Tài liệu Đề tài Nghiên cứu hoàn thiện giải pháp chuyển đổi Viện khoa học công nghệ xây dựng từ tổ chức Khoa học Công nghệ sự nghiệp có thu thành tổ chức Khoa học Công nghệ tự trang trải kinh phí: MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CNH: Công nghiệp hóa
HĐH: Hiện đại hóa
Viện KHCNXD: Viện Khoa học Công nghệ Xây dựng
KHCN: Khoa học Công nghệ
KH&CN: Khoa học và công nghệ
TCVN: Tiêu chuẩn Việt Nam
TVGS: Tư vấn giám sát
NCCB: Nghiên cứu cơ bản
CLCS: Chiến lược chính sách
KTKT: Kinh tế kỹ thuật
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Bảng thống kê tài sản đến 30/6/2006
Bảng 2.2. Bảng số liệu tài chính các năm 2004-2006
Bảng 2.3. Kết quả sản xuất kinh doanh, dịch vụ trong các năm 2001-2005
DANH MỤC CÁC HÌNH VÀ SƠ ĐỒ
H2.1. Sơ đồ cơ cấu tổ chức
H3.1. Dự kiến cơ cấu tổ chức Viện KHCNXD sau khi chuyển đổi
MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết nghiên cứu đề tài
Trong thời đại ngày nay, những bước tiến kỳ diệu và những thành tựu to lớn của khoa học và công nghệ tác động sâu sắc đến sự phát triển của xã hội loài người. Đối với nước ta, khoa học và công nghệ cùng với giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu để phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao trình độ quản lý của Nhà nước và tiềm ...
109 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1085 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Nghiên cứu hoàn thiện giải pháp chuyển đổi Viện khoa học công nghệ xây dựng từ tổ chức Khoa học Công nghệ sự nghiệp có thu thành tổ chức Khoa học Công nghệ tự trang trải kinh phí, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CNH: Công nghiệp hóa
HĐH: Hiện đại hóa
Viện KHCNXD: Viện Khoa học Công nghệ Xây dựng
KHCN: Khoa học Công nghệ
KH&CN: Khoa học và công nghệ
TCVN: Tiêu chuẩn Việt Nam
TVGS: Tư vấn giám sát
NCCB: Nghiên cứu cơ bản
CLCS: Chiến lược chính sách
KTKT: Kinh tế kỹ thuật
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Bảng thống kê tài sản đến 30/6/2006
Bảng 2.2. Bảng số liệu tài chính các năm 2004-2006
Bảng 2.3. Kết quả sản xuất kinh doanh, dịch vụ trong các năm 2001-2005
DANH MỤC CÁC HÌNH VÀ SƠ ĐỒ
H2.1. Sơ đồ cơ cấu tổ chức
H3.1. Dự kiến cơ cấu tổ chức Viện KHCNXD sau khi chuyển đổi
MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết nghiên cứu đề tài
Trong thời đại ngày nay, những bước tiến kỳ diệu và những thành tựu to lớn của khoa học và công nghệ tác động sâu sắc đến sự phát triển của xã hội loài người. Đối với nước ta, khoa học và công nghệ cùng với giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu để phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao trình độ quản lý của Nhà nước và tiềm lực lãnh đạo của Đảng.
Trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội những năm qua của nước ta, khoa học công nghệ tiếp tục phát triển đã hướng vào nghiên cứu ứng dụng bước đầu phát huy vai trò động lực thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội. Lực lượng khoa học đã góp phần xây dựng luận cứ khoa học cho các chủ trương phát triển kinh tế, đóng góp tích cực vào việc soạn thảo cương lĩnh, chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội... Rất nhiều thành tựu khoa học được ứng dụng trong thực tế đã tác động tích cực đến phát triển kinh tế sản xuất trong nhiều lĩnh vực trên nhiều vùng kinh tế của đất nước. Cơ chế quản lý khoa học công nghệ đã bước đầu được đổi mới nhằm gắn hoạt động khoa học công nghệ với sản xuất và đời sống, mở rộng quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của các tập thể và cơ quan khoa học.
Trong thời gian qua, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới, nhiều văn bản quan trọng về định hướng chiến lược và cơ chế, chính sách phát triển khoa học và công nghệ đã được ban hành: Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2 khoá VIII (1996); Luật Khoa học và Công nghệ (2000); Kết luận của Hội nghị Trung ương 6 khoá IX (2002); Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ Việt Nam đến năm 2010 (2003); và nhiều chính sách cụ thể khác về xây dựng tiềm lực và đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ.
Tuy nhiên, trình độ khoa học và công nghệ của nước ta hiện nay nhìn chung còn thấp so với các nước trên thế giới và trong khu vực, năng lực sáng tạo công nghệ mới còn hạn chế, vẫn chưa đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá (CNH), hiện đại hoá (HĐH) đất nước và đang đứng trước nguy cơ tụt hậu ngày càng xa trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và sự phát triển kinh tế tri thức trên thế giới. Đại hội Đảng lần thứ IX đã chỉ ra những hạn chế cơ bản của hoạt động khoa học và công nghệ hiện nay là: “Chưa thực sự gắn kết với nhu cầu và hoạt động của các ngành kinh tế, xã hội; chậm đưa vào ứng dụng những kết quả đã nghiên cứu được; trình độ khoa học và công nghệ của ta còn thấp nhiều so với các nước xung quanh; năng lực tạo ra công nghệ mới còn rất có hạn. Các cơ quan nghiên cứu khoa học chậm được sắp xếp cho đồng bộ, còn phân tán, thiếu phối hợp, do đó đạt hiệu quả thấp. Các viện nghiên cứu và các doanh nghiệp, các trường đại học chưa gắn kết với nhau. Việc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật thiếu tập trung và dứt điểm cho từng mục tiêu. Cán bộ khoa học và công nghệ có trình độ cao tuy còn ít, song chưa được sử dụng tốt.”
Mục tiêu của Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ Việt Nam đến năm 2010 là: “Tập trung xây dựng nền khoa học và công nghệ nước ta theo hướng hiện đại và hội nhập, phấn đấu đạt trình độ trung bình tiên tiến trong khu vực vào năm 2010, đưa khoa học và công nghệ thực sự trở thành nền tảng và động lực đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.”
Để đạt được mục tiêu phát triển khoa học và công nghệ nước ta đến năm 2010, phải đổi mới mạnh mẽ cơ chế quản lý khoa học và công nghệ, tạo bước chuyển biến căn bản trong quản lý khoa học và công nghệ theo hướng phù hợp với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với đặc thù của hoạt động khoa học và công nghệ, với yêu cầu chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, nhằm nâng cao rõ rệt chất lượng, hiệu quả hoạt động khoa học và công nghệ; tăng cường và sử dụng có hiệu quả tiềm lực khoa học và công nghệ.
Chính vì vậy việc nghiên cứu chuyển đổi Viện Khoa học Công nghệ Xây dựng (Viện KHCNXD) từ tổ chức Khoa học Công nghệ sự nghiệp có thu thành tổ chức Khoa học Công nghệ tự trang trải kinh phí là cần thiết để đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
2. Mục tiêu nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu hoàn thiện giải pháp chuyển đổi Viện KHCNXD từ tổ chức Khoa học Công nghệ sự nghiệp có thu thành tổ chức Khoa học Công nghệ tự trang trải kinh phí.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận, thực tiễn của việc chuyển đổi Viện KHCNXD, đánh giá thực trạng khoa học công nghệ (KHCN), thực trạng hoạt động của Viện KHCNXD. Trên cơ sở nghiên cứu đề án chuyển đổi Viện KHCNXD nghiên cứu giải pháp hoàn thiện trong việc chuyển đổi.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp điều tra, khảo sát số liệu, phân tích tổng hợp, tham khảo ý kiến chuyên gia, biện chứng, logic lịch sử.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Luận văn nghiên cứu có giá trị ứng dụng để hoàn thiện cơ sở lý luận, đề xuất những định hướng, giải pháp hoàn thiện việc chuyển đổi Viện KHCNXD và có thể tham khảo cho việc chuyển đổi những tổ chức KHCN tương tự.
6. Kết cấu của luận văn
Kết cấu của luận văn gồm:
Mở đầu
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc chuyển đổi Viện Khoa học Công nghệ Xây dựng
Chương 2. Thực trạng tổ chức và hoạt động của Viện Khoa học Công nghệ Xây dựng
Chương 3. Phân tích, đánh giá đề án chuyển đổi Viện Khoa học Công nghệ Xây dựng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động
Kết luận
Kiến nghị
Tài liệu tham khảo
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC CHUYỂN ĐỔI VIỆN KHOA HỌC CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG
1.1 Một số khái niệm cơ bản về KHCN [19, 31]
Nền kinh tế nước ta hiện nay là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. KHCN đóng góp vai trò quan trọng trong sự nghiệp đổi mới phát triển kinh tế ở nước ta. Để thấy rõ vai trò đó của KHCN cần làm rõ một số khái niệm cơ bản về KHCN.
Hiện nay, một số khái niệm cơ bản về KHCN ở các nước khác nhau được hiểu với các góc độ khác nhau tuỳ thuộc vào mục đích nghiên cứu và cách tiếp cận. Ở đây tác giả chỉ trình bày các khái niệm đó theo quan điểm của UNESCO.
Khoa học (Science): Theo Tổ chức văn hóa – Khoa học – Giáo dục của Liên hợp quốc (UNESCO), khoa học là một hệ thống các tri thức của nhân loại về các phạm trù, quy luật vận động và phát triển khách quan của thế giới tự nhiên, xã hội và bản thân con người; là một loại hình hoạt động xã hội đặc biệt nhằm đạt tới những hiểu biết mới và vận dụng những hiểu biết đó vào sản xuất và đời sống trong những điều kiện kinh tế, văn hóa và xã hội nhất định. Tri thức khoa học biểu hiện chủ yếu dưới hình thức các phạm trù, định luật và quy luật. Đối tượng nhận thức của khoa học rất rộng lớn, bao gồm mọi lĩnh vực của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Công nghệ (Technology): là tổng thể các kỹ năng, kiến thức, thiết bị và phương pháp sử dụng trong sản xuất, chế tạo hoặc dịch vụ công nghiệp, dịch vụ quản lý.
Trong những ngày đầu CNH, người ta sử dụng phổ biến thuật ngữ kỹ thuật (Technique) với ý nghĩa là các giải pháp thực hiện một loại công việc hay công cụ được sử dụng trong sản xuất làm tăng hiệu quả sản xuất. Tiếp đó xuất hiện thuật ngữ công nghệ sản xuất, lúc đầu nó được hiểu là quy trình kỹ thuật dùng trong dây chuyền sản xuất về sau khái niệm này được hiểu theo nghĩa rộng hơn và ổn định như ngày nay. Công nghệ là kết quả của quá trình áp dụng các thành tựu của khoa học vào sản xuất. Công nghệ là sản phẩm của lao động trí tuệ sáng tạo của con người trong lĩnh vực sản xuất. Công nghệ được coi là phương tiện, công cụ để biến đổi thế giới tự nhiên phù hợp với lợi ích của con người; là tác nhân chủ chốt trong quá trình khai thác và chế biến tài nguyên thiên nhiên thành hàng hoá và dịch vụ. Nói cách khác, công nghệ gồm hai phần: “phần cứng” và “phần mềm”. Phần cứng bao gồm: máy móc, thiết bị, nhà xưởng... Phần mềm bao gồm: đội ngũ nhân lực có sức khoẻ, kỹ năng, kỹ xảo, kinh nghiệm sản xuất,...; thông tin về quy trình sản xuất, bản vẽ, thuyết minh, chỉ dẫn kỹ thuật; trình độ tổ chức quản lý, điều hành sản xuất của ban quản lý,...
Khái niệm công nghệ được sử dụng rộng rãi vào tất cả các lĩnh vực của cuộc sống con người. Công nghệ được dùng không chỉ trong sản xuất vật chất mà còn trong các hoạt động xã hội: Công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, công nghệ quản lý, công nghệ giáo dục,...
Hoạt động khoa học là tất cả các hoạt động có hệ thống, liên quan chặt chẽ đến việc nâng cao, truyền bá và ứng dụng các kiến thức khoa học vào đời sống và sản xuất. Nội dung chủ yếu của hoạt động khoa học bao gồm: Hoạt động nghiên cứu KHCN và dịch vụ KHCN.
Trong các hoạt động nghiên cứu KHCN được chia ra thành các hoạt động chủ yếu sau đây: hoạt động nghiên cứu cơ bản, hoạt động nghiên cứu ứng dụng, hoạt động nghiên cứu triển khai, hoạt động nghiên cứu công nghệ.
Hoạt động nghiên cứu cơ bản là nhằm nghiên cứu những kiến thức mới về các hiện tượng tự nhiên và xã hội, không phụ thuộc vào bất cứ sự quan tâm nào tới việc ứng dụng trong thực tế kinh tế - xã hội.
Hoạt động nghiên cứu ứng dụng là nhằm đạt được những kiến thức mang tính thực tiễn, trong những điều kiện cụ thể có tính đặc thù. Như vậy, khác với nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng là nghiên cứu mà mang tính ứng dụng đã được đặt ra trước.
Hoạt động nghiên cứu triển khai là hoạt động có hệ thống nhằm vận dụng và ứng dụng các kiến thức khoa học hoặc kinh nghiệm thực tiễn để sản xuất ra những sản phẩm mới (thiết bị, kỹ thuật, vật liệu, các chất tổng hợp,...) để đưa ra các phương pháp tiến hành mới hoặc hoàn thiện những gì đã đưa vào sản xuất bằng các ứng dụng KHCN. Hoạt động nghiên cứu triển khai là một trong những bộ phận quan trọng của hoạt động KHCN.
Hoạt động nghiên cứu công nghệ là hoạt động nghiên cứu nhằm đạt được những hiểu biết và thực hành để thiết lập nên những quy trình sản xuất dựa trên các nguyên lý khoa học trong mọi lĩnh vực kỹ thuật.
1.2 Cơ sở lý luận của việc chuyển đổi
1.2.1 Khái quát những đặc điểm kinh tế xã hội [1, 20]
Cho tới đầu những năm 80, nền kinh tế nước ta đã vận động theo cơ chế chỉ huy với mô hình chủ yếu là kế hoạch hoá và tập trung hoá cao độ. Nền kinh tế phát triển mang nặng tính tự cung tự cấp, các yếu tố sản xuất hàng hoá còn yếu, chưa phát triển, các yếu tố thị trường mới sơ khai, thiếu đồng bộ lại quản lý theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung cứng nhắc nên đã phát sinh sự mất cân đối, lạm phát cao dẫn đến khủng hoảng và sự tăng trưởng kinh tế chậm. Những mâu thuẫn nội tại từ nền kinh tế nước ta đòi hỏi phải đổi mới để thoát khỏi khủng hoảng và thúc đẩy các yếu tố sản xuất hàng hoá phát triển.
Nền kinh tế chỉ huy tồn tại ở nước ta đã huy động một bộ phận nguồn lực cho sự phát triển ban đầu, nhưng mô hình này bị khép kín, kém hiệu quả, không phù hợp với xu hướng quốc tế hoá các quan hệ kinh tế của thế giới.
Trong giai đoạn phát triển mới, cơ chế chỉ huy ngày càng bộc lộ những mâu thuẫn và bế tắc. Đại hội VI đã bắt đầu và đại hội VII đã phát triển những chủ trương đổi mới với việc chuyển nền kinh tế vận động theo cơ chế chỉ huy trước đây sang nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường.
Sự hoà nhập trong phân công lao động quốc tế cùng với thành quả của tiến bộ KHCN của thế giới về công nghệ, về quản lý, về chất lượng và phát triển môi trường cũng yêu cầu phải chuyển nền kinh tế nước ta theo cơ chế thị trường là tất yếu.
Những cải cách chủ yếu trong giai đoạn đầu là:
Đổi mới một bước quan trọng cơ chế kế hoạch hoá theo hướng thu hẹp tập trung, mở rộng tự chủ kế hoạch và tự chủ về chiến lược sản xuất kinh doanh của các đơn vị cơ sở.
Cải cách hệ thống giá cả theo hướng tự chủ về giá của các đơn vị sản xuất kinh doanh, hoà nhập từng bước giá đầu vào và giá đầu ra vào cơ chế thị trường.
Cải cách hệ thống tài chính theo hướng tự chủ tài chính của các đơn vị sản xuất kinh doanh, tách dần tài chính Nhà nước với tài chính doanh nghiệp; chế độ thuế thay các khoản thu từ kinh tế quốc doanh; tín dụng hoá vốn đầu tư; những cải cách trong lĩnh vực kế toán thống kê, thu chi ngân sách, ...
Cải cách hoạt động ngân hàng, đưa ngân hàng vào hoạt động kinh doanh, bước đầu áp dụng cơ chế thị trường trong điều tiết lưu thông tiền tệ.
Đổi mới chính sách lao động và tiền lương.
Ban hành và thực hiện luật và các văn bản dưới luật về khu vực kinh tế tư nhân, về hợp tác và đầu tư với nước ngoài.
Quá trình chuyển đổi nền kinh tế nước ta theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một nội dung cơ bản về đổi mới của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta tuy thời gian chưa dài nhưng các yếu tố cho sự tăng trưởng kinh tế thực tế đang phát triển. Thực tiễn đó cũng là cơ sở khoa học chứng minh tất yếu của sự chuyển đổi nền kinh tế nước ta theo cơ chế thị trường là phù hợp với quy luật của xã hội và đạt được mục tiêu của nước ta là chủ nghĩa xã hội, ổn định và tăng trưởng kinh tế là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
1.2.2. Vai trò của KHCN trong việc đổi mới nền kinh tế ở nước ta [1, 12, 16, 17, 18, 22, 25]
1.2.2.1. Mối tương tác giữa KHCN với kinh tế
KHCN không sinh ra như một vật tự nó mà bắt nguồn từ nhu cầu nhận thức và cải tạo thế giới của xã hội loài người. Trong thế giới hiện đại từ nhà kinh doanh muốn giành ưu thế trong cạnh tranh đến các nhà lãnh đạo quốc gia muốn đưa đất nước ra khỏi nghèo nàn lạc hậu đều phải tìm câu trả lời trong những chính sách cụ thể và phát triển các hoạt động nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu KHCN.
Đồng thời KHCN thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao năng lực tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế tạo điều kiện thay đổi chiến lược tái sản xuất từ giản đơn sang phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu.
Hiện nay ta đang trên đà cải cách toàn diện về mặt kinh tế và xã hội, mà điểm cốt lõi về cải cách kinh tế là chuyển từ một nền kinh tế chỉ huy tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước. Đi đôi với cải cách kinh tế là cải cách trong hệ thống chính trị mà đặc biệt điểm quan trọng nhất như trong đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã đề ra mục tiêu “Huy động và sử dụng tốt mọi nguồn lực cho CNH-HĐH đất nước, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, tạo nền tảng để đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”
Bối cảnh chính trị xã hội đã quy định nội dung của những bước phát triển trong chính sách KHCN, và có thể nói chính sách KHCN cũng đã và đang trải qua những cuộc cải cách với đầy đủ những nét đặc trưng cơ bản công cuộc cải cách kinh tế và xã hội.
Trong nền kinh tế chỉ huy tập trung, do vai trò lãnh đạo của nhà nước chi phối mọi hoạt động kinh tế và xã hội nên mọi hoạt động KHCN cũng được quan niệm là một hoạt động do nhà nước độc quyền chủ trì. Nhà nước lập kế hoạch nghiên cứu và áp dụng kết quả nghiên cứu cho toàn xã hội và do vậy ngân sách nhà nước được cấp cho mọi hoạt động KHCN trong xã hội. Mặc dù trên hình thức nhà nước lập kế hoạch nghiên cứu, nhưng trong thực tế thì đó cũng là những sáng kiến nghiên cứu của các nhà khoa học công nghệ được đưa lên từ cấp cơ sở, sau đó được “Nhà nước hoá” thông qua một hệ thống xem xét và phê duyệt theo thang bậc quản lý hành chính.
Cùng với những biến động và khủng hoảng kinh tế xã hội trong các nước có nền kinh tế chỉ huy, hệ thống KHCN cũng ngày càng bộc lộ tính kém hiệu quả và cuối cùng nó đã phải bước vào những công cuộc cải cách cùng với hệ thống kinh tế xã hội.
Ở nước ta mạng lưới các tổ chức KHCN có những biến động và cải cách khá tương đồng cả trên nội dung và các bước phát triển.
a. Sự tác động của KHCN đối với kinh tế thị trường
Nước ta là một nước nông nghiệp với điểm xuất phát thấp về lực lượng sản xuất, về trình độ xã hội hoá lao động và xã hội hoá sản xuất. Sự thấp kém này đã kìm hãm quá trình chuyển biến nền kinh tế nặng tính tự cấp tự túc sang kinh tế thị trường. Việc phát triển KHCN chính là để thay đổi về chất lực lượng sản xuất và nâng cao trình độ xã hội hoá sản xuất của đất nước nhằm thúc đẩy quá trình chuyển biến nền kinh tế từ chậm phát triển sang phát triển, chuyển nền kinh tế bao cấp kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường. Dưới tác động của KHCN làm biến đổi về chất lực lượng sản xuất theo hướng thực hiện từng bước chiến lược đồng bộ hoá giữa tư liệu sản xuất hiện đại với con người hiện đại, nhằm nâng cao trình độ xã hội hoá sản xuất. Đến lượt nó lại tác động làm biến đổi sở hữu và cơ chế kinh tế ở nước ta từ độc quyền độc tôn sang sở hữu hỗn hợp đa dạng, từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước.
Mặt khác, dưới tác động của KHCN theo hướng đã xác định đã làm cho nền kinh tế thị trường ở nước ta từng bước thích nghi với tốc độ nhanh của xu hướng quốc tế hoá các quan hệ kinh tế trên thế giới.
Phát triển KHCN đã thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế qua sự phân công lao động làm thay đổi từng bước cơ cấu ngành, vùng; thay đổi chiến lược kinh doanh, thay đổi sự hình thành cơ cấu giá trị hàng hóa, nhất là trong các ngành công nghiệp mới.
Sự tác động của kinh tế thị trường đối với sự phát triển KHCN
Nền kinh tế thị trường được xây dựng sẽ có sự tác động tích cực đến sự phát triển KHCN. Chính nền kinh tế thị trường đòi hỏi phải xác định vai trò then chốt thực sự của KHCN và KHCN là động lực quan trọng nhất đối với lực lượng sản xuất ở nước ta.
Kinh tế thị trường đã thúc đẩy trình độ phát triển lực lượng sản xuất và xã hội hoá sản xuất được thể hiện ở chỗ:
Cơ cấu lao động nhiều trình độ, hình thành lực lượng mũi nhọn gắn với công nghệ mới hiện đại được lựa chọn để đi thẳng vào nguyên tắc của công nghệ.
Đối tượng lao động ở trong nước được khai thác ngày càng nhiều và sử dụng nguyên liệu nhân tạo.
Từng bước mở rộng phân công lao động và hợp tác sản xuất, lao động trong nước và trên thế giới.
Kinh tế thị trường tác động đã làm thay đổi hẳn cơ cấu kinh tế với việc đa dạng sở hữu, thúc đẩy hình thành cơ cấu công - nông - dịch vụ hiện đại gắn với phân công và hợp tác quốc tế sâu rộng, ngành kết cấu hạ tầng sản xuất được ưu tiên đầu tư theo hướng hiện đại và đã từng bước xuất hiện những ngành công nghệ mới, các khu chế xuất, vùng kinh tế đặc biệt và đô thị hoá tập trung.
Đặc biệt, dưới sự tác động của kinh tế thị trường đã làm thay đổi trình độ văn minh, góp phần vượt qua văn minh nông nghiệp đi lên trong sự gắn bó với hai nền văn minh công nghệ và văn minh trí tuệ.
c. Sự phát triển KHCN gắn bó với công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Lịch sử đã khẳng định rằng trong quá trình từ sản xuất nhỏ thủ công lạc hậu lên sản xuất lớn hiện đại, CNH là bước đi tất yếu mà mỗi dân tộc đều phải trải qua. Trong thời đại hiện nay, CNH bao hàm trong đó cả HĐH trong tất cả các lĩnh vực, các ngành kinh tế quốc dân.
HĐH chính là cách thức dùng sự phát triển hiện đại mà thế giới đã đạt được qua cải tạo và chuyển giao công nghệ cho đất nước. Đó là cách thực hiện cách mạng khoa học công nghệ gắn với quá trình phân công lao động quốc tế một cách có hiệu quả.
Kinh nghiệm CNH ở nhiều nước trên thế giới cho thấy cái cốt lõi của CNH là sự đổi mới kỹ thuật (phần cứng) và công nghệ (phần mềm), chuyển từ kỹ thuật và công nghệ lạc hậu, năng suất và hiệu quả kinh tế xã hội thấp lên trình độ kỹ thuật và công nghệ tiên tiến hiện đại có năng suất và hiệu quả kinh tế - xã hội cao trong các ngành kinh tế quốc dân.
CNH là bước phát triển tất yếu mà mỗi nước phải trải qua. Nó là quá trình thực hiện phương pháp công nghiệp trong các ngành và các lĩnh vực kinh tế quốc dân, là quá trình phát triển kỹ thuật và công nghệ hiện đại trong sản xuất kinh doanh.
Như vậy, thực chất CNH là xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của xã hội. Đó không chỉ đơn giản là tăng thêm tốc độ và tỷ trọng của sản xuất công nghệ trong nền kinh tế mà là quá trình chuyển dịch cơ cấu gắn với đổi mới căn bản về công nghệ tạo nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh chóng, hiệu quả cao và lâu bền của toàn bộ nền kinh tế.
Trên thế giới cách mạng KHCN diễn ra mạnh mẽ, tác động tích cực, sâu sắc toàn diện đến đời sống kinh tế. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy quá trình công nghiệp hoá ở từng nước và từng nhóm nước có những đặc điểm rất khác nhau. Việc nghiên cứu sự đa dạng, tìm ra những nét chung nhất mang tính quy luật và những nét đặc thù riêng biệt của mỗi nhóm nước, có một ý nghĩa quan trọng trong việc lựa chọn một chiến lược CNH tích cực, thích hợp với điều kiện phát triển về trình độ KHCN cụ thể ở từng nước.
Ở nước ta CNH, HĐH nền kinh tế là mục tiêu chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội phấn đấu vì mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Một trong những nhiệm vụ chủ yếu của Đảng và nhà nước ta là: thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH. Đây là nhiệm vụ trọng tâm quan trọng hàng đầu trong thời gian tới. Bởi vì CNH, HĐH là con đường thoát khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các nước xung quanh, giữ được ổn định chính trị, xã hội bảo vệ độc lập chủ quyền và định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn cho thấy sự nghiệp CNH được thực hiện nhanh hay chậm, có hay không có hiệu quả kinh tế xã hội cao là tuỳ thuộc rất nhiều vào phạm vi nhịp độ, hiệu quả của việc ứng dụng tiến bộ KHCN vào sản xuất và đời sống. Việc phát triển sự nghiệp nghiên cứu và ứng dụng KHCN đáp ứng yêu cầu phát triển trước mắt cũng như lâu dài trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH nền kinh tế quốc dân ở nước ta là một đòi hỏi khách quan và là một yếu tố rất cơ bản đảm bảo sự tiến bộ về kinh tế và xã hội vì: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
1.2.2.2. Sự thích ứng của việc đổi mới quản lý hoạt động KHCN với đổi mới phát triển kinh tế
Quản lý và cơ chế quản lý
Quản lý là một yếu tố không thể thiếu được trong đời sống và sự phát triển của xã hội loài người, là hoạt động có ý nghĩa quan trọng nhất trong các hoạt động của con người. Quản lý có nghĩa là hiệu quả, bởi vì con người không chỉ cần và biết sản xuất ra sản phẩm gì, mà điều quan trọng hơn là phải biết sản xuất ra sản phẩm đó với giá nào và ai sẽ là người tiêu thụ.
Hoạt động KHCN là lao động xã hội đặc biệt, được tiến hành trên quy mô khá lớn, có mối quan hệ hữu cơ với lao động sản xuất và đời sống xã hội. Cơ chế quản lý KHCN phải phù hợp với cơ chế quản lý kinh tế trong từng giai đoạn phát triển kinh tế quốc dân. Cơ chế quản lý kinh tế phải mở đường cho hoạt động KHCN, phát huy được tác dụng tích cực của mình đối với phát triển kinh tế và tạo được môi trường, điều kiện để KHCN phát huy được vai trò động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Cơ chế quản lý kinh tế bao gồm các nội dung chủ yếu sau: Xác định đường lối, chiến lược, mục tiêu phát triển kinh tế xã hội và xác định phương hướng phát triển nền kinh tế quốc dân; Tổ chức nền kinh tế - xã hội (cơ cấu tổ chức, bộ máy, cán bộ thông tin); Xác định phương thức trao đổi giữa sản xuất và tiêu dùng, giữa cung và cầu; Sử dụng các đòn bẩy kinh tế và giải quyết đúng vấn đề phân chia lợi ích kinh tế; Hạch toán, đánh giá hiệu quả; Chính sách, biện pháp quản lý cụ thể.
Cũng như cơ chế quản lý chung, cơ chế quản lý KHCN của Nhà nước là phương thức điều hành hệ thống KHCN quốc gia phù hợp với quy luật khách quan của tiến trình phát triển KHCN của cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại, phù hợp với đặc điểm của hoạt động KHCN, với chính sách kinh tế và cơ chế quản lý kinh tế, được thể hiện thành thể chế, luật lệ quy định, ... ràng buộc đối với các đơn vị, cá nhân tiến hành các hoạt động KHCN nhằm đạt được mục tiêu, chiến lược phát triển KHCN đặt ra một cách tốt nhất trong môi trường trong và ngoài nước đầy các biến động.
Tương tự như cơ chế quản lý kinh tế, cơ chế quản lý KHCN bao hàm các nội dung sau: Đường lối, chiến lược, mục tiêu phát triển KHCN; Bố trí cơ cấu tổ chức hệ thống KHCN (hệ thống tổ chức hoạt động và quản lý KHCN) bao gồm việc bố trí mạng lưới các cơ quan, các đơn vị KHCN trong cả nước theo hướng tiếp cận thị trường, theo các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, lợi ích của mỗi đơn vị, cơ quan, nhằm thực hiện đường lối, chiến lược, mục tiêu phát triển KHCN; Xác định phương thức trao đổi giữa đầu vào và đầu ra của các cơ quan, đơn vị hoạt động KHCN trong môi trường kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo hướng gắn KHCN với sản xuất với môi trường kinh tế - xã hội; Chính sách KHCN (hạch toán đối với KHCN, sở hữu công nghiệp, thương mại hóa KHCN, các biện pháp về khen thưởng, kỷ luật, các công cụ quản lý khác,...); Khai thác và sử dụng thời cơ KHCN; Lựa chọn phương pháp và nghệ thuật quản lý KHCN.
Tính tất yếu phải sắp xếp lại tổ chức và đổi mới cơ chế quản lý KHCN
Trong thời đại hiện nay không một lĩnh vực nào không chịu sự tác động mạnh mẽ của KHCN. Cuộc cách mạng KHCN hiện đại đang làm chuyển biến sâu sắc nền kinh tế thế giới, các quan hệ quốc tế và tất cả các hoạt động của xã hội loài người. Nước nào cũng phải dựa vào KHCN để phát triển kinh tế xã hội và củng cố vị trí của mình trong cuộc cạnh tranh kinh tế và đấu tranh chính trị. Cuộc cạnh tranh công nghệ đang trở thành một nội dung chủ yếu trong quan hệ quốc tế ngày nay và đây cũng là thách thức đối với các nước đang phát triển. Tuy nhiên, các nước đang phát triển nếu có chiến lược đúng về phát triển KHCN, biết phát huy lợi thế của các nước đi sau, nhanh chóng nâng cao năng lực KHCN của mình, mạnh dạn đi thẳng vào những công nghệ mới có chọn lựa thì cũng có thể phát triển nhanh chóng.
Nước ta cũng đang đứng trước những thách thức do các nhân tố khách quan và chủ quan. Điều đáng quan tâm nhất là do đang bị tụt hậu so với nhiều nước về KHCN. Trong những thập kỷ qua ta bị tụt lại sau cuộc cách mạng KHCN hiện đại, trình độ công nghệ thấp kém, năng suất, chất lượng, hiệu quả của sản xuất quá thấp, tốc độ phát triển của nền kinh tế quá chậm, các tiềm năng to lớn về con người và điều kiện tự nhiên chưa được phát huy. Vì vậy yêu cầu phát triển kinh tế xã hội đối với KHCN rất đa dạng và toàn diện. Hệ thống nghiên cứu triển khai gồm các viện, trung tâm và các trường đại học bước đầu đã phát huy vai trò động lực phát triển kinh tế xã hội do trực tiếp đóng góp vào việc nâng cao trình độ công nghệ sản xuất, chuyển giao công nghệ, ứng dụng công nghệ tiên tiến để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả trong một số lĩnh vực và địa phương tuy nhiên vẫn còn những tồn tại như mới tập trung vào một số vấn đề trước mắt mà chưa định hướng giải quyết những vấn đề KHCN có tính chiến lược chuẩn bị xây dựng công nghệ đặc thù và truyền thống để khai thác các nguồn tài nguyên, lao động, cơ sở vật chất kỹ thuật.
Với mạng lưới nghiên cứu triển khai phân tán, chồng chéo, với cơ sở vật chất kỹ thuật thô sơ và lạc hậu, với đội ngũ cán bộ thiếu đồng bộ, thiếu cán bộ đầu đàn giỏi có năng lực tập hợp lực lượng thành tập thể khoa học mạnh, với đầu tư chi phí cho hoạt động KHCN nhỏ bé và với sự khan hiếm thông tin và hạn chế hợp tác cộng với điều kiện sinh hoạt và làm việc như hiện nay thì nền KHCN của ta không thể nào đủ sức là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội.
Cơ chế quản lý các hoạt động nghiên cứu triển khai KHCN đã được điều chỉnh bổ sung một số quy định để gắn trực tiếp hơn KHCN với thực tiến sản xuất và tạo khả năng cho các thành phần kinh tế cùng tham gia vào các hoạt động KHCN theo nhu cầu tất yếu của phát triển. Song có thể nói đến thời điểm này, về cơ bản lực lượng tham gia các hoạt động KHCN vẫn chỉ thuộc về các cơ quan KHCN của nhà nước với cách thức tổ chức quản lý phần lớn vẫn theo kiểu hành chính như thời kế hoạch hoá tập trung. Như vậy trong quản lý nghiên cứu triển khai các hoạt động KHCN chưa có những đổi mới cơ bản để thích ứng với yêu cầu của hoạt động theo cơ chế thị trường với nhiều thành phần tham gia, đã quá chậm trễ so với tiến trình đổi mới quản lý phát triển kinh tế. Tình hình đó tất yếu làm hạn chế vai trò tác động tích cực của KHCN đối với phát triển kinh tế xã hội và cũng chính là lạm hạn chế sự phát triển của chính bản thân KHCN.
Để KHCN thực sự trở thành động lực phát triển kinh tế xã hội và nghiên cứu triển khai đi vào thực tiễn sản xuất. Nhà nước phải có những biện pháp quản lý hữu hiệu nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động KHCN của đội ngũ cán bộ KHCN - một trong những tiềm năng quý của đất nước. Vì vậy, việc đổi mới quản lý nhà nước về nghiên cứu triển khai các hoạt động KHCN là một đòi hỏi tất yếu của đổi mới kinh tế ở nước ta. Việc đổi mới quản lý nhà nước đối với nghiên cứu triển khai các hoạt động KHCN ở nước ta hiện nay không chỉ là đòi hỏi tất yếu của đổi mới kinh tế nói chung, đổi mới quản lý nhà nước nói riêng mà còn là đòi hỏi bức thiết của chính sự phát triển KHCN trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Lý luận và kinh nghiệm nhiều nước cho thấy việc đổi mới quản lý đối với nghiên cứu triển khai các hoạt động KHCN cần được thực hiện qua các khâu: xây dựng chiến lược, định hướng phát triển, tổ chức thực hiện chiến lược và định hướng phát triển, phối hợp chặt chẽ các hoạt động trong quá trình thực hiện; kiểm tra kết quả thực hiện và điều chỉnh quá trình thực hiện. Để thực hiện quá trình này, việc quản lý nhà nước đối với nghiên cứu triển khai các hoạt động KHCN được thông qua việc thực hiện các chức năng chủ yếu sau:
Nhà nước phải xây dựng chiến lược phát triển KHCN, xây dựng các chương trình mục tiêu, các kế hoạch dài hạn 5 năm (trên cơ sở chiến lược và kế hoạch chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước) và các bước đi thích hợp cho từng thời kỳ. Đồng thời, xác định mô hình tổ chức hoạt động thích hợp để thực hiện chiến lược, kế hoạch và các chương trình mục tiêu đã đề ra.
Nhà nước ban hành và hướng dẫn chỉ đạo thực hiện cơ chế chính sách đối với hoạt động KHCN như luật pháp, chế độ quản lý tài chính, các tiêu chuẩn định mức kỹ thuật, các chính sách về quan hệ quốc tế, chính sách cán bộ nghiên cứu khoa học.
Tạo môi trường thuận lợi về kinh tế cho hoạt động KHCN, khuyến khích mở rộng liên doanh liên kết để nghiên cứu triển khai có hiệu quả.
Thực hiện chế độ kiểm tra, kiểm soát của nhà nước đối với các hoạt động KHCN và nghiên cứu triển khai.
Để thực hiện được những chức năng đó cần sử dụng các công cụ chủ yếu như kế hoạch, chính sách kinh tế xã hội và các công cụ khác cùng với việc xây dựng được một hệ thống tổ chức quản lý có hiệu lực hiệu quả.
Như vậy, khi cơ chế quản lý kinh tế thay đổi, với chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần và mở cửa hội nhập với thế giới, hàng loạt vấn đề mới nảy sinh, vượt ra khỏi khuôn khổ giải quyết của mô hình tổ chức và cơ chế quản lý cũ. Cùng với tiến trình cải cách nền hành chính quốc gia, xây dựng nhà nước pháp quyền, tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước... vấn đề sắp xếp lại các tổ chức KHCN và đổi mới cơ chế quản lý hoạt động cho phù hợp với tình hình mới cũng là điều tất yếu. Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần tạo điều kiện xã hội hóa hoạt động KHCN, đa dạng hóa nguồn vốn đầu tư, đồng thời cũng đòi hỏi sự nhạy bén, năng động của cán bộ khoa học cũng như của các tổ chức KHCN trước yêu cầu rất đa dạng, thiết thực, kịp thời và kịp thời trong điều kiện cạnh tranh gay gắt của thị trường trong cũng như ngoài nước. Kinh tế hàng hóa phát triển, nhu cầu đổi mới công nghệ càng cao, sản xuất càng cần đến các nhà khoa học và các tổ chức KHCN. Vì vậy tiến trình sắp xếp lại tổ chức và đổi mới cơ chế quản lý hoạt động KHCN cho phù hợp với yêu cầu của sản xuất và đời sống càng trở nên bức xúc.
1.3 Cơ sở thực tiễn của việc chuyển đổi
1.3.1 Một số bài học kinh nghiệm quốc tế [27]
Bài học thứ nhất: Bất kỳ một quốc gia nào, không phụ thuộc vào thể chế kinh tế, chính trị đều có những ưu tiên riêng của mình theo một thứ tự nhất định. Căn cứ vào mức độ ưu tiên của trật tự đó nhà nước (chính phủ) hình thành hệ thống các tổ chức nghiên cứu và phát triển của mình bằng các quy định hành chính pháp lý bắt buộc với từng loại hình tổ chức nghiên cứu và phát triển trong hệ thống. Các tổ chức thực hiện ưu tiên quốc gia được đặt trực thuộc chính phủ (Trung Quốc, Nga...) hoặc trực thuộc các bộ (Rumani, Hungari...). Nhà nước tập trung đầu tư, giao nhiệm vụ (thông qua các chương trình phối hợp nghiên cứu) cho các cơ quan này để thực hiện các lĩnh vực ưu tiên.
Bài học thứ hai: Nhà nước khuyến khích các thành phần kinh tế khác thành lập các tổ chức nghiên cứu và phát triển theo chế độ độc lập, tự quản, tự trang trải kinh phí, tự đầu tư. Các tổ chức này có thể là xí nghiệp (công ty, tổng công ty, tập đoàn có hoạt động khoa học và công nghệ), có thể là các tổ chức nghiên cứu và phát triển phi lợi nhuận. Thực chất là nhà nước tự do hoá hoạt động khoa học và công nghệ bằng việc hình thành hệ thống khuyến khích thúc đẩy quá trình đổi mới nền kinh tế nói chung và khoa học và công nghệ nói riêng. Tuy nhiên, nhà nước vẫn độc quyền trong một số lĩnh vực.
Bài học thứ ba: Nhà nước thực hiện đa dạng hoá tổ chức hoạt động khoa học và công nghệ đi đôi với việc đa dạng hoá nguồn vốn và thể loại nghiên cứu. Nhà nước tạo cơ chế để các trường đại học, các xí nghiệp công nghiệp, các viện, các trung tâm khoa học và công nghệ đều có thể được tiến hành hoạt động, trải từ nghiên cứu cơ bản qua ứng dụng và chuyển giao kết quả cho thị trường. Hoạt động sản xuất kinh doanh được nhà nước bảo hộ thông qua hệ thống văn bản pháp luật về thuế, tín dụng cho sản phẩm mới, về quyền sở hữu công nghiệp...
Bài học thứ tư: Nhà nước thừa nhận vai trò to lớn của các tổ chức nghiên cứu và phát triển nói riêng và của khoa học và công nghệ nói chung: Là xương sống của cạnh tranh (đối với các nước tư bản phát triển), là lực lượng sản xuất số một (Trung Quốc) và là quốc sách hàng đầu, là động lực đổi mới (Việt Nam). Như vậy, nhiệm vụ đổi mới hệ thống này luôn là sự cần thiết, bức bách của chính phủ.
Bài học thứ năm: Việc thành lập các công ty, các xí nghiệp Enginering vừa và nhỏ là một bộ phận hợp thành của chính sách khoa học và công nghệ của các nước trong thời kỳ bắt đầu công nghiệp hoá. Đây là biện pháp đa mục tiêu: Tăng quyền chủ động theo kiểu tổ chức tự quyền, giúp các viện tự chủ tài chính, đẩy nhanh quá trình “sắp xếp” hệ thống nghiên cứu triển khai đang “hưởng lương” từ ngân sách nhà nước (như ở nước ta) và cuối cùng là tăng nhanh tốc độ đổi mới công nghệ trong sản xuất.
1.3.2 Các phương án đổi mới tổ chức và quản lý các tổ chức KHCN từ trước đến nay của nước ta
a. Phương án theo Chỉ thị 199-CT. [13, 24, 26, 27]
Theo tinh thần Chỉ thị 199-CT ngày 25/6/1988 của Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng (HĐBT, nay là Thủ tướng Chính phủ) về việc sắp xếp và kiện toàn mạng lưới các cơ quan nghiên cứu và phát triển ở nước ta đã hình thành một hệ thống tổ chức nghiên cứu và phát triển lấy cơ quan “chủ quản” để phân biệt mức độ trọng điểm: Cao nhất là các viện thuộc HĐBT (nay là chính phủ), sau đó là các viện đầu ngành và viện ngành trực thuộc bộ, UBND tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương và thấp nhất là các trạm trại thực nghiệm rồi mới đến các tổ chức của tập thể tự nguyện. Các tổ chức nghiên cứu và phát triển thuộc Chính phủ có dấu quốc huy và được xem ngang với tổng cục.
Sau gần hai năm kể từ ngày ban bố, hệ thống các viện trực thuộc HĐBT được thành lập theo đúng quy định. Có thể do vị trí của lãnh đạo các viện này, cũng có thể là sự cần thiết khách quan nên ngay sau khi HĐBT quyết định số lượng “đầu mối” trực thuộc, danh mục này lập tức thay đổi. Ví dụ, khi mới thành lập theo phương án 199-CT, Viện khoa học Việt Nam (nay là Trung tâm khoa học tự nhiên và công nghệ quốc gia) có khoảng 20 “đầu mối” (viện, phân viện, trung tâm) nhưng vào thời điểm cuối năm 1990 con số này đã tăng lên vài lần. Hiện tượng tương tự cũng xảy ra với hệ thống các viện trực thuộc bộ, mặc dù trước đó đã có sự thống nhất với Uỷ ban khoa học và kỹ thuật Nhà nước (nay là Bộ khoa học và công nghệ) về số lượng “đầu mối”.
Tình hình các viện “chuyên môn hẹp” gắn liền với các sản phẩm cụ thể được chuyển về trực thuộc các liên hiệp xí nghiệp, các tổng công ty dường như khá thuận lợi. Các viện chấp nhận sẽ phục vụ các liên hiệp như là “phòng kỹ thuật”, giải quyết các sự cố, các vướng mắc công nghệ của liên hiệp (doanh nghiệp), viện tự chủ về bố trí cán bộ (đề bạt, nâng lương, phân công nhiệm vụ), tự chủ tài chính. Liện hiệp không can thiệp vào việc xem xét kế hoạch nghiên cứu (vì thực tế không đủ năng lực để đánh giá, xem xét). Viện trình trực tiếp kế hoạch này cho bộ và nếu có gián tiếp qua liên hiệp thì đó thuần tuý chỉ là thủ tục hành chính. Để đổi lại “việc phục vụ” trên, liên hiệp sẽ cung cấp nguyên liệu cho giai đoạn sản xuất thử của các viện, cung cấp tài chính (dù nhỏ) và phương tiện thực hiện các nhiệm vụ mà liên hiệp cần. Với cách tiếp cận như vậy, một số liên hiệp xí nghiệp đã trình đề án xin thành lập viện trực thuộc hoặc đồng ý nhận các viện với những lập luận mạnh mẽ về sự cần thiết liên kết khoa học và sản xuất.
Các kết quả trên cho thấy, phương án 199-CT về cơ bản không thực hiện được các mục tiêu đề ra. Một hệ thống cơ quan theo thang bậc hành chính với các thủ tục xét duyệt tưởng như hết sức chặt chẽ ra đời. Số lượng các tổ chức nghiên cứu và phát triển hưởng ngân sách Nhà nước không những không giảm mà lại tăng. Sự bung ra - tăng đầu mối trong bối cảnh thiếu sự kiểm soát của một hành lang pháp lý, khiến các nhà quản lý đánh giá như là sự rối loạn có hại cho hệ thống nghiên cứu và phát triển. Mối liên kết giữa viện, trường và sản xuất lỏng lẻo, mang nặng tính hình thức. Không thực hiện được việc cấp phát tài chính theo nhiệm vụ mà chủ yếu vẫn theo cơ quan, theo biên chế cố định, việc sắp xếp vẫn mang tính hành chính.
Trong bối cảnh quản lý hành chính quá chặt về hình thức, các nguyên tắc và phương pháp tiến hành sắp xếp của phương án 199-CT tỏ ra là không phù hợp, quan liêu và không sát thực tế. Ví dụ, trong phương án nói tới các hướng trọng điểm (ưu tiên) nhưng chưa bao giờ tổ chức lựa chọn ưu tiên theo một bài bản nhuần nhuyễn. Không có ưu tiên đúng thì làm sao hình thành được phân hệ viện trọng điểm.
b. Phương án theo Nghị định 35-HĐBT ngày 28/01/1992 của HĐBT. [14, 24, 26, 27]
Phương án chuyển đổi hệ thống tổ chức nghiên cứu và phát triển theo Nghị định 35- HĐBT ngày 28/01/1992 của HĐBT về công tác quản lý khoa học và công nghệ (sau đây viết tắt là phương án 35-HĐBT) là phương án tự sắp xếp dựa trên những biện pháp điều tiết vĩ mô mà trọng tâm là chế độ tự chủ tài chính. Phương án không nhằm giảm số lượng các tổ chức nghiên cứu và phát triển, mà ngược lại trao quyền tự do thành lập cho tất cả các ngành, các cấp, các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế, các tổ chức xã hội, mọi công dân trên cơ sở 4 tự: Tự chủ tài chính, tự do liên kết, tự chủ hoạt động và tự chịu trách nhiệm trước pháp luật. Mọi hoạt động đều phải được đăng ký và sau khi đăng ký sẽ được pháp luật bảo hộ.
Tư tưởng tự do hoá hoạt động của phương án cho phép bất kỳ công dân nào cũng có quyền được tổ chức hoạt động khoa học và công nghệ dù là thể nhân hay pháp nhân hoặc dưới dạng tổ chức hoặc thông qua hợp đồng. Nhà nước chỉ độc quyền trong một số lĩnh vực an ninh, quốc phòng. Chính sách này được áp dụng ở hầu hết các nước có nền kinh tế thị trường.
Nhà nước khẳng định 3 chức năng của tổ chức nghiên cứu phát triển để không có sự nhầm lẫn với cơ quan hành chính sự nghiệp. Các chức năng đó là: Nghiên cứu, đào tạo, sản xuất và dịch vụ khoa học và công nghệ. Cách phân định này là hợp với logic tình thế trong phát triển của hệ thống tổ chức nghiên cứu và phát triển Việt Nam hiện nay. Vấn đề mấu chốt là các chức năng này phải được đăng ký tại các cơ quan tương ứng.
Tự do hoá hoạt động cùng với đa dạng hoá về loại hình tổ chức đã dẫn đến việc có quá nhiều “đầu mối” trong hệ thống tổ chức nghiên cứu và phát triển sau khi ban hành Nghị định 35-HĐBT, là nguyên nhân làm cho các cơ quan quản lý kinh tế, khoa học và công nghệ ở một số địa phương cảm thấy rối loạn và đã có nhiều công văn đề nghị Chính phủ xem xét lại việc hình thành hệ thống mới này. Đây là điều hiển nhiên vì bản chất của phương án 35-HĐBT là phương án tự sắp xếp trên cơ sở tự chủ tài chính (hiểu theo nghĩa rộng của từ này) và trong khuôn khổ đổi mới công tác quản lý khoa học và công nghệ như tên của Nghị định.
Hình thức tổ chức nghiên cứu và phát triển tự trang trải hiện nay do các viện, trung tâm, các trường đại học lập ra theo Nghị định 35-HĐBT suy cho cùng là hình thức “tổ chức nghiên cứu và phát triển cổ phần” hoặc tổ chức khoa học và công nghệ bán công. Quá trình này thực chất là quá trình cổ phần hoá tự phát. Chỉ có điều là trong quá trình cổ phần hoá tự phát này chúng ta chưa kịp phát hiện để quy định rạch ròi quyền sở hữu và sử dụng nguồn lực. Vì vậy, sau hơn 10 năm tồn tại và phát triển, một số trung tâm nghiên cứu và phát triển tự trang trải trực thuộc viện, trường đã tuyên bố tách khỏi và mang theo toàn bộ thiết bị nhà xưởng.
Việc phân định sở hữu cơ sở vật chất, trí tuệ (nhân lực khoa học) và các kết quả tạo ra đã được quy định trong Thông tư liên bộ 195-LB ngày 13/11/1992 của Bộ KH,CN&MT (nay là Bộ khoa học và công nghệ) và Ban tổ chức - cán bộ Chính phủ (nay là Bộ nội vụ) hướng dẫn đăng ký hoạt động của các tổ chức nghiên cứu và phát triển, song do không có sự kiểm tra thường xuyên nên không phải lúc nào việc tự chủ cũng được thực hiện bằng nguồn lực tự có hoặc coi như tự có. Đây là nguyên nhân chính dẫn đến việc rối loạn trong phân hệ các tổ chức nghiên cứu và phát triển hưởng ngân sách Nhà nước (do không phân định rõ quyền sở hữu và sử dụng tài sản đối với các tổ chức tự trang trải tại thời điểm thành lập).
Có thể kể rất nhiều điểm ưu việt của phương án 35-HĐBT và những điểm thành công trong thực hiện. Song, như trên đã nói, phương án “tự sắp xếp” phải được bảo đảm bằng hệ thống các chính sách điều tiết. Hệ thống tổ chức nghiên cứu và phát triển hậu 35-HĐBT đã được hơn 10 năm nhưng nhu cầu đổi mới lại nổi lên cấp bách. Có thể đưa ra một số bất cập và nguyên nhân cụ thể sau:
Một là, các giải pháp không tính hết trình độ tổ chức và quản lý hoạt động khoa học và công nghệ trong cả nước, từ các trung tâm khoa học và công nghệ đến địa phương, sự nhận thức và nhu cầu về thành lập tổ chức nghiên cứu và phát triển trên các địa bàn khác nhau. Do vậy trong các hướng dẫn thực hiện đã đồng nhất hoá các quy định theo một chuẩn nhất định về loại hình tổ chức, cơ cấu cán bộ khoa học và công nghệ, các chính sách tuyển chọn, đãi ngộ... Ví dụ, khó có thể hình dung một tổ chức nghiên cứu và phát triển của tập thể, tư nhân vừa ít cán bộ, nhỏ về nguồn lực lại có thể có cơ hội “tự do, bình đẳng” tuyển chọn với các tổ chức nghiên cứu và phát triển của Nhà nước. Việc quy định tự do, bình đẳng tham gia tuyển chọn trong trường hợp này là không thực tế.
Hai là, vẫn còn bóng dáng của hiện tượng hành chính hoá hệ thống: Quy định về cấp ra quyết định thành lập khi đăng ký hoạt động, phân cấp đăng ký hoạt động (Điều 15 của Nghị định); phân cấp xét duyệt miễn giảm thuế. Lẽ ra phải quy định tự do hoá triệt để để có thể tiến tới một kiểu tổ chức phi chủ quản trong khuôn khổ của hành lang pháp luật.
Ba là khả năng kiểm soát của cơ quan chức năng không theo kịp độ mở của các lĩnh vực hoạt động khoa học và công nghệ trong các tổ chức nghiên cứu và phát triển, gây cảm giác rối loạn trong quản lý. Thực tế cho thấy do chưa có các quy định cụ thể về dịch vụ khoa học và công nghệ (nhất là dịch vụ tư vấn khoa học và công nghệ), sự khác biệt giữa dịch vụ khoa học và công nghệ và các dịch vụ trong các lĩnh vực mà Nhà nước độc quyền, nên nhiều tổ chức nghiên cứu và phát triển không thể đăng ký các hoạt động về tư vấn đầu tư, chuyển giao công nghệ... khi xét cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động khoa học và công nghệ.
Bốn là, việc giới hạn phạm vi hoạt động của các tổ chức nghiên cứu và phát triển lại quá hẹp, chưa tạo điều kiện cho các tổ chức này phát triển như: Không cho phép tổ chức nghiên cứu và phát triển sản xuất, hạn chế liên doanh, liên kết... Nguyên nhân chính, như đã nêu trên đây là do sự bất đồng bộ của hệ thống kinh tế với hệ thống khoa học và công nghệ: Ngay sau khi ban hành Nghị định 35-HĐBT được 8 tháng, Chính phủ ra chỉ thị 08/CT (18/10/1992) không cho phép các viện, trường thành lập doanh nghiệp dưới mọi hình thức. Như vậy, một lần nữa, tổ chức nghiên cứu và phát triển lại được coi là đơn vị hành chính sự nghiệp và theo Luật đầu tư nước ngoài hiện hành thì đơn vị hành chính sự nghiệp không được liên doanh, liên kết.
Năm là, cơ chế thuế theo tinh thần Nghị định 35-HĐBT khá thông thoáng, phù hợp với tính chất của hoạt động khoa học và công nghệ: Các hợp đồng nghiên cứu khoa học, sản xuất thử không phải chịu thuế. Các hợp đồng dịch vụ khoa học và công nghiệp không phải chịu thuế lợi tức nhưng phải chịu thuế doanh thu. Nhưng hệ thống thuế công bố vào thời điểm năm 1992 đã không cụ thể, thậm chí ngược lại với tinh thần của Nghị định 35-HĐBT, gây trở ngại, ách tắc cho việc miễn giảm thuế đối với hoạt động khoa học và công nghệ của các tổ chức nghiên cứu và phát triển, nhất là các tổ chức tự trang trải.
Sáu là, trên thực tế, hệ thống tín dụng vẫn coi các tổ chức nghiên cứu và phát triển là đơn vị hành chính sự nghiệp và vì vậy không cho phép vay vốn. Các tổ chức nghiên cứu và phát triển hoạt động theo Nghị định 35-HĐBT, do thực hiện cơ chế tự trang trải nên không có nhiều vốn từ ngân sách Nhà nước, không được vay vốn ngân hàng nên duy nhất dựa vào vốn của tập thể khoa học hoặc huy động vốn của các tổ chức, cá nhân khác sau khi công trình nghiên cứu áp dụng thành công và được thanh toán. Thật nguy hiểm khi bị các cơ sở có nhu cầu áp dụng công nghệ mới chiếm dụng vốn, chậm thanh toán. Vốn thiếu đã dẫn đến tình trạng ở nhiều đơn vị trang thiết bị kỹ thuật, điều kiện làm việc, phương tiện phục vụ nghiên cứu khoa học còn quá nghèo nàn.
Bảy là, thiếu hẳn các hướng dẫn cụ thể để các tổ chức nghiên cứu và phát triển của Nhà nước từng bước chuyển chế độ biên chế sang chế độ hợp đồng lao động cũng như các chế độ đảm bảo quyền lợi bình đẳng giữa hai thể loại biên chế này. Do không có hướng dẫn nên xuất hiện hai khuynh hướng: Thứ nhất- bố trí lại cán bộ theo thế mạnh, thứ hai- thanh lọc những người bất đồng chính kiến. Kết quả là biện pháp đổi mới nhân lực của phương án 35-HĐBT đã bị lợi dụng. Đây là nguyên nhân quan trọng dẫn tới việc không thực hiện được trọn vẹn phương án 35-HĐBT.
Tóm lại, phương án 35- HĐBT là phương án khả dĩ để tiến hành chuyển đổi hệ thống các tổ chức nghiên cứu và phát triển ở Việt Nam với tư tưởng chủ đạo là tự do hoá, tự chủ nguồn lực và tự chịu trách nhiệm trước pháp luật. Để thực hiện, trong phương án đã thiết kế một hệ thống các biện pháp chính sách đồng bộ. Nhưng do nhận thức, ý thức trách nhiệm, trình độ quản lý trong bối cảnh mới nên không phải mọi nơi mọi lúc đều quán triệt tư tưởng này. Điều đó dẫn đến sự thiếu đồng bộ của hệ thống biện pháp tổ chức thực hiện trên thực tế. Sự thiếu đồng bộ này lại rơi vào chính sách tài chính và chính sách cán bộ - hai công cụ mang tính đột phá mà nguyên nhân sâu xa là do sự lệch pha giữa hệ thống quản lý kinh tế - xã hội với hệ thống quản lý khoa học và công nghệ. Kết quả là hệ thống tổ chức nghiên cứu và phát triển với tư cách là đối tượng quản lý của cả hai hệ thống (hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp) phải hứng chịu, cho nên cho đến nay nó vẫn bị coi là cồng kềnh, kém hiệu quả, thiếu liên kết.
c. Phương án theo Quyết định 324-CT. [15, 24, 26, 27]
Trước hết, Quyết định 324-CT ngày 11/9/1992 của Chủ tịch HĐBT về việc tổ chức lại mạng lưới cho cơ quan nghiên cứu và phát triển về cơ bản vẫn là phương án 199-CT đặt trong bối cảnh mới: Có Nghị định 35-HĐBT và hành lang pháp lý mới được hình thành. Nói cách khác, phương án 324-CT nhằm triển khai cụ thể hơn phương án 35-HĐBT và đặc biệt tập trung vào sắp xếp các tổ chức nghiên cứu và phát triển thuộc lĩnh vực khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, giải quyết mối quan hệ viện và trường. Những phân hệ còn lại được đề cập tới thuần túy mang tính nguyên tắc và cũng chỉ để có tính hệ thống gần như phương án 199-CT.
Điểm mới của phương án 324-CT là ở chỗ nó khẳng định bất kỳ một phân hệ nào trong nền kinh tế quốc dân cũng có mục tiêu riêng và để phục vụ cho mục tiêu ấy, nó cần có các tổ chức nghiên cứu và phát triển tương ứng. Nhà nước có các ưu tiên của mình và theo đó Nhà nước thành lập các tổ chức nghiên cứu và phát triển quốc gia và các viện trọng điểm. Các bộ ngành có ưu tiên riêng và cũng cần có các tổ chức nghiên cứu và phát triển phục vụ cho các mục tiêu đó.
Theo phương án, các nghiên cứu cơ bản (nếu có) sẽ chuyển vào các trường đại học - thành phần tạo hệ của hệ thống khoa học và công nghệ của Việt Nam. Một hệ thống nghiên cứu trong các ngành nông nghiệp và công nghiệp sẽ tiếp tục hình thành trên cơ sở phương án 199-CT và 35-HĐBT.
Tuy nhiên, đã hơn 10 năm, mặc dù 2 trung tâm khoa học quốc gia đã được thành lập, 2 đại học quốc gia đã đi vào hoạt động, song không một viện nghiên cứu cơ bản nào được thành lập mới hoặc chuyển vào trường đại học. Số lượng các tổ chức nghiên cứu và phát triển trực thuộc 2 trung tâm này tăng lên đáng kể (gấp 2-2,5 lần) hoặc được Chính phủ bổ sung hoặc nằm dưới danh nghĩa “tự trang trải”.
Việc gắn nghiên cứu khoa học với sản xuất cũng chỉ dừng lại như phương án 199-CT, thậm chí lại không cụ thể hơn: Vẫn với khẩu hiệu “tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động nghiên cứu khoa học phục vụ trực tiếp nhu cầu do sản xuất đặt ra, bố trí lại các tổ chức nghiên cứu và phát triển theo hướng gắn chặt với các cơ sở sản xuất, rút ngắn chu trình nghiên cứu - triển khai - sản xuất”. Ghép nối hành chính không thể “gắn chặt” hay “rút ngắn chu trình” được.
Tóm lại, phương án 324-CT vừa sâu lại vừa quá rộng: Sâu vì nó nhằm giải quyết việc sắp xếp lại các viện quốc gia (kết quả của 199-CT) bằng việc thành lập 2 trung tâm khoa học quốc gia và chuyển 2 viện (Viện năng lượng nguyên tử quốc gia và Viện nghiên cứu công nghệ quốc gia, nay là Viện năng lượng nguyên tử Việt Nam và Viện ứng dụng công nghệ) về Bộ KH,CN&MT; rộng vì nó định giải quyết hành chính việc gắn trường với viện bằng việc thành lập 2 đại học quốc gia và đưa các nghiên cứu cơ bản về trường nhằm thành lập các trung tâm nghiên cứu lý thuyết mạnh, trong khi cũng ngay trong phương án đó lại muốn các trường tiến hành nghiên cứu tất cả các lĩnh vực khoa học xuyên suốt chu trình nghiên cứu - sản xuất. Xa hơn, nó muốn vươn tới giải quyết cả các tổ chức nghiên cứu và phát triển ngành, vùng, và của các tập thể, tư nhân thay vì hoàn thiện những điểm yếu của cơ chế tự sắp xếp mà 35-HĐBT đã hình thành. Các biện pháp phân công, phân nhiệm, phân tài chính từ nguồn ngân sách Nhà nước theo ô đã làm cho phương án trở thành một bước lùi so với phương án trước đó.
d. Phương án theo Quyết định 782/TTg. [8, 24, 26, 27]
Thực chất Quyết định 782/TTg ngày 24/10/1996 của Thủ tướng Chính phủ về việc sắp xếp các cơ quan nghiên cứu và phát triển khoa học và công nghệ là nhằm triển khai cụ thể phần Quyết định 324-CT nêu trên: “...Hình thành một số cơ quan khoa học và công nghệ mạnh, có ý nghĩa toàn quốc, đặt tại một số bộ” và “chuyển những tổ chức khoa học và công nghệ chuyên nghiên cứu những vấn đề gắn liền với những sản phẩm cụ thể vào các doanh nghiệp hoặc chuyển thành các liên hiệp khoa học - sản xuất”.
Việc chuyển các tổ chức nghiên cứu và phát triển vào doanh nghiệp và cho phép viện tổ chức sản xuất kinh doanh là vấn đề còn để ngỏ và nó đặc biệt nổi cộm khi ban hành Quyết định 782/TTg.
Bản chất của việc chuyển các tổ chức nghiên cứu và phát triển vào doanh nghiệp (hoặc khuyến khích các doanh nghiệp lập tổ chức nghiên cứu và phát triển) và cho phép các tổ chức nghiên cứu và phát triển thành lập các tổ chức sản xuất kinh doanh là 2 mặt của một vấn đề: Tăng cường hơn nữa mối liên kết giữa khoa học và công nghệ (kể cả đào tạo) với sản xuất (doanh nghiệp) trong tam giác liên kết viện - trường - doanh nghiệp.
Chuyển tổ chức nghiên cứu và phát triển vào doanh nghiệp nhằm mục đích nâng cao năng lực tiếp thu và đổi mới công nghệ cho doanh nghiệp bằng khoa học và công nghệ. Nếu với mục đích như vậy thì việc chuyển tổ chức nghiên cứu và phát triển vào doanh nghiệp gần với nghĩa là chuyển hoạt động khoa học và công nghệ vào doanh nghiệp. Nhưng nếu quy định như phương án 199-CT, 324-CT và 782/TTg thì dễ làm người ta hiểu là chuyển các tổ chức nghiên cứu và phát triển như là một thực thể hành chính vào trực thuộc các doanh nghiệp theo kiểu mệnh lệnh. Do nhấn mạnh thái quá vai trò các thứ bậc hành chính trong việc điều chuyển này nên các nỗ lực của Nhà nước trước đây về vấn đề này đã không mang lại kết quả mong đợi.
Ngược lại, việc cho phép tổ chức nghiên cứu và phát triển được thành lập các cơ sở sản xuất là để tăng cường “thói quen công nghệ” cho các nhà nghiên cứu, tăng cường độ tin cậy công nghệ cho việc chuyển hoá các kết quả nghiên cứu vào sản xuất. Theo kinh nghiệm của Trung Quốc và một số nước xung quanh ta, việc sản nghiệp hoá kết quả nghiên cứu mới về nguyên nhân có thể dẫn đến việc hình thành các doanh nghiệp, nhất là trong các lĩnh vực công nghệ cao và mới, góp phần thúc đẩy ngành kinh tế công nghệ cao phát triển. Mặt khác, trong điều kiện Việt Nam, nguồn thu từ sản xuất có thể giúp các tổ chức nghiên cứu và phát triển tự trang trải các khoản thiếu hụt do ngân sách hạn hẹp.
Phương án 782/TTg, bằng việc chuyển các viện về doanh nghiệp phần nào đã khắc phục sự thiếu gắn bó giữa nghiên cứu và sản xuất, nghiên cứu và đào tạo, ít nhất là về mặt hình thức. Số lượng các tổ chức nghiên cứu và phát triển thuộc các doanh nghiệp tính đến tháng 12/1999 đã có 66, mặc dù chủ yếu bằng các quyết định hành chính chứ không phải do nhu cầu thực của tổ chức nghiên cứu và phát triển hay doanh nghiệp.
Phương án 782/TTg thể hiện thái độ dứt khoát của Nhà nước là từng bước xoá bỏ bao cấp. Đây là việc không có ở bất kỳ phương án nào trước đó. Kinh nghiệm của Bộ cơ khí và luyện kim trước đây (năm 1985 - nay là Bộ công nghiệp) khi quyết định tất cả các tổ chức nghiên cứu và phát triển trực thuộc phải tự hạch toán kinh tế từ 01/01/1985 là bài học tốt cho Quyết định này. Có thể cơ chế “hạch toán kinh tế” đã một thời làm các viện của Bộ cơ khí và luyện kim khó khăn, nhưng nếu không có cuộc tập dượt ấy thì thật khó hình dung sẽ có Viện máy và công cụ công nghiệp, Viện mỏ và luyện kim, Viện điện tử - tin học và tự động hoá... hôm nay với tư cách là những điển hình tiên tiến - điểm trội của hệ thống tổ chức nghiên cứu và phát triển nước ta.
Tuy nhiên, nhiều viện thuộc diện chuyển đổi theo phương án 782/TTg đã phản ứng quyết liệt. Nguyên nhân có lẽ là phạm vi hoạt động của viện từ trước tới nay rất rộng mà nhu cầu sử dụng của tổng công ty lại bó hẹp, khả năng quản lý khoa học của tổng công ty không có, nguồn lực cung cấp cho việc thực hiện rất hạn chế...
Phương án 782-TTg, trên thực tế vẫn lấy ghép nối làm công cụ sắp xếp, thậm chí ngay cả đối với 41 viện ban đầu trong danh sách các viện của Nhà nước. Ví dụ, Trung tâm khoa học kỹ thuật nông nghiệp Việt Nam gồm 6 viện được ghép lại, cho đến nay đã gần 7 năm vẫn chưa thực hiện được. Nhận định này không mâu thuẫn với nhận định về mặt thành công trên đây. Sắp xếp thể hiện ý chí của Nhà nước, song ý chí đó phải được bảo đảm bằng hệ thống các công cụ chính sách và bước đi cụ thể trên thực tế.
Hệ thống chính sách bảo đảm chuyển đổi theo phương án 782/TTg thì chỉ dừng lại ở chủ trương. Trong số 5 công cụ chính yếu bảo đảm chuyển đổi, duy nhất chỉ có Thông tư liên bộ số 395/KCM-TCCBCP ngày 12/4/1997 của Bộ KH,CN&MT và Ban tổ chức - cán bộ Chính phủ hướng dẫn về cơ chế hoạt động và quan hệ của các viện khoa học và công nghệ trực thuộc tổng công ty nhà nước. Bản thân Thông tư này cũng chỉ giải quyết các quan hệ hành chính - tổ chức, còn các quan hệ kinh tế - tài chính thì vẫn “theo quy định hiện hành của pháp luật”, thậm chí còn quy định mức cắt lương luỹ thoái đối với các viện chuyển đổi. Chính sách, cơ chế khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào đổi mới công nghệ cho mãi tới ngày 18/9/1999 mới được ban hành bằng Nghị định 119/1999/NĐ-CP.
Do không được hậu thuẫn bởi các luận cứ khoa học, do các quy định về chính sách đầu tư, cắt giảm quỹ lương... nên phương án 782/TTg đã tạo nên sự bất bình đẳng về cơ hội giữa các viện thuộc danh sách các viện quốc gia và các viện phải chuyển đổi.
Tóm lại, phương án 782/TTg là phương án chỉ nhằm sắp xếp lại phân hệ các tổ chức nghiên cứu và phát triển của Nhà nước. Với tư cách là chủ sở hữu, Nhà nước đã sử dụng công cụ hành chính - tổ chức kết hợp với công cụ kinh tế - tài chính (đầu tư, lương, chính sách lao động) để sắp xếp, ghép nối, thu gọn đầu mối. Lẽ ra, việc áp dụng công cụ hành chính - tổ chức phải được luận cứ trước đó bằng các tiêu chí về thứ tự ưu tiên, về hiệu quả hoạt động của các tổ chức nghiên cứu và phát triển trong các lĩnh vực ưu tiên đó... Lẽ ra, các công cụ chính sách bảo đảm thực hiện phải được hình dung cụ thể và ban hành sớm sau khi công bố phương án. về cơ bản đã không thực hiện được điều này. Đây là nguyên nhân chính dẫn đến việc không thực hiện được phương án 782/TTg như mong muốn. Có nhiều nguyên nhân, song nguyên nhân cơ bản là đã không cụ thể hoá được các chính sách có liên quan tới nhân lực khoa học và công nghệ và đầu tư tài chính, cơ sở vật chất.
e. Phương án theo Quyết định 68/QĐ-TTg [9, 24, 26, 27]
Tiếp đó, ngày 27/3/1998, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 68/QĐ-TTg về thí điểm thành lập doanh nghiệp nhà nước trong các Trường đại học và Viện nghiên cứu, được các Viện, Trường hồ hởi đón nhận, nhưng sau khi triển khai thực hiện đã bộc lộ những bất cập không thể giải quyết được, ví dụ :
Việc hình thành doanh nghiệp nhà nước trong các đơn vị sự nghiệp không phù hợp với xu thế phát triển theo cơ chế thị trường và đi ngược lại chủ trương chung là đẩy nhanh tiến độ cổ phần hoá đồng thời hạn chế việc thành lập thêm các doanh nghiệp nhà nước;
Doanh nghiệp nhà nước được thành lập trong các Viện, Trường nhưng tài sản và vốn của doanh nghiệp lại do các Viện, Trường giao từ tài sản của Viện, Trường chứ không được nhà nước cấp nên hạn chế quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp;
Giám đốc doanh nghiệp do cơ quan chủ quản cấp trên của Viện, Trường bổ nhiệm, vì vậy các Viện, Trường không được chủ động về nhân sự và không đủ thẩm quyền xử lý khi có sai phạm trong sản xuất kinh doanh;
Không có quy định cụ thể về quyền lợi và nghĩa vụ của cán bộ thuộc biên chế của Viện, Trường khi tham gia quản lý và làm việc trong doanh nghiệp nên không khuyến khích họ chuyển sang doanh nghiệp;
Vì vậy, sau một thời gian thực hiện với sự ra đời của hơn 20 doanh nghiệp thuộc các Viện, Trường, năm 2001 chủ trương này đã phải tạm dừng thực hiện. Hiện nay các doanh nghiệp đó vẫn tồn tại nhưng hầu hết đều không phát triển được và hình thức hoạt động hầu như theo mô hình các công ty trách nhiệm hữu hạn.
f. Luật KH&CN số 21/2000/QH10, nghị định 115/2005/NĐ-CP, nghị định 80/2007/NĐ-CP [2, 7, 10, 23]
Kế thừa kết quả của các phương án đã thực hiện Luật KH&CN được ban hành tháng 6/2000 và có hiệu lực từ 01/01/2001 làm rõ hơn, bổ sung thêm cho đầy đủ hơn nhằm thúc đẩy mạnh mẽ hơn quá trình xã hội hoá hoạt động KH&CN. Với việc ban hành Luật , các quy định về biện pháp xã hội hoá hoạt động KH&CN đã được nâng cao tầm hiệu lực của mình.
Luật khẳng định chủ trương và các biện pháp lớn khuyến khích mọi tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước, người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư phát triển KH&CN ở Việt Nam dưới rất nhiều hình thức.
Tổ chức KH&CN của nhà nước hay ngoài nhà nước đều được khẳng định có các quyền sau đây:
Tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong việc tiến hành hoạt động KH&CN; ký kết hợp đồng KH&CN, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đăng ký tham gia tuyển chọn thực hiện các nhiệm vụ KH&CN.
Thành lập tổ chức nghiên cứu và phát triển, tổ chức dịch vụ KH&CN, doanh nghiệp trực thuộc theo quy định của pháp luật.
Hợp tác liên doanh, nhận tài trợ của tổ chức, cá nhân; góp vốn bằng tiền, tài sản, giá trị quyền sở hữu trí tuệ để tiến hành hoạt động KH&CN và hoạt động sản xuất kinh doanh theo quy định của pháp luật.
Được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ; chuyển giao, chuyển nhượng, công bố kết quả hoạt động KH&CN theo quy định của pháp luật...
Cá nhân hoạt động KH&CN có các quyền:
Tự mình hoặc hợp tác với các tổ chức, với các cá nhân khác để tiến hành hoạt động KH&CN, ký kết hợp đồng KH&CN, thành lập tổ chức KH&CN trong một số lĩnh vực theo quy định của Chính phủ; đăng ký tham gia tuyển chọn thực hiện nhiệm vụ KH&CN.
Được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, bình đẳng, tự do sáng tạo trong hoạt động KH&CN; chuyển giao, chuyển nhượng, công bố kết quả hoạt động KH&CN theo quy định của pháp luật;
Tham gia tổ chức KH&CN, hội KH&CN; tham gia đào tạo, tư vấn, hội nghị KH&CN; góp vốn bằng tiền, tài sản, giá trị quyền sở hữu trí tuệ vào hoạt động KH&CN, sản xuất, kinh doanh, nhận tài trợ để hoạt động KH&CN theo quy định của pháp luật...
Như vậy, Luật KH&CN khẳng định quan điểm phải coi việc chăm lo, đầu tư cho KH&CN , phát triển KH&CN, tổ chức triển khai nghiên cứu, ứng dụng kết quả KH&CN không phải là công việc chỉ của riêng Nhà nước, của riêng các cơ quan, tổ chức của Nhà nước; chấm dứt tình trạng nhà nước bao cấp tràn lan, phủ nhận vai trò chủ động và tích cực của các tổ chức, cá nhân, đặc biệt vai trò của các doanh nghiệp trong việc phát triển KH&CN.
Trước những bức xúc của thực tiễn sản xuất, để thực hiện Luật khoa học và công nghệ, ngay sau khi Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Kết luận Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX được ban hành theo Quyết định số 188/2002/QĐ-TTg ngày 31/12/2002 của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Khoa học và Công nghệ đã xây dựng đề án Đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ (được Chính phủ phê duyệt theo Quyết định 172/2004/QĐ-TTg ngày 31/12/2004) và phối hợp với Bộ Nội vụ trình Chính phủ ban hành Nghị định số 115/2005/NĐ-CP ngày 5/9/2005 quy định cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức KH&CN công lập. Có thể coi đây là giải pháp mang tính đột phá trong đổi mới tổ chức và hoạt động KH&CN, tạo thế chủ động cho các tổ chức nghiên cứu phát triển hoạt động theo “cơ chế doanh nghiệp” hoặc chuyển đổi thành doanh nghiệp KH&CN, đưa nhanh kết quả nghiên cứu khoa học vào thực tiễn sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả nghiên cứu khoa học và đổi mới công nghệ, làm thay đổi căn bản tỷ trọng đầu tư cho KH&CN từ các thành phần kinh tế khác trong xã hội, đặc biệt là từ các doanh nghiệp.
Nghị định số 115/2005/NĐ-CP quy định đối tượng điều chỉnh là các tổ chức nghiên cứu và phát triển, các tổ chức dịch vụ KH&CN do cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền quyết định thành lập, có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng, tức là các tổ chức nghiên cứu khoa học, tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, các tổ chức dịch vụ KH&CN (bao gồm cả các tổ chức trực thuộc các trường đại học công lập) do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng các bộ, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ và Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định thành lập.
Nghị định 115 quy định có 2 loại hình tổ chức KH&CN có thể chuyển đổi hoạt động (điều 4) :
Thứ nhất là tổ chức KH&CN tự trang trải kinh phí hoạt động (gọi tắt là tổ chức chuyển đổi), được hiểu là đơn vị tự đảm bảo toàn bộ kinh phí hoạt động thường xuyên, được tự chủ, tự chịu trách nhiệm về hoạt động của mình theo quy định của Nghị định và chịu sự kiểm tra kiểm soát của một cơ quan chủ quản, điều quan trọng là các tổ chức KH&CN khi chuyển đổi vẫn là một tổ chức KH&CN hoạt động theo Luật KH&CN, được hưởng các ưu đãi của một tổ chức KH&CN, đồng thời trong hoạt động sản xuất kinh doanh thì được hưởng những quyền lợi ưu đãi khác như doanh nghiệp mới thành lập theo quy định của pháp luật.
Thứ hai là doanh nghiệp KH&CN, là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực KH&CN, được tổ chức theo mô hình công ty đa sở hữu, hoạt động theo Luật doanh nghiệp, đồng thời trong lĩnh vực nghiên cứu triển khai được hưởng ưu đãi của một tổ chức KH&CN.
Có thể nhận thấy Nghị định 115/2005/NĐ-CP có những nội dung hoàn toàn mới, trong đó vấn đề trọng tâm xuyên suốt là trao quyền tự chủ cao cho các tổ chức KH&CN, cho phép các tổ chức khoa học và công nghệ khi có sản xuất kinh doanh thì được hoạt động “như doanh nghiệp” hoặc có thể chuyển thành doanh nghiệp thực sự, nhờ đó huy động tối đa tính năng động, sáng tạo và tiềm năng của cán bộ khoa học và công nghệ và tổ chức khoa học và công nghệ, nâng cao hiệu quả hoạt động và đưa nhanh kết quả nghiên cứu vào sản xuất kinh doanh.
Nghị định 115/2005/NĐ-CP quy định tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong các tổ chức KHCN công lập như một bước đột phá cơ chế mở, mà chưa bao giờ các nhà khoa học có trước đây. Nghị định này rất có lợi cho những đơn vị biết tận dụng điểm mạnh để bứt phá. Mặc khác, khi đơn vị NCKH trở thành doanh nghiệp phải ứng dụng những thành tựu NCKH của mình để tạo thu nhập cho đơn vị. Điều này, giúp các nhà khoa học không còn tư tưởng ỷ lại hay trông chờ.
Ngày 19/5/2007, Chính phủ đã ban hành Nghị định 80/2007/NĐ-CP về doanh nghiệp khoa học và công nghệ (KH&CN) đánh dấu một bước trưởng thành trong hoạt động KH-CN. Đây được xem là một chính sách đột phá nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân ứng dụng các kết quả KH&CN vào sản xuất, kinh doanh; đẩy mạnh thương mại hoá các kết quả nghiên cứu, phát triển thị trường công nghệ, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp KHCN sớm ra đời và hoạt động chẳng khác gì doanh nghiệp bình thường hoạt động theo Luật Doanh nghiệp, Nghị định có nêu rõ Sở KH&CN nơi đặt trụ sở chính của doanh nghiệp KHCN là cơ quan có thẩm quyền xem xét, cấp, kiểm tra, xử lý vi phạm và thu hồi giấy chứng nhận doanh nghiệp KHCN. Trong thời hạn tối đa 30 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, Sở KH&CN có trách nhiệm xem xét, thẩm định để cấp giấy chứng nhận doanh nghiệp KHCN. Trường hợp không cấp, phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do. Giấy chứng nhận doanh nghiệp KHCN đồng thời là giấy đăng ký hoạt động KH-CN.
Cùng với thủ tục đơn giản, Nghị định còn có những cơ chế khuyến khích để doanh nghiệp KHCN hoạt động thuận lợi và hiệu quả. Đó là doanh nghiệp KHCN được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, giao quyền sử dụng hoặc sở hữu các kết quả KH-CN thuộc sở hữu nhà nước. Được hưởng chế độ miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, được trừ một số khoản chi phí hợp lý khi tính thu nhập chịu thuế và miễn lệ phí trước bạ khi đăng ký quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà…
Nghị định 80 đã hình thành hệ thống cơ sở pháp lý cơ bản để KHCN vươn ra thị trường trong và ngoài nước, thúc đẩy phát triển thị trường công nghệ, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và phát triển kinh tế của đất nước.
Mạng lưới các tổ chức KHCN ở nước ta là một hệ thống động, phức tạp, bao gồm nhiều thành phần tạo hệ khác nhau, song liên kết với nhau bằng một mục tiêu chung là phục vụ phát triển kinh tế-xã hội. Hệ thống kinh tế- xã hội đang chuyển đổi các yếu tố của cơ chế thị trường đang hình thành, xu thế cạnh tranh, điều đó càng thúc ép các doanh nghiệp đổi mới công nghệ và sản phẩm để có thể tồn tại và phát triển. Tình hình đó đòi hỏi hệ thống các tổ chức KHCN phải tự hoàn thiện để thích nghi với môi trường mới.
Từ trước đến nay Nhà nước ta có rất nhiều các phương án về đổi mới tổ chức và quản lý các tổ chức KHCN các phương án ngày càng hoàn thiện dần. Để KHCN có thể đi vào tất cả các lĩnh vực sản xuất và đời sống, đóng góp nhiều hơn nữa cho sự phát triển kinh tế - xã hội, cần có các tổ chức, doanh nghiệp thực hiện việc ứng dụng các kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ vào sản xuất và đời sống.
Các tổ chức KHCN căn cứ vào tình hình hoạt động, khả năng hiện tại mà lựa chọn hình thức hoạt động thích hợp phát huy được năng lực đơn vị mình.
Từ cơ sở lý luận và thực tiễn đã nêu, trong chương sau luận văn sẽ trình bày về thực trạng KHCN Việt Nam nói chung và thực trạng hoạt động của Viện KHCNXD để thấy được sự cần thiết của việc chuyển đổi hình thức hoạt động.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆN KHOA HỌC CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG
2.1 Thực trạng khoa học và công nghệ Việt Nam [5, 6]
2.1.1 Những đổi mới
a) Tiềm lực khoa học và công nghệ đã được tăng cường và phát triển
Nhờ có sự quan tâm đầu tư của Đảng và Nhà nước, trong nhiều thập kỷ qua, chúng ta đã đào tạo được trên 1,8 triệu cán bộ có trình độ đại học và cao đẳng trở lên với trên 30 nghìn người có trình độ trên đại học (trên 14 nghìn tiến sĩ và 16 nghìn thạc sĩ) và khoảng hơn 2 triệu công nhân kỹ thuật; trong đó, có khoảng 34 nghìn người đang làm việc trực tiếp trong lĩnh vực KH&CN thuộc khu vực nhà nước. Đây là nguồn nhân lực quan trọng cho hoạt động KH&CN của đất nước. Thực tế cho thấy, đội ngũ này có khả năng tiếp thu tương đối nhanh và làm chủ được tri thức, công nghệ hiện đại trong một số ngành và lĩnh vực.
Thời gian qua, đã xây dựng được một mạng lưới các tổ chức KH&CN với trên 1.100 tổ chức nghiên cứu và phát triển thuộc mọi thành phần kinh tế, trong đó có gần 500 tổ chức ngoài nhà nước; 197 trường đại học và cao đẳng, trong đó có 30 trường ngoài công lập. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật của các viện, trung tâm nghiên cứu, các phòng thí nghiệm, các trung tâm thông tin KH&CN, thư viện, cũng được tăng cường và nâng cấp. Đã xuất hiện một số loại hình gắn kết tốt giữa nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ với sản xuất-kinh doanh.
Mặc dù ngân sách nhà nước còn hạn hẹp, nhưng với sự nỗ lực rất lớn của Nhà nước, từ năm 2000 tỷ lệ chi ngân sách nhà nước cho KH&CN đã đạt 2%, đánh dấu một mốc quan trọng trong quá trình thực hiện chính sách đầu tư phát triển KH&CN của Đảng và Nhà nước.
b) Khoa học và công nghệ đóng góp tích cực trong phát triển kinh tế-xã hội
Khoa học xã hội và nhân văn đã góp phần quan trọng lý giải và khẳng định giá trị khoa học và thực tiễn của Chủ nghĩa Mác-Lê nin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; cung cấp luận cứ khoa học phục vụ hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; góp phần vào thành công của công cuộc đổi mới nói chung và vào quá trình đổi mới tư duy kinh tế nói riêng.
Các kết quả điều tra cơ bản và nghiên cứu về điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên đã phục vụ xây dựng luận cứ khoa học cho các phương án phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
Khoa học và công nghệ đã góp phần quan trọng trong việc tiếp thu, làm chủ, thích nghi và khai thác có hiệu quả các công nghệ nhập từ nước ngoài. Nhờ đó, trình độ công nghệ trong một số ngành sản xuất, dịch vụ đã được nâng lên đáng kể, nhiều sản phẩm hàng hóa có sức cạnh tranh cao hơn.
Các chương trình nghiên cứu trọng điểm về công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu, tự động hóa, công nghệ cơ khí-chế tạo máy, đã góp phần nâng cao năng lực nội sinh trong một số lĩnh vực công nghệ tiên tiến, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả của nhiều ngành kinh tế.
Khoa học và công nghệ trong những năm qua đã góp phần đào tạo và nâng cao trình độ nhân lực, chăm sóc sức khỏe nhân dân, bảo vệ môi trường, giữ gìn bản sắc và phát huy truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc.
c) Cơ chế quản lý khoa học và công nghệ từng bước được đổi mới
Cùng với quá trình đổi mới cơ chế kinh tế, trong những năm qua, cơ chế quản lý khoa học và công nghệ từng bước được đổi mới và đạt được một số kết quả bước đầu.
Việc xây dựng và tổ chức thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ được đổi mới theo hướng có trọng tâm, trọng điểm, bám sát hơn các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Các chương trình, đề tài Nhà nước được bố trí tập trung hơn, khắc phục một bước tình trạng phân tán, dàn trải, cân đối hơn giữa khoa học tự nhiên và công nghệ với khoa học xã hội và nhân văn. Cơ chế tuyển chọn tổ chức, cá nhân thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ theo nguyên tắc cạnh tranh, dân chủ, bình đẳng và công khai bước đầu được áp dụng, góp phần nâng cao chất lượng thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ.
Cơ chế quản lý các tổ chức khoa học và công nghệ đã từng bước được đổi mới theo hướng xã hội hoá và gắn kết với sản xuất, kinh doanh. Các tổ chức và cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế có quyền thành lập các tổ chức khoa học và công nghệ. Phạm vi hoạt động của các tổ chức này được mở rộng từ nghiên cứu, đào tạo, đến sản xuất và dịch vụ khoa học và công nghệ. Đã xuất hiện nhiều tổ chức khoa học và công nghệ ngoài nhà nước, nhiều cơ sở sản xuất trong các viện nghiên cứu, trường đại học, góp phần đưa nhanh kết quả nghiên cứu vào sản xuất.
Cơ chế, chính sách tài chính cho khoa học và công nghệ đã được đổi mới theo hướng tăng dần tỷ lệ chi cho khoa học và công nghệ trong tổng chi ngân sách nhà nước và đa dạng hoá nguồn đầu tư phát triển khoa học và công nghệ. Việc cấp kinh phí đến nhà khoa học đã được cải tiến một bước trên cơ sở tuyển chọn theo nguyên tắc cạnh tranh và giảm bớt các khâu trung gian không cần thiết. Quyền tự chủ về tài chính bước đầu được triển khai áp dụng đối với các tổ chức khoa học và công nghệ công lập.
Cơ chế quản lý nhân lực được đổi mới theo hướng mở rộng hơn quyền chủ động cho cán bộ khoa học và công nghệ trong việc ký kết hợp đồng nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, trong hoạt động kiêm nhiệm và hoạt động hợp tác quốc tế. Chế độ hợp đồng lao động đã được mở rộng hơn đối với các tổ chức khoa học và công nghệ. Đã áp dụng một số hình thức tôn vinh, khen thưởng đối với cán bộ khoa học và công nghệ.
Các thể chế hỗ trợ cho phát triển thị trường công nghệ đã bước đầu được hình thành. Các quy định pháp lý về hợp đồng khoa học và công nghệ, hoạt động chuyển giao công nghệ, sở hữu trí tuệ đã được ban hành tạo điều kiện cho việc thương mại hoá các thành quả khoa học và công nghệ. Chợ công nghệ - thiết bị đã được tổ chức ở nhiều địa phương và ở phạm vi quốc gia, hình thành kênh giao dịch thị trường thúc đẩy hoạt động mua bán thiết bị và các sản phẩm khoa học và công nghệ.
Việc phân công, phân cấp trong quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ đã được cải tiến một bước thông qua việc hoàn thiện tổ chức bộ máy, quy định chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm của các Bộ, cơ quan ngang Bộ và Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Những kết quả đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ vừa qua đã góp phần tạo nên thành tựu chung của nền khoa học và công nghệ được Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đánh giá “... khoa học xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên và công nghệ chuyển biến tích cực, gắn bó hơn với phát triển kinh tế, xã hội.”
d) Trình độ nhận thức và ứng dụng khoa học và công nghệ của nhân dân ngày càng được nâng cao
Nhờ có sự quan tâm của tổ chức Đảng, chính quyền các cấp, hoạt động tích cực của các tổ chức KH&CN, các tổ chức khuyến nông, lâm, ngư và công tác phổ biến, tuyên truyền rộng rãi về tác động của KH&CN đến sản xuất và đời sống, nhận thức và khả năng tiếp thu, ứng dụng tri thức KH&CN của người dân trong thời gian qua đã tăng lên rõ rệt. Hoạt động KH&CN ngày càng được xã hội hóa trên phạm vi cả nước.
2.1.2 Những yếu kém và nguyên nhân chủ yếu
2.1.2.1 Những yếu kém
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được KH&CN nước ta vẫn còn nhiều mặt yếu kém, còn có khoảng cách khá xa so với thế giới và khu vực, chưa đáp ứng được yêu cầu là nền tảng và động lực phát triển kinh tế-xã hội.
Năng lực khoa học và công nghệ còn nhiều yếu kém:
Đội ngũ cán bộ KH&CN còn thiếu cán bộ đầu đàn giỏi, đặc biệt là thiếu cán bộ KH&CN trẻ kế cận có trình độ cao. Cơ cấu nhân lực KH&CN theo ngành nghề và lãnh thổ còn nhiều bất hợp lý. Nhiều cán bộ còn rơi vào tình trạng không có việc làm đúng với chuyên môn nghiên cứu khoa học của mình. Nhìn chung đội ngũ cán bộ KHCN của ta khả năng tiếp cận với thị trường, tính toán hiệu quả kinh tế còn hạn chế, do vậy nhiều kết quả của đề tài KHCN chỉ dừng ở quy mô phòng thí nghiệm không triển khai được vào sản xuất, hoặc sản phẩm tạo ra không mang lại hiệu quả cho xã hội.
Đầu tư của xã hội cho KH&CN còn rất thấp, đặc biệt là đầu tư từ khu vực doanh nghiệp. Trang thiết bị của các viện nghiên cứu, trường đại học nhìn chung còn rất thiếu, không đồng bộ, lạc hậu so với những cơ sở sản xuất tiên tiến cùng ngành.
Hệ thống giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực KH&CN chất lượng cao, đặc biệt đối với những lĩnh vực KH&CN tiên tiến; chưa đáp ứng yêu cầu phát triển KH&CN cũng như sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Hệ thống dịch vụ KH&CN, bao gồm thông tin KH&CN, tư vấn chuyển giao công nghệ, sở hữu trí tuệ, tiêu chuẩn-đo lường-chất lượng còn yếu kém cả về cơ sở vật chất và năng lực cung cấp dịch vụ đáp ứng các yêu cầu của hội nhập khu vực và quốc tế.
Thiếu sự liên kết hữu cơ giữa nghiên cứu KH&CN, giáo dục - đào tạo và sản xuất-kinh doanh; thiếu sự hợp tác chặt chẽ giữa các tổ chức nghiên cứu - phát triển, các trường đại học và doanh nghiệp.
So với các nước trong khu vực và trên thế giới, nước ta còn có khoảng cách rất lớn về tiềm lực và kết quả hoạt động KH&CN; tỷ lệ cán bộ nghiên cứu KH&CN trong dân số và mức đầu tư cho nghiên cứu khoa học theo đầu người thấp; các kết quả nghiên cứu - phát triển theo chuẩn mực quốc tế còn rất ít.
Nhìn chung, năng lực KH&CN nước ta còn yếu kém, chưa giải đáp được kịp thời nhiều vấn đề của thực tiễn đổi mới, chưa gắn kết chặt chẽ và đáp ứng được yêu cầu của phát triển kinh tế-xã hội.
Trình độ công nghệ của nhiều ngành sản xuất còn thấp và lạc hậu:
Ngoài những công nghệ tiên tiến được đầu tư mới trong một số ngành, lĩnh vực như bưu chính-viễn thông, dầu khí, hàng điện tử tiêu dùng, sản xuất điện, xi măng, nhìn chung trình độ công nghệ của các ngành sản xuất nước ta hiện lạc hậu khoảng 2-3 thế hệ công nghệ so với các nước trong khu vực. Tình trạng này hạn chế năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực.
Cơ chế quản lý khoa học và công nghệ chậm được đổi mới, còn mang nặng tính hành chính:
Quản lý hoạt động KH&CN còn tập trung chủ yếu vào các yếu tố đầu vào, chưa chú trọng đúng mức đến quản lý chất lượng sản phẩm đầu ra và ứng dụng kết quả nghiên cứu vào thực tiễn. Việc xác định và tổ chức thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ chưa thực sự xuất phát từ các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Chưa định rõ quyền hạn, trách nhiệm của các ngành, các cấp trong việc xác định nhiệm vụ khoa học và công nghệ. Thiếu cơ chế hữu hiệu khắc phục tình trạng trùng lặp nhiệm vụ khoa học và công nghệ giữa các ngành, các cấp, các địa phương. Tiêu chuẩn lựa chọn và việc lựa chọn chuyên gia tham gia các hội đồng tư vấn để xác định, tuyển chọn tổ chức, cá nhân thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ, đánh giá kết quả nghiên cứu còn bất cập. Công tác đánh giá kết quả nghiên cứu chưa tương hợp với chuẩn mực quốc tế.
Cơ chế quản lý các tổ chức khoa học và công nghệ chưa phù hợp với đặc thù của lao động sáng tạo và cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thiếu quy hoạch các tổ chức khoa học và công nghệ đáp ứng yêu cầu phát triển các ngành, lĩnh vực khoa học và công nghệ trọng điểm và nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội. Các tổ chức khoa học và công nghệ của Nhà nước chưa được thực hiện đầy đủ quyền tự chủ về kế hoạch, tài chính, nhân lực và hợp tác quốc tế để phát huy tính năng động, sáng tạo và gắn kết giữa nghiên cứu, đào tạo và sản xuất, kinh doanh. Chưa xây dựng được các tiêu chí cụ thể đánh giá chất lượng và hiệu quả của hoạt động khoa học và công nghệ nói chung và các tổ chức khoa học và công nghệ nói riêng.
Cơ chế, chính sách tài chính chưa tạo động lực và điều kiện thuận lợi cho tổ chức, cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ. Cơ chế tài chính còn chưa tạo ra sự tự chủ cao đối với các tổ chức khoa học và công nghệ. Đầu tư từ ngân sách nhà nước cho khoa học và công nghệ còn dàn trải, thiếu tập trung cho các lĩnh vực, công trình trọng điểm. Thiếu biện pháp hữu hiệu để huy động các nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước cho khoa học và công nghệ. Thiếu các nguồn vốn đầu tư mạo hiểm để khuyến khích nghiên cứu, ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất, kinh doanh.
Cơ chế quản lý cán bộ khoa học và công nghệ chưa tạo động lực để phát huy năng lực sáng tạo của cán bộ khoa học và công nghệ. Chậm chuyển đổi từ chế độ công chức sang chế độ viên chức và hợp đồng, chưa tạo điều kiện thuận lợi cho việc lưu chuyển và đổi mới cán bộ. Thiếu cơ chế, biện pháp cụ thể xây dựng và nâng cao vai trò của đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ đầu ngành và các tập thể khoa học và công nghệ mạnh. Chế độ tiền lương còn bất hợp lý, không khuyến khích cán bộ toàn tâm với sự nghiệp khoa học và công nghệ. Chưa có các chính sách cụ thể khuyến khích mạnh lực lượng khoa học và công nghệ ngoài nước tham gia đóng góp vào sự nghiệp phát triển đất nước.
Thị trường công nghệ còn nhỏ bé, chậm phát triển. Hoạt động mua, bán công nghệ và lưu thông các kết quả nghiên cứu còn rất hạn chế do thiếu nhiều tác nhân quan trọng, các yếu tố cấu thành thị trường và các quy định pháp lý cần thiết.
Phần lớn các kết quả nghiên cứu còn dừng ở phạm vi phòng thí nghiệm, chưa tạo ra được nhiều công nghệ hoàn chỉnh có thể thương mại hoá. Chưa chú trọng việc mua sáng chế công nghệ của các nước tiên tiến để đổi mới công nghệ.
Quy định về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ chưa khuyến khích các tổ chức thực hiện nghiên cứu quan tâm khai thác, thương mại hóa các kết quả nghiên cứu được tạo ra bằng kinh phí từ ngân sách nhà nước. Hiệu lực thực thi pháp luật về sở hữu trí tuệ thấp. Năng lực của các tổ chức trung gian, môi giới công nghệ còn yếu chưa thật sự đáp ứng vai trò cầu nối giữa cung và cầu.
Quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ còn chưa đổi mới kịp với yêu cầu chuyển sang kinh tế thị trường. Thiếu cơ chế cụ thể để điều phối hoạt động quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ. Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý nhà nước đối với hoạt động khoa học và công nghệ còn thiếu, chưa cụ thể, thiếu đồng bộ, lạc hậu so với thực tiễn, nhiều quy định không khả thi. Thiếu phân công, phân cấp rõ ràng về quyền hạn và trách nhiệm giữa các Bộ, ngành và giữa trung ương với địa phương.
Tóm lại, công tác quản lý nhà nước về KH&CN còn chưa đổi mới kịp so với yêu cầu chuyển sang kinh tế thị trường.
2.1.2.2 Những nguyên nhân chủ yếu
Những yếu kém trên là do những nguyên nhân chủ yếu sau:
Quan điểm khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực phát triển đất nước đã được khẳng định trong các Nghị quyết của Đảng, nhưng chưa được quán triệt đầy đủ để chuyển thành hành động thực tế của các cấp chính quyền, các Bộ, ngành, địa phương trong xây dựng và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ về phát triển khoa học và công nghệ chậm được thể chế hoá bằng các văn bản quy phạm pháp luật đáp ứng nhu cầu đổi mới trong thực tiễn; lãnh đạo các cấp thiếu kiên trì, kiên quyết trong tổ chức và chỉ đạo thực hiện đổi mới quản lý khoa học và công nghệ.
Chậm đổi mới tư duy, phương pháp quản lý khoa học và công nghệ trong điều kiện chuyển sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế. Chưa làm rõ trách nhiệm của Nhà nước về đầu tư phát triển đối với một số hoạt động khoa học và công nghệ như nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu mang tính công ích, nghiên cứu chiến lược, chính sách phát triển v.v...; chưa có cơ chế, chính sách phù hợp đối với các hoạt động khoa học và công nghệ cần và có thể vận dụng cơ chế thị trường như hoạt động nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ, dịch vụ khoa học và công nghệ.
Chưa tách biệt quản lý hành chính nhà nước với hoạt động sự nghiệp dẫn đến tình trạng các cơ quan quản lý nhà nước trực tiếp thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ. Thiếu cơ chế hữu hiệu về thanh tra, kiểm tra và quy định trách nhiệm rõ ràng trong hoạt động khoa học và công nghệ.
Chưa coi trọng tổng kết thực tiễn các điển hình tiên tiến. Trong những năm gần đây, với sự năng động sáng tạo của các tổ chức khoa học và công nghệ, đã xuất hiện nhiều điển hình tốt về gắn kết giữa nghiên cứu khoa học với sản xuất, nhưng chưa được tổng kết kịp thời để nhân rộng.
Chưa đảm bảo sự phát triển hài hòa về kinh tế - xã hội và về KHCN, chưa xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa kinh tế - xã hội và KHCN. Phải đổi mới đồng bộ và có hệ thống cơ chế quản lý kinh tế - xã hội và cơ chế quản lý KHCN, trong đó sự đổi mới cơ chế quản lý kinh tế - xã hội giữ vai trò quyết định nhất, then chốt nhất mở đường và tạo môi trường thuận lợi cho KHCN hoạt động và phát triển. Mặt khác phải làm cho hoạt động KHCN gắn kết hữu cơ với kinh tế - xã hội, hoạt động KHCN phải xuất phát từ sản xuất và đời sống xã hội và tác động trở lại thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Ngược lại, kinh tế - xã hội phải đặt hàng cho KHCN giải quyết và tạo điều kiện, môi trường cho KHCN hoạt động có hiệu quả.
Cơ chế quản lý kinh tế hiện nay còn duy trì sự bao cấp gián tiếp của Nhà nước thông qua các ưu đãi, độc quyền trong nhiều lĩnh vực, khiến cho các doanh nghiệp nhà nước ít quan tâm đến nghiên cứu, ứng dụng và đổi mới công nghệ để nâng cao năng lực cạnh tranh. Năng lực khoa học và công nghệ của doanh nghiệp còn bất cập, thiếu đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ trong các doanh nghiệp làm cầu nối cho ứng dụng các kết quả nghiên cứu vào sản xuất. Hệ thống tài chính, tiền tệ kém phát triển cũng không tạo điều kiện cho doanh nghiệp tự huy động được nguồn vốn để đầu tư cho khoa học và công nghệ.
Mạng lưới tổ chức các cơ quan KHCN chưa chuyển biến kịp thời với tình hình mới, hoạt động chưa gắn bó với thị trường và do đó không phát huy được vai trò của mình. Việc sử dụng các công cụ đòn bẩy, các chính sách KHCN cụ thể còn nhiều lúng túng; chưa tạo đủ động lực cho các nhà khoa học làm việc; chưa có cơ chế đào thải các phần tử bất tài, cơ hội ra khỏi guồng máy của các cơ quan KHCN, tạo ra các tiêu cực không đáng có, không tận dụng được nhân tài trong nước, không thu hút được nhiều nguồn lực bên ngoài đất nước.
Tóm lại, để có thể đưa KHCN trở thành động lực thực sự cho công cuộc đổi mới và cho sự nghiệp xây dựng đất nước, vấn đề hết sức bức thiết là phải nhanh chóng đổi mới tổ chức và cơ chế quản lý các hoạt động KHCN của đất nước.
2.1.3 Đặc điểm hình thành và phát triển của các Viện nghiên cứu triển khai qua các thời kỳ
2.1.3.1 Đặc điểm hình thành và phát triển của các Viện nghiên cứu triển khai thời kỳ cơ chế tập trung
Hầu hết các Viện này do Nhà nước thành lập với chức năng khoa học được quy định.
Cơ sở vật chất kỹ thuật ban đầu thường thấp kém. Nhà nước đầu tư từng bước để hoàn chỉnh theo chức năng khoa học.
Nhà nước đào tạo và phân phối cán bộ cho các Viện theo kế hoạch và chính sách cán bộ. Cán bộ nghiên cứu khoa học được trả lương theo thang lương và chế độ nâng bậc của Nhà nước.
Nhà nước giao nhiệm vụ và cấp kinh phí cho các Viện hoạt động theo kế hoạch.
Sản phẩm khoa học được giao nộp hoặc ghi nhận hoàn thành kế hoạch, Viện thường ít quan tâm và ít bị ràng buộc trách nhiệm trong bước tiếp theo là ứng dụng những kết quả nghiên cứu khoa học vào sản xuất.
2.1.3.2 Đặc điểm của các Viện nghiên cứu triển khai trong thời kỳ cơ chế thị trường
Phần lớn các Viện nghiên cứu triển khai chuyển dần từ hoạt động “theo chức năng” sang hoạt động “theo khả năng”. Đồng thời tự điều chỉnh, khắc phục dần khoảng cách giữa những khả năng thực tế của các Viện với những nhu cầu thực tế của kinh tế - xã hội trong phạm vi tiếp cận thuận lợi nhất.
Nhà nước đã mở rộng quyền tự chủ khoa học – kinh tế cho các Viện. Có thể kể tới các quyền ký hợp đồng công việc và hợp đồng lao động, quyền tự chủ về kế hoạch và tự chủ về tài chính, quyền chủ động hợp tác với các cơ quan khoa học, sản xuất kinh doanh, quyền làm dịch vụ khoa học và trực tiếp tham gia sản xuất kinh doanh, quyền phân phối thu nhập,...
Cơ chế thị trường tác động làm cho nhu cầu về hoạt động nghiên cứu triển khai trở thành phong phú hơn, hiện thực hơn và cũng khắt khe hơn. Tuy chưa hình thành rõ rệt thị trường các sản phẩm nghiên cứu triển khai và thị trường sức lao động lĩnh vực này, nhưng đã có sự thông thoáng trong quan hệ cung - cầu. Quan hệ này đã chi phối hoạt động của các Viện nghiên cứu triển khai ngày một rõ rệt hơn.
Nguồn tài chính của các Viện phong phú hơn, ngoài ngân sách Nhà nước, Viện có thể sử dụng các nguồn vốn hợp đồng, tín dụng, liên doanh, viện trợ nước ngoài và các quỹ phát triển khoa học...
Môi trường hợp tác quốc tế được mở rộng.
Nhận định khả năng phát triển của các hoạt động nghiên cứu triển khai và các Viện nghiên cứu triển khai:
Cùng sự phát triển của kinh tế - xã hội, thị trường các sản phẩm KHCN và thị trường sức lao động lĩnh vực KHCN sẽ phát triển dần về mặt quy mô và hoàn chỉnh dần về mặt hình thức trong hệ thống thị trường nói chung.
Sẽ có thêm hình thức tổ chức và hình thức sở hữu các Viện nghiên cứu triển khai.
Các Viện nghiên cứu triển khai sẽ tự điều chỉnh hoạt động của mình thích ứng với sự phát triển của thị trường.
Các mối quan hệ giữa các Viện với các chủ thể khác trong nền kinh tế sẽ được thể hiện chủ yếu thông qua thị trường. Thị trường sẽ tác động và làm năng động hoá các mối quan hệ này.
Phần lớn các Viện nghiên cứu triển khai đang hoạt động sẽ có thể phát triển một cách thực chất hơn và có hiệu quả hơn nhưng cơ chế thị trường cũng có thể làm cho một số Viện không còn đủ lý do để tồn tại nữa, những tổ chức này hoặc phải tổ chức lại hoặc phải tự chấm dứt hoạt động của mình.
Vai trò quản lý của Nhà nước đối với hoạt động KHCN và tổ chức KHCN không hề giảm. Tuy nhiên nhiều nội dung và hình thức quản lý của Nhà nước được cải tiến theo hướng vừa vận dụng vừa điều tiết cơ chế thị trường cho phù hợp điều kiện và trình độ phát triển của hoạt động KHCN và tổ chức KHCN hiện nay.
Quá trình đổi mới đã đem lại những hiệu quả bước đầu cho hoạt động nghiên cứu triển khai: Các Viện nghiên cứu triển khai đã thích ứng một bước với cơ chế thị trường, tiếp xúc trực tiếp với đơn vị sản xuất, với nhu cầu về sản phẩm khoa học và sức lao động. Do vậy hoạt động của các Viện dần dần đã tìm được những nguồn lực thực sự của mình; Có bước phát triển về chất các hoạt động nghiên cứu triển khai theo hướng khép kín chu trình nghiên cứu – sản xuất – thị trường, có bước phát triển về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tính năng động nhạy bén của đội ngũ cán bộ, có sự nâng cấp về cơ sở vật chất kỹ thuật của Viện theo hướng đáp ứng chu trình khép kín nêu trên.
Vị trí, vai trò của hoạt động nghiên cứu triển khai và các Viện này từng bước được thị trường và xã hội thừa nhận.
2.2 Thực trạng tổ chức và hoạt động của Viện Khoa học và Công nghệ Xây dựng
2.2.1 Giới thiệu chung về Viện KHCNXD
2.2.1.1 Sự hình thành và phát triển của Viện
Viện KHCNXD là một trong những Viện đầu ngành của Bộ Xây dựng, tiền thân của Viện là Viện Thí nghiệm Vật liệu Xây dựng được thành lập theo Quyết định số 166/CP ngày 18 tháng 10 năm 1961 của Hội đồng Chính phủ. Chức năng chủ yếu là thí nghiệm kiểm tra chất lượng vật liệu xây dựng.
Theo Quyết định số 110/BXD ngày 16 tháng 10 năm 1974 của Bộ Xây dựng Viện đổi tên thành Viện Khoa học Kỹ thuật Xây dựng với chức năng chủ yếu được mở rộng thêm là nghiên cứu khoa học; biên soạn tiêu chuẩn; đào tạo công nhân kỹ thuật.
Viện Khoa học Kỹ thuật xây dựng của Bộ đóng vai trò trung tâm, nhiệm vụ chủ yếu của Viện là nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng các vấn đề khoa học - kỹ thuật xây dựng của Ngành nhằm nâng cao năng suất lao động, tiết kiệm hạ giá thành, bảo đảm chất lượng công trình và đưa nhanh công trình vào sử dụng.
Để có những luận cứ khoa học, các chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật cụ thể, đồng thời để nhanh chóng đưa các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, tạo sự liên hoàn từ khâu nghiên cứu tới sản xuất và ngược lại, phát huy tiềm lực khoa học kỹ thuật của Viện, từ năm 1979, Viện được Bộ Xây dựng chấp thuận tổ chức xí nghiệp xây dựng thực nghiệm kỹ thuật mới, với nhiệm vụ sản xuất và thi công thực nghiệm các công trình và sản phẩm, kết quả của công tác nghiên cứu khoa học và ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật do Viện tạo ra.
Sau năm 1974, với chức năng nhiệm vụ mới, công tác nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng phục vụ sản xuất của Viện đã được đẩy mạnh hơn.
Ngày 16 tháng 5 năm 1988, Bộ Xây dựng ra quyết định số 523/BXD-TCLĐ hợp nhất Viện Khoa học Xây dựng Cơ bản – UBXDCBNN với Viện Khoa học Kỹ thuật Xây dựng thành Viện Khoa học Kỹ thuật Xây dựng - Bộ Xây dựng. Chức năng chủ yếu được mở rộng thêm là: chuyển giao công nghệ; đào tạo cán bộ khoa học ở cấp tiến sĩ khoa học kỹ thuật; tư vấn các vấn đề kỹ thuật trong xây dựng; thiết kế thi công thực nghiệm và xử lý kỹ thuật các công trình xây dựng.
Thời kỳ này nền kinh tế đất nước đã chuyển từ chế độ bao cấp sang cơ chế thị trường công tác nghiên cứu khoa học – công nghệ của Viện đã có nhiều chuyển biến, hoạt động; tư duy của cán bộ nghiên cứu khoa học đã được đổi mới, đã gắn khoa học với những yêu cầu thực tiến của sản xuất.
Theo Quyết định số 782/TTG ngày 24 tháng 10 năm 1996 của Thủ tướng Chính phủ về việc sắp xếp các cơ quan nghiên cứu - triển khai KH&CN, Viện là một trong số 41 Viện được sắp xếp lại. Ngày 11 tháng 12 năm 1996, Bộ Xây dựng ra quyết định số 1056/BXD-TCLĐ đổi tên Viện Khoa học Kỹ thuật Xây dựng thành Viện Khoa học Công nghệ Xây dựng. Chức năng hoạt động được mở rộng thêm theo Quyết định số 425/BXD-TCLĐ ngày 4 tháng 7 năm 1997 với diện hoạt động ở cả 3 miền đất nước.
Ngày 23 tháng 7 năm 2001 Bộ trưởng Bộ Xây dựng đã ký quyết định số 1276/QĐ-BXD về việc phê duyệt đề án rà soát chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy và tinh giản biên chế của Viện KHCNXD.
Ngày 12 tháng 4 năm 2005 Bộ Xây dựng ra quyết định số 630/QĐ-BXD về việc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu của Viện KHCNXD. Viện được khẳng định là đơn vị sự nghiệp khoa học có thu, có tư cách pháp nhân, có con dấu theo mẫu quy định, được mở tài khoản tại kho bạc Nhà nước và ngân hàng.
2.2.1.2 Chức năng, nhiệm vụ của Viện KHCNXD
Theo Quyết định số 630/QĐ-BXD ngày 12 tháng 4 năm 2005, Viện được khẳng định là đơn vị sự nghiệp khoa học có thu với chức năng, nhiệm vụ:
Thực hiện các đề tài,dự án nghiên cứu khoa học, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, chuyển giao công nghệ các lĩnh vực thuộc ngành xây dựng.
Thực hiện các nhiệm vụ phục vụ công tác quản lý nhà nước về các lĩnh vực thuộc ngành xây dựng được bộ giao gồm: Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu, nghiên cứu phương pháp luận, hệ thống hoá tiêu chuẩn xây dựng ở trong nước và trên thế giới; tổ chức nghiên cứu biên soạn, ứng dụng về tiêu chuẩn hoá xây dựng và các tài liệu hướng dẫn kỹ thuật phục vụ công tác xây dựng; điều tra, khảo sát, đề xuất giải pháp, cung cấp thông tin khoa học công nghệ, tham gia xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật của ngành xây dựng; thực hiện nhiệm vụ triển khai kỹ thuật, công nghệ mới, nhằm bảo đảm chất lượng, tiến độ các công trình quan trọng, trọng điểm quốc gia; hỗ trợ, tháo gỡ các vướng mắc về kỹ thuật, công nghệ các công trình xây dựng thuộc các Bộ, ngành, địa phương.
Tổ chức thực hiện công tác tư vấn và dịch vụ kỹ thuật các công trình xây dân dụng, công nghiệp, hạ tầng kỹ thuật và xây dựng chuyên ngành: Lập dự án đầu tư, khảo sát địa chất, môi trường, lập bản đồ và hệ thống mốc, lưới khống chế mặt bằng, cao độ phục vụ công tác khảo sát, thiết kế, thi công, khai thác sử dụng các công trình và dự án đầu tư xây dựng; thiết kế, thẩm tra thiết kế kỹ thuật và tổng dự toán các công trình xây dựng; tư vấn đấu thầu, quản lý dự án; giám sát chất lượng công trình xây dựng; kiểm định chất lượng thi công xây dựng; giám định chất lượng công trình xây dựng, xác định nguyên nhân, khắc phục sự cố kỹ thuật công trình xây dựng; kiểm tra chất lượng nước, môi trường, vật liệu phòng chống cháy nổ, tư vấn đánh giá tác động môi trường liên quan công trình xây dựng, hệ thống kỹ thuật công trình, hạ tầng kỹ thuật đô thị và cơ sở sản xuất công nghiệp; tư vấn, tiếp nhận, chuyển giao hệ thống thiết bị, công nghệ mới các lĩnh vực thuộc ngành xây dựng.
Tổ chức sản xuất, thực hiện xuất nhập khẩu, đầu tư kinh doanh thiết bị công nghệ xây dựng, thiết bị thí nghiệm và thiết bị sản xuất vật liệu xây dựng.
Nhận thầu và tổ chức thi công xây dựng mới, sửa chữa, cải tạo công trình; bảo tồn, trùng tu công trình kiến trúc cổ, công trình di tích.
Tổ chức đào tạo tiến sĩ, thạc sĩ, thí nghiệm viên, kiểm định viên, cán bộ quản lý dự án, giám sát chất lượng công trình xây dựng, bồi dưỡng phổ biến thông tin về KHCN xây dựng và tiêu chuẩn hoá xây dựng, bồi dưỡng, tập huấn các chuyên đề kỹ thuật phụcvụ công tác xây dựng.
2.2.2 Thực trạng tổ chức và hoạt động của Viện KHCNXD [29, 30]
2.2.2.1 Tình hình tổ chức
a) Lãnh đạo: Viện KHCNXD có Viện trưởng và 04 Phó viện trưởng.
b) Cơ cấu tổ chức: Viện KHCN Xây dựng có 16 đơn vị trực thuộc, chia làm hai khối:
Khối các đơn vị quản lý, nghiệp vụ: gồm 04 phòng
1- Phòng Tổ chức - Hành chính;
2- Phòng Kế hoạch- Kỹ thuật;
3- Phòng Tài chính - Kế toán; 4- Phòng Đào tạo và Thông tin khoa học.
Khối các đơn vị nghiên cứu và triển khai: gồm 12 đơn vị
+ 02 Viện chuyên ngành:
5- Viện chuyên ngành Bê tông;
6- Viện chuyên ngành Kết cấu công trình xây dựng;
+ 02 Phân Viện:
7- Phân viện Khoa học công nghệ xây dựng Miền Nam;
8- Phân viện Khoa học công nghệ xây dựng Miền Trung;
+ 04 Phòng chuyên môn:
9- Phòng Địa kỹ thuật;
10- Phòng Trắc địa công trình;
11- Phòng Nghiên cứu ăn mòn và bảo vệ công trình;
12- Phòng Môi trường và kỹ thuật hạ tầng.
+ 04 Trung tâm:
13- Trung tâm Tư vấn thiết kế và xây dựng;
14- Trung tâm Tiêu chuẩn hoá xây dựng;
15- Trung tâm Công nghệ xây dựng;
16- Trung tâm Cung ứng và Kiểm định thiết bị xây dựng.
Các phòng thí nghiệm trong các đơn vị nghiên cứu và triển khai có:
- Phòng Thí nghiệm Địa kỹ thuật;
- Phòng Thí nghiệm Bê tông và Vật liệu xây dựng;
- Phòng Thí nghiệm Công trình;
- Phòng Thí nghiệm ăn mòn và bảo vệ công trình;
- Phòng Thí nghiệm Hàn và kim loại;
- Phòng Thí nghiệm Môi trường;
- Phòng Thí nghiệm phòng chống cháy;
- Phòng Thí nghiệm gió bão;
- Phòng Thí nghiệm động đất;
- Phòng Thí nghiệm Tổng hợp Miền Trung;
- Phòng thí nghiệm Tổng hợp Miền Nam.
Hội đồng chức danh
giáo sư cấp cơ sở
Viện trưởng
Hội đồng khoa học
Phó viện trưởng
Phó viện trưởng
Phó viện trưởng
Phó viện trưởng
Phòng tổ chức hành chính
Phòng kế hoạch kỹ thuật
Phòng tài chính kế toán
Phòng đào tạo và thông tin khoa học
Phân viện
Miền Nam
Phân viện
Miền Trung
Viện chuyên ngành bê tông
Viện chuyên ngành kết cấu công trình xây dựng
Phòng địa kỹ thuật
Phòng trắc địa công trình
Phòng môi trường & kỹ thuật hạ tầng
Phòng nghiên cứu ăn mòn & bảo vệ công trình
Trung tâm công nghệ xây dựng
Trung tâm tiêu chuẩn hóa xây dựng
Trung tâm tư vấn thiết kế & xây dựng
Trung tâm cung ứng & kiểm định thiết bị xây dựng
H2.1. Sơ đồ cơ cấu tổ chức
Trước khi chuyển đổi Viện mới chỉ có 4 đơn vị phân cấp, 4 đơn vị này có con dấu và tài khoản riêng do đó được chủ động tìm kiếm, tự ký kết hợp đồng theo năng lực của mình. Các đơn vị còn lại muốn có hợp đồng kinh tế đều phải thông qua Viện do đó chưa tạo được tính tích cực và chủ động cao trong việc tự tìm kiếm hợp đồng. Hoạt động đào tạo là một thế mạnh của Viện cũng chưa được tách ra thành một trung tâm để có thể tự tổ chức lớp học nên cũng đã làm hạn chế rất nhiều về lĩnh vực này của Viện.
Qua sơ đồ chức năng cũng có thể thấy được Viện hoạt động trên rất nhiều lĩnh vực, các đơn vị thuộc Viện cũng vừa được tổ chức theo kiểu chuyên sâu nhưng cũng vừa có khả năng làm được các lĩnh vực khác trong ngành xây dựng. Do vậy mỗi một đơn vị đều có khả năng tự tổ chức hoạt động tìm kiếm hợp đồng.
Với một hệ thống phòng thí nghiệm được đầu tư khá đồng bộ và đa dạng Viện có một cơ sở vật chất khá tốt phục vụ cho công tác nghiên cứu KHCN và cả trong hoạt động triển khai khi thực hiện các hợp đồng về kiểm nghiệm, thí nghiệm vật liệu,...
c, Cơ cấu cán bộ, viên chức và người lao động khác (trình độ, tuổi, chuyên môn ...): Tính đến thời điểm 30/6/2006:
c.1 Cơ cấu cán bộ và trình độ: Tổng số cán bộ công nhân viên chức : 375 trong đó:
- Giáo sư. Phó giáo sư. Tiến sỹ: 39
- Thạc sỹ: 48
- Kỹ sư, cử nhân: 246
- Trung cấp, Nhân viên kỹ thuật: 42.
c.2 Độ tuổi
- Tuổi dưới 40: 280 người;
- Tuổi từ 41 ¸ 50: 39 người;
- Tuổi từ 51 ¸ 60: 56 người.
Viện có một đội ngũ cán bộ lao động KHCN khá trẻ và tiềm năng. Đây chính là một thế mạnh của Viện bởi vì nguồn nhân lực chính là nền tảng, là yếu t
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- lvan_thao.doc