Tài liệu Đề tài Nghệ thuật giao tiếp trong gia đình: LỜI MỞ ĐẦU
&
“Gia đình!”, hai tiếng thiêng liêng, là tổ ấm khi bước chân xa về mệt mỏi, là nơi ta sinh ra và lớn lên gắn bó chứa chan tình thương yêu hạnh phúc, ai cũng có một gia đình, hãy giữ những phút giây thương yêu, quan tâm chia sẻ những khó khăn cùng nhau, để mỗi người là một sự gắn kết là mối dây liên hệ gia đình, có ý thức tốt hơn và sống tốt hơn. Để mỗi gia đình là một tế bào tốt của xã hội.
Một bữa ăn thật ngon với rau và các món dân dã nhưng chan chứa tình thương yêu ngọt ngào. Bên mâm cơm quây quần đó, những câu chuyện về cuộc sống xung quanh, về chuyện học tập của con cháu, về những lo toan vui buồn khó khăn trong cuộc sống đều được sẻ chia, động viên, dạy bảo, là câu chuyện vui của những đứa cháu nhỏ, là tiếng cười của ông bà, của cha mẹ.
Dù đi đâu và làm bất cứ công việc gì cũng tranh thủ cố gắng về nhà, nơi không chỉ là yên bình ấm áp mà còn là để cùng được ăn cơm với gia đình. Nó đã hình thành nên một thói quen, một nếp sinh hoạt trong mỗi thành viên gia đìn...
55 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1131 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Nghệ thuật giao tiếp trong gia đình, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
&
“Gia đình!”, hai tiếng thiêng liêng, là tổ ấm khi bước chân xa về mệt mỏi, là nơi ta sinh ra và lớn lên gắn bó chứa chan tình thương yêu hạnh phúc, ai cũng có một gia đình, hãy giữ những phút giây thương yêu, quan tâm chia sẻ những khó khăn cùng nhau, để mỗi người là một sự gắn kết là mối dây liên hệ gia đình, có ý thức tốt hơn và sống tốt hơn. Để mỗi gia đình là một tế bào tốt của xã hội.
Một bữa ăn thật ngon với rau và các món dân dã nhưng chan chứa tình thương yêu ngọt ngào. Bên mâm cơm quây quần đó, những câu chuyện về cuộc sống xung quanh, về chuyện học tập của con cháu, về những lo toan vui buồn khó khăn trong cuộc sống đều được sẻ chia, động viên, dạy bảo, là câu chuyện vui của những đứa cháu nhỏ, là tiếng cười của ông bà, của cha mẹ.
Dù đi đâu và làm bất cứ công việc gì cũng tranh thủ cố gắng về nhà, nơi không chỉ là yên bình ấm áp mà còn là để cùng được ăn cơm với gia đình. Nó đã hình thành nên một thói quen, một nếp sinh hoạt trong mỗi thành viên gia đình.
Đôi lúc bận công việc xa nhà, được chiêu đãi những nơi sang trọng, ăn những món ăn ngon nhưng mâm cơm rau của gia đình vẫn là một hình ảnh làm chúng ta nhớ mãi. Vì ở nơi đó là không khí chan hòa, là những bát cơm được xới từ tay mẹ, được gắp cho ông bà một miếng cá ngon, cũng có khi ông bà lại nhường cho cháu một lát cá to, là hôm nào mệt ăn ít cơm lại được một lời ân cần lo lắng: sao hôm nay ăn ít vậy con!...
Từ trong chính cuộc sống gia đình, sự hình thành nên mỗi con người rất là quan trọng, người ta có thể sống tốt trong xã hội hay không cũng bắt nguồn từ đây. Vì vậy sự gắn kết là mối dây liên hệ gia đình là điều rất quan trọng. Một bữa cơm ngon nhưng ai nấy cắm cúi ăn rồi bỏ đi… điều đó thật đáng buồn và cảm giác cô đơn lạc lõng chính trong gia đình mình, không có sự quan tâm gắn kết với người thân, khiến người ta dễ đi đến lối sống bất cần, không tự chủ.
Hãy trân trọng hạnh phúc gia đình và tạo nên hạnh phúc, đừng sống hời hợt và vô cảm với nhau trong chính gia đình mình. Bởi không có gì đẹp và đáng quý hơn là cuộc sống trong mái ấm gia đình.
Nhận thức được tầm quan trọng trong giao tiếp gia đình và kết hợp với kiến thức thực tiễn được tiếp thu ở nhà trường và tài liệu tham khảo thực tế cùng với sự giúp đỡ hướng dẫn nhiệt tình của cô Lê Thị Hải Vân, nhóm chúng em đã nghiên cứu đề tài với nội dung “ Nghệ thuật giao tiếp trong gia đình”. Đề tài gồm 3 phần:
Phần I: Lý thuyết về giao tiếp.
Phần II: Thực trạng giao tiếp trong gia đình hiện nay.
Phần III: Kỹ năng giao tiếp ứng xử trong gia đình.
Phần IV: Kết luận.
Do kiến thức thực tế và hiểu biết còn hạn chế, nhóm chúng em mong sự góp ý của thầy cô và các bạn để nhóm có thể có cách nhìn sâu sắc hơn, thực tế hơn giúp cho nhóm tiếp nhận kiến thức của chuyên nghành mình thuận lợi và áp dụng tốt công việc sau này.
Chúng em xin chân thành cảm ơn giảng viên Lê Thị Hải Vân đã trực tiếp hướng dẫn nhóm hoàn thành đồ án này.
Xin trân trọng cảm ơn!
MỤC LỤC
PHẦN I: LÝ THUYẾT VỀ GIAO TIẾP
1.1. Khái niệm, đặc điểm phân loại và kĩ năng giao tiếp.
1.1.1. Khái niệm.
Giao tiếp là các mối quan hệ giao lưu, ứng xử thông qua tiếp xúc giữa người với người; Giao tiếp văn hóa là những hành vi giao tiếp (cụ thể) theo định hướng (có) văn hóa.
Văn hóa giao tiếp là khía cạnh giá trị mang yếu tố tích cực trong các mối quan hệ giao tiếp cá nhân tạo thành một bộ phận của đời sống văn hóa tập thể và rộng ra là của nền văn hóa dân tộc.
Giao tiếp là quá trình chia sẻ ý nghĩ, tình cảm thông tin với một hoặc nhiều người. Trong giao tiếp, người ta thường sử dụng lời nói để biểu đạt ý nghĩ của mình, trao đổi thông tin với người khác; sử dụng ngôn ngữ không lời, như nét mặt, cử chỉ, động tác… để biểu lộ tình cảm, thông tin muốn chuyển tải.
Giao tiếp là quá trình tiếp xúc có mục đích. Người giao tiếp phải nỗ lực để cuộc giao tiếp đạt kết quả nên cần hiểu mình tiếp xúc với ai, nói gì, nói như thế nào… để đôi bên hiểu rõ thông tin cần thiết. Như vậy, giao tiếp không đơn giản chỉ là nói chuyện với ai đó. Về kỹ năng, một người có thể giao tiếp thành công hơn người khác nhờ khiếu ăn nói, óc linh hoạt, khả năng hài hước. Tuy nhiên để giao tiếp thành công cần rèn luyện, thực hành, rút kinh nghiệm và lúc đó năng khiếu sẽ là lợi thế kèm theo.
1.1.2. Đặc điểm của giao tiếp.
1.1.2.1.Tính mục đích.
Giúp người nghe hiểu những dự định của chúng ta;
Có được sự phản hồi từ người nghe;
Duy trì mối quan hệ tốt đẹp với người nghe .
Truyển tải được những thông điệp. Quá trình này có khả năng bị mắc lỗi do thông điệp thường được hiểu hoặc dịch sai đi bởi 1 hay nhiều hõn những thành phần khác tham gia vào quá trình này.
Khi không thành công, những suy nghĩ, ý tưởng của bạn sẽ không phản ánh được những cái đó của chính bạn, gây nên sự sụp đổ trong giao tiếp và những rào cản trên con đường đạt tới mục tiêu của bạn - cả trong đời tư và trong sự nghiệp.
1.1.2.2. Tính chuẩn mực.
Lễ nghi là một tiêu chí quan trọng trong xã hội văn minh hiện đại, đó là nội dung quan trọng trong hoạt động giao tiếp xã hội, và cũng là hình thức biểu hiện bên ngoài của văn hoá đạo đức xã hội, phản ánh tố chất công dân một quốc gia.
Phong cách xã giao là tài năng, là sự sáng tạo, là nhu cầu, là cách đối đãi của mỗi con người. Sự khéo léo trong giao tiếp sẽ tạo cho con người có thêm sức thu hút và thành công hơn, nếu như được vun đắp hơn nữa sẽ còn may mắn trong vận mệnh hơn rất nhiều.
Trong cuộc sống và công việc thường ngày, khéo léo trong đối nhân xử trhế còn có thể điều tiết mối quan hệ giữa con người với con người. Trên một ý nghĩa nhất định mà nói, lễ nghi xã giao là một côn cụ điều tiết sự phát triển hài hòa và mỗi quan hệ cộng đồng, con người khi giao tiếp với nhau cũng phải theo một quy phạm đối nhân xử thế, nó có tác dụng tích cực tăng cường sự tông trọng lẫn nhau, thiết lập mối quan hệ hợp tác hữu nghị, tránh tối đa những mâu thuẫn và xung đột không đáng có. Thông thường mà nói, con người nhận được sự tôn trọng, tiếp đãi ân cần, sự tán đồng và giúp đỡ sẽ có sự mạnh rất lớn, tạo được mối quan hệ tốt đẹp với mọi người, còn ngược lại, có thể sẽ gây cho người khác sự ác cảm, sự thù địch, cố chấp, nhìn chung sẽ tạo ra một tâm lý không được tốt.
Chuẩn mực giao tiếp thời hội nhập với đặc điểm nổi bật ở sự thời thượng, mới mẻ, toàn diện, và phổ biến sẽ là một cẩm nang giao tiếp thiết thực dành cho bạn trong cuộc sống. Thời đại ngày nay, nhịp sống và làm việc của mỗi người ngày càng khẩn trương, không phải ai cũng biết hế lễ nghi, thông thạo phong tục, tuy nhiên mỗi người chúng ta cũng điều biết được phong cách xã giao cần thiết để phục vụ cho công việc và giao tiếp với mọi người xung quanh. Sách sẽ giúp độc giả lĩnh hội được những chuẩn mực tối ưu nhất về lễ nghi giao tế trong nhiều phương diện, hoàn cảnh, lĩnh vực của cuộc sống hàng ngày.
1.1.3. Phân loại giao tiếp:
Con người có rất nhiều cơ hội giao tiếp với những người khác. Giao tiếp có thể phân biệt thành nhiều loại khác nhau.
1.1.3.1.Giao tiếp nội tâm:
Khi con người trò truyện với chính bản thân họ, quá trình giao tiếp này diễn ra trong bộ não. Nó bao gồm những suy nghĩ, ký ức, và nhận thức trong suốt quà trình giao tiếp. Hầu hết hành vi phản ứng đối với các cấp độ giao tiếp chủ yếu đều bắt nguồn từ giao tiếp nội tâm. Ở cấp độ này, chủ thể đặt ra những quy tắc cho bản thân và các kiểu mẫu giao tiếp. Giao tiếp nội tâm bao gồm:
Giác quan – Ví dụ: các mô hình diễn giải, văn bản, ký hiệu, biểu tượng.
Giao tiếp không bằng lời nói – Ví dụ: các động tác, giao tiếp bằng mắt.
Giao tiếp giữa các bộ phận trên cơ thể – Ví dụ: “Bao tử của tôi nói với tôi là đã đến giờ ăn trưa rồi”.
Mơ mộng.
Giấc mơ ban đêm.
Những hình thức khác.
1.1.3.2. Giao tiếp ứng xử:
Giao tiếp ứng xử được hiểu là việc giao tiếp giữa hai cá nhân riêng biệt. Hình thức giao tiếp này diễn ra khi hai con người giao tiếp với nhau hoặc giao tiếp theo nhóm. Điều này cũng có nghĩa là con người có thể nắm bắt được việc giao tiếp với những con người khác nhau trong những hoàn cảnh khác nhau và làm cho người đó cảm thấy hài lòng. Những động tác như giao tiếp bằng mắt, vận động cơ thể, và các động tác tay cũng là một phần của giao tiếp ứng xử. Các chức năng phổ biến nhất của việc giao tiếp ứng xử là nghe, nói và giải quyết mâu thuẫn. Phân loại giao tiếp ứng xử đi từ giao tiếp ngôn ngữ đến phi ngôn ngữ và từ tình huống này đến tình huống khác. Giao tiếp ứng xử bao gồm việc giao tiếp trực diện có mục đích và thích hợp.
1.1.3.3. Giao tiếp theo nhóm nhỏ:
Giao tiếp theo nhóm nhỏ là một quá trình tác động qua lại diễn ra theo nhóm ba người hoặc nhiều hơn để đưa ra được những mục tiêu chung bao gồm giao tiếp trực diện và các loại giao tiếp qua trung gian. Loại giao tiếp này thỉnh thoảng cũng bao gồm giao tiếp ứng xử chỉ có một điểm khác biệt chủ yếu là số lượng người tham gia vào quá trình này. Giao tiếp theo nhóm nhỏ có thể là buổi nói chuyện giữa các thành viên gia đình trong bữa ăn tối, hoặc một buổi họp được diễn ra bởi một vài thành viên trong tổ chức.
1.1.3.4. Giao tiếp cộng đồng:
Khi một người gửi thông điệp cho một bộ phận khán giả, không phân biệt những cá nhân khác nhau. Không giống với các cấp độ giao tiếp kể trên, người phát ngôn đóng vai trò chủ yếu trong quá trình giao tiếp này.
1.1.3.5. Giao tiếp tập trung:
Quá trình giao tiếp tập trung diễn ra khi một nhóm người nhỏ gửi thông điệp cho một bộ phận tiếp nhận lớn thông qua một phương tiện truyền thông cụ thể. Quá trình này biểu hiện sự hình thành và truyền bá một thông điệp đến một bộ phận tiếp nhận lớn thông qua phương tiện truyền thông.
1.1.3.6. Giao tiếp phi ngôn ngữ:
Trong giao tiếp phi ngôn ngữ, con người truyền những thông điệp cho nhau không sử dụng ngôn ngữ. Họ giao tiếp thông qua những biểu hiện trên gương mặt, vị trí đầu, tay và cử động tay, cử động của cơ thể, vị trí của chân và bàn chân. Con người cũng có thể dùng “khoảng cách” để diễn đạt một thông điệp. Bằng cách để ý đến giao tiếp phi ngôn ngữ, một người có thể hiểu được những thông điệp từ người khác, và chuyển thông điệp đến người khác. Sự chú ý đến việc giao tiếp phi ngôn ngữ giúp con người:
Diễn đạt sự tự tin và hiểu biết.
Chứng minh được sức mạnh và tầm ảnh hưởng.
Diễn tả lòng chân thành, sự hứng thú và tinh thần hợp tác.
Tạo dựng lòng tin.
Nhận ra tâm trạng của bản thân và của những người khác.
Khám phá sự khác biệt giữa những gì người khác đang nói và những điều người đó đang nghĩ.
Thay đổi hành vi và không gian giao tiếp để tạo nên những cuộc thảo luận có hiệu quả hơn.
03 châm ngôn về giao tiếp.
Châm ngôn 1: Giao tiếp là phương thuốc thần kỳ chữa lành mọi tai họa của chúng ta – Panacea
Châm ngôn 2: Giao tiếp có thể phá vỡ (Điều này có thể trái ngược với quan niệm giao tiếp không thể bị phá vỡ trong khi máy móc có thể bị phá vỡ).
Châm ngôn 3: Giao tiếp đơn thuần là việc xây dựng một kỹ năng. Giao tiếp là một quá trình phức tạp cần phải nắm bắt và thấu hiểu một cách toàn diện.
1.1.4. Kỹ năng giao tiếp cơ bản:
1.1.4.1. Hãy là một người lắng nghe tốt.
Hãy chú ý lắng nghe các nhân viên của bạn. “Nghe có vẻ rất đơn giản, nhưng đây là một trong những thiếu sót giao tiếp lớn nhất mà các nhà quản lý thường mắc phải”, - Maureen Dolan Rosen, một chuyên gia nhân sự tại hãng Chapel Hill , - cho biết. Trong số những điều Maureen nhấn mạnh tại các hội thảo quản lý là: “Hãy học cách lắng nghe tốt hơn”. Bà cũng dẫn chứng một câu truyện về ông sếp của bà trước đây, người luôn đặt tay dưới cằm và im lặng nghe mọi người xung quanh nói chuyện tại các cuộc họp bàn, hội thảo. Nhưng nếu quan sát kỹ một chút, bạn sẽ thấy sau cặp mắt kính, hai mắt ông nhắm nghiền. Ông đã sử dụng cuộc họp để chợp mắt trong chốc lát.
1.1.4.2. Dành thời gian cho nhân viên.
Thông thường, những cuộc nói chuyện trực tiếp với các nhân viên trong công ty là rất quan trọng; chỉ khi các nhân viên làm việc ở xa, bạn mới nên nói chuyện qua điện thoại. Nếu bạn không thể gặp gỡ hàng tuần, hãy thực hiện ít nhất một lần trong một tháng. Và bạn đừng nghe điện thoại khi đang họp, trừ khi có việc khẩn cấp. Hãy thể hiện cho nhân viên thấy sự quan tâm đầy đủ của bạn. Bạn nên nói chuyện về con đường sự nghiệp của họ và bạn đang hình dung thế nào về sự thăng tiến của họ trong công ty.
1.1.4.3. Trò chuyện với nhân viên về công việc.
Bạn nên thường xuyên tiếp cận để tìm hiểu về các thay đổi tại công sở từ trên xuống dưới. Việc này có thể khá khó khăn. Bạn sẽ rất dễ quên những việc cần phải nói với một ai đó về điều họ cần biết liên quan tới công việc của họ, nhưng bạn cần nhớ rằng: Công việc có thể không được hoàn thành và bạn có thể là người duy nhất biết những điều mà mọi người chưa biết.
1.1.4.4. Đưa ra những thông điệp nhất quán về những quan điểm của bản thân.
Điều này giúp các nhân viên của bạn đưa ra được những quyết định tốt hơn (hay ít nhất là những quyết định bạn sẽ cảm thấy phù hợp hơn). Nếu thông tin bạn đưa ra mỗi lúc một khác, nhân viên của bạn sẽ rơi vào trạng thái mơ hồ và bạn sẽ phải chịu hậu quả do những quyết định sai lầm của họ.
1.1.4.5. Định kỳ đưa ra các phản hồi, ý kiến đánh giá; tránh những điều ngạc nhiên bất ngờ.
Đừng để đến buổi họp thường niên, các nhân viên mới phải giật mình trước những đánh giá của bạn về công việc họ làm. Họ nên biết trước và sẵn sàng lắng nghe các ý kiến của “sếp” rằng có một vài điều họ cần phải cải thiện nhằm đáp ứng nhu cầu công việc tốt hơn. Những buổi đánh giá thường niên nên là nơi bạn tổng kết lại và cùng với các nhân viên thảo luận phương hướng hành động trong thời gian tới.
1.1.4.6. Học cách giao tiếp trò chuyện trước các nhóm nhân viên.
Vấn đề ở đây không phải là kỹ năng diễn thuyết trước đám đông, mà là khả năng trò chuyện với một nhóm nhân viên cụ thể. Nếu bạn không thể nói chuyện tốt tại các buổi họp hay trước một nhóm nhân viên, bạn sẽ đánh mất vị thế của một nhà quản lý như một người có năng lực lãnh đạo và đáng tin cậy. Hãy học cách để làm được điều này, học cách để trò chuyện tự tin và truyền cảm hơn. Bạn cũng cần lưu ý tới những điều tương tự khi viết e-mail đồng gửi cho nhiều nhân viên.1.1.4.7. Đừng che đậy đằng sau các e-mail.
E-mail là một công cụ giao tiếp quan trọng, nhưng hầu hết các vấn đề tế nhị cần phải được thảo luận cá nhân. Các xung đột cũng cần phải được giải quyết trong khuôn khổ cá nhân, bằng cách mặt đối mặt hay ít nhất là qua điện thoại. Khi vấn đề liên quan đến các cảm xúc, tình cảm..., thì e-mail chính là một phương tiện giao tiếp kém hiệu quả nhất. Và e-mail cũng chưa bao giờ là cách thức phù hợp để nói với ai đó rằng họ đang làm việc không hiệu quả.
1.2. Môi trường giao tiếp:
1.2.1. Môi trường gia đình:
Giao tiếp trong gia đình tưởng chừng đơn giản, nhưng thực tế lại là một kỹ năng khá khó. Nếu biết cách giao tiếp thì mối quan hệ trong gia đình bạn sẽ rất bền chặt.
Sự giao tiếp được định nghĩa là việc diễn đạt suy nghĩ, tình cảm và ý tưởng của bạn. Một phần cốt yếu của việc giao tiếp tích cực là lắng nghe.Đối với con cái, sự giao tiếp tích cực có thể giúp chúng cảm thấy thoải mái khi nói và chia sẻ suy nghĩ cũng như tình cảm của chúng một cách thẳng thắn. Chúng cũng có thể học cách tôn trọng ý kiến, tình cảm và suy nghĩ của người khác.Là phụ huynh hay người chăm sóc trẻ, bạn có thể có những biện pháp quan trọng nhằm xây dựng mối giao tiếp lành mạnh với trẻ con.
1.2.2. Môi trường nhà trường:
Giao tiếp có quan hệ chặt chẽ với giáo dục. Hay nói một cách cụ thể hơn thì ở phương diện nào đó giáo dục chính là giao tiếp. Không có giao tiếp không có giáo dục. Ngoài ra giao tiếp không chỉ là hình thức, phương tiện của giáo dục mà còn là một nội dung quan trọng của giáo dục. Giáo dục văn hóa giao tiếp trong nhà trường hiện nay có hai điểm cần lưu ý. Thứ nhất là truyền thống và hiện đại. Ở đây vai trò của nhà trường là rất quan trọng. Chính nhà trường chứ không phải chính phủ, báo chí hay dư luận xã hội sẽ quyết định vấn đề này. Chào như thế nào, thưa như thế nào, xưng hô ra sao…nhà trường sẽ lựa chọn và quy định. Quy định này không phải do hiệu trưởng quy định mà phải dựa trên cơ sở khoa học, trên các nghiên cứu, tham vấn… Thứ hai là dân tộc và quốc tế, chính công cuộc hội nhập và phát triển một cách ồ ạt của CNTT đã tạo ra một “thế giới phẳng” khiến cho khoảng cách giữa các dân tộc, quốc gia và con người được rút ngắn lại rất nhiều, cử chỉ, cách xưng hô cũng ảnh hưởng, pha trộn nhau..khiến cho tính văn hóa, đạo đức trong ngôn ngữ giao tiếp ít nhiều bị ảnh hưởng.
Ngoài việc gắn chặt giáo dục với giao tiếp thì giáo dục văn hóa giao tiếp trong học đường cũng cần phải gắn chặt với giáo dục đạo đức học đường. Trong đó, mỗi giảng viên nhà trường phải phấn đấu là tấm gương mẫu mực thể hiện văn hóa giao tiếp trong công việc cũng như cuộc sống hàng ngày. Bên cạnh những điểm quan trọng trên, việc giáo dục văn hóa giao tiếp cho học sinh nên được thực hiện mạnh mẽ trong Đoàn thanh niên, Hội sinh viên, hoạt động xã hội, đặc biệt trong các hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư phạm, trong kiến tập, thực tập sư phạm…có như thế mới mong phục dựng được văn hóa giao tiếp trong học đường đang ngày càng xuống cấp như hiện nay.’’.
Trường học là nơi truyền bá những nét đẹp của văn hóa một cách khuôn mẫu và bài bản nhất. Nét đẹp văn hóa trong giao tiếp cũng đòi hỏi các nhà sư phạm dạy cho học sinh những điều mẫu mực nhất. Việc xây dựng chuẩn mực về lời nói, hành vi trong giao tiếp, ứng xử một cách mẫu mực trong các trường học nói chung và các trường sư phạm nói riêng đòi hỏi về phiá nhà trường phải đưa ra những chuẩn mực trong chương trình giảng dạy.Chính vì thế việc phần đông đại biểu khẳng định quan điểm văn hóa giao tiếp không thể tách rời môi trường giáo dục để làm rõ một quan điểm rằng: muốn nâng cao văn hóa ứng xử của học sinh trong học đường con đường gần nhất, hiệu quả nhất không thể nằm ngoài mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau giữa giáo dục và giao tiếp.
Sự khéo léo ứng xử của người thầy - nhà sư phạm trong giao tiếp là điều cần thiết để xây dựng các mối quan hệ quản lý, giáo dục và giảng dạy tốt đẹp. Điều đó có ý nghĩa rất lớn trong việc tạo dựng môi trường sư phạm lành mạnh có tác động tích cực. Từ nền tảng vững bền trên, mỗi nhà trường cần phải tìm ra điều tốt nhất trong mỗi con người, phát huy những ưu điểm, hạn chế thấp nhất những nhược điểm, những bất cập ảnh hưởng đến quá trình giao tiếp trong nhà trường thì tất yếu chúng ta sẽ tạo được môi trường giao tiếp có văn hóa trong học đường một cách bền vững.
Giải pháp nào để nâng cao văn hóa giao tiếp trong nhà trường, để có một môi trường văn hóa học đường lành mạnh,đó là chúng ta cần phải kết hợp từ cả ba phía, gia đình cùng với nhà trường và xã hội. Trong đó, ông đề nghị chúng ta cần sớm tổ chức nghiên cứu, đánh giá một cách chính thức trên quy mô toàn quốc về thực trạng văn hóa học đường để trên cơ sở đó nghiên cứu, xây dựng, cải tiến các chương trình giảng dạy cả chính khóa , ngoại khóa hướng vào đổi mới toàn diện và đi vào thực chất việc giáo dục văn hóa giao tiếp cho HS-SV. Khẩn trương nghiên cứu các mô hình tổ chức lớp, giáo viên chủ nhiệm, mạng lưới tư vấn học đường, cũng như tập trung cao cho giáo dục văn hóa học đường từ các bậc học phổ thông, nhằm tăng cường sự phối hợp giữa nhà trường và ban đại diện cha mẹ học sinh. Nghiên cứu xây dựng chương trình dành riêng nhằm gia tăng vị thế giáo viên trong quá trình rèn luyện, giáo dục văn hóa giao tiếp cho HS-SV. Để thực hiện điều này ngành giáo dục cần sớm củng cố lại hệ thống các trường sư phạm trong cả nước theo định hướng xây dựng môi trường văn hóa giao tiếp sư phạm đặc trưng mà ở đó người thầy vừa truyền dạy cho học trò các bài học giáo khoa, vừa để lại cho trò “bài học làm người”.
Để nâng cao văn hóa giao tiếp trong học đường hiện nay thì văn hóa giao tiếp trong gia đình phải cần được chú ý trong chương trình đào tạo giáo viên nhiều hơn. Môi trường lớp học phải được xây dựng gần gũi nhờ môi trường gia đình. Vì trong môi trường thân thiện như vậy học sinh sẽ đón nhận những tình cảm yêu thương của thầy cô giáo như người thân trong gia đình. Đồng thời, qua việc giao tiếp một cách thoải mái tự nhiên, không bị tâm lý gò bó, không dám nói áp đặt các em học sinh sẽ hợp tác , trao đổi với giáo viên một cách thoải mái hơn từ đó có điều kiện trải nghiệm kinh nghiệm, thái độ ứng xử với mọi người một cách có văn hóa hơn.
1.2.3. Môi trường xã hội:
Trong quan hệ xã hội, người Việt Nam "tôn sư trọng đạo", tôn trọng người có công với dân tộc làm đầu. Giao lưu, đối thoại với các nền văn hóa thế giới, kể cả với các thế lực lắm tiền nhiều của, người Việt Nam luôn thể hiện bản lĩnh văn hiến dân tộc, giữ danh dự và tâm hồn trong sáng. Tinh thần khiêm tốn học hỏi, cầu thị vì sự tiến bộ và phát triển đất nước, con người trước quan hệ quốc tế luôn được đề cao. Trong quan hệ giữa các dân tộc, giữa các tầng lớp dân cư, các nhóm cộng đồng và cá nhân, thái độ "đói cho sạch, rách cho thơm", hành vi "lời chào cao hơn mâm cỗ", tinh thần "thương người như thể thương thân" luôn là bản sắc trong lối ứng xử của người Việt Nam hiện đại.
Đời sống kinh tế phát triển, cuộc sống ấm no, sung túc tất yếu đem lại một không khí giao tiếp văn minh, lịch sự. Đó là nền tảng và điều kiện cho sự phát triển từng bước vững chắc ở các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa của đất nước. Xã hội Việt Nam ngày càng trở nên văn minh, con người Việt Nam ngày càng có được nhiều dân chủ với tư cách cá nhân cũng như với tư cách tập thể. Quan hệ lãnh đạo - bị lãnh đạo ngày càng có dân chủ, thể hiện một phong cách làm việc có tính khoa học và văn hóa. Về nguyên tắc, cấp trên, cấp dưới được phân công phân nhiệm rõ ràng, làm cho bộ máy đảng và nhà nước vận hành tốt hơn. Đặc biệt là mối quan hệ giữa cán bộ và nhân dân đang tăng dần chất dân chủ. Tất cả những điều đó làm cho mọi hoạt động, mọi quan hệ trong xã hội ta ngày càng trở nên lành mạnh.
PHẦN II: THỰC TRẠNG GIAO TIẾP TRONG GIA ĐÌNH HIỆN NAY
2.1. Lý thuyết chung về gia đình:
2.1.1. Khái niệm:
Gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc do quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các nghĩa vụ và quyền giữa họ với nhau… (Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000). Các thành viên gia đình có mối quan hệ gắn bó với nhau về trách nhiệm và quyền lợi, giữa họ có những điều ràng buộc có tính pháp lý, được nhà nước thừa nhận và bảo vệ.
2.1.2. Phân loại:
Có nhiều cơ sở để phân loại gia đình thành các loại khác nhau.
Xét về qui mô, gia đình có thể phân loại thành:
Gia đình hai thế hệ (hay gia đình hạt nhân): là gia đình bao gồm cha mẹ và con.
Gia đình ba thế hệ (hay gia đình truyền thống): là gia đình bao gồm ông bà, cha mẹ và con còn được gọi là tam đại đồng đường. [2]
Gia đình bốn thế hệ trở lên: là gia đình nhiều hơn ba thế hệ. Gia đình bốn thế hệ còn gọi là tứ đại đồng đường.
Dưới khía cạnh xã hội học và về quy mô các thế hệ trong gia đình, cũng có thể phân chia gia đình thành hai loại:
Gia đình lớn (gia đình ba thế hệ hoặc gia đình mở rộng) thường được coi là gia đình truyền thống liên quan tới dạng gia đình trong quá khứ. Đó là một nhóm người ruột thịt của một vài thế hệ sống chung với nhau dưới một mái nhà, thường từ ba thệ hệ trở lên, tất nhiên trong phạm vi của nó còn có cả những người ruột thịt từ tuyến phụ. Dạng cổ điển của gia đình lớn là gia đình trưởng lớn, có đặc tính tổ chức chặt chẽ. Nó liên kết ít nhất là vài gia đình nhỏ và những người lẻ loi. Các thành viên trong gia đình được xếp đặt trật tự theo ý muốn của người lãnh đạo gia đình mà thường là người đàn ông cao tuổi nhất trong gia đình. Ngày nay, gia đình lớn thường gồm cặp vợ chồng, con cái của họ và bố mẹ của họ nữa. Trong gia đình này, quyền hành không ở trong tay của người lớn tuổi nhất.
Gia đình nhỏ (gia đình hai thế hệ hoặc gia đình hạt nhân) là nhóm người thể hiện mối quan hệ của chồng và vợ với các con, hay cũng là mối quan hệ của một người vợ hoặc một người chồng với các con. Do vậy, cũng có thể có gia đình nhỏ đầy đủ và gia đình nhỏ không đầy đủ. Gia đình nhỏ đầy đủ là loại gia đình chứa trong nó đầy đủ các mối quan hệ (chồng, vợ, các con); ngược lại, gia đình nhỏ không đầy đủ là loại gia đình trong nó không đầy đủ các mối quan hệ đó, nghĩa là trong đó chỉ tồn tại quan hệ của chỉ người vợ với người chồng hoặc chỉ của người bố hoặc người mẹ với các con. Gia đình nhỏ là dạng gia đình đặc biệt quan trọng trong đời sống gia đình. Nó là kiểu gia đình của tương lai và ngày càng phổ biến trong xã hội hiện đại và công nghiệp phát triển.
2.1.3. Chức năng của gia đình:
2.1.3.1. Chức năng tái sản sinh thành viên mới cho gia đình và xã hội
Gia đình là nơi tái sản sinh con người, cung cấp thành viên, nguồn nhân lực cho gia đình và xã hội. Theo dòng văn hóa, ở mỗi thời đại, việc sinh sản của gia đình có những hệ quả nhận thức khác nhau về giới tính, số lượng con. Mặt khác, sự sinh sản trong gia đình giúp cho việc xác định nguồn cội của con người, từ đó tránh nạn quần hôn, góp phần tạo nên tôn ti gia đình, trật tự xã hội, đảm bảo được các điều kiện cơ bản cho nòi giống phát triển.
Ngày nay, khoa học sinh sản phát triển cao nhưng sinh sản tự nhiên trong gia đình vẫn là ưu thế bởi đó là điều kiện cơ bản để bảo vệ nòi giống người, là cơ sở, nền tảng cho mỗi người tham gia vào đời sống xã hội vì sự phát triển.
2.1.3.2. Chức năng nuôi dưỡng, giáo dục, hình thành nhân cách
Gia đình là nơi dưỡng dục về thể chất, tinh thần, hình thành nhân cách cho mỗi con người trong xã hội. Từ trường học đầu tiên này, mỗi cá nhân được những người thầy thân yêu là cha mẹ, ông bà giáo dục kiến thức, kỹ năng sống để có thể thích ứng, hòa nhập vào đời sống cộng đồng. Nêu gương là cách giáo dục tốt nhất trong gia đình nên từ cách ứng xử giữa các thành viên gia đình (cha mẹ thương yêu chân thành, tôn trọng, giúp đỡ nhau; cha mẹ, ông bà vừa yêu quý, vừa nghiêm khắc và bao dung với con cháu), giữa gia đình với họ hàng, với láng giềng, với cộng đồng (trọng nhân nghĩa, làm điều thiện, sống chan hòa, ghét thói gian tham, điều giả dối), qua đó giúp con cháu tiếp thu một cách tự nhiên, nhẹ nhàng những bài học cuộc đời nhưng lại tác động mạnh mẽ đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách.
2.1.3.3. Chức năng thỏa mãn nhu cầu tình cảm cho các thành viên gia đình
Nhờ vào quan hệ hôn nhân và quan hệ huyết thống nên thành viên gia đình có tình yêu thương và ý thức, trách nhiệm với nhau. Chính vì vậy, gia đình là nơi để mỗi thành viên được chăm sóc cả về vật chất lẫn tinh thần, được thỏa mãn nhu cầu tình cảm, cân bằng tâm lý, giải tỏa ức chế,… từ các quan hệ xã hội.
Không phải ngẫu nhiên người ta gọi gia đình với cách gọi yêu thương, trìu mến: mái ấm. Trong gia đình, người già được chăm sóc khỏe mạnh, vui vẻ lạc quan, truyền lại cho con cháu vốn sống, cách ứng xử đẹp. Nơi đó, con cái biết yêu kính, vâng lời cha mẹ, vợ chồng quan tâm chia sẻ vui buồn cực nhọc với nhau…Ở đó, mỗi người cảm nhận được sự gần gũi, thân thương: từ khoảng sân, mái nhà, chiếc giường, … đến những quan hệ họ hàng thân thiết.
Khi một thành viên gặp biến cố, gia đình, dòng họ sẽ có sự quan tâm, chia sẻ và giúp đỡ để niềm vui được nhân đôi, nỗi buồn được vơi đi một nửa. Điều đó đã tạo nên sợi dây vô hình nhưng bền chặt kết nối nghĩa tình những người trong gia đình, dòng họ, thân tộc lại với nhau. Mối quan hệ đồng bào cũng từ đó mà hình thành trong làng xóm, trong xã hội, trở thành nền tảng của tình yêu quê hương đất nước, con người.
2.1.3.4. Chức năng kinh tế
Đây là chức năng nhằm bảo đảm sự tồn tại và phát triển của mỗi gia đình, góp phần vào sự phát triển toàn xã hội. Lao động của thành viên gia đình hoặc hoạt động kinh tế của gia đình nhằm tạo ra nguồn lợi đáp ứng các nhu cầu đời sống vật chất (ăn, mặc, ở, đi lại) lẫn nhu cầu tinh thần (học hành, tiếp cận thông tin, vui chơi giải trí). Gia đình còn là đơn vị tiêu dùng. Việc tiêu dùng sản phẩm hàng hóa dịch vụ trong xã hội đã tác động vào sản xuất, tiền tệ, thúc đẩy kinh tế đất nước phát triển.
2.1.4. Những chuẩn mực của gia đình:
Gia đình là tế bào của xã hội, là nền tảng để phát triển xã hội. Trân trọng tình cảm gia đình, gìn giữ nếp nhà là một nét văn hóa tốt đẹp của dân tộc ta. Trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, việc giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống của gia đình là điều rất cần được coi trọng; trong đó phụ nữ giữ vai trò chủ đạo. Ảnh hưởng của người phụ nữ tác động đến hầu hết các lĩnh vực trong cuộc sống gia đình.
Văn hóa gia đình là một bộ phận hợp thành của nền văn hóa Việt Nam. Đó là hệ thống những giá trị, chuẩn mực đặc thù, có chức năng kiểm soát, điều hành hành vi và mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình và giữa gia đình với xã hội. Chính vì thế, giữ gìn văn hóa gia đình cũng là góp phần giữ gìn truyền thống văn hóa Việt Nam. Thực hiện tốt chức năng giáo dục gia đình là điều kiện tiên quyết trong việc hình thành nhân cách cho các thế hệ tiếp nối.
Mặc dù cuộc sống có nhiều thay đổi, những gia đình có 3, 4 thế hệ cùng chung sống ít dần đi, nhưng những giá trị tốt đẹp của gia đình truyền thống Việt Nam vẫn được trân trọng và trao truyền cho các thế hệ tiếp nối. Sự “kính trên, nhường dưới”, yêu thương, quan tâm chăm sóc nhau, luôn luôn được các thành viên trong các gia đình gìn giữ. Để tạo dựng một gia đình hòa thuận, mọi thành viên trong gia đình đều phải có trách nhiệm đóng góp công sức vun đắp, cùng chia sẻ, gánh vác các công việc của gia đình và người phụ nữ phải là người khéo léo sắp xếp để làm sao tất cả mọi người trong gia đình đều thấy được trách nhiệm của mình đối với gia đình.
Trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế sâu rộng ngày nay, cuộc sống của mỗi gia đình và của cả xã hội ngày càng được cải thiện. Nhịp sống, và sự giao lưu văn hoá rộng mở, tác động thường xuyên, nhiều chiều …Các giá trị văn hoá gia đình đứng trước những câu hỏi: tiếp thu, lưu giữ và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, chuẩn mực như thế nào? Trong cuộc sống hiện đại, người phụ nữ có vai trò rất lớn trong việc hình thành những giá trị văn hoá mới; là người chọn lọc, phát triển và nhân lên những giá trị văn hoá tốt đẹp cho các thành viên trong gia đình.
Gia đình là tổ ấm tràn đầy tình yêu thương nuôi dưỡng mỗi con người lớn lên và trưởng thành. Gia đình là điểm tựa tinh thần vô cùng lớn lao cho mỗi người, là nơi khơi nguồn mọi sáng tạo, thành công, nơi chúng ta trở về sau mỗi hành trình mệt mỏi, là nơi che chở mỗi khi chúng ta vấp ngã hay thất bại trên đường đời. Gia đình cho chúng ta động lực phấn đấu trở thành người có ích cho xã hội, thành đạt trong cuộc sống…
2.2. Giao tiếp trong gia đình là gì?
2.2.1. Cách xưng hô trong gia đình tại Việt Nam
Ngoài hai từ chính thống cha và mẹ, các vùng khác nhau có những từ khác nhau như bố, ba, thầy để chỉ cha và má, u, mạ để chỉ mẹ.
Một số từ để chỉ mối quan hệ nếu có trong gia đình như: ông nội là cha của cha, bà nội là mẹ của cha, ông ngoại là cha của mẹ, bà ngoại là mẹ của mẹ.
Miền Nam: bác (trai) là anh của cha, bác gái là vợ của anh của cha, chú là em trai của cha, thím là vợ của chú, cô là chị hoặc em gái của cha. Cậu là anh hoặc em trai của mẹ, mợ là vợ của cậu. Dì là chị hoặc em gái của mẹ. Dượng là chồng của cô hoặc dì. Thông thường để gọi một người trong gia đình người ta dùng từ chỉ mối quan hệ kết hợp với thứ của người đó (nếu có quan hệ huyết thống) hoặc thứ của chồng hoặc vợ người đó (nếu không có quan hệ huyết thống) chẳng hạn như chú tư, vợ của chú tư được gọi là thím tư. Con trong gia đình được gọi từ thứ hai (con đầu) trở đi, không có con cả.
Miền Bắc: bác là anh hoặc chị của cha hoặc mẹ, vợ hoặc chồng của bác cũng được gọi là bác, chú là em trai của cha ngoài ra chú còn dùng để gọi chồng của cô hoặc chồng của dì, cô là em gái của cha, ngoài ra cô còn dùng để gọi vợ của chú, cậu là em trai của mẹ, mợ là vợ của cậu, dì là em gái của mẹ. Thông thường để gọi một người trong gia đình người ta dùng từ chỉ mối quan hệ kết hợp với tên của người đó. Con trong gia đình được gọi theo thứ tự cả, hai, ba, tư.
Anh em bà con (họ hàng): con của chú bác gọi là anh chị em chú bác (anh chị em con chú con bác), con của dì gọi là anh chị em bạn dì (anh chị em con dì), con của cô cậu gọi là anh chị em cô cậu (anh chị em con cô con cậu).
Dâu rể: gọi theo vợ hoặc chồng là người có quan hệ huyết thống với mình kết hợp với từ dâu hoặc rể ví dụ như con dâu, con rể, anh rể, em rể, chị dâu, em dâu. Hai người chồng của hai chị em gái miền Nam gọi là anh em cột chèo, miền Bắc gọi là anh em đồng hao hoặc đứng nắng. Hai người vợ của hai anh em trai gọi là chị em bạn dâu.
2.2.2. Lời khuyên để giao tiếp tốt:
Ngày nay mọi loại hình công việc đều đòi hỏi nhân viên phải có kỹ năng giao tiếp tốt. Đây là một kỹ năng rất quan trọng bên cạnh yếu tố chuyên môn bởi nó giúp bạn trở thành một nhân viên hoàn hảo và có nhiều cơ hội thăng tiến.
Do đó hãy không ngừng cải thiện và vun đắp kỹ năng giao tiếp nơi công sở để gặt hái thành công.
Sắp xếp suy nghĩ trước khi nói
Nếu không có tổ chức, bạn sẽ nói ngay những điều mình nghĩ một cách rời rạc, thiếu logic, thậm chí lỡ lời, nói cả điều không nên nói. Để tránh tình huống đó, hãy cố gắng sắp xếp suy nghĩ của mình theo trình tự trước khi nói. Nếu tham gia một cuộc đối thoại liên tục, bạn nên nói với tốc độ chậm (nhưng không quá chậm chạp, ngắt quãng dài) để có thời gian suy nghĩ và phản ứng một cách thích hợp.
Lắng nghe mọi người xung quanh
Hãy để ý những người xung quanh bạn và xác định ai là người giao tiếp tốt, ai là người không khéo léo trong ăn nói. Từ thực tế của họ, bạn có thể rút ra kinh nghiệm cho bản thân : học hỏi ưu điểm của người giao tiếp tốt và tránh sai lầm của người không khéo léo.
Tuy nhiên, bạn không nên copy y nguyên cách nói chuyện của người khác. Hãy tự tạo cho mình một phong cách tự tin, riêng biệt để ai cũng có thể nhận thấy đó chính là bạn.
Không phản ứng lại ngay lập tức
Cũng như lời khuyên đầu tiên, bạn nên dành khoảng 10 - 15 giây để hình thành suy nghĩ của mình thay vì phản ứng lại ngay tức khắc trước một câu hỏi hay lời đề nghị.
Đọc nhiều
Đây là điều rất cần thiết bởi nó là nguồn kiến thức của bạn và khi có kiến thức bạn sẽ có cơ sở để giao tiếp tự tin và hiệu quả hơn. Do đó, hãy tích cực đọc những bài báo hay, câu chuyện ý nghĩa cả trong và ngoài lĩnh vực của bạn. Nhờ đó, bạn cũng có thể đa dạng hóa chủ đề cho các cuộc nói chuyện với đồng nghiệp và sếp ngoài công việc.
Xây dựng tự tin
Phải tự tin bạn mới có thể phát biểu trước đám đông và mạnh dạn chia sẻ ý kiến của mình. Và để xây dựng sự tự tin, bạn phải không ngừng bồi dưỡng kiến thức cho bản thân.
Thể hiện ngôn ngữ cử chỉ hợp lý.
Bạn đã hội tụ những điều trên nhưng vẫn còn một yếu tố không thể thiếu để giao tiếp thành công : ngôn ngữ cử chỉ. Ngôn ngữ cử chỉ phải song song và phù hợp với lời nói của bạn. Vai thẳng và nghiêm chứng tỏ bạn đã sẵn sàng cho cuộc nói chuyện. Lưu ý ở công sở, bạn không thể nói chuyện với sếp và đồng nghiệp trong tư thế thoải mái như ở nhà.
2.3. Thực trạng và nguyên nhân.
2.3.1. Thực trạng giao tiếp trong gia đình hiện nay.
2.3.1.1. Giữa bố mẹ và con cái:
Cha mẹ không thông cảm, thường hay mắng mỏ các em trong độ tuổi vị thành niên. Phần lớn cho rằng trẻ không vâng lời.
Cha mẹ quá bận rộn lo kiếm tiền. Buổi sáng cho con tiền dằn túi, chở con đến trường, vội vã đến nơi làm việc. Buổi trưa đón co về, cho ăn, đưa con đi học tiếp rồi lại vội vã đi làm. Buổi tối cha mẹ khá chữ nghĩa thì dò bài, giảng bài tập; ít chữ nghĩa thì ngồi “canh me” cho con học.
Nuôi nấng cực khổ, tốn kém mà dường như chúng không nghe lời, càng lớn càng hư hay cãi lại…Đã thế,còn bày đặt có bạn trai, bạn gái.
Những kỳ thi cũng là thời gian áp lực đối với trẻ. Nếu không được điểm cao thì thường bị cha mẹ đem so sánh với bạn bè khiến trẻ bực tức, mặc cảm và hành động nông nổi.
Khi con có bạn khác giới, nhiều bâc cha mẹ không tìm hiểu, lắng nghe mà trấn áp bằng mọi cách.
Khi con có bầu, cha mẹ thường không đủ bình tĩnh mà nặng lời mắng nhiếc. Sau khi trút bỏ cái thai, cô gái rơi vào tình trạng mặc cảm, có thể dẫn đến bệnh tâm thần.
Khi con trai sa ngã vào mại dâm, ma túy…Chúng thường không tìm được nơi an ủi.
Có tới 62,9% bố mẹ ở khu vực phía Bắc và 57,7% bố mẹ ở khu vưc phía Nam chưa dành đến 30 phút trong ngày cho giải trí vui chơi cùng con cái. 46,2% bố mẹ miền Bắc và 20,2% cha mẹ miền Nam chỉ dành khoảng 15 phút cho hoạt động này.
Cha mẹ quá nuôi chiều con cái:
Từ khi Hương còn nhỏ, bà Lan đã hết mực cưng chiều. Đến lớn, hễ mẹ nhờ làm việc gì, cô bé 15 tuổi luôn giãy nảy không làm với lý do “con làm sợ xước móng tay, mất đẹp”.
Vì quá lo cho sức khỏe của đứa con gái út, bà Lan không bao giờ để con phải đụng tay vào việc gì. Mọi công việc từ quét nhà, giặt giũ cho đến nấu ăn, bà đều lo hết. Thậm chí, dưới bàn tay mẹ, Hương nay đã trở thành thiếu nữ vẫn chưa biết tự tắm rửa, hễ lúc nào muốn làm vệ sinh cơ thể, cô bé lại phải gọi mẹ.
“Khổ lắm, cứ hễ nhờ nó việc gì là lại giãy nảy giận hờn vì sợ làm xước móng tay. Thật sự bàn tay cháu rất đẹp và trắng trẻo, nhưng cái tôi lo là cháu đã lớn mà không thể tự chăm sóc cho mình thì sau này có gia đình riêng sẽ khổ lắm. Tôi tự trách mình vì đã quá cưng chiều con”, người mẹ 45 tuổi, ở Đà Lạt, tâm sự. Bà băn khoăn cũng có lý, bởi cô con gái lớn đã nặng 60 kg, cao 1,67 mét mà chỉ biết ăn, học, chơi game online và ngủ.
2.3.1.2. Giữa ông bà, cha mẹ và con cái.
Thời phong kiến con cái rất kính trọng ông bà, luôn vâng lời cha mẹ, lễ phép với người lớn. Khi đi học, ra đường gặp người lớn phải cúi đầu chào, khi xe tang đi qua biết nép vào lề dở nón, đưa gì cho người lớn phải cầm cả hai tay. Cách giáo dục con cháu ngày xưa rất nghiêm: Đi phải thưa về phải trình, nói chuyện với người lớn phải xưng cháu, xưng con, một dạ hai thưa chứ không được nói trống không. Không bao giờ dám lớn tiếng hay cãi lại cha mẹ. Chính vì dạy con từ thuở còn nhỏ, nên rất dễ dạy. Rèn trẻ vào khuôn phép từ nhỏ, lớn lên sẽ thành thói quen và nét đẹp văn hóa sẽ trở thành truyền thống.
Hiện nay con trẻ học văn quá nhiều, mà học lễ thì ít, gia đình bận rộn lo toan cuộc sống cũng có phần lơ là trong giáo dục và quản lý con cái. Không gò ép con vào khuôn khổ, mà còn nuông chiều con thái quá, buông lỏng việc quản lý nên dần dần kết bạn với bọn xấu, ham chơi bỏ học. Trẻ nhỏ thì mê game, lớn thêm tí thì tập tành hút thuốc, uống bia rượu, nghiện ngập rồi bỏ nhà đi bụi. Măng non không thể mọc thẳng nếu không có sự bảo bọc uốn nắn của tre già.Thiếu dạy dỗ con từ nhỏ làm sao con hiểu được công ơn cha mẹ.
Đối với con cháu trong gia đình, ông bà thường đặt vấn đề giáo dục đạo đức quan trọng hơn tri thức theo quan niệm “Tiên học lễ, hậu học văn”. Người già có thể tham gia giáo dục con cháu về nhiều vấn đề như lòng biết ơn ông bà, tổ tiên, thái độ, kĩ năng lao động phù hợp lứa tuổi, các thói quen sinh hoạt hàng ngày, giao tiếp, ứng xử trong gia đình, nhà trường, xã hội
Vì sống cùng hoặc sống gần con cháu nên nhiều ông bà còn dạy dỗ con cháu từ nhỏ và hàng ngày như ăn, nói, xin phép, chào hỏi, ứng xử với mọi người… Đó là cách giáo dục cần thiết, thiết thực liên quan đến đạo đức, lối sống trong gia đình và mở rộng ra ngoài xã hội và cộng đồng .
2.3.1.3. Giữa vợ và chồng.
Trong cuộc sống hàng ngày, những áp lực công việc cộng với thời gian chung sống đã lâu làm ta bớt đi những mối quan tâm với người bạn đời. Ta không còn đặt những câu hỏi thường xuyên "Cô ấy đang làm gì?", "Anh ấy đang nghĩ gì?", "Cô ấy có thích điều đó không?", "Liệu mình có làm anh ấy cảm thấy mệt mỏi không?"..
Thay vào đó, những xung đột, những khác biệt nảy sinh biểu hiện trong những cuộc cãi vã, những phán xét cá nhân, những nghi ngờ vô lý... đôi khi làm hai người cảm thấy không thể tiếp tục được nữa
Các cuộc tranh luận giữa vợ chồng dường như được mặc định như những cuộc cãi vã không có hồi kết với những lý do muôn thủa. Hãy tâm niệm rằng đó chỉ là những đối thoại, cả hai người cần không gian để suy nghĩ, để bình tĩnh và có thể nói lại chủ đề đó vào lúc khác.
Vấn đề không phải nó là gì mà nói nó ra như thế nào? Hãy khám phá một cách nói chuyện khác phù hợp. Điều này đồng nghĩa với việc học cách cảm nhận những suy nghĩ của người kia. Đặt mình vào vị trí của chồng/vợ, tìm cách tiếp cận và truyền tải câu chuyện một cách dễ chịu nhất bạn muốn.
2.3.1.4. Giao tiếp giữa anh chị em.
Cuộc sống gia đình là "một phòng thí nghiệm" cho cuộc sống sau này, nơi trẻ có thể bắt đầu hiểu những khái niệm trừu tượng như "sự đồng cảm", "sự hiểu biết" và "giao tiếp". Đó là nơi trẻ có thể học cách đối phó với những cảm xúc trái chiều, ví dụ như sự ghen tị, sự yêu thương chia sẻ... trong một môi trường vẫn còn rất an toàn.
Người Việt quan niệm anh chị em là “ruột rà máu thịt” vì vậy mà “máu chảy ruột mềm”. Gia đình truyền thống Việt Nam tuy có ảnh hưởng Nho giáo “Quyền huynh thế phụ”, nhưng vẫn đề cao giá trị “trên kính dưới nhường”, hòa thuận với nhau, vì:
“Anh em như thể chân tay,
Như gốc với rễ như cây với cành.
Anh thời phải thuận đạo anh,
Em thời hiếu đễ mới đành đạo em.”
2.3.1.5. Giao tiếp giữa những người họ hàng.
Trong cuộc sống hàng ngày, thỉnh thoảng người chúng ta cũng thăm hỏi bà con, họ hàng. Những người bà con, họ hàng gần như anh, chị em họ thì chúng ta cũng hay thường xuyên giao tiếp và hỏi thăm. Do vậy, chúng ta luôn phải trò chuyện và quan tâm lẫn nhau trong khuôn khổ nhất định. Xác định được quan hệ trong họ hàng rồi từ đó xưng hô cho đúng, chú ra chú, bác ra bác, anh ra anh, em ra em v.v.... Xưng hô trong họ tộc khác với xưng hô ngoài xã hội, để khỏi mang tiếng "Cá mè một lứa". Ngoài xã hội dựa theo tuổi tác và chức vụ địa vị, trong gia tộc dựa theo thế thứ, nhưng khi giao thiệp với từng cá nhân cụ thể lại phải kết hợp theo cách xưng hô ngoài xã hội theo quan hệ tuổi tác. Có thể đúng theo huyết thống thì anh A phải gọi tôi bằng ông chú, nhưng tôi cũng gọi anh A bằng bác, vì anh A đã là người tuổi cao, gọi bằng cháu bất tiện và bất lịch sự. Tôi gọi anh A bằng bác đó là gọi thay cho cháu chắt tôi, mặc dầu tôi ít tuổi hơn anh nhưng về thế thứ ngang với ông nội anh A. Tuy nhiên nếu ít tuổi quá mà gọi bằng ông cũng bất tiện, có khi phải hạ xuống một bậc mà gọi bằng chú mới thân mật..
Đôi khi, trong quan hệ họ hàng chỉ cần một lời chào hay một lời hỏi thăm cũng có thể làm cho mối quan hệ ngày càng thân thiết. Lời chào biểu hiện phong cách con người, biểu hiện nề nếp của gia đình, thuần phong mỹ tục của điạ phương và của cả dân tộc ta. Chỉ cần một nụ cười hay một câu hỏi thăm, như vậy đủ để quan hệ họ hàng gắn bó.
2.3.2. Phân tích nguyên nhân:
Lâu nay, chúng ta phê phán ngành giáo dục như là bộ phận chịu trách nhiệm chính đối với những vấn đề kiến thức, nhân cách và lý tưởng sống của học sinh, sinh viên - những chủ nhân tương lai của đất nước. Điều đó không hoàn toàn đúng. Nhà trường chỉ là một trong "ba thế giới" - gia đình, nhà trường và xã hội - có tầm quan trọng như nhau để tạo ra một sản phẩm người như chúng ta mong đợi. Khi một trong ba thế giới đó bị lỗi thì sẽ dẫn đến lỗi trong sản phẩm người.
Thế giới đầu tiên tôi muốn nói đến là gia đình. Đó là thế giới mà một con người vừa sinh ra đã được chứng kiến bằng cả sự vô thức của mình. Với những đặc điểm của đời sống xã hội và văn hoá Việt Nam, từ lúc sinh ra cho đến lúc bước vào lớp 1 của bậc tiểu học là khoảng thời gian mà con người đó chủ yếu sống trong thế giới gia đình. Đó là giai đoạn vô cùng quan trọng.
Chúng ta vẫn thường ví tâm hồn con người ở giai đoạn này là một tờ giấy trắng. Vì vậy, đời sống gia đình chính là nơi sẽ viết những dòng đầu tiên vào tờ giấy trắng tâm hồn ấy. Bởi thế, những giá trị nhân văn trong đời sống gia đình có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc đặt nền móng đầu tiên để hình thành nhân cách con người đó. Trong giai đoạn này, sự thiếu thốn vật chất có thể ảnh hưởng ở mức độ nào đó với việc phát triển thể lực. Nhưng sự thiếu thốn tinh thần sẽ ảnh hưởng một cách hệ trọng đến việc hình thành nhân cách và tâm hồn sau này của con người đó.
Có thể nói, gia đình là "người" được chọn lựa một cách tự nhiên để gieo những hạt giống đầu tiên của Cái đẹp vào tâm hồn một đứa trẻ. Việc gieo những hạt giống này được thể hiện qua hai hình thức: Ngôn ngữ và hành động của những người lớn trong thế giới gia đình. Cho dù ở lứa tuổi này, sự nhận thức của một đứa trẻ đối với những thông điệp trong ngôn ngữ và trong hành động từ người lớn là vô cùng hạn chế thì sự liên tục của ngôn ngữ và hành động ấy vẫn tạo ra một môi trường bao phủ gần như toàn bộ sự thức dậy và lớn lên của tâm hồn trẻ nhỏ.
Người Việt Nam có câu: "Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà". Câu nói đó không có nghĩa quy toàn bộ trách nhiệm dạy dỗ đứa trẻ cho hai người đàn bà quan trọng này trong gia đình. Mà có nghĩa, sự ảnh hưởng quan trọng của những người hàng ngày trực tiếp gần gũi nhất với việc nuôi dạy tâm hồn đứa trẻ. Vì lâu nay, việc chăm sóc đứa trẻ chủ yếu là công việc của hai người đàn bà đó trong gia đình. Nhưng với câu nói đó, cần hiểu là tất cả mọi thành viên trong gia đình có mối giao tiếp ngày ngày với đứa trẻ đều có ảnh hưởng tới đứa trẻ tuy ở những mức độ khác nhau.
Những lời nói thô tục, ích kỷ, hằn học, vô cảm...cùng những hành xử thiếu sự chia sẻ, yêu thương, tôn trọng giữa những người lớn trong gia đình với nhau hoặc với người hàng xóm và ngược lại, sẽ đi vào tâm hồn của trẻ nhỏ trực tiếp hoặc gián tiếp.
Theo kết quả điều tra xã hội học ở nhiều nước trên thế giới thì những đứa trẻ có vấn đề như tự kỷ, trầm cảm, bỏ học, sống ích kỷ, quan hệ tình dục sớm, tham gia vào các tệ nạn xã hội, phạm tội... chủ yếu là những đứa trẻ sinh ra và lớn lên trong những gia đình có một đời sống tinh thần nghèo nàn, bất hạnh.
Một đời sống tinh thần nghèo nàn chính là nguy cơ lớn nhất hiện nay đang lan rộng vào các gia đình Việt Nam. Những đứa trẻ không còn được uống dòng sữa của những lời ru, những câu chuyện cổ tích, những thì thầm yêu thương...nữa. Người lớn đã không làm điều đó và đang dần quên điều đó.
Hơn nữa, người lớn đã mở mắt về một phía khác. Họ chăm sóc phần thân xác của con cái một cách quá mức. Với họ, mục đích sống là nhanh chóng và bằng mọi cách tạo dựng một đời sống vật chất cho dù là để cho con cái họ mà lại bỏ quên việc tạo dựng một đời sống tinh thần cho chúng.
Đấy là sai lầm nghiêm trọng của họ trong việc GD con cái. Và khi con cái họ rơi vào một đời sống tồi tệ thì họ không thể hiểu vì sao lại thế. Họ tự tin rằng họ đã làm hết sức mình
Nhưng hiện thực nói rằng: Câu chuyện mà không ít những đứa trẻ nghe được từ khi nằm trong nôi cho đến khi cắp sách tới trường ngày đầu tiên chỉ là những câu chuyện "vật chất hóa" của người lớn. Những câu chuyện đó từng tí một, từng tí một gieo vào những đứa trẻ lòng tham muốn đầy thói sở hữu, hưởng lạc và chiếm đoạt chứ không phải một giấc mơ ngập tràn ánh sáng nhân văn.
Không phải tất cả người lớn chỉ chăm chắm vào mục đích tạo dựng một đời sống vật chất mà là họ đã không nhận thức được ý nghĩa quan trọng của đời sống tinh thần trong việc GD con cái.
Hơn nữa, chúng ta không hề có một chiến lược trợ giúp những kỹ năng cho người lớn trong việc nuôi dưỡng con cái.
"Sống" cho người lớn nhưng lại bị bỏ rơi
Hiện thực cũng nói rằng: Quá nhiều gia đình cha mẹ chỉ nói chuyện với con cái về những vấn đề của họ chứ không phải của những đứa trẻ. Đó là những yêu cầu của người lớn đối với một đứa trẻ phải thực hiện cho họ chứ không phải cho chúng.
Người lớn yêu cầu đứa trẻ phải đi ngủ đúng giờ, phải ăn những thứ mà người lớn muốn, phải học thêm các môn, phải biết nói tiếng Anh hoặc Pháp, phải đạt học sinh giỏi, phải biết chơi piano, phải vào được trường chuyên...
Những yêu cầu đó luôn luôn giống như những mệnh lệnh đầy áp lực. Và để thực hiện được những yêu cầu đầy tính ham muốn đó của người lớn, đứa trẻ phải sống một cuộc sống "khổ sai" và đơn điệu. Đó không phải là những lắng nghe, những chia sẻ, những gợi mở, những khuyến khích, những dẫn dắt...của những người trải nghiệm.
Và những đứa trẻ vẫn sống đủ thời gian của tuổi thơ cho mỗi đời người nhưng bản chất của tuổi thơ đó lại bị đánh cắp. Các nghiên cứu khoa học trên thế giới từ trước đến nay đều đi đến kết luận: Một đứa trẻ không sống đủ và đúng với bản chất của tuổi ấu thơ sẽ thường trở thành một người có tâm hồn khiếm khuyết hoặc méo mó.
Những chuyện mưu kế, chuyện ăn chia, chuyện tranh giành, chuyện tư thù, chuyện bất mãn...ngoài xã hội đến những cãi cọ, trách móc, những tranh giành, những mắng nhiếc, ngờ vực...giữa những thành viên người lớn trong gia đình hoặc giữa những thành viên ấy với các quan hệ xã hội bên ngoài của họ đều trở thành những ám ảnh tồi tệ và giá lạnh, gián tiếp vây bọc đứa trẻ.
Tôi đã từng nghe một đứa trẻ lên 7 kêu lên: "Bố mẹ suốt ngày chỉ nói chuyện tiền". Hoặc một đứa em nói với đứa anh: "Hôm nay bố chửi ông nội đấy, anh ạ". Khi một đứa trẻ ngày ngày phải nghe chuyện đồng tiền thì đến một lúc nào đó đồng tiền sẽ trở thành mối quan tâm của chính nó một cách vô thức. Và khi một đứa trẻ thường xuyên phải nghe những lời nói "hỗn xược" của bố hay mẹ nó với ông hoặc bà của nó thì đến một lúc nào đó nó sẽ "hỗn xược" với một người hơn tuổi mà không thấy sợ hãi.
Sai lầm này bắt nguồn từ hai nguyên nhân cơ bản. Thứ nhất, hầu hết các bậc cha mẹ và những người lớn trong gia đình không nhận thức được tính hệ trọng trong việc GD thẩm mỹ cho trẻ nhỏ và chính họ không được truyền dạy phương pháp GD một đứa trẻ. Thứ hai, người lớn không nhận thức được ý nghĩa đích thực của hạnh phúc con người mà ngược lại chính họ đã và đang bị chủ nghĩa vật chất kích động và thống trị.
Có bao nhiêu người mỗi ngày có một chương trình cụ thể để dành riêng cho những đứa trẻ như: Kể một câu chuyện xúc động, đọc cho chúng nghe một cuốn sách hay, đặt những câu hỏi về cái đẹp và lòng tốt cho chúng, gợi mở trí tưởng tượng của trẻ nhỏ, tạo mối quan hệ giữa chúng với những thành viên khác trong gia đình cũng như mối quan hệ giữa chúng với các đồ vật, các vật nuôi và thiên nhiên quanh ngôi nhà của chúng?
Hiện thực đời sống trong nhiều gia đình Việt Nam chứng thực rằng: Có quá ít những gia đình làm được điều đó cho những đứa trẻ. Những đứa trẻ, nhìn một cách công bằng và sâu sắc, là những kẻ bị bỏ rơi trong chính ngôi nhà của mình. Hầu hết những con đường trong những cảm nhận tơ non đầu đời và trong trí tưởng tượng của chúng đã bị bịt lối.
Chúng ta hãy tự hỏi và hãy trả lời thật trung thực: Mỗi ngày, một đứa trẻ sẽ nghe được bao nhiêu lời yêu thương hay những điều đẹp đẽ trong ngôi nhà của nó? Ngay cả khi một đứa trẻ chưa biết đi hoặc chưa biết nói thì mọi ô cửa tâm hồn của nó lúc nào cũng mở ra đến đón nhận tất cả những gì đang hiển hiện và chuyển động quanh nó. Thực tế, tâm hồn của đứa trẻ đã được hình thành từ khi nó chỉ là một bào thai trong bụng mẹ. Và như thế, nó đón nhận rất nhiều điều để nuôi dưỡng tâm hồn từ phía đời sống mà nó chưa chính thức gia nhập.
Người lớn thường kêu lên với những đứa trẻ về sự chìm ngập của họ trong hàng núi công việc. Nhưng người lớn đã không nhận ra những đứa trẻ cũng phải gánh vác một khối lượng công việc như những trái núi khổng lồ. Chúng phải giã từ bản chất của tuổi ấu thơ để thực hiện quá nhiều "đơn đặt hàng" ép buộc của người lớn.
Trong khi đó, một không gian mỹ học thật vô cùng khó tìm thấy trong hầu hết các ngôi nhà chúng ta kể cả những ngôi nhà của những người có điều kiệt rất tốt để tạo nên không gian đó. Không gian mỹ học này là tất cả những gì tạo nên những vẻ đẹp từ màu sắc, hình khối, âm thanh. Trong đó có nét mặt, giọng nói và các động tác khác của con người.
Bây giờ, mỗi gia đình Việt Nam thử làm thống kê về những gì họ nói và hành động một ngày trong gia đình họ thử xem. Qua khảo sát và quan sát một cách tự nhiên trong rất nhiều năm nay, tôi thấy ngôn ngữ và những hành động chủ yếu của các thành viên người lớn diễn ra trước mắt những đứa trẻ trong ngôi nhà của họ hầu hết lại không thuộc về một đời sống tinh thần. Tâm hồn và nhân cách của những đứa trẻ sẽ như thế nào khi được hình thành trong một thế giới như thế? Và những khiếm khuyết, méo mó trong tâm hồn của một con người cũng bắt đầu từ những điều đó.
2.4. Đánh giá:
Hiện nay, nhiều bậc phụ huynh mải miết với công việc, với việc kiếm tiền, các cuộc họp hành, gặp mặt… nên dường như quên mất những công việc gia đình. Cha mẹ thường chỉ cho con đến lớp, sau đó lại tất bật với công việc. Sau giờ làm, phụ huynh vội vã về nhà, chuẩn bị những món ăn qua quýt, nhanh chóng. Chính vì vậy thời gian cha mẹ trò chuyện với con cái là rất ít và có những gia đình thậm chí các thành viên còn không có thời gian trao đổi thông tin với nhau.
Vì vậy, những gì bạn cần làm là thu xếp thời gian làm việc để có nhiều thời gian trò chuyện với những người than hơn. Bạn có thể tạo những cơ hội để gia đình được quây quần trò chuyện với nhau. Ít nhất một ngày trong tuần, bạn nên có cuộc trò chuyện hoặc tham gia hoạt động cùng gia đình. Vào thời gian này, có lẽ bạn nên hạn chế các cuộc gọi vì công việc, thậm chí bạn có thể tắt di động để tập chung vào hoạt động gia đình. Những buổi hoạt động, gặp mặt, nói chuyện giữa các thành viên sẽ giúp mối quan hệ trong gia đình bạn thêm khăng khít hơn.
PHẦN III: KỸ NĂNG GIAO TIẾP ỨNG XỬ TRONG GIA ĐÌNH
3.1. Nguyên tắc giao tiếp trong gia đình:
Tùy theo vai trò, lứa tuổi, mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể trong cuộc ứng xử mà các nguyên tắc được vận dụng phù hợp trong đời sống gia đình.
Tôn trọng.
Giữ tôn ti trật tự trong gia đình, lắng nghe và dân chủ bàn bạc việc chung của gia đình, dùng lời ngọt ngào, tử tế để nói với nhau. Hiếu kính với tổ tiên, ông bà cha mẹ, thể hiện sự trân trọng cội nguồn, người sinh thành. Với bạn đời thì “Kính nhau như khách”. Với con trẻ phải công bằng, không áp đặt, tránh trừng phạt thân thể hay nhục mạ. Tôn trọng là góp ý, giáo dục, nâng đỡ tinh thần khi có sai trái chứ không làm tổn thương người khác.
Bình đẳng.
Không phân biệt đối xử, mọi thành viên gia đình đều có cơ hội để phát triển (học hành, chăm sóc, sức khỏe, lao động phù hợp năng lực, ..). Chăm lo cho sự phát triển của phụ nữ và trẻ em gái. Phân công hợp lý việc nhà, giáo dục phận sự xây dựng gia đình cho mọi thành viên. Vợ chồng cùng chăm sóc nuôi dạy con cái và có quyền ngang nhau trong việc quyết định chuyện gia đình, không chia đôi số việc mà đảm nhiệm theo thiên chức, năng lực.
Yêu thương.
Tình yêu thương sẽ là cơ sở hình thành đức hy sinh, tấm lòng thủy chung, trái tim nhân hậu, con người nhờ đó mà sống có tâm, có nghĩa, có tình để thấu cảm, chia sẻ nỗi khó khăn với người thân, sẵn sàng tha thứ cho nhau… Đó là cơ sở để hóa giải những bất đồng trong gia đình, dòng họ.
Đoàn kết
Đoàn kết là nguyên tắc bảo vệ sự bền vững và phát triển của gia đình. “Chị ngã, em nâng”. Cần có sự đùm bọc, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau của các thành viên trong gia đình, thân tộc. Sức mạnh của gia đình, cộng đồng chính là tình đoàn kết. Ngày nay, với chính sách gia đình ít con, càng phải phát huy tình đoàn kết trong gia đình, họ hàng, thân tộc để “Góp gió thành bão”, tương trợ lẫn nhau khi hữu sự, lúc khó khăn:
“Anh em như thể chân tay
Rách lành đùm bọc, dở hay đỡ đần.”
Kính trên, nhường dưới. Kính trên là sự trọng vọng, ân cần đối với ông bà, cha mẹ, người cao tuổi trong gia đình, thân tộc được thể hiện qua xưng hô chuẩn mực, chào mời lễ phép. Có khách đến thăm nhà, con trẻ phải chào hỏi lễ phép, giữ gìn tôn ti trật tự, biết gọi dạ, bảo vâng. Nơi công cộng phải tôn trọng người cao tuổi, như đỡ đần việc nặng, nhường ghế trên tàu xe, nói năng lễ phép. Nhường dưới là sự bao dung, nương nhẹ, vì nghĩa tình của người có thứ bậc, tuổi tác cao hơn đối với người dưới, là cách đối xử, nâng niu, dạy dỗ, chăm sóc đối với con trẻ; là sự nhường nhịn của anh chị với em út trong nhà.
3.2. Ứng xử trong gia đình:
3.2.1. Ứng xử trong quan hệ ông bà- cháu
Quan hệ ông bà – cháu là mối quan hệ có tính chất tiếp nối về huyết thống. Bên cạnh sự thương yêu, kỳ vọng, những khác biệt về tuổi tác, quan niệm sống, đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi tạo nên giữa thế hệ ông bà với thế hệ cháu có những khác biệt nhất định.
Hoàn cảnh sống cũng tác động đối với quan hệ ông bà và cháu. Xu hướng tách hộ, hình thành gia đình hạt nhân ngày càng mạnh và ông bà thường ở riêng nên ít tiếp cận với con cháu. Điều này làm hạn chế sự chăm sóc về tinh thần, hỗ trợ giáo dục lớp con cháu của ông bà. Ngược lại sự chăm sóc đối với ông bà của con cháu, đặc biệt là sự nâng đỡ về tinh thần cũng hạn chế. Về đạo lý, việc chăm sóc phụng dưỡng ông bà, cha mẹ là bổn phận, trách nhiệm của con cháu.
Những điều lưu ý về ứng xử của cháu đối với ông bà:tôn trọng, có thái độ đúng mực, lễ phép, kính trọng, biết ơn đối với ông bà. Thăm viếng, chăm sóc, hỏi han, thông báo về sự tiến bộ của bản thân mình để tạo niềm vui, sự hãnh diện cho ông bà. Trực tiếp tham gia chăm sóc ông bà khi ốm đau, bệnh tật. Đối với cháu đã thành niên, lập gđình phải năng đưa chắt đến thăm các cụ, tham gia tổ chức lễ mừng thọ ông bà, biếu tiền quà để ông bà được vui mừng vì qua đó biết rằng con cháu ổn định, ăn nên làm ra nhờ phúc đức tổ tiên, mà ông bà an lòng vui sống.
3.2.2. Ứng xử trong quan hệ vợ chồng
Quan hệ vợ chồng là mối quan hệ cơ bản, chủ yếu trong việc xây dựng, gìn giữ, bồi đắp hạnh phúc gia đình. Cả hai người đều quan trọng, “Đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm”. Sự tiến bộ trong nhận thức xã hội về quyền bình đẳng khiến cho địa vị người phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội đã thay đổi rất nhiều. Người chồng cần tôn trọng, quan tâm, giúp đỡ, chia sẻ gánh nặng công việc gia đình với vợ nhiều hơn, tạo điều kiện cho vợ tham gia các hoạt động xã hội, học tập, phát triển. Vợ chồng mong muốn thuận ý, thuận tình để “tát biển Đông cũng cạn”, cần lưu ý những điều rất đáng quan tâm trong ứng xử như:
Thấu hiểu, cảm thông và hỗ trợ nhau, trong công việc cũng như đời sống, kinh tế, quan hệ gia đình, xã hội,… nhằm giải tỏa cho nhau những áp lực về tâm lý. Chia sẻ việc nhà để giữ gìn sức khỏe, sự thanh thản ở người bạn đời, nhờ đó gia đình êm ấm, tránh những xung đột, đôi khi dẫn đến bạo lực giữa vợ chồng. Thấu hiểu, cảm thông nhiều bao nhiêu thì phải sẵn lòng tha thứ nếu có những sự cố xảy ra giữa vợ chồng:
“Chồng giận thì vợ làm lành,
Miệng cười chúm chím rằng: Anh giận gì?”
Phải kiên định, thống nhất ý kiến. Thành ngữ có câu: “Một trăm cái lý, không bằng một tí cái tình” với ý muốn chỉ ra rằng ai cũng có lý lẽ, tuy nhiên nếu cố chấp dễ dẫn đến đối kháng. Trên hết vẫn là sự thấu hiểu, cảm thông nhau. Vợ chồng nếu lấy sự hòa thuận để đối xử sẽ tìm được tiếng nói chung:
“ Chồng giận thì vợ bớt lời,
Cơm sôi bớt lửa, mấy đời cơm khê.”
Tuy nhiên, có những bất đồng cần có thời gian để người kia thuyết phục bạn đời của mình về một vấn đề quả thật cính đáng, có ích lợi cho gia đình. Có khi phải khéo léo chứng minh bằng kết quả cụ thể.
Hãy biểu lộ tình yêu. Một món quà, một lẵng hoa cho ngày sinh nhật, một ánh mắt, cử chỉ yêu thương hay một không gian, thời gian riêng cho vợ chồng… thể hiện tình yêu của mình với người bạn đời. Cuộc sống gia đình bộn bề công việc, nỗi lo toan, tuổi tác,… tạo ra rào cản tâm lý để biểu lộ tình yêu giữa vợ chồng. Cho nên biểu lộ tình yêu với nhau là rất cần thiết để đôi bên cảm nhận hạnh phúc mà giữ gìn sự chung thủy với nhau ngay cả trong những hoàn cảnh ngặt nghèo
Tôn trọng cá tính của nhau. Vợ chồng là một đôi nhưng là hai cá thể, có khi rất tâm đầu ý hợp nhưng có khi có những khác biệt về vốn sống, sở thích. Không vì sống chung mà buộc có sự thay đổi hoặc lệ thuộc hoàn toàn, vì như vậy sẽ dẫn đến mâu thuẫn, xung đột và dần sẽ làm mất mát tình cảm vợ chồng. Hãy dành cho nhau những phút giây, khoảng trời riêng để thỏa mãn sở thích, tâm tình riêng.
Luôn dành cho nhau những lời ngọt ngào. Ngay cả lúc bất đồng quan điểm cũng phải thận trọng suy nghĩ kỹ trước khi nói. Lời nói cay nghiệt tạo sự tổn thương cho bạn đời và mất mát tình cảm, đôi khi khó nhìn mặt nhau.
Nếu có lúc nóng giận, lỡ lời hãy chân thành xin lỗi và đừng bao giờ lặp lại lỗi lầm đó. Ngược lại vợ hoặc chồng hãy rộng lòng tha thứ cho người bạn đời của mình vì tình yêu, vì gia đình của mình.
Chủ động giải quyết mâu thuẫn. Trong gia đình có nhiều nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng như: cách nuôi dạy con cái, kinh tế gia đình khó khăn, ứng xử chưa tốt với bạn đời hay cha mẹ hai bên, không hiểu công việc, mối quan hệ xã hội của nhau,… dẫn đến bất đồng quan điểm, ngờ vực, hiểu lầm,…Nếu muốn gìn giữ tình yêu, mối quan hệ vợ chồng tốt đẹp, gìn giữ mái ấm gia đình mà vợ chồng đã dày công xây dựng và vì con cái thì phải chủ động giải quyết mâu thuẫn. Cần phải:
Lựa chọn thời điểm giải quyết thích hợp.
Đặt vấn đề nhẹ nhàng, tôn trọng, không xúc phạm, chỉ trích.
Bàn việc nào giải quyết đúng việc đó, không nên dây dưa nhiều việc, nhiều người.
Công bằng trong phân tích sự việc, lỗi lầm, sơ suất với mục đích nhận ra cái sai và sửa sai. Nếu có lỗi, hãy chân thành xin lỗi.
Chủ định cách giải quyết vấn đề theo nguyên tắc hòa thuận, yêu thương, tôn trọng vì sự phát triển bền vững của gia đình.
Dừng cuộc nói chuyện nếu thấy đôi bên tâm lý bất ổn.
Có người khi nói thường không làm chủ được tình cảm, tâm lý dễ để câu chuyện thoát khỏi sự quản lý, dẫn đến thất bại. Hãy tìm một biện pháp khác để trao đổi thông tin, trình bày những suy nghĩ mong muốn giải quyết mâu thuẫn của mình như viết thư. Người viết sẽ thận trọng chọn lọc thông tin, lời lẽ thiện chí để trình bày vì thư có thể được sửa lại nhiều lần trước khi gửi.
3.2.3. Ứng xử trong quan hệ cha mẹ và con cái
Trong tâm thức của người Việt, vốn quí giá nhất của cha mẹ chính là con cái. Cha mẹ phải có trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc, giáo dục tư cách con từ tấm bé đến khi trưởng thành. Vì vậy, quan hệ giữa cha mẹ và con cái rất thiêng liêng, bao hàm mối quan hệ sinh thành, dưỡng dục, là sự nối tiếp giữa hai thế hệ “Cha truyền, con nối”. Con cái yêu kính và biết cha mẹ đã dành cả đời cho mình nhưng thường chỉ khi “Có con mới biết lòng cha mẹ”, lúc đó mới hiểu nỗi gian nan, khổ cực của cha mẹ vì mình mà nghiệm được đức hy sinh vì con của bậc làm cha mẹ.
3.2.4. Cha mẹ ứng xử với con cái
Bình đẳng giới và quyền trẻ em là những giá trị nhân văn được xã hội, gia đình đồng thuận. Cách cư xử của cha mẹ với con cái ngày nay cũng thay đổi nhiều. Yêu thương, tôn trọng, bao dung, độ lượng, đối xử công bằng bình đẳng giữa các con. Dạy con thực hiện bổn phận, trách nhiệm đối với gia đình, xã hội. Theo dõi, giúp con an toàn phát triển trong tuổi vị thành niên, trở thành người lớn. Cha mẹ hãy cư xử theo cách:
Tôn trọng.
Tôn trọng nhân phẩm con cái trên cơ sở quyền con người và bình đẳng giới, phát huy năng lực cá nhân của các con. Làm “người bạn” lớn để hiểu con và ngược lại tạo điều kiện cho con hiểu cha mẹ. Cha mẹ cần chú ý xử sự bình đẳng giữa các con tránh những định kiến về giới; khuyến khích, khen ngợi khi con đạt thành tích hoặc làm việc tốt. Con có lỗi, cần dùng lời lẽ chuẩn mực, thái độ nghiêm túc, tấm lòng bao dung để phân tích, chỉ dạy.
Lắng nghe ý kiến và cho phép con tham gia phát biểu, hỏi về những vấn đề liên quan đến bản thân và việc chung của gia đình. Giao nhiệm vụ và tin tưởng vào khả năng, trách nhiệm của con. Hỗ trợ, giúp đỡ con giải quyết những vấn đề liên quan. “Nhân vô thập toàn”, cha mẹ cũng có lúc làm sai, mắc lỗi. Do vậy, nếu cha mẹ có sai thì cũng phải nhận lỗi. Ngược lại, nếu con mắc lỗi hãy chân thành phân tích, góp ý và tạo cho con những cơ hội để sửa chữa lỗi lầm bản thân. Áp đặt, quy kết dễ dẫn đến coi thường và mất mát tình cảm, sự tôn trọng.
Công bằng.
Yêu thương các con như nhau, ưu tiên trẻ nhỏ, chăm lo nhiều hơn đối với con cái tàn tật, khuyết tật. Dành cơ hội như nhau cho các con. Lúc gia cảnh khó khăn, cơ hội cho các con cần phải sắp xếp ưu tiên thì phải bàn bạc, giải thích, vận động để tìm tiếng nói chung.
Mỗi người con là một cá thể đều có mặt mạnh yếu, đừng so sánh các con với nhau, hãy tìm khen những mặt mạnh, những ưu điểm của mỗi người. Chẳng hạn nói “Con khờ hơn anh con” thì em sẽ có mặc cảm rằng anh giỏi còn mình dốt. Trẻ nhỏ hay xung đột, bất đồng. Đứa lớn hay áp đảo đứa nhỏ, ngược lại đứa nhỏ ỷ thế ưu tiên nên hay lập kế bị oan ức, thua thiệt. Trường hợp cần trách phạt phải hết sức phân minh. Sơ suất trong cư xử để con nhận chịu thiệt thòi sẽ hình thành những tâm lý bất phục, mặc cảm, đối kháng.
Quan tâm.
Quan tâm đến tâm tư, tình cảm, các mối quan hệ bạn bè của con. Cân nhắc đáp ứng những mong muốn, đề nghị của con nếu chính đáng; trao đổi giúp con hiểu rõ thông tin và quyết định đúng, nhất là trong giai đoạn phát triển ở lứa tuổi vị thành niên.
Tạo điều kiện, hướng dẫn con tiếp cận thông tin, cơ hội phát triển, cùng con bàn bạc thực hiện kế hoạch bản thân. Giúp con tự chủ, tế nhị tiếp sức. Động viên, thúc đẩy, nâng đỡ tinh thần giúp con tự tin, nỗ lực khi gặp việc khó. An ủi, cùng con phân tích, tìm nguyên nhân khi thất bại và nuôi dưỡng quyết tâm khắc phục.
Làm gương cho con.
Trong gia đình, cha mẹ phải chú ý rèn luyện, tu dưỡng để mình là tấm gương sáng về đạo đức, nhân cách, là điểm tựa tinh thần của con. Đó là cách cư xử vừa thuyết phục, vừa tế nhị lại sâu sắc. Nét uy nghiêm của cha, tình cảm của mẹ mà con cái cảm nhận được là biểu lộ của một chiều sâu cảm phục, trở thành hình ảnh lý tưởng, là thần tượng của con. Cha mẹ dạy con đạo lý ở đời là phải trung tín, thủy chung nhưng lại lừa gạt, sang đoạt, phụ nghĩa vợ chồng,… đó sẽ là những bài học vô nghĩa, đánh mất niềm tin ở con cái. Khi con còn nhỏ ảnh hưởng này có thể làm lệch lạc nhân cách, con cái sẽ không phục, bất đồng, chống đối lại cha mẹ.
Những điều không nên làm
Xúc phạm đến nhân phẩm, thân thể con (chửi rủa, nhục mạ, trừng phạt thân thể,…).
Xâm phạm đến những vấn đề riêng tư của con cái, nhất là khi các con còn ở tuổi vị thành niên.
Áp đặt, độc đoán; ngăn cấm các mối quan hệ xã hội của con mà không giải thích.
Nói một đằng làm một nẻo, “Tiền hậu bất nhất”.
Không quan tâm con cái: xao lãng, bỏ rơi, không nói chuyện, không dành thời gian cho con,…
Chiều chuộng quá mức, làm ngơ cho lỗi lầm của con và ngược lại.
3.2.5. Con cái đối với cha mẹ
Đạo hiếu là truyền thống tốt đẹp, tự hào của dân tộc ta. Cha mẹ là những người có công sinh thành, dưỡng dục con cái. Con được nhận nuôi dù không sinh nhưng cha mẹ có công lao dưỡng dục. Vì vậy, làm con phải biết bày tỏ lòng biết ơn đối với cha mẹ, thể hiện lòng hiếu kính chăm sóc, phụng dưỡng suốt đời. Theo thời gian, sự biểu hiện của đạo hiếu ít nhiều biến đổi cho phù hợp với xã hội. Chẳng hạn, xưa con có hiếu là không được cãi lời cha mẹ, nên “Áo mặc không qua khỏi đầu”hay “Cha mẹ đặt đâu, con ngồi đó”. Nay xã hội tiến bộ, không khí dân chủ gia đình khiến cha mẹ cũng lắng nghe con cái, con cái cũng cần thuyết phục cha mẹ với những lí do chính đáng. Xã hội công nghiệp hiện đại, việc phụng dưỡng ông bà cha mẹ cũng có nhiều biến đổi, chẳng hạn vì phải đi làm ăn xa, tách hộ sống riêng và nhiều lý do khác nên khó “sớm viếng, tối thăm”. Về phía cha mẹ, vẫn hết lòng bao dung, thấu hiểu, cảm thông bởi “nước chảy xuôi”, nhưng đôi khi người cao tuổi hay tủi thân, chạnh lòng.
Bổn phận của con cái đối với cha mẹ:
Kính trọng:
Giữ lễ trong giao tiếp, nói năng chuẩn mực.
Thường xuyên thăm viếng, nói chuyện, hỏi han. Báo cho cha mẹ biết những việc vui mừng trong gia đình.
Hỏi ý kiến cha mẹ trong những việc lớn, coi trọng ý kiến của cha mẹ. Mời cha mẹ chủ trì những việc quan trọng, thay mặt gia đình tiếp xúc với ông bà, họ hàng giúp cha mẹ chăm lo hương khói tổ tiên.
Tổ chức điều kiện sống, chăm sóc tinh thần khi cha mẹ tuổi cao.
Hiếu thảo:
Còn bé: Học hành chăm chỉ, thực hiện bổn phận trong gia đình (phụ giúp cha mẹ việc nhà, việc sinh kế - nếu gia cảnh khó khăn, chăm sóc em út); chăm sóc, hỏi han khi cha mẹ ốm đau; anh chị em hòa thuận để cha mẹ vui lòng; cùng cha mẹ thực hiện việc phụng dưỡng ông bà.
Khi trưởng thành:Phụng dưỡng cha mẹ khi sống chung. Hiểu những khó khăn về sức khỏe, tâm tính của người cao tuổi như hay tủi thân, chạnh lòng, đãng trí,… để thương yêu cha mẹ hơn. Chăm lo giấc ngủ, bữa ăn, thiết kế nơi ở phù hợp cho cha mẹ. Nếu ở riêng nên phụ giúp cha mẹ về tiền bạc; tham gia đóng góp công sức vào việc lớn của gia đình mà cha mẹ phải chủ trì như cưới xin, tang, giỗ; thực hiện những điều cha mẹ mong muốn. Anh chị em trong gia đình cần bàn bạc, tìm cách giải quyết khó khăn liên quan đến cha mẹ.
Tu dưỡng bản thân, xây dựng gia đình riêng hạnh phúc để cha mẹ tự hào. Giữ gìn sự đoàn kết trong anh chị em, cùng dạy cháu con hiếu thảo, thuận hòa để cha mẹ vui sống. Cùng cha mẹ chăm lo mồ mả tổ tiên, quan tâm đến dòng họ. Cùng anh chị em chu toàn việc hậu sự khi cha mẹ qua đời.
3.2.6. Ứng xử trong quan hệ giữa cha mẹ chồng/vợ và con dâu/rể.
Ngày nay, với sự tiến bộ xã hội về bình đẳng giới và vị thế ngày càng cao của người phụ nữ trong nhiều lĩnh vực xã hội,… đã dẫn đến nhiều thay đổi trong quan giữa cha mẹ vợ/chồng với con dâu hoặc con rể. Quan niệm “Dâu là con, rể là khách” ở nhiều gia đình đã được ứng xử rất tiến bộ, là sự tôn trọng, thương yêu, là sự đầu tư cho hạnh phúc gia đình riêng của hai con. Nhiều gia đình cha mẹ đôi bên đã xem dâu, rể thật sự là con của mình. Ngược lại, nhiều dâu hiền, rể thảo đã không có sự phân biệt đối xử giữa hai bên gia đình bởi ai cũng mong muốn được tôn trọng thương yêu và được yêu thương.
Trong thực tế vẫn còn tình trạng cư xử chưa tốt giữa mẹ chồng – nàng dâu và ngược lại ở một số gia đình, khiến cho gia đình chung không hạnh phúc, cuộc sống, tình yêu của đôi vợ chồng trẻ chịu nhiều bão táp. Có thể có rất nhiều nguyên nhân, lý do, trong đó có việc đối xử với nhau chưa thật tốt.
Mối quan hệ giữa cha mẹ chồng và con dâu
Người đời vẫn cho rằng mối quan hệ giữa mẹ chồng và nàng dâu là quan hệ khó nhất. Vì từ trong nhận thức của mẹ chồng rằng con dâu là nguyên nhân tất yếu để con trai không còn dành hết tình cảm cho mẹ. Cũng có thể do mẹ chồng đã từng làm dâu trong hoàn cảnh khắc nghiệt, nay khi đã là mẹ chồng, bà không có cách ứng xử nào khác. Tình cảnh đó đôi khi là một thử thách lớn. Sự chủ động cư xử tốt với mẹ chồng của nàng dâu là rất cần thiết để tạo mối quan hệ tốt đẹp.Cách ứng xử cần có của con dâu đối với mẹ chồng:
Coi trong giá trị và địa vị của mẹ chồng: biết lắng nghe, xin ý kiến và học tập những kinh nghiệm điều hành gia đình của bà. Tìm hiểu, ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của mẹ trong cuộc sống, nuôi dạy con, xây dựng và gìn giữ gia đình. Vui vẻ tiếp nhận sự giúp đỡ thiện chí của mẹ chồng.
Hiếu kính với mẹ chồng: Thể hiện tình cảm và cử chỉ chăm sóc mẹ chồng, chia sẻ nỗi lo toan. Luôn giữ thái độ lễ phép, không nói năng vô lễ làm tổn thương tình cảm giữa mẹ con và gia đình. Phải yêu kính mẹ chồng như mẹ của mình:
Giữ gìn nề nếp gia đình: học tập nếp ăn, nếp ở của gia đình chồng để xử sự phù hợp. Thể hiện sự chăm chỉ và chu toàn việc nhà, làm tốt việc xã hội khiến mẹ chồng hãnh diện. Cùng bàn bạc, xin ý kiến mẹ về những chi tiêu kinh tế trong gia đình.
Mối quan hệ giữa cha mẹ vợ và con rể
Ngày nay, mối quan hệ giữa cha, mẹ vợ và con rể ở nhiều gia đình rất tốt đẹp. Vẫn với ý tưởng “rể là khách” nhưng cha mẹ vợ cũng rất thương yêu và coi trọng chàng rể, vì đó là người quan trọng đối với con gái mình. Về phía chàng rể, cha mẹ vợ cũng rất quan trọng trong việc giúp đỡ, chăm sóc tinh thần đối với gia đình mình. Xưa nay vẫn có câu “Tiến về nội, thoái về ngoại”.
Về phía cha mẹ vợ:
Cha mẹ vợ tốt là người khéo léo giúp đỡ, hỗ trợ cho con gái mình như một nhà tư vấn hướng dẫn kinh nghiệm sống, kỹ năng xây dựng gia đình hạnh phúc, bổn phận làm dâu, làm vợ, làm mẹ, nhắc nhở dạy bảo con mình giữ gìn đạo nghĩa vợ chồng, thuỷ chung và hiếu thảo.
Cuộc sống vợ chồng chắc chắn có những lúc trục trặc “Cơm chẳng lành, canh chẳng ngọt”, cha mẹ vợ không nên chen sâu giải quyết đôi khi làm ảnh hưởng lớn đến mối quan hệ cha mẹ vợ với con rể, gây đổ vỡ hạnh phúc của con. Cách cư xử như một nhà tư vấn, trọng tài chính trực, khách quan sẽ rất tốt trong mối quan hệ cha mẹ vợ với chàng rể.
Ứng xử của rể hiền:
Phải chăng thành ngữ “rể là khách” đã ăn sâu vào tâm thức, nên quả thật dù có chủ động và được yêu quí đến đâu, chàng rể xuất hiện ở nhà cha mẹ vợ thường giữ lễ nên vẫn không thoải mái như nhà mình. Tuy vậy, vẫn có những cách ứng xử của rể hiền: thường xuyên thăm hỏi gia đình cha mẹ vợ; giúp công sức khi nhà có việc; cùng vợ chăm lo việc lễ tết cho gia đình cha mẹ; tham dự giỗ chạp tổ tiên ông bà gia đình vợ; thống nhất cùng vợ trách nhiệm tham gia kinh phí phụ giúp cha mẹ vợ thường xuyên hoặc hữu sự. Phụng dưỡng khi cha mẹ vợ sống chung
3.2.7. Ứng xử trong quan hệ anh chị em
Gia đình xưa thường đông con, các con cùng trong lứa tuổi. Trong nhà, trẻ em chơi với nhau, có tranh cãi, giành giật đồ chơi, xung đột, hình thành phe phái đánh nhau, lại có lúc bênh vực cho nhau,... Cha mẹ phải xử phạt, rồi dạy dỗ cho các con tình anh chị em, cách làm anh, phận làm em. Nhờ đó trẻ được thực hiện quyền, bổn phận theo vai trò, thứ bậc, tôn ti trật tự trong gia đình, hiểu được sự đoàn kết, tình thương yêu, biết chia sẻ, nhường nhịn lẫn nhau.
Ngày nay, đa số gia đình chỉ có một hoặc hai con, sống ở đô thị, hầu hết thời gian của trẻ dành cho học hành, thời gian rỗi thì tiếp cận các phương tiện giải trí như ti vi, trò chơi điện tử, giao tiếp qua mạng internet. Vì vậy, sự giao tiếp giữa anh chị em rất hạn chế, nếu là con một thì không có mối quan hệ giao tiếp này. Trẻ em được học ở trường, về nhà cha mẹ có dạy bảo, nhắc nhở nhưng ít hoặc không được trải nghiệm thực tế trẻ sẽ không hiểu biết ứng xử tốt trong mối quan hệ anh/chị/em.
Vậy, nên chăng ngày nay các bậc cha mẹ trẻ nên chủ động mở ra cơ hội giao tiếp ứng xử cho các con trong mối quan hệ anh chị em họ hàng như cây cùng một cội. Từ đó, hình thành mạch liên lạc giao lưu, học tập, trao đổi kinh nghiệm sống và chia sẻ, giúp đỡ nhau lúc khó khăn, hoạn nạn, là điều kiện để tạo quan hệ tình cảm yêu thương gắn bó và xây dựng truyền thống đoàn kết của gia đình, thân tộc. Dù là mối quan hệ huyết thống hay được nhận nuôi, anh chị em trong gia đình, họ hàng đều cần được giáo dục cách ứng xử đoàn kết, thân ái. Đó là:
Hòa thuận.Thương yêu, thấu hiểu, giáo dục lẫn nhau, nương tựa vào nhau, không bất hòa sinh chia rẽ, góp ý, thuyết phục, lắng nghe, thẳng thắng phê bình và tự phê bình, không gây bạo lực tinh thần, thể chất đối với nhau, không lừa dối lẫn nhau.
Tôn trọng.Thân kính đối với anh, chị, bao dung đối với các em, giữ gìn sự bình đẳng, coi trọng lẫn nhau giữa anh, chị, em khác phái (nhất là ở lứa tuổi vị thành niên). Tế nhị đối với những vấn đề riêng tư (khi anh, chị, em thành niên hoặc đã lập gia đình).
Hợp tác.Cùng hợp sức để xây dựng gia đình, thân tộc, chăm lo phụng dưỡng ông bà cha mẹ, giải quyết việc chung của gia đình. Biết lắng nghe, chia sẻ ý kiến, kinh nghiệm, kỹ năng sống, hỗ trợ lẫn nhau không mưu lợi.
Tương trợ.Hướng dẫn nhau trong học hành, chia sẻ việc nhà theo khả năng (lúc còn bé). Lúc hữu sự, khó khăn kịp thời phối hợp, trợ giúp, biết nhường cơm, sẻ áo cho nhau. Đồng cảm chia sẻ nỗi đau thương, động viên tinh thần, hun đúc ý chí lẫn nhau.
3.3. Kỹ năng giao tiếp trong gia đình.
3.3.1. Tiếp cận.
Con người có sự thay đổi nhất định về tâm sinh lý, nhận thức trong từng giai đoạn tuổi tác, sức khỏe, chịu tác động của hoàn cảnh, môi trường... Người trong cùng gia đình vẫn cần tìm hiểu nhau để chuẩn bị tốt cho giao tiếp, tránh chủ quan, hiểu lầm, định kiến. Không có chủ ý và chuẩn bị tốt cho giao tiếp dễ dẫn đến thấy đâu nói đó, lâu ngày thành quen, thiếu tôn trọng lẫn nhau. Trong gia đình, cha mẹ cần quan tâm, tìm hiểu tâm tư, tình cảm, cuộc sống của các con, nhất là lứa tuổi vị thành niên. Cha mẹ cần có sự phân công hợp lý trong tìm hiểu con cái (con trai, con gái) giúp cho việc giao tiếp giữa cha mẹ và con cái đạt hiệu quả tích cực.
3.3.2. Quan sát.
Trong giao tiếp, cần quan sát thái độ, hành vi và các yếu tố khác có liên quan đến đối tượng giao tiếp, tình hình, diễn biến xung quanh,… cũng tác động đến giao tiếp. Cần quan sát với thái độ thân thiện không định kiến, khéo léo, tế nhị, không để người khác khó chịu. Trong gia đình, quan tâm lẫn nhau một cách thường xuyên giúp cho các thành viên gia đình nắm bắt được nhanh nhất những diễn biến tâm tư, tình cảm của người thân, điều đó sẽ góp phần giúp cho giao tiếp trong gia đình đạt kết quả nhất định.
3.3.3. Xưng hô
Xưng hô trong tiếng Việt rất đa dạng và phong phú, tinh tế và không kém phần phức tạp nhưng đồng thời nó cũng là phương tiện thể hiện lịch sự, tình cảm, lễ nghi – là một trong những nét đẹp trong văn hóa ngôn ngữ của người Việt.
3.3.3.1. Cách xưng hô phổ biến trong gia đình, thân tộc.
Trong gia đình, xưng hô phổ biến là kèm theo vai, thứ bậc, tên. Vợ/chồng thường xưng em/anh, tình cảm hơn thì gọi mình xưng em/anh, khi có tuổi thì gọi nhau là ông/bà; với người trên (cao tuổi, có thứ bậc cao trong gia tộc/gia đình) có cách xưng hô thể hiện sự tôn trọng và tránh nhầm lẫn là gọi kèm vai, thứ, tên. Ví dụ: vai ông, thứ Hai, tên Trọng, thì gọi là Ông Hai hoặc Ông Hai Trọng; với con cháu trong gia đình, người trên gọi kèm tên, thứ bậc của người dưới. Là anh chị em trong gia đình, khi còn bé, cha mẹ nên dạy cho con xưng hô đúng vai con, cháu, anh, chị, em.
Ở miền Nam còn có cách xưng hô: xưngbác/cô/chú; cậu/mợ/dì/dượngvà gọi bằng con. Ngược lại, xưng bằng con và gọi bác/cô/chú; cậu/mợ/dì/dượng (thay vì xưng là cháu). Đây là cách xưng hô mang đậm dấu ấn thân tộc, tình cảm (coi chú, bác, cô, dì,… cũng như cha mẹ)
Ở người Việt còn có sự “chuyển vai xưng hô” theo lối tự xưng gọi thay cho con (khi người đó đã có con). Cách xưng hô này thể hiện sự trân trọng, đề cao vai giao tiếp gia đình, mặt khác thể hiện lối sống vì con, coi trọng con cái (lấy con cái làm trung tâm của quan hệ, giao tiếp, đặt con cái vào trong cuộc sống, quan hệ của mình).
3.3.3.2. Các xưng hô nên tránh trong giao tiếp gia đình, thân tộc.
Trong giao tiếp nói chung và nhất là trong giao tiếp gia đình, cần tránh những cách xưng hô với sắc thái thiếu tôn trọng, gây cho người khác cảm giác khó chịu, chẳng hạn:
Từ “tôi”:“Tôi” là từ xưng hô sử dụng trong giao tiếp hành chính, không nên sử dụng trong giao tiếp thân tộc vì bản thân nó mang sắc thái trung hòa, không phản ánh mối quan hệ thân tộc và không phù hợp với nếp sống, tình cảm trong gia đình của người Việt. Hơn nữa, với người có vai giao tiếp cao hơn, từ “tôi” còn thể hiện sắc thái thiếu tính lễ nghi, thân tộc.
Khi nói tới người thứ ba vắng mặt là người có vai giao tiếp cao hơn, không nên dùng những từ ông ấy, bà ấy, anh ấy, chị ấy,…(theo miền Bắc), ổng/bả, ảnh/chỉ,… (cơ chế rút gọn - theo miền Nam), hay những từ ông già(chỉ cha), bà già(chỉ mẹ), ông bà già (chỉ cha mẹ) họ, lão, mụ, ả, người ta, người ấy, người đó,… vì nó thể hiện sự xa cách, thiếu thân tình, sắc thái kém lễ độ, chỉ dùng trong giao tiếp giữa những người có quan hệ ngang nhau, thân mật, suồng sã.
Người có vai giao tiếp cao hơn cũng không nên gọi người kia bằng những từ kém lịch sự như: thằng/con nhãi ranh, thằng/con quỉ sứ, thằng/con khốn nạn, …
Trong nhiều tình huống giao tiếp, không nên gọi kèm theo tên, thứ bậc của một người những từ chỉ thói quen xấu, dị tật của người đó hoặc ghép tên với một từ theo bằng cách nói lái để đặt biệt danh cho họ, ví dụ: Út lùn, Hạnh lé, Tú rỗ, Tư hô, Linh tinh, Thái dúi, Đức cống, Hương qua đèo…
Không nên gọi hàm phẩm, chức vụ trong xã hội của người trong gia đình, họ hàng theo giao tiếp hành chính (xưng hô theo chức danh) như: ông chủ tịch, ngài viện sĩ, quí giáo sư,…vì không đúng ngữ cảnh và vai giao tiếp, tạo sự xa cách, thiếu thân mật, có khi bị cho là mỉa mai.
Cặp từ xưng hôtao - màyở không ít trường hợp thể hiện sự thân mật, gần gũi (ví dụ: bạn bè thân thiết, những quan hệ có vai giao tiếp ngang nhau, gần nhau,…) nhưng trong nhiều trường hợp nên tránh nhằm đảm bảo phương châm lịch sự trong giao tiếp.
3.3.4. Tâm sự.
Việc tâm sự sẽ gắn kết những người trong gia đình với nhau. Nhiều trường hợp các thành viên trong gia đình không hiểu nhau hoặc hiểu lầm nhau do không tâm sự cho nhau nghe hoặc chưa mở lòng mình ra, bộc bạch hết ý, hết tình với nhau hoặc cách nói không phù hợp,… đã xảy ra những hậu quả đáng tiếc. Nói cho nhau nghe, không chỉ để truyền đạt thông tin, mà còn là cách để bày tỏ tình cảm. Thành viên trong gia đình cần tâm sự với nhau nhiều hơn để hiểu nhau. Cần lưu ý các khía cạnh sau đây:
Cách nói là sản phẩm tổng hòa của từ ngữ, cách diễn đạt, cử chỉ, thái độ và tình cảm. Cách nói tốt là một thế mạnh của giao tiếp. Tùy vào không gian, hoàn cảnh, sự kiện, đối tượng giao tiếp để có cách nói phù hợp.
Bữa cơm gia đình là nơi thành viên gia đình sum họp, chia sẻ tình cảm, nơi cần có tiếng cười và sự đầm ấm. “Trời đánh tránh bữa ăn”, vì vậy nên tránh nói những chuyện không vui, tỏ vẻ không hài lòng nhau, chỉ trích thiếu thiện ý, tranh luận những vấn đề không liên quan làm cho không khí nặng nề, khó chịu… trong bữa ăn gia đình.
Vợ chồng nên dành cho nhau những lời nhẹ nhàng, ngọt ngào cùng với ánh mắt, nụ cười, cử chỉ chăm sóc cho nhau… đó là những cách nói lên tình yêu thương dành cho người bạn đời của mình. Giữa vợ chồng, yêu thương mà không nói hay không biết cách nói là một thiệt thòi lớn; đối với con cái, cha mẹ nên ôn tồn khi dạy bảo, nghiêm khắc góp ý khi con cái sai lầm, bao dung tha thứ khi con biết lỗi, khen ngợi thành tích hay nghĩa cử tốt đẹp của con… để con hiểu được thiện chí, cảm được tình thương của cha mẹ mà tiếp nhận tốt thông tin. Cách nói chỉ trích sẽ làm mất mát tình cảm, giảm sự tôn kính của con cái đối với cha mẹ.
Giọng nói cần rõ ràng, thông tin súc tích, chính xác, từ ngữ dễ hiểu, phù hợp với đối tượng giao tiếp (lứa tuổi, nghề nghiệp,…); thái độ tôn trọng người nghe (qua ánh mắt, trang phục, cử chỉ ) biểu hiện suốt cuộc giao tiếp. Diễn đạt tốt trong giao tiếp gia đình tạo thành thói quen, hình ảnh đẹp về giao tiếp giữa thành viên gia đình, góp phần hình thành phong cách văn hóa gia đình, là điều kiện giúp thành viên gia đình rèn luyện để giao tiếp tốt bên ngoài xã hội.
Cần lưu ý trong sử dụng những hư từ thể hiện thái độ trước khi nói: có những hư từ biểu thị sự thân mật: à, hỉ, hở, hử; nha, nhé, nghen,…; có những hư từ biểu thị lịch sự khi cầu khiến: phiền, cảm phiền, xin, xin phép,…; có những hư từ biểu thị sự lễ phép, kính trọng: ạ, dạ, vâng, thưa,…
Tín hiệu phi ngôn ngữ:
Tín hiệu phi ngôn ngữ cũng là một phương tiện giao tiếp quan trọng nhằm hỗ trợ làm rõ nghĩa sắc thái cho ngôn ngữ. Trong một số trường hợp, những hành động, cử chỉ, nét mặt còn lâm thời đảm nhận vai trò thay thế cho ngôn ngữ khi giao tiếp… Nếu mỗi cộng đồng dân tộc, quốc gia có ngôn ngữ, tiếng nói khác nhau thì tín hiệu phi ngôn ngữ ở mỗi nơi cũng không giống nhau. Tùy theo tình huống mà người giao tiếp dùng các tín hiệu phi ngôn ngữ phù hợp. Điều quan trọng là cần chú ý những tín hiệu phi ngôn ngữ nên tránh trong giao tiếp:
Cử chỉ.
Ý nghĩa.
Khi nói chuyện mặt hất lên.
Coi thường người khác.
Khi trò chuyện mắt đảo quanh.
Không thật thà.
Nháy mắt, bĩu môi, cười nhếch mép, huýt sáo khi nói chuyện với người lớn.
Sấc sược.
Gật, lắc đầu khi nói chuyện với người lớn.
Thiếu tôn trọng.
Vẫy tay, ngoắc tay, lắc tay, … khi chào hỏi, trò chuyện với người lớn
Thiếu chừng mực.
uơ tay liên tục khi nói chuyện.
Thiếu khiêm tốn, ta đây.
Đưa ngón tay trỏ, tay cái ra.
Muốn thể hiện quyền lực.
Tay chống nạnh, để vào túi quần hoặc chắp phía sau.
Muốn thể hiện quyền lực, thách thức.
Chân đứng không thẳng, hai hàng, chân nọ vắt chân kia, gác chân lên ghế.
Thiếu đứng đắn.
Dù ở nơi nào, lúc nào thì ngôn từ sử dụng cần rõ ràng, ngắn gọn, dễ hiểu. Nội dung diễn đạt, âm lượng, sắc thái lời nói cùng cử chỉ, thái độ sẽ biểu thị cho tình cảm, tấm lòng, mong muốn của người nói. Nói tập trung vào vấn đề, nên tránh các từ thể hiện sự phản đối, chỉ trích, từ đệm, tiếng lóng.
3.3.5. Lắng nghe.
Lắng nghe là nghe có mục đích nhằm nắm bắt thông tin, quan điểm, chủ ý của đối tượng giao tiếp. Khi nghe phải tập trung chú ý, biết cách đặt câu hỏi, đánh giá, phê bình, nhận xét nhằm thúc đẩy cuộc nói chuyện tiến triển tốt. Lắng nghe còn thể hiện sự thấu cảm, chia sẻ và thể hiện sự tôn trọng nhau. Trong gia đình, việc lắng nghe càng cần thiết. Cha mẹ nên dành thời gian lắng nghe con cái để hiểu những gì con suy nghĩ, kỳ vọng, ước mơ. Nghe qua lời nói, qua thái độ và lắng nghe từ tiếng lòng ngay cả khi không ai nói gì. Điều đó tạo nên sự gần gũi giữa cha mẹ với con cái, thể hiện sự quan tâm đến cuộc sống của con.
3.3.6. Thuyết phục- động viên.
Đôi khi người ta nghĩ là người trong gia đình thì không cần thuyết phục lẫn nhau, chồng ra lệnh cho vợ, cha mẹ chỉ định cho con cái, với trẻ em trong gia đình thì người lớn bao giờ cũng đúng. Tuy nhiên trong xã hội hiện đại, sự dân chủ, bình đẳng thúc đẩy sự lắng nghe và thuyết phục. Ví dụ, để được cha mẹ đồng ý cho học đại học xa nhà, tốn kém nhiều chi phí, người con cần chuẩn bị đầy đủ cho cuộc họp gia đình sắp tới về mục đích, thông tin, điều kiện giải quyết chi phí, khả năng độc lập khi sống xa nhà,…rồi dùng ngôn ngữ phù hợp, sự chân thành, kiên định để thuyết phục cha mẹ. Ngược lại, cha mẹ cũng cần thuyết phục con cái, thay vì ra lệnh hoặc áp đặt.
Động viên (khen, tặng thưởng, thể hiện sự đồng tình, dự đoán về tiềm lực cá nhân, củng cố niềm tin, dự báo kết quả,...) sẽ là khích lệ cần thiết cho sự nỗ lực của người được động viên. Trong gia đình, lời khen về món ăn ngon do vợ nấu, tuyên dương thành tích học tập của con cái, giới thiệu đức tính chăm chỉ học hành của con với khách quí, khen chồng là người đàn ông chu đáo mực thước của gia đình,… chắc chắn sẽ là những lời động viên hữu ích.
3.3.7. Cơ hội giao tiếp.
Có những dịp để gia đình sum họp như bữa cơm gia đình, sinh nhật, giỗ, tết, du lịch,… đó là những cơ hội để thành viên gia đình bày tỏ tình cảm với nhau.
Bữa cơm chiều được nhiều gia đình chọn làm dịp sinh hoạt thường nhật. Đó là thời gian thích hợp để tạo ra sự sum họp, không khí ấm cúng cho thành viên gia đình, để thông tin, chia sẻ tâm tư, tình cảm,... là dịp khơi nguồn cho các cuộc giao tiếp khác.
Không cần giàu có mới tổ chức sinh nhật, có gia đình tổ chức sinh nhật trong bữa cơm chiều. Không khí thật tình cảm với món ăn mà nhân vật chính yêu thích, đầm ấm và lời “tuyên bố lý do” thật xúc động, lời chúc tốt đẹp và quà mừng sinh nhật,… là biểu hiện của tấm lòng thương yêu.
Ngày nay, nhiều người tham công tiếc việc, rất ngại đi chơi vì mất thu nhập mà còn tốn tiền. Nếu thay đổi nhận thức rằng, đi du lịch là dịp cả nhà được thư giãn, nghỉ ngơi, là dịp cha mẹ, con cái gặp gỡ, tiếp xúc chăm sóc, chuyện trò, thể hiện sự thương yêu lẫn nhau, thắt chặt tình cảm gia đình thì sẽ thấy nó thật cần thiết.
Trong xã hội hiện đại, người cao tuổi thường ít sống cùng con cháu. Cách chăm sóc, phụng dưỡng ông bà cha mẹ cũng thay đổi nhiều. Con cháu nếu có tâm thì dù khó khăn như thế nào cũng sẽ tìm ra cách thức phù hợp như thường xuyên thăm hỏi, chuyện trò với ông bà, cha mẹ qua điện thoại, mạng internet, viết thư, phân công chăm sóc khi ông bà, cha mẹ ốm đau.
Vấn đề quan trọng nữa là giao tiếp với láng giềng. Ở vùng đô thị, nhiều gia đình sống biệt lập, ít giao tiếp với người nhà bên, liền vách mà có khi không biết tên tuổi, gia cảnh của nhau… Tục ngữ có câu “Nhất cận lân, nhì cận thân”, “Bán anh em xa mua láng giềng gần”, nhằm đề cao tình láng giềng vì người thân không phải bao giờ cũng ở gần và có thể chia sẻ, giúp đỡ ta khi hữu sự. Trong cuộc sống nhiều mối quan hệ bạn bè thân thiết như anh em một nhà xuất phát từ quan hệ láng giềng đối xử tốt với nhau. Để lúc “tối lửa tắt đèn có nhau”, cần chủ động giao tiếp và duy trì giao tiếp tốt với láng giềng. Khi gặp gỡ thì chào nhau, hỏi thăm sức khỏe, công việc làm ăn; thăm viếng hoặc mời hàng xóm tham dự việc vui của gia đình mình như cưới xin, đầy tháng trẻ, mừng nhà mới hoặc giúp đỡ nhau lúc khó khăn, khi có người bệnh tật…
PHẦN IV: KẾT LUẬN
4.1. Biện pháp khắc phục tình trạng giao tiếp trong gia đình hiện nay
Hãy nói chuyện một cách rộng mở.
Nói chuyện vào thời gian thích hợp.
Hãy sử dụng ánh mắt trong giao tiếp.
Đầu câu chuyện bằng những chủ đề thông thường để tạo tình cảm
4.2. Những điều nên tránh khi giao tiếp trong gia đình
Lời nói thô tục, chửi thề, dùng tiếng lóng, nói năng hỗn xược với người trên.
Cách nói chỉ trích, trách cứ, chê bai, nói bâng quơ, ám chỉ, “Mượn gió bẻ măng”, nói bỏ lửng, cướp lời, định kiến, áp đặt…
Thái độ coi thường, ra lệnh, quá xuề xòa, thiếu nghiêm túc hoặc quá nghiêm nghị khi không cần thiết, lạnh lùng, xa cách, ra vẻ bề trên, hiểu biết mọi điều , kiến thức sâu rộng.
Cử chỉ suồng sã quá mức, ánh mắt soi mói, nghi ngờ.
Thông tin sai sự thật, hoặc nói khác đi để né tránh những vấn đề nhạy cảm mà không đủ thông tin chuẩn để diễn đạt.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Sách “ Kỹ năng giao tiếp tối ưu”, tác giả: Arredondo, NXB Tổng hợp TP Hồ Chí Minh.
Sách “Cẩm nang giao tiếp- nghệ thuật xây dựng các quan hệ hữu ích”, tác giả: Nguyễn Thị Bích Ngọc, NXB Lao Động.
Sách “Phát triển trí tuệ toàn diện cho trẻ 2- 6 tuổi, khả năng giao tiếp xã hội”, tác giả: Ngọc Khánh, Tuệ Văn, NXB Phụ Nữ.
Sách “Nghệ thuật giao tiếp ứng xử”, tác giả: Ngọc Tố, NXB Văn hóa- thông tin.
Sách “Nghệ thuật giao tiếp nam nữ”, tác giả: Nguyễn Trình, NXB Thanh niên.
Sách “Nghệ thuật giao tiếp”, tác giả: Chu Sĩ Chiêu, NXB Tổng hợp TP Hồ Chí Minh.
Bảng phân chia tỷ lệ làm việc của nhóm:
TT
Họ và tên
Phân chia công việc
Tỷ lệ tham gia
1
Trần Thị Xuân Trang
Phần I; Phần II ( 2.1 )
90%
2
Nguyễn Thị Thấm
Phần I; Phần II ( 2.3 )
90%
3
Tiêu Thị Kim Phương
Phần I; Phần III ( 3.2 )
90%
4
Nguyễn Thị Lan Anh
Phần I; Phần III ( 3.3 )
90%
5
Trần Thị Tường Vy
Phần I; Phần II (2.2+2.4); Phần III (3.1); Phần IV
90%
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 2727891 n giao ti7871p hon ch7881nh.doc