Đề tài Nghiên cứu các ngành nghề trong hộ nông dân trên địa bàn xã Liêm Chính, Phủ Lý, Hà Nam qua ba năm ( 2001- 2003)

Tài liệu Đề tài Nghiên cứu các ngành nghề trong hộ nông dân trên địa bàn xã Liêm Chính, Phủ Lý, Hà Nam qua ba năm ( 2001- 2003): Đặt vấn đề 1.Tính cấp thiết của đề tài Trước xu thế hội nhập và phát triển, đất nước ta đang nỗ lực thực hiện thành công tiến trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước để xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có lực lượng sản xuất xã hội chủ nghĩa tương đối phát triển phù hợp với quan hệ sản xuất với mục tiêu tạo tiền đề cho bước phát triển cao hơn hướng tới dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh. Trong chiến lược phát triển kinh tế quốc dân dài hạn mọi thành phần kinh tế đều được khuyến khích phát triển, đặc biệt nông nghiệp và nông thôn với gần 75% dân số và tới 70% lực lượng lao động cả nước luôn là mối quan tâm hàng đầu trong các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước. Xuất phát điểm là một nước nông nghiệp lạc hậu sau nhiều năm chiến tranh tàn phá nặng nề, gần hai mươi năm thực hiện đường lối đổi mới mà Đại hội VI đã đề ra, bộ mặt nông thôn Việt Nam đã có những bước chuyển biến tích cực, kinh tế liên tục tăng trưởng và phát triển, nền sản xuất gắn dần v...

doc76 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1197 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Nghiên cứu các ngành nghề trong hộ nông dân trên địa bàn xã Liêm Chính, Phủ Lý, Hà Nam qua ba năm ( 2001- 2003), để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đặt vấn đề 1.Tính cấp thiết của đề tài Trước xu thế hội nhập và phát triển, đất nước ta đang nỗ lực thực hiện thành công tiến trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước để xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có lực lượng sản xuất xã hội chủ nghĩa tương đối phát triển phù hợp với quan hệ sản xuất với mục tiêu tạo tiền đề cho bước phát triển cao hơn hướng tới dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh. Trong chiến lược phát triển kinh tế quốc dân dài hạn mọi thành phần kinh tế đều được khuyến khích phát triển, đặc biệt nông nghiệp và nông thôn với gần 75% dân số và tới 70% lực lượng lao động cả nước luôn là mối quan tâm hàng đầu trong các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước. Xuất phát điểm là một nước nông nghiệp lạc hậu sau nhiều năm chiến tranh tàn phá nặng nề, gần hai mươi năm thực hiện đường lối đổi mới mà Đại hội VI đã đề ra, bộ mặt nông thôn Việt Nam đã có những bước chuyển biến tích cực, kinh tế liên tục tăng trưởng và phát triển, nền sản xuất gắn dần với thị trường tiêu thụ cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực giảm dần tỷ trọng nông nghiệp kém hiệu quả, đời sống nhân dân ngày càng cải thiện. Tuy nhiên nông thôn Việt Nam đang đứng trước những khó khăn thử thách: đất canh tác trên đầu người thấp, thiếu việc làm, lao động dư thừa, kinh tế nông thôn chưa phát triển vững chắc nhiều hộ nông dân chậm phát triển thu nhập thấp. Trong khi đó địa bàn nông thôn có tỷ lệ sinh cao, hàng năm có thêm hơn một triệu lao động bổ sung, xu hướng đô thị hoá, sự cách biệt ngày càng xa giữa thành thị và nông thôn. Xuất phát từ thực tiễn đó cũng như nhiều nước trên thế giới đã gặp phải trong quá trình phát triển cho thấy phát triển nông thôn tất yếu phải phát triển ngành nghề, các ngành nghề này bao gồm công nghiệp nhẹ, tiểu thủ công nghiệp, nghề truyền thống gia truyền, đặc biệt là việc chế biến nông sản những điều này sẽ tạo ra lối thoát cho vòng luẩn quẩn đói nghèo – tăng dân số – thiếu việc làm – tệ nạn xã hội – kém phát triển – đời sống thấp. Đảng và Nhà nước đang nỗ lực thực hiện thành công nghị quyết VIII mà ban chấp hành trung ương khoá VII đề ra:” Nhiệm vụ cấp bách hiện nay là đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn với phương châm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng giảm dần tỷ trọng của nông nghiệp giá trị thấp rủi ro cao sang các ngành công nghiệp và dịch vụ có hiệu quả và phù hợp từng vùng từng địa phương tường đơn vị kinh tế, gắn kết với việc phát triển cơ sở hạ tầng áp dụng khoa học kỹ thuật phát huy lợi thế và tiềm năng sẵn có giảm chi phí sản xuất tăng cường năng lực cạnh tranh chuyển dịch cơ cấu lao động theo xu hướng ly nông bất ly hướng phát triển nền kinh tế hàng hoá một cách bền vững, tường bước cải thiện đời sống nhân dân, giảm dần sự cách biệt giữa thành thị và nông thôn “. Xã Liêm Chính là một xã thuộc địa giới hành chính của thị xã Phủ Lý – tỉnh Hà Nam, những năm gần đây bộ mặt kinh tế xã hội của địa phương có sự chuyển biến tích cực: kinh tế không ngừng tăng trưởng phát triển, lực lượng sản xuất ngày càng lớn mạnh, cơ cấu kinh tế biến đổi tích cực theo hướng tăng dần vai trò của ngành nghề phi nông nghiệp, văn hoá đời sống nhân dân tăng lên.Tuy nhiên trong quá trình phát triển của mình địa phương vẫn chưa tận dụng tốt lợi thế của mình đặc biệt trong phát triển các ngành nghề công nghiệp, Công cuộc đổi mới do Đảng và Nhà nước đề ra đã đem lại sự chuyển biến tích cực bộ mặt kinh tế xã hội cả nước, nền kinh tế nước ta vốn là một nền kinh tế thuần nông phải nhập khẩu lương thực thường xuyên thì đến năm 1989 không những đủ cung cấp nhu cầu trong nước mà trở thành nước xuất khẩu lương thực lớn của thế giới; cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ nền kinh tế mỗi năm tăng trưởng cao. Nhân dân bây giờ không phải lo thiếu ăn, thiếu mặc nữa mà lo sao làm giàu chính đáng cho mình và cho xã hội, đó cũng là câu hỏi đang được các cấp các ngành quan tâm cố gắng tìm ra lời giải tốt nhất. Xuất phát điểm từ một nền kinh tế thuần tuý dựa vào nông, lâm, ngư nghiệp thì không thể phát triển nhanh được, không tạo được những tích luỹ cần thiết để tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.Do đó muốn đẩy nhanh công nghiệp hoá hiện đại hoá phải đẩy nhanh công nghiệp hoá nông thôn mà hộ nông dân là một chủ thể chủ yếu ở nông thôn điều này đòi hỏi phải: - Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn theo hướng xoá dần tính chất thuần nông, phát triển công nghiệp và dịch vụ nông thôn. Việc phát triển công nghiệp nông thôn đặc biệt là công nghiệp chế biến nông sản cho phép nâng cao chất lượng và sản lượng nông sản, nâng cao giá trị kinh tế của các nông sản hàng hoá cho tiêu dùng và xuất khẩu. - Phát triển cơ sở hạ tầng sản xuất và đời sống xã hội như giao thông, thuỷ lợi, điện, thông tin, cơ sở công nghiệp, dịch vụ ở nông thôn, cơ sở y tế,giáo dục làm thay đổi bộ mặt nông thôn, giảm khoảng cách giữa thành thị và nông thôn. - áp dụng các tiến bộ kỹthuật, các phát triển khoa học nhằm tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh nâng cao chất lượng, nâng cao lợi thế so sánh trên thị trường tiêu thụ, giảm lao động thủ công nặng nhọc. - Phát huy những kinh nghiệm được truyền tụng từ những người trước làm tăng phẩm chất sản phẩm, giảm chi phí, tăng năng lực cạnh tranh, giữ vững được truyền thống của địa phương. Xây dựng và phát triển nông thôn, phát triển kinh tế nông thôn là một vấn đề lớn và phức tạp, nó liên quan đến nhiều cấp nhiều ngành. Đề tài này nhằm triển khai chiến lược “lấy việc khai thác tiềm năng về địa lý gần trung tâm tỉnh, chế biến nông sản – nghề truyền thống đang có thế mạnh ở địa phương làm trọng tâm phát triển kinh tế hộ…” mà lãnh đạo địa phương đang hết sức cố gắng thực hiện. Vì vậy đề tài này mang tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn. 2. Mục tiêu nghiên cứu a. Mục tiêu chung Nghiên cứu thực trạng và đề xuất được một số giải pháp cho sự phát triển của các ngành nghề trong hộ nông dân trên địa bàn xã liêm chính- Thị xã Phủ Lý-tỉnh Hà Nam trong thời gian ba năm qua 2001- 2003. b.Mục tiêu cụ thể . hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn về vấn đề phát triển ngành nghề cho hộ nông dân trên địa bàn xã Liêm Chính- thị xã Phủ Lý- tỉnh Hà Nam. . Đánh giá thực trạng phát triển các ngành nghề trong hộ nông dân trên địa bàn xã Liêm Chính – thị xã Phủ Lý – tỉnh Hà Nam qua ba năm từ 2001G đến 2003. . Bước đầu đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển các ngành nghề trong hộ nông dân trong địa bàn xã Liêm Chính – thị xã Phủ Lý – tỉnh Hà Nam ở những năm tới. 3. Đối tượng nghiên cứu của đề tài Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các ngành nghề trong hộ nông dân trên địa bàn xã Liêm Chính- thị xã Phủ Lý – tỉnh Hà Nam. 4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài Phạm vi không gian:nghiên cứu thực trạng các ngành nghề trong hộ nông dân trên địa bàn xã Liêm Chính – thị xã Phủ Lý – tỉnh Hà Nam. Phạm vi thời gian: Nghiên cứu các ngành nghề trong hộ nông dân trên địa bàn xã qua ba năm ( 2001- 2003). Thời gian thực hiện đề tài: Đề tài được thực hiện trong khoảng thời gian từ ngày 12/01/2004 đến 01/ 05/ 2004. Chương i một số lý luận và thực tiễn về phát triển ngành nghề của hộ nông dân 1.1.Vai trò của ngành nghề Các ngành nghề phi nông nghiệp có vai trò rất to lớn đến sự phát triển của hộ nông dân. Dưới hình thức là các hoạt động dịch vụ, ngành nghề tiểu thủ công truyền thống, …Các hoạt động này đã giải quyết những vấn đề rất cơ bản của hộ.Các nhề truyền thống (làm thêu, mây tre đan, làm đậu, làm bánh …) đã thu hút rất nhiều lực lượng lao động ở địa phương, nhất là những lúc nông nhàn, đặc biệt đặc điểm địa phương đất chật người đông, diện tích sản xuất cây lương thực thực phẩm ngày càng thu hẹp, cộng thêm các dự án về quy hoạch phát triển cơ sở hạ tầng, quy hoạch đô thị, chương trình dãn dân là các yếu tố trực tiếp đẩy hộ nông dân vốn sản xuất nông nghiệp là chính phải xem xét lại phương thức sản xuất của mình cho phù hợp. Từ đó các ngành nghề phi nông nghiệp được coi là giải pháp hữu hiệu giải quyết vấn đề dư lao động- thiếu việc làm ở địa phương. Các nghề truyền thống là các nghề mà một số hộ giữ được lợi thế tuyệt đối của mình trước ảnh hưởng của dư luận và thời gian mà mấu chốt đó là các bí quyết sự lành nghề dẫn đến sản phẩm sản xuất ra đạt yêu cầu thị hiếu của cầu tiêu thụ về phẩm chất, hình thức, kiểu dáng, chi phí, hàm lượng chất xám, độ tinh xảo. Sự lành nghề có kĩ xảo, có năng lực được mang lại kết quả là các sản phẩm làm ra sẽ có chi phí thấp lại được ưa chuộng tất yếu hộ sản xuất sẽ có thu nhập tốt, có sức ổn định. Các vấn đề xã hội (như ma tuý, mại dâm, cờ bạc) đặt ra cho địa phương nơi mà cách xa trung tâm tỉnh lỵ không xa đòi hỏi phải có phương án giải quyết xuất phát từ căn nguyên của vấn đề: việc làm là vấn đề bức bách mà muốn có nhiều việc làm có thu nhập, giải quyết sự nhàn nhã thì phát triển các nghành nghề phi nông nghiệp là giải pháp hữu hiệu để giúp các thành viên của hộ không xa phải con đường tội lỗi xấu xa. Việc làm ngoài ngoài nông nghiệp giúp hộ chủ động hơn dưới ảnh hưởng bất trắc (rủi ro) của thời tiết, thiên nhiên, sâu bệnh. Quá trình phát triển này sẽ giúp chuyển dịch cơ cấu kinh tế của hộ của địa phương theo hướng giảm tỷ lệ nông nghiệp xuống và tăng giá trị ngành nghề phi nông nghiệp lên. 1.2.Một số khái niệm cơ bản Ngành nghề trong các hộ nông dân bao gồm công nghiệp tiểu thủ công nghiệp và các hoạt động dịch vụ cho sản xuất và đời sống. Các tổ chức hộ với mức độ khác nhau đều có thể sử dụng các nguồn lực sẵn có ở địa phương như đất đai lao động, các sản phẩm từ nông nghiệp và các nguồn lực khác cộng thêm các kinh nghiệm sản xuất kinh doanh được tích luỹ kế thừa để làm ra các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh. Các ngành nghề trong hộ được biểu trưng bởi số lượng các ngành nghề với quy mô các yếu tố sản xuất, trình độ công nghệ được sử dụng để sản xuất ra các sản phẩm có chất lượng được ưa chuộng và phù hợp với nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng như thế nào. Sự phát triển các ngành nghề trong các hộ nông dân là sự tăng số hộ có ngành nghề và sự chuyển biến tích cực trong nội tại các ngành nghề mà hộ đảm nhận như công nghệ trình độ tay nghề, sự lành nghề, sự đa dạng hoá sản phẩm cùng một đầu vào, chất lưọng sản phẩm tăng lên.... Các ngành nghề mà hộ nông dân tổ chức có hiệu quả sẽ thúc đẩy kinh tế hộ phát triển từ đó phát triển kinh tế xã hội của địa phương. 1.3. Đặc điểm ngành nghề nông thôn Ngành nghề trong các hộ nông dân rất đa dạng: có ngành nghề lấy các sản phẩm từ nông nghệp thuần tuý qua chế biến phục vụ nhu cầu sống của con người như nghề làm bún, làm đậu phụ, nấu rượu ; có ngành nghề tận dụng vị trí gần trung tâm kinh tế văn hoá để phát triển như làm thuê, may, đan, thêu, mộc, cơ khí ; với những hộ nằm ngay đường trục chính thì có cơ hội tốt để phát triển nghề buôn bán thông thương và làm dịch vụ đầu vào cho sản xuất nông nghệp hay dịch vụ cho đời sống con người. Các ngành nghề này có một số đặc điểm sau: - Không hay ít chịu tác động của thời tiết khí hậu hơn nghề nông nghệp truyền thống. - Đất đai không phải là tư liệu sản xuất chủ yếu nhưng lại là cơ sở để sản xuất ngành nghề tồn tại và phát triển. - Các ngành nghề có sử dụng các sản phẩm đầu vào từ nông nghệp ít nhiều chịu ảnh hưởng của tính thời vụ trong sản xuất nông nghiệp. - Công nghệ dùng cho sản xuất kinh doanh có xen kẽ thủ công thô sơ và cơ khí. - Quy mô ngành nghề hầu hết đều nhỏ. - Phụ thuộc rất nhiều vào thị trường đặc biệt là các sản phẩm chế biến từ nông sản. - Chất lượng các sản phẩm làm ra phụ thuộc rất nhiều vào kinh nghiệm tích luỹ của hộ. 1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển các ngành nghề trong hộ nông dân a. Nhân tố nội tại của hộ nông dân: Như tiềm lực về vốn, kinh tế sẵn có, trình độ năng lực chuyên môn của chủ hộ.Hộ là đơn vị kinh tế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của mình về kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình: Các quyết định đầu tư sản xuất kinh doanh không phải ai khác mà chính do chủ hộ quyết định do đó trình độ của chủ hộ, của các thành viên có sức ảnh hưởng rất lớn đến quá trình tồn tại và phát triển cuỉa hộ. Chủ hộ mà có kiến thức, có kinh nghiệm trên thị trường, trong xã hội, biết nắm bắt thời cơ, biết vận động năng động trước rủi ro từ bên ngoài sẽ tạo cho hộ khả năng đứng vững, phát triển bền vững trước thời cuộc. b. Nhân tố thị trường: Những hộ chuyên ngành nghề nhất là chế biến các sản phẩm từ đầu vào nông sản tạo ra sản phẩm có thời gian sử dụng thấp bảo quản khó khăn có yêu cầu gay gắt về thị trường. c. Nhân tố địa lý: Hộ nằm trên các trục đường chính, gần khu đông đúc dân cư càng có điều kiện kinh doanh dịch vụ tốt hơn. d. Nhân tố kĩ thuật: Các nghề truyền thống như mộc, nề, thiêu, đan, may, sửa chữa máy móc thiết bị đòi hỏi sự lành nghề đặc biệt các hoạt động chế biến nông sản như làm đậu, nấu rượu, làm bánh kẹo phải cần có sự tích luỹ kinh nghiệm. Các hoạt động sản xuất công cụ cho đầu vào của hoạt động khác, các hoạt động sản xuất các vật phẩm tiêu dùng như sản xuất ra dao, kéo, cày, bừa, máy tuốt lúa đạp chân, cổng sắt… cũng đòi hỏi yêu cầu phải đáp ứng thị hiếu khách hàng tiêu dùng phải phù hợp với hoàn cảnh ứng dụng các sản phẩm đó. Những hộ buôn bán nhỏ như hộ buôn bán các sản phẩm nông sản bán ra thị trường, bán các hàng hoá tiêu dùng ở chợ hay tại gia đình nơi thuận tiện lưu thông hàng hoá và dễ kiếm lời buộc hộ phải năng động trong việc phải nắm bắt thị trường để có phản ứng linh hoạt. đ. Nhân tố chính sách: Các chính sách của chính phủ đưa ra như chính sách đổi mới cơ chế quản lý kinh tế trong hộ nông dân, chính sách đất đai, xoá đói giảm nghèo, cơ sở hạ tầng nông thôn… tuỳ vào mức độ tác động mà hộ có ảnh hưởng khác nhau. Phần lớn các chính sách này có độ nhạy cảm với vấn đề phát triển kinh tế của nông thôn mà hộ nông dân là một chủ thể, vấn đề xoá đói giảm nghèo, phát triển cải thiện cơ sở hạ tầng, cải thiện các điều kiện sống cho nông dân… Các chính sách mà chính phủ đưa ra luôn luôn xuất phát từ nhu cầu thực tai khách quan để tháo gỡ những vấn đề nan giải của xã hội. e. Nhân tố cộng đồng xã hội: Đó là các phong tục tập quán, thuần phong mỹ tục, truyền thống của cộng đồng gây ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp tới sự phát triển ngành nghề trong các hộ nông dân. Nghề làm đậu phụ, nấu rượu, làm bánh đa… sở dĩ tồn tại và phát triển được do phong tục nuôi lợn để lấy phân bón ruộng cũng do tục lệ uống rượu trong các ngày lễ. Tâm lý bảo thủ chậm tiến mang nặng tính phong kiến cổ hủ của xã hội trước cũng ảnh hưởng không nhỏ tới tâm lý mở rộng sản xuất kinh doanh trong hộ ngành nghề do lo sợ bị thua lỗ phá sản. 1.5. Các chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển ngành nghề nông thôn Các chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế nông thôn mà hộ nông dân là một chủ thể chủ yếu của nông thôn đã tác động mạnh mẽ đến đời sống kinh tế xã hội nông hộ của đất nước.Đất nước ta là một đất nước xuất phát điểm từ nông nghiệp trước cách mạng tháng 8 năm 1945 khi mà đất nước ta nửa thuộc địa nửa phong kiến bị áp bức bóc lột mất quyền độc lập tự do, xét trên cả nước giai cấp địa chủ chỉ có 3% dân số đã chiếm 41.4% ruộng đất, nông dân lao động lại chiếm tới 97%dân số nhưng chỉ có 36% diện tích đất, số còn lại thuộc đồn điền của pháp và đất công. Các nghành kinh tế quan trọng như thương mại, khai thác mỏ… đều do pháp quản lý. Các thương gia, các nhà doanh nghiệp Việt Nam bị chèn ép cô lập không phát triển được. Sau khi nước nhà độc lập, công cuộc cải cách ruộng đất ở miền Bắc năm 1956 đa số hộ nông dân ít nhiều đều có đất trực tiếp sản xuất nông nghiệp, các nghành sản xuất khác được khôi phục và khuyến khích phát triển, nét đặc trưng ở giai đoạn này là hộ nông dân sản xuất hoàn toàn cá thể. Giai đoạn 1960- 1980 được định hình bởi kinh tế tập thể. Từ năm 1958 tiến hành hợp tác hoá, đến cuối năm 1960 có 84% nông hộ đã tham gia vào hợp tác xã sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, từ đó làm cho môi trường sản xuất kinh doanh của nông hộ thay đổi căn bản. Hiến pháp năm 1959 đã xác định: Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, mọi quan hệ mua bán trao đổi đất bị cấm nghiêm ngặt. Giai đoạn này hộ nông dân sản xuất nông nghiệp là chính các nghành khác nhất là buôn bán lưu thông hàng hoá kiếm lời bị tê liệt hoàn toàn, mọi hoạt động phi nông nghiệp đều thuộc sự quản lý của nhà nước dưới hình thức hợp tác xã. Trong hợp tác xã sản xuất nông nghiệp nông hộ được tập thể giành cho 5% đất canh tác để làm “kinh tế phụ gia đình” hay “kinh tế phụ xã viên”. Với 5% đất canh tác nhưng đã sản xuất ra 48%giá trị sản lượng nông nghiệp, 50% - 60% thu nhập của hộ. Tuy không công khai nhưng kinh tế nông hộ đã thực sự là cơ sở đảm bảo cho kinh tế tập thể tồn tại. Nông hộ được chia thành 2 loại: Loại 1: gồm các hộ nông dân cá thể ngày càng giảm có phân biệt đối xử sản xuất luôn bị kìm hãm bó buộc. Loại 2: gồm các hộ gia đình xã viên trong hợp tác xã và hộ công nhân viên trong các lâm trường loai này có nguồn thu nhập từ kinh tế tập thể thông qua ngày công đóng góp hoặc tiền lương và thu từ đất 5% với số vật tư và lao động còn lại mà hợp tác xã huy động đến kinh tế nông hộ với sản xuất nông nghiệp là chính chỉ giới hạn 5% phần đất, kinh tế hợp tác xã đình đốn, kinh tế quốc doanh thua lỗ nên thu nhập từ kinh tế tập thể trong tổng thu của hộ có sự biến đổi lớn: kinh tế tập thể chiếm 70% - 75% còn kinh tế nông hộ chỉ chiếm 25% -30%. Do thu nhập từ kinh tế tập thể thấp đã làm cho nông đân xã viên chán nản, muốn xa nền kinh tế tập thể. Giai đoạn 1981-1987 trước thực trạng kinh tế tập thể đình đốn, khủng hoảng lương thực thường xuyên xảy ra nghiêm trọng, nền kinh tế đất nước đình đốn, kinh tế nông hộ bị hạn chế không phát triển được thì nghị quyết TW6 tháng 9 năm 1979 xác định “những vấn đề kinh tế - xã hội cấp bách” nhằm tìm giải pháp đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng. Xuất phát từ thực trạng đó Bộ chính trị đã ban hành Chỉ thị 100 ngày 13/01/1981 về cải tiến công tác khoán mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong hợp tác xã. Xã viên được đầu tư vốn, sức lao động được khoán và hưởng trọn phần vượt khoán, nền kinh tế hộ gia đình được khôi phục và phát triển nhanh chóng. Năm 1986 -1987 giá cả các mặt hàng tăng vọt, chế độ thu mua hàng hoá theo nghĩa vụ của nhà nước nặng nề, trong nông nghiệp mà ruộng đất khoán tập thể đảm nhận 5 khâu; 3 khâu còn lại người lao động chịu trách nhiệm không được ổn định, sản lượng khoán nâng cao dần từ đó hiệu quả đầu tư giảm, thu nhập của nông hộ cũng giảm dần. Giai đoạn từ năm 1988 đến nay. Trước tình trạng trên Nghị quyết 10 Q/ TW ngày 05/ 04/ 1988 của bộ chính trị về đổi mới quản lý kinh tế nhằm giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất trong nông thôn trong từng hộ nông dân, đậc biệt nghị quyết khẳng định hộ gia đình xã viên là đơn vị kinh tế tự chủ ở nông thôn có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của kinh tế nông hộ. Nghị quyết còn chủ trương giao quyền sử dụng ruộng đất ổn định lâu dài cho hộ nông dân, xoá bỏ chính sách thu mua theo nghĩa vụ để tạo điều kiện cho hộ nông dân phát triển sản xuất. Thực hiện khoán theo nghị quyết 10 đã làm cho người lao động quan tâm đến sản phẩm cuối cùng. Các thành phần kinh tế và kinh tế hộ nông dân phát triển dẫn đến hiệu quả cao trong sản xuất và không ngừng nâng cao sức sống nông dân, nền kinh tế được khôi phục và phát triển. Nghị quyết Đại hội đảng lần thứ VI, VII, VIII, IX đã đưa ra tiếp những chủ trương về phát triển 5 thành phần kinh tế, 3 chương trình kinh tế lớn của nhà nước, chiến lược công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.Từ đó hộ nông dân là chủ thể sản xuất với việc ban hành những chính sách lớn như giao đất lâu dài, mở rộng cho vay tới hộ, thực hiện xoá đói giảm nghèo, khuyến khích chuyển dịch cơ cấu kinh tế, khuyến khích khôi phục và phát triển các nghành nghề truyền thống, khuyến khích kinh tế thị trường phát triển… kinh tế nông hộ đã có niềm tin mở rộng quyền tự chủ sản xuất kinh doanh cho nông dân, kinh tế hộ đã có nhiều thay đổi lớn mà điển hình cơ cấu sản xuất đã có chuyển biến tích cực từ thuần nông sang các nghành nghề khác nhất là vùng nông thôn giáp danh thành thị. 1.6.Thực trạng tình hình phát triển ngành nghề nông thôn ở một số nước trên thế giới Việc phát triển ngành nghề nông thôn được xem là một trong những giải pháp quan trọng để tháo gỡ những khó khăn, những phát sinh trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế- xã hội trên địa bàn nông thôn ở một số nước trên thế giới. Một số nước đã trải qua quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn rất thành công, đó là những bài học kinh nghiệm cho đất nước ta học tập đúc rút và áp dụng linh hoạt mô hình phát triển nông thôn một cách hiệu quả nhất. ở một ngay cạnh nước ta, Trung Quốc thực hiện rất tốt quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nông thôn trong giai đoạn cải cách (1978- 1992) với phương châm đề ra” ly nông bất ly hương, nhập xướng bất nhập thành” chủ trương phát triển ngành nghề nông thôn theo mô hình xí nghiệp Hương Trấn lấy nông thôn làm cơ sở. Bước đi của Trung Quốc là thận trọng từ thấp lên cao, không chạy theo phong trào không chạy theo hình thức, không chạy theo thành tích như thời kì “ công xã nhân dân” ; lấy mô hình phát triển xí nghiệp Hương Trấn vừa là tích luỹ ban đầu vừa là bắt đầu đi vào phát triển chiều sâu bằng áp dụng công nghệ mới hiện đại và sử dụng nhiều vốn. Nhiều xí nghiệp như Hương Trấn đã mở rộng về quy mô và phạm vi lĩnh vực kinh doanh. Hiện nay các xí nghiệp như Hương Trấn đã hoạt động ở ba cấp: huyện, xã, thôn và tạo ra giá trị sản lượng ngày càng tăng. Nhờ sự phát triển công nghiệp nông thôn mà Trung Quốc đã giảm tỷ trọng lao động trong nông nghiệp từ 70% (1978) xuống dưới 50% (1992) giảm áp lực di dân ra thành thị, kinh tế nông thôn phát triển đã cải thiện đời sống nhân dân vùng nông thôn. Nằm trong nhóm nước Niss, Đài Loan bắt đầu tiến trình công nghiệp hoá nông thôn từ những năm 50 bao gồm các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, các làng nghề cổ truyền, các xí nghiệp gia đình sản xuất chế biến lương thực thực phẩm và các mặt hàng thủ công mỹ nghệ phục vụ ngành du lịch. Riêng công nghiệp chế biến nông sản rất phát triển: năm 1991 đã có 5779 xí nghiệp với 100 nghìn lao động đã tạo ra giá trị sản lượng tới 17.5 tỷ USD . Công nghiệp thực phẩm với 22 chuyên ngành chủ yếu trong đó công nghiệp chế biến thịt chiếm 15.41% giá trị sản lượng, với chăn nuôi là12.36%, gạo 9.25%, đồ uống có cồn 7.16%. Riêng xay xát gạo có 2500 nhà máy quy mô nhỏ. Công nghiệp nông thôn Đài Loan đã thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, tỷ trọng gia đình thuần nông đã giảm từ 39.9% (1955) xuống còn 8.98% (1985), tỷ trọng các hộ kiêm tăng từ 60.13% (1955) lên 91.2% (1985). Thu nhập các hộ nông dân ngoài nông nghiệp tăng từ 43% (1952) lên gần 70% (1992), cơ cấu lao động xã hội cũng thay đổi năm 1952 lao động nông nghiệp chiếm 51% công nghiệp 16.9% dịch vụ 27% thì đến năm 1992 lao động nông nghiệp giảm xuống còn 12.9% công nghiệp tăng 40.25% dịch vụ 49.9%. Nhìn chung Đài Loan thực hiện công nghiệp hoá nông thôn với hình thức đa dạng đã đem lại hiệu quả kinh tế xã hội rõ rệt góp phần không nhỏ vào sự thành công quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Nằm trong khối ASEAN, là một nước đang phát triển, Thái Lan công nghiệp hoá nông thôn trên cơ sở dựa vào nguồn nguyên liệu sẵn có ở địa phương với mục tiêu trước tiên là cải tạo cơ cấu kinh tế ở các vùng nông thôn qua việc cung cấp nguyên liệu và nguồn lực cho công nghiệp. Do đó Thái Lan đã xây dựng một chiến lược phát triển nông thôn trên cơ sở khu vực lấy trọng tâm công nghiệp chế biến nông sản thành hàng hoá. Bởi Thái Lan là một trong số ít nước có lợi thế sản xuất gạo, hải sản, thuỷ sản… Đầu năm 1990 cả nước có khoảng 32 nghìn xí nghiệp nông phẩm chiếm 62% các ngành công nghiệp ở Thái Lan thu hút khoảng 60% lao động, hầu hết nguyên liệu đều do nông nghiệp cung cấp. Các ngành nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống như chế tác vàng bạc đá quý, ngọc trai, đồ trang sức được duy trì và phát triển tạo ra nhiều mặt hàng nổi tiếng thế giới. Kim ngạch xuất khẩu sản phẩm mỹ nghệ năm 1990 đạt gần 2 tỷ USD. Nghề gốm sứ cổ truyền trước đây ở Thái Lan chỉ sản xuất đáp ứng nhu cầu trong nước, gần đây đã phát triển trở thành mặt hàng xuất khẩu lớn đứng thứ hai sau gạo, 95% hàng gốm sứ xuất khẩu là đồ trang trí nội thất và đồ lưu niệm còn lại là những thứ khác. Về cơ khí nông thôn có 94 vạn cơ sở nhỏ( nhỏ hơn 10 công nhân một cơ sở) chiếm 46%, 72 vạn cơ sở vừa chiếm 34%; hoạt động của các xí nghiệp này là chế tạo và xửa chữa máy công cụ nông nghiệp. Một số con rồng châu á (Hàn Quốc, Hồng Công, Shingapo) thực hiện sách lược dồn hết sức lực cho công nghiệp nặng có trọng điểm kết hợp với dịch vụ coi nhẹ phát triển nông nghiệp nông thôn để tạo ra sức mạnh kinh tế sau đó mới tiến hành cải tạo đầu tư cho nông nghiệp nông thôn. Thông qua thực tế phát triển ngành nghề nông thôn ở một số nước trên thế giới chúng ta rút ra một số bài học sau: - Công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước phải kết hợp chặt chẽ với công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn mà bước đi quan trọng là phải phát triển ngành nghề nông thôn bao gồm nghề tiểu thủ công nghiệp, nghề truyền thống, nghề chế biến nông sản, kinh doanh dịch vụ tạo ra sự chuyển biến tích cực cơ cấu kinh tế nông thôn. - Phát huy lợi thế tuyệt đối của địa phương,của vùng, của đất nước về mọi mặt để sản xuất ra các sản phẩm có ưu thế cạnh tranh cao. - Phát triển ngành nghề trong các hộ nông dân sẽ thúc đẩy kinh tế hộ phát triển, kinh tế địa phương phát triển, xoá đói giảm nghèo, từng bước cải thiện đời sống nhân dân vùng nông thôn tạo tiền đề cho quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước thành công. 1.7. Thực trạng tình hình phát triển ngành nghề nông thôn ở việt nam Kinh tế nông thôn bao gồm hai lĩnh vực: kinh tế nông nghiệp và kinh tế phi nông nghiệp. Trong lĩnh vực kinh tế phi nông nghiệp bao gồm tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp và dịch vụ cho sản xuất cho đời sống ở nông thôn. Công nghiệp nông thôn ở Việt Nam đã trải qua những bước thăng trầm cùng với tiến trình cải cách và phát triển kinh tế đất nước. Thực hiện đường lối của Đảng và chủ trương chính sách của Nhà nước, công nghiệp nói chung, công nghiệp nông thôn nói riêng đã chứng kiến biến chuyển mạnh mẽ trong hơn mười năm qua. Theo tư liệu của hội khoa học kinh tế Việt Nam, trong thời kì đổi mới công nghiệp nông thôn Việt Nam đạt tỷ lệ tăng trưởng giá trị bình quân 7.8%/ năm. Đặc biệt công nghiệp nông thôn có sức tăng trưởng cao vào các năm 1993-1999 nhờ tác động mạnh mẽ của các chích sách khuyến khích được ban hành và thực thi vào đầu thập kỉ 90. Thực trạng phát triển ngành nghề nông thôn thể hiện một số điểm sau: -Về số lượng hiện nước ta có trên 1350000 đơn vị sản xuất phi nông nghiệp trong đó có 97.1% là các hộ, số còn lại là dạng tổ hợp và doanh nghiệp. -Về quy mô hầu hết các cơ sở sản xuất ngành nghề ở nông thôn có quy mô nhỏ do đó các cơ sở luôn có nhu cầu lớn hỗ trợ sản xuất kinh doanh như đầu vào thông tin công nghệ, đào tạo và tín dụng. - Về nguồn nhân lực và chủ sở hữu của các cơ sở. Chủ sở hữu các cơ sở đóng vai trò quan trọng ra quyết định và điều hành sản xuất kinh doanh ảnh hưởng tới sự tồn tại phát triển toàn bộ hộ. Thực tế hiện nay trình độ chuyên môn của các chủ cơ sở và lao động trong hộ còn thấp cụ thể có 1.3% -1.6% số hộ không biết chữ, 68%- 76% chủ hộ không có trình độ chuyên môn kĩ thuật chưa qua trường lớp đào tạo nào, chỉ có 1.9%- 2,8% có trình độ đại học, cao đẳng. Chủ cơ sở là nam chiếm tỷ lệ đa số, nữ chỉ chiếm 3,8%- 5.9%.Quy mô lao động bình quân của hộ ngành nghề từ 3 đến 5 người chiếm đa số, lao động thuê ngoài ít. - Về cơ sở vật chất kĩ thuật và vốn, nhìn chung các hộ ngành nghề còn thiếu,yếu, kém; phần lớn sử dụng ngay nhà mình cho sản xuất kinh doanh. Số cơ sở sử dụng điện cho sản xuất chiếm 81.6% hộ cơ sở ngành nghề nguyên nhân do giá điện ảnh hưởng tới giá thành sản phẩm sản xuất ra. Phần lớn công nghệ các hộ sử dụng là thô sơ giản đơn, trình độ cơ khí hoá còn thấp, vì vậy mà sản phẩm làm ra giá trị thấp mẫu mã không đa dạng khả năng vươn xa thị trường kém. - Hiện nay, vốn của các hộ các cơ sở ngành nghề nông thôn còn nhỏ, phần lớn các cơ sở sản xuất thiếu vốn để nâng cao chất lượng sản phẩm và mở rộng sản xuất kinh doanh. Theo kết quả điều tra ngành nghề nông thôn năm 1997 của Cục chế biến lâm sản và ngành nghề nông thôn cho thấy: ổ hộ chuyên ngành nghề có vốn sản xuất bình quân là 25.73 triệu đồng( bằng 3.67%) trong đó vốn cố định chiếm tỷ lệ 57.2%; về quy mô vốn có tới 86.81% số hộ có vốn dưới 50 triệu đồng, trong đó lại có 37.66% số hộ có vốn dưới 10 triệu; bình quân vốn đầu tư cho một lao động thường xuyên ở hộ chuyên là 7.75 triệu đồng. Còn đối với hộ kiêm, vốn sản xuất bình quân là16.10 triệu đồng, trong đó 11.3 triệu đồng được dùng cho sản xuất phi nông nghiệp, bình quân vốn đầu tư cho một lao động là 5.07 triệu đồng. - Về lĩnh vực hoạt động: tiểu thủ công nghiệp – công nghiệp nông thôn tồn tại ở nhiều dạng ngành nghề khác nhau như: công nghiệp chế biến, dệt, may mặc, gốm sứ mỹ nghệ, mộc, cơ khí nông thôn… Đối với công nghiệp chế biến có mặt ở hầu khắp các vùng, hoạt động dưới nhiều hình thức và nội dung khác nhau. Trong đó có nhiều hoạt động mang tính truyền thống như làm bún, bánh đa nấu rượu…và nhiều hoạt động mang tính hiện đại như chế biến phục vụ xuất khẩu… Trong ngành dệt, may mặc và thêu ren…là những ngành thu hút tương đối nhiều lao động nữ; có nhiều hoạt động mang tính truyền thống, tính lịch sử lâu đời như dệt lụa ở Hà Đông, dệt vải ở Thái Bình, Nam Định, Bắc Ninh,Bắc Giang…riêng may mặc là một ngành khá phát triển cùng với nhu cầu ngày càng cao của xã hội có ở khắp các vùng quê nông thôn. Trong nghề gốm sứ, trạm trổ, mỹ nghệ…đây là các ngành chủ yếu phục vụ xuất khẩu và có yêu cầu kỹ thuật đối với sản phẩm tương đối cao vì thế mà nó phát triển chủ yếu ở những làng nghề truyền thống như ở Bình Dương, Bát Tràng, Đồng Nai… Ngành cơ khí nông thôn, ngành này đã phát triển khá mạnh ở nhiều thời điểm khác nhau và phát triển mạnh mẽ nhất ở Nam Định, Bắc Ninh,Thanh Hoá, Hà Tây,… Với thực trạng phát triển tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp nông thôn hiện nay còn thấp kém cả về số lượng và chất lượng các ngành nghề. Do vậy Đảng và Nhà nước cần có những chính sách khuyến khích phát triển sản xuất đối với từng vùng cụ thể; để mở rộng quy mô lĩnh vực sản xuất, tận dụng lợi thế của mỗi vùng góp phần cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân vùng nông thôn trong thời gian tới. 1.8.Hệ chỉ tiêu được sử dụng trong nghiên cứu thực trạng phát triển ngành nghề trong các hộ nông dân trên địa bàn xã Liêm Chính- thị xã Phủ Lý- tỉnh Hà Nam a. Hệ thống các chỉ tiêu phân tích đặc điểm địa bàn xã Liêm Chính- thị xã Phủ Lý- tỉnh Hà Nam: Mật độ dân số, nhân khẩu/ hộ, lao động/ hộ ngành nghề, lao động/ hộ, đất canh tác/ hộ phi nông nghiệp, lao động phi nông nghiệp/ hộ… b. Hệ thống các chỉ tiêu dùng để phân tích sự tham gia làm ngành nghề trong các hộ trên địa bàn xã Liêm Chính- thị xã Phủ Lý- tỉnh Hà Nam: tỷ lệ hộ có ngành nghề, tỷ lệ hộ sản xuất công nghiệp- xây dựng, tỷ lệ hộ kiêm, tỷ lệ hộ chế biến nông sản( hộ làm đậu phụ, nấu rượu, làm bánh...)/ hộ ngành nghề, tỷ lệ hộ buôn bán/ hộ ngành nghề... c. Hệ thống các chỉ tiêu dùng để phân tích hiện trạng cơ sở vật chất kĩ thuật, điều kiện sản xuất kinh doanh, đầu vào của hộ ngành nghề trên địa bàn xã Liêm Chính- thị xã Phủ Lý- tỉnh Hà Nam: tỷ lệ nhà xưởng kiên cố, diện tích sử dụng bình quân ở mỗi hộ ngành nghề, bình quân vốn/ hộ ngành nghề, số lao động thường xuyên/ hộ ngành nghề, tỷ lệ chủ hộ qua đào tạo… d. Hệ thống các chỉ tiêu dùng để phân tích kết quả sản xuất kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm trong các hộ ngành nghề trên địa bàn xã Liêm Chính- thị xã Phủ Lý- tỉnh Hà Nam: tổng giá trị sản phẩm sản xuất bình quân 1 hộ/ năm, tổng giá trị sản phẩm tiêu thụ bình quân 1 hộ/ năm, giá trị sản phẩm sản xuất bình quân trong năm/ 1 lao động, tỷ lệ sản phẩm tiêu thụ/ sản phẩm sản xuất ra. e. Hệ thống các chỉ tiêu dùng để phân tích hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các hộ ngành nghề trên địa bàn xã Liêm Chính- thị xã Phủ Lý- tỉnh Hà Nam:giá trị tăng thêm tạo ra trong năm tính bình quân trong 1 hộ, giá trị tăng thêm tính bình quân cho 1 lao động thường xuyên, thu nhập trong năm tính bình quân cho 1 hộ, tỷ suất thu nhập / 1 đồng chi phí, thu nhập bình quân trong năm tính cho 1 lao động thường xuyên. f. Hệ thống các chỉ tiêu dùng để so sánh ngành nghề hộ nông dân trên địa bàn xã Liêm Chính- thị xã Phủ Lý - tỉnh Hà Nam với xã Liêm Tuyền-huyện Thanh Liêm- tỉnh Hà Nam:khoảng cách thu nhập bình quân 1 hộ ở xã Liêm Chính so với xã Liêm Tuyền, tỷ lệ hộ giàu của xã Liêm Chính so với xã Liêm Tuyền, tỷ lệ hộ nghèo của xã Liêm Chính so với xã Liêm Tuyền. g. Hệ thống chỉ tiêu dùng để phân tích tác động của ngành nghề tới kinh tế- xã hội - môi trường trên địa bàn xã Liêm Chính- thị xã Phủ Lý- tỉnh Hà Nam: tỷ lệ hộ ngành nghề gây ảnh hưởng xấu tới đất tới nước, tỷ lệ hộ nhận thêm lao động thuê ngoài, tỷ lệ hộ ngành nghề giàu( trung bình, khá, nghèo) so với hộ trong xã, tỷ lệ hộ đóng góp đáng kể cho kinh tế địa phương. k. Hệ thống chỉ tiêu dùng để đánh giá những khó khăn và kiến nghị của hộ ngành nghề trên địa bàn xã Liêm Chính- thị xã Phủ Lý- tỉnh Hà Nam: tỷ lệ không có khó khăn, tỷ lệ có khó khăn về vốn ( lao động, nhà xưởng, kinh nghiệm quản lí). Chương ii Đặc điểm địa bàn và phương pháp nghiên cứu 2.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu 2.1.1. Điều kiện tự nhiên 2.1.1. Vị trí địa lý - địa hình Xã Liêm Chính nằm ở phía Đông Nam thuộc địa giới hành chính của thị xã Phủ Lý – Tỉnh Hà Nam, xã được thành lập sau khi chia cắt xã Thanh Giang – huyện Thanh Liêm thành xã Liêm Chung và xã Liêm Chính. Phía Đông giáp với xã Liêm Tuyền thuộc huyện Thanh Liêm, phía nam giáp với xã Liêm Chung, phía Bắc xã ngăn cách huyện Duy Tiên bởi con sông Châu Giang chạy dài gần 8 km, phía Tây giáp với phường Hai Bà Trưng và phường Trần Hưng Đạo thuộc thị xã Phủ Lý – tỉnh Hà Nam. Toàn xã có ba thôn gồm Thá, Mễ Thượng, Mễ Nội, trước kia có cả thôn Bảo Thôn nhưng mới được chia cắt nhập vào phường Trần Hưng Đạo. Tính từ uỷ ban xã tới trung tâm tỉnh Hà Nam chỉ chừng hơn 2 km lại có con đường 62 nối Phủ Lý –huyện Thanh Liêm – huyện Lý Nhân chạy qua hai thôn Mễ Nội, Mễ Thượng, trong các thôn đều có con đường liên xã chạy qua, mạng lưới giao thông được bê tông hoá nhựa hoá tạo điều kiện tốt cho hàng hoá lưu thông, con người qua lại dễ dàng kích thích sự phát triển các hoạt động buôn bán dịch vụ trao đổi hàng hoá. Xã lại có con sông Châu Giang ngăn cách chạy dài suốt chiều dài hai thôn Mễ được thông với con sông Đáy nên giao thông vận tải bằng đường thuỷ cũng rất thuận lợi giữa xã với các địa phương khác trong và ngoài tỉnh.Được nằm ngay trên trung tâm kinh tế văn hoá xã hội của tỉnh Hà Nam, nơi có thị trường tiêu dùng rộng lớn, có khả năng thanh toán cao ở tất cả các mặt hàng từ hàng hoá nông nghiệp tới các mặt hàng công nghiệp, dịch vụ nên địa phương có nhiều thuận lợi để phát triển nền sản xuất đa ngành cung cấp cho thị trường trong và ngoài xã. Lợi thế về thị trường đem lại là rất lớn, giúp cho hàng hoá sản xuất trong xã được tiêu thụ phần lớn là ở trong thị xã Phủ Lý, lại có ưu điểm chi phí vận chuyển nhỏ khả năng tiếp cận thị trường nhanh, đã tạo điều kiện tốt cho phát triển ngành nghề trong hộ nông dân nói riêng cho toàn xã Liêm Chính nói chung. 2.1.2. Điều kiện kinh tế xã hội 2.1.2.1.Tình hình đất đai Tình hình đất đai của xã Liêm Chính – thị xã Phủ Lý – tỉnh Hà Nam được thể hiện qua biểu 1. Biểu 1: Tình hình sử dụng đất đai ở xã Liêm Chính – thị xã Phủ Lý – tỉnh Hà Nam qua ba năm( 2001- 2003) Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 Năm2003 So sánh (%) Số lượng Cơ cấu(%) Số lượng Cơ cấu(%) Số lượng Cơ cấu(%) 02/01 03/02 BQ A. Tổng diện tích đất tự nhiên 332.4 100 332.4 100 332.4 100 100 100 100 I. Đất nông nghiệp 241.3 72.59 232.17 69.85 226.7 68.20 96.22 97.64 96.93 1.Đất canh tác hàng năm 166.45 68.98 157.59 67.88 154.7 68.23 94.68 98.15 96.40 2.Đất vườn, trồng cây lâu năm 39.18 16.24 39.15 16.86 39.17 17.28 99.92 100.05 99.99 3.Đất ao hồ 35.68 14.79 35.43 15.26 32.85 14.49 99.30 92.72 95.95 II. Đất chuyên dùng 44.66 13.44 53.95 16.23 58.07 17.47 120.80 107.64 114.03 1. Đất xây dựng cơ bản 7.95 17.80 11.41 21.15 13.72 23.63 143.52 120.25 131.37 2. Đất giao thông 21.87 48.97 25.88 47.97 27.03 46.55 118.34 104.44 111.17 3. Đất mặt nước thuỷ lợi 7.13 15.97 7.13 13.22 7.13 12.28 100.00 100.00 100.00 4. Đất nghĩa trang, di tích văn hoá 4.16 9.31 4.16 7.71 4.16 7.16 100.00 100.00 100.00 5. Đất trường học, trạm y tế, bệnh viện 3.55 7.95 5.37 9.95 6.03 10.38 151.27 112.29 130.33 III. Đất để ở 30.69 9.23 33.73 10.15 35.09 10.56 109.91 104.03 106.93 IV. Đất đầm vực 12.55 3.78 12.55 3.78 12.55 3.78 100.00 100.00 100.00 B. Các chỉ tiêu đánh giá Đất canh tác / hộ 1440 1363 1338 94.68 98.15 96.40 Đất chuyên dùng / khẩu 109 132 142 120.80 107.64 114.03 Đất để ở / hộ 265 288 297 108.59 103.15 105.84 Nguồn số liệu: Ban thông kê xã Liêm Chính Tổng diện tích đất tự nhiên của xã Liêm Chính là 332.4 ha trong đó diện tích đất nông nghiệp chiếm đa số tới 226.7 ha chiếm 68.23% tổng diện tích đất của xã năm 2003. Đất nông nghiệp ngày càng giảm do áp lực tăng dân số làm nhu cầu về nhà ở của người dân tăng lên, hơn nữa quá trình đô thị hoá mở rộng thị xã Phủ Lý cũng là nhân tố làm giảm đất nông nghiệp. Bình quân mỗi năm diện tích đất nông nghiệp giảm 3.07 % Như vậy đất nông nghiệp vốn rất nhỏ trên một khẩu chỉ có chưa đến 300 m2/ khẩu, gắn bó với nông nghiệp truyền thống thì không thể thì các hộ nông dân trên xã phải làm gì để phát triển kinh tế hộ gia đình mình. Chỉ có tham gia làm ngành nghề phi nông nghiệp mới giải quyết được vấn đề trên, và thực tế đây là xu thế đang diễn ra trong hộ nông dân ở Liêm Chính, hộ nông nghiệp ngày càng giảm, hộ ngành nghề ngày càng chiếm số đông. Nhu cầu đất ở ngày càng tăng, trung bình mỗi năm tăng 6.93 % chiếm 10.56% tổng diện tích tự nhiên của xã đạt mức độ 297 m2 một hộ. Tương lai nhu cầu về nhà ở ngày tăng và trở thành mối lo cho chính quyền xã. Trong diện tích đất của xã, đất chuyên dùng ngày càng tăng, nguyên nhân do địa phương đang thực hiện đầu tư trọng tâm vào các dự án phát triển cơ sở hạ tầng mở rộng thị xã Phủ Lý đã được hội đồng nhân dân các cấp thông qua năm 2002, hệ thống giao thông là ưu tiên hàng đầu đang được hoàn thiện ở xã, dự kiến Liêm Chính sẽ có đường 62 mới chạy qua thay thế đường cũ tạo điều kiện cho giao lưu vận chuyển hàng hoá và đáp ứng nhu cầu đi lại của người dân trong tỉnh, mong muốn của lãnh đạo địa phương là khi hệ thóng giao thông hoàn thiện đồng bộ sẽ tạo cơ hội cho kinh tế địa phương phát triển mạnh hơn nữa. Trong cơ cấu diện tích đất tự nhiên của xã Liêm Chính có phần đất đầm vực được tạo ra do quá trình vỡ đê hình thành đầm, tương lai đây là một khu sinh thái dịch vụ giải trí của thị xã Phủ Lý. 2.1.2.2. Tình hình dân số và lao động Lao động là một yếu tố cực kì quan trọng đối với bất kì một nền sản xuất nào, quy mô cơ cấu cùng với chất lượng lao động góp phần quyết định vị thế của nền sản xuất đó trong cơ cấu kinh tế tổng thể.Chính vì thế mà khi nghiên cứu tình hình phát triển ngành nghề hộ nông dân ta cũng phải xem xét tình hình lao động và nhân khẩu của địa phương.Tình hình dân số và lao động của xã Liêm Chính được thể hiện qua biểu 2. ` biểu 2: Tình hình dân số và lao động của xã Liêm Chính – thị xã Phủ Lý – tỉnh Hà Nam qua ba năm (2001-2003) Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 Năm2003 So sánh (%) Số lợng Cơ cấu(%) Số lợng Cơ cấu(%) Số lợng Cơ cấu(%) 02/01 03/02 BQ I. Tổng số hộ 1156 100 1170 100 1180 100 101.21 100.85 101.03 1. Hộ thuần nông nghiệp 186 16.09 170 14.53 153 12.97 91.40 90.00 90.70 2. Hộ phi nông nghiệp 970 83.91 1000 85.47 1027 87.03 103.09 102.70 102.90 II. Tổng số nhân khẩu 4098 100 4137 100 4187 100 100.95 101.21 101.08 1. Khẩu thuần nông nghiệp 1250 30.50 1225 29.61 1173 28.02 98.00 95.76 96.87 2. Khẩu phi nông nghiệp 2848 69.50 2913 70.41 3014 71.98 102.28 103.47 102.87 III. Tổng số lao động 2389 100 2401 100 2423 100 100.50 100.92 100.71 1. LĐ thuần nông nghiệp 502 21.01 475 19.78 424 17.50 94.62 89.26 91.90 2. LĐ phi nông nghiệp 1887 78.99 1926 80.22 1999 82.50 102.07 103.79 102.92 IV. Các chỉ tiêu đánh giá 1.Mật độ dân số 1232.85 1244.58 1259.63 100.95 101.21 101.08 2. Tỷ lệ LĐ phi NN / tổngLĐ 78.99 80.22 82.50 101.56 102.85 102.20 3. Tỷ lệ khẩu phi NN / tổng khẩu 69.50 70.41 71.98 101.32 102.23 101.77 Nguồn số liệu: Ban thống kê xã Liêm Chính Xã Liêm Chính cũng như nhiều xã khác xung quanh trong tỉnh Hà Nam được xem là xã đất chật người đông, dân số hàng năm vẫn tăng lên. Qua ba năm số nhân khẩu của xã tăng 1.08 % đến năm 2003 đã có 4187 nhân khẩu. Số hộ cũng không ngừng tăng lên năm 2003 có 1180 hộ nông dân trên toàn xã tăng mỗi năm là 1.03 %. Xét về cơ cấu dân số, cơ cấu hộ theo ngành nghề hiện nay ở địa phương thì trong ba năm số nhân khẩu thuần nông nghiệp luôn chiến tỷ trọng thấp nhưng ngày càng giảm: năm 2003 khẩu thuần nông chỉ chiếm 28.02 % mỗi năm giảm 3.13 % ngược lại khẩu phi nông nghiệp không ngừng tăng lên và chiếm chủ yếu trong cơ cấu của xã, qua ba năm khẩu phi nông nghiệp tăng trung bình 2.87 % đạt 71.98% năm 2003. Cơ cấu khẩu thay đổi là xuất phát từ sự chuyển dịch ngành nghề từ các hộ nông dân trong xã: hộ nông dân đang chuyển từ làm nông nghiệp truyền thống sang làm ngành nghề có thu nhập cao hơn cho hộ. Xét về cơ cấu lao động, cũng giống như cơ cấu hộ, cơ cấu khẩu, lao động ngành nghề phi nông nghiệp vẫy chiếm đa số trong lực lượng lao động những diều đó chứng tỏ ngành nghề là sự lựa chọn của hầu hết hộ nông dân trong xã và kinh tế ngành nghề ngày càng có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của hộ, của địa phương. 2.1.2.3. Cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống Cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất,đời sống nhân dân trong xã Liêm Chính – thị xã Phủ Lý – tỉnh Hà Nam được thể hiện qua biểu 3. Trong những năm qua cơ sở vật chất, hạ tầng kĩ thuật ở xã Liêm Chính được đầu tư phát triển hoàn thiện không ngừng và đạt được những kết quả sau: Về hệ thống đường giao thông trong xã: mạng lưới giao thông trong xã dày đặc chất lượng tốt, đường liên xóm đã được bê tông hoá từ 5 năm nay, đường liên thôn liên huyện được nhựa hoá gắn kết chặt chẽ với mạng lưới giao thông của các xã xung quanh, hai con đường trục chính dẫn vào nội thị đã được mở rộng nâng cấp thành con đường tốt nhất của xã phục vụ đắc lực cho vận chuyển hàng hoá cho đi lại của người dân với nội thị. Biểu 3: Tình hình cơ sở vật chất kĩ thuật của xã Liêm Chính – thị xã Phủ Lý – tỉnh Hà Nam qua ba năm (2001- 2003) Chỉ tiêu ĐVT Năm1 Năm2 Năm3 I. Công trình thuỷlợi Trạm bơm nước Cái 3 3 3 Trạm bơm tiêu kết hợp Cái 2 2 2 Kênh mương Km 21 21 21 II. Côn g trình giao thông Đường liên xã Km 11 11 11 Đường liên thôn Km 18 18 18 Đưòng liên huyện Km 8 8 8 Đường nội bộ Km 40 43 46 III. Công trình điện Trạm biến áp Cái 4 4 4 Đường dây cao thế Km 11 11 11 Đường dây hạ thế Km 54 55 56 Đường dây điện thoại Km 23 25 26 Đường dây thông tin xã Km 17 18 18 IV. Tài sản cố định khác Xe ô tô Cái 20 27 29 Xe máy Cái 214 276 305 Máy cày bừa Cái 5 5 5 Máy xay xát Cái 14 14 14 Trâu bò kéo Cái 213 212 208 Xe công nông Cái 16 17 28 Máy tuốt lúa Cái 5 5 5 V.Côngtrình phúc lợi Nhà trẻ Cái 4 4 4 Trường học Cái 2 2 2 Trạm y tế Cái 1 1 1 Nhà văn hoá Cái 3 3 3 Máy bơm nước sinh hoạt Cái 1 1 1 Đường nước sạch Km 10 11 13 Bệnh viện Cái 1 1 1 Chợ Cái 3 3 3 Nguồn số liệu: ban thống kê xã Liêm Chính Về hệ thống điện, thông tin liên lạc trong xã: hiện tại mạng lưới điện trong xã dày đặc với mạng lưới điện cao thế hạ thế, điện đã phủ hoàn toàn tới các ngõ xóm trong xã, mỗi thôn có một trạm biến luôn cung cấp đầu đủ nhu cầu điện phục vụ cho sản xuất, cho đời sống nhân dân, không còn tình trạng thiếu điện ngai cả trong giờ cao điểm. Xã đã được trang bị hệ thống thông tin, loa đài phát thanh công cộng từ lâu, hàng ngày chuyển tải cho nhân dân xã nhiều thông tin bổ ích tạo điều kiện nâng cao sự hiểu biết cho người dân trong xã. Mạng điện thoại cũng đang được phủ rộng tới các xóm làng đến nay đã có 26 km đường dây điện thoại và hàng năm số thuê bao tăng tới 28%, điều đó chứng tỏ nhu cầu sống của nhiều hộ dân trong xã đã được nâng cao. Tốc độ phát triển, tốc độ đô thị hoá nông thôn cũng đang diễn ra nhanh ở Liêm Chính. Năm năm gần đây xã đã được đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng một cách toàn diện, trường học nhà trẻ được đầu tư xây dựng, bệnh viện lao cũng đã hoàn thành đưa vào sử dụng không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống người dân. Ba thôn với ba chợ nhỏ cũng đã được chính quyền đầu tư xây dựng tạo điều kiện tốt cho nhu cầu mua bán trao đổi hàng hoá. 2.2.phương pháp nghiên cứu 2.2.1. Phương pháp chọn điểm nghiên cứu Vấn đề đặt ra khi nghiên cứu thực trạng phát triển ngành nghề trong các hộ nông dân trên địa bàn xã Liêm Chính- thị xã Phủ Lý- tỉnh Hà Nam là phải đánh giá một cách khách quan đầy đủ và cụ thể các ngành nghề công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, chế biến nông sản, kinh doanh dịch vụ mà các hộ nông dân trong xã tổ chức; như vậy bước đầu chọn điểm nghiên cứu là việc làm rất quan trọng để từ các số liệu thu thập được qua điều tra có thể đánh giá được vấn đề quan tâm. Việc chọn điểm nghiên cứu được tiến hành như sau: xã Liêm Chính với ba thôn hình thành bởi các xóm nhỏ, trong thôn Thá với 3 xóm các xóm liền kề nhau tôi tiến hành điều tra các hộ trong xóm đầu làng do ở xóm này hộ có ngành nghề nhiều xóm này tôi sẽ điều tra 50% hộ trong xóm, nhiều hộ thuần nông kinh tế chậm phát triển tôi sẽ điều tra các hộ không ngành nghề trong xóm này; thôn Mễ Nội với 4 xóm. ( vực, dốc Mễ, trại giam, bệnh viện) tôi chọn xóm dốc Mễ để điều tra vì xóm này có thuận lợi khi nằm ở khu vực có nhiều người qua lại xóm nằm trên ngã ba đường liên xã với đường trục 62 của tỉnh nên nhiều hộ kinh doanh dịch vụ làm cơ khí, xóm dốc Mễ tôi tiến hành điều tra ở 50% hộ trong xóm và các hộ không ngành nghề; thôn Mễ Thượng giáp với phường Trần Hưng Đạo lại có địa giới nhỏ ít hộ thuần nông nên tôi tiến hành điều tra thu thập số liệu ở 40 hộ ngành nghề. Để thấy được vai trò kinh tế ngành nghề mà các hộ nông dân trên địa bàn xã thực hiện ảnh hưởng thế nào tới kinh tế- đời sống bản thân hộ và tới địa phương tôi cũng tiến hành điều tra ngành nghề của xã bên cạnh xã Liêm Chính là xã Liêm Tuyền- thuộc huyện Thanh Liêm- tỉnh Hà Nam để so sánh với tất cả các vấn đề như khi điều tra ở xã Liêm Chính. Tôi cũng chọn ở xã Liêm Tuyền một xóm gần xã Liêm Chính để điều tra.Tôi tiến hành điều tra ở 50% hộ trong xóm đó. 2.2.2. Phương pháp thu thập số liệu mới a. Số liệu ở cấp hộ Các hộ ngành nghề được điều tra tôi thu thập số liệu qua phỏng vấn trực tiếp các thành viên của hộ đặc biệt là từ chủ hộ theo phương pháp PRA với mẫu điều tra1. Các hộ không ngành nghề tôi tiến hành thu thập số liệu cũng qua phỏng vấn trực tiếp các hộ theo phương pháp như trên bằng mẫu điều tra 2. Mẫu điều tra được tôi sử dụng khi thu thập số liệu mới từ các hộ ngành nghề, thông tin từ hộ không ngành nghề được sử dụng cho so sánh giữa hộ ngành nghề và hộ không ngành nghề xem có gì khác biệt về kinh tế, điều kiện sống…để nói lên vị trí vai trò của ngành nghề ảnh hưởng mức độ nào trong phát triển kinh tế hộ, kinh tế địa phương và các mặt khác về văn hoá- xã hội- môi trường. Số liệu mới từ hộ thu được qua phỏng vấn trực tiếp hộ điều nhằm có các thông tin sau: - Đặc điểm của các chủ hộ, các thành viên trong hộ ngành nghề về trình độ chuyên môn, kiến thức, sự hiểu biết ở mức độ nào. - Đặc điểm khái quát của hộ nói lên vấn đề gì? - Thông tin tình hình về hộ ngành nghề với điều kiện cơ sở vật chất kĩ thuật, đầu vào ra sao? - Tình hình sản xuất kinh doanh dịch vụ trong các hộ ngành nghề được các hộ tổ chức ra sao?, thực trạng phát triển ngành nghề trong hộ qua các năm như thế nào? - Tác động của hộ ngành nghề tới những mặt kinh tế- xã hội- môi trường biểu hiện ra sao? - Những ý kiến muốn đề đạt của chủ hộ là những vấn đề gì ? Như vậy qua chọn điểm nghiên cứu là các hộ ngành nghề, các hộ không ngành nghề tôi thu thập số liệu mới từ phỏng vấn trực tiếp chính các thành viên trong hộ được điều tra qua mẫu điều tra ở hộ trong các xóm điều tra, 40 hộ ngành nghề Mễ Thượng, Mễ Nội là xóm dốc Mễ 50% số hộ trong xóm và các hộ không ngành nghề xóm dốc Mễ, Thá là xóm đầu làng như xóm dốc Mễ).Vấn đề đặt ra là thông tin có được từ các thành viên trong hộ phải mang tính khách quan đó là số liệu tổng hợp về kinh tế xã - kinh tế ngành nghề do Uỷ ban nhân dân xã thực hiện hàng năm phải khớp với số liệu thu thập từ hộ điều tra trong đó nói lên cơ cấu ngành nghề, ngành nghề nào là quan trọng nhất trong số các ngành nghề hộ tham gia, giá trị sản lượng đem lại từ ngành nghề cũng phải khớp khi tổng hợp phân tích hoá ở các hộ ngành nghề điều tra cho toàn xã, để đạt được điều này trước tiên tôi phải căn cứ vào các báo cáo thường kì hay các báo cáo tổng hợp các giai đoạn của chính lãnh đạo xã để lấy căn cứ điều tra bao nhiêu hộ, ngành nghề riêng biệt là bao nhiêu, điều tra ở những xóm nào trong các thôn trên xã. Số liệu mới này vừa phản ánh được đặc điểm kinh tế địa phương, cụ thể như thực trạng phát triển ngành nghề, về vai trò của ngành nghề trong vấn đề phát triển kinh tế địa phương giải quyết công ăn việc làm, cải thiện đời sống nhân dân trên xã; về chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo xu hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá; số liệu cũng phải nói lên tác động của ngành nghề tới các mặt kinh tế- xã hội- môi trường; phải thấy được sự khác biệt giữa kinh tế ngành nghề với kinh tế thuần nông ở cấp độ nào. Các số liệu này có phản ánh thực tế khách quan tình hình phát triển ngành nghề thì mới lấy đó làm cơ sở tin cậy trong việc bước đầu đề ra một số giải pháp tháo gỡ những khó khăn vướng mắc phản hồi từ thông tin thu thập những hộ được phỏng vấn. b. Số liệu ở cấp xã, thôn Để có cái nhìn bao quát khi nghiên cứu ngành nghề trên địa bàn xã Liêm Chính bước đầu tôi phải tiến hành gặp gỡ trao đổi xin phép ý kiến về nội dung cũng như phạm vi mục tiêu tôi đến địa phương thực tập tốt nghiệp ; tôi tiến hành phỏng vấn trực tiếp chán bộ lãnh đạo xã, thôn để cho thông tin về những vấn đề sau: thôn và xã có những nghành nghề nào mà hộ nông dân trên xã hay tổ chức thực hiện trừ nông nghiệp, trong số những ngành nghề này ngành nghề nào phổ biến hay gặp trong các hộ trên địa bàn thôn và xã, quy mô và mức độ phát triển của các ngành nghề được ghi trong các báo cáo định kì hàng năm. Cũng qua những lần gặp gỡ phỏng vấn trao đổi mà tôi thấy trên địa bàn xã Liêm Chính ngành nghề phổ biến trong các hộ nông dân là nghề chế biến nông sản phân bố hầu khắp cả xã với các nghề như nấu rượu, làm đậu, làm bún, làm mộc…,chạy dọc theo các tuyến đường liên xã liên thôn liên tỉnh các hộ nông dân buôn bán làm dịch vụ cho đầu vào cho sản xuất, làm dịch vụ cho nhu cầu thường ngày của con người. Các hộ kinh doanh dịch vụ phát triển khá nhanh trong những năm trở lại đây với quy mô ngày càng được mở rộng trong các hộ, nhiều hộ làm đầu mối cho cung cấp thức ăn gia súc gia cầm, cung cấp vật tư nông nghiệp đầu vào cho sản xuất nông nghiệp về phân bón, thuốc trừ sâu, nông cụ, máy tuốt lúa… Riêng ngành nghề công nghiệp- tiểu thủ công nghiệp tập trung ở các hộ có kinh tế khá giả chủ hộ mạnh bạo có đầu óc kinh doanh do vốn đầu tư ban đầu khá lớn như nghề chế tạo cửa sắt, công cụ tiêu dùng, chế tạo máy tuốt lúa đạp chân…, nghề sửa chữa máy móc cũng khá nhiều chủ yếu sửa chữa xe máy ôtô trên trục đường tỉnh lộ,nghề may cũng mới được vài hộ tổ chức quy mô lớn còn đa phần là may đơn lẻ gia đình. 2.2.3. Thu thập số liệu đã công bố Số liệu mới tuy chi tiết nhưng vẫn chưa đủ để có cái nhìn khách quan về thực trạng phát triển ngành nghề nông thôn ở các cấp độ vùng và trên thế giới, độ đặc biệt là ở Việt Nam trong những năm trở lại đây. Muốn đề đạt một số giải pháp cơ bản tác động làm phát triển ngành nghề nông thôn trên địa bàn xã Liêm Chính thì phải dựa vào đâu làm căn cứ có cơ sở khoa học nhất có độ tin cậy nhất.Những vấn đề trên được tôi giải quyết khi tiến hành nghiên cứu thực hiện đề tài qua các tài liệu đã công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng như qua sách báo, ấn phẩm định kì, các báo cáo tốt nghiệp, báo cáo tổng kết, các nghiên cứu có liên quan vấn đề ngành nghề nông thôn. Qua báo cáo kết quả điều tra ngành nghề nông thôn năm 1997 do bộ nông nghiệp tổ chức, cũng qua cuốn sách từ điển phổ thông ngành nghề truyền thống Việt Nam…, cho thấy cái nhìn tổng quan tình hình phát triển ngành nghề ở các địa phương trên cả nước thời gian gần đây về cơ cấu các ngành nghề, quy mô mức độ ngành nghề trên các mặt từ đầu vào các yếu tố sản xuất kinh doanh tới kết quả sản xuất kinh doanh ngành nghề. Các tài liệu nói về kinh nghiệm phát triển ngành nghề nông thôn cũng là các tài liệu rất hữu ích giúp nghiên cứu sâu hơn ván đề phát triển ngành nghề nông thôn. Cũng qua các tài liệu đã công bố này tôi tham khảo một số giải pháp mà các chuyên gia các nhà khoa học đã đưa ra áp dụng cho địa phương để có thể bước đầu đưa ra các giải pháp có cơ sở về phát triển ngành nghề trong các hộ nông dân trên địa bàn xã Liêm Chính- thị xã Phủ Lý- tỉnh Hà Nam. 2.2.4. Phương pháp phân tích và xử lý số liệu Phân tích là giai đoạn cuối cùng của quá trình nghiên cứu, nó biểu hiện tập trung kết quả của toàn bộ quá trình nghiên cứu. Do vậy việc phân tích có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với đề tài nghiên cứu.Để tổng hợp và hệ thống hoá tài liệu thu được khi điều tra thu thập chúng tôi căn cứ vào phương pháp thống kê kinh tế nhằm mục đích phân tổ phân chia các ngành nghề riêng biệt, phân chia các đối tượng được nghiên cứu có cùng tiêu thức, nhằm phân tích sự biến động theo thời gian của các ngành nghề ; thống kê cũng giúp tổng hợp các số liệu định lượng thành các số liệu định tính nói lên bản chất hiện tượng tính quy luật và chiều hướng phát triển của nó.Tôi cũng dùng phương pháp so sánh khi các số liệu mới thu thập được từ kết quả điều tra các hộ trên địa bàn hai xã Liêm Chính và Liêm Tuyền để nói lên vai trò của ngành nghề ảnh hưởng tới những mặt nào về kinh tế- xã hội trên địa bàn xã Liêm Chính mà tôi tiến hành nghiên cứu. Dựa vào đó tôi có thể hiểu biết sâu sắc hơn về hiện tượng nghiên cứu, có cơ sở khoa học trong việc đưa ra các giải pháp tối ưu nhằm phát triển các ngành nghề trong hộ nông dân ở xã Liêm Chính - thị xã Phủ Lý – tỉnh Hà Nam. Các số liệu thu thập được sẽ được đưa vào máy tính xử lý, phân tích. Chương iii Kết quả nghiên cứu và thảo luận 3.1. Thực trạng tình hình phát triển các ngành nghề ở các hộ nông dân trên địa bàn xã Liêm Chính - thị xã Phủ Lý – tỉnh Hà Nam. 3.1.1.Thông tin chung về sự tham gia làm ngành nghề và cơ cấu ngành nghề ở các hộ nông dân trên địa bàn xã Liêm Chính - thị xã Phủ Lý – tỉnh Hà Nam. Qua biểu 5 cho thấy trong số 169 hộ được điều tra ở ba xóm của ba thôn trên địa bàn xã Liêm Chính thì số hộ ngành nghề chiếm tỷ lệ rất cao là 87.57% với 148 hộ ngành nghề năm 2003, trong khi đó hộ thuần nông chỉ có 21 hộ chiếm tỷ lệ 12.43%. Tỷ lệ hộ ngành nghề được duy trì trên 80% qua ba năm cụ thể năm 2001 là 84.02% với 142 hộ , năm 2002 là 85.8% với 145 hộ ngành nghề,và năm 2003 tăng lên 87.57% với 148 hộ ngành nghề. Mỗi năm số hộ tham gia làm ngành nghề lại tăng lên so với năm trước và đạt tốc độ tăng bình quân mỗi năm là 2.09% trong khi đó diện hộ thuần nông lại có xu hướng giảm nhanh qua các năm, trung bình giảm 11.81%. Như vậy cơ cấu ngành kinh tế trong các hộ nông dân có sự dịch chuyển tích cực theo hướng giảm dần vai trò của nông nghiệp và tăng dần vị thế cũng như tầm quan trọng của ngành nghề trong việc phát triển kinh tế hộ và trở thành một chiều hướng cho sự phát triển nông thôn trên địa bàn xã Liêm Chính. Qua điều tra, phỏng vấn trực tiếp các hộ, tiếp thu ý kiến của các thành viên trong hộ chúng tôi được biết hiện nay trong suy nghĩ của mọi người dân trong xã Liêm Chính thì nông nghiệp chỉ là thứ yếu, gắn bó với nông nghiệp vừa vất vả lại có thu nhập thấp, hay xảy ra thiên tai mất mùa nên các hộ nhận đất nông nghiệp sản xuất với mục đích chủ yếu là cung cấp tại chỗ lương thực cho gia đình mình khỏi phải mua ngoài. Đặc biệt hai năm gần đây do ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa nông thôn với nhiều dự án đang và sẽ được thực thi nhằm mở rộng thị xã Phủ Lý, tương lai không xa Liêm Chính sẽ là một nơi sầm uất với nhiều dự án công trình từ các khu giải trí vui chơi, bệnh viện, chợ trung tâm, và có tuyến đường liên tỉnh chạy qua; do đó có tới 86 chủ hộ trong tổng số 169 hộ được điều tra cho hay họ nhận đất nông nghiệp một mặt vừa sản xuất lương thực chi dùng cho nhu cầu thiết yếu hàng ngày mặt khác họ chờ cơ hội chính quyền có thu đất nông nghiệp phục vụ những dự án thì họ sẽ được đền bù ở mức cao như ở xã Châu Sơn cũng nằm trong địa phận thị xã Phỷ Lý đã làm Biểu 5: Thông tin về sự tham gia ngành nghề của các hộ trên địa bàn xã Liêm Chính - thị xã Phủ Lý – tỉnh Hà Nam. Chỉ tiêu năm 2001 năm 2002 năm 2003 So sánh(%) SL CC(%) SL CC(%) SL CC(%) 02/01 03/02 BQ Tổng số hộ điều tra 169 100 169 100 169 100 100 100 100 A. Hộ ngành nghề 142 84.02 145 85.80 148 87.57 102.11 102.07 102.09 I. Hộ chế biến nông sản thực phẩm 42 29.58 41 28.28 38 25.68 97.62 92.68 95.12 Sản xuất bánh kẹo 2 4.76 2 4.88 2 5.26 100.00 100.00 100.00 Xay xát 4 9.52 4 9.76 4 10.53 100.00 100.00 100.00 Rợu 11 26.19 11 26.83 10 26.32 100.00 90.91 95.35 Đậu 15 35.71 14 34.15 12 31.58 93.33 85.71 89.44 Mộc 7 16.67 7 17.07 7 18.42 100.00 100.00 100.00 Bún 2 4.76 2 4.88 2 5.26 100.00 100.00 100.00 Bánh mỳ 1 2.38 1 2.44 1 2.63 100.00 100.00 100.00 II. Hộ công nghiệp, xây dựng và vận tải 41 28.87 42 28.97 43 29.05 102.44 102.38 102.41 Vận tải 12 29.27 13 30.95 14 32.56 108.33 107.69 108.01 Xây dựng 9 21.95 9 21.43 9 20.93 100.00 100.00 100.00 Gò hàn, cơ khí 5 12.20 5 11.90 5 11.63 100.00 100.00 100.00 May thêu 9 21.95 9 21.43 9 20.93 100.00 100.00 100.00 Khác( bật chăn bông, đúc, sx khô mỡ) 6 14.63 6 14.29 6 13.95 100.00 100.00 100.00 III. Hộ dịch vụ 59 41.55 62 42.76 67 45.27 105.08 108.06 106.56 Buôn bán 19 32.20 22 35.48 25 37.31 115.79 113.64 114.71 Bán hàng 22 37.29 22 35.48 23 34.33 100.00 104.55 102.25 Dịch vụ đầu vào 6 10.17 5 8.06 5 7.46 83.33 100.00 91.29 Dịch vụ tổng hợp 9 15.25 10 16.13 11 16.42 111.11 110.00 110.55 Dịch vụ phục vụ lễ nghi, tiệc 3 5.08 3 4.84 3 4.48 100.00 100.00 100.00 B. Hộ thuần nông 27 15.98 24 14.20 21 12.43 88.89 87.50 88.19 C. Nhóm hộ khác 7 4.14 7 4.14 7 4.14 100.00 100.00 100.00 Các chỉ tiêu đánh giá Tỷ lệ hộ ngành nghề/ tổng số hộ 84.02 85.80 87.57 102.113 102.069 102.091 Tỷ lệ hộ chế biến NS- TP/ hộ ngành nghề 29.58 28.28 25.68 95.5993 90.8042 93.1709 Tỷ lệ hộ CN, XD, VT/ hộ ngành nghề 28.87 28.97 29.05 100.32 100.306 100.313 Tỷ lệ hộ dịch vụ / hộ ngành nghề 41.55 42.76 45.27 102.911 105.874 104.382 Nguồn: Số liệu điều tra trực tiếp từ các hộ nông dân xã cách đây 4 năm về trước. Chính suy nghĩ đó mà hầu hết hộ nông dân không mặn mà đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp và cơ hội cho hộ phát triển kinh tế tốt đó là phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp. Trong số các hộ ngành nghề trong tổnh số 169 hộ được điều tra ở xã Liêm Chính cho thấy hộ làm dịch vụ luôn chiếm số đông so với các hộ làm chế biến nông sản thực phẩm và làm công nghiệp- xây dựng- vận tải, qua ba năm số hộ làm dịch vụ lần lượt là 59 hộ trong số 142 hộ ngành nghề chiếm tỷ lệ 41.55% năm 2001, 62 hộ trong số 145 hộ chiếm tỷ lệ 42.76% năm 2002, 67 hộ chiếm tỷ lệ 45,27% năm 2003, trung bình mỗi năm có 4 hộ tham gia thêm vào làm dịch vụ đạt tốc độ tăng hàng năm là 6.56% , sự tăng này xuất phát từ nhiều nguyên nhân: thứ nhất đó là xã Liêm Chính có lợi thế cực kỳ thuận lợi được nằm trên nhiều trục đường giao thông quan trọng có lưu lượng người qua lại rất lớn, trong khi đó xã lại nằm không xa trung tâm thị xã Phủ Lý nơi giao lưu kinh tế văn hóa của tỉnh Hà Nam đó là cơ hội cực kì tốt cho phát triển kinh tế dịch vụ, ngoài những yếu tố trên thì sức hút của quá trình đô thị hóa, áp lực của giảm nhanh đất nông nghiệp trong mấy năm gần đây đã tạo đà cho nghề dịch vụ được nhiều hộ làm. Thực tế điều tra cho thấy các hộ nằm trên trục đường 62 liên huyện đều tham gia làm dịch vụ với hình thức mở cửa hiệu bán hàng từ các hàng thông dụng hàng ngày phục vụ nhu cầu sống còn có các dịch vụ cung cấp đầu vào như phân bón, thuốc, thức ăn gia súc... phục vụ sản xuất nông nghiệp đến các dịch vụ rửa xe, sửa xe, dịch vụ cho thuê phông bạt bàn ghế phục vụ các tiệc cưới lễ nghi. Dịch vụ bán hàng khá phát triển về quy mô và giá trị dịch vụ, năm 2002 có 22 hộ bán hàng thì năm 2003 có 23 hộ tham gia tăng thêm 1 hộ đạt tỷ lệ 4.54 % trong số các hộ dịch vụ. Hộ buôn bán chiếm tỷ lệ cao trong nhóm hộ dịch vụ với 25 hộ năm 2003 chiếm tỷ lệ 37.31% với hình thức hộ mua hàng hóa từ các đầu mối giá rẻ rồi bán buôn hay bán lẻ cho khách hàng ở thị xã Phủ Lý , chênh lệch giá đảm bảo lợi nhuận thu được cho các hộ này, mặt hàng mà hộ buôn bán chủ yếu là các hàng hóa nông sản, thực phẩm như: Gà,cá,lợn , rau quả... Ngoài dịch vụ buôn bán, mở cửa hiệu bán hàng nhiều hộ còn tham gia làm dịch vụ đầu vào cho ngành sản xuất công nghiệp, nông nghiệp. Có 11 hộ làm dịch vụ tổng hợp vừa bán hàng vừa kiêm dịch vụ buôn bán, dịch vụ đầu vào. Các hộ tham gia làm công nghiệp - xây dựng - vận tải cũng chiếm một tỷ lệ khá lớn, chiếm 29.05% trong các hộ ngành nghề, cụ thể: Năm 2001 có 41 hộ tham gia, chiếm tỷ lệ 28.87%, năm 2002 có 42 hộ, chiếm 28.97%, năm 2003 có 43 hộ. Qua các năm tốc độ tăng đạt 2.41%. Tong số đó hộ làm vận tải có tốc độ tăng trưởng cao nhất, bình quân mỗi năm là 8.01%, cũng là nhóm hộ chiếm đa số trong các hộ công nghiệp - xây dựng - vận tải, tới 32.56% với 14 hộ làm vận tải. Hình thức vận tải đó là: hộ sử dụng xe của mình thực hiện vận chuyển hàng hóa,vận chuyển khách. Ngoài ra có những hộ còn làm cơ khí, gò hàn, gia công chế tạo, lắp đặt khung cửa, các tiện nghi phục vụ đời sống và sản xuất, nhóm này có 5 hộ chiếm tỷ lệ 11,63 % , tỷ lệ này tuy nhỏ nhưng nó phản ánh sự lựa chọn đa dạng cho phát triển kinh tế hộ, cũng phản ánh thực tế nhiều hộ đã có tiềm lực vốn lớn đủ khả năng tham gia sản xuất các mặt hàng có giá trị cao như hàng công nghiệp. Nghề may thêu cũng được nhiều hộ chọn để phát triển kinh tế, với 9 hộ trong tổng số 169 hộ ngành nghề điều tra, phần lớn hộ mở cửa hiệu may phục vụ nhu cầu của dân, có hai hộ may có quy mô lớn chuyên sản xuất hàng may theo các hợp đồng may với số lượng lớn cho các tổ chức, cá nhân hay công ty.Ngoài vận tải, cơ khí, may, có nhiều hộ còn tham gia sản xuất gạch xây dựng, sản xuất khô mỡ, bật chăn bông, đúc xoong nồi, số này có 15 hộ chiếm 34.88%. Nghề chế biến nông sản thực phẩm trên địa bàn xã Liêm Chính cũng rất đa dạng với các nghề: từ nghề mộc, nghề làm bún bánh, làm đậu phụ, nấu rượu tới nghề sản xuất bánh kẹo. Trong nhóm hộ này nhóm hộ làm đậu, nấu rượu chiếm số đông cụ thể: có 10 hộ nấu rượu, 12 hộ làm đậu năm 2003 chiếm 57.9%, tuy nhiên xu hướng của nhóm hộ này giảm dần do những năm gần đây giá đầu vào là nông sản lên xuống thất thường luôn ở mức cao làm giảm thu nhập cho hộ, từ đó nhiều hộ chuyển đi làm nghề khác đem lại thu nhập cao hơn, trong số 169 hộ điều tra có 2 hộ sản xuất bánh kẹo từ cách đây 10 năm với quy mô gia đình , đây là hai hộ có mức thuê lao động nhiều nhất với 26 lao động làm thuê. Nghề mộc, bún bánh truyền thống ở xã Liêm Chính vẫn được duy trì nhiều năm nay, có 10 hộ trong nhóm này. Một số hộ còn mở cửa hiệu xay xát lúa gạo, nghiền bột, tận dụng sản phẩm thừa phát triển chăn nuôi lợn, gà. Như vậy qua biểu 6 ta thấy ngành nghề nông thôn trong các hộ nông dân trên địa bàn xã Liêm Chính rất đa dạng là sự lựa chọn của đa số hộ nông dân để phát triển kinh tế gia đình mình, và nó có vai trò cực kì quan trọng đối với địa phương. 3.1.2. Thông tin về chủ hộ ngành nghề và thực trạng cơ sở vật chất kĩ thuật - điều kiện sản xuất kinh doanh của hộ ngành nghề trên địa bàn xã Liêm Chính - thị xã Phủ Lý – tỉnh Hà Nam 3.1.2.1 thông tin chung về chủ hộ ngành nghề trên địa bàn xã Liêm Chính - thị xã Phủ Lý – tỉnh Hà Nam Việc ra quyết định sản xuất kinh doanh không phải ai khác đó chính là các chủ hộ ngành nghề. Mỗi quyết định của họ ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả và hiệu quả của quá trình sản xuất kinh doanh, các quyết định có mức độ thế nào phụ thuộc vào nhận thức vào trình độ và độ tuổi của chính chủ hộ, những thông tin này được tôi trực tiếp điều tra các chủ hộ ngành nghề và tổng hợp kết quả điều tra ở biểu 6 . Biểu 6: Thực trạng về chủ hộ ngành nghề trên địa bàn xã Liêm Chính- thị xã Phủ Lý- tỉnh Hà Nam Chỉ tiêu ĐVT Chế biến NS- Thực phẩm Công nghiệp, XD, VT Dịch vụ Tổng hay BQ A. Số chủ hộ ngành nghề Chủ hộ 38 43 67 148 Độ tuổi: Từ 18 đến 35 Chủ hộ 12 3 6 21 Từ 35 đến 55 Chủ hộ 24 39 60 123 Trên 55 Chủ hộ 2 1 1 4 Không học hết cấp I Chủ hộ 1 0 0 1 Lớp học văn hóa cao nhất Chủ hộ 9.03 10.23 9.39 9.54 Qua đào tạo công nhân- THCN Chủ hộ 5 25 17 47 Qua đào tạo cao đẳng trở lên Chủ hộ 1 7 4 12 Tuổi bình quân một chủ hộ Tuổi 39.84 39.07 39.36 39.40 B. Chủ hộ nữ Chủ hộ 5 7 14 26 Độ tuổi: Từ 18 đến 35 Chủ hộ 4 3 4 11 Từ 35 đến 55 Chủ hộ 1 4 9 14 Trên 55 Chủ hộ 0 0 1 1 Không học hết cấp I Chủ hộ 1 0 0 1 Lớp học văn hóa cao nhất Chủ hộ 7.41 10.36 9.37 9.15 Qua đào tạo công nhân- THCN Chủ hộ 2 5 8 15 Qua đào tạo cao đẳng trở lên Chủ hộ 0 0 1 1 Tuổi bình quân một chủ hộ Tuổi 30.2 26.5 33.96 30.83 B. Chủ hộ nam Chủ hộ 33 36 53 122 Độ tuổi: Từ 18 đến 35 Chủ hộ 8 0 2 10 Từ 35 đến 55 Chủ hộ 23 35 51 109 Trên 55 Chủ hộ 2 1 0 3 Không học hết cấp I Chủ hộ 0 0 0 0 Lớp học văn hóa cao nhất Chủ hộ 9.27 10.2 9.39 9.59 Qua đào tạo công nhân- THCN Chủ hộ 3 20 9 32 Qua đào tạo cao đẳng trở lên Chủ hộ 1 7 3 11 Tuổi bình quân một chủ hộ Tuổi 41.3 41.51 40.78 41.11 Các chỉ tiêu đánh giá Tỷ lệ chủ hộ nam/ số chủ hộ NN % 86.84 83.72 79.10 82.43 Tỷ lệ chủ hộ nữ/ số chủ hộ NN % 13.16 16.28 20.90 17.57 Tỷ lệ chủ hộ tuổi 35- 55/ số chủ hộ % 63.16 90.70 89.55 83.11 Tỷ lệ chủ hộ qua đào tạo/ số chủ hộ % 15.79 74.42 31.34 39.86 Nguồn: Số liệu điều tra trực tiếp từ các hộ ngành nghề Qua biểu 6 ta thấy trong số 148 hộ ngành nghề năm 2003 đa phần các chủ hộ ngành nghề ở tuổi từ 35 đến 55 tuổi với 123 người đạt tỷ lệ 83.11% trong khi đó chỉ có 4 chủ hộ trên 55 tuổi và 21 chủ hộ dưới 35 tuổi, thực tế này là rất tốt cho phát triển ngành nghề vì càng có tuổi thì kinh nghiệm cũng như nhận thức, kĩ năng tay nghề của người ta càng được nâng cao lên do đó nó sẽ làm tăng năng suất lao động tăng khả năng làm việc hiệu quả. Biểu 2 cũng cho ta biết bình quân chủ hộ ngành nghề có trình độ học văn hóa đến lớp 9.54 chỉ có duy nhất một chủ hộ không học qua cấp I và chủ hộ này làm nghề đậu. Như vậy so với độ tuổi bình quân là 39.4 tuổi mà chủ hộ đã qua phổ cập giáo dục cơ sở rộng rãi thì sự nhận thức cơ bản ở chủ hộ là tốt, lớp học văn hóa càng cao cũng đồng thuận với nhận thức của chủ hộ càng cao, khả năng tính toán tốt cho phép chủ hộ lựa chọn những phương thức sản xuất kinh doanh hiệu quả. Cũng qua phỏng vấn chủ hộ, được biết số chủ hộ ngành nghề đã qua đào tạo ở các cơ sở đào tạo nghề chỉ có 59 chủ hộ chiếm tỷ lệ 39.86% như vậy hơn một nửa chủ hộ chưa qua đào tạo, các hộ qua đào tạo nghề chủ yếu là chủ hộ công nghiệp- xây dựng- vận tải với 32 chủ hộ chiếm 74.42% trong số chủ hộ qua đào tạo, nhóm hộ chế biến nông sản có số chủ hộ qua đào tạo thấp nhất với 6 chủ hộ được đào tạo làm nghề mộc, sản xuất bánh kẹo.Việc có được đào tạo nghề hay không ảnh hưởng rất lớn tới năng lực làm việc năng lực nhận thức của chủ hộ ngành nghề, tay nghề càng vững chủ hộ sẽ nắm bắt được kỹ thuật, biết cách phối hợp sản xuất có khoa học, nắm bắt được nhu cầu và thị hiếu của khách hàng. Trong số 148 chủ hộ thì chủ hộ nam có tới 122 chủ hộ chiếm 82.43% trong khi đó chủ hộ là nữ có 26 người chiếm 17.57% số này chỉ tập trung vào nghề may thêu, làm đậu, bán hàng. Như vậy đa phần chủ hộ ngành nghề là nam giới gấp gần 5 lần nữ giới, và nam giới là người đảm đương trọng trách lo kinh tế cho gia đình mình.Xét về tuổi tácthì tuổi của chủ hộ nữ là trẻ hơn so với nam giới, trung bình chủ hộ nữ ở độ tuổi 30.08 trong khi đó nam giới là 41.11 tuổi, vì yêu cầu tính chất của nghề may thêu đòi hỏi sự lao động cần cù ít cần tới sức khỏe nhưng sự tỷ mỷ rất quan trọng do đó nữ giới đảm đương nghề may phù hợp cho mình. Trong khi lao động nữ ít được đào tạo thì số chủ hộ nữ được đào tạo lại chiếm tỷ lệ cao với 16 chủ hộ trong số 26 chủ hộ nữ, số này ở chủ hộ nam chỉ là 43 chủ hộ trong số 122 chủ hộ nam. Theo cơ cấu ngành nghề thì chủ hộ nghề công nghiệp-xây dựng- vận tải qua đào tạo nhiều nhất với 32 chủ hộ chiếm tỷ lệ 74.42% trong số 59 chủ hộ qua đào tạo, đó cũng là do tính chất ngành nghề đòi hỏi. 3.1.2.2. Thực trạng cơ sở vật chất kĩ thuật- điều kiện sản xuất kinh doanh của hộ ngành nghề trên địa bàn xã Liêm Chính - thị xã Phủ Lý – tỉnh Hà Nam. a. Thực trạng cơ sở vật chất kĩ thuật của hộ ngành nghề trên địa bàn xã Liêm Chính - thị xã Phủ Lý – tỉnh Hà Nam. Đánh giá năng lực, mức độ và phương thức sản xuất kinh doanh, bước đầu tiên ta đánh giá thực trạng cơ sở vật chất kĩ thuật của hộ ngành nghề bởi vì bất kể 1 nền sản xuất nào cũng đều đặc trưng bởi phương thức sản xuất và quan hệ sản xuất với quy mô và mức độ như thế nào. Hiện trạng cơ sở vật chất kĩ thuật ở các hộ ngành nghề trên địa bàn xã Liêm Chính – Thị xã Phủ Lý - Tỉnh Hà Nam được thể hiện rõ qua biểu 7. Biểu7: Hiện trạng cơ sở vật chất kỹ thuật ở các hộ ngành nghề trên địa bàn xã Liêm Chính- thị xã Phủ Lý- tỉnh Hà Nam Chỉ tiêu ĐVT Chế biến NS- Thực phẩm Công nghiệp, xd, vt Dịch vụ Tổng, BQ Tổng số hộ ngành nghề Hộ 38 43 67 148 I. Hiện trạng nhà xởng của hộ Kiên cố Hộ 25 31 30 86 Bán kiên cố Hộ 13 12 37 62 Tạm Hộ 0 0 0 0 Tự có Hộ 38 43 64 145 Đi thuê Hộ 0 0 3 3 II. Điều kiện sản xuất kinh doanh Diện tích nhà xởng BQ một hộ m2/ hộ 40.32 44.26 39.53 41.11 Hộ dùng điện sản xuất kinh doanh Hộ 38 43 63 144 Hộ dùng nớc sản xuất kinh doanh Hộ 38 18 23 79 Hộ thiếu nớc sản xuất kinh doanh Hộ 24 0 0 24 Giá trị máy móc thiết bị Tr đ./ hộ 27.73 39.02 15.74 19.02 III. Trình độ kĩ thuật sản xuất kinh doanh Thủ công Hộ 11 0 0 11 Bán cơ khí Hộ 23 13 0 36 Cơ khí Hộ 4 30 0 34 Tự động Hộ 0 0 0 0 Các chỉ tiêu đánh giá Tỷ lệ nhà xởng kiên cố % 65.79 72.09 44.78 58.11 Tỷ lệ hộ tự có nhà xởng % 100 100 95.52 97.97 Tỷ lệ hộ dùng nớc cho sản xuất, KD % 100 41.86 34.33 67.63 Tỷ lệ hộ dùng điện cho sản xuất, KD % 100 100 94.03 97.39 Tỷ lệ hộ thủ công % 8.00 0.00 0.00 8.00 Tỷ lệ hộ bán cơ khí % 60.53 30.23 0.00 49.59 Tỷ lệ hộ cơ khí % 10.53 69.77 0.00 62.80 Nguồn: Số liệu điều tra trực tiếp từ các hộ ngành nghề Biểu 7 cho ta biết hiện trạng nhà xưởng, điều kiện sản xuất kinh doanh và trình độ kĩ thuật sản xuất kinh doanh của 148 hộ ngành nghề trong số 169 hộ nông dân được điều tra. Về hiện trạng nhà xưởng của hộ ngành nghề, không có hộ ngành nghề nào sử dụng nhà tạm để sản xuất kinh doanh, đa phần nhà xưởng của hộ thuộc diện kiên cố với 86 hộ chiếm tỷ lệ 58.11% các hộ, cụ thể có 25 hộ chế biến nông sản thực phẩm có nhà xưởng kiên cố, có 30 hộ dịch vụ có nhà xưởng kiên cố, có 321 hộ công nghiệp – xâydựng – dịch vụ có nhà xưởng kiên cố chiếm tỷ lệ 72.09% số hộ công nghiệp – xây dựng -vận tải. Cũng theo điều tra trực tiếp, tôi thấy gần như tuyệt đối các hộ ngành nghề tự có nhà xưởng với 145 hộ trong số 148 hộ chiếm 97.93%, phải có 3 hộ ngành nghề là phải đi thuê cửa hàng để làm dịch vụ rửa xe sửa chữa xe đạp, xe máy và dịch vụ bán hàng. Qua những điều tra trên ta thấy điều kiện về nhà xưởng trong các hộ ngành nghề là rất tốt cho việc ổn định và phát triển sản xuất kinh doanh, nhà xưởng kiên cố và tự có là đa số đã giúp cho các hộ ngành nghề giảm được sự nhr hưởng của điều kiện bất lợi từ tự nhiên tưng cường sự chắc chắn chống kẻ trộm qụây phá và giảm chi phí thuê nhà xưởng, từ đó chủ hộ yên tâm hơn để sản xuất kinh doanh. Về các điều kiện sản xuất kinh doanh đa số các hộ dùng điện cho sản xuất kinh doanh là 144 hộ chiếm tỷ lệ 97.39% trong số 148 hộ ngành nghề chỉ còn lại 4 hộ không dùng điện là hộ dịch vụ buôn bán gà, nông sản rau cỏ. Về nước: có tới 79 hộ dùng nước cho sản xuất kinh doanh chiếm tỷ lệ 67.63% trong tổng số 148 hộ ngành nghề trong đó có tới 100% hộ chế biến nông sản thực phẩm sử dụng nước để sản xuất kinh doanh, ngược lại các hộ dịch vụ ít sử dụng nước phục vụ cho kinh doanh chỉ có 23 hộ trong số 67 hộ dịch vụ chiếm tỷ lệ 34.33%. Như vậy điện và nước là hai nhu cầu cốt yếu của các hộ ngành nghề đặc biệt là điện, nhu cầu về nước đòi hỏi gắt gao ở các hộ chế biến nông sản thực phẩm nhất là nghề làm đậu và nấu rượu, hộ thuộc diện này phải cần nước sạch để sản xuất kinh doanh nhưng có tới 24 hộ trong tổng số 38 hộ chế biến thiếu nước sạch để sản xuất kinh doanh. Hiện tại trên địa bàn xã Liêm Chính điện đã phủ khắp các thôn xóm đến tận gia đình từ năm 1988, nhưng việc cung cấp nước sạch cho sinh hoạt đời sống và cho sản xuất kinh doanh của người dân trong xã là còn rất chậm , một phần cũng vì chi phí lớn mà chưa có điều kiện cung cáp nước sạch tới các hộ do đó đã ảnh hưởng tới các hộ ngành nghề trực tiếp sử dụng nước cho sản xuất kinh doanh.Về mặt bằng sản xuất kinh doanh bình quân mỗi hộ ngành nghề sử dụng 41.11m2 diện tích để làm nhà xưởng sản xuất kinh doanh trong số đó hộ công nghiệp – xây dựng – vận tải sử dụng không gian rộng hơn để làm nhà xưởng tới 44.26 m2bình quân 1 hộ. Trong 148 hộ ngành nghề thì bình quân giá trị máy móc thiết bị sử dụng cho sản xuất kinh doanh là 19.02 triệu đồng/ 1 hộ, cao nhất là hộ công nghiệp đạt 39.02% gấp 2.05 lần mức chung, điều đó chứng tỏ các hộ làm công nghiệp – xây dựng – vận tải cần phải có vốn lớn hơn, không gian rộng để sản xuất ra nhưngx sản phẩm có giá trị cao. Cá hộ dịch vụ chỉ cần trang bị về phương tiện trưng bày lưu giữ hàng hoá dịch vụ như tủ kệ hàng, hòm… Do đó giá trị máy móc thiết bị phục vụ sản xuất kinh doanh thấp chỉ có 15.74 triệu đồng/ 1 hộ. Các hộ ngành nghề chọn phương thức nào cho sản xuất kinh doanh, qua điều tra đánh giá tôi thấy các hộ công nghiệp – xây dựng – vận tải đa phần là sản xuất bằng phương tiện cơ khí với 30 hộ trong số 43 hộ trong khi đó hộ chế biến nông sản thực phẩm đa phần là sản xuất bằng phương nửa cơ khí nửa thủ công với 23 hộ chiếm tỷ lệ 60.53% các hộ chế biến. Không có hộ nào sản xuất bằng phương thức tự động hoá hoàn toàn và cũng chỉ có 11 hộ sản xuất thủ công thuộc nhóm hộ nấu rượu làm đậu chiếm 8% trong tổng số 148 hộ ngành nghề. Như vậy qua biểu 7 ta thấy hiện trạng cơ sở vật chất kĩ thuật về nhà xưởng, điều kiện sản xuất kinh doanh trong các hộ ngành nghề là rất tốt, đáp ứng dược yêu cầu cho sản xuất kinh doanhở phần lớn các hộ, mặc dù vậy trình độ sản xuất kinh doanh ở hai nhóm hộ chế biến và công nghiệp còn hạn chế, điều này sẽ gây rất nhiều khó khăn cho việc sản xuất ra sản phẩm có giá trị cao, mẫu mã chất lượng tốt phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng. b. Thực trạng về vốn của hộ ngành nghề trên địa bàn xã Liêm Chính - thị xã Phủ Lý – tỉnh Hà Nam. Biểu 8: Thực trạng vốn của hộ ngành nghề trên địa bàn xã Liêm Chính – thị xã Phủ Lý – tỉnh Hà Nam (Tính bình quân cho một hộ ngành nghề năm 2003) Chỉ tiêu Tổng vốn (1000.đ ) Vốn tự có (1000.đ ) Vốn vay (1000.đ ) Vốn cố định (1000.đ ) Vốn lưuđộng (1000.đ ) A. Hộ ngành nghề 34421 32414 2007 20741 13680 I. Hộ chế biến nông sản thực phẩm 34530 33556 974 20621 13909 Sản xuất bánh keo 214500 214500 0 121000 93500 Xay xát 36400 35400 1000 25200 11200 Rượu 14150 13550 600 8920 5230 Đậu 10710 10040 670 6190 4520 Mộc 57660 54950 2710 34160 23500 Bún 19450 19450 0 14100 5350 Bánh mỳ 25000 25000 0 10000 15000 II. Hộ công nghiệp – XD – vận tải 51030 46751 4279 33084 17946 Vận tải 70140 63710 6430 47390 22750 Xâydưng, sản xuất nguyên vật liệu 33590 33590 0 25200 8690 Gò hàn, cơ khí 72410 62810 9600 44060 28350 May thiêu 42400 37290 5110 24140 18260 Khác( bật chăn bông, đúc) 27730 27730 0 15800 11930 III. Hộ dịch vụ 23699 22565 1134 12887 10812 Buôn bán 20750 19870 880 9360 11390 Bán hàng 21060 19190 1870 12150 8910 Dịch vụ đầu vào 31280 31280 0 13930 17350 Dịch vụ tổng hợp 35980 34980 1000 23550 12430 Dịch vụ phụcvụ lễ nghi tiệc 10850 10850 0 7100 3750 Nguồn: Số liệu điều tra trực tiếp từ các hộ ngành nghề Vốn là một trong những yếu tố có vai trò rất lớn ảnh hưởng đến phát triển sản xuất kinh doanh ngành nghề trong các hộ nông dân, quy mô vốn lớn cũng đồng nghĩa với việc mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, trang bị máy móc thiết bị vật dụng hiện đại có tính năng cao góp phần nâng cao chất lượmg sản phẩm, hạ giá thành sản phẩm từ đó hộ ngành nghề có cơ sở sản xuất kinh doanh có hiệu quả, ngược lại quy mô vốn nhỏ đồng nghĩa với việc sản xuất với quy mô nhỏ khả năng quay vòng sản xuất kinh doanh chậm kìm hãm sự phát triển ngành nghề. Qua điều tra thực tế tôi tập hợp được số liệu về thực trạng vốn của các hộ ngành nghề và khả năng về vốn của những hộ đưọưc điều tra đó, số liệu được thể hiện trong biểu 8, 8b. Biểu 8b: Thực trạng khả năng vốn của hộ ngành nghề trên địa bàn xã Liêm Chính – thị xã Phủ Lý – tỉnh Hà Nam Chỉ tiêu Năm2001 Năm2002 Năm2003 Tổng tiền vốn vay năm 2003(tr. đ) Ngân hàng Các quỹ, ngoài Tổng vay Tổng số hộ vay vốn 44 38 32 211 86 297 A. Hộ chế biến nông sản thực phẩm 12 10 10 17 20 37 Xay xát 2 1 1 2 2 4 Mộc 2 2 2 15 4 19 Rượu 3 3 3 0 6 6 Đậu 5 4 4 0 8 8 B. Hộ công nghiệp – XD – vận tải 14 11 9 144 40 184 Vận tải 7 5 5 80 10 90 Gò hàn, cơ khí 4 3 2 30 18 48 May thiêu 3 3 2 34 12 46 C. Hộ dịch vụ 18 17 13 50 26 76 Buôn bán 5 7 4 15 7 22 Bán hàng 8 7 7 28 15 43 Dịch vụ tổng hợp 3 2 2 7 4 11 Dịch vụ đầu vào 2 1 0 0 0 0 Các chỉ tiêu đánh giá Tỷ lệ hộ ngành nghề có vay vốn 30.99 26.21 21.62 Tỷ lệ hộ ngành nghề đủ vốn 69.01 73.79 78.38 Tỷ lệ vốn vay /tổng vốn 5.83 Tỷ lệ hộ chế biến vayvốn 26.32 Tỷ lệ hộ CN, XD, VTvay vốn 20.93 Tỷ lệ hộ dịch vụ vay vốn 19.40 Nguồn: Số liệu điều tra trực tiếp từ các hộ ngành nghề Qua hai biểu 8, 8b cho thấy tổng vốn và cơ cấu vốn bình quân một hộ ngành nghề trên địa bàn xã năm 2003. Mỗi hộ ngành nghề có tổng vốn bình quân là 34421 ngàn đồng, trong đó hộ sản xuất kẹo có tổng vốn cao nhất trong số các hộ ngành nghề đạt 214500 ngàn đồng gấp 6.23 lần mức bình quân, và hộ làm đậu có mức vốn nhỏ nhất đạt 1071 ngàn đồng/ một hộ bằng một phần ba mức trung bình một hộ ngành nghề, khoảng cách quá lớn này được tạo ra do tính chất và quy mô sản xuất kinh doanh mỗi ngành nghề , xét theo nhóm hộ thì nhóm hộ chế biến nông sản thực phẩm có mức vốn xấp xỉ bằng mức bình quân hộ ngành nghề trong khi đó hộ dịch vụ chỉ đạt 27730 ngàn đồng bằng 0.8 lần mức bình quân, nhóm hộ công nghiệp – xây dựng – vận tải có mức tổng vốn cao trong ba nhóm bình quân mỗi hộ có số vốn là 5103 ngàn đồng bằng 1.48 lần mức bình quân mỗi hộ ngành nghề. Hộ làm công nghiệp - xây dựng – vận tải sản xuất kinh doanh các sản phẩm có giá trị lớn số vong luân chuyển vốn chậm hơn so với các ngành nghề khác do đó đòi hỏi một lượng vốn lớn để thực hiện quá trình sản xuất kinh doanh. Xét về cơ cấu vốn tự có và vốn vay, bình quân một hộ ngành nghề vay 2007 ngàn đồng, mức vay ở các hộ công nghiệp – xây dựng – vận tải là cao nhất bình quân mỗi hộ vay số tiền 4179 ngàn đồng cho sản xuất kinh doanh, mức vay ở các hộ chế biến nông sản thực phẩm là thấp nhất bình quân mỗi hộ vay 974 ngàn đồng trong đó hai hộ sản xuất kinh doanh kẹo , các hộ làm bún, bánh không vay vốn do các hộ năng tham gia ngành nghề này từ lâu trong khi đó hộ làm ăn rất hiệu quả có thu nhập cao nên khả năng vốn của hộ là rất tốt. Nói về vốn tự có, hai hộ sản xuất bánh kẹo có số vốn tự có cao nhất với 214500 ngàn đồng vốn một hộ, hộ dịch vụ phục vụ lễ tiệc và hộ làm đậu có số vốn tự có nhỏ nhất; như vậy bình quân mỗi hộ ngành nghề có số vốn 34421 ngàn đồng thì vốn tự có là 32414 ngàn đồng vốn vay là 2007 ngàn đồng. Hay có 17 đồng vốn thì có 16 đồng vốn tự có chỉ có một đồng vốn vay. Có thể nói hộ ngành nghề vay vốn để phục vụ sản xuất kinh doanh là rất ít điều này do hai nguyên nhân cơ bản sau: Đa số các hộ làm ngành nghề nhiều năm lại làm ăn có hiệu quả nên khả năng vốn là tốt. Do thủ tục vay vốn cũng như các quy định vốn vay còn ngặt nghèo rườm rà không tạo điều kiện cho người vay vốn nên các hộ ngành nghề ít vay. Trong số 148 hộ ngành nghề diều tra thì có 44 hộ vay vốn năm 2001và 38 hộ vay vốn 2002, năm 2003 chỉ có 32 hộ . Với 32 hộ có vay vốn tổng số tiền vay là 297000 ngàn đồng trong đó vay ngân hàng là 211000 ngàn đồng chiếm 71% tổng vốn vay tập trung chủ yếu ở nhóm hộ công nghiệp – xây dựng – vận tải cần có nguồn vốn lớn, các hộ khác vay vốn chủ yếu từ các quỹ tín dụng nhân dân với mức vay dao động từ 1 triệu đến 3 triệu đồng mà quỹ quy định với thời gian ngắn có 3 năm; mức vốn vay của 32 hộ chiếm tỷ lệ 5.83% trong tổng vốn của hộ ngành nghề tính chung tỷ lệ hộ ngành nghề vay vốn là cứ 5 hộ thì có gần 1 hộ có vay vốn sản xuất kinh doanh còn hộ kia không phải vay vốn. Như vậy vốn thực trạng của các hộ vay cũng không đáng kể, số hộ vay vốn năm sau ít hơn năm trước chứng tỏ ngành nghề ở các hộ nông dân rất phát triển và đạt hiệu quả cao. c. Thực trạng về lao động của hộ ngành nghề trên địa bàn xã Liêm Chính - thị xã Phủ Lý – tỉnh Hà Nam. Lao động là một yếu tố sản xuất đặc biệt rất quan trọng đối với mọi quá trình sản xuất kinh doanh trong các hộ ngành nghề, trình độ người lao động quyết định năng xuất và chất lượng sản phẩm sẽ xuất dịch vụ tạo ra, quy mô lao động cũng đồng nghĩa với quy mô sản xuất ở mỗi hộ ngành nghề. Lực lượng lao động có dồi dào có tay nghề sẽ tạo điều kiện sản xuất kinh doanh có hiệu quả, bên cạnh đó năng lực của chủ hộ sản xuất cũng là yếu tố quyết định tới sự phát triển sản xuất kinh doanh ở các hộ ngành nghề. Qua điều tra trực tiếp từ các hộ ngành nghề nông thôn của xã Liêm Chính tôi có số liệu tổng hợp về thực trạng lao động ở các hộ ngành nghề từ năm 2001 đến 2003 ở biểu 9. Biểu 9: Thực trạng sử dụng lao động ở các hộ ngành nghề trên địa bàn xã Liêm Chính- thị xã Phủ Lý- tỉnh Hà Nam Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 So sánh(%) SL CC(%) SL CC(%) SL CC(%) 02/01 03/02 BQ A. Tổng lao động thờng xuyên 348 100 361 100 373 100 103.74 103.32 103.53 LĐ chế biến 116 33.33 117 32.41 121 32.44 100.86 103.42 102.13 LĐ côngnghiệp, xd, vận tải 111 31.90 120 33.24 128 34.32 108.11 106.67 107.38 LĐdịch vụ 121 34.77 124 34.35 124 33.24 102.48 100.00 101.23 I. Tổng lao động thuê ngoài 69 19.83 79 21.88 93 24.93 114.49 117.72 116.10 Hộ chế biến 28 40.58 31 39.24 38 40.86 110.71 122.58 116.50 Hộ côngnghiệp, xd, vận tải 31 44.93 38 48.10 44 47.31 122.58 115.79 119.14 Hộ dịch vụ 10 14.49 10 12.66 11 11.83 100.00 110.00 104.88 II. Tổng lao động trong hộ 279 80.17 282 78.12 280 75.07 101.08 99.29 100.18 Hộ chế biến 88 31.54 86 30.50 83 29.64 97.73 96.51 97.12 Hộ côngnghiệp, xd, vận tải 80 28.67 82 29.08 84 30.00 102.50 102.44 102.47 Hộ dịch vụ 111 39.78 114 40.43 113 40.36 102.70 99.12 100.90 B. Hộ chia theo lao động 142 100 145 100 148 100 102.11 102.07 102.09 Hộ 1- 2 lao động 81 57.04 82 56.55 84 56.76 101.23 102.44 101.84 Hộ 3- 5 lao động 51 35.92 53 36.55 54 36.49 103.92 101.89 102.90 Hộ có từ 5 lao động trở lên 10 7.04 10 6.90 10 6.757 100.00 100.00 100.00 C. Trình độ lao động Cha qua đào tạo 237 68.10 241 66.76 248 66.49 101.69 102.90 102.29 Qua đào tạo CN, THCN, nghề 87 25.00 94 26.04 98 80.99 108.05 104.26 106.13 Qua đào tạo cao đẳng trở lên 24 6.90 26 7.20 27 21.09 108.33 103.85 106.07 Các chỉ tiêu đánh giá Tỷ lệ hộ có 1- 2 lao động 57.04 56.55 56.76 99.14 100.36 99.75 Tỷ lệ hộ có 3- 5 lao động 35.92 36.55 36.49 101.77 99.82 100.79 Tỷ lệ hộ có trên 5 lao động 7.04 6.90 6.757 97.93 97.97 97.95 Tỷ lệ lao động hộ/ tổng LĐ 80.17 78.12 75.07 97.44 96.10 96.76 Tỷ lệ lao động thuê/ tổng LĐ 19.83 21.88 24.93 110.37 113.93 112.14 Tỷ lệ lao động chế biến/ tổng LĐ 33.33 32.41 32.44 97.23 100.09 98.65 Tỷ lệ lao động CN, XD, VT/ tổng LĐ 31.90 33.24 34.32 104.22 103.24 103.72 Tỷ lệ lao động dịch vụ/ tổng LĐ 34.77 34.35 33.24 98.79 96.78 97.78 Tỷ lệ lao động thờng xuyên ở một hộ 2.451 2.490 2.520 101.59 101.2 101.41 Nguồn: Số liệu điều tra trực tiếp từ các hộ ngành nghề Nhìn tổng quan biểu 9 ta thấy tổng số lượng lao động thường xuyên năm sau cao hơn năm trước: năm 2001 là 348 lao động trong 142 hộ ngành nghề, năm 2003 là 361 lao động trong 148 hộ ngành nghề. Tổng lao động thường xuyên tăng lên là do hai lý do sau: Do các hộ mở rộng sản xuất kinh doanh nên thuê lao động, bình quân mỗi năm thuê thêm 6.5 lao động , số này là không đáng kể. Lao động tăn chủ yếu là tăng số hộ ngành nghề từ 142 năm 2001 lên 148 năm 2003 Từ điều tra có thể thấy kinh tế hộ nông dân có sự chuyyển dịch từ ngành nghề kém hiệu quả là làm ruộng sang các nghề công nghiệp và dịch vụ có thu nhập cao hơn. Như vậy kinh tế ngành nghề ngày càng có vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế hộ nông dân trên địa bàn xã Liêm Chính. Xét về cơ cấu lao động: năm2001 trong 348 lao động thường xuyên ở 142 hộ thì lao động thuê ngoài là 69 lao động, số lao động trong hộ là 279 người; năm 2002 trong số 361 lao động ở 145 hộ thì lao động thuêngoài là 76 lao động, số lao động trong hộ là 291 lao động. Từ đó ta thấy ngành nghề nông thôn ở các hộ trên địa bàn xã Liêm Chính giải quyết tại chỗ việc làm cho lao động trong hộ điều này là rất tốt cho quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động tạo việc làm cho lao động ở nông thôn tránh tình trạng thất nghiệp xảy ra. Mỗi hộ ngành nghề sẽ thu hút 2.52 lao động trong đó sẽ giải quyết 1.96 lao động trong hộ còn lai nhận 0.56 lao động bên ngoài làm thuê. Số hộ ngành nghề có quy mô không quá hai lao động chiếm hơn một nửa do đa số tập trung vào các hộ làm dịch vụ và hộ chế biến nông sản thực phẩm. Hộ có 5 lao động trở lên là những hộ làm bánh kẹo, hộ làm cơ khí, may và hộ bán hàng tổng hợp, đặc biệt có hai hộ làm bánh kẹo thuê tới 28 lao động ngoài, hộ có 3-5 lao động chỉ chiếm 36% điều đó chứng tỏ quy mô ngành nghề trong hộ chủ yếu vẫn là quy mô nhỏ Xét về trình độ lao động: trong số 373 lao động ở 148 hộ ngành nghề có tới 248 lao động chưa qua đào tạo chiếm 66.49% số lao động chỉ có 26.27% lao động qua đào tọ nghề và 7.24% lao động có trình độ cao đẳng trở lên, lao động chưa qua đào tạo chiếm đa số sẽ gây ảnh hưởng xấu tới năng suất lao động, chất lượng sản phẩm làm ra từ đó làm giảm tính hiệu quả trong sản xuất kinh doanh. 3.1.3. Thực trạng kết quả sản xuất kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm của các hộ ngành nghề trên địa bàn xã Liêm Chính - thị xã Phủ Lý – tỉnh Hà Nam. Kết quả sản xuất kinh doanh của hộ ngành nghề trên địa bàn xã Liêm Chính được thể hiện qua biểu 10. Tổng giá trị sản xuất kinh doanh ở 148 hộ ngành nghề năm 2003 đạt 18677800 ngàn đồng tăng 12.6% so với năm 2002, tính bình quân mỗi năm tăng 12.78%. Kết quả này đạt được là do hai yếu tố: do tổng giá trị sản phẩm sản xuất kinh doanh tạo ra ở mỗi hộ ngành nghề tăng 10.5% một năm mặt khác do số hộ ngành nghề hàng năm tăng 2.09%.Mỗi hộ ngành nghề tạo ra giá trị sản phẩm sản xuất kinh doanh đạt 126201 ngàn đồng năm 2003. Nhóm hộ chế biến nông sản – thực phẩm với 38 hộ đạt tổng giá trị sản xuất là 3956850 ngàn đồng chiếm 21.18% tổng giá trị sản xuất của 148 hộ ngành nghề năm 2003, trung bình mỗi hộ tạo ra giá trị sản phẩm sản xuất là 104128 ngàn đồng thấp hơn mức trung bình. Hai hộ sản xuất bánh kẹo tạo ra giá trị sản xuất cao nhất đạt 1263780 ngàn đồng chiếm 31.94% so với nhóm hộ chế biến nông sản – thực phẩm, tính bình quân mỗi hộ sản xuất bánh kẹo có quy mô sản xuất lớn là hộ có nhiều lao động nhất, có vốn lớn. Các hộ chế biến nông sản – thực phẩm tạo ra giá trị sản xuất sở dĩ ở mức thấp là do các sản phẩm của nghề chế biến thường là các sản phẩm có giá trị thấp, thời gian sử dụng ngắn, việc bảo quản sản phẩm sản xuất ra khó khăn không để lâu được trong khi đó nghề làm công nghiệp – xây dựng – vận tải thì ngược lại. Hàng năm giá trị sản phẩm sản xuất ra từ nghề chế biến nông sản thực phẩm tăng 4.99% thấp hơn nhiều so với mức tăng chung ở 148 hộ ngành nghề nguyên nhân do các hộ làm đậu, nấu rượu đã chuyển sang làm ngành nghề khác có hiệu quả hơn nghề cũ còn các nghề khác trong nhóm này có tốc độ tăng trưởng không cao, thực tế này cho thấy nghề chế biến nông sản – thực phẩm có tăng trưởng về giá trị sản xuất nhưng tốc độ tăng trưởng chưa cao. ở nhóm hộ làm công nghiệp – xây dựng – vận tải. Tổng giá trị sản phẩm sản xuất của 43 hộ năm 2003 đạt 7531860 ngàn đồng chiếm tyr lệ 40.33% tổng giá trị sản phẩm sản xuất kinh doanh của 148 hộ ngành nghề và là nhóm hộ có giá trị sản xuất cao nhất. Tính bình quân cho mỗi hộ trong nhóm, giá trị sản phẩm sản xuất ra một năm đạt 175160 ngàn đồng gấp 1.39 lần giá trị sản phẩm sản xuất kinh doanh bình quân một hộ ngành nghề. Mỗi lao động làm công nghiệp – xây dựng – vận tải tạo ra giá trị sản phẩm 58 843 ngàn đồng trên một lao động cao hơn giá trị sản phẩm bình quân một lao động ngành nghề. Các hộ làm vận tải có giá trị vận tải cao nhất với 14 hộ chiếm tổng giá trị là 60.23% trong nhóm hộ làm công nghiệp – xây dựng – vận tải. Mặc dù có nhiều hộ làm vận tải nhưng giá trị vận chuyển hàng hoá dịch vụ trung bình một hộ đạt được là 324044 ngàn đồng cao gấp 2.57 lần giá trị sản phẩm sản xuất bình quân một hộ ngành nghề trong một năm, điều đó chứng tỏ ngành vận tải chuyên chở hàng hoá dịch vụ là một ngành phát triển ở xã Liêm Chính. Các hộ làm vận tải đã khai thác lợi thế của địa phương được nằm trên thị trường rộng lớn nơi có lưu luợng hàng hoá, người qua lại nhiều để phát triển mạnh nghề vận chuyển hàng hoá dịch vụ đem lại kết quả cao. Mỗi năm một lao động làm vận tải vận chuyển được 137473 ngàn đồng giá trị hàng hoá vận chuyển gấp 2.7 lần các lao động làm ngành nghề nói chung. Liêm Chính tuy là một xã ven thị nhưng chục năm trở lại đây kinh tế địa phương phát triển mạnh, sức mua của người dân cũng tăng lên, thị trường ngày càng được mở rộng. do vậy mà ngành công nghiệp – xây dựng – vận tải có tốc độ tăng trưởng cao nhất cũng là ngành đạt kết quả sản xuất kinh doanh khả quan so với ngành dịch vụ và nghề chế biến nông sản – thực phẩm. Đối với các hộ làm dịch vụ, các hộ buôn bán và các hộ bán hàng chiếm số đông trong nhóm này cũng là các hộ có tổng giá trị hàng hoá dịch vụ cao chiếm tỷ lệ lần lượt là 43.52%, 32.88%. Bình quân một hộ buôn bán đạt được giá trị hàng hoá buôn bán là 125152 ngàn đồng, gần bằng mức trung bình của hộ ngành nghề. Các hộ bán hàng hay hộ làm dịch vụ khác tạo ra giá trị dịch vụ hàng hoá một năm thấp hơn giá trị hàng hoá sản xuất kinh doanh tính chung cho toàn bộ ngành nghề. Do đó tuy các hộ dịch vụ chiếm số đông trong các hộ ngành nghề tới 45.27% nhưng giá trị hàng hoá dịch vụ chỉ chiếm có 38.49% trong ba nhóm hộ ngành nghề. Kết quả sản xuất kinh doanh đạt ở mức độ như vậy là do quy mô vốn cũng như quy mô lao động của các hộ dịch vụ là thấp. Tuy nghề làm dịch vụ trên địa bàn xã có lợi thế phát triển nhưng lợi thế này hầu hết thuộc về các hộ nằm dọc theo trục đường chính trong xã. Qua phân tích kết quả sản xuất kinh doanh của các hộ ngành nghề ta nhận thấy trên địa bàn xã Liêm Chính hiện nay nghề làm công nghiệp – xây dựng – vận tải là nghề đem lại kết quả cao nhất cũng là nghề có tốc độ tăng trưởng cao về giá trị sản xuất và cũng là nghề phát triển tốt nhất. Về thị trường tiêu thụ các sản phẩm hộ ngành nghề sản xuất kinh doanh tạo ra. Lợi thế của Liêm Chính là nằm ngay trên thị trường tiêu dùng rộng lớn có khả năng thanh toán cao, là nơi có lượng người qua lại hàng ngày rất đông, không những thế nhiều ngành nghề trong hộ nông dân đã có từ lâu và trở thành nghề truyền thống như nghề mộc, nghề làm bún làm đậu… Do đó mà các hộ ngành nghề đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm sản xuất kinh doanh, sản phẩm hàng hoá dịch vụ được tẩo luôn được thị trường tiêu thụ đánh giá cao về chất lượng. Các sản phẩm của nghề chế biến nông sản – thực phẩm được tiêu thụ ở nhiều hình thức theo sơ đồ sau: Bán lẻ Bán buôn Đại lý Người tiêu dùng Hộ sản xuất Bán buôn Bán lẻ Bán lẻ Đối với các sản phẩm chính từ nghề làm đậu nấu rượu được bán lẻ tới tay người tiêu dùng là hầu hết. Sản phẩm kẹo bánh làm ra được tiêu thụ rộng rãi ở các thị trường trong và ngoài tỉnh với hình thứcc cung cấp sản phẩm cho các đại lý lớn hoặc bán buôn cho các khách hàng quên thuộc, một lượng rất nhỏ kẹo bánh được bán lẻ trực tiếp từ hộ sản xuất tới tay người tiêu dùng. Các sản phẩm từ nghề làm cơ khí gò hàn may thêu, mộc, bật chăn bông… đa phần tiêu thụ ngay theo hình thức các khách hàng đến đặt hàng trước cho hộ sản xuất theo tiêu chuẩn mà khách hàng đặt ra trước đó. Nhóm hộ dịch vụ chọn hình thức kinh doanh rất đa dạng. Đối với hộ buôn bán thì các hộ này mua hàng hoá rẻ từ mọi nơi cung cấp hàng hóa đem về bán lẻ hay bán buôn cho khách hàng ở Phủ Lý để kiếm lời. Hàng hoá buôn bán là hoa quả, rau, lương thực, thực phẩm, hàng may mặc…từ các đầu mối cung cấp tại địa phương hay ở các tỉnh khác. Còn đối với các hộ bán hàng hộ làm dịch vụ tổng hợp, hàng hoá được hộ mua về từ các đại lý bán hàng hoá tận dụng lợi thế nằm trên các trục đường, các hộ này mở cửa hiệu bán hàng với đủ mọi hàng hoá phục vụ cho nhu cầu sống của người dân. Sản phẩm từ các hộ sản xuất ra được tiêu thụ rất tốt, phần lớn là do thị trường Phủ Lý rất rộng lớn với nhu cầu đủ các loại hàng hoá đó cũng là một lợi thế tạo ra sự phát triển ngành nghề trong hộ nông dân trên địa bàn xã Liêm Chính – thị xã Phủ Lý – tỉnh Hà Nam. Biểu 10: Kết quả sản xuất kinh doanh của các hộ ngành nghề trên địa bàn xã Liêm Chính - thị xã Phủ Lý – tỉnh Hà Nam Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 So sánh(%) SL CC(%) SL CC(%) SL CC(%) 02/01 03/02 BQ Hộ ngành nghề 142 100 145 100 148 100 102.11 102.07 102.09 Tổng lao động thờng xuyên 348 100 361 100 373 100 103.74 103.32 103.53 Tổng giá trị sản xuất (triệu đồng) 14683.5 100 16587.84 100 18677.8 100 112.97 112.60 112.78 I. Nhóm hộ chế biến nông sản - thực phẩm 3589.95 24.45 3799.03 22.90 3956.85 21.18 105.82 104.15 104.99 Sản xuất bánh kẹo 1069.23 29.78 1171.25 30.83 1263.78 31.94 109.54 107.90 108.72 Xay xát 579.65 16.15 602.16 15.85 631.26 15.95 103.88 104.83 104.36 Rợu 405.24 11.29 416.18 10.95 395.61 10.00 102.70 95.06 98.80 Đậu 398.25 11.09 384.19 10.11 347.56 8.78 96.47 90.47 93.42 Mộc 954.11 26.58 1025.57 27.00 1102.95 27.87 107.49 107.55 107.52 Bún 91.84 2.56 98.35 2.59 105.16 2.66 107.09 106.92 107.01 Bánh mỳ 91.63 2.55 101.33 2.67 110.53 2.79 110.59 109.08 109.83 II. Nhóm hộ công nghiệp- xây dựng - vận tải 5819.83 39.64 6687.41 40.32 7531.86 40.33 114.91 112.63 113.76 Vận tải 3379.21 58.06 4013.48 60.02 4536.62 60.23 118.77 113.03 115.87 Xây dựng 374.85 6.44 414.27 6.19 453.47 6.02 110.52 109.46 109.99 Gò hàn, cơ khí 746.27 12.82 831.52 12.43 941.83 12.50 111.42 113.27 112.34 May thêu 964.18 16.57 1051.76 15.73 1183.53 15.71 109.08 112.53 110.79 Khác( bật chăn bông, đúc, sx khô mỡ) 355.32 6.11 376.38 5.63 416.41 5.53 105.93 110.64 108.26 III. Nhóm hộ dịch vụ 5273.68 35.92 6101.40 36.78 7189.08 38.49 115.70 117.83 116.76 Buôn bán 2003.55 37.99 2511.37 41.16 3128.79 43.52 125.35 124.58 124.96 Bán hàng 1940.43 36.79 2113.97 34.65 2363.76 32.88 108.94 111.82 110.37 Dịch vụ đầu vào 388.12 7.36 358.28 5.87 391.52 5.45 92.31 109.28 100.44 Dịch vụ tổng hợp 878.85 16.66 1050.81 17.22 1231.35 17.13 119.57 117.18 118.37 Dịch vụ phục vụ lễ nghi, tiệc 62.73 1.19 66.97 1.10 73.66 1.02 106.76 109.99 108.36 Chỉ tiêu đánh giá . Tổng giá trị sản phẩm sản xuất BQ 1hộ/năm 103.405 114.399 126.201 1.106 1.103 1.105 . Tổng giá trị sản phẩm sản xuất BQ 1LĐ/năm 42.194 45.950 50.075 1.089 1.090 1.089 Nguồn: Số liệu điều tra trực tiếp từ các hộ ngành nghề 3.1.4. Hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của hộ ngành nghề trên địa bàn xã Liêm Chính - thị xã Phủ Lý – tỉnh Hà Nam. Việc kết hợp các đầu vào trong quá trình sản xuất kinh doanh mỗi hộ ngành nghề tạo ra giá trị sản xuất kinh doanh 126201 ngàn đồng trong năm 2003 tăng 10.30% so với năm 2002 và đạt được các hiệu quả sau: Biểu11: Hiệu quả hoạt độngsản xuất kinh doanh của hộ ngành nghề trên địa bàn xã Liêm Chính - thị xã Phủ Lý – tỉnh Hà Nam. Chỉ tiêu Giá trị tăng thêm tạo ra trong năm tính BQ 1 hộ ( 1000 đồng) Giá trị tăng thêm tính BQ cho 1 LĐ thường xuyên ( 1000 đồng) Thu nhập trong năm tính BQ cho 1 hộ ( 1000 đồng) Thu nhập BQ trong năm tính cho 1 LĐ thường xuyên ( 1000 đồng) Tỷ suất thu nhập /1 đồng chi phí của hộ (%) I. Hộ chế biến nông sản thực phẩm 6525 2119 20809 6759 18.00 Sản xuất bánh kẹo 46265 2804 117975 7150 27.35 Xay xát 7273 2909 16836 6735 19.38 Rợu 1627 739 13398 6090 16.27 Đậu 1389 695 12512 6256 15.67 Mộc 11054 4073 20192 7439 21.03 Bún 3405 1135 20445 6815 17.28 Bánh mỳ 9200 3067 21090 7030 19.35 II. Hộ công nghiệp, xây dựng và vận tải 13401 4690 22462 7862 24.07 Vận tải 18580 8051 21231 9199 25.31 Xây dựng 4356 1705 19422 7693 20.74 Gò hàn, cơ khí 22062 5253 34440 8200 29.37 May thêu 14641 4251 23767 6901 24.49 Khác( bật chăn bông, đúc, sx khô mỡ) 6672 2669 17750 7101 21.31 III. Hộ dịch vụ 9443 4722 13436 6718 19.27 Buôn bán 13685 7168 12932 6774 19.75 Bán hàng 7345 3591 14052 6870 19.03 Dịch vụ đầu vào 6648 3324 13464 6732 18.97 Dịch vụ tổng hợp 8289 3768 14080 6400 18.85 Dịch vụ phục vụ lễ nghi, tiệc 2230 1338 10417 6250 19.43 Hộ ngành nghề 9629 3868 18079 7111 20.35 Nguồn: Số liệu điều tra trực tiếp từ các hộ ngành nghề Về giá trị tăng thêm tạo ra trong năm ở các hộ ngành nghề trong nhóm hộ chế biến nông sản – thực phẩm, hộ sản xuất bánh kẹo tạo ra giá trị tăng thêm cao nhất đạt 46265 ngàn đồng, hộ làm đậu là nhỏ nhất chỉ đạt 1389 ngàn đồng mỗi hộ. Tính bình quân mỗi hộ chế biến nông sản – thực phẩm tạo ra 6525 ngàn đồng giá trị tăng thêm. Sở dĩ hộ sản xuất bánh kẹo có giá trị tăng thêm cao hơn họ làm đậuvì quy mô lao động ở hai nhóm hộ này khác nhau, hộ sản xuất bánh kẹo có 16,2 lao động một hộ nhưng hộ làm đậu chỉ có 2 lao động một hộ, chính vì thế mà giá trị tăng thêm tính cho mỗi lao động ở hai hộ này khác nhau không lớn. Mỗi lao động làm nghề chế biến nông sản – thực phẩm tạo ra giá trị tăng thêm đạt 2119 ngàn đồng, trong đó lao động làm nghề mộc tạo ra giá trị tăng thêm là cao nhất với 4073 ngàn đồng một lao động gần gấp hai lần mức chung của nhóm. Lao động làm đậu và nấu rượu tạo ra giá trị tăng thêm thấp nhất chỉ là 739 ngàn đồng và 695 ngàn đồng trên một lao động bằng 1/3 mức chung của nhóm hộ chế biến nông sản thực phẩm chứng tỏ lao động làm đậu, nấu rượu có hiệu quả sản xuất chưa cao. Xét trong nhóm hộ công nghiệp – xây dựng – vận tải thì giá trị sản xuất tăng thêm ở mỗi hộ là 13401 ngàn đồng, ở mỗi lao động là 4690 ngàn đồng tăng gấp đôi so với nhóm hộ chế biến nông sản thực phẩm. Hiệu quả này đạt được là rất khả quan xuất phát từ giá trị sản xuất mỗi hộ trong nhóm này đạt 175159 ngàn đồng gấp 1.38 lần giá trị sản xuất b

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docQT124.doc
Tài liệu liên quan