa các hàng Việt nam với hàng hoá các nước khác sẽ tạo cơ hội nâng cao sức cạnh tranh của hàng Việt nam, thúc đẩy sản phẩm trong nước cũng như duy trì tốc độ tăng trưởng bền vững của hàng dệt may Việt nam trong nhiều năm tới.
Tuy nhiên, việc tham gia vào môi trường cạnh tranh quốc tế chắc chắn sẽ là thách thức không nhỏ đối với các doanh nghiệp Việt Nam còn non trẻ về trình độ công nghệ cũng như kinh nghiệm thương trường. Thực tế cho thấy, thách thức lớn nhất chính là nguy cơ tụt hậu trong điều kiện cạnh tranh như vũ bão hiện nay.
Đó là nét bao trùm chung của nền kinh tế. Nếu xét về mặt hàng dệt may nói riêng thì bản thân Việt nam sẽ vấp phải sự cạnh tranh từ chính các nước trong khu vực Asean khi giá thành sản xuất của ta còn cao, còn công nghệ và chiến lược thông tin cũng đi sau các nước này rất nhiều. Mặt khác, việc chúng ta được hưởng các qui chế đãi ngộ nhưng theo nguyên tắc "có đi có lại" chúng ta cũng phải cho hàng hoá các nước vào nước mình dễ dàng, do đó bản thân thị trường dệt may trong nước sẽ bị tấn công. Rõ ràng với "lực" còn chưa mạnh trong cạnh tranh quốc tế nên thách thức sẽ mang tính "sống còn" thực sự đối với các sản phẩm Việt nam tại vòng đua quyết liệt này. Tuy nhiên khi xem xét năng lực cạnh tranh của một ngành hàng trên một thị trường thì nhất thiết phải đặt nó trên cơ sở của nền kinh tế quốc gia. Theo xếp hạng về năng lực cạnh tranh của các nước trên thế giới trong Báo cáo kinh tế toàn cầu của Diễn đàn kinh tế thế giới WEF thì năm 1997, Việt Nam đứng thứ 49/53, năm 1998 thứ 39/53 năm 1999 thứ 48/59 và năm 2000 đứng thứ 53/59 [13]. Như vậy năng lực cạnh tranh của Việt nam vừa rất thấp lại vừa lên xuống thất thường. Chính vì vậy việc tìm hiểu năng lực cạnh tranh để nâng cao được sức cạnh tranh của mình càng là vấn đề bức xúc cho không chỉ ngành dệt may mà ở tất cả các ngành hàng của Việt Nam.
II. Tổng quan về thị trường hàng dệt may Bắc Mỹ dưới góc độ Marketing quốc tế
Đứng dưới góc độ Marketing quốc tế, việc phát triển sản phẩm luôn phải xuất phát từ nhu cầu của thị trường. Chính vì vậy việc nghiên cứu thị trường mà xuất khẩu dệt may Việt nam đang hướng tới - thị trường Bắc Mỹ là một việc hết sức cần thiết mà chúng ta cần quan tâm. Song trước hết, việc xem xét một thị trường cũng cần phải được đặt trong bối cảnh chung của thị trường thế giới, để chúng ta có một cái nhìn tổng quan trước khi đi vào xem xét cụ thể.
1. Khái quát về thị trường hàng dệt may thế giới và các khu vực chủ yếu.
Đặc điểm chung.
Trong xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế hiện nay, thị trường quốc tế càng trở nên thống nhất hơn và ranh giới giữa các thị trường nội địa ngày càng mờ nhạt hơn. Trên thực tế, trong một vài thập kỉ qua, khối lượng thương mại quốc tế đã tăng lên đáng kể cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Các khối kinh tế, các liên minh kinh tế đã được hình thành ở hầu hết các châu lục mà điển hình là EU, ASEAN, NAFTA...Nhìn chung các khối kinh tế đều có mục đích giải quyết vấn đề sống còn của thương mại quốc tế: đó là vấn đề thị trường, thực hiện tự do hoá thương mại và đầu tư. Mục tiêu này sẽ thực hiện được thông qua việc giảm dần từng bước, tiến tới triệt tiêu hàng rào thuế quan và phi thuế quan, đồng thời hợp tác khoa học kỹ thuật nhằm hỗ trợ nhau phát triển sản xuất mở rộng thị trường. Nhờ đó mà trong những năm vừa qua buôn bán nội khối giữa các thành viên tăng rất nhanh. Các thành viên cũng tranh thủ được lợi thế tập thể của các khối kinh tế để nâng cao vai trò và sức cạnh tranh của mình trong quan hệ quốc tế.
Hàng dệt may là một trong những nhóm hàng hoá chủ yếu tham gia vào mậu dịch quốc tế. Hàng dệt may có những đặc trưng riêng biệt ảnh hưởng nhiều đến sản xuất và trao đổi như: đối tượng tiêu dùng đa dạng theo văn hoá, phong tục, khu vực địa lí. Sản phẩm mang tính thời trang cao, thay đổi mẫu mã liên tục, nhãn hiệu sản phẩm được chú trọng và yếu tố thời vụ cũng là đặc trưng nổi bật của hàng dệt may.
Nhìn tổng quan về thị trường hàng dệt may thế giới trong 4 năm gần đây, chúng ta thấy kim ngạch hàng dệt may thế giới đạt khoảng 153 tỉ đô la mỗi năm về hàng dệt, 186 tỉ đô la về hàng may, tổng cả hàng dệt và hàng may chiếm bình quân khoảng 6% tổng kim ngạch mậu dịch trên toàn thế giới. Trị giá quốc tế hàng dệt may có nhiều sự thay đổi qua các năm.
Bảng 1-Tình hình xuất khẩu hàng dệt, may qua các năm (1997 –2001)
Đơn vị : tỷ USD
Năm
1997
1998
1999
2000
2001
Hàng dệt
155
151
148
157
159
Hàng may
177
180
186
199
201
Tỷ trọng (*)
6,2%
6,3%
6,1%
6,0%
6,1%
(*): Tỷ trọng của hàng dệt may so với tổng kim ngạch mậu dịch trên toàn thế giới.
Nguồn : International Trade Statistics (1998,1999,2000,2001)
Đó là nét chung về tổng giá trị kim ngạch. Còn xét theo khu vực, chúng ta thấy sản xuất và xuất khẩu chủ yếu hàng dệt may tập trung phần lớn ở châu á và châu Âu (hai khu vực này chiếm khoảng 75% tổng sản lượng hàng dệt may của thế giới, trong đó châu á chiếm hơn 40 % và thu hút hơn một nửa lao động trong ngành của thế giới.
Bảng 2-Các khu vực xuất khẩu chủ yếu trên thế giới về hàng may (năm 2000)
Đơn vị : tỷ USD
Giá trị (tỷ USD)
Tỷ trọng(%)
Thế giới
198,94
100
Khu vực Châu á
89,39
44,9
Khu vực Tây Âu
57,22
28,8
Khu vực Mỹ La tinh
22,62
11,4
Khu vực Bắc Mỹ
10,71
5,4
Nguồn : International Trade Statistics (2001)
Các khu vực xuất khẩu chủ yếu trên thế giới về hàng dệt (năm 2000)
Giá trị (tỷ USD)
Tỷ trọng (%)
Thế giới
157,5
100
Châu á
71,4
45,4
Nhật Bản
7,0
4,5
Tây Âu
59,6
37,8
Bắc Mỹ
13,1
8,3
Nguồn : International Trade Statistics (2001)
Nhìn vào bảng trên ta nhận thấy khu vực có tỷ trọng xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất thế giới là châu á, chiếm tới 45 % tổng giá trị xuất khẩu hàng dệt may thế giới. Đây cũng là khu vực có tốc độ tăng trưởng cao gấp 2 lần tốc độ tăng trưởng của thế giới. Những nước và lãnh thổ xuất khẩu hàng dệt may điển hình của châu á trước hết phải kể đến Trung Quốc, Hông Kông, Đài Loan, Hàn Quốc và Việt nam.
Mục tiêu xuất khẩu mà ngành dệt may Việt nam hướng tới là các nước, các khu vực nhập khẩu lớn.Vì vậy chúng ta cần xem xét kỹ lưỡng một số khu vực nhập khẩu chủ yếu trên thế giới.
Bảng 3 -Các khu vực nhập khẩu hàng dệt may chủ yếu trên thế giới (năm 2000). Đơn vị : triệu USD
Khu vực
Kim ngạch về hàng dệt
Kim ngạch về hàng may
Canada
4132
3690
Mỹ
15709
66392
EU
49774
85909
Nhật Bản
4939
19709
Nguồn : International Trade Statistics (2001)
1.2. Các nước EU :
Các nước EU là những quốc gia đứng đầu thế giới về nhập khẩu hàng dệt may với kim ngạch nhập khẩu tăng đều qua các năm, đặc biệt là hàng may. Một thị trường rộng lớn lên tới 17 quốc gia (Thuỵ Sỹ, Na Uy mới kết nạp) với mức chi tiêu cho hàng may mặc năm 2000 là 212 tỷ euro, tăng 2,4 % so với năm 1999, đứng thứ hai sau chi tiêu cho thực phẩm, rau quả. Theo báo cáo hàng năm của tổ chức WTO, nhập khẩu hàng dệt may của EU chiếm khoảng 2,4% tổng giá trị nhập khẩu của thế giới. Trong đó EU nhập khẩu nhiều nhất từ châu á, đặc biệt là từ Trung Quốc.
Bảng 4-Tình hình nhập khẩu hàng dệt may của EU qua các năm :
Đơn vị : triệu USD
Năm
1990
1995
1998
1999
2000
2001
Hàng dệt
50370
56368
58016
52774
49774
50268
Hàng may
56844
76245
86786
86917
85909
86138
Nguồn : International Trade Statistics (2001)
1.3. Nhật Bản :
Đây là nước lớn nhất châu á, đứng thứ ba thế giới về nhập khẩu hàng dệt may phục vụ cho tiêu dùng nội địa và nhịp độ tăng trưởng khá cao, bình quân tăng 17%/năm trong giai đoạn 90-96. Riêng năm 90, mức nhập khẩu đạt con số 8737 triệu USD chiếm 7,6% kim ngạch nhập khẩu hàng may thế giới.
Bảng 5-Tình hình nhập khẩu hàng dệt may của Nhật Bản qua các năm
Đơn vị: triệu USD
Năm
1990
1995
1998
1999
2000
2001
Hàng dệt
4106
5985
4357
4547
4939
4958
Hàng may
8737
18758
14723
16402
19709
19772
Nguồn : International Trade Statistics (2001)
2. Đánh giá thị trường hàng dệt may Bắc Mỹ :
Nói đến thị trường Bắc Mỹ người ta thường nghĩ ngay đến NAFTA (North America Free Trade Area) với các quốc gia Hoa Kỳ, Canada, Mexico, trong đó quan trọng nhất phải là Hoa Kỳ - một quốc gia diện tích lớn thứ tư thế giới và dân số đông thứ ba thế giới tạo nên một thị trường tiêu thụ mạnh vào bậc nhất thế giới với nền kinhh tế có GDP chiếm tới 27% giá trị của cả thế giới (9860 tỷ USD -năm 2000)
Nhìn chung trong chiến lược sản xuất hàng hoá, các nước này không đề cao một thị trường sản phẩm toàn diện mà họ chỉ chọn sản xuất những mặt hàng thế mạnh, không có đối thủ và khuyến khích nhập khẩu hàng hoá cần nhiều lao động từ các nước khác, tạo sự cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trường trong nước để dân chúng được mua hàng rẻ hơn với chất lượng cao hơn. Nét đặc thù của thị trường này là sức mua lớn với các phân đoạn thị trường rất rộng nên có thể tiêu thụ nhiều chủng loại hàng hoá khác nhau thuộc đủ mọi cấp chất lượng từ trung bình đến cao. Thị trường này còn thu hút các nhà xuất khẩu bởi khả năng mua hàng có khối lượng lớn và ổn định. Một khi đã qua được giai đoạn giới thiệu sản phẩm và thâm nhập được vào hệ thống phân phối và bán lẻ thì các nhà xuất khẩu nước ngoài sẽ nhận được những đơn hàng lớn và lâu dài, doanh thu ổn định giúp họ tái đầu tư sản xuất và liên tục phát triển.
Tuy nhiên thị trường Bắc Mỹ cũng có một số nét khác biệt sau mà các doanh nghiệp Việt Nam cần chú ý để dễ dàng hơn trong việc tiếp cận. Thứ nhất, qui mô đơn hàng thường lớn và giới hạn thời gian không mấy khi rộng rãi. Thứ hai, yêu cầu về chất lượng của thị trường khá cao và để đảm bảo chất lượng thì phải có các giấy chứng nhận hay xác nhận của các tổ chức quản lí chất lượng có uy tín trên thế giới. Thứ ba, tư vấn là tập quán của các công ty và thị trường Bắc Mỹ, đặc biệt là thị trường Mỹ nên các doanh nghiệp xuất khẩu cần sử dụng tư vấn khi thâm nhập thị trường. Thứ tư, phương thức giao dịch kinh doanh trên thị trường rất đa dạng, hiện đại. Ví dụ: nhiều công ti không có cửa hàng hay siêu thị mà chỉ có một kho chứa và một website trên Internet.
Đó là những đặc điểm nổi bật của thị trường Bắc Mỹ nói chung, trong đó có cả thị trường hàng dệt may nói riêng. Đi vào cụ thể, chúng ta sẽ xem xét đánh giá một số nét sau về thị trường hàng dệt may Bắc Mỹ ở các góc độ mà doanh nghiệpxuất khẩu cần quan tâm.
2.1. Mức tiêu thụ hàng dệt may của thị trường Bắc Mỹ.
Người dân Bắc Mỹ và đặc biệt là dân Mỹ rất thích việc đi mua sắm và xem đó như là một nhu cầu thiết yếu. Tốc độ tăng trưởng tiêu dùng cá nhân khá cao và mức tiêu dùng cũng tăng lên nhanh chóng qua các năm (bình quân 18.000 USD/người /năm).
Trong ngân quỹ của mình, người Mỹ dành một khoản chi tiêu khá nhiều cho may sắm quần áo (7%). Riêng năm 2001, Mỹ tiêu dùng 72 tỷ USD cho may sắm quần áo, con số này bằng 2 lần thu nhập quốc dân của Việt nam trong năm 2001. Đây là mức tiêu dùng đứng thứ tư, chỉ sau tiêu dùng cho nhà ở, đi lại, và thực phẩm.
Bảng 6- Mức tiêu thụ hàng dệt may của thị trường Mỹ qua các năm :
Đơn vị : tỷ USD
1996
1997
1998
1999
2000
2001
219,7
231,6
242,3
256,1
272,3
274,7
Nguồn : US Department of Commerce, Bureau of Economic Analysis, unpublished data and The Trade Partnership.
Nghiên cứu về thị trường, chúng ta không thể bỏ qua nghiên cứu về thị hiếu tiêu dùng của thị trường Bắc Mỹ, đặc biệt là thị trường Mỹ. Quần áo là loại sản phẩm đơn giản, nên khách hàng có nhu cầu mua định kỳ và luôn thích chủng loại hàng phong phú, kiểu mẫu phù hợp với thị hiếu thẩm mỹ thay đổi theo thời gian. Đa phần người Mỹ thích mặc mỗi ngày một màu quần áo khác nhau và mẫu mã cũng đa dạng nên hơn 90 % quần áo tiêu thụ tại thị trường này là quần áo may sẵn.
Nhìn chung, dân Mỹ ăn mặc khá phóng khoáng: nơi công sở họ chọn veston, sơ mi, quần âu, hay jupe. Lễ hội thì họ thêm các bộ đầm dạ hội, đi chơi phố, du lịch, tập thể thao thì đa số dùng áo dệt kim cotton, Polo-shirt, T-shirt với quần jean hay quần short. Mùa đông họ thường mặc đồ dệt kim, khoác áo len, áo Jacket hay áo lông. Nói chung quần áo không chỉ đa dạng mà rất thể hiện tính cách Mỹ, phản ánh lối sống cá nhân tự do kiểu Mỹ.
Khuynh hướng chung của họ là chuộng thời trang, hàng có nét độc đáo. Họ sẵn sàng chấp nhận rất nhiều các loại “mode” khác nhau, thậm chí môtip trái ngược nhau, nhưng phải theo các xu hướng thời thượng. Tuy nhiên họ cũng có trình độ nhận thức rất cao về hàng tiêu dùng: người Mỹ muốn có sản phẩm chất lượng đảm bảo mà giá cả phù hợp, bao bì mang tính thẩm mỹ cao. Ngoài ra, tính thời vụ cũng được coi là yếu tố khá quan trọng, tuổi thọ hàng tiêu dùng rất ngắn và người bán phải thường xuyên chạy đua với thời trang.
Xét về mặt phân đoạn thị trường thì thị trường Bắc Mỹ có nhiều phân đoạn và tương đối dễ tính. Trong khi Nhật Bản chỉ chấp nhận hai cấp chất lượng thì ở thị trường này họ có thể chấp nhận đến năm, sáu cấp. Họ tiêu thụ sản phẩm từ bình dân đến cao cấp, cả hai loại này đều có nhu cầu lớn trên thị trường Bắc Mỹ.
2.2. Tình hình sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may của thị trường Bắc Mỹ
Ngành dệt may được đánh giá là một ngành tương đối quan trọng trong hệ thống các ngành công nghiệp của Bắc Mỹ. Riêng tại Mỹ, đây là ngành công nghiệp lớn đứng thứ mười sau các ngành xe hơi, năng lượng, cơ khí, hoá chất. Cũng như tại các nước khác, ngành dệt may ở Bắc Mỹ cũng được chia ra làm hai mảng lớn là dệt và may.
Mỹ là một trong những nước sản xuất bông xơ hàng đầu thế giới (chỉ sau Trung Quốc). Hàng năm, Mỹ sản xuất khoảng 4,2 triệu tấn bông xơ. Nhưng thời gian gần đây, sản lượng bông xơ của Mỹ có khuynh hướng giảm : Sản lượng bông vụ 98-99 là 13,6 triệu kiện đã giảm rất nhiều so với vụ 94-95 là 19,7 triệu kiện và vụ bông 2002 này sản lượng bông của Mỹ dự đoán chỉ còn 3,8 triệu tấn (giảm 13% so với vụ năm trước)[20].
Đối với sản phẩm may mặc, ngành sản xuất hàng may mặc của Bắc Mỹ đều chịu sự cạnh tranh gay gắt của hàng nhập khẩu từ các nước châu á như Trung Quốc, Indonesia, Băng la đét. Ưu thế của các nước này là chi phí nhân công thấp, là điều rất quan trọng đối với ngành sử dụng nhiều lao động nhiều như dệt may. Hơn nữa, trong chiến lược phát triển kinh tế của các nước này đều ưu tiên sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng có hàm lượng chất xám cao và tiến hành nhập khẩu hàng tiêu dùng. Điều này giải thích cho việc hàng năm Mỹ phải nhập một khối lượng khổng lồ hàng dệt may để phục vụ nhu cầu trong nước.
Từ năm 1970, ngành công nghiệp dệt may của Mỹ phải giảm gần 500.000 nhân công vì hàng nhập khẩu. Để đối phó với cuộc cạnh tranh này các nhà máy sản xuất quần áo lớn của Mỹ đều có những đổi mới đáng kể. Một trong những đổi mới đáng kể là đầu tư chiều sâu vào công nghệ ngành dệt: trang bị máy móc thiết bị hiện đại để nâng cao khả năng cạnh tranh ở cả thị trường trong và ngoài nước.
Ngành dệt may của Bắc Mỹ được hỗ trợ rất lớn bởi nguyên liệu đầu vào khá dồi dào do sản xuất bông xơ phát triển. Ngoài ra, Mỹ còn thực hiện chiến lược xuất khẩu vải và nguyên liệu, sau đó nhập khẩu thành phẩm ngay trong nội bộ khối NAFTA.Ví dụ Mỹ nhập quần áo từ Mêhicô bằng nguyên liệu vải mà Mỹ cung cấp.
Bảng 7- Một số công ty bán lẻ chủ yếu hàng may mặc của Mỹ
Tên công ty
Doanh số bán hàng may mặc (tỷ USD)
Thị phần tiêu dùng (%)
Wal-Mart Stores
J.C.Penney Co
Federated Department Stores
Gap.Inc.
Target Stores
The Limited
May Department Stores
Sears.Roebuck&Co
Kmart
34
22,8
14,5
11,6
10,1
9,7
9,7
8,2
7,2
12,5
8,5
5,5
4,4
3,7
3,7
3,7
2,9
2,6
Tổng giá trị
127,8
47,5
Nguồn: Ira Kalish, Retail Forward, reported in Women ‘s Wear Daily, April 11,2002 and The Trade Partmentship.
Bảng số liệu trên chỉ rõ tình hình tiêu thụ trong nước và khả năng đáp ứng nhu cầu. Nếu nhìn vào mảng xuất khẩu của ngành dệt may Bắc Mỹ thì xuất khẩu nội vùng NAFTA chiếm phần lớn và ngày càng tăng về tỷ trọng buôn bán nội vùng. Năm 1990 con số này chỉ chiếm khoảng 43% thì năm 2000 đã tăng lên khoảng 56 %. Về cơ cấu hàng xuất khẩu thì tỷ lệ hàng may có cao hơn hàng dệt một chút.
Một lợi thế trong ngành hàng dệt may của Mỹ là những sản phẩm thời trang cao cấp, dù giá cao nhưng vẫn có chỗ đứng và cạnh tranh được với các nước khác, điển hình như hãng Levi Strauss & Co, Tommy Hilfiger, Lee, Gap, Wrangler..
2.3. Tình hình nhập khẩu hàng dệt may của thị trường Bắc Mỹ.
Như chúng ta đã biết, thị trường Bắc Mỹ và đặc biệt là Mỹ là một thị trường hấp dẫn và lí tưởng của hàng dệt may. Vì sản xuất trong nước không đáp ứng đủ nhu cầu, mặt khác chiến lược phát triển của Mỹ cũng nghiêng về nhập khẩu hàng tiêu dùng nên Mỹ được coi là một trong những nước nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất thế giới và hàng dệt may được xếp vào một trong 10 mặt hàng thiết yếu trong cơ cấu nhập khẩu của Mỹ.
Bảng 8-Kim ngạch nhập khẩu hàng dệt, may của thị trường Bắc Mỹ (gồm Mỹ và Canada):
Đơn vị : Triệu USD
Năm
1990
1995
1998
1999
2000
2001
Hàng dệt
8.966
13.476
17.373
18.105
19.875
20.237
Hàng may
23.996
37.004
51.119
53.746
60.493
60.586
Tổng
32.962
50.520
68.492
71.851
80.368
80.823
Nguồn : ITCB-Council of Representatives 35th Session, Vietnam2002
Như vậy, trong cơ cấu hàng dệt may nhập khẩu vào thị trường Bắc Mỹ thì hàng dệt chiếm tỷ lệ ít hơn hàng may. Bởi lẽ Mỹ là nước có ưu thế về sản xuất bông, sợi nên không phải nhập khẩu nhiều. Trong khi đó, Mỹ lại không có ưu thế về giá nhân công nên lợi thế so sánh kém hơn các nước khác. Vì thế Bắc Mỹ mở cửa thị trường của mình để nhập khẩu. Hàng may mặc chiếm tỷ lệ 75% trong cơ cấu trên.
Để tăng kim ngạch xuất khẩu vào Mỹ, các nhà xuất khẩu của rất nhiều nước đã cố gắng thâm nhập và chiếm lĩnh thị trường này. Một ví dụ của thị trường Mỹ - Bảng số liệu sau đây thể hiện những nước thành công nhất, có chỗ đứng vững chắc trên thị trường hàng dệt may Mỹ.
Bảng 9 - Các khu vực xuất khẩu chính hàng dệt-mayvào thị trường Mỹ năm 2001.
Giá trị (triệu USD)
Tổng
70.240
1. Mexico
8.954
2. Trung Quốc
6.536
3. Hồng Kông
4.403
4. Hàn Quốc
2.931
5. ấn Độ
2.633
6. Indonesia
2.553
Nguồn : ITCB-Council of Representatives 35th Session, Vietnam2002
Nhìn vào bảng ta nhận thấy cơ cấu thị phần hàng dệt may ở Mỹ chia đều cho nhiều nước, không có nước nào chiếm trên 15% thị phần về mặt hàng này. Những nhà cung cấp được chia làm hai khối: lớn nhất là từ các nước và lãnh thổ châu á như Trung Quốc, Đài Loan, Hông Kông, Hàn Quốc, ấn độ, Philippin. Tiếp đến là khối NAFTA, mà chủ yếu là Mêhicô. Tuy nhiên, cơ cấu này đang có sự thay đổi mạnh mẽ do buôn bán nội vùng NAFTA tăng lên rất nhiều do ảnh hưởng cuả Hiệp ước khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ này.
Trong cơ cấu các sản phẩm may mặc mà Mỹ thường nhập khẩu ta thấy sự đa dạng về chủng loại, từ comple áo sơmi nam nữ, áo choàng, áo thun các loại đến quần áo trẻ em, đồ ngủ, đồ lót, bit tất. Trong đó, comple và bộ đồ nam nữ dệt thường được nhập khẩu nhiều nhất, thường chiếm tỷ trọng trên 50% trị giá nhập khẩu. Các sản phẩm cotton vẫn luôn chiếm tỷ trọng cao nhất trong các sản phẩm nhập khẩu vì thị hiếu tiêu dùng của dân Mỹ thích đồ cotton hơn. Năm 2000, nhập khẩu sản phẩm cotton lên dến 26149 triệu USD, chiếm khoảng 20% tổng giá trị nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ.
2.4. Tình hình giá cả nhập khẩu hàng dệt may tại thị trường Bắc Mỹ
Thị trường Bắc Mỹ vẫn được đánh giá là một thị trường “thoáng” về giá cả. Điều đó có nghĩa người dân Bắc Mỹ tiêu dùng khá phóng khoáng do mức sống của họ cao, nhiều tầng lớp dân cư nên có nhiều phân đoạn thị trường. Đối với người dân Mỹ, chuyện đi shopping đã trở thành một thói quen tiêu dùng không thể thiếu trong cuộc sống. Trên thực tế, các nhà nhập khẩu Bắc Mỹ thì vẫn nhập khẩu với mức giá càng thấp càng tốt, miễn là không đến mức phá giá thị trường ảnh hưởng đến các nhà sản xuất trong nước.
Chính sách nhập khẩu của Hoa Kỳ đối với các nước đang phát triển được chia thành 4 nhóm rất khác nhau. Nhóm 1 gồm các nước thành viên WTO, nhóm 2 gồm các nước chưa là thành viên WTO nhưng có Hiệp định thương mại song phương với Hoa Kỳ, nhóm 3 là các nước đối lập với Hoa Kỳ, bị hạn chế gần như hoàn toàn với Hoa Kỳ, nhóm 4 là nhóm các nước được hưởng ưu đãi đặc biệt của Hoa Kỳ. Song điều đáng lưu ý là chính sách nhập khẩu của Hoa Kỳ hiếm khi được trình bày cụ thể mà phần lớn được biểu hiện trực tiếp trong các đạo luật, các bài phát biểu của giới chức chóp bu kinh tế thương mại của Hoa Kỳ, đặc biệt từ cơ quan đại diện thương mại Hoa Kỳ (USTR). Dù để thực thi chính sách nào thì Hoa Kỳ cũng sử dụng thuế quan làm công cụ chung với các nước. Hệ thống thuế quan của Hoa Kỳ là biểu thuế quan hài hoà được thống nhất giữa các bang của Hoa Kỳ và chính thức áp dụng từ 1/1/1989 ( Harmonized System_HS), được tất cả các nước buôn bán lớn trên thế giới áp dụng. Hầu hết thuế quan của Hoa Kỳ là thuế quan theo trị giá, thuế được tính trên cơ sở % của trị giá hàng nhập khẩu (Advalorem duty rate). Mặt hàng dệt may và giày dép thường bị tính thuế suất cao hơn các mặt hàng khác. Sở dĩ chúng ta phải nói nhiều đến thuế quan vì giá cả nhập khẩu hàng dệt may từ các nước vào thị trường Bắc Mỹ chịu áp lực cạnh tranh từ chính chế độ thuế quan mà Mỹ dành cho nước xuất khẩu. Việt nam hiện thuộc nhóm 2, Hiệp định thương mại Việt Mỹ có hiệu lực từ 10/12/2001, đây là một “hạ rào” tương đối lớn cho năng lực cạnh tranh của hàng dệt may Việt nam vào thị trường Bắc Mỹ.
Một vấn đề nữa ảnh hưởng đến giá cả nhập khẩu hàng dệt may vào thị trường Bắc Mỹ chính là vấn đề hạn ngạch, bởi để có được hạn ngạch xuất khẩu thì các nhà xuất khẩu phải trả thêm một khoản tiền trên những sản phẩm xuất khẩu . Bảng số liệu sau đây cho chúng ta biết sự chênh lệch về giá cả nhập khẩu do hạn ngạch giữa Mỹ và EU
Bảng10-So sánh giá cả nhập khẩu hàng dệt may Mỹ và EU do vấn đề hạn ngạch đối với các nước.
Đơn vị : phần trăm(%)
Nước
Mỹ (hàng dệt)
Mỹ(hàng may)
EU(hàng dệt)
EU(hàng may)
Hàn Quốc
Indonesia
Malaysia
Philipin
Singapore
Thailand
Việt Nam
China
HongKong
2,4
8,1
8,1
6,5
0,0
8,3
0,0
20,0
1,0
1,9
7,8
7,8
7,8
0,6
13,2
0,0
33
10
1,6
6,3
6,3
5,7
0,2
6,4
7,5
12,0
1,0
0,6
6,0
6,0
6,0
0,2
7,8
7,2
15
5
Nguồn: Joseph F.Francois and Dean Spinanger, June 2000.
Đối với vấn đề này, Việt nam hiện vẫn chưa bị áp dụng hạn ngạch, song theo tin mới nhất từ ông Peter Mc Grath _phó chủ tịch tập đoàn siêu thị J.Cpenney(Mỹ), gần như chắc chắn chính phủ Hoa Kỳ sẽ áp dụng hạn ngạch đối với hàng dệt may Việt nam, có thể trong năm 2003. Nguyên nhân là do áp lực từ các nhà sản xuất Hoa Kỳ và một nguyên nhân nữa là do sắp tới 2005 Mỹ sẽ phải bỏ hẳn hạn ngạch dệt may đối với các nước thành viên WTO nên trong giai đoạn này Hoa Kỳ muốn áp dụng hạn ngạch với Việt nam càng sớm càng tốt. Điều bất lợi về phía Việt nam chỉ là điều kiện xuất khẩu, đang từ xuất khẩu tự do thì phải chuyển sang xuất khẩu có điều kiện và tuân thủ hạn ngạch.
3. Hiệp định hàng dệt may ATC đối với nhập khẩu hàng dệt may của Bắc Mỹ.
3.1. ATC là gì?
Năm 1994, trong khuôn khổ vòng đàm phán Uruguay của Tổ chức thương mại thế giới WTO, Hiệp định về hàng dệt may ATC _(Agreement on Textile and Clothing) đã ra đời thay thế cho Hiệp định đa sợi MFA và là Hiệp định quốc tế chính bao trùm trong lĩnh vực dệt may. Mọi thành viên của WTO đều phải tuân theo các qui định của ATC và chỉ các thành viên của WTO được hưởng các lợi ích của Hiệp định.
3.2. Tiến trình hội nhập theo ATC
Theo qui định của ATC quá trình tự do hoá buôn bán các sản phẩm dệt may sẽ trải qua một thời gian chuyển tiếp là 10 năm bắt đầu từ 1/1/1995 và được chia thành 4 giai đoạn :
_Ngày1/11995, hội nhập không dưới 16%khối lượng hàng hoá nhập khẩu trong năm 1990 theo bản danh mục hàng hoá của Hiệp định
_Ngày 1/11998, hội nhập không dưới 17% tiếp theo của khối lượng hàng hoá nhập khẩu.
_Ngày 1/1/2002, hội nhập không dưới 18% tiếp theo của khối lượng hàng hoá nhập khẩu.
_Ngày 1/12005. tất cả số hàng hoá còn lại phải được hội nhập, các hạn chế theo MFA được loại bỏ hoàn toàn.
Hiệp định về hàng dệt may là một trong những thành công chính của Vòng đàm phán Uruguay, tạo ra triển vọng cho ngành dệt may thế giới. Tuy nhiên, có rất nhiều yếu tố kinh tế khác tác động tới viễn cảnh dệt may trong tương lai.
Do loại bỏ MFA sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may ở hầu hết các nước xuất khẩu đều tăng. Xuất khẩu từ các nước bị hạn chế theo MFA tới các nước áp đặt hạn ngạch sẽ tăng 26% đối với hàng may mặc và 10% đối với hàng dệt. Sản xuất và xuất khẩu hàng may ở các nước xuất khẩu lớn có thể bị thu hẹp do giảm khả năng cạnh tranh vì giá lao động cao tương đối so với các nước đầu tư. Tuy nhiên các nước này sẽ được bù lại bằng tăng sản xuất và xuất khẩu hàng dệt nhờ nhu cầu hàng dệt làm nguyên liệu cho công nghiệp may tăng lên ở các nước đang phát triển. Về lâu dài, việc loại bỏ MFA có thể mang lại nhiều lợi ích hơn cho các nhà xuất khẩu mới (các nước xuất khẩu ở Nam á, ASEAN và Trung Quốc. Nếu các nước này có lợi thế so sánh và có chính sách phù hợp phát huy được các lợi thế đó, họ sẽ có tiềm năng lớn để tăng cường xuất khẩu hơn so với các nước xuất khẩu lâu đời. Tăng cường xuất khẩu sẽ làm tăng GDP, đặc biệt là ở các nước mà ngành công nghiệp dệt may giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế.
Việc loại bỏ MFA sẽ làm tăng cơ hội xuất khẩu cho tất cả các nước. Trong khi Bắc Mỹ và EU vẫn là thị trường nhập khẩu lớn của thế giới ở thế kỉ 21 thì bản thân các nước phát triển có lợi thế so sánh về sợi tổng hợp phụ thuộc vào mức độ tự do hoá thị trường ở các nước đang phát triển, vì tự do hoá thương mại sẽ làm tăng khả năng cạnh tranh của các sản phẩm này do chi phí đầu vào thấp hơn. Các nước phát triển vẫn tiếp tục chiếm ưu thế về các sản phẩm may mặc chất lượng cao vì họ có lợi thế về thị trường và thiết kế hơn hằn các nước đang phát triển.
3.3. Việc điều chỉnh chính sách thương mại và công nghiệp của các nước theo ATC.
Như đã phân tích ở trên, ATC sẽ có những tác động tích cực đến sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may của toàn thế giới và của từng nước tuỳ theo mức độ riêng biệt. Tuy nhiên để có thể phát huy hết tiềm lực của từng nước trong điều kiện mới theo ATC, việc điều chỉnh các chiến lược, chính sách công nghiệp thương mại sao cho phù hợp là rất cần thiết, đặc biệt là các nước đang phát triển.
Các nước đang phát triển có mức thu nhập thấp, công nghiệp dệt may đóng vai trò quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá. Hiện nay, chi phí tiền lương thấp vẫn là những thuận lợi lớn để các nước này tiếp tục tăng trưởng xuất khẩu hàng dệt may. Tuy nhiên cũng cần phải tìm ra một sự kết hợp tối ưu về cơ cấu hàng hoá xuất khẩu tuỳ theo lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh tương ứng thích hợp với từng nước. Cơ sở hạ tầng như đường bộ, đường sắt, cảng, phương tiện thông tin, dịch vụ công cộng cũng rất quan trọng đối với cạnh tranh trong xuất khẩu. Kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy, phải có nền tảng cơ sở hạ tầng vững chắc trước khi muốn tăng trưởng xuất khẩu.
Loại bỏ MFA sẽ khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đầu tư nước ngoài có vai trò quan trọng trong phát triển quan hệ thương mại và cải tiến công nghệ sản xuất dù công nghiệp dệt may thường được coi là ngành sử dụng công nghệ trình độ thấp. Sản xuất sẽ được cải thiện nếu các nước cùng nhau cam kết xoá bỏ rào cản bằng các chính sách minh bạch và hài hoà cùng môi trường kinh tế cởi mở đối với hoạt động đầu tư nước ngoài. Cũng cần lưu ý rằng công nghệ mới trong ngành dệt may không nhất thiết phải công nghệ phần cứng (máy móc, thiết bị) mà công nghệ phần mềm lại có ý nghĩa quan trọng hơn. Vấn đề kiểm tra chất lượng, Marketing, trình độ quản lí tốt không chỉ làm tăng hiệu quả trong các liên doanh mà còn có tác động tích cực tới các doanh nghiệp khác.
Bên cạnh việc thực hiện cải cách MFA một cách nghiêm ngặt còn cần phải có biện pháp hạn chế việc tiếp tục duy trì bảo hộ dưới các hình thức khác. Các nước xuất khẩu có quyền yêu cầu điều chỉnh xu hướng này thông qua WTO và các tổ chức quốc tế khác. Hơn nữa, nhìn chung thuế quan về hàng dệt may vẫn cao hơn nhiều so với đánh thuế vào hàng công nghiệp. Trong khi mức thuế đánh vào hàng công nghiệp được các nước phát triển cam kết giảm khoảng 40% thì thuế đôí với hàng dệt may chỉ được giảm khoảng 22%. Các nước xuất khẩu cần cố gắng phối hợp với nhau thông qua WTO để giảm thuế hàng dệt may xuống tương đương với các hàng hoá khác.
Đối với xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Bắc Mỹ, Hiệp định ATC có ảnh hưởng như thế nào? Thực tế, chỉ các nước thành viên WTO mới chịu ảnh hưởng của Hiệp định, song phía Việt nam do có Hiệp định thương mại song phương nên đến 2005 phía Hoa Kỳ vẫn phải dành cho ta những ưu đãi như MFN, xoá bỏ hạn ngạch.v.v. Nhưng đây chỉ là riêng với thị trường Hoa Kỳ, còn với Canada, Mêhicô thì vấn đề Việt nam gia nhập tổ chức WTO là điều kiện cũng rất quan trọng để tăng trưởng xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Bắc Mỹ.
Tóm lại, chương I với những nét khái quát nhất về Marketing quốc tế, vấn đề cạnh tranh quốc tế hiện nay và đánh giá khái quát tình hình thị trường hàng dệt may Bắc Mỹ, đã cho ta thấy bức tranh toàn cảnh về một thị trường tiềm năng mà chúng ta đang hướng tới. Song lực của chúng ta hiện nay như thế nào? Có đáp ứng được thị trường Bắc Mỹ hay không và triển vọng phát triển ra sao? Chương II sẽ tiếp tục tìm hiểu về tình hình sản xuất, xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Bắc Mỹ.
Chương II:Tình hình xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào thị trường Bắc Mỹ
I.Đánh giá khái quát tình hình sản xuất trong nước.
Ngành dệt may ở Việt nam là ngành công nghiệp truyền thống có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển. Từ khi Đổi Mới, các doanh nghiệp dệt may không còn được bao cấp nữa mà phải tự hạch toán cả đầu vào, đầu ra, tự tìm cho mình thị trường tiêu thụ. Tuy nhiên, ngành không ngừng phát triển cả về qui mô, năng lực sản xuất, trình độ trang thiết bị, ngày một tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng sản phẩm. Cho đến nay, sản phẩm dệt may Việt nam đã đáp ứng được một phần đáng kể nhu cầu của người tiêu dùng trong nước và có khả năng xuất khẩu lớn sang các thị trường khó tính như EU, Nhật Bản, Bắc Mỹ..Việc xuất khẩu hàng dệt may đã đem lại một khoản ngoại tệ không nhỏ để đổi mới và nâng cấp toàn bộ trang thiết bị công nghệ của ngành dệt may. Ngành dệt may không chỉ đem lại nguồn tích luỹ cho nền kinh tế mà còn góp phần quan trọng giải quyết việc làm, mang lại thu nhập cho người lao động, tạo sự ổn định kinh tế, chính trị, xã hội trong cả nước.
Nước ta có số dân đông, nguồn lao động dồi dào, người Việt nam lại có truyền thống cần cù, khéo léo và rất sáng tạo. Mặt khác, giá cả sinh hoạt thấp nên chi phí nhân công rẻ hơn tạo điều kiện quan trọng cho hàng dệt may có ưu thế cạnh tranh rõ rệt. Đặc điểm của ngành dệt may không đòi hỏi vốn đầu tư lớn, quay vòng vốn nhanh, đội ngũ công nhân lành nghề có thể sản xuất được những sản phẩm chất lượng cao. Hơn nữa, Việt nam còn có vị trí thuận lợi cho việc chuyên chở hàng hoá bằng đường biển nên giảm được chi phí vận tải. Việt nam cũng nằm trong khối các nước và lãnh thổ xuất khẩu lớn hàng dệt may như Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan, Hồng Kông, Đài Loan, nên ngành công nghiệp Việt nam đang là một thị trường hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Có thể nói, phát triển ngành dệt may Việt nam là phát huy tối đa những lợi thế lớn hiện nay để phát triển nền kinh tế của đất nước.
1. Năng lực sản xuất, cơ sở vật chất kỹ thuật.
1.1. Năng lực sản xuất
Nhìn một cách tổng thể, chúng ta thấy, giá trị sản phẩm của ngành dệt may hiện nay đang chiếm 8,5% tổng giá trị của toàn ngành công nghiệp Việt nam, trong đó ngành dệt chiếm 4,6%, ngành may chiếm 3,9%. Điều đó khẳng định rõ vị trí của ngành dệt may trong cơ cấu các ngành công nghiệp.
Bảng 11- Tổng quan về sản xuất hàng dệt, may của nước ta những năm qua.
Đơn vị: tỉ đồng
Sản phẩm
1996
1997
1998
1999
2000
Sản phẩm dệt
7803,7
8838,2
11313,5
11197,3
13627,2
Sảnphẩm may
5137,7
8837
9683,4
9352,3
11091,8
Nguồn : Niên giám thống kê 2001-NXB Thống kê.
Từ bảng thống kê trên, chúng ta thấy, dệt và may đạt giá trị sản xuất gần tương đương nhau. Tuy nhiên, về chiều hướng phát triển hiện nay ngành may đang phát triển tốt hơn, đặc biệt là may công nghiệp xuất khẩu, Hiện nay, ngành dệt trong nước vẫn chưa đủ đáp ứng cho ngành may mà chúng ta vẫn phải nhập ngoại khá nhiều.
Theo nguồn số liệu của Tổng công ti Dệt_ may Việt nam đến 28/02/2002, tình hình sản xuất của ngành dệt may Việt nam hiện nay được đánh giá qua sản lượng sợi, sản lượng dệt, và sản lượng may của các doanh nghiệp dệt và may như sau:
Bảng12- Tình hình năng lực sản xuất của ngành dệt may.
Doanh nghiệp
Sản lượng sợi (tấn)
Sản lượng dệt
Sản lượng may
Vải dệt
(1000m2)
Đan kim (1000 kg)
Sp đan thoi (1000 chiếc)
Sp đan kim (1000 chiếc)
Tổng cộng
Doanh nghiệp dệt
100.008
159.774
13.000
16.113
32.200
48.333
Doanh nghiệp may
65.029
6.908
71.937
Tổng cộng
100.008
159.774
13.000
81.162
39.108
120.270
Nguồn: Báo cáo năng lực sản xuất-Tổng công ti Dệt- may Việt Nam
Mặc dù đây mới chỉ là bảng tổng kết năng lực dệt may của các đơn vị thành viên thuộc Tổng công ti Dệt- may Việt Nam nhưng cũng nói lên khá rõ tình hình sản xuất toàn ngành dệt may nước ta đã có những bước phát triển rõ rệt. Ví dụ, sản lượng sợi dệt năm 1991 mới là 40 nghìn tấn, đến năm 1997 là 69 nghìn tấn và đến năm 2002 đã đạt con số 100 nghìn tấn. Những con số trên cho thấy khả năng sản xuất sợi, nguyên liệu cung cấp cho các công ty may đã tăng lên. Tuy nhiên như đã nói ở trên ngành dệt vẫn phải tăng cường hơn nữa khả năng cạnh tranh của mình, không chỉ bằng lòng với việc cung cấp cho các doanh nghiệp may trong nước như hiện nay.
Trong ngành dệt may, các cơ sở sản xuất phân bố trên cả nước nhưng sự phân bố đó chưa đảm bảo thực sự hợp lí. Hiện nay Tổng công ty Dệt-may Việt nam có hơn 40 doanh nghiệp thành viên hạch toán độc lập (tham gia sản xuất từ kéo sợi, dệt vải đến các khâu may mặc), một công ty tài chính, 4 xí nghiệp cơ khí, 2 công ti liên doanh, 2 viện nghiên cứu ứng dụng và 3 trường đào tạo kinh tế kỹ thuật, 2 công ty dịch vụ thương mại ở Hà nội và thành phố Hồ Chí Minh, các chi nhánh ở Đà Nẵng và Hải Phòng. Xét trên cả nước, ngành dệt -may Việt nam hiện có gần 250 cơ sở sản xuất dệt và 500 cơ sở sản xuất may, có cả doanh nghiệp quốc doanh và ngoài quốc doanh, phân bố chủ yếu ở các thành phố lớn thuộc hai miền Bắc, Nam nhiều hơn ( như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng..). Đối với khu vực ngoài quốc doanh, đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân, hộ cá thể có mức tăng nhanh về số cơ sở và giá trị sản xuất. Điều đó tạo thế phát triển tương đối hài hoà và mạnh mẽ cho ngành dệt may Việt nam.
Điều đáng chú ý là số lượng nhân công thu hút vào ngành may hiện nay lên tới khoảng nửa triệu người, chiếm 20% lực lượng lao động trong ngành công nghiệp chế tác của Việt Nam (trong đó 80%là nữ). Về trình độ văn hoá và chuyên môn kỹ thuật của ngành, trình độ phổ thông chiếm đa số với 66% trong khi công nhân lành nghề chỉ chiếm 28,6%. Bên cạnh đó lực lượng lao động có trình độ trung cấp và đại học-lực lượng cần thiết để phát triển ngành dệt may cả về kỹ thuật cũng như kỹ năng buôn bán trên thương trường chỉ chiếm có 5,5%. Nếu so với tỷ lệ các nước khác là 5-20% có trình độ đại học và trên đại học, con số này của Việt nam vẫn còn rất thấp. Nguyên nhân là do công tác đào tạo lao động chất xám cho ngành dệt may là sinh viên theo học ngành công nghệ này còn ít so với nhu cầu, các cơ sở đào tạo cán bộ cho ngành có xu hướng bị co lại. Ngành đang đứng trước nguy cơ khủng hoảng thiếu đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật. Theo dự báo của Tổng công ti dệt may Việt nam, hàng năm ngành dệt may nước ta cần bổ sung khoảng 30000 lao động có tay nghề cao, trong đó có khoảng 400 kỹ sư công nghệ. Ngành dệt may cần chú ý đầu tư hơn nữa tay nghề cũng như năng lực của cán bộ công nhân viên nhằm đáp ứng được nhu cầu tăng trưởng của ngành.
2.1. Cơ sở vật chất kỹ thuật trang bị trong sản xuất
Những năm gần đây, trang thiết bị ngành dệt may đã tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng, nhất là về tính năng công dụng từ máy đạp chân C22 của Liên Xô cũ, máy 8322 của Đức đến máy Juki của Nhật và FFAP của CHLB Đức. Ví dụ điển hình ở Tổng công ti dệt may Việt nam đã đầu tư cải tạo, nâng cấp thay thế cục bộ như đưa tự động Auto-Leveller máy ghép, uster máy ống và hệ thống chải bông để tận dụng gần 500000 cọc sợi chưa có điều kiện thay thế ở các nhà máy kéo sợi. Vừa qua, Tổng công ty cũng thay thế trên 4000 máy dệt khổ hẹp, mất hệ tự động không đảm bảo chất lượng sản phẩm, đồng thời phải đổi mới toàn bộ số thiết bị hồ mắc đánh ống nhằm đáp ứng cho máy dệt hiện đại tốc độ cao, khổ rộng. Tổng công ti còn thay thế mới thiết bị dệt kim tròn và dọc đầu tư trước 1975 đã bị hư hỏng nhiều, không còn phù hợp thời trang dệt kim trên thế giới.Thiết bị dệt kim cũng được thay thế 55% để đồng bộ làm ra các mặt hàng cao cấp và 45% được nâng cấp, bổ sung để hoàn thiện dây chuyền đồng bộ.
Để đáp ứng yêu cầu chất lượng sản phẩm cao, công nghệ may đã có những chuyển biến khá kịp thời, các dây chuyền may được bố trí theo qui mô vừa phải (25 máy), sử dụng 34 -37 lao động gọn nhẹ và có nhân viên kiểm tra thường xuyên, có khả năng chấn chỉnh sai sót ngay cũng như thay đổi mã hàng nhanh. Khâu hoàn tất được lắp đặt các thiết bị đóng túi, súng bắn nhãn, máy dò kim...Công nghệ tin học cũng được đưa vào một số khâu sản xuất ở một số công ty.
Bên cạnh những chuyển biến tích cực trên, mặt hạn chế điển hình nhất của ngành dệt may Việt nam hiện nay là năng suất lao động còn thấp, giá thành sản phẩm cao. Nguyên nhân chính của tình trạng này là do trình độ công nghệ chưa cao và chưa đồng bộ, tổ chức sản xuất chưa hợp lí, mức độ sử dụng dụng cụ chuyên dùng thấp. Bên cạnh đó, năng lực thiết kế mẫu mốt và kỹ thuật may công nghiệp còn yếu, khâu cắt chưa đảm bảo, còn dùng phương pháp thủ công. So với công nghệ của các nước Trung Quốc, Thái Lan thì trình độ công nghệ của Việt nam lạc hậu khoảng 5-7 năm, phần mềm điều khiển lạc hậu từ 15-20 năm. Hiện nay chỉ huy động được khoảng 60% năng lực hiện có.
Nhìn chung, trong ngành dệt may Việt nam hiện nay, trang bị đã được nâng cao so với chính chúng ta trước đây, song vẫn còn thua kém nhiều so với các nước công nghiệp phát triển, thậm chí còn đi sau cả các nước đang phát triển trong khu vực như Trung Quốc, Thái lan, Malaysia....
2.Tiêu thụ trong nước và khả năng xuất khẩu.
2.1. Tình hình tăng trưởng về sản xuất của ngành dệt may Việt nam
Trong thời gian qua, sản xuất của ngành dệt may nhằm đáp ứng tiêu dùng trong nước, đặc biệt ngành may công nghiệp phục vụ xuất khẩu đã có rất nhiều thành tựu đáng kể. Nếu như năm 1990 xuất khẩu hàng dệt may đạt 20 triệu USD thì đến năm 1995 đã đạt 850 triệu USD và năm 2001 vừa qua, xuất khẩu đạt 1975,4 triệu USD, trong đó phần lớn là sản phẩm của công nghiệp may.
Như chúng ta đã biết, ưu thế vốn ít, quay vòng nhanh, khả năng xuất khẩu cao nên ngành may công nghiệp là lĩnh vực phát đạt nhất trong toàn ngành dệt may. Đặc biệt khi thị trường xuất khẩu ngày càng được mở rộng thì giá trị sản lượng của ngành may tăng vọt hơn so với năm trước đó. Nhìn chung toàn ngành có tốc độ tăng trưởng khá(10,7%/năm).Trong thời gian qua, xuất khẩu tăng 59%, riêng may mặc chiếm khoảng 15% tổng giá trị xuất khẩu của cả nước, tạo việc làm cho gần 50 vạn lao động, chưa kể số lao động trong các ngành cung cấp nguyên liệu cho ngành dệt như trồng bông, trồng dâu, nuôi tằm..
2.2. Cơ cấu sản phẩm của hàng dệt may Việt nam.
Ngành dệt, may Việt nam cũng như ngành dệt may của các nước khác được chia ra làm 2 mảng chủ yếu là dệt và may. Nói về sản phẩm dệt, chúng ta thường nhắc tới các sản phẩm dệt như dệt thường, dệt kim, dệt len, dệt lụa, dệt gấm, dệt thổ cẩm.
Tuy nhiên các sản phẩm dệt mang tính độc đáo, riêng có của Việt nam thường là dệt thủ công từ các chất liệu tự nhiên đặc sắc như tơ tằm, sợi bông, đay..tạo nên những sản phẩm vải nổi tiếng như lụa Hà Đông, lụa Vạn Phúc, thổ cẩm Mai Châu, Hoà Bình..Tuy nhiên những sản phẩm thủ công này chỉ mang tính chất “đặc sản” chứ xét về tỷ trọng trong toàn ngành dệt thì chiếm rất ít. Phần lớn các sản phẩm dệt của chúng ta là các sản phẩm dệt công nghiệp tại các nhà máy dệt lớn như Công ti dệt Hà Nội, Công ti dệt 8-3, Công ti dệt kim đông xuân, Công ti dệt Nam Định. Các loại sản phẩm dệt chủ yếu là sợi OE dành cho đan kim, sợi cọc thường, vải cũng có vải dệt thường và vải đan kim. Bảng số liệu sau đây cho biết sản lượng sợi của sản phẩm dệt:
Bảng 13-Cơ cấu sản phẩm dệt của Tổng công ti dệt may Việt nam( đến 28/2/2002)
Sản phẩm
Số lượng
Sợi
Sợi OE(chiếc)
Sợi cọc(chiếc)
10.178 (rotor)
885.756 (cọc sợi)
Vải
Vải dệt(1000m2)
Đan kim (kg)
159.774
13.000
Nguồn: Tổng công ty Dệt- may Việt Nam
Nhìn vào bảng số liệu trên, chúng ta nhận thấy, sản phẩm vải dệt chiếm tỷ trọng lớn hơn sản phẩm vải đan kim, sợi OE chiếm tỷ trọng chưa nhiều. Nhu cầu thị trường hiện nay đang mở rộng sản phẩm đan kim, đặc biệt là thị trường Bắc Mỹ. Vậy sản phẩm sợi OE, dệt đan kim cần đẩy mạnh hơn nữa để đáp ứng nhu cầu lớn của thị trường hiện nay.
Thứ đến là cơ cấu sản phẩm may mặc. Ngành may mặc phong phú hơn về cơ cấu sản phẩm vì đây mới chính là cơ cấu chính cho xuất khẩu hàng dệt may của Việt nam. Trước đây, các sản phẩm may công nghiệp chủ yếu là các loại quần áo bảo hộ lao động, quần áo thường dùng ở nhà hay đồng phục học sinh. Cho đến nay, cơ cấu sản phẩm đã thay đổi rất nhiều, phong phú hơn rất nhiều về chủng loại để đáp ứng được yêu cầu của những nhà nhập khẩu. Các sản phẩm được mở rộng hơn, gồm cả quần áo thể thao, quần áo jean, comple, veston v.v. Ngay cả sản xuất phụ liệu may cũng đã có những tiến bộ nhất định về chủng loại và chất lượng. Các sản phẩm như chỉ khâu, khoá kéo, mex, bông tấm, nút nhựa..cũng đã có nhiều loại và đủ tiêu chuẩn chất lượng cho ngành may xuất khẩu. Bảng 14 đơn cử cơ cấu sản phẩm may xuất khẩu chủ yếu của Việt nam hiện nay:
Bảng 14-Cơ cấu sản phẩm may xuất khẩu 9 tháng đầu năm 2002
Sản phẩm
Số lượng ( 1000 chiếc)
1. Jacket
7409
2. Sơ mi
10942
3. Quần
6193
4. Hàng dệt kim
19744
5.áo len
164
6. Quần áo khác
4648
Tổng
49100
Nguồn : Tổng công ti Dệt- may Việt Nam
Qua đây, chúng ta thấy, trong số những mặt hàng xuất khẩu chính, vải dày vẫn chưa đáng kể mà chủ yếu vẫn là hàng dệt kim(40%), áo sơ mi(22%) và quần áo các loại. Do còn nhiều khâu thao tác thủ công nên năng suất trong ngành may của Việt nam khá thấp so với các nước. Dù khách hàng có nhu cầu nhưng sản xuất vẫn chưa đáp ứng được. Khâu thiết kế tạo mode còn yếu nên chủ yếu là may gia công hoặc theo mẫu đặt hàng của nước ngoài. Hầu như sản phẩm với nhãn mác của Việt nam vẫn vắng bóng trên thị trường quốc tế. Bước đầu mới chỉ có những bộ cách tân về áo dài truyền thống xuất hiện trong một số giải thưởng thời trang hay chỉ là trình diễn trên sàn catwalk.
2.3.Thị trường tiêu thụ trong nước và khả năng xuất khẩu.
a/ Thị trường tiêu thụ trong nước.
Thị trường nội địa Việt nam cũng là một thị trường tương đối lớn. Hiện nay dân số Việt nam vào khoảng 78 triệu người, mức sống của người dân cũng từng bước được nâng cao. Khi cái ăn về cơ bản đã đủ, người ta chú trọng hơn đến cái mặc. Bây giờ không chỉ là mặc cho ấm mà phải là mặc cho đẹp. Mặc đẹp đã trở thành nhu cầu không thể thiếu của một bộ phận dân cư thu nhập khá. Tuy nhiên phần lớn dân Việt nam vẫn là tầng lớp nông dân với mức sống trung bình và có một phần không nhỏ bộ phận thu nhập thấp. Chính vì thế, để khai thác thị trường nội địa, cơ cấu sản phẩm phải có nhiều cấp khác nhau, đáp ứng được nhu cầu của mọi tầng lớp dân cư.
Hiện nay, cạnh tranh trong thị trường may mặc nội địa ngày càng trở nên quyết liệt do có hàng ngàn doanh nghiệp lớn nhỏ thuộc mọi thành phần kinh tế, từ các doanh nghiệp nhà nước đến các công ti trách nhiệm hữu hạn, các cơ sở sản xuất tư nhân và các hộ gia đình, các doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Đặc biệt là sự cạnh tranh dữ dội của hàng dệt may nhập khẩu từ Trung Quốc (mà chủ yếu là nhập lậu) với giá cả rẻ, mẫu mã đa dạng phù hợp với sức mua của đại bộ phận người dân sống ở nông thôn. Một ví dụ cụ thể như đợt vừa qua, Ban chỉ đạo 127TW về chống buôn lậu, hàng giả gian lận thương mại đã thí điểm trên 5 tỉnh, thành phố lớn là Quảng Ninh, Lạng Sơn, Bắc Ninh, Hà Nội và TP Hồ Chí Minh kiểm tra mặt hàng vải nhập ngoại. Dù vải lậu đã bị truy quét rất nhiều nhưng cũng chỉ như “bắt cóc bỏ đĩa” vì số lượng vải lậu quá nhiều, tràn ngập thị trường và đã trở thành thói quen tiêu dùng của người dân. Dù vải lậu bị truy quét song vải nội vẫn chưa đủ sức đẩy lùi vải ngoại ngay tại sân nhà. Đây thực sự là vấn đề nan giải của toàn ngành dệt may Việt nam.
Dù sao, các doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc Việt nam đã nhận thấy tầm quan trọng và tiềm năng to lớn của thị trường nội địa. Các biện pháp khai thác thị trường như quảng cáo, tiếp thị, triển lãm được các công ty may mặc thực hiện và bước đầu đã đạt được hiệu quả. Có những doanh nghiệp đã mở hàng trăm cửa hàng, đại lí bán giới thiệu sản phẩm ở hầu hết các tỉnh, thành phố trong cả nước như Công ti Việt Thắng, Công ti may Nhà Bè, Công ti may 10...Ngoài ra các công ti còn liên kết với các chợ đầu mối để tiêu thụ nhằm tăng doanh thu. Bước đầu doanh thu nội địa cũng cho thấy những dấu hiệu khởi sắc của ngành dệt may Việt nam.
Bảng 15-Doanh thu dệt may tại thị trường nội địa trong những năm gần đây.
Đơn vị : tỉ đồng
Năm
1997
1998
1999
2000
2001
Doanh thu nội địa
2767
2996
3210
3452
3665
Các công ti may
2705
2909
3095
3330
3530
Các công ti dệt
62
87
105
122
135
Nguồn: Báo cáo thống kê của Tổng công ti Dệt- may Việt nam.
Bảng thống kê trên cho thấy, doanh thu nội địa hàng dệt chiếm tỷ trọng còn quá nhỏ. Nguyên nhân chủ yếu vừa qua là sự lấn át hàng vải ngoại nhập lậu của Trung Quốc, Thái Lan với giá rẻ, mẫu mã đa dạng, đẹp, trong khi đó giá thành sản phẩm của chúng ta còn quá cao, trình độ công nghệ còn thấp kém. Ngay cả hàng may dù có tỷ trọng cao nhưng cũng không thể nói là đã chinh phục thị trường nội địa mà vẫn bị hàng Trung Quốc ngập tràn tại các chợ bán buôn, bán lẻ trong cả nước.
Trong phạm vi đề tài này, thị trường cần tập trung vào xuất khẩu mà các doanh nghiệp dệt may đang hướng tới để có chỗ đứng xứng đáng trong trường quốc tế.Vì thế chúng ta xem xét cụ thể khả năng xuất khẩu của hàng dệt may Việt nam như thế nào trong thời gian qua và triển vọng mở rộng xuất khẩu vào thị trường Bắc Mỹ sắp tới.
b/ Khả năng xuất khẩu :
Trong những năm qua kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may tăng không ngừng. Đặc biệt từ sau khi Hiệp định buôn bán hàng dệt may giữa Việt nam và EU kí kết 15/2/1992( có hiệu lực từ 1/1/1993) thì xuất khẩu hàng dệt may của Việt nam tăng vọt, đưa hàng dệt may gần đây thành nhóm hàng có vị thế xuất khẩu đứng thứ hai sau dầu thô.
Bảng 16-Tình hình xuất khẩu hàng dệt may Việt nam qua các năm
Đơn vị: triệu USD
1997
1998
1999
2000
2001
2001/2000
1530
1450
1747
1892
2079,782
109,93%
Nguồn : Báo cáo thống kê Vụ xuất nhập khẩu-Bộ thương mại
Trong 9 tháng đầu năm 2002, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt nam đạt khoảng 1,6 tỷ USD, tăng 14% so với cùng kì năm 2001, riêng thị trường Mỹ đạt tới 435 triệu USD, tăng gấp 9 lần so với mức thực hiện cả năm 2001. Khả năng hoàn thành kế hoạch xuất khẩu năm 2002 với mức 2,4 tỷ USD là hoàn toàn nằm trong tầm tay.Tuy nhiên những kết quả tích cực này của ngành dệt may liệu có duy trì và phát triển lâu dài được hay không một khi phía trước còn rất nhiều thách thức đang chờ đợi? Chúng ta thấy khả năng xuất khẩu của hàng dệt may là rất lớn nhưng cho đến nay vẫn chưa khai thác được hết các thị trường. Về thị trường hạn ngạch hiện nay, chúng ta có các thị trường là EU, Canada, và sắp tới có thể sẽ là Nhật Bản và Hoa Kỳ. Tạm thời Hoa Kỳ vẫn đang là thị trường phi hạn ngạch lại được hưởng thuế suất MFN. Trong thời gian tới Hoa Kỹ sẽ xúc tiến đàm phán vấn đề hạn ngạch đối với Việt nam.
Mức tăng trưởng xuất khẩu hàng dệt may Việt nam không chỉ phụ thuộc vào năng lực sản xuất mà còn phụ thuộc rất nhiều vào mối quan hệ thương mại giữa Việt nam và các nước. Chính vì vậy, để tăng cường hơn nữa xuất khẩu hàng dệt may ngoài sự nỗ lực không ngừng của bản thân các doanh nghiệp, còn phải nhấn mạnh vai trò xúc tiến thương mại và sự hỗ trợ mang tầm vĩ mô của Chính Phủ.
II. Đánh giá tình hình xuất khẩu hàng dệt may Việt nam vào thị trường Bắc Mỹ.
Trong những năm gần đây, ngành dệt may Việt nam phải đương đầu với nhiều khó khăn do sự biến động của thị trường xuất khẩu : thị trường EU thiếu quota, thị trường Nhật với sức mua giảm...Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến việc gia tăng kim ngạch xuất khẩu của ngành. Vì vậy cơ hội và thách thức đặt ra cho các doanh nghiệp trong nước là phải mạnh dạn vươn ra tìm kiếm thị trường mới.
Qua nội dung nghiên cứu ở chương I về thị trường Bắc Mỹ, chúng ta thấy, thâm nhập thị trường Bắc Mỹ là quyết định chiến lược đúng đắn cho nhiều doanh nghiệp dệt may Việt nam. Do đó từ năm 1995 đến nay, ngành dệt may đã nỗ lực gia tăng xuất khẩu sang thị trường này.
1. Kim ngạch xuất khẩu vào thị trường Bắc Mỹ.
1.1. Mức kim ngạch xuất khẩu cụ thể qua các năm.
Năm 1994, năm đầu tiên khi Mỹ bãi bỏ lệnh cấm vận đối với Việt nam, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may chỉ đạt trên 2 triệu USD. Chỉ một năm sau đó giá trị xuất khẩu đã tăng vọt một cách nhanh chóng đạt 16,87 triệu USD gấp trên 8 lần. Liên tục những năm tiếp theo, kim ngạch xuất khẩu vẫn tăng đều đặn. Sang năm 1996, kim ngạch hàng may mặc tăng 32,6% và giá trị xuất khẩu hàng dệt cũng tăng lên 2 lần so với năm 1995. Biểu17 dưới đây sẽ nói rõ mức kim ngạch xuất khẩu và tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt nam vào thị trường Bắc Mỹ giai đoạn 1996_2001.
Nguồn: Vụ xuất nhập khẩu-Bộ thương mại Việt nam.
Qua đây chúng ta thấy, mức kim ngạch xuất khẩu vào thị trường Bắc Mỹ tăng khá mạnh, năm 1996 mới chỉ ở mức 16,886 triệu USD, nhưng năm 2001 đã lên đến 87,136 triệu USD, tăng gấp trên 5 lần so với năm 1996. Con số này sẽ còn tiếp tục tăng mạnh hơn nữa theo chiều hướng có nhiều biến chuyển thuận lợi như hiện nay.
Nếu nói về thị trường Bắc Mỹ, hàng dệt may Việt nam thời gian qua chủ yếu vẫn thực hiện theo phương thức gia công cho các công ti nước ngoài. Phần lớn nguyên phụ liệu do các công ti nước ngoài cung cấp bởi Việt nam chưa sản xuất nguyên phụ liệu phù hợp, chất lượng nguyên phụ liệu còn thấp, với phương châm lấy công làm lãi. Mặt khác, khả năng của các doanh nghiệp Việt nam trong việc quản lí tất cả các khâu như thiết kế mẫu mã, tiếp thị, phân phối...để có thể xuất khẩu trực tiếp vẫn còn rất hạn chế. Nhìn chung, tốc độ xuất khẩu hàng hoá Việt nam sang thị trường Mỹ những năm qua vẫn tăng mạnh. Kể từ sau khi bãi bỏ lệnh cấm vận của Mỹ đối với Việt nam, Mỹ trở thành bạn hàng đứng thứ bảy của Việt nam (năm 1998) và Việt nam cũng đang đứng thứ 71 trong số 229 nước xuất khẩu hàng hoá vào Mỹ. Mới trước đây Việt nam chưa được hưởng MFN và mức thuế nhập khẩu vào Mỹ còn quá cao. Trên thực tế, mức chênh lệch giữa thuế phi MFN và thuế có MFN là rất lớn, trung bình từ 30-40%. Ví dụ đối với quần áo có đan móc, bằng len hoặc lông động vật, thuế suất MFN là 16%, thuế áp dụng cho Canada, Mêhicô là 0%, trong khi đó thuế nhập khẩu đánh vào hàng Việt nam là 54,5%. Mức thuế như trên làm triệt tiêu gần như hoàn toàn khả năng cạnh tranh của hàng may mặc Việt nam vốn không chiếm ưu thế về chất lượng. Từ khi Hiệp định thương mại Việt Mỹ có hiệu lực, các doanh nghiệp dệt may chúng ta đã có thuận lợi hơn rất nhiều do được hưởng ưu đãi từ MFN đem lại.
1.2. Tỷ trọng xuất khẩu vào thị trường Bắc Mỹ trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt nam.
Năm 2001 vừa qua, theo thống kê của Vụ xuất nhập khẩu_Bộ thương mại thì kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của cả nước đạt gần 2,1 tỷ USD, một con số không nhỏ trong cơ cấu hàng xuất khẩu của cả nước. Mặc dù xuất khẩu vào thị trường EU vẫn chiếm tỷ trọng cao nhất (30%), thứ đến là Nhật Bản cũng với tỷ trọng tương đương( 30%) và Mỹ đứng thứ ba (4%) song tiềm năng thị trường Bắc Mỹ sẽ còn nhiều hứa hẹn.
Bảng số liệu sau cho thấy tỷ trọng xuất khẩu hàng dệt may của Việt nam vào thị trường Bắc Mỹ so với tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của cả nước từ năm 1996 đến 2001:
Bảng 18-Tỷ trọng thị trường Bắc Mỹ trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt nam .
Đơn vị: triệu USD
Năm
1996
1997
1998
1999
2000
2001
Bắc Mỹ
16,886
41,257
50,038
59,266
79,450
87,136
Cả nước
1150
1503
1448
1747
1892
2079,8
Tỷ trọng
1,5%
2,7%
3,5%
3,4%
4,2%
4%
Nguồn: Báo cáo thống kê Vụ xuất nhập khẩu- Bộ thương mại Việt nam.
Điểm nổi bật ở bảng trên là tỷ trọng này tăng dần qua các năm, từ mức khiêm tốn 1,5% vào năm 1996 nay đã lên đến hơn 4% vào năm 2001, riêng năm 2002 này, ước tính của quí I đã băng xuất khẩu của cả năm 2001. Đó cũng là những nỗ lực không nhỏ của các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may Việt nam vào thị trường Bắc Mỹ thời gian qua. Tuy nhiên con số này vẫn còn thấp và chưa ổn định so với xuất khẩu vào thị trường EU. Thời gian gần đây những tín hiệu khả quan về tình hình thị trường Bắc Mỹ đối với hàng dệt may Việt nam như hiệu lực của Hiệp định thương mại Việt -Mỹ có hiệu lực. Điều này cho thấy tỷ trọng thị trường Bắc Mỹ sẽ tăng hơn nhiều vào những năm tới.
1.3. Thị phần xuất khẩu hàng dệt may của Việt nam ở thị trường Bắc Mỹ.
Trong phần 1.2 chúng ta vừa tìm hiểu về tỷ trọng xuất khẩu vào thị trường Bắc Mỹ trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt nam. Đến đây, chúng ta xem xét tiếp đến thị phần xuất khẩu hàng dệt may Việt nam ở thị trường Bắc Mỹ nhằm xác định vị thế của hàng dệt may Việt nam tại thị trường khổng lồ này trong tương quan với các đối thủ cạnh tranh xuất khẩu khác.
Trước hết, vị trí của hàng Việt nam nói chung trên thị trường Bắc Mỹ hiện nay còn chiếm vị trí rất khiêm tốn. Ví dụ như ở thị trường Mỹ, Việt nam chỉ xếp thứ 71 trong tổng số 229 nước xuất khẩu vào thị trường này. Theo số liệu của Phòng thương mại Hoa Kỳ, kim ngạch mà Mỹ nhập khẩu từ Việt nam là 827 triệu USD vào năm 2000.
Trên thực tế, thị phần hàng dệt may Việt nam ở thị trường Bắc Mỹ còn rất khiêm tốn. Bảng 19 sau đây cho thấy, tỷ trọng hàng dệt may Việt nam ở thị trường Mỹ, Canada như sau:
Bảng 19-Thị phần xuất khẩu hàng dệt may của Việt nam trên thị trường Bắc Mỹ
Đơn vị : triệu USD
Năm
2000
2001
Việt Nam
49,865
49,335
Tổng
71691,546
70239,765
Thị phần(%)
0,07
0,07
Nguồn : OTEXA-Hiệp hội nhập khẩu hàng dệt may Hoa Kỳ.
Trong năm tới ngành dệt may Việt nam sẽ hướng xuất khẩu sang thị trường Bắc Mỹ nhiều hơn. Hy vọng thị phần hàng dệt may của Việt nam tại thị trường này sẽ từng bước được cải thiện, khi Việt nam chính thức được hưởng qui chế NTR và tiếp đó là chế độ GSP của Mỹ.
2. Cơ cấu mặt hàng và thị trường xuất khẩu hàng dệt may
2.1. Cơ cấu chủng loại hàng dệt may xuất khẩu của Việt nam vào thị trường Bắc Mỹ.
Việt nam xuất khẩu sang thị trường Bắc Mỹ chủ yếu là hàng may mặc được chia làm hai chủng loại lớn là hàng dệt kim và hàng dệt thường với kim ngạch xuất khẩu qua các năm như sau:
Bảng 20-Cơ cấu hàng dệt may Việt nam xuất khẩu sang thị trường Bắc Mỹ (9 tháng đầu năm 2002).
Đơn vị : triệu USD
Mặt hàng
Lượng
(1000 chiếc)
Trị giá
( triệu USD)
1. May mặc
Jacket và áo khoác c/l
Sơ mi các loại
Quần các loại
Quần áo các loại khác
4078,8
4068,2
3653.38
2252,45
41,73
25,63
23,187
8,715
2. Dệt kim (1000 kg)
11645,4
35,206
3. Vải (triệu mét)
57,625
0,8131
4. áo choàng tắm
11,784
0,897
5. Hàng khác
3,521
Nguồn: Tổng công ty Dệt- may Việt Nam
Cơ cấu xuất khẩu hàng dệt may của ta sang thị trường Bắc Mỹ cho thấy hàng dệt kim chiếm phần lớn, thị hiếu người tiêu dùng Bắc Mỹ vẫn ưa chuộng hơn. Hàng may sẵn cũng chiếm tỷ trọng khá, trong đó hàng áo sơ mi,jacket..được đánh giá là giữ vững được vị thế xuất khẩu trên thị trường này. Một điều đáng lưu ý là mặt hàng áo sơ mi vốn chiếm tỷ trọng cao nhờ sự chênh lệch thấp giữa biểu thuế MFN và phi MFN dành cho mặt hàng này(chênh lệch khoảng 2,2 lần trong khi các mặt hàng khác chênh khoảng 6-12 lần), áo sơ mi Việt nam là sản phẩm có sức cạnh tranh trên thị trường Bắc Mỹ, đáp ứng được thị hiếu tiêu dùng của dân Mỹ vốn ưa chuộng sản phẩm loại này.
Tuy nhiên, như đánh giá ở phần trên, hàng dệt kim được ưa chuộng nhưng thực trạng công nghệ dệt nước ta chưa cao, máy móc thiết bị ngành dệt đa phần dành cho sản xuất hàng dệt thường( dệt thường là phương pháp dệt truyền thống, chỉ tạo ra sợi dọc và sợi ngang trong khi dệt kim là phương pháp mới tạo ra dạng sợi vòng trong sản phẩm vải ). Đây cũng là một vấn đề cần chú ý trong chiến lược phát triển ngành dệt may Việt nam.
Nhìn chung hàng may mặc dệt kim và dệt thường trong cơ cấu hàng dệt may đều có tốc độ tăng mạnh. Hàng dệt kim tuy giá trị ngoại tệ mang lại trong thời gian qua còn khiêm tốn nhưng lại có tốc độ tăng nhanh hơn hàng dệt thường. Đó là do các doanh nghiệp Việt nam đã dần nắm bắt được thị hiếu tiêu dùng của người dân Bắc Mỹ vốn ưa chuộng những sản phẩm dệt kim, từ đó chú trọng sản xuất mặt hàng này để chuyên xuất khẩu sang thị trường Bắc Mỹ. Đây cũng là dấu hiệu đáng mừng trong việc sản xuất phục vụ xuất khẩu, đầu tư công nghệ dệt hiện đại, ngày càng nâng cao chất lượng sản phẩm để tăng hiệu quả xuất khẩu.
Tuy vậy, các doanh nghiệp quốc doanh chỉ chiếm khoảng 1/2 trong doanh số sản phẩm xuất khẩu sang thị trường Bắc Mỹ, còn lại đa phần thuộc về các công ti có vốn đầu tư nước ngoài, các công ti trách nhiệm hữu hạn và phần nhỏ thuộc về các công ty cổ phần doanh nghiệp tư nhân, đặc biệt là các công ty do Việt Kiều,Hoa Kiều ở Mỹ góp vốn.
2.2. Cơ cấu thị trường xuất khẩu cụ thể.
Hướng tới thị trường Bắc Mỹ, chúng ta cần lưu ý tới 3 thị trường cụ thể là Hoa Kỳ, Canada và Mêhicô. Nhìn chung xuất khẩu vào thị trường Bắc Mỹ chiếm chủ yếu và hầu hết vẫn là Hoa Kỳ và Canada, còn bản thân Mêhicô cũng là một đối thủ cạnh tranh lớn của Việt nam khi xuất khẩu vào thị trường này. Những số liệu sau đây cho chúng ta thấy kim ngạch xuất khẩu cụ thể của hàng dệt may Việt nam vào từng thị trường cụ thể trong khu vực Bắc Mỹ trong thời gian qua.
Bảng 21- Cơ cấu thị trường xuất khẩu hàng dệt may Việt nam sang Bắc Mỹ
Đơn vị: triệu USD
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2001/2000
Mỹ
8,715
23,041
26,343
34,708
49,569
47,671
95,75%
Canada
8,070
18,216
21,493
22,755
24,241
30,153
124,39%
Mêhicô
0,101
2,202
1,803
5,64
9,521
168,81%
Bắc Mỹ
16,886
41,257
50,038
59,266
79,450
87,136
109,67%
Nguồn: Báo cáo thống kê Vụ xuất nhập khẩu- Bộ thương mại Việt nam
Con số này cho thấy dù nói là xuất khẩu sang thị trường Bắc Mỹ nhưng thị trường Mỹ chiếm đại bộ phận, thứ đến là Canada còn Mexico thì rất ít. Bản thân Mexico cũng là nước xuất khẩu hàng dệt may sang các nước này (xuất khẩu nội khối NAFTA) nên được hưởng nhiều ưu đãi. Do vậy, Mexico chính là một trong những đối thủ cạnh tranh của xuất khẩu hàng dệt may Việt nam.
3. Khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt nam tại thị trường Bắc Mỹ.
Như đã phân tích về khả năng cạnh tranh cũng như tính chất khốc liệt của cạnh tranh quốc tế hiện nay (chương I), chúng ta đều nhận thấy rằng khả năng cạnh tranh của bất kì một sản phẩm nào không chỉ phụ thuộc vào những yếu tố chủ quan như năng lực nội sinh của nó mà còn phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện bên ngoài mà nhiều khi những tác động bên ngoài còn lấn át và mang tính chi phối. Chính vì thế khi xét về khả năng cạnh tranh, các doanh nghiệp cần lưu ý rằng: khả năng cạnh tranh=nội lực +thời thế.
Theo đánh giá của Bộ Kế hoạch và đầu tư, mặt hàng dệt may được xếp vào nhóm 10 mặt hàng có khả năng cạnh tranh và khả năng cạnh tranh của chúng ta ở mức trung bình. Xét về hàng dệt may, đặc điểm chung của mặt hàng này là tính thời trang và mùa vụ. Để xét khả năng cạnh tranh của mặt hàng này, chúng ta xét trên các mặt chủ yếu như : chất lượng( kiểu dáng, bao bì, nhãn mác..), chi phí xuất khẩu và mức giá xuất khẩu, phương thức xuất khẩu và hệ thống phân phối. Đó là các yếu tố “nội lực” của khả năng cạnh tranh. Các đối thủ cạnh tranh chủ yếu của hàng dệt may xuất khẩu vào thị trường Bắc Mỹ được coi là yếu tố “thời thế” trong phạm vi này.
3.1. Chất lượng hàng dệt may Việt nam xuất khẩu vào thị trường Bắc Mỹ
Đánh giá đầy đủ chất lượng một sản phẩm quả thật là điều không dễ dàng. Chính vì thế mà hàng loạt các tổ chức, hiệp hội công nhận về chất lượng sản phẩm đã ra đời-chính là cách thức để công nhận vị thế, uy tín chất lượng sản phẩm. Bởi lẽ chất lượng sản phẩm chỉ được phát hiện đầy đủ khi đã được sử dụng, nghĩa là sau khi hàng hoá đã được bán. Riêng đối với sản phẩm dệt may, loại sản phẩm mang tính thời trang nên hình thức,kiểu dáng mẫu mã và chất liệu sản phẩm có thể nhận ra ngay được một phần khi người tiêu dùng mua hàng, và chất lượng sản phẩm cũng bao trùm đặc tính đó.
Xét về chất liệu hàng dệt may Việt Nam trên thị trường Bắc Mỹ.
Như chúng ta đã biết, sở thích thị hiếu của đa số người tiêu dùng Bắc Mỹ thiên về các sản phẩm dệt kim. Đặc trưng của sản phẩm dệt kim là các loại áo Polo-shirt, T-shirt ở thị trường Mỹ là áo liền sườn( ống nguyên theo thân người mặc không có ráp sườn), độ co tối thiểu (2-3%)và sản phẩm đại trà đi từ sợi cotton OE có thêu hoa hoặc in hình nổi. Nắm bắt được thị hiếu này, nên các công ti, nhà máy của Việt Nam đã đặt ra mục tiêu sản xuất quần áo dệt kim cotton OE 100% nhằm xuất khẩu riêng cho thị trường Mỹ. Các công ti như công ti Dệt kim Đông Xuân, Dệt kim Đông Phương, Dệt kim Thăng Long, Dệt Thành công..đã đầu tư chiều sâu bằng cách nhập thêm một số máy dệt kim có khổ rộng theo cỡ khổ người, khâu hoàn tất có máy chống co cơ học compactor của Mỹ, bổ sung vào dây chuyền thiết bị sẵn có hoặc đầu tư nhà máy mới có sản lượng phù hợp. Ban đầu, Việt Nam vẫn phải nhập sợi OE nhưng sau này sẽ căn cứ vào nhu cầu tăng trưởng mà mở thêm nhà máy chuyên kéo sợi OE cho dệt kim.
Xét về kiểu dáng, mẫu mã.
Sản phẩm may mặc vốn là sản phẩm có vòng đời sản phẩm ngắn, đặc biệt với thị trường Mỹ vốn dĩ chạy theo “mode” thì vòng đời này còn ngắn hơn nữa. Hàng năm Mỹ đều có định hướng phát triển mẫu thị trường của năm đó và dự báo cho những năm tiếp theo. Mẫu thời trang thường được xác định theo các tiêu chí:
_Theo trào lưu mẫu thời trang thế giới
_Theo bản sắc văn hoá dân tộc
_Theo điều kiện kinh tế, khí hậu mỗi nước
_Theo chất liệu vải phụ liệu may
_Kiểu dáng phù hợp với điều kiện sinh hoạt mỗi nước
Trên thực tế, tỷ trọng hàng dệt may của Việt Nam trên thị trường Bắc Mỹ còn quá nhỏ và phần lớn không thuộc diện hàng cao cấp nên mẫu mã, kiểu dang vẫn theo “form” sẵn. Các công ti may lớn như May10, Việt Tiến đã sử dụng công nghệ CAD-CAM (Computer Added Design_Computer Added Manuafacturing, máy tính trợ giúp thiết kế và sản xuất). Công nghệ CAD_CAM này mang lại hiệu quả rất cao, thực hiện được nhiều chức năng: vẽ phác thảo trên máy, tạo mẫu cắt chính xác, mô tả chất liệu vải, tạo ra bản vẽ kỹ thuật đầy đủ để đem đi gia công nơi khác, thiết kế thẳng trên người thật, hướng dẫn trưng bày sản phẩm. Nhờ có áp dụng kỹ thuật này mà hàng dệt may Việt Nam được đón nhận thoải mái trên thị trường Bắc Mỹ.
Xét về bao bì nhãn mác:
Trên giác độ Marketing, muốn hàng bán nhanh và nhiều thì điều quan trọng là phải thiết kế bao bì cẩn thận với giá trị nghệ thuật cao (đẹp, trang nhã, lịch sự). Khoa học về Marketing chỉ rõ, đóng gói phải thật sự hợp lí về kích thướcvà khối lượng nhằm đảm bảo tiện lợi và dễ vận chuyển; bao bì đẹp sẽ kích thích sự ham thích mua của người tiêu dùng.Tạo ra giá trị sử dụng và bảo quản giá trị sử dụng là hai khâu rất quan trọng. Đóng gói là khâu quyết định để hàng hoá giữ vững chất lượng, còn việc bảo quản hàng hoá là một hình thức làm tăng giá trị sử dụng của hàng hoá.
Thời gian vận chuyển hàng hoá từ Việt Nam sang Mỹ rất dài, phải qua nhiều phương tiện.Vì thế các doanh nghiệp đã chú ý khâu thiết kế bao bì sao cho có thể bảo vệ hàng hoá khỏi hư hỏng, giữ được toàn vẹn trong quá trình vận chuyển.Vật liệu làm bao bì phải là loại chắc chắn khi vận chuyển và tiện lợi cho người sử dụng, đồng thời thể hiện được tính mỹ thuật cao.
Khách hàng có quyền chọn lựa sản phẩm khi mua hàng, cho nên bao bì cần phải hấp dẫn sự chú ý, nêu được những thông tin về đặc tính, chất lượng sản phẩm. Thông tin trên bao bì cần diễn đạt bằng ngôn từ gây ấn tượng và ghi bằng ngôn ngữ thông dụng là tiếng Anh. Đồng thời việc thiết kế bao bì phải phù hợp tiêu chuẩn quốc tế( như ghi rõ xuất xứ, có hệ thống ghi mã vạch bằng máy tính..), đồng thời cũng phải gọn gàng để giảm chi phí vận chuyển, lưu kho và xếp dỡ.
Nâng cao chất lượng bao bì, nhãn hiệu sẽ làm tăng giá trị hàng hoá. Trên thực tế, chính bao bì chất lượng cao lại giúp giảm giá hàng hoá do giảm thiểu tổn thất trong khâu vận chuyển, lưu kho và trong khâu bán hàng. Bao bì phù hợp, gọn nhẹ có thể còn tiết kiệm một khoản tiền lớn. Đây cũng chính là một trợ thủ đắc lực nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam trên thị trường Mỹ.
Về vấn đề tiêu chuẩn hoá chất lượng sản phẩm:
Hiện nay, khách hàng dệt may Bắc Mỹ chưa hiểu biết nhiều về chất lượng hàng dệt may Việt Nam. Vì thế các doanh nghiệp dệt may Việt Nam đã phải tiêu chuẩn hoá chất lượng sản phẩm theo tiêu chuẩn quốc tế, thực hiện quản lí chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9000, tạo lòng tin cho khách nước ngoài trong đó có khách hàng Bắc Mỹ.
Ngoài vấn đề tiêu chuẩn chất lượng ISO9000, với thị trường Mỹ chúng ta cũng phải lưu ý đến hệ thông tiêu chuẩn xã hội SA8000. Bởi thị trường vốn nhạy cảm với các vấn đề “nhân quyền” như Mỹ, các doanh nghiệp dệt may Việt nam cần hết sức chú trọng điều đó khi xâm nhập thị trường này.
3.2. Chi phí xuất khẩu và mức giá xuất khẩu của hàng dệt may Việt Nam.
Việc định giá sản phẩm quốc tế rất phức tạp, cần tính đến nhiều yếu tố như chi phí sản xuất, điều kiện thị trường, điều kiện cạnh tranh, thuế khoá các loại, chi phí cho người môi giới, chi phí về tài trợ và rủi ro, chi phí tìm hiểu về pháp lí và chính sách, tập quán thị trường. Nhiều nhà sản xuất chỉ đơn giản lấy giá bán nội địa cộng thêm cước phí vận chuyển ngoài nước và phí bảo hiểm, chi phí đóng gói và chi phí marketing, rồi từ đó định giá xuất khẩu. Một số nhà xuất khẩu khác dựa vào giá của đối thủ cạnh tranh để định giá sản phẩm của mình. Hai cách giải quyết đó đơn giản nhưng hoàn toàn chưa thoả đáng. Chúng ta phải có phương pháp xác định giá xuất khẩu một cách khoa học và toàn diện để đạt được mục tiêu xuất khẩu dài hạn, cạnh tranh được trên thị trường thế giới.
Có nhiều phương pháp để định giá cho sản phẩm dệt may xuất khẩu. Đối với thị trường Mỹ, hiện nay chúng ta vẫn định giá sản phẩm theo giá gia công, theo đơn đặt hàng từ các nước thứ ba nên không làm chủ được giá xuất khẩu, lợi nhuận lại không cao. Bảng số liệu sau đây cho chúng ta thấy giá xuất khẩu của hàng dệt may Việt Nam :
Bảng 22-Giá xuất khẩu một số sản phẩm hàng dệt may
Mặt hàng
Đơn vị tính
Giá
Cửa khẩu
áo gilê 3 lớp
uSD/chiếc
5
Chi cục HQ quản lí hàng ĐT-GC
áo jacket 3 lớp
USD/chiếc
25
Chi cục HQ quản lí hàng ĐT-GC
áo Blazer
EUR/chiếc
33
Chi cục HQ Biên Hoà
áo vest
USD/chiếc
12
Chi cục HQ Biên Hoà
áo jacket(cat 21)
USD/chiếc
21
Chi cục HQ Biên Hoà
áo đầm
USD/chiếc
4
Chi cục HQ Linh Trung
áo bảo hộ
USD/chiếc
8
Chi cục HQ KCX-KCN
Quần ngắn
USD/chiếc
5
Chi cục HQ Biên Hoà
Quần âu nữ 92S
USD/chiếc
9
Chi cục HQ quản lí hàng ĐT-GC
Váy bò 1 lớp
USD/chiếc
4
Chi cục HQ quản lí hàng ĐT-GC
Vải thành phẩm
USD/mét
4
Chi cục HQ Bến Lức
Nguồn: Thống kê giá cả hàng xuất khẩu -Tạp chí Ngoại Thương 10/8/2002
So với mặt bằng giá chung trên thị trường thế giới thì giá cả hàng dệt may Việt nam có tính cạnh tranh tốt. Thêm vào đó, chất lượng sản phẩm của chúng ta cũng được dánh giá cao nên hàng dệt may Việt nam rất được ưa chuộng, có nhiều đơn hàng vượt qua được các nhà sản xuất hàng dệt may Trung quốc để nhận đặt hàng của các nhà đặt hàng may gia công lớn trên thế giới.
Một yếu tố chi phối không nhỏ trong cơ cấu giá là chi phí nhân công. Việt nam vẫn coi nhân công là thế mạnh của ngành dệt may. Bảng số liệu sau phản ánh cụ thể mức chi phí nhân công của Việt nam so với một số nước trong khu vực.
Bảng 23- Chi phí giá nhân công ngành may.
Quốc gia
Tiền công bình quân/công nhân
Việt Nam
0,18 USD/giờ
Thái Lan
0,87 USD/giờ
Inđônêxia
0,23 USD/giờ
Malaixia
0,95 USD/giờ
Trung Quốc
0,34 USD/giờ
Nguồn: Thời báo kinh tế Sài Gòn, số 20/2001
Qua đây chúng ta có thể tin tưởng vào ưu thế về tiền công trong giá thành sản xuất hàng dệt may. Dù trong điều kiện hiện nay, chi phí sản xuất hàng may còn cao do chi phí điện tăng (vừa qua Tổng công ty dệt may Việt nam phải đầu tư thêm 40 tỷ đồng do giá điện lên cao), song xét lợi thế về tiền công lao động như trên thì giá thành sản xuất hàng dệt may Việt nam vẫn được đánh giá là có tính cạnh tranh. Tuy nhiên về giá thành xuất khẩu chúng ta còn phụ thuộc nhiều vào phía đối tác do chưa đủ trình độ , lực lượng để đảm nhiệm các khâu chi phí như vận tải, bảo hiểm để tiết kiệm và giảm giá thành xuất khẩu
3.3. Phương thức xuất khẩu và hệ thống phân phối hàng dệt may của Việt Nam.
Trong hoạt động ngoại thương Việt Nam hiện nay, đa phần các doanh nghiệp Việt nam đều xuất khẩu hàng hoá theo gia công hoặc theo điều kiện giao hàng theo điều kiện FOB, tương ứng với phương thức “ Selling to”(nghĩa là “ bán tới”, khác với “Selling in” nghĩa là “ bán tại” ). Hiện nay ở Mỹ, các kênh phân phối hàng dệt may nhập khẩu có rất nhiều, các quá trình phân phối thường được phân đoạn đưa các sản phẩm từ chi nhánh, các nhà đại lí, các nhà bán buôn đến người tiêu thụ cuối cùng. Có thể đơn cử các kênh phân phối điển hình như hệ thống bán buôn(Whole sale Club Outlet), các hệ thống siêu thị, các cửa hàng bán lẻ...Tuy nhiên hiện nay, chính sách phân phối của chúng ta trên thị trường Mỹ chỉ dừng lại ở việc thông qua đơn đặt hàng do khách hàng tìm đến đặt gia công hoặc thông qua trung gian, môi giới chứ chưa thực hiện được phương thức bán hàng trực tiếp.
3.4. Các đối thủ cạnh tranh chủ yếu trong xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Mỹ.
Hiện nay, các nước xuất khẩu chủ yếu hàng dệt may vào thị trường Bắc Mỹ là các nước châu á như Trung Quốc, Hồng Kông, ấn độ, Hàn quốc, Inđônesia...Đây cũng là khu vực xuất khẩu lớn nhất thế giới về hàng dệt may. Tuy nhiên, xét về chủng loại hàng mà Việt nam thường xuất sang thị trường Bắc Mỹ thì đối thủ mạnh nhất của Việt nam phải là Trung Quốc. Đó không chỉ là đối thủ cạnh tranh trên thị trường Bắc Mỹ mà ngay cả ở thị trường nội địa các doanh nghiệp dệt may Việt nam vẫn phải dè chừng. Hàng xuất khẩu của Trung Quốc vượt xa hàng Việt Nam kể cả mức xuất khẩu hàng dệt may tính trên đầu người của họ cũng cao hơn. Năng lực cạnh tranh trong xuất khẩu hàng dệt may của Trung Quốc vượt xa Việt nam cũng do nhiều nguyên nhân khác nhau. Thứ nhất, Trung Quốc tiến hành công nghiệp hoá lâu hơn so với Việt nam và họ bắt đầu quá trình xuất khẩu hàng dệt may công nghiệp ít nhất là trước chúng ta một thập kỉ. Thứ hai, Trung Quốc gia nhập WTO nên được hưởng thuế suất tối huệ quốc MFN, mặt khác hạn ngạch xuất khẩu cũng tạo điều kiện thuận lợi cho Trung Quốc hơn. Thứ ba, Trung Quốc được hưởng những ưu thế đặc biệt do sự có mặt của Hồng Kông và Đài Loan. Bốn là, Trung Quốc so với Việt nam được hưởng ưu thế qua sự phá giá lớn năm 1994 cùng với tỉ lệ lạm phát nhỏ, giá tiêu dùng trong nước so với giá quốc tế giảm đáng kể. Và cuối cùng, chi phí sản xuất của Trung Quốc thấp hơn ở Việt nam, ngoài ra các chi phí về thuế cũng thấp hơn, nguồn cung trong nước về nguyên liệu cũng dồi dào hơn, môi trường kinh doanh thuận lợi hơn.
Trên thực tế, mối lo ngại về đối thủ cạnh tranh của hàng dệt may Việt nam hiện chưa thực sự sâu sắc bởi lẽ hàng dệt may vẫn chủ yếu gia công, buôn bán trực tiếp chưa thực sự rộng rãi.
4. Đánh giá chung về kết quả và tồn tại trong xuất khẩu hàng dệt may Việt nam vào thị trường Bắc Mỹ.
4.1. Những kết quả bước đầu nổi bật.
Trước hết, kết quả mà chúng ta có thể nhìn rõ nhất thể hiện ở chính con số kim ngạch xuất khẩu của hàng dệt may Việt nam vào thị trường Bắc Mỹ tăng vọt trong mấy năm gần đây. Kim ngạch năm 1996 mới chỉ là 16,886 triệu USD nhưng năm 2001 đã lên đến 87,136 triệu USD, tức là gấp hơn 5 lần. Dù tỷ lệ trong tổng kim ngạch xuất khẩu chưa cao nhưng trong tình hình như hiện nay, nếu vấn đề hạn ngạch ổn định và với một tiềm năng lớn như thị trường Bắc Mỹ thì còn hứa hẹn một con số cao hơn nữa về kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt nam sang thị trường này.
Thứ hai, đó là sự mở rộng về cơ cấu sản phẩm xuất khẩu. Mặt hàng xuất khẩu đa dạng hơn, nhiều nhóm mặt hàng hơn như các sản phẩm lót, sản phẩm dùng trong nhà ( đồ ngủ, drap, áo gối..), sản phẩm mặc thường ngày( quần tây, áo sơ mi..) đến các nhóm quần áo thể thao, nhóm hàng may thời trang..đã phong phú hơn nhiều so với các mặt hàng truyền thống như áo sơ mi, áo jacket, áo blu-dông, mà Việt nam vẫn xuất khẩu từ trước đến nay.
Thứ ba, nhiều loại hình doanh nghiệp dệt may của Việt nam tham gia xuất khẩu sang thị trường Bắc Mỹ hơn, có nhiều doanh nghiệp tư nhân, liên doanh vốn có quan hệ khá tốt và nắm bắt thông tin về thị trường Bắc Mỹ khá nhanh nhạy nhờ cộng đồng Việt kiều sống tại Mỹ. Điều này thể hiện sự năng động và đa dạng hơn trong cơ cấu các doanh nghiệp xuất khẩu.
Thứ tư, để đáp ứng thị hiếu tiêu dùng phong phú của thị trường này, theo hướng chúng ta khai thác tích cực các loại vải sợi nội địa, lụa tơ tằm và cả thổ cẩm truyền thống theo hướng đa dạng hoá mặt hàng may.
Thứ năm, khi kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này tăng lên sẽ tạo ra nhiều việc làm cho người lao động, tăng thêm thu nhập, nâng cao mức sống người dân.
Đó mới chỉ là những ưu thế bước đầu của các doanh nghiệp dệt may khi tiến vào thị trường Bắc Mỹ. Điều quan trọng hơn là chúng ta phải làm thế nào để tăng cường hơn nữa việc xuất khẩu hàng dệt may của mình vào thị trường này, dựa trên cơ sở phân tích điểm mạnh, điểm yếu, lợi thế, cơ hội cũng như những thách thức mà chúng ta đang đối đầu hiện nay.
4.2. Những tồn tại chủ yếu.
Có rất nhiều tồn tại trong xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Bắc Mỹ, tồn tại đó cả ở phía doanh nghiệp dệt may của Việt nam lẫn phía thị trường Bắc Mỹ.
Về phía doanh nghiệp dệt may Việt nam (bên cung) tồn tại chủ yếu chính là :
_Cơ cấu chủng loại hàng may sẵn ít, mẫu mã chưa đặc trưng nổi bật, không khai thác được hết tiềm năng nhu cầu của thị trường Bắc Mỹ.
_Sản phẩm may xuất khẩu chưa có nhãn hiệu Việt nam trên thị trường quốc tế mà hầu hết là gia công cho các doanh nghiệp khác để xuất khẩu sang thị trường Bắc Mỹ.
_Sự liên kết giữa Sợi -Dệt -May là chưa chặt chẽ
_Hoạt động Marketing của các doanh nghiệp ngành may trên thị trường trong và ngoài nước còn yếu. Thiếu hệ thống thông tin môi trường kinh doanh ngành dệt may.
_Quản lí Nhà nước về ngành dệt may còn lỏng lẻo. Việc phân bổ hạn ngạch vẫn còn tồn tại nhiều tiêu cực và bất cập trong thời gian qua.
_Năng suất lao động ngành may thấp do việc làm không đều đặn, máy móc thiết bị chưa được tận dụng.
_Vốn đầu tư phân tán, manh mún nên hiệu quả sử dụng vốn đầu tư toàn ngành thấp, nơi thiếu nơi thừa.
_Đạo đức kinh doanh trong các doanh nghiệp chưa được đề cao.
Còn phía thị trường Bắc Mỹ cũng tồn tại những vấn đề mà các doanh nghiệp dệt may của chúng ta cũng cần phải quan tâm. Chúng ta hướng tới thị trường này, còn bản thân các nhà nhập khẩu của Bắc Mỹ thì kì vọng gì vào những nhà xuất khẩu như Việt nam? Cũng như các nhà nhập khẩu khác, tất nhiên họ kì vọng vào chất lượng, giá cả, và giao hàng đúng hạn. Nói rộng ra, họ quan tâm đến rất nhiều vấn đề như: vị trí của Việt nam trong WTO, khả năng được cấp hạn ngạch nhập khẩu, các chương trình ưu đãi thuế quan, nguồn cung cấp nguyên liệu, sự sáp nhập theo ngành dọc của các công ty, chất lượng lao động, khả năng và tính ổn định của Chính phủ, sự ổn định của đồng tiền, năng lực của nước xuất khẩu, trình độ công nghệ, khả năng liên lạc qua Internet, mức độ tuân thủ các thủ tục Hải quan, các vấn đề liên quan đến đạo đức (lao động và môi trường)v.v. Vì vậy, những điều mà phía thị trường quan tâm cũng là những điều mà chúng ta không thể bỏ qua.
4.3. Những cơ hội hiện nay của hàng dệt may Việt nam xuất khẩu sang thị trường Bắc Mỹ
Nhìn chung quan hệ Việt- Mỹ theo chiều hướng ngày càng tiến triển tốt đẹp khiến các doanh nghiệp dệt may Việt nam có nhiều cơ hội tiến vào thị trường Mỹ.
Thứ nhất, cơ hội hàng đầu là quan hệ Việt-Mỹ. Sau ngày Mỹ bãi bỏ lệnh cấm vận, bình thường hoá quan hệ với Việt nam, hai nước đã trao đổi đại sứ, các Bộ trưởng tài chính, Bộ trưởng ngoại giao, các quan chức đứng đầu các ngành khác của Mỹ đã có những chuyến viếng thăm Việt nam để tìm hiểu tình hình và xúc tiến hợp tác trên nhiều lĩnh vực. Hai bên đã thoả thuận giải quyết các khoản nợ cũ của chính quyền Sài Gòn, kí kết Hiệp định thương mại song phương, kí Hiệp định về thiết lập quan hệ quyền tác giả. Kể từ 10/03/1998 Tổng thống Mỹ Bill Clinton đã tuyên bố bãi bỏ việc áp dụng Luật hà khắc Jackson-Vanik( trong Luật thương mại 1974 của Mỹ)đối với Việt nam, mở đường cho các cơ quan Chính phủ Mỹ như EXIMBANK, OPIC, TDA hoạt động rộng rãi với những chương trình hỗ trợ tại Việt nam. Và đặc biệt gần đây nhất hiệu lực Hiệp định thương mại Việt-Mỹ từ 10/12/2001 cho phép Việt nam được hưởng MFN-một điều kiện hết sức quan trọng vì nó giảm được thuế quan cho khá nhiều mặt hàng, trong đó có dệt may. Quan hệ buôn bán song phương đã không ngừng phát triển. Tuy Mỹ là một nước lớn mạnh hơn hẳn Việt nam nhưng không vì thế mà không cần đến Việt nam. Do đó, Việt nam vẫn hoàn toàn có điều kiện tăng cường các hoạt động xuất khẩu vào thị trường đầy tiềm năng này. Mặt khác, chúng ta còn có một sự hỗ trợ không nhỏ của lực lượng Việt kiều tại Mỹ( hơn 1 triệu người) mà những kĩ năng, tri thức kinh nghiệm của các tri thức chuyên gia, doanh nhân Việt kiều chính là những tài sản quí báu mà Việt nam không thể bỏ qua. Đây có thể coi như một nhịp cầu nối để hàng hoá nói chung và hàng dệt may nói riêng thâm nhập thị trường Bắc Mỹ. Một ưu thế nữa mà Việt nam có được chính ở vị thế Việt nam hiện nay, được coi là một trong những nước nằm trong danh sách BEM (các thị trường đang nổi lên) và thu hút được khá nhiều sự quan tâm của các nước như Hoa Kỳ, Canada..
Thứ hai, cơ hội quan trọng là nhu cầu hàng dệt may của thị trường Bắc Mỹ còn rất nhiều và đa dạng, tạo không ít thuận lợi cho ngành dệt may Việt nam.Theo đánh giá về nhu cầu thị trường Bắc Mỹ cũng như xu hướng phát triển của thị trường này thì tiềm năng hứa hẹn của thị trường này còn rất nhiều mà chúng ta chưa khai thác được hiệu quả.
Thứ ba, cơ hội của chúng ta còn nằm ở nguồn nguyên liệu vải nội địa, còn rất nhiều loại vải đẹp truyền thống như tơ tằm, thổ cẩm, gấm..mà chúng ta còn bỏ ngỏ.
Thứ tư, cơ hội còn thể hiện ở số lượng và chất lượng lao động quản lí, sản xuất của Việt nam đang nâng cao dần.
Thứ năm, cơ hội đầu tư của ngành dệt may có rất nhiều nhờ các nguồn cung cấp vốn mở rộng, các nguồn cung cấp máy móc thiết bị cho ngành dệt may Việt nam nhiều hơn, bản thân Chính phủ đang nỗ lực cải tiến và hoàn thiện các hoạt động, chính sách nhằm hỗ trợ cho ngành dệt may phát triển.
Bên cạnh những cơ hội trên, chúng ta cũng có những thách thức đi kèm không ít phía trước-điều đáng quan tâm cho bất kì công cuộc thâm nhập nào của sản phẩm chúng ta.
4.4. Những thách thức lớn của hàng dệt may Việt nam xuất khẩu vào thị trường Bắc Mỹ.
Thách thức phải kể đến trước hết là sự cạnh tranh gay gắt của các nước xuất khẩu hàng dệt may hiện nay. Đó là Trung Quốc với ưu thế phong phú về chủng loại hàng hoá và giá rẻ. Đó còn là các nước AESAN như Philipin, Thai lan, Indonesia, những nước xuất khẩu lớn và có sẵn thị trường tiêu thụ. Tuy họ có giá nhân công cao hơn nhưng họ nhờ ưu thế tự túc được nguyên liệu vải và các phụ kiện may chất lượng cao nên đã góp phần làm giảm giá thành sản phẩm, tạo nên nhiều nhãn hiệu uy tín như áo thun “cá sấu” của Thailand, quần lót hiệu “ Soel” của Philippinnes..Ngoài ra các nước trong vùng Bắc Mỹ như Mêhicô, Canada, và các nước vùng Caribe cũng đang là những quốc gia có xu thế và điều kiện thuận lợi để gia tăng xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Bắc Mỹ, họ là đối thủ cạnh tranh khá mạnh trong lĩnh vực này.
Thách thức thứ hai hiện nay là do Việt nam chưa trở thành thành viên của WTO nên không được hưởng các lợi ích từ Hiệp định hàng Dệt may ATC( Agreement on Textile&Clothing)-Hiệp định điều chỉnh việc xoá bỏ quota áp dụng trong Hiệp định đa sợi MFN, Việt nam chỉ được hưởng ưu đãi trong nội bộ Hiệp định thương mại Việt Mỹ chứ không phải trong cả khối Bắc Mỹ.
Thách thức thứ ba là tính chất phức tạp của hệ thống luật quốc tế cũng như luật thương mại Mỹ mà với tầm vóc dẫn dắt các tổ chức kinh tế quốc tế sẽ có những đòi hỏi khắt khe đối vơí các quốc gia đang phát triển như Việt nam. Trong khi đó Việt nam, một nước chậm phát triển đang trong quá trình chuyển đổi, khi tham gia vào thị trường thế giới buộc phải tuân theo hoặc toàn diện hoặc bộ phận các nguyên tắc trên để tự bảo vệ mình. Dù muốn hay không cũng phải thừa nhận rằng những nhà hoạch định chính sách của Hoa Kỳ vẫn bị chi phối bởi một số áp lực nhất định từ quan niệm cũ về một nước Việt nam mới.
Thách thức thứ tư là thách thức trong bản thân nội bộ ngành-sự quản lí chồng chéo của các Bộ hữu quan đối với ngành dệt may khiến cho cơ cấu không năng động, dễ tuột mất những cơ hội đáng tiếc mà trong kinh doanh, yếu tố cơ hội nhiều lúc mang tính chất
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Khoa luan.DOC