Tài liệu Đề tài Nghiên cứu hiện trạng ô nhiễm do túi ni-Lông gây ra ở thành phố Hồ Chí Minh: ĐẠI HỌC DÂN LẬP VĂN LANG
KHOA CÔNG NGHỆ VÀ QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG
BÀI TẬP VỀ NHÀ MÔN ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG
Chủ đề : NGHIÊN CỨU HIỆN TRẠNG Ô NHIỄM DO TÚI NI-LÔNG GÂY RA Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH.
Lớp K13M1 Nhóm: 5 …..Gồm các SV:
SV1: NGUYỄN TUẤN NGHỊ
SV2: MAI VĂN DŨNG
SV3: VÕ HOÀNG SANG
SV4: BÙI TẤN THIÊN KIM
SV5: TRẦN MINH HÙNG
SV6: NGUYỄN QUỐC ĐẠT
TP. HỒ CHÍ MINH – THÁNG 6 NĂM 2010
Lời nói đầu
Lâu nay người dân trên hầu khắp hành tinh hơn 6 tỉ người đã trở nên quen thuộc với việc sử dụng túi ni-lông hàng ngày. Tuy nhiên, những người sử dụng túi ni-lông đa phần mới chỉ quan tâm tới những tiện ích của nó mà không hề biết những chiếc túi ni-lông được tạo ra từ Poyethylen, một loại nhựa dẻo nóng từ dầu mỏ và việc sử dụng túi ni lông tràn lan sẽ gây tác động xấu tới môi trường ra sao.
Mỗi năm, toàn thế giới sử dụng hơn 13 tỷ túi ni-lông, trung bình mỗi người sử dụng 220 túi. Mỗi túi ni-lông thường chỉ được sử dụng 12 phút trước khi bị vứt đi nhưng chúng lại ...
20 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 3964 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Nghiên cứu hiện trạng ô nhiễm do túi ni-Lông gây ra ở thành phố Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC DÂN LẬP VĂN LANG
KHOA CƠNG NGHỆ VÀ QUẢN LÝ MƠI TRƯỜNG
BÀI TẬP VỀ NHÀ MƠN ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MƠI TRƯỜNG
Chủ đề : NGHIÊN CỨU HIỆN TRẠNG Ơ NHIỄM DO TÚI NI-LƠNG GÂY RA Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH.
Lớp K13M1 Nhĩm: 5 …..Gồm các SV:
SV1: NGUYỄN TUẤN NGHỊ
SV2: MAI VĂN DŨNG
SV3: VÕ HỒNG SANG
SV4: BÙI TẤN THIÊN KIM
SV5: TRẦN MINH HÙNG
SV6: NGUYỄN QUỐC ĐẠT
TP. HỒ CHÍ MINH – THÁNG 6 NĂM 2010
Lời nĩi đầu
Lâu nay người dân trên hầu khắp hành tinh hơn 6 tỉ người đã trở nên quen thuợc với việc sử dụng túi ni-lơng hàng ngày. Tuy nhiên, những người sử dụng túi ni-lơng đa phần mới chỉ quan tâm tới những tiện ích của nĩ mà khơng hề biết những chiếc túi ni-lơng được tạo ra từ Poyethylen, một loại nhựa dẻo nĩng từ dầu mỏ và việc sử dụng túi ni lơng tràn lan sẽ gây tác động xấu tới mơi trường ra sao.
Mỗi năm, tồn thế giới sử dụng hơn 13 tỷ túi ni-lơng, trung bình mỗi người sử dụng 220 túi. Mỗi túi ni-lơng thường chỉ được sử dụng 12 phút trước khi bị vứt đi nhưng chúng lại tồn tại trong mơi trường đến hàng nghìn năm.
Hiện nay, túi ni-lơng hiện đang trở thành “thảm họa” mơi trường ở Việt Nam. Việc hạn chế việc dụng bừa bãi túi ni-lơng và tiến tới từng bước loại trừ túi ni-lơng ra khỏi đời sống là việc cần phải làm và phải làm ngay trước khi Việt Nam trở thành một “bãi rác ni-lơng”. Túi ni-lơng được làm từ những chất khĩ phân hủy. Muốn túi ni-lơng phân hủy hồn tồn phải mất hàng trăm thậm chí hàng ngàn năm.
Trong khi đĩ, hiện nay tại Việt Nam số lượng túi ni-lơng được tập trung về bãi rác để xử lý tập trung chiếm tỷ lệ khơng cao, đa phần cịn lại bị vứt xuống sơng, hồ, cống rãnh, kênh rạch, gây ngập úng…
Nghiêm trọng hơn các nhà khoa học cịn phát hiện ra rằng từ đất và nước bị ơ nhiễm bởi túi ni-lơng sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe con người cả trực tiếp và gián tiếp. Thực tế, cĩ nhiều loại túi ni-lơng cĩ lẫn lưu huỳnh, được làm từ dầu mỏ nguyên chất. Khơng thể loại trừ khả năng nhiễm độc từ túi ni-lơng được dùng để bọc các loại thực phẩm tươi sồng, đồ ăn chín…Ngồi ra, bên cạnh ảnh hưởng tới nguồn nước,đất, sức khỏe của cộng đồng, ngồi ra cịn gây ảnh hưởng đến mỹ quan đơ thị.
PHẦN I
GIỚI THIỆU CHUNG
* Bối cảnh của nghiên cứu
Hiện nay tình hình ơ nhiễm tui nilon đang là một vấn đề cần được quan tâm ,vì túi nilon chỉ đem lại cái lợi nhỏ trước mắt nhưng sau đĩ là những tác hại vơ cùng khủng khiếp đĩ là gay ơ nhiễm mơi trường
Túi ni-lơng được sản xuất từ nhựa polyethylene cĩ nguồn gốc từ dầu mỏ và quá trình tự phân hủy của nĩ diễn ra rất chậm. Thực tế, dưới tác động của ánh sáng, túi xốp vỡ ra thành nhiều phân tử nhựa nhỏ hơn, độc hại hơn và cuối cùng gây ơ nhiễm cho đất và nguồn nước. Chúng cĩ thể len lỏi vào thức ăn của động vật và con người. Khi khơng được vứt ra bãi rác hoặc đốt bỏ, túi nhựa thường được nước đưa ra biển thơng qua đường cống thải, sơng rạch.
Theo Cơ quan Khảo sát Nam cực Anh Quốc, túi nhựa được thấy trơi nổi ở vùng biển phía Bắc Bắc cực trong khi Trung tâm bảo tồn mơi trường biển của Mỹ gần đây cho biết túi nhựa chiếm hơn 10% số rác tấp vào đường bờ biển nước này. Túi ni-lơng cĩ thể là thảm họa kết liễu đời sống của nhiều sinh vật. Theo Quỹ Bảo tồn động vật hoang dã thế giới, nhiều cá thể thuộc khoảng 200 lồi sinh vật biển (như cá voi, cá heo, hải cẩu, rùa...) đã chết sau khi nuốt phải túi ni-lơng do nhầm là thức ăn; nhiều lồi thủy sản cũng bị chết ngộp khi chui vào túi ni-lơng.
Theo các nhà khoa học, trong một số loại túi ni lơng cĩ lẫn lưu huỳnh, dầu hỏa nguyên chất, khi bị đốt cháy, gặp hơi nước sẽ tạo thành axit sunfuric dưới dạng các cơn mưa axit, rất cĩ hại cho phổi người và động vật. Tệ hơn, túi ni lơng làm bằng nhựa PVC cĩ chứa clo, khi cháy tạo ra chất đioxin và axit clohiđric vơ cùng độc hại.
*Địa điểm ,khu vực nghiên cứu
Thành phố Hồ Chí Minh cĩ tọa độ 10°10' – 10°38' Bắc và 106°22' – 106°54' Đơng, phía Bắc giáp tỉnh Bình Dương, Tây Bắc giáp tỉnh Tây Ninh, Đơng và Đơng Bắc giáp tỉnh Đồng Nai, Đơng Nam giáp tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Tây và Tây Nam giáp tỉnh Long An và Tiền Giang.
Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay bao gồm 19 quận và 5 huyện, tổng diện tích 2.095,01 km². Theo kết quả điều tra dân số chính thức vào thời điểm 0 giờ ngày 1 tháng 4 năm 2009 thì dân số thành phố là 7.123.340 người (chiếm 8,30% dân số Việt Nam), mật độ trung bình 3.401 người/km². Tuy nhiên nếu tính những người cư trú khơng đăng ký thì dân số thực tế của thành phố vượt trên 8 triệu người.
PHẦN II
TRÌNH BÀY
ĐỀ CƯƠNG NGHIÊN CỨU CHI TIẾT
1. Tên đề tài tiểu luận
NGHIÊN CỨU HIỆN TRẠNG Ơ NHIỄM DO TÚI NI-LƠNG GÂY RA Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH.
2. Cơ quan quản lý
Sở tài nguyên mơi trường
3. Cơ quan chủ trì
Khoa Công nghệ và Quản lý môi trường- trường ĐHDL Văn Lang.
4. Các cơ quan phối hợp
Bộ Tài nguyên và Quản lý môi trường.
Sở tài nguyên và môi trường.
Cục Bảo vệ Môi trường.
5. Tình hình nghiên cứu
5.1 Trong nước:
Ở Việt Nam, mỗi ngày các bà nội trợ cũng thải ra hàng triệu túi, bao bì bằng ni-lơng. Chỉ một phần nhỏ trong số này được thu gom, tái chế, cịn phần lớn bị vứt đi vơ tội vạ khơng chỉ gây lãng phí về kinh tế, mà cịn đặt ra nhiều vấn đề về mơi trường. Việc quá lạm dụng sản phẩm ni-lơng trong bao gĩi, đựng, chứa thực phẩm, hàng hĩa, cùng với sự bừa bãi, vơ ý thức của con người đã tạo thành thứ rác rưởi lan tràn khắp nơi, từ các khu du lịch, di tích, danh lam thắng cảnh, đến đồng ruộng, hồ ao, sơng ngịi... Theo Tổ chức bảo vệ thiên nhiên WWF, các bãi biểncủa Pháp luơn bị ơ nhiễm bởi khoảng 122 triệu chiếc túi ni-lơng. Ở Việt Nam chưa cĩ con số thống kê cụ thế, nhưng chắc chắn mức độ ơ nhiễm và khối lượng rác thải ni-lơng sẽ vượt qua con số này nhiều.
Theo các nhà khoa học, việc sử dụng bao bì ni-lơng cĩ thể gây nguy hại đối với mơi trường bởi đặc tính khơng phân hủy của plastic. Bao bì ni-lơng lẫn vào đất làm cản trở quá trình sinh trưởng của các lồi thực vật bị nĩ bao quanh, cản trở sự phát triển của cây cỏ, dẫn đến hiện tượng xĩi mịn ở các vùng đồi núi. Bao bì ni-lơng bị vứt xuống cống làm tắc các đường dẫn nước thải, làm tăng khả năng ngập lụt của các đơ thị về mùa mưa. Sự tắc nghẽn hệ thống thốt nước thải sẽ làm cho ruồi muỗi phát sinh, lây truyền dịch bệnh. Bao bì ni-lơng trơi ra biển làm chết các sinh vật khi chúng nuốt phải hoặc mắc phải. Nhưng nguy hại hơn cả là tác hại của bao bì ni-lơng đối với sức khoẻ con người. Những bao bì ni-lơng nhuộm màu sẽ làm ơ nhiễm thực phẩm do chúng chứa các kim loại như chì, ca-đi-mi (một loại kim loại, sản phẩm phụ của quá trình sản xuất kẽm, chì, đồng từ quặng) gây tác hại cho não và là nguyên nhân chính gây ra bệnh ung thư phổi. Khi bị đốt cháy, các các loại bao bì ni-lơng sẽ tạo thành nhiều khí độc, đặc biệt là chất dioxin cĩ thể gây ngộ độc, gây ngất, nơn ra máu, khĩ thở, gây rối loạn chức năng, bị ung thư, giảm khả năng miễn dịch, ảnh hưởng đến các tuyến nội tiết. Với phụ nữ đang trong thời kỳ mang thai,khi hít phải loại khí này, rất dễ đứa trẻ sinh ra đời sẽ bị mắc các dị tật bẩm sinh.
Hơn nữa, từ nhận thức đến việc nâng lên thành chính sách cịn một khoảng cách quá xa. Cũng đã cĩ nhiều nhà khoa học lên tiếng về mối hiểm hoạ này nhưng đến nay, trong hệ thống các văn bản pháp lý của Việt Nam chưa cĩ quy định nào quy định việc cấm hay hạn chế sử dụng túi ni lơng trong đời sống. Các địa phương cũng chưa tổ chức được việc tái chế túi ni lơng nên phĩ mặc cho những cơ sở thủ cơng với cơng nghệ lạc hậu, khơng hợp vệ sinh.
Trong hoàn cảnh hiện tại nước ta còn sử dụng rất nhiều túi nilon thì việc tuyên truyền giáo dục ý thức bao hàm việc giáo dục việc bỏ túi nilon đúng nơi quy định thay vì bỏ khắp nơi trên mặt đất và song rạch.
5.2Ngồi nước
Trung Quốc
Trung Quốc là nước đi đầu trong việc hạn chế đến mức tối đa việc sử dụng ni-lơng trong bao gĩi sản phẩm, đựng hàng hĩa. Nhiều nước cũng đã tham gia "Một ngày khơng cĩ ni-lơng" vì mơi trường sống, vì sức khỏe của con người. Nhưng trong tương lai, vẫn cần các nhà nghiên cứu chế tạo ra một loại hợp chất cĩ thể thay thể được ni-lơng nhưng lại dễ phân hủy, khơng độc hại đến mơi trường, mơi sinh.
Trên thế giới, hầu hết các nước phát triển đã sử dụng túi ni lơng tự phân huỷ ngay từ những thập niên 30-40 của thế kỷ trước, nhưng ở ta, mọi chuyện gần như mới chỉ bắt đầu. Trong “cuộc chiến” với túi ni lơng, đã cĩ những đơn vị đi tiên phong như Trung tâm Nghiên cứu sản xuất các chế phẩm sinh học thuộc Liên hiệp các hội Khoa học kỹ thuật Việt Nam. Trung tâm này đã sản xuất túi khơng độc từ nguyên liệu polymer thiên nhiên. Cơng ty sản xuất kinh doanh của Người tàn tật Hà Nội cũng mạnh dạn mở một hướng đi mới bằng việc nhập khẩu một dây chuyền sản xuất túi ni lơng tự phân huỷ hiện đại của Đài Loan. Khơng khí cacbonic, khơng metan, khơng dioxin độc hại nhưng sản phẩm làm ra lại khĩ đưa ra thị trường vì giá bán ra cao gấp 3-4 lần túi ni lơng bình thường. Khơng tiêu thụ kịp, những chiếc túi tự tiêu này lâu ngày cũng bị phân huỷ dưới tác động của ánh sáng mặt trời. Trong trường hợp này, gánh nặng kinh doanh khơng đùa với những người “ưa mạo hiểm”.
Ngay cả trên thế giới, việc tìm hướng đi cho vấn đề rác túi ni lơng bằng cách nghiên cứu, sản xuất túi ni lơng tự phân huỷ là một giải pháp tối ưu vì dung hồ được lợi ích kinh tế và vệ sinh mơi trường. Nhưng để thành cơng, trong giai đoạn đầu, những người đi tiên phong cần một chỗ dựa cả về chính sách lẫn ưu đãi về tài chính để họ khơng “đơn độc”. Chia sẻ trách nhiệm với những doanh nghiệp này cũng là cách mà người tiêu dùng nên làm, chẳng hạn như đĩng phí cho những loại túi ni lơng dùng một lần rồi bỏ. Ở các siêu thị tại Pháp, người mua hàng phải trả 5 xu cho một chiếc túi sinh thái được sản xuất từ nguyên liệu tự nhiên. Tiền phí này được tính trực tiếp trên hố đơn tính tiền của siêu thị. Số tiền nhỏ nhoi nhưng khiến người ta nhớ mãi bởi nĩ nhắc nhở người sử dụng về trách nhiệm của mỗi cá nhân với mơi trường.
Nước Anh
Theo Telegraph, xứ Wales sẽ là nơi đầu tiên tại đảo quốc sương mù áp dụng thuế đối với túi nilon đựng hàng hĩa. Cơ quan lập pháp xứ Wales hơm qua thơng báo sắc thuế mới sẽ bắt đầu được áp dụng từ đầu năm 2011. Với mỗi túi nilon người sử dụng phải nộp 15 xu (khoảng 4.500 VNĐ) cho cửa hàng. Số tiền thu được sẽ dành cho các dự án bảo vệ mơi trường.
Những người ủng hộ chủ trương này hy vọng sắc thuế mới sẽ khuyến khích người dân đựng hàng hĩa bằng loại túi sử dụng nhiều lần hoặc cĩ khả năng phân hủy nhanh.
Ảnh minh họa của Telegraph.
Jane Davidson, Bộ trưởng Mơi trường xứ Wales, nĩi: "Những túi nilon bị vứt bỏ là nguồn tài nguyên lãng phí. Chính quyền nhận thấy việc kêu gọi người dân tình nguyện tẩy chay túi nilon khơng phát huy tác dụng đáng kể. Vì thế chúng tơi phải hành động. Ở nhiều nước khác, tình trạng sử dụng túi nilon giảm hẳn khi người dân phải chịu thuế".
Telegraph cho biết, mỗi năm người dân xứ Wales vứt 480 triệu túi nilon. Loại túi này chỉ phân hủy hồn tồn sau ít nhất 1.000 năm.
Ireland đã áp dụng thuế túi nilon từ năm 2002 với mức thuế 15 xu/túi. Kể từ đĩ tới nay số tiền thu được đã đạt 109 triệu bảng (153 triệu USD). Số lượng túi nilon mà người dân Ireland sử dụng giảm tới 90% và chi phí xử lý rác thải cũng giảm rõ rệt.
Nước Pháp
Ở nhiều siêu thị của Pháp, người mua hàng được khuyến khích mua các túi đựng hàng loại lớn và siêu thị sẽ khơng phát các túi nylon đựng hàng cỡ thơng thường nữa. Các túi nylon cỡ lớn này giá rất rẻ (khoảng 0,1 euro, tương đương với 2.000 đồng), cĩ thể sử dụng nhiều lần và khi rách thì cĩ thể đem đến siêu thị để đổi lấy túi mới. Cĩ nhiều chất liệu, loại nylon thơng thường, loại nylon cĩ thể phân huỷ sinh học (biodegrable), loại bằng chất liệu giấy... và các kích cỡ khác nhau tuỳ thuộc vào nhu cầu của người tiêu dùng, của từng gia đình. Chiến dịch này đã rất được người dân Pháp ủng hộ và đang được nhân rộng trên tồn nước Pháp.
. Ấn Độ
Hiện nay ở ẤN ĐỘ nhiều bang của nước này cũng chính phủ cũng đã đưa ra nhiều biện pháp để giảm xử dụng túi nilon, từ năm 2005 nhiều bang của nước này cũng đã đưa ra quyết định cấm sử dụng túi nilon. Tuy nhiên việc xử dụng tui nilon đã trở thành thoi quen của người dân ẤN ĐỘ cho nên việc áp dụng chính sách moi cũng chưa được hiệu quả
Đức
đã cĩ các chủ trương cấm sử dụng túi nilon và khuyến khích người tiêu dùng sử dụng túi bằng giấy và các loại vật liệu thân thiện với mơi trường khác,và tui sinh học là diều mà các nhà kdoa hoc nghĩ đên đầu tiên,bởi vì tính tiện lợi của loại túi này
nhưng vấn đề túi giả túi sinh học đã xuất hiện ,làm ảnh hưởng tới mơi trường và sự tin cậy của người dân
5.3 Tính cần thiết của nghiên cứu
Hiện nay, mỗi ngày số lượng túi nilon được tập trung về bãi rác thành phố Hồ Chí Minh lên tới gần 50 tấn, đĩ là cịn chưa kể tới số túi nilon vứt ở trên đường phố và các cống rãnh. Phần lớn các túi nilon là khơng phân hủy sinh học nên khi lẫn vào đất, nĩ làm giảm sự tăng trưởng của cây trồng, kẹt cống rãnh, khơng thốt nước được gây ra ngập cục bộ, ảnh hưởng gián tiếp tới sức khỏe con người và cảnh quan đơ thị. Nhưng số người cĩ ý thức sử dụng hạn chế sử dụng túi nilon khơng nhiều.
Để gĩp phần bảo vệ mơi trường, nhiều hệ thống siêu thị cũng đã triển khai giải pháp hạn chế sử dụng túi nilon bằng cách thay thế túi nilon thường bằng túi tự phân hủy. Trung bình mỗi ngày tại siêu thị Maximark sử dụng hết 80kg túi nilon phân hủy để đựng đồ cho khách hàng.
Hiện nay, một số siêu thị khác của TP. HCM cũng đang khuyến khích khách hàng dùng túi sử dụng nhiều lần thay cho túi nilon sử dụng một lần. Tuy nhiên, để hạn chế sử dụng túi nilon, nếu chỉ cĩ sự nỗ lực của các doanh nghiệp thơi thì chưa đủ, quan trọng là mỗi người tiêu dùng phải thay đổi thĩi quen đã tồn tại từ rất lâu nay.Nhà nước cần phải đưa ra các biện pháp thuyết phục để người dân thay đổi dần thĩi quen xử dụng túi nilon
Từ những vấn đề trên cho chúng ta thấy được tác hại của túi nilon tới mơi trường như thế nào, nĩ ảnh hưởng trực tiếp đến con người và một tác hại to lớn về sau đĩ là làm thay đổi khí hậu ,gĩp một phần lớn vào việc hủy hoại mơi trường
6. Mục tiêu của đề tài
- Làm quen với các phương pháp đánh giá tác động mơi trường.
- Nhận biết các vấn đề mơi trường.
- Hiểu được cách giải quyết.
- Các vấn đề cịn tồn tại.
- Xác định các ảnh hưởng nhằm đề ra các biện pháp kỹ thuật và quản lý để giảm đến mức thấp nhất các ảnh hưởng xấu và phát huy cao nhất các ảnh hưởng tốt. Một hệ thống ĐTM lý tưởng phải được áp dụng cho tất cả các dự án cĩ ảnh hưởng đáng kể đến mơi trường và xác định rõ ảnh hưởng nào là nghiêm trọng nhất.
7. Nội dung nghiên cứu chính
- Xác định hiện trạng ơ nhiễm mơi trường do túi ni_lơng gây ra.
- Đánh giá tác động mơi trường do các hoạt động chơn lấp chất thải rắn đối với mơi trường;
- Đề xuất các biện pháp cơng nghệ để xử lý ơ nhiễm;
- Đề xuất các biện pháp quản lý phục vụ cho cơng tác bảo vệ mơi trường.
8. Phương pháp nghiên cứu
- Khảo sát thực tế, lấy ý kiến của người dân, người mua hàng về tác hại của việc sử dụng túi ni-lơng.
- Thu thập số liệu từ cơ quan quản lý trực thuộc, tham khảo thơng tin trên các phương tiện thơng tin đại chúng.
- Đánh giá tác động tổng hợp bằng các phương pháp đã học: sơ đồ lưới, bảng liệt kê, ma trận, …
9. Sản phẩm của đề tài
- Ngiên cứu về vấn đề xử dụng túi ni-long hiện nay của người dân trên địa bàn thành phố HỒ CHÍ MINH ,trình bày dưới dạng báo cáo do bộ tài nguyên và mơi trường phê duyệt
10. Dự toán kinh phí
-Khoảng 50 nghìn đồng tiền truy cập internet và 100 nghìn đồng tiền xăng đi khảo sát
11. Tiến độ thực hiện
Nội dung
Tuần 1
Tuần 2
Thu thập số liệu
Khảo sát khu vực ơ nhiễm
Nghiên cứu những ảnh hưởng của ơ nhiễm do tui nilon
Xây dựng báo cáo tổng hợp
Nộp bài
PHẦN III
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU CHÍNH
3.1 Giới thiệu về thành phố HỒ CHÍ MINH
Thành phố Hồ Chí Minh là thành phố đơng dân nhất, đồng thời cũng là trung tâm kinh tế, văn hĩa, giáo dục quan trọng của Việt Nam.
Nằm trong vùng chuyển tiếp giữa miền Đơng Nam Bộ và Đồng bằng sơng Cửu Long, Thành phố Hồ Chí Minh hình thành nhờ cơng cuộc khai phá miền Nam của nhà Nguyễn. Năm 1698, Nguyễn Hữu Cảnh cho lập phủ Gia Định, đánh dấu sự ra đời thành phố. Khi người Pháp vào Đơng Dương, để phục vụ cơng cuộc khai thác thuộc địa, thành phố Sài Gịn được thành lập và nhanh chĩng phát triển, trở thành một trong hai đơ thị quan trọng nhất Việt Nam, được mệnh danh Hịn ngọc Viễn Đơng hay Paris Phương Đơng. Sài Gịn là thủ đơ của Liên Bang Đơng Dương giai đoạn 1887-1901. Năm 1954, Sài Gịn trở thành thủ đơ của Việt Nam Cộng hịa và thành phố hoa lệ này trở thành một trong những đơ thị quan trọng của vùng Đơng Nam Á. Việt Nam Cộng hịa sụp đổ năm 1975, lãnh thổ Việt Nam hồn tồn thống nhất. Ngày 2 tháng 7 năm 1976, Quốc hội nước Việt Nam thống nhất quyết định đổi tên Sài Gịn thành "Thành phố Hồ Chí Minh", theo tên vị Chủ tịch nước đầu tiên của Việt Nam Dân chủ Cộng hịa.
Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay bao gồm 19 quận và 5 huyện, tổng diện tích 2.095,01 km². Theo kết quả điều tra dân số chính thức vào thời điểm 0 giờ ngày 1 tháng 4 năm 2009 thì dân số thành phố là 7.123.340 người (chiếm 8,30% dân số Việt Nam)[1], mật độ trung bình 3.401 người/km². Tuy nhiên nếu tính những người cư trú khơng đăng ký thì dân số thực tế của thành phố vượt trên 8 triệu người. Giữ vai trị quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, Thành phố Hồ Chí Minh chiếm 20,2 % tổng sản phẩm và 27,9 % giá trị sản xuất cơng nghiệp của cả quốc gia. Nhờ điều kiện tự nhiên thuận lợi, Thành phố Hồ Chí Minh trở thành một đầu mối giao thơng quan trọng của Việt Nam và Đơng Nam Á, bao gồm cả đường bộ, đường sắt, đường thủy và đường khơng. Vào năm 2007, thành phố đĩn khoảng 3 triệu khách du lịch quốc tế, tức 70 % lượng khách vào Việt Nam. Các lĩnh vực giáo dục, truyền thơng, thể thao, giải trí, Thành phố Hồ Chí Minh đều giữ vai trị quan trọng bậc nhất.
Tuy vậy, Thành phố Hồ Chí Minh đang phải đối diện với những vấn đề của một đơ thị lớn cĩ dân số tăng quá nhanh. Trong nội ơ thành phố, đường xá trở nên quá tải, thường xuyên ùn tắc. Hệ thống giao thơng cơng cộng kém hiệu quả. Mơi trường thành phố cũng đang bị ơ nhiễm do phương tiện giao thơng, các cơng trường xây dựng và cơng nghiệp sản xuất.
3.2 Vị trí địa lí
Thành phố Hồ Chí Minh cĩ tọa độ 10°10' – 10°38' Bắc và 106°22' – 106°54' Đơng, phía Bắc giáp tỉnh Bình Dương, Tây Bắc giáp tỉnh Tây Ninh, Đơng và Đơng Bắc giáp tỉnh Đồng Nai, Đơng Nam giáp tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Tây và Tây Nam giáp tỉnh Long An và Tiền Giang. Nằm ở miền Nam Việt Nam, Thành phố Hồ Chí Minh cách Hà Nội 1.730 km theo đường bộ, trung tâm thành phố cách cách bờ biển Đơng 50 km theo đường chim bay. Với vị trí tâm điểm của khu vực Đơng Nam Á, Thành phố Hồ Chí Minh là một đầu mối giao thơng quan trọng về cả đường bộ, đường thủy và đường khơng, nối liền các tỉnh trong vùng và cịn là một cửa ngõ quốc tế.
Nằm trong vùng chuyển tiếp giữa miền Đơng Nam Bộ và đồng bằng sơng Cửu Long, địa hình thành phố thấp dần từ Bắc xuống Nam và từ Đơng sang Tây. Vùng cao nằm ở phía Bắc - Đơng Bắc và một phần Tây Bắc, trung bình 10 đến 25 mét. Xen kẽ cĩ một số gị đồi, cao nhất lên tới 32 mét như đồi Long Bình ở quận 9. Ngược lại, vùng trũng nằm ở phía Nam - Tây Nam và Ðơng Nam thành phố, cĩ độ cao trung bình trên dưới 1 mét, nơi thấp nhất 0,5 mét. Các khu vực trung tâm, một phần các quận Thủ Đức, quận 2, tồn bộ huyện Hĩc Mơn và quận 12 cĩ độ cao trung bình, khoảng 5 tới 10 mét.
3.3 Điều kiện tự nhiên
Nằm trong vùng nhiệt đới giĩ mùa cận xích đạo, Thành phố Hồ Chí Mình cĩ nhiệt độ cao đều trong năm và hai mùa mưa – khơ rõ rệt. Mùa mưa được bắt đầu từ tháng 5 tới tháng 11, cịn mùa khơ từ tháng 12 tới tháng 4 năm sau. Trung bình, Thành phố Hồ Chí Minh cĩ 160 tới 270 giờ nắng một tháng, nhiệt đĩ trung bình 27 °C, cao nhất lên tới 40 °C, thấp nhất xuống 13,8 °C. Hàng năm, thành phố cĩ 330 ngày nhiệt độ trung bình 25 tới 28 °C.
Thành phố Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng bởi hai hướng giĩ chính là giĩ mùa Tây – Tây Nam và Bắc – Ðơng Bắc. Giĩ Tây – Tây Nam từ Ấn Độ Dương, tốc độ trung bình 3,6 m/s, vào mùa mưa. Giĩ Giĩ Bắc – Ðơng Bắc từ biển Đơng, tốc độ trung bình 2,4 m/s, vào mùa khơ. Ngồi ra cịn cĩ giĩ tín phong theo hướng Nam – Đơng Nam vào khoảng tháng 3 tới tháng 5, trung bình 3,7 m/s. Cĩ thể nĩi Thành phố Hồ Chí Minh thuộc vùng khơng cĩ giĩ bão. Cũng như lượng mưa, độ ẩm khơng khí ở thành phố lên cao vào mùa mưa, 80%, và xuống thấp vào mùa khơng, 74,5%. Trung bình, độ ẩm khơng khí đạt bình
quân/năm 79,5%.
3.4 Kinh tế
Thành phố Hồ Chí Minh giữ vai trị đầu tàu kinh tế của cả Việt Nam. Thành phố chiếm 0,6% diện tích và 7,5% dân số của Việt Nam nhưng chiếm tới 20,2% tổng sản phẩm, 27,9% giá trị sản xuất cơng nghiệp và 34,9% dự án nước ngồi.
Nền kinh tế của Thành phố Hồ Chí Minh đa dạng về lĩnh vực, từ khai thác mỏ, thủy sản, nơng nghiệp, cơng nghiệp chế biến, xây dựng đến du lịch, tài chính... Cơ cấu kinh tế của thành phố, khu vực nhà nước chiếm 33,3%, ngồi quốc doanh chiếm 44,6%, phần cịn lại là khu vực cĩ vốn đầu tư nước ngồi. Về các ngành kinh tế, dịch vụ chiếm tỷ trọng cao nhất: 51,1%. Phần cịn lại, cơng nghiệp và xây dựng chiếm 47,7%, nơng nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản chỉ chiếm 1,2%.
Về thương mại, Thành phố Hồ Chí Minh cĩ một hệ thống trung tâm mua sắm, siêu thị, chợ đa dạng. Chợ Bến Thành là biểu tượng về giao lưu thương mại từ xa xưa của thành phố, hiện nay vẫn giữ một vai trị quan trọng. Những thập niên gần đây, nhiều trung tâm thương mại hiện đại xuất hiện như Saigon Trade Centre, Diamond Plaza... Mức tiêu thụ của Thành phố Hồ Chí Minh cũng cao hơn nhiều so với các tỉnh khác của Việt Nam và gấp 1,5 lần thủ đơ Hà Nội.
Tuy vậy, nền kinh tế của Thành phố Hồ Chí Minh vẫn phải đối mặt với nhiều khĩ khăn. Tồn thành phố chỉ cĩ 10% cơ sở cơng nghiệp cĩ trình độ cơng nghệ hiện đại. Trong đĩ, cĩ 21/212 cơ sở ngành dệt may, 4/40 cơ sở ngành da giày, 6/68 cơ sở ngành hĩa chất, 14/144 cơ sở chế biến thực phẩm, 18/96 cơ sở cao su nhựa, 5/46 cơ sở chế tạo máy... cĩ trình độ cơng nghệ, kỹ thuật sản xuất tiên tiến. Cơ sở hạ tầng của thành phố lạc hậu, quá tải, chỉ giá tiêu dùng cao, tệ nạn xã hội, hành chính phức tạp... cũng gây khĩ khăn cho nền kinh tế. Ngành cơng nghiệp thành phố hiện đang hướng tới các lĩnh vực cao, đem lại hiệu quả kinh tế hơn.
3.5 Xã hội
Dân cư.
Theo kết quả điều tra dân số ngày 01/04/2009 Thành phố Hồ Chí Minh cĩ dân số 7.123.340 người, gồm 1.812.086 hộ dân, bình quân 3,93 người/hộ. Phân theo giới tính: Nam cĩ 3.425.925 người chiếm 48,1%, nữ cĩ 3.697.415 người chiếm 51,9% . Dân số thành phố tăng nhanh
Sự phân bố dân cư ở Thành phố Hồ Chí Minh khơng đồng đều, ngay cả các quận nội ơ. Trong khi các quận 3, 4, 5 hay 10, 11 cĩ mật độ lên tới trên 40.000 người/km² thì các quận 2, 9, 12 chỉ khoảng 2.000 tới 6.000 người/km². Ở các huyện ngoại thành, mật độ dân số rất thấp, như Cần Giờ chỉ cĩ 96 người/km². Về mức độ gia tăng dân số, trong khi tỷ lệ tăng tự nhiên 1,07% thì tỷ lệ tăng cơ học lên tới 1,9%. Theo ước tính năm 2005, trung bình mỗi ngày cĩ khoảng 1 triệu khách vãng lai tại Thành phố Hồ Chí Minh. Đến năm 2010, cĩ số này cịn cĩ thể tăng lên tới 2 triệu.
Y tế
Thành phố Hồ Chí Minh, với dân số đơng, mật độ cao trong nội thành, cộng thêm một lượng lớn dân vãng lai, đã phát sinh nhu cầu lớn về y tế và chăm sĩc sức khỏe. Các tệ nạn xã hội, như mại dâm, ma túy, tình trạng ơ nhiễm mơi trường... gây ảnh hưởng lớn tới sức khỏe dân cư thành phố. Những bệnh truyền nhiễm phổ biến ở các nước đang phát triển như sốt rét, sốt xuất huyết, tả, thương hàn... hay các bệnh của những quốc gia cơng nghiệp phát triển, như tim mạch, tăng huyết áp, ung thư, tâm thần, bệnh nghề nghiệp... đều xuất hiện ở Thành phố Hồ Chí Minh. Tuổi thọ trung bình của nam giới ở thành phố là 71,19, con số ở nữ giới là 75,00.
Vào năm 2005, Thành phố Hồ Chí Minh cĩ 21.780 nhân viên y tế, trong đĩ cĩ 3.399 bác sĩ. Tỷ lệ bác sĩ đạt 5.45 trên 10 nghìn dân, giảm so với con số 7.31 của năm 2002. Tồn thành phố cĩ 19.442 giường bệnh, 56 bệnh viện, 317 trạm y tế và 5 nhà hộ sinh. Thế nhưng mạng lưới bệnh viện chưa được phân bổ hợp lý, tập trung chủ yếu trong nội ơ. Theo con số năm 1994, chỉ riêng Quận 5 cĩ tới 13 bệnh viện với 5.290 giường, chiếm 37% số giường bệnh tồn thành phố. Bù lại, hệ thống y tế cộng đồng tương đối hồn chỉnh, tất cả các xã, phường đều cĩ trạm y tế. Bên cạnh hệ thống nhà nước, thành phố cũng cĩ 2.303 cơ sở y tế tư nhân và 1.472 cơ sở dược tư nhân, gĩp phần giảm áp lực cho các bệnh viện lớn. Cũng tương tự hệ thống y tế nhà nước, các cơ sở này tập trung chủ yếu trong nội ơ và việc đảm bảo các nguyên tắc chuyên mơn chưa được chặt chẽ.
Sở Y tế thành phố hiện nay quản lý 8 bệnh viện đa khoa và 20 bệnh viện chuyên khoa. Nhiều bệnh viện của thành phố đã liên doanh với nước ngồi để tăng chất lượng phục vụ.
Giáo dục
Về mặt hành chính, Sở Giáo dục Thành phố Hồ Chí Minh chỉ quản lý các cở sở giáo dục từ bậc mầm non tới phổ thơng. Các trường đại học, cao đẳng phần lớn thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam. Trong năm học 2008–2009, tồn thành phố cĩ 638 cơ sở giáo dục mầm non, 467 trường cấp I, 239 trường cấp II, 81 trường cấp III và 55 trường cấp II, III. Ngồi ra, theo con số từ 1994, Thành phố Hồ Chí Minh cịn cĩ 20 trung tâm xĩa mù chữ, 139 trung tâm tin học, ngoại ngữ và 12 cơ sở giáo dục đặc biệt. Tổng cộng 1.308 cơ sở giáo dục của thành phố cĩ 1.169 cơ sở cơng lập và bán cơng, cịn lại là các cơ sở dân lập, tư thục.
Giáo dục bậc đại học, trên địa bàn thành phố cĩ trên 80 trường, đa số do Bộ Giáo dục và Đào tạo quản lý, trong đĩ chỉ cĩ 2 trường đại học cơng lập (đại học Sài Gịn và đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch) do thành phố quản lý. Là thành phố lớn nhất Việt Nam, Thành phố Hồ Chí Minh cũng là trung tâm giáo dục bậc đại học lớn bậc nhất, cùng với Hà Nội. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh với năm đại học thành viên. Nhiều đại học lớn khác của thành phố như Đại học Kiến trúc, Đại học Y Dược, Đại học Ngân hàng, Đại học Luật, Đại học Bách khoa, Đại học Kinh tế... đều là các đại học quan trọng của Việt Nam. Trong số học sinh, sinh viên đang theo học tại các trường đại học, cao đẳng của thành phố, 40% đến từ các tỉnh khác của quốc gia.
Mặc dù đạt được những bước tiến quan trọng trong thời gian gần đây nhưng giáo dục Thành phố Hồ Chí Minh vẫn cịn nhiều khiếm khuyết. Trình độ dân trí chưa cao và chênh lệch giữa các thành phần dân cư, đặc biệt là ngoại ơ so với nội ơ. Tỷ lệ trẻ em người Hoa khơng biết chữ vẫn cịn nhiều, gấp 13 lần trẻ em người Kinh. Giáo dục đào tạo vẫn chưa tương xứng với nhu cầu của xã hội. Hệ thống cơ sở vật chất ngành giáo dục thành phố cịn kém. Nhiều trường học sinh phải học ba ca. Thu nhập của giáo viên chưa cao, đặc biệt ở các huyện ngoại thành.
4. Hiện trạng ơ nhiễm túi nilon tại thành phố HỒ CHÍ MINH
Túi nilon đã trở thành vấn nạn của các thành phố lớn cũng như ở nơng thơn. Hầu như khơng cĩ con đường, ngõ phố hay lối xĩm nào khơng cĩ túi nilon phất phơ, vương vãi. Cảnh tượng các ao hồ hay sơng ngịi bồng bềnh những túi rác đã trở nên quá quen thuộc.
Tuy nhiên túi nilon lại mang tiềm ẩn ơ nhiễm mơi trường rất độc hại và nĩ cĩ 1 độ bền cơ học rất cao nên rất khĩ để phân hủy. Vì thế, túi nilon được xem là một trong những loại rác khĩ phân hủy nhất thế giới. Những chiếc túi bồng bềnh làm tắc nghẽn sơng hồ, cống rãnh, làm chết nhiều lồi thủy sinh, làm đất "ngạt thở" và là nơi trú ngụ và phát tán của cơn trùng, gây ơ nhiễm nặng nề. Việc sử dụng tứi nilon để đựng đồ ăn, đặc biệt là đồ ăn nĩng cĩ thể gây hại cho sức khỏe cho con người. Những chất độc hại từ túi nilon làm mới, đặc biệt là tái chế, càng nguy hiểm hơn. Ung thư càng ngày càng nhiều, nguyên nhân từ những việc mà chúng ta cĩ thể tránh được thì hãy nên tránh.
Túi nilon tại các kênh rạch
Hàng năm, Việt Nam sản xuất hàng nghìn tấn túi nilon các loại, xếp vào hàng các quốc gia “xài sang” túi nilon trên thế giới. Tính trung bình mỗi gia đình Việt Nam hàng ngày sử dụng khơng dưới 10 túi nilon các loại. Túi nilon được sử dụng hàng ngày xong được vứt vào sọt rác, xuống cống, mương thốt nước, vườn hoa, vỉa hè, lịng đường... Bất cứ chỗ nào cĩ bĩng dáng con người là nơi đĩ túi nilon được “hào phĩng” thả về với giĩ, trả lại thiên nhiên một cách vơ tư.
Đây là cảnh tượng thường thấy khắp các sơng, hồ
5. Đánh Giá Tác Động Mơi Trường Do Túi Nilon Gây Ra
Với số lượng túi nilon thải ra mơi trường quá nhiều hiện nay thì vấn dề ơ nhiễm mơi trường đang là một vấn đề quan trọng cần được giải quyết.
-Ảnh hưởng tới mơi trường nước
Túi nilon thải ra kênh rạch làm tác nghẽn dịng chảy , ảnh hưởng tới hoạt động sống của con người ,cá chết hàng loạt ảnh hưởng tới hệ sinh thái , Túi nilon kẹt sâu trong cống rãnh, kênh rạch cịn làm tắc nghẽn cống, rãnh, kênh, rạch gây ứ đọng nước thải và gây ngập úng. Các điểm ứ đọng nước thải sẽ là nơi sản sinh ra nhiều vi khuẩn gây bệnh
-Ảnh hưởng tới mơi trường đất
Túi nilon phân hủy rất chậm nên khi chơn vào đất sẽ làm cho nền đất ở đĩ yếu , sau một thời gian các chất hĩa học độc hại trong túi nilon sẽ làm ơ nhiễm mơi trường đất, làm cây cối bị chết, túi nilon lẫn vào đất sẽ ngăn cản ơxi đi qua đất, gây xĩi mịn đất, làm cho đất khơng giữ được nước, dinh dưỡng, từ đĩ làm cho cây trồng chậm tăng trưởng
-Ảnh hưởng tới sức khỏe
Một tác hại nữa đĩ là việc xử lý túi nilon là một bài tốn khĩ giải. Các nhà khoa học đã chỉ ra rằng, việc chơn lấp túi nilon sẽ ảnh hưởng tới mơi trường đất, nước do nilon khĩ phân hủy, cịn đốt chúng sẽ tạo ra khí thải cĩ chất độc dioxin và Furan gây ngộ độc, ảnh hướng đến tuyến nội tiết, gây ung thư, giảm khả năng miễn dịch, rối loạn chức năng tiêu hĩa và các dị tật bẩm sinh ở trẻ nhỏ… Theo các nhà khoa học, trong một số loại túi nilon cĩ lẫn lưu huỳnh, dầu hỏa nguyên chất, khi bị đốt cháy, gặp hơi nước sẽ tạo thành axit sunfuric dưới dạng các cơn mưa axit rất cĩ hại cho phổi.
-Mất cảnh quan mơi trường
Ngồi ra, bên cạnh ảnh hưởng tới nguồn nước, đất, sức khỏe túi nilon cịn gây mất cảnh quan mơi trường.
Túi nilon ở khắp mọi nơi
6. Giải pháp khắc phục đang thực hiện và dự định sẽ thực hiện.
Tác hại của túi ni-lơng đối với mơi trường gần đây được nhắc đến rất nhiều và khơng cịn là điều quá xa lạ đối với tồn xã hội. Cần giảm thiểu sử dụng túi ni-lơng – đĩ là điều khơng phải bàn cãi, nhưng giải pháp hữu hiệu để giảm thiểu sử dụng túi ni-lơng vẫn là vấn đề mà cả những nhà hoạt động vì mơi trường, các nhà hoạch định chính sách, các nhà khoa học và người dân cịn đang tranh luận. Nghiêm cấm sản xuất và buơn bán túi ni-lơng
Tác hại nghiêm trọng của túi ni-lơng đối với mơi trường khiến nhiều nước trên thế giới đã nghiêm cấm sản xuất và buơn bán túi ni-lơng ở các mức độ và quy mơ khác nhau, tùy điều kiện kinh tế xã hội của mình. Thủ đơ Dhaka của Bangladesh là thành phố đầu tiên trên thế giới cấm sử dụng túi ni-lơng từ năm 2002; những chiến dịch tương tự như cấm hoặc hạn chế sử dụng cũng diễn ra ở Rwanda, Đài Loan, Singapore, Israel, Ấn Độ, Botswana, Eritrea, Kenya, Tanzania, Nam Phi, Italia, Úc, Mỹ, Anh, Pháp, Ailen… Mới đây nhất, Trung Quốc cũng ra lệnh cấm sử dụng túi ni-lơng siêu mỏng trong một nỗ lực giảm ơ nhiễm và tiết kiệm nguồn tài nguyên dầu mỏ. Con số khiêm tốn 7% trong số 1077 độc giả tham gia cuộc thăm dị của ThienNhien.Net ủng hộ giải pháp nghiêm cấm sản xuất và buơn bán túi ni-lơng phần nào cho thấy những khĩ khăn trong tính khả thi của giải pháp này tại Việt Nam.
Khĩ khăn này xuất phát từ rất nhiều lý do: từ phía người sản xuất đến người tiêu dùng, từ lý do kinh tế đến kỹ thuật cơng nghệ. Với người sản xuất, túi ni-lơng là mặt hàng cĩ kỹ thuật sản xuất đơn giản, nguồn cung vật liệu dồi dào và rẻ; với người tiêu dùng, nĩ là sản phẩm tiện dụng, kinh tế. Hiện nay vẫn chưa cĩ sản phẩm nào cĩ thể cạnh tranh với túi ni-lơng về độ nhẹ, bền, chịu nước, kỹ thuật sản xuất đơn giản, giá thành thấp, tiện lợi...
Chính vì thế cĩ thể nĩi giải pháp cấm hồn tồn việc sản xuất và sử dụng túi ni-lơng là khĩ khả thi. Tuy cấm sản xuất và tiêu dùng túi ni-lơng hồn tồn là việc khĩ làm một sớm một chiều nhưng thiết nghĩ, bước đầu chúng ta cĩ thể khoanh vùng cấm tiêu dùng và sử dụng. Thực tế cũng đã cĩ những giải pháp đề nghị cấm sử dụng túi ni-lơng ở các hệ thống siêu thị, trung tâm thương mại. Giải pháp này được coi là cĩ cơ sở và khả thi vì những khu vực đĩ là nơi mà người tiêu dùng cĩ điều kiện và cũng cĩ ý thức hơn để hy sinh chút ít lợi ích kinh tế trước mắt vì lợi ích bền vững của mơi trường.
Thực tế cho thấy chương trình "Metro cùng khách hàng bảo vệ mơi trường" do hệ thống siêu thị Metro khởi xướng năm 2007 nhằm hạn chế lượng túi ni-lơng thải ra mơi trường đã rất thành cơng mặc dù lúc đầu cũng vấp phải một số phản ứng khơng đồng tình từ khách hàng. Thực hiện chương trình này, Metro đã bán cho khách hàng những chiếc túi được làm từ sợi tổng hợp cĩ thể sử dụng nhiều lần thay cho những chiếc túi ni-lơng mỏng phát miễn phí.
Nâng cao nhận thức cua người tieu dùng
Cùng với sự phát triển cua kinh tế xã hội nhận thúc của người dân cũng ngày được nâng cao. Rất nhiều người nhận thức được tác hại của túi nilon với mơi trường,nhưng lại chưa cĩ hành động cụ thể để giảm thiểu,hạn chế xử dụng nĩ. Nhiệm vụ của tuyên truyền chính là nâng cao nhận thức và biến nhận thức thành hành đọng cụ thể để bảo vệ mơi trưởng
Việc thay đổi thĩi quen là vơ cùng khĩ khăn nhưng rõ ràng chúng ta cĩ thể làm nhiều hơn những gì đã làm được để hạn chế thĩi quen ấy. việc tuyên truyền hạn chế xử dụng túi nilon và định hướng cho người tiêu dùng thĩi quen dùng túi một cách tiết kiệm hợp lí cần được tiến hành rộng rãi
Đánh thuế cao lên mặt hàng này
Đánh thuế vào mặt hàng túi nilon,mức thuế sẽ được cộng vào giá thành của túi và người tiêu dùng sẽ phải trả khi mua hàng , mức thuế sẽ được tính theo từng loại túi
Thay thế bằng túi phân hủy sinh hoc
Túi phân hủy sinh học đang là vấn đề được các nhà khoa học quan tam rất nhiều đến việc bảo vê mơi trường
Túi phân huỷ sinh học được kỳ vọng là giải pháp giúp giảm thiểu ơ nhiễm mơi trường và khắc phục tình trạng thiếu đất chơn lấp rác thải nilon. Song nạn hàng giả và sự thiếu rõ ràng thơng tin về nhãn mác đã gây khĩ khăn cho cả người tiêu dùng, các nhà sản xuất chân chính lẫn cơ quan quản lý. Câu chuyện túi nilon và túi phân hủy sinh học vẫn loanh quoanh, khĩ xử ngay cả ở những nước phát triển như khu vực Bắc Mỹ
Tái chế túi nilon
Quản lí các cơ sở tái chế túi nilon một cách nghiêm ngặt để tránh tình trạng các cơ sở tái chế làm khơng đúng quy trình sản xuất ,túi vẫn cịn bẩn gây ảnh hưởng tới người xử dụng
Tính phí thu gom và tái chế túi ni lơng
Người sản xuất túi ni lơng phải trả và khơng được chuyển sang người tiêu dùng thơng qua giá sản phẩm. . Khuyến khích các siêu thị, trung tâm thương mại cam kết tham gia chương trình giảm sử dụng túi ni lơng đựng hàng. .Tuyên truyền giảm sử dụng túi ni lơng và định hướng người tiêu dùng thĩi quen dùng túi sử dụng nhiều lần. . Lập hệ thống thu gom và tái chế túi ni lơng.
7. Kết luận và kiến nghị
7.1. Kết luận
Hiện nay ,dù các nhà quản lí ở TP.HCM đã cĩ rất nhiều giải pháp nhằm giảm thiểu xử dụng túi nilon,tuy nhiên những giải pháp đĩ cũng chưa khắc phục được tình trạng hiện tại.
Tại Việt Nam, theo một khảo sát của cơ quan mơi trường, việc sử dụng vơ tội vạ túi nilon dường như thành thĩi quen khĩ bỏ của người Việt Nam. Trung bình một người/năm(Việt Nam) sử dụng ít nhất 30kg các sản phẩm cĩ nguồn gốc từ nhựa. Từ 2005 đến nay, con số lên tới 35 kg/người/năm. Năm 2000, trung bình một ngày, Việt Nam xả khoảng 800 tấn rác nhựa ra mơi trường. Đến nay, con số đĩ là 2.500 tấn/ngày và cĩ thể cịn hơn. Theo ngành mơi trường, nhu cầu về vốn đầu tư bảo vệ mơi trường của Việt Nam là 85.000 tỷ đồng. Trong số tiền trên, cĩ đến vài trăm tỷ được sử dụng để khắc phục những thiệt hại do đồ nhựa, túi nilon thải ra mơi trường.
7.2 Kiến nghị
Cơng tác quản lý mơi trường phải chặt chẽ, tăng cường kiểm tra, giám sát các hoạt xử dụng túi nilon của người dân.
Tìm ra những cơng nghệ mới, phát triển khoa học kĩ thuật tiên tiến nhằm phục vụ cho cơng tác bảo vệ mơi trường.
Mỗi người hãy tập thĩi quen hạn chế sử dụng túi nilon khi khơng thật cần thiết, gĩp phần hạn chế số lượng túi nilon thải ra mơi trường hằng ngày.
Giải quyết vấn đề rác túi nilon bằng cách nghiên cứu, sản xuất túi nilon tự phân huỷ là một giải pháp khả thi cao, dung hồ được lợi ích kinh tế và vệ sinh mơi trường..
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Nhóm 5.doc