Đề tài Nghiên cứu đánh giá hiệu quả điều trị của quang đông thể mi bằng laser diode 810nm trên mắt glôcôm phức tạp – Vũ Anh Tuấn

Tài liệu Đề tài Nghiên cứu đánh giá hiệu quả điều trị của quang đông thể mi bằng laser diode 810nm trên mắt glôcôm phức tạp – Vũ Anh Tuấn: 68 NGHIÊN CỨU ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ CỦA QUANG ĐÔNG THỂ MI BẰNG LASER DIODE 810NM TRÊN MẮT GLÔCÔM PHỨC TẠP VŨ ANH TUẤN, TRẦN THỊ NGUYỆT THANH, TRƯƠNG TUYẾT TRINH Bệnh viện Mắt Trung ương TÓM TẮT Mục tiêu: nghiên cứu tính hiệu quả và an độ an toàn của phương pháp quang đông thể mi bằng laser diode 810nm trên những mắt glôcôm đã thất bại hoặc có nguy cơ thất bại cao khi điều trị bằng các phương pháp khác. Phương pháp: nghiên cứu tiến cứu, 191 mắt glôcôm phức tạp của 189 bệnh nhân (BN) đã được quang đông thể mi (QĐTM) bằng laser diode 810nm để hạ nhãn áp (NA) trong thời gian từ tháng 5/2004 đến tháng 10/2006. Mức năng lượng được sử dụng tuỳ theo mức độ nhãn áp cuả BN. Kết quả: sau thời gian theo dõi tối thiểu là 9 tháng kết quả cho thấy 1 liều điều trị laser diode làm hạ NA trung bình từ 33,08mmHg xuống còn 18,85 mmHg. Sau đợt điều trị thứ 2 cho 26 mắt NA trung bình giảm xuống 16,6mmHg. Chỉ có 2 trường hợp không thể khống chế được NA (1%). Các biến chứng...

pdf10 trang | Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 11/07/2023 | Lượt xem: 259 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Nghiên cứu đánh giá hiệu quả điều trị của quang đông thể mi bằng laser diode 810nm trên mắt glôcôm phức tạp – Vũ Anh Tuấn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
68 NGHIÊN CỨU ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ CỦA QUANG ĐÔNG THỂ MI BẰNG LASER DIODE 810NM TRÊN MẮT GLÔCÔM PHỨC TẠP VŨ ANH TUẤN, TRẦN THỊ NGUYỆT THANH, TRƯƠNG TUYẾT TRINH Bệnh viện Mắt Trung ương TÓM TẮT Mục tiêu: nghiên cứu tính hiệu quả và an độ an toàn của phương pháp quang đông thể mi bằng laser diode 810nm trên những mắt glôcôm đã thất bại hoặc có nguy cơ thất bại cao khi điều trị bằng các phương pháp khác. Phương pháp: nghiên cứu tiến cứu, 191 mắt glôcôm phức tạp của 189 bệnh nhân (BN) đã được quang đông thể mi (QĐTM) bằng laser diode 810nm để hạ nhãn áp (NA) trong thời gian từ tháng 5/2004 đến tháng 10/2006. Mức năng lượng được sử dụng tuỳ theo mức độ nhãn áp cuả BN. Kết quả: sau thời gian theo dõi tối thiểu là 9 tháng kết quả cho thấy 1 liều điều trị laser diode làm hạ NA trung bình từ 33,08mmHg xuống còn 18,85 mmHg. Sau đợt điều trị thứ 2 cho 26 mắt NA trung bình giảm xuống 16,6mmHg. Chỉ có 2 trường hợp không thể khống chế được NA (1%). Các biến chứng là không nhiều và không nguy hiểm. Kết luận: laser diode có hiệu quả cao và an toàn trong điều trị hạ NA cho những trường hợp glôcôm phức tạp. Từ khoá: Quang đông thể mi, laser diode I. ĐẶT VẤN ĐỀ Trên thế giới, QĐTM bằng laser diode xuyên củng mạc (transscleral diode laser cyclophotocoagulation) đã được công nhận là phương pháp an toàn và hiệu quả trong điều trị những trường hợp glôcôm phức tạp. Những năm gần đây phương pháp này ngày càng được phổ biến và dần thay thế cho những phẫu thuật (PT) khác để điều trị những hình thái glôcôm không đáp ứng với phương pháp PT lỗ rò [1..11]. QĐTM đã thể hiện được sự an toàn hơn những phương pháp phá huỷ thể mi khác (điện đông, lạnh đông...) ở chỗ hạn chế được nguy cơ NA thấp và teo nhãn cầu do sự phá huỷ quá mức thể mi. Từ năm 2004 tại Bệnh viện Mắt TW đã bắt đầu áp dụng phương pháp này để điều trị những trường hợp glôcôm nguyên phát đã thất bại sau nhiều lần PTtrước đó hoặc những hình thái glôcôm đặc biệt tiên lượng rất khó khăn nếu chỉ điều trị bằng những biện pháp thông thường như glôcôm tân mạch, tăng NA thứ phát sau chấn thương, sau PT bong võng mạc, ghép giác mạc... và đã thu được những thành công rất đáng khích lệ. [1] Tuy nhiên chúng tôi nhận thấy hiện chưa có sự nhất trí về một quy trình điều trị tối ưu nên kết quả của laser diode rất khó đoán trước, có khi phải làm lại nhiều lần mới đạt được NA mong muốn.Vì vậy nghiên cứu này được tiến hành với mục đích đánh giá kết quả hạ NA của phương pháp QDTM trên những đối tượng glôcôm phức tạp sau một liều điều trị phù hợp. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 2.1. Đối tượng: 68 - Những trường hợp glôcôm nguyên phát góc đóng hoặc góc mở NA không điều chỉnh với thuốc điều trị tối đa sau PTlỗ dò trước đó. - Những trường hợp glôcôm thứ phát nguy cơ thất bại cao nếu PT lỗ dò hoặc đã phẫu thuật nhưng thất bại như glôcôm tân mạch, tăng NA thứ phát sau chấn thương, sau viêm màng bồ đào, sau PT bong võng mạc, ghép giác mạc... 2.2. Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu tiến cứu, trong thời gian từ tháng 5/2004 đến tháng 10/2006 tại khoa Glôcôm - Bệnh viện Mắt TW. 2.3. Kỹ thuật QDTM được thực hiện dưới tê cạnh nhãn cầu bằng lidocaine 2%, dùng máy laser Oculight SLX diode bán dẫn 810nm. Chùm ánh sáng laser được dẫn qua 1 sợi cáp quang thạch anh đường kính 600 m đến đầu tiếp xúc G-probe. áp đầu G-probe vào vị trí cách rìa 1,2 mm để chùm tia laser hướng về phía thể mi. Tiến hành quang đông trên 270o thể mi trừ vị trí 3h và 9h nơi có động mạch mi dài đi qua. Mức năng lượng sử dụng phụ thuộc vào mức độ NA: - Nếu NA từ 25 đến 30mmHg: 1,5W x 2s x 20 nốt = 60J - Nếu NA từ 31 đến 40mmHg: 1,5W x 2s x 24 nốt = 72J - Nếu NA trên 40mmHg: 1,5W x 2s x 30 nốt = 90J Sau đợt điều trị BN được uống thuốc giảm đau trong 2 ngày, thuốc hạ NA Acetazolamide 0,5g/ngày trong 2 ngày và thuốc tra mắt dexamethasone 0,1% 4lần/ngày trong 1 tháng. Liều điều trị được tính bằng tích số nốt laser nhân với thời gian và mức năng lượng của mỗi nốt đốt. Nếu BN được điều trị từ 2 đợt laser trở lên, liều điều trị sẽ là tổng liều của các đợt. BN được khám lại ở thời điểm 1 tuần, 2 tuần, 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng và 1 năm sau đợt điều trị. Điều trị được nhắc lại nếu NA vẫn trên 25mmHg (Nhãn áp kế Maclakov quả cân 10g) mặc dù đã dùng thuốc hạ NA bổ sung sau thời gian theo dõi tối thiểu là 1 tháng với liều tương đương với đợt điều trị đầu tiên và bao giờ cũng bắt đầu với góc phần tư còn để lại của đợt 1. Việc điều trị được cho là thành công nếu NA sau 1 năm theo dõi trong khoảng từ 10 đến 24 mmHg với thuốc hoặc không dùng thuốc. NA gọi là thấp khi dưới 10mmHg ở lần khám cuối cùng. Kết quả của QDTM đánh giá bằng các thông số sau: - Tỷ lệ thành công: tỷ lệ phần trăm của những mắt có NA từ 10 đến 24mmHg ở lần khám cuối cùng trên tổng số mắt được điều trị. - Tỷ lệ đáp ứng: là tỷ lệ BN đạt được NA dưới 24mmHg, bao gồm cả những mắt NA thấp. Số liệu được ghi nhận về NA, thị lực trước và sau laser, thuốc điều trị glôcôm đang được sử dụng và các biến chứng sau điều trị. Số liệu được xử lý bằng chương trình SPSS version 15.0. III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Trong thời gian từ tháng 5/2004 đến tháng 10/2006 đã có 189 BN (191 mắt) glôcôm phức tạp được chọn vào nhóm nghiên cứu, thời gian theo dõi từ 9 đến 30 tháng. 3.1. Đặc điểm BN Trong số BN có 107 nam và 82 nữ. BN cao tuổi nhất là 89 tuổi, BN ít tuổi nhất là 10 tuổi, trung bình là 52,71. 68 Bảng 1. Tuổi và giới Tuổi Giới 60 Tổng số Nam 7 22 39 39 107 Nữ 2 11 27 42 82 Tổng số 9 (4,8%) 33 (17,5%) 66 (34,9%) 81 (42,8%) 189 Bảng 2. Các hình thái glôcôm đã được điều trị Hình thái Số lượng Tỷ lệ Glôcôm nguyên phát đã mổ cắt bè 62 32,5% Glôcôm tân mạch 57 29,8% Tăng NA sau chấn thương 24 12,6% Tăng NA sau phẫu thuật DK-VM 16 8,4% Tăng NA sau ghép giác mạc 6 3,1% Tăng NA trên mắt đã phẫu thuật T3 9 4,7% Tăng NA trên mắt VMBĐ cũ 15 7,9% Glôcôm bẩm sinh 2 1% Hầu hết những hình thái glôcôm khó điều trị như glôcôm tân mạch, glôcôm thứ phát sau chấn thương, sau các phẫu thuật dịch kính võng mạc, sau ghép giác mạc đều gặp trong nghiên cứu này. Đa số BN đều đã được phẫu thuật nhiều lần, được áp dụng nhiều kỹ thuật điều trị khác nhau và đã được dùng nhiều loại thuốc nhưng NA vẫn liên tục cao không thể điều chỉnh được. Bảng 3. Thuốc hạ nhãn áp đang được sử dụng Thuốc Acetazolamide (uống) Chẹn giao cảm  (tra) Dùng 1 loại thuốc 85 4 Phối hợp acetazolamide với chẹn giao cảm  58 Phối hợp với prostaglandine 7 12 Phối hợp 3 loại thuốc 5 Tổng số 171 Hầu hết số BN (171 BN tương đương với 89,5%) đang được điều trị bằng các loại thuốc hạ NA khác nhau, nhiều BN dùng phối hợp 2 – 3 loại thuốc nhưng NA vẫn không điều chỉnh. Thuốc dùng phổ biến nhất vẫn là acetazolamide và chẹn giao cảm bêta, một số ít BN được dùng thuốc nhóm prostaglandine. 3.2. Số đợt điều trị đã thực hiện Bảng 4. Số đợt điều trị đã thực hiện 68 Hình thái 1 đợt 2 đợt 3 đợt Tổng số Glôcôm nguyên phát 53 (85,5%) 5 (8,1%) 4 (6,4%) 62 Glôcôm tân mạch 44 (77,2%) 8 (14%) 5 (8,8%) 57 Tăng NA sau chấn thương 23 (95,8%) 1 (4,2%) 24 Tăng NA sau phẫu thuật DK- VM 16 (100%) 16 Tăng NA sau ghép giác mạc 5 (83,3%) 1 (16,7%) 6 Tăng NA trên mắt đã phẫu thuật T3 9 (100%) 9 Tăng NA trên mắt VMBĐ cũ 14 (93,3%) 1 (6,7%) 15 Glôcôm bẩm sinh 1 (50%) 1 (50%) 2 Tổng số 165 17 9 191 Có 165 mắt (86,4 %) chỉ cần 1 đợt điều trị; 17 mắt (8,9 %) cần 2 đợt điều trị; 9 mắt (4,7 %) phải điều trị đến đợt thứ 3. Tổng số đợt điều trị đã được tiến hành là 226, trung bình mỗi mắt đã được điều trị 1,18 đợt. 3.3. Kết quả về thị lực Trong nghiên cứu này chỉ 24 mắt có thị lực ĐNT 3m trở lên chiếm 12,6% tổng số ca. Sau điều trị hầu hết số mắt này vẫn duy trì thị lực ban đầu, chỉ duy nhất 1 trường hợp thị lực sụt từ 6/10 xuống 1/10, nguyên nhân được xác định là do phù hoàng điểm dạng nang. Sau điều trị nội khoa thị lực lại hồi phục về mức ban đầu. 3.4. Kết quả về nhãn áp NA ghi nhận trước điều trị là từ 25 – 45 mmHg, trung bình là 33,08mmHg. Sau đợt điều trị thứ nhất, qua theo dõi chúng tôi thu được kết quả như sau: Bảng 5. Kết quả nhãn áp sau đợt điều trị đầu tiên NA mmHg 22 23 -> 25 26 -> 30 > 30 Tổng số Trước điều trị 64 (35,5%) 127 (64,5%) 191 Sau ĐT 1 tuần 10 (5,2%) 153 (80,1%) 8 (4,2%) 12 (6,3%) 8 (4,2%) 191 Sau ĐT 2 tuần 11 (5,8%) 157 (82,2%) 5 (2,6%) 11 (5,8%) 7 (3,6%) 191 Sau ĐT 1 tháng 3 (1,6%) 164 (85,9%) 9 (4,7%) 7 (3,6%) 8 (4,2%) 191 Sau đt 3 tháng 8 (4,5%) 159 (90,3%) 3 (1,7%) 4 (2,3%) 2 (1,2%) 176 Sau đt 6 tháng 7 (4,2%) 157 (92,5%) 2 (1,1%) 4 (2,2%) 0 170 Sau đt 1 năm 8 (4,8%) 155 2 0 1 (0,6%) 166 68 (93,4%) (1,2%) Như vậy ở thời điểm 1 tháng sau điều trị vẫn còn 15 mắt NA chưa điều chỉnh mặc dù đã dùng thuốc hạ NA bổ sung. Sau 3 tháng có thêm 6 mắt, sau 6 tháng có thêm 4 mắt và sau 1 năm có thêm 1 mắt NA tăng trở lại. Chúng tôi tiếp tục điều trị đợt thứ 2 cho 26 mắt này, kết quả thu được như sau: Bảng 6. Kết quả nhãn áp sau đợt điều trị thứ hai NA mmHg Thời gian 22 23 -> 25 26 -> 30 > 30 Tổng số Trước điều trị 15 (57,7%) 11(43,3%) 26 sau ĐT 1 tuần 18 (69,2%) 2 (7,7%) 6 (23,1%) 0 (%) 26 sau ĐT 2 tuần 19 (73,1%) 2 (7,7%) 3 (11,5%) 2 (7,7%) 26 sau ĐT 1 tháng 20 (76,9%) 1 (3,9%) 3 (11,5%) 2 (7,7%) 26 sau ĐT 3 tháng 2 (8.3%) 18 (75,1%) 2 (8,3%) 0 2 (8,3%) 24 sau ĐT 6 tháng 2 (8.3%) 20 (83,3%) 1 (4,2%) 1 (4,2%) 0 24 Sau ĐT 1 năm 2 (8.3%) 20 (83,3%) 2 (8,3%) 0 1 (4,1%) 24 Qua theo dõi có 9 mắt NA tăng trở lại cần điều trị đợt 3. Kết quả chỉ có 7 mắt NA được điều chỉnh, còn lại 2 mắt không thể khống chế được NA, BN đau nhức nhiều, mắt không còn chức năng nên chúng tôi đã quyết định bỏ nhãn cầu. Cả hai trường hợp đều là glôcôm tân mạch. Bảng 7. Kết quả của lần khám cuối cùng Hình thái Tỷ lệ thành công Tỷ lệ đáp ứng Glôcôm nguyên phát 59/62 (95%) 61/62 (98,4%) Glôcôm tân mạch 51/57 (89,5%) 54/57 (94,7%) Tăng NA sau chấn thương 23/24 (95,8%) 24/24 (100%) Tăng NA sau phẫu thuật DK-VM 15/16 (93,8%) 16/16 (100%) Tăng NA sau ghép giác mạc 5/6 (83,3%) 6/6 (100%) Tăng NA trên mắt đã phẫu thuật T3 8/9 (88,9%) 9/9 (100%) Tăng NA trên mắt VMBĐ cũ 14/15 (93,3%) 15/15 (100%) Glôcôm bẩm sinh 2/2 (100%) 2/2 (100%) Tỷ lệ chung 177/191 (92,7%) 187/191 (97,9%) 68 3.5. Các biến chứng đã gặp Trong nghiên cứu này chúng tôi đã gặp biến chứng trên 25 mắt (13,1%) bao gồm: Bảng 8. Các biến chứng Biến chứng Xuất huyết tiền phòng Phù HĐ dạng nang Viêm MBĐ Đau kéo dài Nhãn áp thấp Teo nhãn cầu Số lượng 2 1 2 10 10 0 Tỷ lệ 1% 0,5% 1% 5% 5% Các biến chứng xuất huyết tiền phòng, phù hoàng điểm dạng nang và viêm màng bồ đào đều được giải quyết sau 1 đợt điều trị nội khoa. Những mắt đau kéo dài cũng dần được giải quyết bằng thuốc tra mắt có steroid và non- steroid. 10 trường hợp NA thấp nhưng không mắt nào bị teo nhãn cầu. IV. BÀN LUẬN Ngày nay phương pháp QDTM xuyên củng mạc bằng laser diode 810nm đang được ứng dụng một cách khá rộng rãi ở khắp nơi trên thế giới. Các tác giả đều thống nhất rằng đây là phương pháp cho kết quả hạ NA rất tốt ngay cả trên những mắt glôcôm không thể điều chỉnh được NA với những biện pháp điều trị khác, đồng thời đây cũng là một biện pháp khá an toàn, ít biến chứng. Từ tháng 4/2004 chúng tôi đã đưa phương pháp này vào ứng dụng tại khoa glôcôm bệnh viện Mắt trung ương. Sau một thời gian dùng thử trên những mắt glôcôm mù và đau nhức, đạt được hiệu quả rất cao, các biến chứng gặp phải ở mức độ chấp nhận được [1] chúng tôi đã mở rộng chỉ định điều trị cho cả những mắt glôcôm còn thị lực nhưng với liều thấp hơn nghiên cứu trước để đảm bảo an toàn cho BN. Vấn đề còn lại duy nhất của phương pháp này chính là liều điều trị. Với một trường hợp BN cụ thể cần quang đông với liều bao nhiêu là vừa đủ để hạ NA nhưng lại không hạ quá mức dẫn đến teo nhãn cầu. Nghiên cứu của Schuman 1991 dùng laser diode 810nm trên mắt tử thi đã chỉ ra rằng vị trí áp đầu laser cách rìa trong khoảng 1 – 1,25mm sẽ cho phép đốt vào chính giữa vùng nếp gấp của thể mi. Mức năng lượng của một nốt đốt thấp hơn 2J không đủ làm tổn thương thể mi. Mức năng lượng 2 – 3J vừa đủ tạo nên một nốt đốt màu trắng trên các tua mi. Mức 4 – 5J tạo những nốt đốt trắng đậm hơn. Nốt trên 5J gây hiệu ứng nổ làm tổn hại nặng tổ chức. Schuman đi đến kết luận rằng mức năng lượng của mỗi nốt laser tối ưu nhất là 3 – 4J. Nghiên cứu của Schuman đã trở thành tiền đề quan trọng cho việc chọn liều laser trong các nghiên cứu về sau. Trong nghiên cứu trước chúng tôi đã thử nghiệm QDTM trên mắt glôcôm mù và đau nhức với liều 4J (2w x 2s) cho mỗi nốt laser và tổng liều là 120J đã cho kết quả hạ NA trên 87,2% số mắt, không có trường hợp nào hạ quá mức dẫn đến teo nhãn cầu. Về số lượng các nốt đốt laser, Fankhauser 2004 đã chứng minh rằng 68 đầu cáp quang đường kính 0,6mm sẽ tạo ra một nốt đốt đường kính 1mm như vậy nếu đốt 48 nốt sẽ có tác dụng phá huỷ toàn bộ chu vi thể mi. Do đó chúng ta có cơ sở để tin tưởng rằng đốt 24 nốt laser có tác dụng tối đa phá huỷ một nửa số tua mi từ đó có tác dụng hạ được 50% trị số NA. Nếu NA trước điều trị của BN trong khoảng 30 – 40mmHg thì sau điều trị NA sẽ về mức 15 – 20mmHg. Đối với nhóm có NA dưới 30mmHg thì phải dùng liều thấp hơn và ngược lại, với nhóm NA trên 40mmHg thì phải dùng liều cao hơn. Bảng 9. Liều điều trị đã được áp dụng STT Tác giả Năng lượng sử dụng (J) Số nốt laser Liều điều trị (J) 1 Han 1999 3,5 - 5 20 - 27 70 - 135 2 Ataullar 2002 2,25 12 - 30 27 – 67,5 3 Autrata 2003 3 30 - 45 90 - 135 4 Mehta 2005 4 24 96 5 Ansari 2006 3,5 – 4,4 15 - 40 52,5 - 176 Tham khảo các tác giả nước ngoài chúng tôi thấy hầu hết đều thống nhất với nhận định này. Do vậy chúng quyết định sử dụng liều điều trị như sau: - Nếu NA từ 25 đến 30mmHg: 1,5W x 2s x 20 nốt = 60J - Nếu NA từ 31 đến 40mmHg: 1,5W x 2s x 24 nốt = 72J - Nếu NA trên 40mmHg: 1,5W x 2s x 30 nốt = 90J Kết quả là ngay sau tuần đầu tiên đã có 171 mắt NA xuống dưới 25 mmHg mà không cần dùng thuốc bổ sung đạt 89,5%. Những trường hợp còn lại (20 mắt, 10,5%) được điều trị bổ sung bằng Timolon 0,5% nhỏ mắt 2 lần trong 1 ngày, 8 mắt phối hợp thêm Acetazolamide đường uống. ở thời điểm theo dõi tiếp theo, trong số 20 mắt này có 10 mắt NA hạ xuống dưới 25mmHg nhưng lại có thêm 8 trường hợp NA tăng trở lại trong số 171 mắt NA đã điều chỉnh ở lần khám trước. Sau 1 tháng theo dõi còn 15 mắt (7,9%) NA vẫn cao trên 25mmHg với thuốc bổ sung cần được điều trị đợt thứ hai. Tiếp tục theo dõi sau 3 tháng có thêm 6 mắt, sau 6 tháng có thêm 4 mắt và sau 1 năm có thêm 1 mắt NA tăng trở lại. Tổng cộng có 26 mắt cần điều trị đợt thứ 2. Theo dõi diễn biến NA sau điều trị các tác giả đều nhận thấy những ngày đầu tiên sau điều trị NA có thể tăng nhẹ do phản ứng tăng tiết của thể mi sau một kích thích vật lý nên chúng tôi luôn cho BN uống Acetazolamid 0,25g x 2 viên x 2 ngày sau điều trị. Do vậy chúng tôi chỉ bắt đầu đánh giá NA ở thời điểm 1 tuần sau đợt điều trị. Chúng tôi nhận thấy diễn biến NA sau đó khá phức tạp. Có 8 trường hợp (4,2%) NA đã xuống mức thấp lại dần tăng lên ở những tuần tiếp theo và ổn định ở mức cao vào thời điểm 1 tháng sau điều trị. Ngược lại theo dõi 20 mắt NA vẫn cao ngay sau điều trị chúng tôi thấy có 13 mắt (6,8%) NA lại điều chỉnh được với thuốc tra. Nhìn chung lại chúng tôi thấy NA có thể dao động trong vài tuần đầu cho đến thời điểm 1 tháng thì ổn định nên chúng tôi 68 chọn thời điểm này để điều trị đợt tiếp theo nếu NA chưa điều chỉnh. Sau đợt điều trị thứ 2 còn 9 mắt (36%) có NA trên 25mmHg, trong đó có 2 mắt mất chức năng, NA 28mmHg nhưng không đau nhức khó chịu nên chúng tôi quyết định không can thiệp gì nữa mà chỉ theo dõi định kỳ. Còn lại 3 trường hợp NA cao đau nhức nhiều và 4 trường hợp mắt vẫn còn chức năng đã được chúng tôi điều trị đợt thứ 3. Sau đó có 2 mắt không thể khống chế được NA, BN đau nhức nhiều, mắt không còn chức năng nên chúng tôi đã quyết định bỏ nhãn cầu. Ở lần khám cuối cùng chúng tôi thu được kết quả NA điều chỉnh ở 177 mắt (92,7%) trong đó có 33 mắt (18,6%) cần dùng thuốc hạ NA tra mắt bổ sung. Đây là một tỷ lệ thành công rất ấn tượng vì như đã phân tích ở trên nhóm nghiên cứu của chúng tôi chỉ bao gồm những bệnh lý rất phức tạp, đã thất bại khi điều trị bằng các phương pháp khác. Tuy nhiên bên cạnh đó còn có 10 mắt (5,2%) NA dưới 10mmHg, nhưng không mắt nào có biểu hiện teo nhãn cầu. Ngoài ra còn có 2 trường hợp NA tăng giới hạn nhưng BN không đau nhức và chỉ có 2 trường hợp (1,7%) là không thể điều chỉnh được NA. Đánh giá các biến chứng của phương pháp chúng tôi thấy những biến chứng tiềm ẩn của cyclodiode mà một số tác giả đề cập đến bao gồm glôcôm ác tính, tổn thương giác mạc thần kinh, thủng củng mạc và nguy cơ viêm mắt đồng cảm đã không xảy ra trên BN của chúng tôi. Chúng tôi chỉ gặp 2 trường hợp (1%) xuất huyết tiền phòng thoáng qua, 1 trường hợp phù hoàng điểm dạng nang, 2 trường hợp viêm màng bồ đào có xuất tiết ở diện đồng tử và 10 trường hợp (5,1%) mắt đau nhức mức độ vừa phải nhưng rất dai dẳng mặc dù NA không cao và 10 trường hợp NA rất thấp dưới 10mmHg nhưng không có trường hợp nào teo nhãn cầu. Một dấu hiệu nữa mà chúng tôi quan sát thấy là sau điều trị cyclodiode mắt thường cương tụ kéo dài có khi sau 3 tháng vẫn chưa hết làm BN luôn có cảm giác cộm mắt cần dùng thuốc tra mắt có corticoid để khống chế. V. KẾT LUẬN Trong nghiên cứu này với liều điều trị linh hoạt từ 60 đến 90J tuỳ theo mức độ tăng NA đã cho tỷ lệ thành công đến 92,7% với thuốc bổ sung và một tỷ lệ biến chứng có thể chấp nhận được. Điều đó chứng tỏ QDTM bằng laser diode 810nm là một biện pháp điều trị có hiệu quả cao và an toàn trên những mắt glôcôm phức tạp không thể điều chỉnh được NA bằng PT lỗ dò. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. VŨ ANH TUẤN, TRẦN THỊ NGUYỆT THANH, TRƯƠNG TUYẾT TRINH (2007), Kết quả điều trị quang đông thể mi bằng laser diode 810nm trên những mắt glôcôm mù và đau nhức. Tạp chí Nhãn khoa Việt nam, số 9 tháng 2/2007; trang 9-15. 2. ANSARI1 E., GANDHEWAR J., Long-term efficacy and visual acuity following transscleral diode laser photocoagulation in cases of refractory and non-refractory glaucoma, Eye 2006;1–5 68 3. ATAULLAH S., BISWAS S., ARTES P.H. et al, Long term results of diode laser cycloablation in complex glaucoma using the Zeiss Visulas II system, Br. J. Ophthalmol 2002;86:39–42 4. AUTRATA R., REHUREK J., Long-Term Results of Transscleral Cyclophotocoagulation in Refractory Pediatric Glaucoma Patients, Ophthalmologica 2003;217:393–400 5. BLOOM PA., TSAI JC., SHARMA K., MILLER MH., RICE NS., HITCHINGS RA, KHAW PT. (1997), "Cyclodiode". Trans-scleral diode laser cyclophotocoagulation in the treatment of advanced refractory glaucoma, Ophthalmology. 104(9): 1508-1519. 6. HAN SOO KYUNG, PARK KI HO, KIM DONG MYUNG, CHANG BONG LEEN, Effect of diode laser trans-scleral cyclophotocoagulation in the management of glaucoma after intravitreal silicone oil injection for complicated retinal detachments, Br. J. Ophthalmol 1999;83:713–717 7. MEHTA C. K., MEHTA K.R., Using the G-Probe to Control Glaucoma in 50 Cases of Coexisting POAG and Cataract as a Primary Procedure, AIOC 2005; 233-234 8. MURPHY CC., BURNETT CAM, SPRY PGD et al (2003), A two centre study of the dose-response relation for transscleral diode laser cyclophotocoagulation in refractory glaucoma, Br. J. Ophthalmol. 87:1252-1257 9. SPENCER AF., VERNON SA. (1999). "Cyclodiode": results of a standard protocol, Br. J. Ophthalmol. 83:311-316 10. THRELKELD AB, JOHNSON MH (1999), Contact transscleral diode cyclophotocoagulation for refractory glaucoma, J. Glaucoma. 8(1):3-7. 11. WONG EY., CHEW PT., CHEE CK., WONG JS. (1997), Diode laser contact transscleral cyclophotocoagulation for refractory glaucoma in Asian patients, Am. J. Ophthalmol. 124(6): 797-804. SUMMARY ASSESSMENT OF THE EFFECT OF DIOD LASER 810NM CYCLOPHOTOCOAGULATION TREATMENT IN REFRACTOR GLAUCOMA Objective: To evaluate the effect and the safety of diode laser 810nm cyclophotocoagulation (cyclodiode) treatment in refractory glaucoma. Methods: Prospective study of 191 eyes underwent transscleral diode laser 810 nm cyclophotocoagulation to reduce IOP. The power of energy depend on the level of patient’s IOP. Results: After a follow up minimum of 9 months, a single cyclodiode treatment lowered mean IOP from 33,08mmHg to 18,85mmHg. After retreatment of 26 eyes, mean IOP was reduced to 16,6mmHg. There were only 2 cases uncontrolled IOP. 68 The complication is not much and not serious. Conclusion: laser diode proves the safety and the effect to reducing IOP in eyes with refractory glaucoma.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfde_tai_nghien_cuu_danh_gia_hieu_qua_dieu_tri_cua_quang_dong.pdf
Tài liệu liên quan