Tài liệu Đề tài Nghiên cứu các giải pháp đẩy mạnh huy động vốn cho công ty Cổ phần Việt Nam hiện nay: GIỚI THIỆU CHUNG VỀ ĐỀ TÀI
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Với mỗi công ty thì để có thể tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh thì công ty cần có vốn để hoạt động. Vốn là một nhân tố sản xuất quan trọng sống còn, quyết định đến sự thành bại của công ty. Vốn càng lớn thì tiềm lực của công ty càng lớn, nó tạo điều kiện cho công ty dễ dàng hơn trong các quyết định đầu tư, trong các dự án đầu tư mới như tham gia vào lĩnh vực kinh doanh mới…
Mặc dù các công ty cổ phần cũng có các kênh huy động vốn khác như đi vay tín dụng thương mại từ các đối tác. Mặc dù đây là một kênh huy động vốn hiệu quả nhưng nó lại bị hạn chế vì phụ thuộc vào quy mô vốn của công ty cổ phần nên phần vốn mà công ty có thể huy động được từ đây vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu hoạt động.
Một kênh huy động vốn khác mà công ty cổ phần đã tiếp cận là vay tín dụng ngân hàng. Đây là một kênh huy động vốn có tiềm năng khi mà lượng vốn vay từ đây có thể có số lượng lớn nhưng nó lại chịu nhiều rằng buộc khi mà muốn vay được tiề...
45 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 977 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Nghiên cứu các giải pháp đẩy mạnh huy động vốn cho công ty Cổ phần Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
GIỚI THIỆU CHUNG VỀ ĐỀ TÀI
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Với mỗi công ty thì để có thể tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh thì công ty cần có vốn để hoạt động. Vốn là một nhân tố sản xuất quan trọng sống còn, quyết định đến sự thành bại của công ty. Vốn càng lớn thì tiềm lực của công ty càng lớn, nó tạo điều kiện cho công ty dễ dàng hơn trong các quyết định đầu tư, trong các dự án đầu tư mới như tham gia vào lĩnh vực kinh doanh mới…
Mặc dù các công ty cổ phần cũng có các kênh huy động vốn khác như đi vay tín dụng thương mại từ các đối tác. Mặc dù đây là một kênh huy động vốn hiệu quả nhưng nó lại bị hạn chế vì phụ thuộc vào quy mô vốn của công ty cổ phần nên phần vốn mà công ty có thể huy động được từ đây vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu hoạt động.
Một kênh huy động vốn khác mà công ty cổ phần đã tiếp cận là vay tín dụng ngân hàng. Đây là một kênh huy động vốn có tiềm năng khi mà lượng vốn vay từ đây có thể có số lượng lớn nhưng nó lại chịu nhiều rằng buộc khi mà muốn vay được tiền từ ngân hàng hay các tổ chức tài chính thì phải đáp ứng được các điều kiện rằng buộc như có tài sản thế chấp hay hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty phải ổn định và có hiệu quả. Do vậy mà kênh huy động vốn này công ty cổ phần tuy đã tiếp cận nhưng vẫn còn có nhiều rào cản.
Đó là những kênh huy động vốn mà các công ty cổ phần hiện nay đang tiếp cận. Mặc dù từ những kênh huy động vốn này mà công ty đã huy động được một số lượng vốn nhất định nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu cho các hoạt động trong công ty.
Qua tìm hiểu tại các công ty cổ phần tôi thấy rằng các công ty cổ phần Việt Nam còn có thể tiếp cận được với nhiều kênh huy động vốn khác hay là mở rộng kênh huy động vốn hiện tại. Do vậy mà đề tài đi vào nghiên cứu các giải pháp đẩy mạnh huy động vốn cho công ty Cổ phần Việt Nam hiện nay đáp ứng hiệu quả sản xuất trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
2. Mục đích, ý nghĩa nghiên cứu đề tài.
Vì đề tài này là nghiên cứu về các kênh khai thác huy động vốn mà Công ty cổ phần Việt Nam hiện đang tiếp cận cũng như những kênh huy động mà các Công ty cổ phần Việt Nam vẫn còn bỏ ngỏ chưa tiếp cận vì vậy mà mục đích nghiên cứu chủ yếu của đề tài này là tìm hiểu làm rõ những kênh huy động vốn mà các công ty hiện đang tiếp cận. Để từ đó đi sâu phân tích những thuận lợi của các kênh huy động vốn này. Vai trò của từng kênh trong hoạt động khai thác vốn của công ty nói chung, xem trong các kênh huy động vốn đó thì kênh nào là quan trọng nhất. Từ đó sẽ tìm ra được những bài học kinh nghiệm từ kênh huy động vốn đó. Thêm vào đó còn tìm hiểu những khó khăn, nhược điểm của những kênh huy động hiện tại, xem các kênh huy động vốn hiện nay có những khó khăn gì trong việc huy động để tìm ra những giải pháp nhằm khắc phục những khó khăn.
Thêm vào đó ngoài việc tìm hiểu nghiên cứu những kênh huy động vốn đang áp dụng thì đề tài còn đi vào tìm hiểu nghiên cứu những kênh huy động vốn khác vẫn còn chưa áp dụng tìm hiểu những ưu điểm và nhược điểm của từng kênh huy động vốn cũng như là tìm hiểu kinh nghiệm của các Công ty cổ phần khác trong việc áp dụng những kênh huy động vốn mà công ty chưa áp dụng từ đó phân tích xem với điều kiện hiện tại của công ty thì nên áp dụng kênh huy động vốn nào là hợp lý nhất, phù hợp với công ty nhất qua đó đưa ra các giải pháp thích hợp nâng cao hiệu quả huy động vốn cho doanh nghiệp.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài này là nó có những ý nghĩa sau đây:
Thứ nhất là đề tài mong tìm ra được những bài học kinh nghiệm từ việc khai thác, huy động vốn của các Công ty cổ phần Việt Nam hiện nay để từ đó mà có thể tìm cách áp dụng những bài học kinh nghiệm, xem kinh nghiệm nào là phù hợp để ứng dụng cho các hoạt động vốn có khả năng thu lai hiệu quả cao nhất, là khả thi với các Công ty cổ phần nhất, tránh thực trạng là cứ thấy một hoặc một số công ty khác áp dụng thành công một kênh huy động vốn mới, tạo ra được nhiều vốn cho công ty thì các công ty khác theo sau thấy thế mà áp dụng khi không có sự tìm hiểu nghiên cứu. Điều này là rất nguy hiểm vì điều kiện của các công ty là khác nhau, hoạt động trong những điều kiện khác nhau, trình độ của mỗi công ty là khác nhau cả về trình độ con người cũng như là trình độ công nghệ. Từ đó sẽ dẫn đến thất bại gây thiệt hại cho công ty. Vì vậy mà cần phải có những nghiên cứu tìm hiểu phân tích trước khi áp dụng.
Thứ hai là đề tài tìm ra được những điểm mạnh, điểm yếu của các kênh huy động vốn hiện tại mà các Công ty cổ phần đang áp dụng đề từ đó có những giải pháp để khắc phục hay phát huy những điểm yếu điểm mạnh đó. Vì nhiều khi việc mở ra một kênh huy động vốn mới đối với công ty là chưa cần thiết khi mà ta chưa khai thác hết tiềm năng các kênh huy động vốn hiện tại điều đó sẽ gây lãng phí cho công ty vì vậy mà ta phải xem xét kỹ càng các kênh huy động vốn hiện tại của công ty đang áp dụng xem xét tìm hiểu những kênh huy động vốn này liệu đã thực sự khai thác hết tiềm năng hay chưa. Nếu thấy tiềm năng của kênh huy động vốn vẫn còn thì tại sao không tiếp tục khai thác, hoặc tìm hiểu xem tại sao ta chưa khai thác hết tiềm năng để từ đó đề ra những giải pháp để khai thác hết tiềm năng của những kênh huy động vốn này. Còn nếu sau khi xem xét thấy rằng các kênh huy động vốn hiện tại ta đã khai thác hết tiềm năng rồi không còn có thể mở rộng hơn được nữa thì từ đó ta mới có phương án cân nhắc xem xét đến việc mở ra một kênh huy động vốn mới.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
Trong đề tài này thì đối tượng nghiên cứu chủ yếu ở đây sẽ là các phương pháp huy động vốn của các Công ty cổ phần Việt Nam để học hỏi và tham khảo. Bao gồm các kênh huy động vốn mà họ áp dụng, giải pháp để họ có thể thực hiện đối với từng kênh huy động vốn… Thêm vào đó cũng có thể tìm hiểu phương pháp huy động vốn của một số Công ty cổ phần tiêu biểu. Vì khi nghiên cứu phương pháp huy động vốn của các công ty có cùng điều kiện về quy mô như của công ty mình thì từ đó sẽ dễ dàng hơn cho việc áp dụng các kinh nghiệm của những công ty này vào cho công ty mình, nó sẽ phù hợp hơn nhiều so với việc áp dụng kinh nghiệm từ các công ty lớn. Còn việc nghiên cứu những kênh huy động vốn của các công ty lớn cũng như những giải pháp mà họ áp dụng để thực hiện ở đây chỉ có ý nghĩa tham khảo đối với công ty.
Phạm vi nghiên cứu ở đây là lĩnh vực huy động vốn của các Công ty cổ phần Việt Nam. Vì hiện nay phần lớn các doanh nghiệp đều hoạt động ,chuyển hoá thành các công ty cổ phần nên dễ dàng đưa ra các kênh huy động vốn ma các công ty áp dụng.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Ở đây do đề tài nghiên cứu là Giải pháp đẩy mạnh huy động vốn cho Công ty cổ phần Việt Nam hiện nay
Phân tích những kênh huy động vốn mà các công ty hiện nay đang áp dụng để từ đó tìm ra những thuận lợi khó khăn của những kênh huy động vốn này. Và còn phân tích những kênh huy động vốn khác mà các công ty chưa áp dụng tìm ra những khó khăn thuận lợi của những kênh huy động vốn này.
Từ những phân tích đó mà có những đánh giá về những kênh huy động huy động vốn này xem các kênh huy động vốn này có ưu điểm và nhược điểm gì để từ đó có thể áp dụng tìm ra các giải pháp thích hợp ứng dụng vào các công ty cổ phần hay không.
Thêm vào đó đề tài còn sử dụng phương pháp điều tra thống kê những kinh nghiệm của các Công ty cổ phần khác nhau.
5. Kết quả nghiên cứu dự kiến đạt được.
Với đề tài nghiên cứu này kết quả dự kiến đạt được sẽ là tìm ra được một, một số kênh huy động vốn mới phù hợp với các công ty cổ phần Việt Nam hiện nay .Và từ đó đề xuất những giải pháp hợp lý để có thể áp dụng thành công các kênh huy động vốn mới này.
6. Bố cục đề tài.
Bài viết được chia thành ba phần.
Phần một: Giới thiệu chung về đề tài.
Phần hai: Nội dung đề tài
Chương 1: Lý thuyết chung về nguồn vốn và công tác huy động vốn trong Công ty Cổ phần
Chương 2: Thực trạng huy động vốn trong Công ty cổ phần Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Định hướng và giải pháp khai thác huy động vốn đầu tư trong nước
Phần ba: Kết luận và kiến nghị.
NỘI DUNG ĐỀ TÀI
CHƯƠNG I
LÝ THUYẾT CHUNG VỀ NGUỒN VỐN VÀ CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN.
1.1.Khái quát về nguồn vốn trong doanh nghiệp
1.1.1.Tổng quan về nguồn vốn doanh nghiệp
Trong mọi doanh nghiệp, vốn đều bao gồm hai bộ phận: Vốn chủ sở hữu và nợ; mỗi bộ phận này được cấu thành bởi nhiều khoản mục khác nhau tuỳ thuộc tính chất của chúng. Tuy nhiên, việc lựa chọn nguồn vốn trong các doanh nghiệp khác nhau sẽ không giống nhau, nó phụ thuộc vào một loạt các nhân tố như :
-Trạng thái của nền kinh tế.
-Ngành kinh doanh hay lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp.
-Quy mô và cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp.
-Trình độ khoa học - kỹ thuật và trình độ quản lý.
-Chiến lược phát triển và chiến lược đầu tư của doanh nghiệp
-Thái độ của chủ doanh nghiệp
-Chính sách thuế…
1.1.2.Các nguồn vốn của doanh nghiệp và phương thức huy động
Tuỳ theo loại hình doanh nghiệp và các đặc điểm cụ thể mỗi doanh nghiệp có thể có các phương thức huy động vốn khác nhau.Trong điều kiện kinh tế thị trường, các phương thức huy động vốn của doanh nghiệp được đa dạng hoá nhằm khai thác mọi nguồn vốn của nền kinh tế.Tuy nhiên,cần lưu ý rằng, trong hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, do thị trường tài chính còn chưa phát triển hoàn chỉnh nên việc khai thác vốn có những nét đặc trưng nhất định. Sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế và thị trường tài chính sẽ sớm tạo điều kiện để các doanh nghiệp mở rộng khai thu hút vốn vào kinh doanh.
Sau đây là các nguồn vốn và các phương thức huy động vốn mà các doanh nghiệp có thể sử dụng.
1.1.2.1.Nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp
+Vốn góp ban đầu
Khi doanh nghiệp được thành lập bao giờ chủ doanh nghiệp cũng phải có một số vốn ban đầu nhất định do các cổ đông-chủ sở hữu góp. Khi nói đến nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp bao giờ cũng phải xem xét hình thức sở hữu của doanh nghiệp đó,vì hình thức sỡ hữu sẽ quyết định tính chất và hình thức tạo vốn của bản thân doanh nghiệp.
Đối với doanh nghiệp Nhà nước, vốn góp ban đầu chính là vốn đầu tư của Nhà nước. Chủ sở hữu của các doanh nghiệp Nhà nước là Nhà nước. Hiện nay, cơ chế quản lý tài chính nói chung và quản lý nguồn vốn của doanh nghiệp Nhà nước nói chung và quản lý vốn vủa doanh nghiệp Nhà nước nói riêng đang có những thay đổi để phù hợp với tình hình thực tế.
Đối với các doanh nghiệp,theo Luật doanh nghiệp, chủ doanh nghiệp phải có một số vốn ban đầu cần thiết để xin đăng ký thanhg lập doanh nghiệp
Chẳng han, đối với công ty cổ phần, vốn do các cổ đông đóng góp là yếu tố quyết định để hình thành công ty.Mỗi cổ đông là một chủ sở hữu công ty và chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trên giá trị cổ phần mà họ nắm giữ. Tuy nhiên, các công ty cổ phần cũng có một số dạng tương đối khác nhau. Trong các loại hình doanh nghiệp khác như công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài(FDI), các nguồn vốn cũng tương tự như trên; tức là vốn có thể do chủ đầu tư bỏ ra, do các bên tham gia, các đối tác đóng góp…Tỷ lệ và quy mô góp vốn của các bên tham gia công ty phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau(như pháp luật, đặc điểm ngành kinh tế-kỹ thuật,cơ cấu liên doanh).
+Nguồn vốn từ lợi nhuận không chia
Quy mô số vốn ban đầu của chủ doanh nghiệp là một yếu tố quan trọng, tuy nhiên thông thường số vốn này cần được tăng theo quy mo phát triển của doanh nghiệp.Trong quá trình sản xuất kinh doanh nếu doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả thì doanh nghiệp có những điều kiện thuận lợi để tăng trưởng nguồn vốn.Nguồn vốn tích trữ từ lợi nhuận không chia là bộ phận lợi nhuận được sử dụng tái đầu tư sản xuất,mở rộng sản xuất-kinh doanh của doanh nghiệp.
Tự tài trợ bằng lợi nhuận không chia-nguồn vốn nội bộ là phương thức tạo nguồn tài chính quan trọng và khá hấp dẫn đối với các doanh nghiệp, vì doanh nghiệp sẽ giảm được chi phí,giảm bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài. Rất nhiều doanh nghiệp coi trọng chính sách tái đầu tư từ lợi nhuận để lại, họ đặt ra mục tiêu phải có một khối lượng lợi nhuận để lại đủ lớn nhằm tự đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng tăng.
Nguồn vốn tái đầu tư từ lợi nhuận để lại chỉ có thể thực hiện nếu như doanh nghiệp đã và đang hoạt động và có lợi nhuận, được phép tiếp tục đầu tư. Đối với các doanh nghiệp Nhà nứơc thì việc tái đầu tư phụ thuộc không chỉ phụ thuộc vào khả năng sinh lợi từ bản thân doanh nghiệp mà còn phụ thuộc vào chính sách khuyến khích tái đầu tư của Nhà nước.
Tuy nhiên, đối với các công ty cổ phần thì việc để lại lợi nhuận liên quan đến một số yếu tố rất nhạy cảm. Khi công ty để lại một phần lợi nhuận trong năm cho tái đầu tư, tức là không dùng lợi nhuận đó để chia lãi cổ phần,các cổ đông không được chia lãi cổ phần nhưng bù lại, họ có quyền sỡ hữu số vốn tăng lên của công ty.
Như vậy,giá trị ghi sổ của các cổ phiếu sẽ tăng lên cùng với việc tự tài trợ bằng nguồn vốn nội bộ. Điều này một mặt khuyến khích cổ đông giữ cổ phiếu lâu dài,nhưng mặt khác, dễ làm giảm tính hấp dẫn của cổ phiếu trong thời kỳ trước mắt do cổ đông chỉ nhân được một phần cổ tức nhỏ hơn. Nếu tỷ lệ chi trả cổ tức thấp,hoặc số lãi ròng không đủ hấp dẫn thì giá cổ phiếu có thể bị giảm sút.
Khi giải quyết vấn đề cổ tức và tái đầu tư, chính sách phân phối cổ tức của công ty cổ phần cần lưu ý đến môt số yếu tố có liên quan như:
-Tổng số lợi nhuận ròng trong kỳ
-Mức chia lãi trên một cổ phiếu của các năm trước
-Sự xếp hạng cổ phiếu trên thị trường và tính ổn định của thị giá cổ phiếu của công ty,tâm lý và đánh giá của công ty về cổ phiếu đó
-Hiệu quả của việc tái đầu tư
+Phát hành cổ phiếu
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp có thể tăng vốn chủ sở hữu bằng cách phát hành cổ phiếu mới.
Một nguồn tài chính dài hạn rất quan trọng là phát hành cổ phiếu để huy động vốn cho doanh nghiệp.Phát hành cổ phiêu được gọi là hoạt động tài trợ dài hạn của doanh nghiệp.
-Cổ phiếu thường là loại cổ phiếu thông dụng nhất vì nó có những ưu thế trong việc phát hành ra công chúng và trong quá trình lưu hành trên thị trường chứng khoán quan trong nhất là trao đổi, mua bán trên thị trường chứng khoán, điều đó cũng đủ để minh chứng tầm quan trọng của nó so với các công cụ tài chính khác.
-Cổ phiếu ưu tiên:Cổ phiếu ưu tiên thường chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng số cổ phiếu được phát hành. Tuy nhiên trong một số trường hợp, việc dùng cổ phiếu ưu tiên là thích hợp.Cổ phiếu ưu tiên có đặc điểm là nó thường có cổ tức cố định. Người chủ của cổ phiếu này có quyền được thanh toán lãi trước các cổ đông thường.Nếu số lãi chỉ đủ để chi trả cổ tức cho các cổ đông ưu tiên thì các cổ đông thường sẽ không được nêu rõ trong điều lệ công ty.
Phần lớn các công ty cổ phần qui định rõ: Công ty có nghĩa vụ trả hết số lợi tức chưa thanh toán của các kỳ trước cho các cổ đông ưu tiên, sau đó mới thanh toán cho các cổ đông thường.
Các cổ phiếu ưu đãi có thể được chính công ty phát hành thu hồi lại khi công ty thấy cần thiết.Những trường hợp như vậy cần được quy định rõ những điểm sau: Trường hợp nào thì công ty có thể mua lại cổ phiếu, Giá cả khi công ty mua lại cổ phiếu, Thời hạn tối thiểu không được phép mua lại cổ phiếu(ví dụ 5 năm)
Giá cổ phiếu tăng lên là một dấu hiệu có nhiều cơ hội đầu tư mở rộng vào những dự án có triển vọng trong doanh nghiệp.
Tuy nhiên,người ta chưa lý giải được một cách tường tận tại sao trên thực tế các công ty thường lựa chọn việc phát hành cổ phiếu sau khi có sự tăng giá cổ phiếu.Một số nguyên nhân có thể là những yếu tố sau: Do đòi hỏi cân bằng tỷ lệ nợ, Do tỷ lệ P/E ở mức cao tức là thị giá cổ phiếu tăng mạnh hơn tốc độ tăng của tỷ suất lợi nhuận ròng, Do yếu tố tâm lý của công chúng và các nhà đầu tư trên thị trường.
Ngoài ra,vốn chủ sở hửu của doanh nghiệp có thể được bổ sung từ phần chênh lệch đánh giá lại tài sản cố định,chênh lệch tỷ giá.
1.1.2.2.Nợ và các phương thức huy động nợ của doanh nghiệp
+Nguồn vốn tín dụng ngân hàng và tín dụng thương mại
Điều kiện tín dụng: Các doanh nghiệp muốn vay tại các ngân hàng thương mại cần đáp ứng được những yêu cầu đảm bảo tín dụng của các ngân hàng. Doanh nghiệp phải xuất trình hồ sơ vay và những thông tin cần thiết mà ngân hàng yêu cầu. Trước tiên, ngân hàng phải phân tích hồ sơ xin vay vốn, đánh giá các thông tin liên quan đến dự án đầu tư hoặc kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vay vốn.
Các điều kiện bảo đảm tiền vay: Khi doanh nghiệp xin vay vốn, nói chung các ngân hàng thường yêu cầu doanh nghiệp di vay phải có các bảo đảm tiền vay, phổ biến nhất là tài sản thế chấp. Việc yêu cầu người đi vay có tài sản thế chấp trong nhiều trường hợp làm cho bên đi vay không thể đáp ứng được các điều kiện vay, kể cả những thủ tục pháp lý về giấy tờ… do đó doanh nghiệp cần tính đến yếu tố này khi tiếp cận nguồn vốn tính dụng ngân hàng.
Sự kiểm soát của ngân hàng: Một khi doanh nghiệp vay vốn ngân hàng thì doanh nghiệp phải chịu sự kiểm soát của ngân hàng về mục đích và tình hình sử dụng vốn vay. Sự kiểm soát này không gây khó khăn cho doanh nghiệp, tuy nhiên trong một số trường hợp, điều đó cũng làm cho doanh nghiệp có cảm giác bị “kiểm soát”
Lãi suất vay vốn: Lãi suất vay vốn phản ánh chi phí sử dụng vốn. lãi suất vốn vay ngân hàng phụ thuộc vào tình hình tín dụng trên thị trương trong từng thời kỳ. Nếu lãi suất vay quá cao thì doanh nghiệp phải gánh chịu chi phí sử dụng vốn lớn và làm giảm thu nhập của doanh nghiệp. Có những thời kỳ ở nước ta, lãi suất vay vốn khá cao và thiếu tính cạnh tranh do đó không tạo điều kiện cho doanh nghiệp đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh.
+Phát hành trái phiếu công ty
Một trong những vấn đề cần xem xét trước khi phát hành là lựa chọn loại trái phiếu nào phù hợp nhất với điều kiện cụ thể của doanh nghiệp và tình hình trên thị trường tài chính.
Việc lựa chọn trái phiếu thích hợp là rất quan trọng vì có liên quan đến chi phí trả lãi,cách thức trả lãi, khả năng lưu hành và tinh hấp dẫn của trái phiếu. Trước khi quyết định phát hành, cần hiểu rõ đặc điểm và ưu nhược điểm của mỗi loại trái phiếu.Trên thị trường tài chính nhiều nước, hiện thường lưu hành những loại trái phiếu doanh nghiệp như sau:
-Trái phiếu có lãi suất cố định: loại trái phiếu này thường được sử dụng nhiều nhất trong các loại trái phiếu doanh nghiệp. Lãi suất được ghi ngay trên mặt trái phiếu và không thay đổi trong suốt kỳ hạn của nó. Như vậy cả doanh nghiệp(người đi vay) và người giữ phiếu(người cho vay) đều biết rõ mức lãi suất của khoản nợ trong suốt thời gian tồn tại (kỳ hạn) của trái phiếu. Việc thanh toán lãi trái phiếu cũng thường được quy định rõ, ví dụ trả 2 lần trong năm vào ngày 30/6 và 31/12.
-Trái phiếu có lãi suất thay đổi: Tuy gọi là lãi suất thay đổi nhưng thực ra loại này có lãi suất phụ thuộc vào một số nguồn lãi suất quan trọng khác. Chẳng hạn, lãi suất LIBOR hoặc lãi suất cơ bản.
-Trái phiếu có thể thu hồi: Một số doanh nghiệp lựa chọn phát hành những trái phiếu có thể thu hồi, tức là doanh nghiệp có thể mua lại vào một thời gian nào đó. Trái phiếu như vậy phải được quy định ngay khi phát hành để người mua trái phiếu được biết. Doanh nghiệp phải quy định rõ về thời gian và giá cả khi doanh nghiệp chuộc lại trái phiếu. Thông thường, người ta quy định thời gian tối thiểu mà trái phiếu sẽ không bị thu hồi,ví dụ trong thời gian 36 gian.
-Chứng khoán có thể thay đổi: Sự chuyển đổi và lựa chọn cho phép các bên ( doanh nghiệp, người đầu tư) có thể lựa chọn cách thức đầu tư có lợi và thích hợp.
Có một số hình thức chuyển đổi, ta đề cập đến 2 loại:
*Giấy bảo đảm: Người sở hửu giấy bảo đảm có thể mua một số lượng cổ phiếu thường, được quy định trước với giá cả và thời gian xác định
*Trái phiếu chuyển đổi: là loại trái phiếu cho phép có thể chuyển đổi thành một số lượng nhất định các loại cổ phiếu thường. Nếu thị giá của cổ phiếu tăng lên thì người giử trái phiếu có cơ may nhận được lợi nhuận cao.
1.2.Huy động vốn trong công ty cổ phần.
1.2.1. Khái niệm và phân loại vốn.
a. Khái niệm.
Vốn trong hoạt động của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường hiện nay không chỉ bao gồm giá trị của tiền nói chung mà vốn ở đây còn bao gồm cả vật chất như nhà xưởng, máy móc thiết bị, nguyên nhiên vật liệu… Nếu hiểu theo nghĩa rộng hơn thì vốn ở đây còn có thể bao gồm cả vốn con người theo đó thì vai trò của con người ngày càng trở lên quan trọng đặc biệt là khi chúng ta sắp bước vào nền kinh tế tri thức một nền kinh tế phát triển thì theo đó chất xám con người là một nguồn vốn vô cùng quan trọng và quý giá nhiều khi vốn bằng tiền tệ cũng chưa sánh được so với nguồn vốn con người, vốn tri thức.
Nhưng trong đề tài này thì chỉ đi vào tìm hiểu phân tích về vồn theo nghĩa hẹp là vốn tiền tệ và vật chất. Vì vậy hiểu theo nghĩa hẹp một cách đơn giản nhất thì vốn là toàn bộ giá trị của tiền và vật chất được ứng ra ban đầu và quá trình tiếp theo để phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
b. Phân loại.
Nhưng như trên đã nói thì ở đây vốn cũng có rất nhiều loại bao gồm vốn vật chất và vốn tri thức. Hay như bên trong doanh nghiệp thì vốn cũng có bao gồm hai loại vốn chính là vốn chủ sở hữu và vốn đi vay. Hoặc cũng có thể phân thành vốn cố định và vốn lưu động.
Theo cách phân loại về nguồn hình thành thì bao gồm:
- Vốn chủ sở hữu là lượng vốn mà chủ doanh nghiệp bỏ ra trong quá trình hình thành doanh nghiệp và được tích luỹ dần trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh mà thuộc quyền sở hữu và sử dụng của doanh nghiệp. Vốn chủ sở hữu này được dùng để phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bản thân bên trong vốn chủ sở hữu cũng bao gồm nhiều loại như khấu hao, lợi nhuận để lại, quỹ dự phòng…
Theo đó thì lợi nhuận để lại là phần còn lại của kết quả quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh sau mỗi chu kỳ sản xuất kinh doanh sau khi đã trừ đi chi phí và các khoản khác như phần nộp thuế thu nhập doanh nghiệp hay là phần lợi nhuận dùng để chia cổ tức cho các cổ đông. Phần lợi nhuận để lại này được doanh nghiệp giữ lại dùng để tiếp tục đầu tư vào quá trính sản xuất kinh doanh trong chu kỳ tiếp theo của quá trình sản xuất, nhằm làm tăng lượng vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp. Đây cũng là một phần vốn rất quan trọng của doanh nghiệp.
Khấu hao là phần giá trị của tài sản cố định mà doanh nghiệp đã đầu tư trong quá trình sản xuất nó là nhà xưởng máy móc, thiết bị, công cụ dụng cụ… phần khấu hao này chính là lượng vốn mà doanh nghiệp đã bỏ ra trong quá trình sản xuất.
Còn quỹ dự phòng đây cũng chính là một phần của khoản lợi nhuận để lại của doanh nghiệp nhưng phần vốn này không được dùng để đầu tư trực tiếp vào quá trình sản xuất mà thay vào đó nó được dùng trong những trường hợp đặc biệt như khi có sự sụt giá hay việc kinh doanh bị thua lỗ thì phần quỹ dự phòng này được dùng để bù đắp những thiệt hại do thua lỗ hay do trượt giá gây ra.
- Vốn đi vay là lượng vốn mà doanh nghiệp đi vay từ bên ngoài để phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh. Vì không một doanh nghiệp nào có thể hoạt động với 100% lượng vốn tự có của mình được mà bao giờ họ cũng có những khoản vốn đi vay để phục vụ quá trình sản xuất kinh doanh. Vốn đi vay này bao gồm rất nhiều nguồn khác nhau như vốn vay tín dụng ngân hàng là lượng vốn mà doanh nghiệp đi vay từ các tổ chức tài chính tín dụng trong và ngoài nước và phải chịu lãi suất đi vay. Hay vốn vay tín dụng thương mại là lượng vốn mà doanh nghiệp vay của các đối tác kinh doanh như là mua nguyên vật liệu chịu mà chưa thanh toán ngay cho bên đối tác mà hẹn thanh toán sau có thể là sau mỗi chu kỳ kinh doanh hay sau khi bán được hàng… Hay là vốn vay từ phát hành cổ phiếu đây cũng là một hình thức đi vay khác của doanh nghiệp nhưng đây là vay một cách gián tiếp bằng cách phát hành cổ phiếu vì vậy ở đây doanh nghiệp không chỉ vay của các tổ chức tín dụng tài chính mà còn vay của các đối tác, quần chúng nhân dân các nhà đầu tư chứng khoán. Vì khi phát hành cổ phiếu ra thị trường chứng khoán thì cổ phiếu đó sẽ không chỉ được nhân dân mua, những nhà đầu tư chứng khoán mua mà nó còn có thể được các tổ chức tài chính hay là các đối tác mua. Vốn có được từ việc phát hành trái phiếu theo đó thì lượng vốn mà doanh nghiệp có được là thông qua việc phát hành trái phiếu vay nợ ra thị trường vốn để thu hút vốn từ các tầng lớp dân cư. Hay là vốn có được từ liên doanh, liên kết theo đó thì doanh nghiệp sẽ có vốn khi tiến hành liên doanh liên kết với bên ngoài. Với hình thức liên doanh liên kết này thì vừa có vốn để hoạt động lại vừa có thể tham gia được vào thị trường mới hay là giảm thiểu rủi ro của doanh nghiệp khi thất bại sẽ không phải chịu tất cả thua lỗ mà có doanh nghiệp khác cùng chia sẻ.
Phân loại theo tính chất hoạt động thì có vốn cố định và vốn lưu động:
- Vốn cố định là lượng vốn ứng ra ban đầu để đầu tư vào tài sản cố định như nhà xưởng, máy móc… nhằm phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vốn cố định có đặc điểm là tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất, được khấu hao vào từng sản phẩm trong quá trình sản xuất.
- Vốn lưu động là số tiền ứng trước để đầu tư vào tài sản lưu động, tài sản lưu thông nhằm đảm bảo quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp diễn ra bình thường.
1.2.2. Sự cần thiết phải huy động vốn cho các hoạt động trong công ty cổ phần.
Có thể nói vốn đối với các công ty cổ phần là rất quan trọng nó quyết định đến sự hoạt động suôn sẻ của công ty .Mặc dù để có thể để công ty hoạt động một cách suôn sẻ thì cần phải có nhiều yếu tố cùng tham gia vào trong đó vốn là quan trọng, nó được coi như là máu đối với mỗi công ty cổ phần, vì chỉ khi có vốn công ty cổ phần mới có thể tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh được. Có vốn doanh nghiệp mới có thể thực hiện các hợp đồng, ký kết các hợp đồng kinh doanh liên kết, có vốn thì doanh nghiệp mới có thể mua sắm trang thiết bị, thay thế các trang thiết bị cũ, đổi mới công nghệ sản xuất, trả lương cho công nhân… Theo đó thì vốn có vai trò quan trọng đối với các hoạt động sau.
a. Đối với hoạt động đầu tư .
Hoạt động đầu tư là hoạt động rất quan trọng thông qua hoạt động đầu tư mà doanh nghiệp có thể tăng trưởng và phát triển. Đầu tư ở đây có thể là đầu tư vào một dự án kinh doanh mới hay là đầu tư vào mua sắm trang thiết bị mới, xây dựng nhà xưởng… Nhưng để có thể tiến hành hoạt động đầu tư thì doanh nghiệp cần phải có vốn. Vốn như là dòng máu mang dinh dưỡng đến nuôi cơ thể vậy. Hoạt động đầu tư của doanh nghiệp như là hoạt động nhằm làm tăng tiềm lực cho doanh nghiệp, làm tăng quy mô của doanh nghiệp nhờ có hoạt động đầu tư mà doanh nghiệp có thể lớn mạnh, có thể tham gia được vào nhiều các lĩnh vực kinh doanh khác nhau… Nhưng quyết định đầu tư còn phụ thuộc vào vốn mà doanh nghiệp có. Theo đó thì vốn có những vai trò sau:
Quy mô của vốn mà doanh nghiệp có và có thể huy động sẽ quyết định đến khả năng đầu tư vào dự án kinh doanh của công ty, quyết định đến quy mô của dự án kinh doanh hay phạm vi của dự án. Vì khi công ty muốn quyết định đầu tư vào một hoạt động mới hay một dự án kinh doanh mới thì yêu cầu đầu tiên mà doanh nghiệp cần cân nhắc là lượng vốn cần phải có để đầu tư vào dự án, quy mô của vốn sẽ quyết định đến quy mô của dự án vì ta không thể đầu tư vào một dự án lớn khi mà ta không có đủ vốn cần thiết, nếu như ta cố tình đầu tư thì trong quá trình hoạt động sẽ liên tục xảy ra tình trạng thiếu vốn từ đó sẽ dẫn đến tình trạng dự án sẽ không thể hoạt động suôn sẻ, ảnh hưởng đến tính khả thi của dự án thậm chí nó còn gây thiệt hại tới doanh nghiệp. Vì vậy khi quyết định đầu tư thì công ty bao giờ cũng cân nhắc tới yếu tố vốn.
Thêm vào đó quy mô vốn cũng ảnh hưởng tới phạm vi của dự án. Vốn càng lớn thì dự án đầu tư sẽ có phạm vi càng rộng và ngược lại nếu mà quy mô vốn nhỏ thì phạm vi hoạt động của dự án sẽ thu hẹp từ đó mà ảnh hưởng tới sự thành công của dự án đầu tư. Vì khi mà dự án có quy mô lớn nó sẽ đem đến nhiều cơ hội cho doanh nghiệp có thể thu được doanh thu và lợi nhuận lớn từ đó sẽ làm cho doanh nghiệp tăng trưởng nhanh hơn, tiềm lực của doanh nghiệp cũng có thể được tăng lên nhưng ngược lại khi quy mô vốn nhỏ dẫn đến quy mô dự án nhỏ không đủ bao phủ thị trường nó sẽ hạn chế khả năng của doanh nghiệp, tạo cơ hội cho các doanh nghiệp khác tham gia vào thị trường từ đó sẽ có sự cạnh tranh lớn đối với doanh nghiệp. Quy mô vốn cũng sẽ quyết định đến độ dài của dự án đầu tư. Vì có nhiều dự án đầu tư không thể chỉ có đầu tư trong một kỳ sản xuất mà nó còn có thể được đầu tư qua nhiều kỳ kinh doanh. Vì vậy cần phải có lượng vốn lớn, dự án càng lâu thì lượng vốn yêu cầu cần có để đầu tư càng lớn.
Nói tóm lại thì quy mô của vốn mà doanh nghiệp có và có thể huy động có vai trò quyết định đến các dự án đầu tư. Doanh nghiệp nào có quy mô vốn càng lớn thì dự án đầu tư càng có quy mô phạm vi lớn và ngược lại.
Tiềm lực vốn mà doanh nghiệp có sẽ quyết định đến khả năng đầu tư của doanh nghiệp như để có thể tham gia vào một lĩnh vực kinh doanh mới hay là mở rộng thị trường hoạt động hiện có thì cần có vốn để có thể tiến hành các hoạt động xúc tiến thị trường. Để có thể tham gia vào lĩnh vực kinh doanh mới thì doanh nghiệp cần phải tiến hành nhiều công việc như là mua sắm trang thiết bị, tuyển dụng nhân công hay là tiến hành khảo sát thị trường nhưng để có thể làm được những việc đó thì doanh nghiệp cần có vốn để mua sắm máy móc thiết bị hay thuê nhân công… Đấy là trường hợp doanh nghiệp muốn tự mình tham gia thị trường mới. Hoặc doanh nghiệp có thể tiến hành liên doanh liên kết với các doanh nghiệp khác để cùng tham gia vào thị trường mới, nhưng cho dù là doanh nghiệp liên doanh này hiện đang hoạt động ở thị trường mà doanh nghiệp muốn xâm nhập hay là doanh nghiệp ở thị trường khác thì khi tiến hành liên doanh liên kết thì doanh nghiệp cũng cần phải có vốn đối ứng để tham gia vào liên doanh, vì nếu không có vốn đối ứng chúng ta sẽ không thể tiến hành liên doanh được, quy mô vốn góp của mỗi bên sẽ quyết định đến vai trò của doanh nghiệp trong liên doanh này, doanh nghiệp có quy mô vốn càng lớn thì càng có vai trò quyết định, vai trò lớn. Vì vậy mà tiềm lực vốn của doanh nghiệp sẽ quyết định đến khả năng tham gia vào lĩnh vực kinh doanh mới của doanh nghiệp.
Thêm vào đó thì khi doanh nghiệp hoạt động trong bất cứ lĩnh vực nào thì luôn muốn mở rộng thị trường hoạt động của mình vì khi thị trường càng được mở rộng thì quy mô của doanh nghiệp càng lớn lên, sức mạnh của doanh nghiệp càng được củng cố… nhưng để có thể mở rộng thị trường, tăng doanh thu và lợi nhuận thì doanh nghiệp cần phải có đầu tư vào hoạt động xúc tiến thị trường, đầu tư trang thiết bị máy móc, nghiên cứu để có thể nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm giá thành và chi phí sản xuất để có thể cạnh tranh. Vì vậy nếu có tiềm lực vốn lớn doanh nghiệp sẽ có thể có ưu thế trong cạnh tranh trên thị trường nhờ có vốn mà doanh nghiệp có thể đi trước đầu tư vào công nghệ mới để chiếm lĩnh thị trường, mở rộng thị trường.
Nói chung thì với hoạt động đầu tư của doanh nghiệp cho dù đó là đầu tư vào dự án kinh doanh hay là đầu tư để tham gia lĩnh vực kinh doanh mới, hoặc mở rộng thị trường thì yếu tố vốn là rất quan trọng nó quyết định đến sự thành bại của hoạt động đầu tư.
b. Đối với hoạt động sản xuất kinh doanh.
Đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thì vốn cũng có vai trò quyết định đến, vì hoạt động sản xuất kinh doanh muốn được diễn ra thì cần phải có máy móc thiết bị, nguyên vật liệu, công nhân… Vì vậy cần có vốn để đầu tư vào những nhân tố sản xuất đó. Đồng thời vốn cũng có vai trò quyết định hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
Vòng quay của vốn sẽ quyết định đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty. Nếu vòng chu chuyển vốn càng ngắn thì điều đó chứng tỏ hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty có hiệu quả. Vì vòng quay của vốn ở đây chính là nói lên vòng quay của sản phẩm, khi mà vốn được thu hồi càng nhanh chứng tỏ rằng sản phẩm được sản xuất ra không bị tồn kho mà được tiêu thụ trên thị trường nhờ đó mà vốn không bị ứ đọng mà luôn được luân chuyển nhờ đó sẽ tạo ra được nhiều doanh thu và lợi nhuận cho doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nhưng ngược lại khi mà vòng quay của vốn chậm thì nó sẽ phần nào nói lên thực trạng hoạt động của doanh nghiệp, nó sẽ nói lên những khó khăn trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp khi mà sản phẩm sản xuất ra bị tồn kho không tiêu thụ được. Nhưng vòng quay của vốn dài hay ngắn cũng tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố như lĩnh vực sản xuất kinh doanh và đặc tính của sản phẩm. Vì có nhiều lĩnh vực hoạt động mà cần có đầu tư lớn mà vốn thu hồi có thể kéo dài qua nhiều chu kỳ kinh doanh như ngành xây dựng… thì cần phải đầu tư nhiều mà quá trình xây dựng lại diễn ra dài ngày lên vòng quay vốn của ngành sẽ dài hơn nhưng cũng có những ngành mà trong một chu kỳ sản xuất thì vốn được chu chuyển nhiều lần đặc biệt trong những ngành công nghiệp chế biến lương thực thực phẩm nên trong những ngành này vốn có vòng quay càng ngắn thì hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty càng cao. Nhưng nói chung dù trong ngành nào thì nếu có vòng chu chuyển vốn càng ngắn thì càng có hiệu quả.
Quy mô của vốn cũng sẽ quyết định đến hiệu quả sản xuất kinh doanh. Vì nếu có quy mô vốn lớn, tiềm lực vốn mạnh thì doanh nghiệp càng có nhiều điều kiện để trang bị máy móc thiết bị hiện đại vào sản xuất nhờ đó mà có thể nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất hạ giá thành sản phẩm nhờ đó sẽ tạo được ưu thế cạnh tranh trên thị trường cho doanh nghiệp trước các doanh nghiệp khác. Nhờ có vốn mà doanh nghiệp cũng có thể tiến hành các hoạt động xúc tiến thị trường, quảng bá sản phẩm rộng rãi hơn trên thị trường… Vì khi mà có sản phẩm chất lượng tốt và giá cả hấp dẫn rồi thì vẫn chưa đủ mà thêm vào đó thì khâu xúc tiến thị trường là rất quan trọng nó quyết định đến sự thành công của sản phẩm nó sẽ góp phần làm cho mọi người biết về sản phẩm để có thể mua sản phẩm. Nhưng để làm được những việc như tăng chất lượng sản phẩm, giảm giá thành, xúc tiến thị trường thì cần phải có vốn.
Nhìn chung thì vai trò của vốn đối với hoạt động sản xuất kinh doanh là rất quan trọng ngoài yếu tố con người ra thì vốn là rất quan trọng nó quyết định đến hiệu quả hoạt động hoạt động sản xuất kinh doanh, nói lên sự hiệu quả trong hoạt động của doanh nghiệp.
c. Đối với việc tăng tài sản.
Tài sản của doanh nghiệp cũng chính là lượng vốn mà doanh nghiệp có, ở đây tài sản chính là biểu hiện về mặt vật chất của vốn. Số lượng tài sản mà doanh nghiệp có cũng nói lên được tiềm lực của doanh nghiệp, nói lên quy mô của doanh nghiệp và trình độ năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy mà việc tăng tài sản của doanh nghiệp luôn được doanh nghiệp tiến hành qua các kỳ sản xuất kinh doanh, nó được tiến hành thường xuyên liên tục trong mỗi doanh nghiệp. Nhưng việc tăng tài sản của mỗi doanh nghiệp cũng cần phải có vốn vì tài sản ở đây là trang thiết bị máy móc nhà xưởng… đều cần có vốn.
Nguồn vốn sẽ quyết định đến khả năng mua sắm tài sản mới của công ty. Việc mua sắm tài sản mới sẽ góp phần làm tăng tài sản của công ty nhưng để có thể mua được tài sản mới thì công ty cần có được một lượng vốn nhất định. Doanh nghiệp một khi muốn mua sắm thêm tài sản mới để nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh của công ty, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường thì điều đầu tiên là phải cân nhắc tới số lượng vốn mà doanh nghiệp hiện có và có thể huy động để mua sắm, việc mua sắm tài sản mới này cũng như là một dự án đầu tư vậy do vậy mà yếu tố vốn có vai trò quyết định đến việc đầu tư mua sắm tài sản mới.
Việc mua sắm tài sản để thay thế các tài sản cũ hỏng không thể dùng được nữa cũng thường được diễn ra trong mỗi doanh nghiệp điều này cũng làm ảnh hưởng tới nguồn vốn của doanh nghiệp vì việc mua sắm tài sản để thay thế này cũng cần có vốn để tiến hành.
Nói tóm lại dù hoạt động nào trong doanh nghiệp thì cũng cần có vốn để hoạt động, vốn như là dòng máu trong cơ thể để cho công ty có thể hoạt động được suôn sẻ. Vốn có vai trò quan trọng quyết định đến mọi hoạt động trong doanh nghiệp từ hoạt động đầu tư mua sắm tài sản mới hay là đầu tư vào một lĩnh vực kinh doanh mới cũng như các hoạt động thường xuyên là hoạt động sản xuất kinh doanh.
1.2.3. Những nhân tố ảnh hưởng tới khả năng huy động vốn trong công ty cổ phần.
Việc huy động vốn trong doanh nghiệp cũng có những khó khăn, thuận lợi nhất định. Tuỳ thuộc vào từng thời điểm mà việc huy động vốn trong doanh nghiệp có thể được tiến hành thuận lợi hay không. Có rất nhiều nguyên nhân ảnh hưởng tới khả năng huy động vốn cho doanh nghiệp. Đó là những nhân tố sau.
a. Quy mô.
Quy mô của doanh nghiệp có ảnh hưởng rất lớn tới khả năng huy động vốn của doanh nghiệp. Thứ nhất nếu quy mô của doanh nghiệp lớn thì khả năng huy động vốn của doanh nghiệp sẽ dễ dàng hơn so với doanh nghiệp có quy mô nhỏ. Khi doanh nghiệp có quy mô lớn điều đo đồng nghĩa với việc doanh nghiệp làm ăn với quy mô lớn doanh thu hàng năm sẽ lớn từ đó dẫn đến việc lợi nhuận để lại sẽ lớn làm cho lượng vốn tích luỹ qua các năm sẽ lớn. Trái lại khi mà quy mô doanh nghiệp nhỏ thì ta không thể mong chờ có được một mức doanh thu và lợi nhuận cao để có được tích luỹ vốn lớn đưa vào đầu tư được. Từ đó mà khả năng huy động vốn từ nguồn lợi nhuận để lại của những doanh nghiệp lớn luôn có ưu thế so với các doanh nghiệp nhỏ khác.
Mặt khác là doanh nghiệp có quy mô lớn điều đó cũng đồng nghĩa với việc giá trị tài sản mà doanh nghiệp có sẽ lớn hơn so với các công ty vừa và nhỏ. Đây là một thuận lợi lớn cho các công ty lớn khi đi vay tín dụng ngân hàng vì khi đi vay tín dụng ngân hàng thì bao giờ ngân hàng cũng căn cứ vào giá trị tài sản mà công ty có để cho vay vốn, ta không thể vay vốn với số lượng lớn khi mà phần giá trị tài sản của công ty nhỏ bé. Vì vậy mỗi khi đi vay tín dụng ngân hàng các công ty lớn với giá trị tài sản lớn của mình có thể đem ra thế chấp để vay được số lượng vốn lớn cần thiết để cung cấp vốn cho những hoạt động đầu tư của mình nhưng trái lại với các công ty vừa và nhỏ thì việc vay tín dụng ngân hàng một khối lượng vốn lớn là không dễ dàng khi mà giá trị tài sản mà công ty có chưa nhiều nên chưa thể tạo được lòng tin đối với ngân hàng để cho vay.
Một điểm mạnh nữa của những doanh nghiệp có quy mô lớn là doanh nghiệp có quy mô vốn lớn thì thường hoạt động trong nhiều lĩnh vực, hoạt động lâu trên thị trường nên có được lòng tin của khách hàng và các đối tác nên họ có thể tiến hành vay tín dụng thương mại từ các đối tác cũng trở lên dễ dàng. Họ có thể thoả thuận với bên đối tác kể cả bên cung cấp và bên phân phối cho vay những khoản vay tín dụng thương mại một cách dễ dàng hơn điều đó sẽ tạo lợi thế cho họ trong việc huy động vốn.
Một doanh nghiệp có quy mô vốn lớn cũng có thuận lợi hơn các công ty vừa và nhỏ khác trong việc vay vốn từ kênh huy động vốn phát hành cổ phiếu hay trái phiếu. Vì muốn phát hành cổ phiếu hay trái phiếu ra thị trường thì điều đầu tiên cần phải đáp ứng được là quy mô vốn của doanh nghiệp phải đủ lớn để có thể phát hành trái phiếu nhằm đảm bảo khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Khi mà doanh nghiệp có quy mô lớn thì cũng đảm bảo lòng tin đối với những nhà đầu tư khi mà các công ty lớn định phát hành trái phiếu, rõ ràng khi phải lựa chọn giữa hai loại trái phiếu thứ nhất là của một công ty vừa và nhỏ và một bên là của một công ty lớn thì chúng ta thường có xu hướng chọn trái phiếu của doanh nghiệp có quy mô lớn tất nhiên sự lựa chọn này còn phụ thuộc vào các yếu tố khác như là uy tín của doanh nghiệp, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp… Với doanh nghiệp có quy mô vốn lớn thì nguồn quỹ dự phòng mà công ty có chắc chắn cũng sẽ lớn điều đó thuận lợi cho doanh nghiệp khi muốn huy động vốn từ nguồn này khi mà doanh nghiệp thiếu vốn họ có thể tạm thời dùng nguồn vốn của quỹ dự phòng này để bù đắp vào chỗ thiếu và đến cuối kỳ sẽ hoàn trả vào.
b. Lĩnh vực hoạt động.
Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực mà có tỷ suất lợi nhuận cao, thị trường lớn và ổn định thì khả năng huy động vốn cũng sẽ cao hơn. Rõ ràng khi mà hai doanh nghiệp có cùng quy mô thì yếu tố lĩnh vực hoạt động sẽ quyết định đến khả năng huy động vốn của doanh nghiệp. Công ty nào đang hoạt động trong những ngành mà có lợi nhuận cao, những ngành hấp dẫn thì sẽ thu hút được rất nhiều nhà đầu tư quan tâm từ đó mà dẫn đến khả năng huy động vốn cũng sẽ cao hơn còn trái lại doanh nghiệp doanh nghiệp nào hoạt động trong lĩnh vực mà lợi nhuận thấp, chi phí cao thì việc thu hút vốn, thu hút các nhà đầu tư thường là khó khăn hơn.
Thêm vào đó thì việc hoạt động trong những lĩnh vực kinh doanh mới là một ưu thế lớn cho các doanh nghiệp khi thu hút đầu tư. Khi một ngành mới xuất hiện chưa có nhiều nhà đầu tư tham gia vào nên thị trường còn rất lớn do vậy mà doanh nghiệp sẽ dễ dàng chiếm lĩnh thị trường từ đó mà có được doanh thu và lợi nhuận lớn, dễ dàng huy động vốn từ nội bộ. Đến khi các công ty khác bắt đầu quan tâm vào lĩnh vực mới này thì doanh nghiệp đã nắm chắc được thị trường từ đó tạo được ưu thế trước các doanh nghiệp khác trong cạnh tranh, dễ dàng thu hút các nhà đầu tư đầu tư vào doanh nghiệp hay tiến hành liên doanh góp vốn với doanh nghiệp… lĩnh vực hoạt động ở đây cũng liên quan đến thị trường hoạt động và những nhà cung ứng đối tác cho doanh nghiệp.
Với một lĩnh vực hoạt động có thị trường rộng lớn, tiềm năng thì khả năng thu hút vốn đầu tư vào đó là cao hơn rất nhiều khi mà ta hoạt động trong một ngành mà thị trường nhỏ hẹp không thu hút được sự quan tâm của những nhà đầu tư nên khả năng thu hút vốn đầu tư rất hạn chế. Còn việc các nhà cung ứng đối tác cũng quan trọng vì nó quyết định đến các khoản vay tín dụng thương mại của doanh nghiệp.
c. Hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Khi mà doanh nghiệp đang hoạt động tốt, hiệu quả sản xuất kinh doanh cao thì khả năng huy động vốn của doanh nghiệp sẽ thuận lợi hơn rất nhiều đối với những doanh nghiệp làm ăn đình đốn. Khi mà doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả điều đó đồng nghĩa với việc vòng quay của vốn được rút ngắn, vốn không bị ứ đọng làm cho vốn liên tục được đầu tư tiếp tục làm tăng giá trị đồng vốn. Hiệu quả sản xuất kinh doanh cũng đồng nghĩa với việc doanh thu và lợi nhuân của công ty sẽ lớn làm cho phần lợi nhuận để lại của công ty lớn thì sẽ tạo được nhiều tích luỹ hơn cho doanh nghiệp, tạo lên số lượng vốn chủ sở hữu được gia tăng.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh càng cao thì uy tín của doanh nghiệp càng lớn càng thu hút được nhiều nhà đầu tư quan tâm, chú ý. Từ đó công ty sẽ dễ dàng hơn khi mà kêu gọi các nhà đầu tư vào doanh nghiệp. Khi hiệu quả sản xuất kinh doanh cao thì việc đi vay tín dụng ngân hàng và vay tín dụng thương mại cũng trở lên dễ dàng hơn vì khi sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao tạo được lòng tin đối với những nhà cho vay từ đó mà dễ dàng huy động vốn vào để đầu tư vào những dự án kinh doanh của mình. Còn trái lại khi mà sản xuất kinh doanh không đạt hiệu quả, vốn bị ứ đọng không lưu thông được thì doanh nghiệp khó có khả năng huy động vốn lớn vì không thu hút được sự quan tâm của những nhà đầu tư, không tạo được niềm tin về khả năng thanh toán tới những nhà cho vay do vậy mà khó khăn hơn khi đi vay.
d. Uy tín.
Uy tín cũng là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới khả năng huy động vốn. Rõ ràng khi mà doanh nghiệp có được uy tín trên thị trường tạo được niềm tin đối với khách hàng và đối tác, các nhà đầu tư thì doanh nghiệp sẽ dễ dàng hơn khi thu hút đầu tư thu hút vốn. Uy tín của doanh nghiệp nhiều khi còn quan trọng hơn cả hiệu quả sản xuất kinh doanh hay quy mô của doanh nghiệp trong việc thu hút vốn đầu tư. Vì hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh là sự biểu hiện tại những thời điểm nhất định, không doanh nghiệp nào là có thể hoạt động sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao trong suốt thời gian dài. Nhưng uy tín của doanh nghiệp thì khác nó được xây dựng qua nhiều giai đoạn, phải được tạo dựng rất lâu vì vậy mà uy tín của doanh nghiệp sẽ góp phần quan trọng giúp doanh nghiệp huy động vốn.
Khi mà doanh nghiệp có uy tín lớn thì việc phát hành trái phiếu hay cổ phiếu ra thị trường tài chính thì sẽ được sự quan tâm nhiều hơn của các nhà đầu tư trước những doanh nghiệp khác chưa có uy tín, hay uy tín còn chưa nhiều. Uy tín của doanh nghiệp như là một tài sản vô hình, nó được xây dựng qua thời gian, qua quá trình hoạt động của doanh nghiệp trên thị trường, nó như là thương hiệu của doanh nghiệp trên thị trường.
e. Tình hình thị trường.
Với thị trường ổn định không có biến động, khủng hoảng thì khả năng huy động vốn của doanh nghiệp sẽ tốt hơn nhiều khi mà tình hình thị trường biến động hay trở lên xấu đi. Khi mà tình hình thị trường phát triển ổn định thì các nhà đầu tư sẽ mở rộng đầu tư quan tâm nhiều đến lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp cũng như bản thân doanh nghiệp, từ đó doanh nghiệp sẽ dễ dàng huy động vốn từ các nhà đầu tư, kêu gọi vốn từ thị trường, vay vốn của các đối tác. Nhưng mà khi thị trường diễn biến xấu đi, thị trường tiêu thụ bị thu hẹp từ đó các nhà đầu tư sẽ thu hẹp đầu tư dẫn đến việc huy động vốn của doanh nghiệp sẽ không thể được diễn ra một cách dễ dàng khi mà doanh nghiệp cũng sẽ phải thu hẹp hoạt động, doanh thu và lợi nhuận giảm xuống là cho nguồn vốn nội bộ cũng sẽ giảm theo khiến cho khả năng huy động vốn bị ảnh hưởng.
f. Cơ chế chính sách của nhà nước.
Khi mà nhà nước có chính sách thông thoáng, khuyến khích các doanh nghiệp phát triển sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận thị trường vốn. Vì rõ ràng dù doanh nghiệp có quy mô vốn lớn hay nhỏ, hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh nào… thì đều hoạt động trong khuôn khổ cơ chế chính sách của nhà nước vì vậy mà cơ chế chính sách của nhà nước là yếu tố rất quan trọng giúp cho doanh nghiệp có thể phát triển được hay không. Mỗi một cơ chế chính sách mà nhà nước đưa ra đều có ảnh hưởng nhất định tới doanh nghiệp.
Khi mà chính sách đó đưa ra hợp lý, phù hợp với thị trường, phù hợp với tiến trình phát triển thì sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển, khuyến khích được các doanh nghiệp phát triển. Đặc biệt là những chính sách về thị trường tài chính và tiền tệ, chính sách về thuế thu nhập doanh nghiệp… nó sẽ ảnh hưởng rất nhiều tới doanh nghiệp, khi mà chính sách này phù hợp nó sẽ khuyến khích được doanh nghiệp phát triển, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp có thể huy động vốn để đáp ứng nhu cầu phát triển của doanh nghiệp.
Nhưng khi mà những chính sách này đưa ra không phù hợp, hạn chế thị trường, hạn chế khả năng phát triển của doanh nghiệp thì nó sẽ làm cho doanh nghiệp không thể phát triển được khiến cho khả năng huy động vốn của doanh nghiệp bị hạn chế, doanh nghiệp không thể phát triển được.
Nói tóm lại có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng tới khả năng huy động vốn của doanh nghiệp. Nó có thể là nhân tố khách quan hay chủ quan nhưng cho dù nó là từ phía nào thì tuỳ vào từng điều kiện cụ thể mà có tác động khác nhau tới khả năng huy động vốn của doanh nghiệp, có thể nó tạo thuận lợi trong lúc này nhưng lại gây khó khăn trong lúc khác vấn đề là doanh nghiệp phải tìm cách thích nghi với từng điều kiện nhất định, tận dụng những thuận lợi mà các nhân tố này mang lại vào doanh nghiệp, tuỳ thuộc vào điều kiện của doanh nghiệp mà có giải pháp huy động vốn cho hiệu quả.
4. Các tiêu chí đo lường độ an toàn vốn của doanh nghiệp.
Có rất nhiều tiêu chí đo lường độ an toàn vốn của doanh nghiệp nhưng trong đề tài này xin nêu ra hai tiêu chí để đo lường độ an toàn vốn của doanh nghiệp.
Khả năng thanh toán hiện hành là mối quan hệ giữa tài sản lưu động doanh nghiệp đối với nợ ngắn hạn. Chỉ tiêu này nhằm đo lường khả năng đảm bảo thanh toán các khoản nợ ngắn hạn bằng tài sản lưu động của công ty. Những biện pháp cơ bản nhằm cải thiện chỉ tiêu này phải nhằm vào việc gia tăng nguồn vốn ổn định (vốn chủ sở hữu và nợ dài hạn) thay cho các khoản nợ ngắn hạn. Tuy nhiên, đây chỉ là chỉ tiêu phản ánh một cách khái quát khả năng thanh toán nợ ngắn hạn và mang tính chất hình thức. Bởi vì, một khi tài sản của công ty lớn hơn nợ ngắn hạn cũng chưa chắc tài sản lưu động của công ty đủ đảm bảo thanh toán cho các khoản nợ ngăn hạn nếu như tài sản này luân chuyển chậm, chẳng hạn như tồn kho ứ đọng không tiêu thụ được, các khoản phải thu ứ đọng không thu tiền được. Vì vậy khi phân tích khả năng thanh toán ngắn hạn trên cơ sở đảm bảo của tài sản lưu động ta cần phân tích chất lượng của các yếu tố tài sản lưu động của công ty qua các chỉ tiêu kỳ thu tiền bình quân, vòng quay hàng tồn kho.
Khả năng thanh toán hiện hành = TSLĐ
Nợ ngắn hạn
Giá trị khả năng thanh toán hiện hành phải ≥ 1, nếu không thì doanh nghiệp không có khả năng thanh toán vì khi chỉ số này nhỏ hơn 1 có nghĩa là số tài sản lưu động mà doanh nghiệp có hiện tại nhỏ hơn số nợ ngắn hạn của doanh nghiệp khiến cho khả năng thanh toán của công ty bị hạn chế. Hệ số này phụ thuộc vào đặc tính của mỗi ngành. Giá trị tối ưu của tỷ số khả năng thanh toán hiện hành theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế là từ 2 – 2,5.
Khả năng thanh toán nhanh là tỷ lệ được tính bằng cách chia các tài sản quay vòng nhanh cho tổng nợ ngắn hạn. Nó cho biết khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn không phụ thuộc vào việc bán tài sản dự trữ (tồn kho).
Khả năng thanh toán nhanh = TSLĐ - Tồn kho
Nợ ngắn hạn
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng doanh nghiệp có thể thanh toán ngay các khoản nợ ngắn hạn, căn cứ vào những tài sản lưu động có khả năng chuyển thành tiền một cách nhanh chóng. Không có cơ sở để yêu cầu chỉ tiêu này phải lớn hơn 1 vì trong các khoản nợ ngắn hạn, có những khoản đã và sẽ đến hạn ngay thì mới có nhu cầu thanh toán nhanh, những khoản chưa đến hạn chưa có nhu cầu thanh toán ngay.
Chỉ tiêu nợ ngắn hạn trên tổng nợ = Nợ ngắn hạn
Tổng nợ
chỉ tiêu này nói lên số nợ ngắn hạn mà công ty hiện có chiếm bao nhiêu phần trăm trong tổng số nợ của công ty. Từ đó mà công ty có chính sách điều chỉnh những khoản vay ngắn hạn cho hợp lý cũng như là việc tiến hành vay thêm các khoản vay ngắn hạn. Số nợ ngắn hạn không nên vượt quá 40% tổng nợ nếu không sẽ ảnh hưởng rất lớn đến khả năng trả nợ cũng như hiệu quả sử dụng vốn của công ty.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG
VỐN TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN VIỆT NAM HIỆN NAY.
2.1.Tình hình huy động vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước
Tổng số vốn đầu tư được huy động đưa vào nền kinh tế trong 5 năm 2001
- 2005 (tính theo giá năm 2000) đạt khoảng 976 nghìn tỷ đồng, bằng khoảng 118,2% dự kiến kế hoạch 5 năm và gấp 1, 76 lần so với 5 năm 1996 - 2000 cụ thể là:
Chỉ tiêu
Tổng vốn
(nghìn tỷ đồng)
Cơ cấu
(%)
Tổng đầu tư xã hội
976
100
Trong đó:
(1) Vốn đầu tư thuộc khu vực Nhà nước
528
54,1
- Vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước
219,9
22,5
- Vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước
130,2
13,3
- Vốn đầu tư của doanh nghiệp Nhà nước
178,2
18,3
(2) Vốn đầu tư của khu vực tư nhân và dân cư
259,3
26,6
(3) Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
161,9
16,6
(4) Nguồn khác
26,4
2,7
Nguồn: Bộ kế hoạch & đầu tư
Nguồn vốn đầu tư của ngân sách Nhà nước, bao gồm cả vốn tích luỹ của nguồn thu trong nước của ngân sách và vốn ODA viện trợ không hoàn lại hoặc vốn vay đưa vào ngân sách. Tổng cộng vốn từ ngân sách trong 5 năm khoảng 219, 9 nghìn tỷ đồng chiếm 22,5% vốn đầu tư xã hội
Vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước chỉ đầu tư mới rất hạn chế cho doanh nghiệp Nhà nước và không đầu tư các cơ sở sản xuất kinh doanh của khu vực doanh nghiệp này.
Nguồn vốn ngân sách đóng vai trò hết sức quan trọng trong chương trình đầu tư phát triển và chương trình đầu tư công cộng; tác động nhiều chiều đến việc thu hút các nguồn vốn khác.
Trong năm 2005 kế hoạch chi đầu tư phát triển tăng 11,5% so với thực hiện năm 2004, tưng ứng với 50.000 tỷ đồng. Trong số gần 45.000 tỷ đồng vốn đầu tư qua qua ngân sách năm 2004 thì có khoảng 20.000 tỷ đồng tín phiếu đấu thầu thông qua hệ thống tổ chức tín dụng mà nguồn gốc là vay dân; Năm 2005, ước tính nguồn vốn huy động bằng các loại tín phiếu, trái phiếu, công trái sẽ vào khoảng trên 35.000 đỷ đồng. Vấn đề đặt ra là để thực hiện có hiệu quả nguồn vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước là tình trạng đầu tư dàn trải, đầu tư phân tán, chống thất thoát, lãng phí, tham ô, tiêu cực trong thực hiện vốn đầu tư Nhà nước.
2.2- Vốn tín dụng ngân hàng đầu tư cho phát triển kinh tế
Đối với nguồn vốn tín dụng Nhà nước: Bao gồm cả vốn tích luỹ của nguồn thu trong nước thuộc ngân sách và vốn ODA vay để cho vay lại. Tổng cộng vón tín dụng Nhà nước trong 5 năm dự kiến trên 130, 2 nghìn tỷ đồng, chiếm 13,3% tổng đầu tư xã hội. Trong điều kiện nền kinh tế của Việt Nam còn yếu kém và hiệu quả và sức cạnh tranh như hiện nay các doanh nghiệp và các thành phần kinh tế còn chưa đủ sức đầu tư đổi mới công nghệ hoặc xây dựng các cơ sở sản xuất mới với công nghệ theo hướng hiện đại thì việc hỗ trợ đầu tư cho các doanh nghiệp bằng vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước là rất cần thiết.
Bảng 5: Dự kiến vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước
Đơn vị: Nghìn tỷ đồng (giá năm 2000)
2001-2005
2001
2002
2003
2004
2005
Tổng số vốn tín dụng
119,4
20,7
22,8
23,9
25,4
26,6
1- Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh
116
20,4
22,4
23,1
24,5
25,6
2- Các doanh nghiệp hoạt động công ích
3,4
0,3
0,4
0,8
0,9
1
Nguồn : Bộ kế hoạch và đầu tư
Tất cả các thành phần kinh tế đều có thể tiếp cận nguồn vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước, nếu có những dự án đầu tư có hiệu quả, được thông qua thẩm định của các cơ quan chức năng
Trong năm 2004 và 6 tháng đầu năm 2005 được đánh giá là có sự cạnh tranh thực sự sôi động trên thị trường tiền tệcủa hệ thống các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng để huy động vốn trong xã hội đầu tư cho nền kinh tế. Đó là đa dạng hoá các hình thức huy động, các sản phầm huy động, cơ chế khuyến mại, công tác tiếp thị... Song, tốc độ huy động chỉ đạt khoảng 23%, dư nợ cho vay tăng gần 27% so với năm 2004
Nhìn chung trong hệ thống các ngân hàng thương mạiN, do tình hình cân đối vốn khẩn trương và để kiểm soát chất lượng tín dụng nêu các chi nhánh tập trung cho các hộ làm kinh tế trang trại, hộ nuôi trồng Thuỷ sản, chăn nuôi vay.
2.3. Nguồn vốn trong dân cho đầu tư phát triển.
a. Nguồn hình thành.
Vốn trong dân chính là lượng giá trị mới do lao động của con người sáng tạo ra được tích luỹ lại nó bao gồm:
Thứ nhất, tiền tích luỹ và tiết kiệm của dân. Tiết kiệm của dân cứ phụ thuộc vào thu nhập và chi tiêu của hộ gia đình. Thu nhập của hộ gia đình bao gồm thu nhập có thể sử dụng ( DI) và các khoản thu nhập khác.
Thứ hai, Nguồn tiền di chuyển từ nước ngoài vào Việt Nam, nguồn này hình thành do các luồng tiền sau:
Những người lao động hợp tác nước ngoài mang về: Việt Kiều gửi về cho thân nhân trong nước. Các hộ chuyên gia, lưu học sinh và cộng đồng người Việt Nam ở các nước trên thế giới, gửi và mang tiền về nước.
b. Hướng sử dụng và hình thức tồn tại
Nguồn tích luỹ vàtiết kiệm của dân được sử dụng theo nhiều hướng lựa chọn theo hướng nào là phụ thuộc vào các yếu tố. Khả năng về nghề nghiệp, trình độ quản lý kinh doanh, hoàn cảnh gia đình, chính sách của Nhà nước, sự ổn định của đồng tiền ….. Những năm gần đây vốn trong dân được sử dụng theo hướng chủ yếu sau:
Một là, đầu tư cho sản xuất kinh doanh như thành lập doanh nghiệp tư nhân, Công ty TNHH, Công ty cổ phần, hộ nông dân đầu tư vào sản xuất nông nghiệp, người làm nghề thủ công, dịch vụ….. Nếu mọi người dân đều đầu tư có hiệu quả thì đây là hướng đầu tư tích cực nhất .
Điều đó được thể hiện qua mức sản lượng hàng hoá và GDP tăng của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh trong những năm gần đây.
Hai là, một số người có vốn lớn dùng để kinh doanh bất động sản, khi họ đã qua được nhà và đất thì số vốn đó tồn tại dưới dạng tài sản khi họ đã mua được nhà và đất. Còn khi chủ mua nó có thể tồn tại dưới dạng vàng, ngoại tệ, giấy bạc ngân hàng hoặc số dư tiết kiệm tại ngân hàng.
Ba là, gửi tiền vào ngân hàng hoặc cho vay để lấy lãi mục đích của hướng đầu tư này là để lấy lãi mục đích của hướng đầu tư này là để lấy lãi . Tiền tiết kiệm thường để gửi vào Ngân hàng Thương Mại, kho bạc Nhà nước, quỹ tín dụng nhân dân …. Họ gửi tiền vào đâu là tuỳ thuộc vào độ tin cậy và tổ chức tín dụng, mức lãi xuất của ngân hàng đề ra.
Bốn là, tiền tích luỹ để xây nhà ở, mua sắm tài sản tiêu dùng có giá trị lớn, đầu tư cho con cái học hành. Tích luỹ để sử dụng theo hướng này tồn tại bằng hiện vật.
Năm là, tích luỹ tiền dưới dạng để giành chưa có mục đích. Sử dụng . Hướng này thường có ở những người có ý đồ chỉ cất giữ của cái hoặc chưa xác được hướng sử dụng có lợi nhất.
Số tiền tích luỹ chủ yếu là vàng, USD và một số tài có giá trị cao như mua nhà đất, xe….
Trong năm gần đây, ngành ngân hàng nói riêng và các cơ quan tài chính nói chung đã nhiều lần cải tiến hình thức và nội dung huy động nguồn vốn này. Việc huy động nguồn vốn trong dân đã tăng lên đáng kể tuy nhiên chủ yếu là lượng tiền tiết kiệm gửi vào các ngân hàng mà chưa có nhiều dự án trực tiếp đầu tư. Trong 6 tháng đầu năm 2005, ngân hàng đầu tư phát triển Việt Nam thường xuyên tổ chức các chiến dịch huy động vốn với quy mô lớn như: Huy động tiết kiệm dự thưởng đợt II /2005 với tổngtrị giá giải thưởng lên tới 5, 5 tỷ đồng. Tính đến hết tháng 6/2005 tổng nguồn vốn huy động của ngân hàng đầu tư phát triển Việt Nam đạt 6.585 tỷ đòng, chỉ tăng có 2% so với cuối năm 2005. Ngân hàng ngoại thương Việt Nam huy động được khoảng 124.000 tỷ đồng.
Theo tính toán của các chuyên gia kinh tế, dự báo rằng khả năng huy động vốn đầu tư phát triển thời kỳ 2001 - 2005 của khu vực dân cư và tư nhân là 188, 8 nghìn tỷ đồng (giá năm 2000)
Năm 2005 có khoảng trên 45 nghìn doanh nghiệp tư nhân mới thành lập với tổng số vốn trên 110 nghìn tỷ đồng
2.4- Tình hình huy động vốn đầu tư qua nguồn vốn tự có của doanh nghiệp
Đối với các doanh nghiệp dự tồn tại và phát triển phụ thuộc vào hoạt động tài chính của doanh nghiệp hay với cách khác, sự sống còn của doanh nghiệp phụ thuộc vào hiệu quả kinh doanh và việc huy động vốn cho tăng trường và phát triển doanh nghiệp. Nhờ có chính sách đổi mới và hoàn thiện luật doanh nghiệp luật hợp tác xã… trong những năm qua số lượng các doanh nghiệp tham gia đăng ký thành lập không ngừng tăng lên, từ năm 2001 đến năm 2004 đã có khoảng 106 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với số vốn đăng ký, 198, 2 nghìn tỷ đồng tăng 44,1% về vốn đăng ký
Tỷ trọng đầu tư của doanh nghiệp dân doanh, trong nước liên tục tăng và vượt cao hơn vốn đầu tư của doanh nghiệp Nhà nước
Số doanh nghiệp đang hoạt động
2000
2001
2002
Tổng số
42.288
51.680
62.908
1- Khu vực Nhà nước
5759
5355
5364
2- Khu vực ngoài quốc doanh
35.004
43.319
55.236
- Hợp tác xã
3.237
3696
4104
- Doanh nghiệp tư nhân
20.548
22.777
24.794
- Công ty TNHH
10.458
16.291
23.486
- Công ty cổ phần
757
1595
2829
3- Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
1525
2011
2308
Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam
Số doanh nghiệp trực tiếp đang hoạt động tăng 22% năm, tăng chủ yếu ở khu vực ngoài quốc doanh 25,6% năm trong đó tăng nhanh nhất là Công ty cổ phần 93,3% Công ty TNHH 49,9%.Qua đây cho thấy các công ty cổ phần đang được ưa chuộng hơn với sức tăng gần như gấp đôi qua các năm.Cho thấy sức hấp dẫn của công ty cổ phần cũng như khuynh hướng cổ phần hoá các doanh nghiệp.
Nhìn chung lượng vốn đầu tư của các doanh nghiệp đầu tư cho mở rộng phát triển sản xuất ngày càng tăng đáp ứng các yêu cầu mới cho phát triển kinh tế xã hội liên tuc cho các năm.Qua đó cung ứng vốn mới cho yêu cầu phát triển đất nước, đẩy mạnh công cuộc xây dựng phát triển doanh nghiệp cổ phần có khả năng đứng vững trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh như hiện nay.
Vốn đầu tư của doanh nghiệp Nhà nước qua các năm
Đơn vị: Nghìn tỷ đồng
TH 2001
TH 2002
TH 2003
TH 2004
Ước TH
18,5
29,2
33,5
40,4
46,7
Nguồn: Dự thảo kế hoạch 5 năm 2006 - 2010
Nguồn vốn này được huy động từ khâu cơ bản để lại, lợi nhuận sau thuế và các khoản đầu tư khác của doanh nghiệp Nhà nước đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh
Xét theo ngành kinh tế, các doanh nghiệp tập trung chủ yếu ở khu vực dịch vụ 56,9% riêng thương nghiệp, khách sạn, nhà hàng 43,9%, tiếp đến là khu vực công nghiệp - xây dựng 37,7%. Nhưng tăng nhanh nhất là doanh nghiệp ngành xây dựng tăng 40,1%/năm
Nhìn chung, các doanh nghiệp đã đóng góp rất lớn vào tỷ trọng GDP. Năm 2001, doanh nghiệp Nhà nước đóng góp 30,6%, doanh nghiệp ngoài quốc doanh góp 8,8%
CHƯƠNG III
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP KHAI THÁC HUY ĐỘNG VỐN CHO CÔNG TY CỔ PHẦN VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1.Tổng nhu cầu huy động vốn dầu tư.
3.1.1. Tổng nhu cầu vốn đầu tư
a- Căn cứ
Trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc kần thứ IX chỉ rõ mục tiêu của chiến lược 10 năm 2001 - 2010 là: "Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất văn hoá, tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đai hoá..."
Mục tiêu cụ thể của chiến lược là đưa GDP năm 2010 lên ít nhất gấp đôi năm 2000 ổn định kinh tế vĩ mô cán cân thanh toán quốc tế lành mạnh và tăng dự trữ ngoại tệ, bội chi ngân sách, lạm phát, nợ nước ngoài được kiểm soát trong giới hạn an toàn và tác động tích cực đến tăng trưởng.
Để đạt được các mục tiêu của chiến lược, tích luỹ nội bộ ít nhất nhất phải đạt trên 30%.
Để đạt được mục tiêu trên việc phát huy cao độ nguồn vốn trong nước đồng thời tranh thủ các nguồn vốn bên ngoài và sử dụng chúng có hiệu quả các nguồn vốn, cầu đề xuất và thực hiện các giải pháp hết sức cụ thể và đồng bộ.
b. Nhu cầu
Để thực hiện mục tiêu trên và đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế 7,5 - 8%, tỷ lệ đầu tư trên GDP trong kế hoạch 5 năm 2006 - 2010 phải tăng so với trong kế hoạch 5 năm 2006 - 2010 phải tăng so với 5 năm 2001 - 2005, từ 35% lên 37 - 38%. Tổng số vốn đầu tư toàn xã hội trong kế hoạch 5 năm 2006 - 2010 theo giá năm 2005 đạt khoảng 1850 - 1960 nghìn tỷ đồng, tương đương với 117 - 124 tỷ USD, tăng khoảng 8%/năm, đảm bảo được tốc độ tăng trưởng kinh tế đề ra.
Trong tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội, đầu tư từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước dự kiến đạt khoảng 410 nghìn tỷ đồng, chiếm 22% tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội; đầu tư từ nguồn vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước dự kiến đạt khoảng 166 - 176 nghìn tỷ đồng, chiếm 9% đầu tư từ nguồn vốn của các doanh nghiệp Nhà nước dự kiến đạt khoảng 336 - 356 nghìn tỷ đồng, chiếm khoảng 18,2%, đầu tư từ nguồn đạt 568 - 607 nghìn tỷ đồng, chiếm khoảng 30,7 - 31%, đầu từ từ nguồn vốn trực tiếp nước ngoài dự kiến đạt 253 - 278 nghìn tỷ đồng tương đương khoảng 16 - 17, 5 tỷ USD
Chiếm khoảng 13,7% - 14,2%; đầu tư bằng các nguồn vốn khác dự kiến đạt 118 - 128 nghìn tỷ đồng chiếm khoảng 13,7% - 14,2%; đầu tư bằng các nguồn vốn khác dự kiến đạt 118 - 128 nghìn tỷ đồng, chiểm 6,4%
Trong nguồn vốn đầu tư toàn xã hội, dự kiến nguốn vốn trong nước chiếm khoảng 72% nguồn vốn nước ngoài chiếm khoảng 28%. Đầu tư cho lĩnh vực kinh tế dự kiến chiếm khoảng 70% tổng vốn đầu tư toàn xã hội; trong đó đầu tư cho ngành nông lâm, ngư nghiệp chiếm 13,4; công nghiệp 11,9%, đầu tư cho lĩnh vực xã hội chiếm 27,2%.
3.1.2- Kế hoạch huy động vốn cho các công ty cổ phần hiện nay.
a. Huy động vốn trung hạn và dài hạn trong điều kiện hiện nay
Sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá của nước ta đã và đang diễn ra sâu sắc và toàn diện do vậy đòi hỏi một lượng vốn trung và dài hạn rất lớn và cần thiết. Chính vì vậy chúng ta cần có những giải pháp thích hợp để huy động lượng vốn trung và dài hạn này:
Thứ nhất, xây dựng các mức lãi suất tiền gửi trung và dài hạn hợp lý
Thứ hai, đa dạng hoá các hình thác huy động trong dân, tạo lập được độ tin cậy đối với dân chúng thông qua việc phối hợp với các Công ty bảo hiểm.
Dự kiến tổng tích luỹ 5 năm đạt 2334 nghìn tỷ đồng bằng khoảng 39% GDP. Tổng tiết kiệm nội địa 5 năm đạt khoảng1925 nghìn tỷ đồng, tỷ lệ tiết kiệm nội địa trong GDP tăng từ 30,6% năm 2005 lên 33,1% năm 2010.
b. Huy động và sử dụng qua hệ thống ngân hàng
Các ngân hàng thương mại ngân hàng tiết kiệm các quỹ tiết kiệm cộng đồng, ngân hàng phát triển, thị trường chứng khoán… tạo điều kiệm cho các chủ doanh nghiệp vay vốn cho đầu tư phát triển
Ngân hàng Nhà nước nên điều hành lãi suất theo hướng: Giảm lãi suất cho vay để khuyến khích các thành phần kinh tế vay tiền để đầu tư vào các lĩnh vực, đặc biệt là những lĩnh vực rủi ro cao, ít nhà đầu tư tham gia. Nâng cao tính ổn định của lãi suất tín dụng và tỷ lệ lãi suất ổn định phải thấp hơn tỷ lệ lạm phát.
3.2. Giải pháp huy động vốn đầu tư
3.2.1. Thực hành chính sách tiết kiệm để tăng tích luỹ vốn
Hạn chế lãng phí và thất thoát do tham nhũng trong khi thực hiện cổ phần hoá, bán đấu thầu, cho thuê ,cần nâng cao tiết kiệm trong quá trình sử dụng vốn, vật tư, nguyên liệu nhà xưởng.
Sắp xếp lại các công ty cổ phần song phải phù hợp với từng điều kiện, đặc thù của các vùng để tránh đầu tư vốn dài trải, phân tán dễ thất thoát.
Giảm tỷ trọng chi tiêu, chi tiêu hợp lý trong gia đình. Nhà nước có chính sách khuyến khích tạo môi trường đầu tư. Các ngân hàng thương mại cần có chính sách tích cực về thủ tục, lãi suất hấp dẫn để khuyến khích người dân gửi tiết kiệm
3.2.2. Tiếp tục đổi mới và thu hút nguồn vốn đầu tư qua các tổ chức tài chính trung gian
Thông qua thị trường tài chính mà tiết kiệm được chuyển đến các nhà đầu tư là các công ty cổ phần.
Đổi mới và chấn chỉnh hoạt động hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng
* Về lãi suất: Giảm lãi suất cho vay khuyến khích đầu tư, đồng thời tăng lãi suất tiền gửi để thu hút vốn nhàn rỗi.
* Trong một thị trường tài chính, sự vận hành của cả hai kênh trực tiếp và gián tiếp sẽ bổ sung cho nhau, tạo khả năng, sử dụng vốn một cách có hiệu quả.
Trong điều kiện nước ta hiện nay, hệ thống tài chính cần phải tiếp tục phát triển và chuyển đổi phù hợp với cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, nhằm biến hệ thống tài chính thành trung tâm thu hút và phân bố các nguồn vốn đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội và hội nhập quốc tế
3.2.3- Tiếp tục đổi mới và quản lý có hiệu quả các công ty cổ phần
Nên tổ chức các doanh nghiệp theo hướng giảm sự cồng kềnh của bộ máy quản lý
Phải hướng các doanh nghiệp theo hướng chuyên môn hoá, trên cơ sở đó sẽ đổi mới công nghệ thì vốn đầu tư mới ít, chi phí sản xuất mới hấp dẫn và có lãi. Phải tăng cường vai trò của hội đồng quản trị với tư cách là đại diện chủ sở hữu tại doanh nghiệp để quản lý hoạt động của doanh nghiệp. Tăng cường mối quan hệ giữa các tổ chức tài chính trung gian với các công ty cổ phần hiện nay
Thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước
Tạo "sân chơi" bình đẳng giữa doanh nghiệp Nhà nước và Công ty cổ phần về những điều kiện hoạt động kinh doanh vởi vì chính sách đổi mới doanh nghiệp Nhà nước hiện nay cần có những ưu đãi tạo nên nhiều lợi thế như: Có hệ thống thông tin chính xác
3.2.4.Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện ngân sách Nhà nước
Huy động đầu tư cho phát triển qua ngân sách Nhà nước bằng cách tăng thu ngân sách.
Cần thực hiện việc cải cách hệ thống thuế và phí là nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước, đồng thời phải đảm bảo nuôi dưỡng nguồn thu, khuyến khích sản xuất, công bằng xã hội. Đảm bảo tính rõ ràng và ổn định của sắc thuế, cải tiến hình thức thu phívà lệ phí qua ngân sách Nhà nước.
Nâng cao năng lực của bộ máy quản lý thuế.
Tăng quy mô đầu tư từ ngân sách và sử dụng đúng hướng vốn vay
Bên cạnh việc chống thất thu và tiết kiệm chi thường xuyên chúng ta phải quản lý tốt nguồn vốn đầu tư từ ngân sách; triệt để xoá bỏ bao cấp đối với các doanh nghiệp Nhà nước thông qua ngân sách; thực hiện xã hội hoá các lĩnh vực xã hội
Nâng cao chất lượng quản lý cấp và phát kiểm soát chi ngân sách Nhà nước
- Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan Nhà nước trong quá trình cấp phát và kiểm soát chi ngân sách Nhà nước
- Sớm ban hành đồng bộ và hoàn thiện các văn bản pháp lý về công tác cấp phát và kiểm soát chi ngân sách Nhà nước
Thực hiện nghiêm chỉnh công tác kiểm toán Nhà nước
3.2.5- Tăng cường đầu tu tư ngân
Để tăng cường đầu tư tư nhân, Nhà nước cần thực hiện một số giải pháp
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật pháp và chính sách Nhà nước khuyến khích đầu tư tư nhân
- Coi trọng mở rộng thị trường trong nước và có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận khu vực và thị trường quốc tế.
- Hỗ trợ quá trình đổi mới và chuyển giao kỹ thuật công nghệ đối với các doanh nghiệp
- Cần có chính sách hỗ trợ các nhà đầu tư về việc sử dụng mặt bằng sản xuất kinh doanh
3.2.6. Đẩy mạnh việc phát triển thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán nước ta còn yếu kém chưa khuyến khích được các thành phần tham gia đầu tư. Chính vì vậy, thị trường chứng khoán phát triển sẽ tạo điều kiện cho dân cư và các tổ chức sẽ tạo điều kiện giúp cho dân cư và các tổ chức bỏ vốn ra để giúp các doanh nghiệp thu hút được vốn tạo ra sự cạnh tranh và phát triển lành mạnh giữa các doanh nghiệp
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.
Thông qua đề tài này mà đã làm rõ được những vấn đề lý luận chung về vốn trong hoạt động của doanh nghiệp và các công ty cổ phần hiện nay qua đó đưa ra các giải pháp thích hợp nhất áp dụng cho các công ty cổ phần. Và thông qua đề tài cũng thấy được thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh và thực trạng huy động vốn ,tìm ra những khó khăn hạn chế trong công tác huy động vốn của công ty cổ phần Việt Nam hiện nay.
Từ đó đề tài đưa ra những kiến nghị về phương thức huy động vốn của công ty cổ phần Việt Nam hiện nay. Qua quá trình làm bài thì tôi thấy rằng để công ty cổ phần Việt Nam có thể đạt được những mục tiêu đề ra trong tương lai thì công ty cần phải khai thác có hiệu quả hơn nữa các kênh huy động vốn hiện tại và mở ra thêm một số kênh huy động vốn mà công ty có thể áp dụng.
Trước tiên muốn thu hút được đầu tư thì doanh nghiệp phải kinh doanh có hiệu quả vì có như vậy thì công ty mới có thể giành được sự quan tâm của các nhà đầu tư, rõ ràng không một nhà đầu tư nào muốn đầu tư vào một công ty đang trong tình trạng sản xuất kinh doanh thua lỗ kéo dài. Do vậy mà công ty cổ phần phải cố gắng hoạt động sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao trong thời gian dài.
Thứ hai là cần có sự nhất trí của hội đồng cổ đông vì hội đồng cổ đông là người có quyền lực cao nhất trong công ty cổ phần quyết định những vấn đề quan trọng của công ty, mà việc mở rộng hội đồng cổ đông là một vấn đề lớn của công ty nên cần có sự nhất trí của hội đồng cổ đông.
Thứ ba là phải có nhà đầu tư sẵn sàng tham gia đầu tư vào công ty, vì khi mà muốn mở rộng hội đồng cổ đông thì phải có người muốn tham gia nên đây là một vấn đề cần được quan tâm.
Việc liên doanh liên kết giữa các doanh nghiệp không phải là một vấn đề mới mẻ với các doanh nghiệp trên thế giới, vì việc liên doanh này được tiến hành thường xuyên, nhưng để các doanh nghiệp có thể liên doanh với nhau thì cần phải có những điều kiện nhất định đó là.
Liên doanh này phải đem lại lợi ích cho tất cả các bên tham gia liên doanh, đây là một điều kiện tiên quyết vì không một doanh nghiệp nào kinh doanh vì lợi nhuận mà tham gia một liên doanh mà không mang lại lợi ích cho mình. Tất nhiên nhiều khi có những doanh nghiệp tham gia liên doanh không vì lợi nhuận mà có thể họ tham gia liên doanh vì những mục tiêu khác như là quảng bá hình ảnh của công ty mình…
Các bên tham gia liên doanh phải có vốn đối ứng vì nếu không rất khó để có thể thực hiện thành công việc liên doanh giữa các doanh nghiệp.
Các bên tham gia liên doanh thường có những thứ mà bên kia không có như là kinh nghiệm sản xuất, công nghệ sản xuất, trình độ quản lý… vì như vậy các bên tham gia liên doanh có thể tận dụng học hỏi từ nhau.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A9015.DOC