Tài liệu Đề tài Nghiên cứu gây tê đám rối thần kinh cánh tay đường gian cơ bậc thang bằng lidocain phối hợp với dexamethason trong phẫu thuật chi trên – Phạm Văn Quỳnh: Y HỌC THỰC HÀNH (905) – SỐ 2/2014
6
vụ cho cấp cứu tai nạn thương tích giống như những
đề xuất của Ngô Mạnh Quân, Nguyễn Anh Trí và
nhiều tác giả trong và ngoài nước [1], [3], [6], [10].
KẾT LUẬN
Trước năm 2010, Nghệ An vẫn còn tình trạng bán
máu chuyên nghiệp, nhưng từ khi thành lập Trung
tâm Huyết học- Truyền máu Tỉnh Nghệ An thì công
tác thu gom máu tình nguyện tại Trung tâm từ năm
2010 – 2013 có những bước phát triển đáng kể,
lượng máu tình nguyện Trung tâm thu gom năm 2013
tăng gấp 2,65 lần năm 2010, và không còn tình trạng
bán máu chuyên nghiệp trên địa bàn.
Trước năm 2010, phong trào hiến máu của nhân
dân tỉnh Nghệ An chưa sâu rộng, hầu hết các huyện
đã tổ chức được hiến máu tình nguyện với tỷ lệ tăng
gấp 7,3 lần so với năm 2010. Đặc biệt, các huyện
vùng miền núi cao đã tổ chức được phong trào hiến
máu tình nguyện từ năm 2012.
Những trường Đại học, Cao đẳng, Trung cấp đã
thành lập được câu lạc bộ hiến máu tình nguyện thì
phong trào hiế...
4 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 07/07/2023 | Lượt xem: 285 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Nghiên cứu gây tê đám rối thần kinh cánh tay đường gian cơ bậc thang bằng lidocain phối hợp với dexamethason trong phẫu thuật chi trên – Phạm Văn Quỳnh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y HỌC THỰC HÀNH (905) – SỐ 2/2014
6
vụ cho cấp cứu tai nạn thương tích giống như những
đề xuất của Ngô Mạnh Quân, Nguyễn Anh Trí và
nhiều tác giả trong và ngoài nước [1], [3], [6], [10].
KẾT LUẬN
Trước năm 2010, Nghệ An vẫn còn tình trạng bán
máu chuyên nghiệp, nhưng từ khi thành lập Trung
tâm Huyết học- Truyền máu Tỉnh Nghệ An thì công
tác thu gom máu tình nguyện tại Trung tâm từ năm
2010 – 2013 có những bước phát triển đáng kể,
lượng máu tình nguyện Trung tâm thu gom năm 2013
tăng gấp 2,65 lần năm 2010, và không còn tình trạng
bán máu chuyên nghiệp trên địa bàn.
Trước năm 2010, phong trào hiến máu của nhân
dân tỉnh Nghệ An chưa sâu rộng, hầu hết các huyện
đã tổ chức được hiến máu tình nguyện với tỷ lệ tăng
gấp 7,3 lần so với năm 2010. Đặc biệt, các huyện
vùng miền núi cao đã tổ chức được phong trào hiến
máu tình nguyện từ năm 2012.
Những trường Đại học, Cao đẳng, Trung cấp đã
thành lập được câu lạc bộ hiến máu tình nguyện thì
phong trào hiến máu bền vững và ổn định nguồn máu
cung cấp hơn những trường chưa thành lập được
câu lạc bộ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Văn Bé và CS (1996) Khảo sát nguồn cho
máu tình nguyện tại TP Hồ Chí Minh. Tạp chí Y học Việt
Nam số 5/1996, trang 31 – 34.
2. Trần Thị Chi (2008). Tình hình hiến máu tình
nguyện tại Khánh Hòa trong 11 năm (1997 – 2007). Tạp
chí Y học Việt Nam số 2/ 2008, trang 542 – 547.
3. Trương Thị Kim Dung (2008). Tình hình thu nhận
và cung cấp máu tại BV Truyền máu Huyết học TP Hồ
Chí Minh. Tạp chí Y học Việt Nam số 2/2008, trang 579
– 584.
4. Nguyễn Văn Nhữ, Ngô Mạnh quân, Nguyễn Anh
Trí(2012), Khoa huyết học - tuyền máu các bệnh viện
Tỉnh/ Thành phố với công tác xây dựng và duy trì nguồn
người hiến máu tại địa phương, Một số chuyên đè huyết
học - truyền máu- Bộ Y Tế, 32-39.
5. Đỗ Trung Phấn (1995). Cung cấp máu và an toàn
truyền máu là hai nhiệm vụ khẩn cấp hiện nay. Tạp chí
số 9/1995, trang 167 – 170.
6. Ngô Mạnh quân, Nguyễn Anh Trí, Nguyễn Đức
Thuận (2011), xây dựng lực lượng hiến máu dự bị thực
chất, hiệu quả và bền vững, Tạp chí y học, 11/2011, Hà
Nội.
7. Ngô Mạnh quân, Chứ Nhật Hơp, Nguyễn Đức
Thuận, Nguyễn Anh Trí (2012), tình nguyện viên với
dịch vụ truyền máu, Một số chuyên đè huyết học - truyền
máu- Bộ Y Tế, 40- 47.
8. Trần Ngọc Quế, Bùi Thị Mai An, Nguyễn Anh Trí
(2012), Lịch sử phát triển và những vấn đề của truyền
máu ngày nay, Một số chuyên đè huyết học - truyền
máu- Bộ Y Tế, 48-63.
9. World Health Organization, internationnal
Federation of red Cross and Red Crescent Sociaties
(2010), Towards 100% Voluntery Blood Donation, A
Global For Action.
NGHIÊN CỨU GÂY TÊ ĐÁM RỐI THẦN KINH CÁNH TAY ĐƯỜNG GIAN
CƠ BẬC THANG BẰNG LIDOCAIN PHỐI HỢP VỚI DEXAMETHASON
TRONG PHẪU THUẬT CHI TRÊN
PHẠM VĂN QUỲNH, TRỊNH XUÂN TRƯỜNG
Viện quân y 354
HOÀNG VĂN CHƯƠNG, NGUYỄN NGỌC THẠCH
Viện quân y 103
TÓM TẮT
Qua nghiên cứu gây tê đám rối thần kinh cánh tay
(ĐRTKCT) đường gian cơ bậc thang trong phẫu thuật
chi trên ở 80 bệnh nhân được chia làm 2 nhóm: nhóm
1 (n=40): gây tê ĐRTKCT bằng hỗn hợp lidocain
7mg/kg với dexamethason 4mg và nhóm 2 (n=40):
gây tê ĐRTKCT bằng hỗn hợp lidocain 7mg/kg với
150g adrenalin; chúng tôi nhận thấy: gây tê ĐRTKCT
đường gian cơ bậc thang ở nhóm 1 đạt kết quả vô
cảm và giảm đau sau phẫu thuật tốt hơn nhóm 2.
Thời gian tiềm tàng ở nhóm 1 (8,30 ± 1,28 phút) ngắn hơn
so với nhóm 2 (13,45 ± 2,06 phút) (p < 0,05). Thời gian
vô cảm và giảm đau sau phẫu thuật ở nhóm 1 (174,87
± 11,06 phút) dài hơn so với nhóm 2 (87,75 ± 17,13
phút) (p<0,05). Tác dụng không mong muốn chỉ gặp
hội chứng Claude Bernard Horner 5% ở nhóm 1 và
2,5% ở nhóm 2 (p>0,05)
Từ khóa: Gây tê đám rối thần kinh cánh tay,
dexamethason.
SUMMARY
STUDYING INTERSCALEN BRACHIAL PLEXUS
ANESTHESIA WITH ADMIXTURE OF LIDOCAINE AND
DEXAMETHASONE IN UPPER LIMB SURGERIES
Through studying interscalen brachial plexus
anesthesia in upper limb surgies in 80 patients
divided into two groups: the first group (n=40):
brachial plexus anesthesia with admixture of lidocaine
7mg/kg and dexamethasone 4mg and the second
group (n=40): brachial plexus anesthesia with
admixture of lidocaine 7mg/kg and adrenaline 150µg,
we found: interscalen brachial plexus anesthesia in
the first group had better results of anesthesia and
postoperative analgesia than in the second group.
Onset of the first group (8.30 ± 1.28 min) was shorter
than the second group (13.45 ± 2.06 min) (p<0,05).
Duration of anesthesia and postoperative analgesia
Y HỌC THỰC HÀNH (905) – SỐ 2/2014
7
of the first group (174.87 ± 11.06 min) was longer than
the second group (87.75 ± 17.13 min) (p<0,05).
Undesirable effect was only Claude Bernard Horner
syndrome 5% in the first group and 2.5% in the second
group (p>0,05).
Keywords: brachial plexus block,
dexamethasone.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong phẫu thuật chi trên, gây tê đám rối thần
kinh cánh tay là phương pháp vô cảm phổ biến bởi
tính hiệu quả và dễ thực hiện. Để gây tê đám rối thần
kinh cánh tay, người ta thường sử dụng thuốc tê phối
hợp với các thuốc khác để không những đạt vô cảm
tốt trong phẫu thuật mà còn giúp giảm đau kéo dài
sau phẫu thuật, ít bắt gặp các tác dụng không mong
muốn và có thể giảm liều thuốc tê. Adrenalin được
xem như là thuốc kinh điển dùng phối hợp với thuốc
tê, tuy nhiên adrenalin không nên dùng cho các bệnh
nhân có bệnh lý tim mạch, cao huyết áp [4]. Ngày
nay một số tác giả nước ngoài đã phối hợp thuốc tê
với dexamethason để gây tê đám rối thần kinh cánh
tay và nhận thấy hỗn hợp này có tác dụng khởi tê
nhanh và kéo dài thời gian giảm đau sau phẫu thuật
[1], [2]. Tuy nhiên tại Việt Nam chưa có nhiều đề tài
nghiên cứu về lĩnh vực này. Vì vậy chúng tôi tiến
hành nghiên cứu đề tài này với hai mục đích sau:
1. Đánh giá tác dụng vô cảm và giảm đau sau
phẫu thuật của gây tê đám rối thần kinh cánh tay
đường gian cơ bậc thang bằng hỗn hợp lidocain phối
hợp với dexamethason.
2. Đánh giá các tác dụng không mong muốn của
phương pháp.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu: 80 bệnh nhân được
phẫu thuật theo kế hoạch ở vùng vai, xương đòn và
chi trên, vô cảm bằng phương pháp gây tê ĐRTKCT
đường gian cơ bậc thang, tại khoa gây mê Bệnh viện
103, Hà Đông từ 10/2012 - 5/2013.
1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân: Không có
chống chỉ định với gây tê ĐRTKCT và sử dụng
dexamethason, ASA I-II, tuổi từ 16 trở lên.
1.2. Tiêu chuẩn loại trừ: Chống chỉ định gây tê
ĐRTKCT và sử dụng dexamethason, thời gian phẫu
thuật dự kiến kéo dài trên 120 phút.
2. Phương pháp nghiên cứu: Tiến cứu, ngẫu
nhiên, đối chứng.
2.1. Phương tiện vật liệu nghiên cứu: Lidocain
40mg/2 ml của Xí nghiệp Dược phẩm Trung ương 1
(XNDPTƯ1) (Việt Nam), adrenalin 1mg/1ml XNDPTƯ1
(Việt Nam), dexamethason ống 4mg/2ml XNDPTƯ1
(Việt Nam), 01 bơm tiêm nhựa 20ml (Việt Nam), máy
theo dõi Life Scope 8 hãng Nihon Kohden (Nhật Bản),
thước đo độ đau VAS của hãng B/Braun (CHLB Đức),
các thuốc và phương tiện hồi sức cấp cứu.
2.2. Phương pháp tiến hành
2.2.1. Chuẩn bị bệnh nhân: Bệnh nhân được
khám trước phẫu thuật, giải thích về phương pháp
vô cảm sẽ tiến hành, hướng dẫn bệnh nhân sử
dụng thước đo độ đau VAS. Đặt đường truyền ngoại vi
với kim luồn 20G, truyền NaCl 0,9%. Tiêm tĩnh mạch
seduxen 0,1mg/kg trước gây tê 15 phút.
2.2.2. Thực hiện kĩ thuật: 80 bệnh nhân được chia
ngẫu nhiên thành 2 nhóm: nhóm 1 (n = 40): gây tê
ĐRTKCT bằng lidocain liều 7mg/kg kết hợp
dexamethason liều 4mg và pha với nước cất vừa đủ
25ml. Nhóm 2 (n = 40): gây tê ĐRTKCT bằng lidocain
liều 7mg/kg và 150g adrenalin pha với nước cất vừa
đủ 25ml. Bệnh nhân nằm ngửa, mặt quay sang bên
đối diện, sát khuẩn vùng gây tê, xác định khe gian cơ
bậc thang trước và giữa. Mốc chọc kim gây tê: điểm
giao nhau của đường kẻ ngang qua sụn nhẫn, gặp
khe cơ bậc thang. Hướng chọc kim gây tê: chọc kim
vuông góc với mặt da, hướng kim về phía dưới, trong
và sau. Khi tiến kim gây tê, nếu thấy “dị cảm” ở tay
bệnh nhân thì dừng lại và tiêm thuốc tê. Cứ tiêm 2 ml
thuốc tê phải luôn hút kiểm tra xem có máu, dịch não
tủy chảy ra không.
2.3. Các chỉ tiêu nghiên cứu
2.3.1. Các chỉ tiêu chung: Tuổi, giới, chiều cao,
cân nặng, thời gian phẫu thuật.
2.3.2. Chỉ tiêu tác dụng vô cảm và giảm đau sau
phẫu thuật
- Thời gian tiềm tàng: tính từ lúc tiêm thuốc tê đến
lúc mất cảm giác đau có thể tiến hành phẫu thuật
được, đánh giá bằng phương pháp châm kim.
- Thời gian vô cảm và giảm đau sau phẫu thuật:
tính từ lúc xuất hiện mất cảm giác đau có thể tiến
hành phẫu thuật được cho đến khi bệnh nhân thấy
cảm giác đau tại vùng phẫu thuật tương ứng với
điểm 0 < VAS ≤ 4
- Mức độ ức chế cảm giác đau: Dùng kim đầu tù
kiểm tra mức độ đau kết hợp hỏi bệnh nhân, dựa theo
phân độ Vester- Andersen (1984) [4] có 4 mức độ:
+ Mức độ 0: Bệnh nhân thấy đau như như bên tay
không được gây tê khi châm kim trên da.
+ Mức độ 1: Khi châm kim trên da bệnh nhân còn
thấy đau nhưng ít hơn so với bên tay không được
gây tê.
+ Mức độ 2: Khi châm kim trên da bệnh nhân cảm
giác như có vật tù chạm vào da.
+ Mức độ 3: Khi châm kim trên da bệnh nhân không
thấy cảm giác gì.
- Chất lượng vô cảm trong phẫu thuật: được chia
thành 3 mức độ:
+ Tốt: Bệnh nhân thoải mái không đau trong suốt
quá trình phẫu thuật.
+ Trung bình: Đau nhẹ, chỉ cần tiêm tĩnh mạch
fentanyl liều 50 - 100g và cuộc phẫu thuật vẫn tiếp
tục.
+ Kém: Không thể phẫu thuật tiếp được, phải
chuyển phương pháp gây mê.
- Mức độ đau sau phẫu thuật: Căn cứ vào thang
điểm đau VAS.
2.3.3. Tác dụng không mong muốn: Hội chứng
Claude Bernard Horner, ức chế hô hấp, chọc kim vào
mạch máu, khoang ngoài màng cứng hoặc dưới
nhện
2.4. Các thời điểm nghiên cứu: Trước tiêm
Y HỌC THỰC HÀNH (905) – SỐ 2/2014
8
thuốc tê, ngay sau tiêm thuốc tê, khi xuất hiện mất
cảm giác đau tại vùng phẫu thuật, bắt đầu phẫu
thuật, kết thúc phẫu thuật, hồi phục cảm giác tại vùng
phẫu thuật.
2.5. Xử lý số liệu nghiên cứu: Sử dụng phần
mềm SPSS 16.0; p < 0,05 được coi là khác biệt có ý
nghĩa thống kê.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Bảng 1. Thời gian phẫu thuật, thời gian tiềm tàng,
thời gian vô cảm và giảm đau sau phẫu thuật (phút)
Nhóm
Thời gian
Nhóm 1
(n=40)
± SD
Nhóm 2
(n=40)
± SD
p
Thời gian phẫu thuật 60,25 ± 35,67
54,75 ±
22,62 > 0,05
Thời gian tiềm tàng 8,30 ± 1,28 13,45 ± 2,06 < 0,05
Thời gian vô cảm và
giảm đau sau phẫu
thuật
174,87 ±
11,06
87,75 ±
17,13 < 0,05
Bảng 2. Mức độ ức chế cảm giác đau
Nhóm
Mức độ
Nhóm 1
(n=40) Nhóm 2 (n=40) p
Số BN % Số BN %
Mức độ 0 0 0 0 0
< 0,05
< 0,05
Mức độ 1 0 0 0 0
Mức độ 2 8 20 18 45
Mức độ 3 32 80 22 55
Bảng 3. Chất lượng vô cảm trong phẫu thuật
Nhóm
Mức độ
Nhóm 1 Nhóm 2 p Số BN % Số BN %
Tốt 37 92,5 40 100
> 0,05 Trung bình 2 5 0 0
Kém 1 2,5 0 0
Bảng 4. Mức độ đau sau phẫu thuật
Điểm VAS
Nhóm
VAS < 3 3 ≤ VAS <5 VAS ≥ 5
Số BN % Số BN % Số BN %
Nhóm I
(n=40) 37 92,5 3 7,5 0 0
Nhóm II
(n=40) 4 10 31 77,5 5 12,5
p < 0,05
Bảng 5. Các tác dụng không mong muốn
Nhóm
Tác dụng
không mong muốn
Nhóm 1
Số BN (%)
Nhóm 2
Số BN (%) p
Hội chứng Claude
Bernard Horner 2 (5%) 1 (2,5%) > 0,05
BÀN LUẬN
1. Tác dụng vô cảm và giảm đau sau phẫu
thuật
1.1. Thời gian tiềm tàng: Thời gian tiềm tàng ở
nhóm 1 là 8,30 ± 1,28 phút ngắn hơn có ý nghĩa
thống kê so với nhóm 2 là 13,45 ± 2,06 phút với p <
0,05 (bảng 1). Theo Shrestha BR và cộng sự (2003)
sau khi gây tê ĐRTKCT bằng hỗn hợp dexamethason
với lidocain thì thời gian tiềm tàng trung bình là 8,12
phút [2].
1.2. Mức độ ức chế cảm giác đau: Mức độ ức
chế cảm giác đau ở hai nhóm đều đạt mức độ 2 và 3
tức là mức độ tê phẫu thuật, cụ thể nhóm 1 đạt mức
độ 2 là 20%, mức độ 3 là 80%, trong khi đó nhóm 2
đạt mức độ 2 là 45%; mức độ 3 là 55% và những
khác biệt này giữa hai nhóm có ý nghĩa thống kê với
p < 0,05 (bảng 3.2). Như vậy, nghiên cứu của chúng
tôi cho thấy kết hợp dexamethason với lidocain để
gây tê ĐRTKCT đạt được mức độ ức chế cảm giác
đau tốt hơn nhóm chứng. Kết quả này tương tự với
kết quả của Ali Movafegh (2006) [1], Shrestha BR
(2003) [2] và Shrestha S (2007) [3].
1.3. Chất lượng vô cảm trong phẫu thuật: Chất
lượng vô cảm ở nhóm 1 đạt tốt là 92,5%, trung bình
là 5%; trong khi đó chất lượng vô cảm tốt ở nhóm 2
là 100% (bảng 3). Sự khác nhau về chất lượng vô
cảm giữa 2 nhóm không có ý nghĩa thống kê (p >
0,05). Kết quả của chúng tôi phù hợp với kết quả của
Ali Movafegh (2006) [1], Shrestha BR (2003) [2] và
Shrestha S (2007) [3].
1.4. Thời gian vô cảm và giảm đau sau phẫu
thuật: Thời gian vô cảm và giảm đau sau phẫu thuật
trung bình của nhóm 1 là 174,87 ± 11,06 phút dài
hơn so với nhóm 2 là 87,75 ± 17,13 phút; khác biệt
có ý nghĩa thống kê với p< 0,05 (bảng 1). Ali
Movafegh (2006) khi gây tê ĐRTKCT đường nách bằng
dexamethason kết hợp với lidocain đã nhận thấy thời
gian tiềm tàng ở nhóm sử dụng dexamethason là 11 ± 4
phút ngắn hơn nhóm chứng là 14 ± 5 phút; thời gian vô
cảm và giảm đau sau phẫu thuật ở nhóm sử dụng
dexamethason là 242 ± 76 phút dài hơn nhóm chứng là
98 ± 33 phút [1]. Shrestha BR (2003) khi gây tê đám rối
thần kinh cánh tay đường trên xương đòn ở hai nhóm,
một nhóm sử dụng hỗn hợp bupivacain với
dexamethason và nhóm kia sử dụng hỗn hợp
bupivacain với tramadol đã nhận thấy nhóm sử dụng
dexamethason có thời gian vô cảm và giảm đau sau mổ
kéo dài tới 1028 phút, trong khi đó ở nhóm kia chỉ là
453,17 phút [2].
1.5. Mức độ đau sau phẫu thuật: Ở nhóm 1 tỷ lệ
bệnh nhân có điểm đau VAS <3 (đau ít) là 92,5%;
VAS ≥ 5 (đau vừa cần sử dụng thuốc giảm đau) là
0%, trong khi đó tương ứng ở nhóm 2 là 10% và
12,5%; khác biệt giữa hai nhóm có ý nghĩa thống kê
với p<0,05 (bảng 4).
2. Các tác dụng không mong muốn: Chúng tôi
không gặp trường hợp nào chọc kim vào đỉnh phổi,
vào mạch máu, vào khoang ngoài màng cứng,
khoang dưới nhện, gây tê dây thần kinh hoành, dây
thần kinh quặt ngược, ức chế hô hấp. Trong nghiên
cứu này chúng tôi chỉ gặp hội chứng Claude Bernard
Horner ở nhóm 1 có 2 bệnh nhân (5%); ở nhóm 2 có
1 bệnh nhân (2,5%); khác biệt không có ý nghĩa
thống kê với p > 0,05 (bảng 3).
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu gây tê đám rối thần kinh cánh tay
đường gian cơ bậc thang trong phẫu thuật chi trên ở
Y HỌC THỰC HÀNH (905) – SỐ 2/2014
9
80 bệnh nhân được chia làm 2 nhóm: nhóm 1: gây tê
đám rối thần kinh cánh tay bằng lidocain liều 7mg/kg
kết hợp dexamethason 4mg pha với nước cất vừa đủ
25ml; nhóm 2: gây tê đám rối thần kinh cánh tay bằng
lidocain liều 7mg/kg và 150g adrenalin pha với nước
cất vừa đủ 25ml. Chúng tôi rút ra một số kết luận sau:
gây tê đám rối thần kinh cánh tay đường gian cơ bậc
thang ở nhóm 1 đạt kết quả vô cảm và giảm đau sau
phẫu thuật tốt hơn nhóm 2. Thời gian tiềm tàng của
nhóm 1 (8,30 ± 1,28 phút) ngắn hơn so với nhóm 2 (13,45
± 2,06 phút) với p < 0,05. Thời gian vô cảm và giảm
đau sau phẫu thuật của nhóm 1 (174,87 ± 11,06 phút)
dài hơn so với nhóm 2 (87,75 ± 17,13 phút) với p <
0,05. Tác dụng không mong muốn chỉ gặp hội chứng
Claude Bernard Horner 5% ở nhóm 1 và 2,5% ở
nhóm 2 với p>0,05.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ali Movafegh “Dexamethasone added to lidocain
prolongs axillary brachial plexus blockade” Anesth Analg
2006; 102:263-7
2. Shrestha B.R. “Supraclavicular brachial plexus
block with and without dexamethasone - A comparative
study” Kathmandu University Medical Journal (2003)
Vol.1, No 3, 158-160
3. Shrestha S. “Comparative study between tramadol
and dexamethasone as an admixture in supraclavicular
brachial plexus block” J. Nepal Med. Assoc. 2007:
46(168):158-64
4. Vester Andersen T, Husum B et al (1984),
“Perivascular axillary block IV: blockade following 40, 50
or 60 ml of mepivacaine 1% with adrenaline”, Acta
Anaesthesiol Scand, 28: 99 - 105.
THỰC TRẠNG NẠO PHÁ THAI
VÀ KIẾN THỨC VỀ NẠO PHÁ THAI CỦA PHỤ NỮ TẠI HÀ NỘI
HOÀNG ĐỨC HẠNH, NGUYỄN THỊ VÂN ANH
Sở y tế Hà Nội
TÓM TẮT
Nghiên cứu 1056 phụ nữ đến các cơ sở Y tế để
nạo, phá thai cho thấy tất cả những phụ nữ này đều
có độ tuổi từ 16 đến 48; 90,7% là người Hà Nội;
52,0% đến nạo, phá thai lần đầu, 48,0% nạo, phá thai
từ lần 2 trở lên. Tuổi thai bị nạo phá chủ yếu từ 5 – 8
tuần (chiếm 85,6%), số có tuổỉ thai lớn từ 16 tuần trở
lên chiếm 14,4%; 96,8% đối tượng đến nạo phá thai
đều đã biết về biện pháp tránh thai, 97,1% biết ảnh
hưởng của việc nạo, phá thai đến sức khỏe nhưng họ
vẫn để xảy ra tình trạng có thai ngoài ý muốn do
không sử dụng biện pháp tránh trai (55,6%) hoặc sử
dụng không đúng cách (44,4%).
Từ khóa: Nạo phá thai, biện pháp tránh thai, phụ
nữ, Hà Nội.
SUMMARY
Abortion situation and knowledge about
abortion of women in Hanoi.
The reasearch of 1056 women who came to
health facilities for abortion show that most most of
them are aged of 16 to 48. 90.7% of these women
were from Hanoi. In these number of women, 52.0%
came for abortion were first time pregnancy, 48.0% of
abortion cases were pregnanted from 2 or more
times. Abortions Gestational age mainly from 5-8
weeks (up 85.6%), with gestational age of 16 weeks
or more was 14.4%; 96.8% of abortions subjecst has
already known about contraception, 97.1% of them
understand the impact of abortion to health, but they
still have unwanted pregnancies because of not using
contraception (55.6%) or improper use (44.4%).
Keywords: abortion, contraception, female, Ha
Noi
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tại Hà Nội, hiện nay có 177 cơ sở y tế công lập
và tư nhân được cấp phép tiến hành các hoạt động
kế hoạch hóa gia đình trong đó có thực hiện các biện
pháp nạo phá thai và đình chỉ thai nghén. Trước tình
hình nạo phá thai tại Hà Nội, đặc biệt là nạo phá thai
ở lứa tuổi vị thành niên, với sự hỗ trợ của Tổ chức
Plan, chúng tôi đã triển khai nghiên cứu để tìm hiểu
về tình hình nạo phá tại tại Hà Nội tại các cơ sở y tế
trong và ngoài công lập. Nghiên cứu cũng nhằm thu
thập các thông tin để chỉ ra thành phần xã hội của
những người nạo phá thai để có thể xây dựng các
can thiệp phù hợp trong việc ngăn ngừa/giảm thiểu
tình trạng nạo phá thai ngoài ý muốn của phụ nữ và
thanh thiếu niên.
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
- Mô tả thực trạng nạo phá thai của phụ nữ Hà Nội
tại các cơ sở y tế trong và ngoài công lập
- Đánh giá hiểu biết về kiến thức phòng tránh thai,
nạo, phá thai của phụ nữ Hà Nội, đưa ra đề xuất,
khuyến nghị hạn chế tình trạng này.
ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng: 1056 (100%) phụ nữ đến nạo phá
thai tại các cơ sở y tế trong thời gian nghiên cứu
2. Phương pháp
- Thiết kế nghiên cứu: Cắt ngang, mô tả kết hợp
với phân tích nghiên cứu định lượng và định tính
- Công cụ nghiên cứu: Bảng hỏi thiết kế sẵn được
các chuyên gia về Dịch tễ học, Dân số và Kế hoạch
hóa gia đình, góp ý và thử nghiệm trước khi áp dụng
- Xử lý số liệu: bằng chương trình phần phềm
SPSS 18.0 với độ tin cậy 95%.
- Thời gian nghiên cứu: 20/9 đến 20/10/2011
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- de_tai_nghien_cuu_gay_te_dam_roi_than_kinh_canh_tay_duong_gi.pdf