Đề tài Nâng cao hiệu quả trong công tác xác định phí và bồi thường tổn thất trong bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex (PJICO)

Tài liệu Đề tài Nâng cao hiệu quả trong công tác xác định phí và bồi thường tổn thất trong bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex (PJICO): LờI Mở ĐầU Ngày nay, cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường, đời sống dân cư ngày càng được cải thiện, nhờ đó mà nhu cầu giải trí, đi lại, giao lưu văn hoá- kinh tế giữa các nước, các vùng ngày càng được chú trọng. Do nhu cầu đi lại, vận chuyển hành hoá, hành khách ngày càng tăng đòi hỏi hệ thống giao thông và phương tiện đi lại được phát triển theo. Trong đó giao thông đường bộ tỏ ra có ưu thế hơn cả về tính cơ động cao, khả năng vận chuyển lớn, tốc độ tương đối nhanh, giá cả hợp lý… Nhưng việc đi lại, vận chuyển bằng các phương tiện cơ giới cũng dễ gặp phải những tai nạn, rủi ro bất ngờ không thể lường trước được do đâm va, lật đổ, hoả hoạn… Những rủi ro này ảnh hưởng lớn đến tính mạng và tài sản của nhân dân, là mối đe doạ lớn cho chủ xe vì họ không những phải chịu trách nhiệm đền bù những thiệt hại lớn mà mình gây ra cho người thứ ba mà còn phải gánh cả phần chi phí sửa chữa bản thân phương tiện của mình. Để khắc phục những tổn thất có thể xảy ra cho cả hai phía. Bảo hiểm ...

doc85 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1109 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Nâng cao hiệu quả trong công tác xác định phí và bồi thường tổn thất trong bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex (PJICO), để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LờI Mở ĐầU Ngày nay, cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường, đời sống dân cư ngày càng được cải thiện, nhờ đó mà nhu cầu giải trí, đi lại, giao lưu văn hoá- kinh tế giữa các nước, các vùng ngày càng được chú trọng. Do nhu cầu đi lại, vận chuyển hành hoá, hành khách ngày càng tăng đòi hỏi hệ thống giao thông và phương tiện đi lại được phát triển theo. Trong đó giao thông đường bộ tỏ ra có ưu thế hơn cả về tính cơ động cao, khả năng vận chuyển lớn, tốc độ tương đối nhanh, giá cả hợp lý… Nhưng việc đi lại, vận chuyển bằng các phương tiện cơ giới cũng dễ gặp phải những tai nạn, rủi ro bất ngờ không thể lường trước được do đâm va, lật đổ, hoả hoạn… Những rủi ro này ảnh hưởng lớn đến tính mạng và tài sản của nhân dân, là mối đe doạ lớn cho chủ xe vì họ không những phải chịu trách nhiệm đền bù những thiệt hại lớn mà mình gây ra cho người thứ ba mà còn phải gánh cả phần chi phí sửa chữa bản thân phương tiện của mình. Để khắc phục những tổn thất có thể xảy ra cho cả hai phía. Bảo hiểm xe cơ giới đã ra đời và thực tế triển khai đã minh chứng vai trò tích cực của nhà bảo hiểm- là nhà tài trợ, chia xẻ rủi ro đối với chủ xe, lái xe mỗi khi việc lưu hành xe gây ra thiệt hại Khi mà giá trị xe ngày càng lớn, lượng xe lưu thông ngày càng nhiều thì các chủ xe thường xuyên phải đứng trước nguy cơ mất phần lớn nguồn tài chính khi xe bị tai nạn. Nhận thức được vấn đề đó PJICO đã triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới ngay từ những ngày đầu mới thành lập, nhằm bù đắp một phần thiệt hại về vật chất xe cho chủ xe. Nhưng đây là một nghiệp vụ mà các công ty bảo hiểm khác cũng triển khai rất rộng rãi, do đó công ty gặp phải sự cạnh tranh rất quyết liệt trên thị trường. Để tồn tại và tạo được chỗ đứng trên thị trường, Công ty phải tạo ra bản sắc riêng cho sản phẩm bảo hiểm của mình cũng như hoàn thiện công tác bồi thường để tạo lòng tin nơi khách hàng và khẳng định vị thế của mình trên thị trường. Xuất phát từ lý do trên kết hợp với việc nghiên cứu tình hình thực tiễn triển khai tại phòng bảo hiểm Phi hàng hải- công ty PJICO, em đã lựa chọn đề tài: “Nâng cao hiệu quả trong công tác xác định phí và bồi thường tổn thất trong bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex (PJICO)” để làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp. Mục đích của đề tài này là làm rõ một số vấn đề lý luận về bảo hiểm xe cơ giới nói chung, đi sâu vào công tác xác định phí và bồi thường, mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị có tính khả thi, có cơ sở khoa học nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại PJICO. Nội dung của đề tài, ngoài phần mở đầu và kết luận, bao gồm ba chương: Chương I: Khái quát chung về bảo hiểm vật chất xe cơ giới. Chương II: Thức trạng công tác xác định phí và bồi thường tổn thất trong bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại công ty PJICO Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác xác định phí và bồi thường tổn thất trong BHVC xe cơ giới tại PJICO Do còn hạn chế về mặt kiến thức cũng như sự phức tạp của hệ vấn đề, nên chuyên đề sẽ không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế nhất định. Em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy, cô và các bạn để chuyên đề của em được đầy đủ và hoàn chỉnh hơn nữa. Chương I KHáI QUáT CHUNG Về BảO HIểM VậT CHấT XE CƠ GiớI I. Đặc điểm xe cơ giới và sự cần thiết của bảo hiểm vật chất xe cơ giới 1. Đặc điểm và sự cần thiết của bảo hiểm vật chất xe cơ giới Cùng với sự phát triển ngày càng cao của KHKT, các phương tiện sử dụng trong ngành giao thông vận tải cũng được cải tiến và ngày càng hoàn thiện như máy bay, tàu hoả, ô tô, tàu thuỷ… Sự phát triển của ngành giao thông vận tải đã góp một phần không nhỏ vào sự phát triển chung của xã hội loài người đặc biệt xu hướng phát triển trên thế giới hiện nay là xu hướng “toàn cầu hoá”. ở nước ta ngành giao thông vận tải cũng đã cho thấy được vai trò to lớn trong hai lần chiến thắng thực dân Pháp và đế quốc Mĩ, đặc biệt là trong gần 30 năm trở lại đây khi đất nước ta được giải phóng, đã và đang thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước. Trước đây, do đất nước đang trong quá trình phục hồi sau chiến tranh, do đó hệ thống đường xá cũng như số lượng, chất lượng các phương tiện vận tải còn thô sơ, lạc hậu làm cho nhu cầu đi lại của người dân phần nào còn bị hạn chế. Sau khi đất nước ta chuyển sang cơ chế thị trường, đời sống của nhân dân từng bước được nâng cao, các nhu cầu tối thiểu như “ăn, ở, mặc” phần nào đã được đáp ứng đầy đủ. Từ đó phát sinh các nhu cầu khác như đi lại, thay đổi chỗ ở ngày càng nhiều để đáp ứng nhu cầu sống ngày càng cao của người dân. Các phương tiện giao thông ngày càng đa dạng như đường sắt, đường hàng không, đường biển đường bộ… Trong đó, đường bộ tỏ ra có ưu thế hơn cả vì sự cơ động, giá rẻ, dễ điều khiển… Xác định được điều đó Nhà nước và các cấp ngành có liên quan đã có sự quan tâm khá kịp thời đến công tác nâng cấp phát triển cơ sở hạ tầng, đường xá cầu cống. Điều này được đánh đấu bằng sự tăng lên cả về số lượng và chất lượng đường bộ, hiện nay cả nước có 111.474 km đường bộ, trong đó quốc lộ chiếm 14.926 km bao gồm các loại mặt đường sau. - Bê tông xi măng: 75 km tương đương với 0,05% - Bê tông nhựa: 3.551 km tương đương với 23,79 % - Đá dăm rải nhựa: 5.253 km tương đương với 35,19% - Đá dăm cấp phối: 4.233 km tương đương với 28,36% - Đất: 1.814 km tương đương với 12,15% Đặc biệt, hệ thống giao thông đô thị của Thủ đô Hà Nội cũng đã được nâng cấp xây dựng mới đạt tổng chiều dài 270 km Từ khi nước ta thực hiện công cuộc công nghiệp hoá- hiện đại hoá, người dân dần thích nghi với đời sống công nghiệp. Điều này được thể hiện qua số lượng ô tô, xe máy tăng lên không ngừng: ô tô, xe máy trên cả nước hàng năm tăng 20%-24%, lượng ôtô tăng lên hàng năm chỉ tính riêng ở địa bàn Hà Nội năm 1998-1999 tăng 9%, từ 1999-2000 tăng xấp xỉ 4%, các năm 2001, 2002 các con số này còn tăng hơn nữa , còn nếu tính trên cả nước thì đạt bình quân hàng năm là 8,0%- 8,4%, và theo như ước tính của cơ quan quản lý giao thông thì tốc độ này còn tăng cao hơn nữa đặc biệt là sau khi Việt Nam gia nhập AFTA, con số này chứng tỏ ngày càng có nhiều người sử dụng hình thức giao thông đường bộ và nó ngày càng đáp ứng tốt hơn nhu cầu sử dụng. Lượng ôtô, xe máy tăng chứng tỏ đời sống của nhân dân ngày càng cao, nhưng chính điều này lại làm tăng số vụ tai nạn giao thông cả về quy mô và mức độ nghiêm trọng. Mặc dù có sự cố gắng của bản thân con người cũng như sự trợ giúp của KH- KT nhưng tai nạn vẫn xảy ra đó là do đặc điểm của xe cơ giới: xe được vận hành bằng một lực do động cơ tạo ra nên được coi là nguồn nguy hiểm cao độ. Mặt khác hệ thống đường bộ nước ta còn rất xấu, mặc dù đã có sự mở mới và nâng cấp nhưng nhìn chung chất lượng mặt đường chưa đồng đều, nhiều đoạn đường, cây cầu sức chịu đựng rất kém thêm vào đó là tình trạng vi phạm luật lệ an toàn giao thông đường bộ của chủ điều khiển ôtô, xe máy: chở quá tải, phóng nhanh vượt ẩu, không làm chủ được tốc độ gây tai nạn… Ngoài ra, chất lượng không đảm bảo của các phương tiện giao thông cũng là một trong các nguyên nhân gây ra tai nạn. Những năm gần đây đặc biệt là các năm 1999-2002 thị trường xe máy Việt Nam bị tràn ngập bởi xe máy Trung Quốc, chất lượng không đảm bảo nhưng giá rẻ vẫn được tiêu thụ mạnh. Công tác kiểm tra còn nhiều bất cập, tính đến tháng 9/2002, các chủ hàng, các chủ phương tiện mới đưa vào kiểm tra 406.000 đầu xe chiếm 73% tổng số xe hoạt động trong đó 102.000 phương tiện không đạt tiêu chuẩn hoạt động và hiện có 13.953 ôtô chở khách quá niên hạn sử dụng nhưng vẫn lưu hành. Các xe vận tải nhỏ không đăng ký, và không qua kiểm định 62.905 xe chiếm 83% và 10 triệu xe máy hầu hết là xe Trung Quốc, Đài Loan và Hàn Quốc, Honđa đời cũ… chất lượng kém. Đây thực sự là mối de doạ, nguy hiểm đến tính mạng, tài sản của chủ phương tiện, người tham gia giao thông và tài sản của nhân dân, toàn xã hội. Bảng số liệu dưới đây sẽ cho thấy mức độ nguy hiểm của tai nạn giao thông: Bảng 1: Tai nạn giao thông giai đoạn (1998 – 2002) STT Nội dung tai nạn giao thông Đơn vị 1998 1999 2000 2001 2002 1 Số vụ Vụ 16.270 18.967 21.901 24.732 28.772 2 Số người chết Người 7.025 7.985 9.172 10.044 13.242 3 Số người bị thương Người 1.989 22.710 25.263 28.202 33.874 4 Bình quân người chết /ngày Người 19 21 25 27 36 5 Tổng số người chết trong tháng Người 570 630 750 810 1.080 Nguồn: “Tạp chí giao thông vận tải ” Trong năm 2002, tai nạn giao thông nguyên nhân do người tham gia giao thông( 83,1%), trong đó: - Do chạy quá tốc độ quy định : 40% - Do tránh vượt sai quy định: 32,4% - Do các nguyên nhân khác:10,7% Qua bảng số liệu trên cho thấy tình hình tai nạn giao thông tăng cả về số vụ và số người thiệt mạng, các chủ phương tiện gặp phải những khó khăn về nhiều mặt: thiệt hại do phương tiện của mình gây ra cho người thứ 3, thiệt hại vật chất của chính phương tiện… Tạo ra sức ép cả về tài chính lẫn tinh thần. Trước nhu cầu đòi hỏi cấp thiết đó, nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới đã được triển khai ở tất cả các công ty bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam. Chủ xe tham gia bảo hiểm vật chất xe là để được bồi thường những thiệt hại vật chất xảy ra với xe của mình do những rủi ro được bảo hiểm gây nên, từ đó làm giảm sức ép về tài chính và tinh thần. Biện pháp bảo đảm này được thực hiện dựa trên cơ sở người tham gia đóng góp một khoản tiền nhỏ gọi là phí bảo hiểm để xây dựng quỹ bảo hiểm tại công ty bảo hiểm. Nếu không may rủi ro xảy ra thì chủ xe sẽ được chi trả theo thoả thuận trong hợp đồng. Như vậy bảo hiểm vật chất xe cơ giới đã thể hiện được bản chất của bảo hiểm thương mại đó là: bảo hiểm thương mại là biện pháp chia nhỏ tổn thất của một hay một số ít người có khả năng cùng gặp một loại rủi ro dựa vào một quỹ chung bằng tiền được lập bởi sự đóng góp của nhiều người cũng có khả năng gặp tổn thất đó thông qua hoạt động của công ty bảo hiểm. Bằng cách chia nhỏ tổn thất như vậy, hậu quả lẽ ra rất nặng nề, nghiêm trọng với một hoặc một số người sẽ trở nên không đáng kể có thể chấp nhận được đối với cả cộng đồng những người tham gia bảo hiểm. Từ đó ta có thể thấy được sự cần thiết phải triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại các công ty bảo hiểm đối với đời sống nhân dân. 2. Tác dụng của bảo hiểm vật chất xe cơ giới. Cũng giống như bảo hiểm nói chung, bảo hiểm vật chất xe cơ giới có các tác dụng đặc trưng của nó. Thứ nhất: Giúp ổn định tình hình tài chính của chủ phương tiện khi không may rủi ro xảy ra. Khi tham gia giao thông, tất nhiên không ai mong muốn tai nạn xảy ra với mình và phương tiện của mình. Nhưng rủi ro luôn tiềm ẩn yếu tố bất ngờ, ngẫu nhiên. Nhiều khi chỉ là một sơ suất, bất cẩn nhỏ cũng có thể dẫn tới những hậu quả thiệt hại lớn và chủ xe là người trước tiên phải gánh chịu những thiệt hại này. Tình trạng này sẽ được khắc phục nếu như chủ xe tham gia bảo hiểm vật chất xe cơ giới bằng cách đóng một khoản phí nhất định để xây dựng quỹ bảo hiểm. Khi thiệt hại xảy ra, công ty bảo hiểm sẽ bồi thường những thiệt hại về mặt tài chính cho chủ phương tiện căn cứ vào mức độ thiệt hại của xe và số tiền bảo hiểm để tránh những trục lợi từ phía khách hàng. Số tiền bồi thường đó sẽ giúp chủ phương tiện nhanh chóng ổn định đời sống tránh những xáo trộn lớn và nhanh chóng thoát khỏi tình trạng khó khăn, tạo ra sự ổn định chung của xã hội. Thứ hai: Tạo điều kiện gần như tốt nhất cho sản xuất Nền kinh tế thị trường luôn diễn rạ sự cạnh tranh quyết liệt giữa các đối thủ. Do đó, các công ty luôn muốn huy động một lượng vốn tối đa có thể để đầu tư sản xuất, nhằm tạo được lợi thế giữa các đối thủ cạnh tranh, tăng thị phần. Vì thế trong quá trình kinh doanh nếu doanh nghiệp phải dự trữ một khoản tiền tương đối lớn để đề phòng khi rủi ro xảy ra bất ngờ, thì quả là lãng phí. Các doanh nghiệp nhỏ, số lượng đầu xe ít thì quỹ dự trữ này có thể không đáng kể, nhưng đối với các doanh nghiệp lớn, số lượng đầu xe nhiều thì quỹ dự trữ này tương đối lớn, sẽ làm ảnh hưởng đến lượng vốn kinh doanh. Nếu doanh nghiệp tham gia bảo hiểm vật chất xe cơ giới thì chỉ phải đóng một lượng phí nhỏ, công ty bảo hiểm sẽ lập quỹ bảo hiểm bảo vệ cho số xe của doanh nghiệp theo nguyên tắc “Số đông bù số ít” doanh nghiệp sẽ yên tâm hoạt động nhờ một quỹ lớn hơn nhiều do các thành viên khác cũng đóng góp. Thứ ba: Góp phần đề phòng hạn chế tổn thất tai nạn giao thông. Với số phí thu được từ người tham gia bảo hiểm, công ty bảo hiểm sẽ lập một quỹ ngoài mục đích chính là bồi thường cho các rủi ro được bảo hiểm xảy ra đó là sử dụng cho mục đích đề phòng hạn chế tổn thất. Những nguy cơ gây ra tai nạn do chất lượng hệ thống cơ sở hạ tầng còn thấp như tại các đèo, dốc nguy hiểm (Đèo Cả, đèo Cù Mông, đèo Hải Vân…) đã được các công ty bảo hiểm lớn (trong đó có PJICO) hỗ trợ hàng tỷ đồng để xây dựng đường lánh nạn, đường phụ, dốc cứu nạn, thành chắn… Hàng năm cứu thoát khỏi nguy hiểm hàng trăm tính mạng. Ngoài ra, các công ty cũng khuyến khích các chủ xe thực hiện các biện pháp đề phòng hạn chế tổn thất, nâng cao ý thức thông qua công tác tuyên truyền luật lệ an toàn giao thông. Đặc biệt công ty còn giảm phí nếu sau một thời gian nhất định mà xe không gặp phải bất kỳ một thiệt hại nào. Biện pháp này sẽ làm tăng cố gắng để không xảy ra tai nạn của các chủ điều khiển phương tiện giao thông. Cuối cùng: Góp phần tăng thu ngân sách Nhà nước. Mức sống ngày càng cao, số lượng các phương tiện xe cơ giới tăng mạnh trong năm 2001 mỗi tháng 45.000 đầu xe ôtô và gần 500.000 xe máy đăng ký đưa tổng số phương tiện tham gia giao thông 6/2002 là 555.000 chiếc xe ôtô và gần 10 triệu xe máy chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn như Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng…, đó là chưa kể 75.000 xe vận tải nhỏ (xe công nông đầu dọc, đầu ngang, xe lam, xe kéo…) tham gia hoạt động giao thông làm mạng lưới giao thông đường bộ quá tải, nảy sinh nhiều phức tạp. Hơn nữa, khi các điều kiện sống đầy đủ,trình độ dân trí cao thì nhu cầu tự bảo vệ cho bản thân, gia đình, tài sản lại càng được nâng cao. Vì thế lượng khách hàng tiềm năng của nghiệp vụ này là rất lớn, nguồn thu từ đó sẽ được nâng cao, nó sẽ góp phần tăng thu cho ngân sách Nhà nước thông qua hình thức nộp thuế của các công ty bảo hiểm. Và ngược lại, Chính phủ có thể sử dụng ngân sách Nhà nước phối hợp với các doanh nghiệp bảo hiểm khác hỗ trợ đầu tư nâng cấp chất lương hệ thống cơ sở hạ tầng làm giảm thiểu tai nạn, ổn định xã hội và nâng cao chất lượng đời sống dân cư. Qua đó có thể thấy được tác dụng to lớn của nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới, mang ý nghĩa tích cực, nhân đạo sâu sắc và việc triển khai nghiệp vụ này là thực sự cần thiết. II. Nội dung của bảo hiểm vật chất xe cơ giới. Bảo hiểm vật chất xe cơ giới là loại hình bảo hiểm tài sản. Đây là loại hình bảo hiểm không bắt buộc, do đó chủ xe có thể lựa chọn bảo hiểm hay không bảo hiểm, nếu bảo hiểm thì tham gia ở hình thức nào. 1. Đối tượng bảo hiểm Đối tượng bảo hiểm là bản thân chiếc xe với đầy đủ những yếu tố sau: - Xe cơ giới phải được gắn động cơ (khác với xe không có động cơ như xe đạp, xe do gia súc kéo…) - Xe cơ giới di chuyển trên đất liền không cần đường dẫn (khác với tàu hoả, xe điện…) - Xe cơ giới phải có chỗ tối thiểu cho người điều khiển Như vậy xe cơ giới bao gồm nhiều loại: xe mô tô, xe ôtô chở người, xe tải chở hàng, các loại xe chuyên dụng khác. Để có thể trở thành đối tượng được bảo hiểm, xe cơ giới phải đảm bảo những điều kiện về mặt kỹ thuật và pháp lý cho sự lưu hành. Được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy đăng ký xe, biển kiểm soát, giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và môi trường, giấy phép lưu hành xe. Do điều kiện kinh tế- xã hội ngày càng phát triển, mức sống ngày càng cao, giá trị các phương tiện đi lại cũng lớn hơn nhiều, do đó nếu rủi ro xảy ra thì thiệt hại đối với tài sản này chắc chắn không nhỏ. Thông thường đối tượng bảo hiểm của nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới là các loại ôtô do chúng có giá trị lớn, vận tốc cao, phạm vi hoạt động rộng, một khi rủi ro xảy ra thì chi phí sửa chữa sẽ rất tốn kém. Còn xe máy do có giá trị thấp hơn nhiều so với ôtô, chi phí sửa chữa không nhiều, rất khó xác định được giá trị hiện tại của xe. Do đó loại hình bảo hiểm vật chất xe máy tại các công ty bảo hiểm hiện nay thu hút được không nhiều khách hàng. Vì thế đối tượng bảo hiểm ở đây chính là các xe ôtô vận chuyển hàng hoá, hành khách còn đủ giá trị, có đủ điều kiện về mặt kỹ thuật (đã qua kiểm định an toàn kỹ thuật và các điều kiện về môi trường), có giấy phép lưu hành hoạt động trên lãnh thổ của quốc gia. Riêng đối với các loại xe đua, xe tập lái, chạy thử sau khi sửa chữa thì chỉ được bảo hiểm khi có các thỏa thuận giữa hai bên. Trên phương diện kỹ thuật bảo hiểm người ta thường phân chia xe thành các tổng thành. Trên cơ sở phân chia đó người bảo hiểm có thể bảo hiểm toàn bộ xe hoặc từng bộ phận xe. Thông thường xe cơ giới được chia thành 7 tổng thành sau: - Động cơ: bao gồm phần máy, chế hoà khí hoặc bơm cao áp, bơm xăng, bầu lọc khí, lọc dầu, máy phát điện, máy nén khí, két nước và các bộ phận làm mát. - Thân vỏ: có ba nhóm (A,B,C). + Nhóm A: Thân vỏ bao gồm: ca bin toàn bộ, cabô, chắn bùn, toàn bộ cửa và kính, toàn bộ đèn và gương, toàn bộ phần vỏ kim loại, các cần gạt và bàn đạp ga, côn số phanh chân, phanh tay… + Nhóm B: Ghế điện và nội thất bao gồm: toàn bộ ghế đệm ngồi hoặc nằm, các trang thiết bị: điều hoà nhiệt độ, quạt đài… + Nhóm C: Sát si: bao gồm: khung xe, ba đờ sốc, các cơ cấu bấu chặt vào khung, bình chứa nguyên liệu, đường ống và tuy ô dẫn dầu, dây dẫn điện… - Hộp số: bao gồm hộp số chính, hộp số phụ (nếu có). - Hệ thống lái: bao gồm vô lăng lái, trục tay lái, các đăng dẫn động lái, hộp tay lái, bổ trợ tay lái (nếu có), thanh kéo ngang, thanh kéo dọc, phi dê. - Trục trước: bao gồm dầm cầu, trục lắp, hệ thống treo nhíp, may ô trước, cơ cấu phanh, nếu là cầu chủ động thì có thêm một cầu si vai và vỏ cầu. - Cầu sau: gồm vỏ cầu toàn bộ, ruột cầu, si vai, cụm may ơ sau, cơ cấu phanh, xilanh phanh, trục lắp ngang hệ thống treo cầu sau, nhíp… - Lốp: các bộ săm hoàn chỉnh của xe (kể cả săm lốp dự phòng) - Ngoài ra, ở một số loại xe chuyên dùng như xe cứu thương, cứu hỏa, xe chở container, cần cẩu… còn có tổng thành cơ cấu chuyên dụng lắp trên xe để sử dụng theo nhu cầu: cần cẩu nâng, phát thanh truyền hình, đào xúc… Tuỳ thuộc vào các loại xe mà cơ cấu giá trị của các tổng thành này trong toàn bộ giá trị của xe cũng khác nhau. Bảng 2: Tỷ lệ giá trị tổng thành các loại xe du lịch, xe khách và xe vận tải nhỏ (các nước khu vực II sản xuất) Đơn vị: (%) Tên tổng thành Xe con 4-5 chỗ Xe khách (trên 20 ghế) Xe khách nhỏ, nhỡ (dưới 20 ghế) Nhóm xe du lịch Xe ngoại cả KVI, KVII Loại I cầu chủ động Loại II cầu chủ động Động cơ 15,5 11,0 14,5 15,4 Hộp số 7,0 4,5 7,0 8,2 Trục cầu trước 5,5 3,8 1,2 6,8 Cần sau 9,2 7,5 7,6 7,0 Hệ thống lái 5,7 5,4 5,5 5,1 Thân vỏ xe Thân vỏ 53,5 30,3 59,8 37,1 57,2 32,5 54,2 30,4 Nội thất 14,1 13,3 16,5 15,8 Sát si 9,1 9,4 5,2 8,0 Săm lốp 3,6 8,0 4,0 4,3 Hiện nay, các công ty bảo hiểm Việt Nam thường tiến hành bảo hiểm toàn bộ xe hoặc thân vỏ xe. Vì trong số các tổng thành, thân vỏ xe chiếm tỷ trọng lớn về mặt giá trị (như trong bảng đã chỉ ra) và cũng chịu ảnh hưởng nhiều nhất những hậu quả của vụ tai nạn. 2. Phạm vi bảo hiểm Trong nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới, các rủi ro được bảo hiểm thông thường bao gồm: - Tai nạn do đâm va, lật đổ. - Cháy nổ, bão lụt, sét đánh, động đất, mưa đá. - Mất cắp toàn bộ xe. - Tai nạn do rủi ro bất ngờ khác gây nên. Ngoài ra, các công ty bảo hiểm còn thanh toán cho các chủ xe tham gia bảo hiểm những chi phí cần thiết và hợp lý nhằm: + Ngăn ngừa và hạn chế tổn thất phát sinh thêm khi xe bị thiệt hại do các rủi ro được bảo hiểm. + Chi phí bảo vệ xe và kéo xe bị thiệt hại tới nơi sửa chữa gần nhất. + Giám định tổn thất nếu thuộc trách nhiệm của bảo hiểm Tuy nhiên, trong mọi trường hợp tổng số tiền bồi thường của công ty bảo hiểm không vượt quá số tiền bảo hiểm đã ghi trên đơn hay giấy chứng nhận bảo hiểm. Công ty bảo hiểm sẽ không chịu trách nhiệm bồi thường những thiệt hại vật chất của xe gây ra bởi: - Hao mòn tự nhiên, mất giá, giảm dần chất lượng, hỏng hóc do khuyết tật hoặc hỏng thêm do sửa chữa. Hao mòn tự nhiên được tính dưới hình thức khấu hao và thường được tính theo tháng. - Hư hỏng về điện hoặc máy móc, thiết bị, săm lốp hư hỏng mà không do tai nạn gây ra. - Mất cắp bộ phận của xe. Để tránh những “nguy cơ đạo đức” lợi dụng bảo hiểm, những hành vi vi phạm pháp luật, luật lệ giao thông, hay một số những rủi ro đặc biệt khác, những thiệt hại, tổn thất xảy ra bởi những nguyên nhân sau cũng không được bồi thường: - Hành động cố ý của chủ xe, lái xe. - Xe không đủ điều kiện kỹ thuật và thiết bị an toàn để lưu hành theo quy định của Luật an toàn giao thông đường bộ, - Chủ xe (lái xe) vi phạm nghiêm trọng Luật an toàn giao thông đường bộ như: + Xe không có giấy phép lưu hành. + Lái xe không có bằng lái, hoặc có nhưng không hợp lệ. + Lái xe bị ảnh hưởng của rượu bia, ma tuý hoặc các chất kích thích tương tự khác trong khi điều khiển xe. + Xe chở chất cháy, chất nổ trái phép. + Xe chở quá trọng tải hoặc số hành khách quy định. + Xe đi vào đường cấm. + Xe đi đêm không đèn. + Xe sử dụng để tập lái, đua thể thao, chạy thử sau khi sửa chữa. - Những thiệt hại gián tiếp như: Giảm giá trị thương mại, làm đình trệ sản suất kinh doanh… - Thiệt hại do chiến tranh, đình công, bãi công… Trong thời hạn bảo hiểm nếu chủ xe chuyển quyền sở hữu cho chủ xe khác thì quyền lợi bảo hiểm vẫn còn hiệu lực với chủ xe mới. Tuy nhiên, nếu chủ xe cũ không chuyển quyền lợi bảo hiểm cho chủ xe mới thì công ty bảo hiểm sẽ hoàn lại phí bảo hiểm cho họ và làm bảo hiểm cho chủ xe mới nếu họ có yêu cầu. 3. Giá trị bảo hiểm và số tiền bảo hiểm Giá trị bảo hiểm của xe cơ giới là giá trị thực tế trên thị trường của xe tại thời điểm người tham gia bảo hiểm mua bảo hiểm. Việc xác định đúng giá trị tham gia bảo hiểm là rất quan trọng vì đây là cơ sở để bồi thường chính xác thiệt hại thực tế cho chủ xe tham gia bảo hiểm. Tuy nhiên giá xe trên thị trường luôn luôn biến động và có thêm nhiều chủng loại xe mới gây khó khăn cho việc xác định giá trị xe. Trong thực tế, các công ty bảo hiểm thường dựa trên các yếu tố sau để xác định giá trị xe: - Loại xe - Năm sản xuất - Mức độ cũ, mới của xe - Thể tích làm việc của xi lanh… Tuy nhiên, việc đánh giá các yếu tố này là khá khó khăn, hiệu quả không cao chỉ có những người chuyên môn mới thực hiện được, việc đánh giá có thể đẫn đến tranh cãi, không khách quan. - Hiện nay, các công ty bảo hiểm hay áp dụng phương pháp xác định giá trị bảo hiểm căn cứ vào giá trị ban đầu của xe và mức khấu hao theo công thức: GBH = GBĐ - GKH Trong đó: GBH : Giá trị bảo hiểm GBĐ : Giá trị ban đầu xe, gía mua mới GKH : Giá trị đã được khấu hao của chiếc xe (theo năm) GKH = GBĐ Tỷ lệ khấu hao Số năm đã sử dụng - Đối với xe có thời gian sử dụng dưới một năm thì GKH = 0 nên giá trị bảo hiểm bằng giá trị ban đầu của xe. - Đối với xe có thời gian sử dụng trên một năm thì GKH > 0 nên giá trị bảo hiểm luôn nhỏ hơn giá trị ban đầu của xe. Để thống nhất mức khấu hao chung cho các công ty bảo hiểm thuận tiện trong đánh giá giá trị bảo hiểm, Bộ tài chính đã quy định một tỷ lệ khấu hao cố định cho xe cơ giới là 9%/năm. Nhưng mức này khó có thể hấp dẫn được khách hàng vì nó tương đối cao, giá trị bảo hiểm vì thế mà giảm xuống, điều này làm cho người tham gia bị thiệt thòi. Ngoài ra, trong thực tế có nhiều trường hợp xe đã khấu hao hết, nhưng trong thực tế vẫn còn giá trị sử dụng và vẫn còn được sử dụng tiếp nên mức này tỏ ra ít phù hợp, do đó các công ty bảo hiểm phải linh hoạt hơn để thu hút khách hàng. Số tiền bảo hiểm là khoản tiền được xác định trong hợp đồng bảo hiểm thể hiện giới hạn trách nhiệm của công ty bảo hiểm. Có nghĩa là, trong bất kỳ trường hợp nào, số tiền bồi thường, chi trả cao nhất của người bảo hiểm cũng chỉ bằng số tiền bảo hiểm Trong bảo hiểm vật chất xe cơ giới, số tiền bảo hiểm được xác định theo ba trường hợp: - Số tiền bảo hiểm nhỏ hơn giá trị bảo hiểm: thì được gọi là bảo hiểm dưới giá trị. Khi tổn thất xảy ra, công ty bảo hiểm sẽ dựa trên cơ sở tỷ lệ giữa số tiền bảo hiểm và giá trị bảo hiểm SBT = - Số tiền bảo hiểm = Giá trị bảo hiểm: được gọi là bảo hiểm ngang giá trị. Khi tổn thất toàn bộ xảy ra, công ty bảo hiểm sẽ bồi thường bằng giá trị bảo hiểm - Số tiền bảo hiểm lớn hơn giá trị bảo hiểm: thì được gọi là bảo hiểm trên giá trị theo điều kiện bảo hiểm gía trị thay đổi mới (chỉ áp dụng đối với tổn thất toàn bộ). 4. Hợp đồng bảo hiểm Hợp đồng bảo hiểm vật chất xe cơ giới là sự thoả thuận giữa các bên theo đó bên mua bảo hiểm (chủ phương tiện, lái xe) có trách nhiệm nộp phí bảo hiểm, bên bảo hiểm (công ty bảo hiểm) có trách nhiệm trả tiền bồi thường cho người tham gia bảo hiểm khi xảy ra các sự kiện bảo hiểm. Hợp đồng bảo hiểm là chứng từ có tính chất pháp lý, quy định rõ nghĩa vụ và quyền lợi của mỗi bên tham gia. Bên cạnh hình thức hợp đồng bảo hiểm còn tồn tại một số hình thức khác: Giấy chứng nhận bảo hiểm, đơn bảo hiểm cũng có giá trị pháp lý tương tự, nhưng hợp đồng bảo hiểm vẫn là hình thức đầy đủ gồm những nội dung bắt buộc sau: - Công ty bảo hiểm (Tên, địa chỉ liên hệ) - Người tham gia bảo hiểm - Đối tượng bảo hiểm - Số tiền bảo hiểm, giá trị bảo hiểm - Mức bảo hiểm, cách thức nộp phí - Phạm vi, điều kiện bảo hiểm - Thời hạn bảo hiểm - Các điều khoản quy định về giải quyết tranh chấp - Chữ ký xác nhận của bên mua bảo hiểm và bên bảo hiểm Thông thường cá nhân khi tham gia bảo hiểm, công ty sẽ cấp cho người tham gia giấy chứng nhận bảo hiểm trong đó ghi rõ tên người tham gia, số tiền bảo hiểm, thời gian bảo hiểm, có thể ghi phí hoặc không, xác nhận của các bên. Người tham gia có quyền sử dụng giấy này để xuất trình cho cơ quan kiểm tra và có trách nhiệm bảo quản cẩn thận vì đây là một trong những giấy tờ cần thiết để công ty giải quyết bồi thường. Trong trường hợp làm mất, hỏng thì phải thông báo cho nhà bảo hiểm để được bảo hiểm để được cấp lại. 5. Phí bảo hiểm Trong bất kỳ nghiệp vụ bảo hiểm nào công tác xác định mức phí là việc làm rất quan trọng. Phí có thể coi là giá của sản phẩm bảo hiểm. Giá có hợp lý thì mới thu hút được khác hàng, và phải đảm bảo lợi nhuận cho công ty. Thông thường khi xác định phí bảo hiểm cho từng đối tượng tham gia bảo hiểm cụ thể, các công ty bảo hiểm căn cứ vào những nhân tố sau: * Loại xe Do mỗi loại xe có những đặc điểm kỹ thuật khác nhau, có mức độ rủi ro khác nhau nên phí bảo hiểm vật chất xe được tính riêng cho từng loại xe. Thông thường, các công ty bảo hiểm đưa ra những biểu xác định phí bảo hiểm phù hợp cho hầu hết các loại xe thông dụng thông qua việc phân loại xe thành các nhóm. Việc phân loại này được dựa trên cơ sở tốc độ tối đa của xe, tỷ lệ gia tốc, chi phí và mức độ khó khăn khi sửa chữa và sự khan hiếm của phụ tùng. Đối với các xe hoạt động không thông dụng như xe kéo rơmooc, xe chở hàng nặng… do có mức độ rủi ro cao nên phí bảo hiểm thường được cộng thêm một tỷ lệ nhất định dựa trên mức phí cơ bản. Giống như cách tính phí bảo hiểm nói chung, phí bảo hiểm phải đóng cho mỗi đầu xe đối với mỗi loại xe được tính theo công thức sau: P = f + d Trong đó: P - Phí thu mỗi đầu xe d - Phụ phí f - Phí bồi thường Theo công thức trên, việc xác định phí bảo hiểm phụ thuộc vào các nhân tố sau: f = - Tình hình bồi thường tổn thất của những năm trước đó. Căn cứ vào số liệu thống kê, công ty bảo hiểm sẽ tính toán được phần phí bồi thường (f) cho mỗi đầu xe như sau: (Với i= 1,2,…,n) Trong đó: S i - Số vụ tai nạn xảy ra trong năm thứ i Ti - Thiệt hại bình quân một vụ năm thứ i Ci - Số xe hoạt động thực tế năm thứ i - Các chi phí khác, hay còn gọi là phần phụ phí (d) bao gồm các chi phí như chi phí đề phòng hạn chế tổn thất, chi quản lý… Ngoài ra, trên thực tế các công ty bảo hiểm áp dụng một phương pháp tính phí khác dựa trên cơ sở số tiền bảo hiểm P = Tỷ lệ phí SBH ở Việt Nam, tỷ lệ phí bảo hiểm do Bộ Tài chính đưa ra và hiện nay tất cả các công ty đều áp dụng mức phí này. Cụ thể là: + Bảo hiểm toàn bộ giá trị xe. P = 1,5% giá trị thực tế của chiếc xe trên thị trườngViệt Nam + Bảo hiểm toàn bộ giá trị xe miễn thuế: P = 3,5% giá trị miễn thuế của xe tại thị trường Việt Nam + Bảo hiểm thân, vỏ xe: P = 2,5% giá trị thực tế của xe tỷ lệ cấu thành. - Riêng đối với trường hợp bảo hiểm không tính khấu hao thay mới thì công ty áp dụng biểu phí riêng. Tham gia hình thức này người được bảo hiểm có lợi ích cụ thể là: Khi rủi ro phát sinh công ty sẽ bồi thường cho xe không tính đến khấu hao thay mới các vật tư. Bảng 3: Tỷ lệ phí báo hiểm vật chất xe cơ giới không tính khấu hao thay mới Đơn vị: (%) Giá trị thực tế của xe Bảo hiểm toàn bộ giá trị xe Bảo hiểm thân vỏ xe 1. Xe sử dụng dưới 3 năm (giá trị còn lại trên 70% giá trị xe mới) 1,5% 2,5% 2. Xe sử dụng từ 3- 6 năm (giá trị còn lại từ 50% - 70% giá trị xe mới) 1,7% 2,7% 3. Xe sử dụng trên 6 năm (giá trị còn lại dưới 50% giá trị xe mới) 1,9% 2,9% Nguồn : “ Quy định của Bộ Tài chính” Nhưng cần lưu ý việc xác định chính xác giá trị thực tế của xe khi tham gia bảo hiểm, vì trên thực tế có nhiều xe tuy thời gian sử dụng không lâu nhưng trong quá trình sử dụng chủ xe không bảo quản tốt dẫn đến việc giá trị còn lại của xe không còn là bao so với giá trị xe mới. * Khu vực giữ xe và để xe: Trong thực tế, không phải công ty bảo hiểm nào cũng quan tâm đến nhân tố này. Tuy nhiên, cũng có một số công ty bảo hiểm tính phí bảo hiểm dựa theo khu vực giữ xe và để xe rất chặt chẽ. Những xe để tại bãi đỗ xe có nguy cơ xảy ra rủi ro lớn (như gần kho chứa xăng, dầu… ) thì sẽ phải đóng phí cao hơn những xe để tại những bãi đỗ xe có điều kiện an toàn hơn. * Mục đích sử dụng xe: Đây là nhân tố rất quan trọng khi xác định phí bảo hiểm. Nó giúp công ty bảo hiểm biết được mức đọ rủi ro có thể xảy ra. Ví dụ: Xe do một người về hưu sử dụng cho mục đích đi lại đơn thuần chắc chắn sẽ đóng phí bảo hiểm thấp hơn so với xe do một thương gia sử dụng để đi lại trong những khu vực rộng lớn. Rõ ràng xe lăn bánh trên đường càng nhiều khả năng xảy ra rủi ro càng lớn. Một số công ty bảo hiểm sử dụng những nhóm truyền thống sau: - Sử dụng xe loại A dành cho mục đích xã hội, nội bộ và giải trí do đích thân người được bảo hiểm sử dụng có liên quan tới nghề nghiệp của người đó ngoại trừ sử dụng với mục đích cho thuê, vận chuyển cho mục đích thương mại hay bất cứ mục đích nào có liên quan đến kinh doanh xe cơ giới và sử dụng để đua xe, thi tài hoặc thử xe. Một số công ty bảo hiểm đồng ý giảm phí bảo hiểm nếu phạm vi bảo hiểm chỉ giành cho mục đích xã hội và nội bộ. Định nghĩa này vẫn cho phép người sở hữu đơn bảo hiểm dùng xe đi lại nơi làm việc của mình bởi vì nó được gộp cả cụm từ “xã hội, nội bộ, giải trí”. Nội dung đơn tiêu chuẩn loại A yêu cầu người được bảo hiểm phải ở trong xe khi xe được sử dụng cho mục đích công việc cho dù người được bảo hiểm không lái xe. Công việc nói trên phải là công việc của người được bảo hiểm. - Sử dụng loại xe B1 dành cho “mục đích xã hội, nội bộ, giải trí và sử dụng cho công việc của người được bảo hiểm và chủ lao động của người được bảo hiểm hay các cộng sự ngoại trừ sử dụng cho thuê, vận chuyển cho mục đích thương mại hay bất cứ mục đích nào có liên quan tới kinh doanh xe cơ giới, đua xe hoặc thử xe. Đây là loại sử dụng hoàn toàn cho công việc ngoại trừ vận chuyển cho mục đích thương mại. - Sử dụng cho loại xe B2 tương tự như loại xe B1 tuy nhiên phần loại trừ có khác biệt loại trừ sử dụng để vận chuyển hành khách, sử dụng cho thuê, hay để đua xe, thi tài hoặc thử xe. Không loại trừ vận chuyển cho mục đích thương mại. Tuy nhiên cách phân chia này khá phức tạp và khó hiểu rất khó áp dụng với thực tế mà cần phải căn cứ vào mức độ rủi ro thực tế của từng đối tượng tham gia bảo hiểm. * Tuổi tác và kinh nghiệm lái xe của người yêu cầu bảo hiểm và những người thường xuyên sử dụng chiếc xe được bảo hiểm. Số liệu thống kê cho thấy rằng các lái xe trẻ tuổi bị tai nạn nhiều hơn so với các lái xe lớn tuổi. Trong thực tế các công ty bảo hiểm thường áp dụng giảm phí bảo hiểm cho các lái xe trên 50 hoặc 55 tuổi, do kinh nghiệm cho thấy số người này gặp ít tai nạn hơn so với các lái xe trẻ tuổi. Tuy nhiên đối với các lái xe quá lớn tuổi (thường từ 65 tuổi trở lên) thường phải xuất trình giấy chứng nhận sức khỏe phù hợp để có thể lái xe thì công ty bảo hiểm mới nhận bảo hiểm Ngoài ra để khuyến khích hạn chế tai nạn, các công ty thường yêu cầu người được bảo hiểm tự chịu một phần tổn thất xảy ra với xe (hay còn gọi là mức miễn thường). Mức miễn thường này không giống nhau ở các công ty bảo hiểm. Mức miễn thường không phải lúc nào cũng căn cứ vào kinh nghiệm và người ta sẽ áp dụng một mức miễn thường bổ xung cho những lái xe thiếu kinh nghiệm (đó là những lái xe không có bằng lái xe đầy đủ, hoặc có thời hạn dưới 12 tháng). Đối với những lái xe trẻ tuổi mức miễn thường này thường cao hơn so với những lái xe có tuổi lớn hơn. Nếu một người được bảo hiểm lựa chọn một mức miễn thường tự nguyện để được giảm phí bảo hiểm, mức miễn thường đó sẽ được bổ xung thêm vào mức miễn thường áp dụng cho lái xe thiếu kinh nghiệm hoặc trẻ tuổi. * Giảm phí bảo hiểm Để khuyến khích các chủ xe có số lượng lớn tham gia bảo hiểm tại công ty mình, các công ty bảo hiểm thường áp dụng mức giảm phí so với mức phí chung theo số lượng xe tham gia bảo hiểm. Ngoài ra, hầu hết các công ty bảo hiểm còn áp dụng cơ chế giảm giá cho những người tham gia không có khiếu nại và gia tăng tỷ lệ giảm giá này cho một số năm không có khiếu nại gia tăng. Có thể nói đây là biện pháp phổ biến trong bảo hiểm xe cơ giới. Riêng đối với những xe hoạt động mang tính chất mùa vụ, tức là chỉ hoạt động một số ngày trong năm, thì chủ xe chỉ phải đóng phí cho những ngày hoạt động đó theo công thức sau: ở Việt Nam để thuận tiện cho việc tính toán thì số tháng xe hoạt động được làm tròn và phí bảo hiểm được tính như sau: - Xe hoạt động dưới 3 tháng phải đóng 30% phí cả năm - Xe hoạt động từ 3-6 tháng phải đóng 60% phí cả năm - Xe hoạt động từ 6-9 tháng phải đóng 90% phí cả năm - Xe hoạt động từ 9 tháng trở lên phải đóng 100% phí cả năm Ngoài ra đối với trường hợp xe chỉ hoạt động trong một thời gian mà chủ xe đã đóng phí cả năm thì công ty bảo hiểm sẽ hoàn lại một khoản phí nhất định, số phí được hoàn lại này cũng như là số phí được giảm đi trên mỗi đầu phương tiện tuy nhỏ, nhưng nếu doanh nghiệp có số đầu xe tham gia bảo hiểm lớn thì số tiền này rất đáng kể, hơn nữa nó còn tạo ra sự thoải mái cho khách hàng, bảo vệ quyền lợi cho người tham gia. * Biểu phí đặc biệt: Khi khách hàng có số lượng xe tham gia bảo hiểm nhiều, các công ty bảo hiểm có thể áp dụng biểu phí riêng cho từng khách hàng đó. Việc tính toán biểu phí riêng cũng tương tự như cách tính phí riêng như đã đề cập ở trên, chỉ khác là chỉ dựa trên các số liệu về bản thân khách hàng đó, cụ thể: - Số lượng xe của công ty tham gia bảo hiểm - Tình hình bồi thường tổn thất của công ty bảo hiểm cho khách hàng ở những năm trước đó. - Tỷ lệ phụ phí theo quy định của công ty Trường hợp mức phí đặc biệt thấp hơn mức phí quy định chung, công ty bảo hiểm sẽ áp dụng theo mức phí đặc biệt. Còn nếu mức phí đặc biệt tính được là cao hơn (hoặc bằng) mức phí chung, tức là tình hình tổn thất của khách hàng cao hơn (hoặc bằng) mức tổn thất bình quân chung, thì công ty bảo hiểm sẽ áp dụng mức phí chung. * Hoàn phí bảo hiểm Có những trường hợp chủ xe đã đóng phí bảo hiểm cả năm, nhưng trong năm xe không hoạt động một thời gian vì một lý do nào đó, ví dụ như ngừng hoạt động để tu sửa xe. Trong trường hợp này thông thường công ty bảo hiểm sẽ hoàn lại phí bảo hiểm của những tháng ngừng hoạt động đó cho chủ xe. Số phí hoàn lại được tính như sau: Phí hoàn lại = Phí cả năm x Mỗi công ty bảo hiểm có tỷ lệ hoàn phí là khác nhau, nhưng thông thường tỷ lệ này là 80%. Nếu chủ xe muốn hủy bỏ hợp đồng bảo hiểm khi chưa hết thời hạn hợp đồng thì thông thường công ty bảo hiểm cũng hoàn lại phí bảo hiểm cho thời gian còn lại đó theo công thức trên (nhưng với điều kiện là chủ xe chưa có lần nào được công ty bảo hiểm trả tiền bảo hiểm) sau khi đã trừ đi những chi phí quản lý cần thiết. 6. Giám định tổn thất 6.1. Nguyên tắc giám định Mục đích của công tác giám định là tìm ra nguyên nhân tổn thất và đánh giá một cách trung thực nhất mức độ của tổn thất. Kết quả của công tác giám định có tác động rất lớn tới bồi thường, do đó khi tiến hành giám định phải đảm bảo các nguyên tắc sau: - Việc giám định phải được thực hiện một cách sớm nhất sau khi nhận được thông tin tai nạn (theo quy định chung là 5 ngày). Nếu không tiến hành sớm được thì lý do của chậm chễ phải được thể hiện trong biên bản giám định. - Tiến hành giám định tất cả các thiệt hại thuộc trách nhiệm bảo hiểm - Trong trường hợp đặc biệt nếu công ty bảo hiểm không thực hiện được việc lập biên bản giám định, thì có thể căn cứ vào biên bản của cơ quan chức năng, chụp ảnh, hiện vật thu được, khai báo của chủ xe và kết quả điều tra. - Quá trình giám định phải có mặt và chữ ký xác nhận của chủ xe, lái xe bị thiệt hại hoặc người đại diện hợp pháp - Phải xác định được chính xác nguyên nhân tai nạn, mức độ thiệt hại làm cơ sở cho việc xác định trách nhiệm của bảo hiểm cũng như tính toán số tiền bồi thường. Trong quá trình giám định nếu cả hai bên không thống nhất được nguyên nhân cũng như mức độ của thiệt hại thì lúc này giám định viên trung gian sẽ được chỉ định làm công tác giám định. Khi đã có sự thống nhất của hai bên, biên bản giám định sẽ được thành lập. Nội dung của biên bản giám định phải phản ánh một cách trung thực, chính xác, rõ ràng và cụ thể về nguyên nhân cũng như mức độ của thiệt hại, có chữ ký xác nhận của các bên tham gia. 6.2. Quy trình giám định tổn thất Khi tai nạn xảy ra quy trình giám định phải tuân theo các bước sau: * Nhận thông tin Cũng như các loại đơn bảo hiểm khác, người bảo hiểm yêu cầu chủ xe (hoặc lái xe) khi xe bị tai nạn một mặt phải tìm mọi cách cứu chữa, hạn chế tổn thất, mặt khác phải nhanh chóng báo cho công ty bảo hiểm biết một số thông tin sau: - Tình hình tai nạn: số xe, chủ xe, thời gian, địa điểm xảy ra tai nạn, sơ bộ thiệt hại… - Nơi cấp giấy chứng nhận bảo hiểm, loại hình bảo hiểm tham gia, thời hạn bảo hiểm… - Tình hình giải quyết bước đầu của chủ xe và cơ quan chức năng. Chủ xe không được di chuyển, tháo dỡ hoặc sửa chữa xe khi chưa có ý kiến của công ty bảo hiểm, trừ trường hợp phải thi hành chỉ thị của cơ quan có thẩm quyền. Đồng thời cán bộ tiếp nhận thông tin phải đưa ra nhận định sơ bộ về phạm vi, trách nhiệm bảo hiểm và ghi sổ tiếp nhận tai nạn. Khảo sát giá, giám sát chi phí sửa chữa Bồi thường theo chi phí sửa chữa lại thiệt hại Thu hồi giá trị còn lại Bồi thường Xác định giá trị tổn thất thực tế Bồi thường dựa trên cơ sở đánh giá thiệt hại Hoàn chỉnh hồ sơ Thống nhất giá trị tổn thất quyết toán, nghiệm thu sửa chữa Cùng chủ xe lựa chọn phương án khắc phục Lập biên bản giám định Tiến hành giám định Hướng dẫn xử lý ban đầu Nhận thông tin Mệnh lệnh sơ bộ Bồi thường toàn bộ Sơ đồ giám định thiệt hại trong bảo hiểm vật chất xe cơ giới * Hướng dẫn xử lý ban đầu - Sau khi nhận được thông tin tuỳ từng tình hình và yêu cầu chủ xe: + Làm những việc cần thiết để hạn chế thiệt hại phát sinh + Bảo vệ hiện trường, tài sản hoặc xe + Khai báo với cơ quan chức năng để giải quyết tai nạn đúng luật - Báo cáo lãnh đạo - Lập phương án giám định - Thống nhất với lái xe, chủ xe về thời gian, địa điểm giám định. - Giám định viên có thể là người của công ty bảo hiểm, nếu không đủ khả năng hoặc có sự yêu cầu đổi giám định viên từ phía khách hàng thì có thể mời giám định viên trung gian tiến hành giám định. * Tiến hành giám định Đây là công đoạn quan trọng nhất của quá trình giám định, đòi hỏi phải thực hiện một cách cẩn trọng nhất: - Chuẩn bị các tài liệu, phương tiện cần thiết (biên bản giám định, máy ảnh…) cho công tác giám định. Thông báo cho các bên liên quan có mặt - Kiểm tra tính hợp lệ của giấy tờ bao gồm: + Giấy chứng nhận bảo hiểm + Đăng ký lái xe + Chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và môi trường + Bằng lái xe Nếu sao chụp các giấy tờ trên, giám định viên phải ký xác nhận vào bản sao. - Chụp ảnh: Phải chụp cả ảnh tổng thể và chi tiết + ảnh tổng thể phải chụp toàn bộ hiện trường tai nạn + ảnh chi tiết phải bộc lộ từng chi tiết bị thiệt hại. Phải dùng phấn, mực… để đánh dấu, khoanh vùng vị trí thiệt hại. Khi giám định những chi tiết hỏng bên trong phải chụp ảnh chi tiết tháo rời. Trường hợp thiệt hại nặng cần thiết chụp thêm số máy, số khung, năm sản xuất, hãng sản xuất. + Những vụ tai nạn có dấu hiệu do nguyên nhân kỹ thuật hay các nguyên nhân nằm trong loại trừ bảo hiểm, cần phải chụp ảnh những chi tiết có liên quan, để chứng minh nguyên nhân tai nạn. + Đưa ảnh vào hồ sơ có ngày chụp, tên người chụp, chú thích, đánh dấu xác nhận… - Ghi nhận chính xác, trung thực nguyên nhân, mức độ thiệt hại, nếu cần có thể tham khảo ý kiến của các chuyên gia liên quan đến đối tượng được giám định và các cơ quan kiểm nghiệm và xét ngiệm… - Nếu có những vấn đề đặc biệt, vượt quá khả năng thì phải thông tin, xin ý kiến chỉ đạo của lãnh đạo ngay. - Xác định mức độ thiệt hại thuộc trách nhiệm bảo hiểm. - Hướng dẫn chủ xe thực hiện các công việc tiếp theo sau khi giám định như: tiến hành cẩu kéo, bảo vệ tài sản, thu thập các giấy tờ, chứng từ có liên quan… Ngoài ra trong quá trình giám định cần phải chú ý: - Nếu thiệt hại nhẹ, nguyên nhân đơn giản rõ ràng, số lượng bộ phận hư hỏng không nhiều, bằng quan sát bên ngoài có thể đánh giá, xác định được mức độ thiệt hại thì chỉ cần lập biên bản giám định đơn giản và một lần. - Nếu tai nạn nghiêm trọng phá huỷ nhiều chi tiết, khó đánh giá đủ thiệt hại bằng quan sát thông thường thì ngoài biên bản giám định ban đầu còn phải có các biên bản giám định bổ xung phát sinh trong quá trình sửa chữa. Để không bỏ sót, biên bản giám định nên ghi chép theo trình tự hệ thống cấu tạo hoặc tổng thành. - Trường hợp hư hỏng nặng có mức độ thiệt hại lớn, có hư hỏng cho cả chi tiết nằm trong những cụm tổng thành đắt tiền như động cơ, hộp số, việc giám định bổ xung được thực hiện khi tháo rời các cụm đó và kèm theo bản đề xuất chấp nhận phương án sửa chữa - Trường hợp tai nạn có dấu hiệu từ nguyên nhân loại trừ bảo hiểm phải xuất phát từ hiện tượng, từ dấu vết hư hỏng để dự đoán lựa chọn phương án giám định, xác định nguyên nhân, từ đó có những kết luận thích hợp. Nếu cần thiết phải trưng cầu giám định chuyên môn, điều tra kỹ thuật hình sự. * Lập biên bản giám định Khi đã có những thống nhất về mức độ thiệt hại cũng như nguyên nhân xảy ra tai nạn giám định viên sẽ tiến hành lập biên bản giám định. Biên bản giám định phải nêu lên được nguyên nhân của tai nạn, mức độ thiệt hại thực tế, phần thiệt hại thuộc trách nhiệm của công ty bảo hiểm, và các thiệt hại nằm trong điều khoản loại trừ (nếu có). Các số liệu thu thập được phải phù hợp với dẫn chứng. Cuối biên bản phải có các nhận định, kết luận của giám định viên dựa trên các số liệu thu được trong quá trình giám định và có chữ ký xác nhận của các bên liên quan. Tất cả các nội dung trên phải được thể hiện một cách khách quan, trung thực, chính xác, rõ ràng và cụ thể toàn bộ diễn biến của quá trình giám định cũng như các kết quả thu được từ giám định. * Cùng chủ xe lựa chọn phương án khắc phục thiệt hại ở bước này chủ xe, lái xe sẽ cùng công ty bảo hiểm đi đến thống nhất về cách thức bồi thường thiệt hại: - Bồi thường thiệt hại dựa trên cơ sở chi phí sửa chữa lại thiệt hại: Đây là biện pháp mà công ty sẽ trả các chi phí để sửa chữa các hỏng hóc của xe bị tai nạn. Công ty hoặc chủ xe sẽ đưa xe đi sửa chữa (nếu là chủ xe thì phải có sự giám sát của công ty) nếu cần thiết thì có thể tiến hành đấu thầu sửa chữa - Xác định thiệt hại trên cơ sở đánh giá thiệt hại: Công ty sẽ nhanh chóng xác định giá trị thiệt hại thực tế của xe và tiến hành bồi thường theo giá trị thiệt hại. Biện pháp này chỉ áp dụng khi chi tiết bị hỏng không hoặc hiếm có thiết bị thay thế, hoặc trong trường hợp cần phải giải quyết gấp. -Tổn thất toàn bộ và xử lý tài sản thu hồi: Trường hợp này chủ xe sẽ nhận được tiền bồi thường theo giá trị bảo hiểm tham gia, Công ty sẽ tiến hành thu hồi và xử lý tài sản thu hồi. * Hoàn chỉnh hồ sơ bồi thường Khi yêu cầu cơ quan bảo hiểm bồi thường thiệt hại vật chất xe, chủ xe phải cung cấp những tài liệu chứng từ sau: - Tờ khai tai nạn của chủ xe - Bản sao của giấy chứng nhận bảo hiểm, giấy chứng nhận đăng ký xe, giấy kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường phương tiện cơ giới đường bộ, giấy phép lái xe - Kết luận điều tra của cơ quan công an hoặc bản sao bộ hồ sơ tai nạn gồm: + Biên bản khám nghiệm hiện trường + Biên bản khám nghiệm xe liên quan đến tai nạn + Biên bản giải quyết tai nạn - Biên bản hoặc quyết định của toà án trong trường hợp có tranh chấp tại toà án - Các biên bản tài liệu xác định trách nhiệm của người thứ ba - Các chứng từ xác định thiệt hại do tai nạn, ví dụ: chứng từ xác định chi phí sửa chữa xe, thuê cẩu kéo… Sau đó cán bộ bồi thường có trách nhiệm vào sổ theo dõi bồi thường Tóm lại, toàn bộ quy trình giám định là các bước độc lập với nhau, nhưng có quan hệ chặt chẽ với nhau tạo nên một chỉnh thể thống nhất. Nó có ảnh hưởng trực tiếp tới công tác bồi thường tổn thất được diễn ra ngay sau đó. Có thể nói, công tác giám định là bước đệm quan trọng tạo đà cho công tác bồi thường tổn thất được nhanh chóng và chính xác. 7. Công tác bồi thường 7.1. Nguyên tắc bồi thường Khi tiến hành bồi thường các công ty bảo hiểm phải tuân theo các nguyên tắc sau: - Giải quyết đúng chế độ bảo hiểm + Đúng trách nhiệm bảo hiểm: về đối tượng bảo hiểm, rủi ro nhận bảo hiểm. + Đúng thiệt hại thuộc phạm vi, trách nhiệm bảo hiểm + Trả tiền đúng đối tượng - Đủ căn cứ pháp lý chứng minh được: + Đối tượng được bảo hiểm đã gặp rủi ro nhận bảo hiểm khi hợp đồng bảo hiểm đang có hiệu lực. + Thiệt hại thuộc phạm vi nhận bảo hiểm. + Không vi phạm những điểm loại trừ - Thuận lợi, kịp thời: + Thuận lợi, chặt chẽ nhưng không phức tạp có thể thực hiện được. Có các phương án thay thế khi cần. Về cụ thể số tiền bồi thường sẽ được tính toán như sau: * Trường hợp xe tham gia bằng hoặc dưới giá trị thực tế Số tiền bồi thường = Thiệt hại thực tế *Trường hợp xe tham gia trên giá trị thực tế Theo nguyên tắc công ty bảo hiểm không chấp nhận trường hợp bảo hiểm trên giá trị thực tế đế tránh tình trạng trục lợi bảo hiểm. Nhưng nếu vì nguyên nhân nào đó từ phía người tham gia dù vô tình hay cố ý, thì khi tổn thất xảy ra công ty bảo hiểm cũng chỉ bồi thường bằng thiệt hại thực tế của xe. Ví dụ: Xe Matiz trị giá 250 triệu đồng, nhưng chủ xe tham gia bảo hiểm với số tiền bảo hiểm 300 triệu đồng. Giả sử tổn thất bộ phận 50 triệu, khi đó công ty bảo hiểm sẽ bồi thường 50 triệu đồng. Nếu xảy ra tổn thất toàn bộ công ty bảo hiểm chỉ bồi thường 250 triệu đồng. Nhưng bên cạnh đó công ty bảo hiểm cũng chấp nhận bảo hiểm trên giá trị thực tế. Theo đó chủ xe có thể tham gia bảo hiểm với số tiền bảo hiểm lớn hơn giá trị thực tế của xe. Khi tổn thất toàn bộ xảy ra công ty bảo hiểm sẽ bồi thường bằng đúng số tiền bảo hiểm. Tức là theo như ví dụ trên khi tổn thất toàn bộ chủ xe sẽ nhận được số tiền là 300 triệu đồng. Tuy nhiên, chủ xe phải đóng phí bảo hiểm khá cao, theo các điều kiện bảo hiểm khá nghiêm ngặt. * Trường hợp tổn thất bộ phận Về cơ bản khi tổn thất bộ phận xảy ra, công ty bảo hiểm cũng bồi thường theo hai nguyên tắc trên. Tuy nhiên các công ty bảo hiểm thường giới hạn mức bồi thường đối với tổn thất bộ phận bằng tỷ lệ giá trị tổng thành xe. Ví dụ: Xe Toyoto Corona tham gia bảo hiểm toàn bộ theo giá trị thực tế là 350 triệu đồng Trong đó: + Tổng thành thân vỏ : 53,5% 350 = 187,25 (triệu) + Động cơ : 15,5% 350 = 54,25 (triệu) Thiệt hại: + Thân vỏ : 150 (triệu) + Động cơ : 60 (triệu) Khi đó số tiền bồi thường sẽ là: + Thân vỏ : 150 (triệu) + Động cơ : 54,25 ( triệu) * Trường hợp tổn thất toàn bộ Xe được coi là tổn thất toàn bộ khi bị mất cắp, mất tích hoặc xe bị thiệt hại nặng đến mức không thể sửa chữa phục hồi để đảm bảo lưu hành an toàn, hoặc chi phí phục hồi bằng hoặc lớn hơn giá trị thực tế của xe. Nếu tổn thất toàn bộ, chủ xe sẽ được bồi thường theo giá trị ghi trên đơn bảo hiểm nếu tham gia bảo hiểm bằng hoặc nhỏ hơn giá trị thực tế, hoặc được bồi thường theo giá trị thực tế nếu tham gia bảo hiểm trên giá trị. Nếu xe tham gia bảo hiểm nhỏ hơn hoặc bằng giá trị thực tế của xe Số tiền bồi thường = Số tiền bảo hiểm – (khấu hao + tận thu (nếu có)) Ví dụ: Ngày 1.1.2002 xe tham gia bảo hiểm với số tiền bảo hiểm 400 triệu, khấu hao 5 năm. Ngày 25.12.2002 xe bị tai nạn hư hỏng toàn bộ. Giá trị tận thu là 25 triệu. Số tiền bồi thường là STBT = STBH - (khấu hao + tận thu) = 400 - (5% 400 1 + 25) = 355 (triệu) Các công ty bảo hiểm cũng quy định khi giá trị thiệt hại so với giá trị thực tế của xe bằng hoặc lớn hơn một tỷ lệ nhất định nào đó thì được xem là tổn thất toàn bộ ước tính. Tuy nhiên lại giới hạn bởi bảng tỷ lệ cấu thành xe. Ví dụ: Xe Zace tham gia bảo hiểm với số tiền bảo hiểm 400 triệu đồng (bảo hiểm toàn bộ) tại công ty bảo hiểm X . Theo quy định của công ty bảo hiểm X, xe chỉ được coi là tổn thất toàn bộ ước tính khi giá trị thiệt hại bằng hoặc lớn hơn 80% giá trị thực tế của xe tính theo bảng tỷ lệ cấu thành xe. Trong thời hạn bảo hiểm xe bị tai nạn thuộc phạm vi bảo hiểm, giá trị thiệt hại tính theo chi phí sửa chữa là: Thân vỏ thiệt hại 100% chi phí sửa chữa: 350 Triệu đồng Động cơ thiệt hại 100% chi phí sửa chữa: 100 Triệu đồng Hộp số thiệt hại 100% chi phí sửa chữa: 75 Triệu đồng Tổng giá trị thiệt hại: 345 Triệu đồng Giá trị thiệt hại như trên lớn hơn 80% giá trị thực tế của xe (345 Trđ/400 Trđ = 0,8625). Nhưng căn cứ vào bảng tỷ lệ tổng thành giá trị thì thiệt hại thuộc trách nhiệm của công ty bảo hiểm X là: Thân vỏ: 53,5% * 100% = 53,5% Động cơ: 15,5% * 100% =15,5% Hộp số: 7,0% * 100% = 7,0% Tổng cộng = 76% (0,76 < 0,8625) Trường hợp này không được coi là tổn thất toàn bộ ước tính, mà chỉ giải quyết bồi thường theo tổn thất bộ phận. Ngoài ra, khi tính toán số tiền bồi thường còn phải tuân theo những nguyên tắc sau: - Những bộ phận thay thế mới, khi bồi thường phải trừ khấu hao đã sử dụng hoặc chỉ tính giá trị tương đương với giá trị của bộ phân được thay thế ngay trước lúc xảy ra tai nạn. Nếu tổn thất xảy ra trước ngày 16 của tháng, thì tháng đó không phải tính khấu hao. Còn nếu tổn thất xảy ra từ ngày 16 trở đi thì phải tính khấu hao của tháng đó. - Công ty bảo hiểm sẽ thu hồi những bộ phận được thay thế hoặc đã được bồi thường toàn bộ giá trị. * Bảo hiểm trùng: Có những trường hợp chủ xe tham gia bảo hiểm vật chất xe theo một hay nhiều đơn bảo hiểm. Theo nguyên tắc hoạt động của bảo hiểm, tổng số tiền chủ xe nhận được từ tất cả các đơn bảo hiểm chỉ đúng bằng thiệt hại thực tế. Thông thường, các công ty bảo hiểm giới hạn trách nhiệm bồi thường của mình theo tỷ lệ giữa số tiền bảo hiểm ghi trong giấy chứng nhận bảo hiểm của công ty mình so với tổng số tiền bảo hiểm ghi trong tất cả các đơn bảo hiểm. 7.2. Quy trình bồi thường Về cơ bản trình tự bồi thường tuân theo các bước chính sau: Báo cáo trên phân cấp Đóng góp ý kiến Đòi người thứ ba Trả tiền Thông báo bồi thường Lãnh đạo công ty xét duyệt Phòng nghiệp vụ xem xét hoặc duyệt Tính toán, lập tờ trình bồi thường Phân loại, kiểm tra và hoàn thiện hồ sơ Tiếp nhận hồ sơ QUY TRìNH BồI THường BảO HIểM vật chất XE CƠ GiớI 1. Tiếp nhận hồ sơ khiếu nại bồi thường Cán bộ bồi thường sau khi nhận được hồ sơ khiếu nại bồi thường của chủ xe do giám định viên chuyển đến cần kiểm tra sơ bộ các chứng từ của hồ sơ và vào sổ khiếu nại. 2. Phân loại, kiểm tra và hoàn thiện hồ sơ Căn cứ vào loại hình tham gia bảo hiểm, quy tắc và hợp đồng bảo hiểm cán bộ bồi thường kiểm tra lại toàn bộ các tài liệu của hồ sơ khiếu nại. Trường hợp chưa đủ tài liệu chứng minh tổn thất, cán bộ bồi thường yêu cầu giám định viên cung cấp thêm những số liệu cần thiết theo đúng quy định trong quy tắc bảo hiểm hiện hành 3. Tính toán, lập tờ trình bồi thường Là quy định theo đó cán bộ bồi thường hoặc lãnh đạo phòng sẽ: Nghiên cứu kỹ hướng dẫn bồi thường để tính toán đúng đủ, chính xác số tiền bồi thường. Trên cơ sở có đủ hồ sơ và tài liệu, chứng tư chứng minh thiệt hại và nguyên nhân tai nạn, cán bộ bồi thường sẽ tiến hành tính toán số tiền bồi thường - Trong trường hợp giám định viên đã tính toán tổn thất thì cán bộ bồi thường xem xét, kiểm tra lại những khoản mục nào tính toán chưa đúng, loại trừ. - Xem xét, kiểm tra phương án khắc phục, các bản đề xuất về phương án giải quyết, sửa chữa xe bị tai nạn, giải quyết hàng hoá hư hỏng 4. Trình duyệt bồi thường Phòng nghiệp vụ trình lãnh đạo duyệt bồi thường bao gồm các nội dung sau: Tên người được bảo hiểm Đối tượng được bảo hiểm Đơn bảo hiểm, thời hạn bảo hiểm, số tiền bảo hiểm. Ngày thanh toán phí Tóm tắt sự kiện bảo hiểm ý kiến phòng nghiệp vụ Sau đó hồ sơ bồi thường sẽ được chuyển qua lấy ý kiến của các phòng có liên quan. Trường hợp có ý kiến trái ngược, các phòng cần xem xét lại để có ý kiến thống nhất trước khi trình lãnh đạo công ty duyệt 5. Thông báo bồi thường Hồ sơ bồi thường được lãnh đạo công ty duyệt, phòng nghiệp vụ sẽ gửi thư thông báo bồi thường cho khách hàng. Sau đó, phòng kế toán sẽ làm thủ tục trả tiền cho khách hàng theo đúng quy định. 6. Đòi người thư ba, xử lý tài sản bị hư hỏng Nếu tổn thất có liên quan đến lỗi của người thứ ba, phòng nghiệp vụ sẽ làm thủ tục thế quyền người được bỏ hiểm, sau đó lập hồ sơ đời người thứ ba và theo dõi giải quyết tiếp III. Trách nhiệm và quyền lợi của các bên tham gia bảo hiểm vật chất xe cơ giới 1. Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp bảo hiểm 1.1. Doanh nghiệp bảo hiểm có quyền Thu phí bảo hiểm theo thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm Yêu cầu bên mua bảo hiểm cung cấp đầy đủ, trung thực những thông tin liên quan đến chiếc xe được bảo hiểm. Đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm khi chủ xe vi phạm những điều sau: + Cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm để được trả tiền bảo hiểm hoặc được bồi thường + Trường hợp phát sinh thêm các nguy cơ làm tăng thêm rủi ro cho đối tượng được bảo hiểm nhưng chủ xe không thông báo cho cơ quan bảo hiểm. Hoặc chủ xe có thông báo nhưng không chất nhận mức tăng phí của công ty bảo hiểm + Không thực hiện các biện pháp bảo đảm an toàn cho đối tượng được bảo hiểm kể cả khi công ty đã gia thêm hạn để chủ xe thực hiện Từ chối trả tiền bảo hiểm cho chủ xe trong trường hợp tổn thất xảy ra không thuộc phạm vi bảo hiểm hoặc nằm trong điều khoản loại trừ. Yêu cầu bên mua bảo hiểm áp dụng các biện pháp đề phòng, hạn chế tổn thất theo quy định của luật bảo hiểm và các quy định khác của pháp luật có liên quan Yêu cầu người thứ ba bồi hoàn số tiền bảo hiểm mà doanh nghiệp bảo hiểm đã bồi thường cho chủ xe do lỗi của người thứ ba. Các quyền khác theo quy định của pháp luật. 1.2. Doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ - Giải thích cho bên mua bảo hiểm các điều kiện điều khoản bảo hiểm, quyền và nghĩa vụ của bên mua bảo hiểm. - Cấp cho bên mua bảo hiểm giấy chứng nhận bảo hiểm, đơn bảo hiểm ngay sau khi giao kết hợp đồng bảo hiểm. - Bồi thường cho chủ xe khi xảy ra sự kiện bảo hiểm - Giải thích bằng văn bản cho chủ xe lý do từ chối bồi thường. - Phối hợp với bên mua bảo hiểm để giải quyết yêu cầu của người thứ ba đòi bồi thường về những thiệt hại thuộc trách nhiệm bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. - Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật. 2. Quyền và nghĩa vụ của bên mua bảo hiểm 2.1. Bên mua bảo hiểm có quyền - Lựa chọn doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động tại Việt Nam để mua bảo hiểm - Yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm giải thích rõ ràng các điều kiện, điều khoản bảo hiểm, cấp giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc đơn bảo hiểm. - Đơn phương đình chỉ hợp đồng khi doanh nghiệp bảo hiểm vi phạm những điều sau: + Doanh nghiệp bảo hiểm cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng + Doanh nghiệp bảo hiểm không thực hiện giảm phí khi chủ xe cung cấp những thông tin về giảm mức độ rủi ro của xe + Yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường khi có tổn thất xảy ra thuộc phạm vi bảo hiểm. + Chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm theo thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm theo quy định của pháp luật + Các quyền khác theo quy định của pháp luật. 2.2. Bên mua bảo hiểm có nghĩa vụ - Đóng phí bảo hiểm đầy đủ, đúng thời hạn. - Kê khai đầy đủ, trung thực mọi chi tiết có liên quan đến hợp đồng bảo hiểm theo yêu cầu của doanh nghiệp bảo hiểm. - Thông báo các trường hợp có thể làm tăng rủi ro xảy ra tổn thất đối với đối tượng được bảo hiểm. - áp dụng các biện pháp đề phòng, hạn chế tổn thất theo quy định của Luật bảo hiểm và các luật khác có liên quan. - Khi có tổn thất xảy ra phải báo ngay cho doanh nghiệp bảo hiểm. - Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật. Chương II THựC TRạNG CÔNG TáC XáC ĐịNH PHí Và BồI THƯờng tổn thất trong bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại công ty PJICO I. Giới thiệu khái quát về PJICO 1. Sự ra đời và phát triển Xuất phát từ chủ trương phát triển kinh tế đa thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, mà nổi bật là chủ trương cổ phần hoá và phát triển các công ty cổ phần theo Luật công ty năm 1990. Vì thề từ sau năm 1994 một loạt các công ty cổ phần bảo hiểm đã ra đời. Sự ra đời của các công ty bảo hiểm đó đã làm sôi động thêm thị trường bảo hiểm Việt Nam, vốn trước đây chỉ có một mình Bảo Việt hoạt động trong lĩnh vực phi nhân thọ. Hoà theo sự phát triển đó, năm 1995 Công ty cổ phần bảo hiểm Ptrolimex, tên giao dịch là PJICO (Ptrolimex Joint- Stock Insuarance Company) đã chính thức đi vào hoạt động. Công ty được thành lập theo giấy chứng nhận đủ tiêu chuẩn và điều kiện kinh doanh bảo hiểm số 06- TC/GCN ngày 27/5/1995 của Bộ Tài chính, giấy phép thành lập số 1873 GP- UB ngày 8/6/1995 của UBND thành phố Hà Nội và giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 060256 ngày 15/6/1995 của Uỷ ban kế hoạch (hiện là Sở kế hoạch đầu tư) Thành phồ Hà Nội. Công ty có trụ sở chính tại 22 Láng Hạ- Hà Nội. Tổng số vốn đầu tư ban đầu của công ty là 31 tỷ VNĐ. PJICO có 8 cổ đông lớn trong đó có 7 thành viên sáng lập và 1 thành viên tham gia, những công ty này đã có những đóng góp rất tích cực góp phần đưa hoạt động của Công ty ngày càng hiệu quả. PJICO là công ty cổ phần trách nhiệm hữu hạn thuộc sở hữu của các cổ đông, có tư cách pháp nhân, tự chủ về mặt tài chính, hạch toán độc lập. Công ty có thời hạn hoạt động là 25 năm, kể từ ngày được cấp giấp phép thành lập hoạt động, hết thời hạn trên nếu tiếp tục kinh doanh thì có thể xin gia hạn. Bảng 4: Danh sách sáng lập viên và số vốn góp Công ty Tỷ lệ vốn góp Vốn góp (Triệu đồng) 1. Tổng công ty xăng dầu Việt Nam (Petrolimex) 51% 28.050 2. Ngân hàng ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) 10% 5.500 3. Tổng công ty thép Việt Nam (VSC) 6% 3.300 4. Công ty tái bảo hiểm quốc gia (Vinare) 8% 4.400 5. Công ty vật tư và thiết bị toàn bộ (Matexim) 3% 1.650 6. Công ty điện tử Nà Nội (Hanel) 2% 1.100 7. Công ty thiết bị an toàn (AT Co.,Ltđ) 0,5% 275 Nguồn: “Báo cáo tổng kết 5 năm hoạt động của PJICO” 2. Cơ cấu tổ chức của công ty PJICO PJICO là công ty cổ phần, do đó nó có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, phân cấp quản lý từ trên xuống dưới. + Đại hội cổ đông: Đây là cơ quan có quyền lực cao nhất của PJICO bao gồm: Đại hội đồng thành lập Đại hội đồng thường niên Đại hội đồng bất thường + Hội đồng quản trị: là cơ quan quản lý PJICO, do đại hội cổ đông bầu ra và thay mặt cổ đông giữa hai kỳ đại hội, có toàn quyền nhân danh PJICO để quyết định các vấn đề liên quan đến mục đích, quyền lợi của PJICO trừ những vấn đề thuộc thẩm quyền của đại hội cổ đông. sơ đồ tổ chức bộ máy hoạt động công ty PJICO Đại hội cổ đông Tổng giám đốc Phó Tổng giám đốc Phó Tổng giám đốc Hội đồng quản trị Phòng tài sản hoả hoạn Phòng phi hàng hải Chi nhánh Nghệ An Phòng bảo hiểm Thanh Hoá Văn phòng bảo hiểm KVI Văn phòng bảo hiểm KV II Chi nhánh Hải Phòng Chi nhánh Quảng Ninh Phòng Tổng hợp Phòng quản lý nghiệp vụ Phòng bảo hiểm Quảng Nam Chi nhánh Đà Nẵng Chi nhánh Huế Phòng bảo hiểm Hàng hải Phòng tái bảo hiểm Chi nhánh Khánh Hoà Văn phòng bảo hiểm KV III Văn phòng bảo hiểm KV IV Văn phòng bảo hiểm KV V Văn phòng bảo hiểm KV VI Văn phòng bảo hiểm KV VII Phòng đầu tư Tín dụng Phòng kế toán Chi nhánh Quảng Bình Phòng BH Hà Tĩnh Ban thanh tra pháp chế Phòng tổ Chức cán bộ Phòng BH Cà Mau Phòng BH An Giang Phòng BH Kiên Giang Chi nhánh Cần Thơ Chi nhánh Sài Gòn Tổng đại lý, đại lý Bảo hiểm + Tổng giám đốc: Do hội đồng quản trị bổ nhiệm và được uỷ nhiệm đầy đủ quyền hạn cần thiết để quản lý và điều hành kinh doanh. Tổng giám đốc PJICO, là người tốt nghiệp đại học Tài chính, Kinh tế hoặc tương đương, có kiến thức kinh nghiệm quản lý kinh doanh bảo hiểm và không được kiêm nhiệm bất kỳ chức vụ nào tại bất kỳ cơ quan, đơn vị kinh tế nào. + Phó tổng giám đốc, kế toán trưởng sẽ giúp việc cho Tổng giám đốc. Trong sơ đồ cho thấy giám đốc trực tiếp điều hành quản lý các phòng: - Phòng kế toán - Phòng tổ chức cán bộ - Phòng đầu tư tín dụng và thị trường chứng khoán - Ban thanh tra pháp chế Ngoài ra Tổng giám đốc còn quản lý các chi nhánh, văn phòng đại diện tại các khu vực một cách gián tiếp thông qua Phó giám đốc. + Hệ thống các phòng ban tại công ty PJICO - Phòng kế toán: Làm nhiệm vụ thanh quyết toán các hợp đồng, quản lý hợp đồng, quản lý phí bảo hiểm, chi trả tiền bồi thường tổng hợp bồi thường, tổng hợp số liệu lập các báo cáo tài chính, thực hiện nghĩa vụ nộp thuế với Nhà nước - Phòng tổ chức cán bộ: Có chức năng quản lý nhân sự trong Công ty, quản lý lao động, tiền lương, điều động cán bộ, tuyển cán bộ nhân viên cho Công ty. - Phòng đầu tư tín dụng và thị trường chứng khoán: Có nhiệm vụ nghiên cứu thị trường, liên doanh ký kết, thực hiện các dự án đầu tư… - Ban thanh tra pháp chế: Thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu các văn bản pháp quy của Nhà nước liên quan tới hoạt động bảo hiểm, kiểm tra tính chất pháp lý của các hợp đồng bảo hiểm cũng như hồ sơ bồi thường. Ban thanh tra còn kiểm tra các đơn vị trong việc thực hiện ký kết hợp đồng bảo hiểm và thủ tục thực hiện bồi thường. - Phòng tổng hợp: Có chức năng hành chính quản trị và quản lý tài sản của Công ty. Phòng tổng hợp chịu trách nhiệm mua sắm trang thiết bị tài sản, thiết bị văn phòng cho Công ty, in ấn tờ rơi tuyên truyền quảng cáo, tổ chức phục vụ các cuộc họp hội nghị. Phòng tổng hợp còn có nhiệm vụ văn thư, nhận và gửi các công văn. - Phòng bảo hiểm Hàng hải: Phòng có nhiệm vụ khai thác các dịch vụ bảo hiểm về xuất nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ bảo hiểm thân tàu, bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ tàu, bảo hiểm nhà thầu đóng tàu, bảo hiểm tàu sông, tàu cá. - Phòng bảo hiểm Phi hàng hải: Thực hiện việc khai thác các nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới, bảo hiểm kết hợp con người, bảo hiểm học sinh, giáo viên, bảo hiểm bồi thường cho người lao động, bảo hiểm hành khách, khách du lịch. - Phòng bảo hiểm Tài sản hoả hoạn: Làm nhiệm vụ khai thác các nghiệp vụ bảo hiểm rủi ro về xây dựng và lắp đặt, bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt, bảo hiểm mọi rủi ro công nghiệp, bảo hiểm máy móc, bảo hiểm hỗn hợp tài sản cho thuê mướn. - Phòng Tái bảo hiểm: Thực hiện nhiệm vụ nhận và nhượng tái bảo hiểm các nghiệp vụ bảo hiểm. - Phòng Giám định bồi thường: Có nhiệm vụ thực hiện giám định các tổn thất được bảo hiểm, đánh giá, xác định thiệt hại, tổn thất từ đó quyết định mức bồi thường. - Phòng Quản lý nghiệp vụ và thị trường: Quản lý tất cả các hoạt động của các nghiệp vụ bảo hiểm hiện có của Công ty, hướng dẫn và chỉ đạo các đơn vị thực hiện. Phòng còn có nhiệm vụ tìm hiểu và nghiên cứu những nghiệp vụ bảo hiểm mới. Các phòng nghiệp vụ của công ty phụ trách việc triển khai các nghiệp vụ bảo hiểm thuộc quyền quản lý của mình trên một mạng lưới chi nhánh, văn phòng bảo hiểm, đại lý, công tác viên trên khắp toàn quốc bao gồm 11 chi nhánh và 24 phòng ở các tỉnh thành, riêng trên địa bàn Hà Nội đã có 7 văn phòng khu vực. 3. Các nghiệp vụ bảo hiểm công ty PJICO triển khai - Nghiệp vụ bảo hiểm hàng hải + Bảo hiểm hàng hoá vận chuyển bằng đường biển, đường bộ, đường sông, đường hàng không. + Bảo hiểm thân tàu + Bảo hiểm TNDS của chủ tàu + Bảo hiểm nhà thầu đóng tàu + Bảo hiểm tàu sông tàu cá - Nghiệp vụ bảo hiểm phi hàng hải + Bảo hiểm xe cơ giới + Bảo hiểm kết hợp con người + Bảo hiểm học sinh, giáo viên + Bảo hiểm bồi thường cho người lao động + Bảo hiểm khách du lịch + Bảo hiểm hành khách - Nghiệp vụ bảo hiểm kỹ thuật và tài sản + Bảo hiểm mọi rủi ro về xây dựng lắp đặt + Bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt + Bảo hiểm mọi rủi ro công nghiệp + Bảo hiểm máy móc + Bảo hiểm trách nhiệm + Bảo hiểm hỗn hợp tài sản cho thuê mướn - Nghiệp vụ tái bảo hiểm + Nhận và nhượng tái bảo hiểm các nghiệp vụ bảo hiểm - Các hoạt động khác + Thực hiện các nghiệp vụ liên quan tới bảo hiểm như: Giám định, điều tra, tính toán phân bổ tổn thất, đại lý giám định, xác định giải quyết bồi thường và đòi người thứ ba. + Hợp tác đầu tư tín dụng liên doanh liên kết với các bạn hàng trong và ngoài nước. 4. Các hoạt động kinh doanh của công ty 4.1. Kinh doanh bảo hiểm Kinh doanh bảo hiểm là nội dung hoạt động chủ đạo của Công ty PJICO. Những năm đầu mới thành lập hầu như Công ty chỉ tiến hành bảo hiểm cho khách hàng trong cổ đông, đến nay 70% doanh thu của công ty là từ khách hàng ngoài cổ đông. Công ty triển khai các nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ, cung cấp các sản phẩm bảo hiểm đến những khách hàng có nhu cầu tham gia với mục tiêu giúp khách hàng có thể nhanh chóng ổn định tình hình tài chính nếu rủi ro xảy ra, tránh những xáo trộn lớn trong cuộc sống hàng ngày, thông qua đó góp phần ổn định tình hình xã hội, ngoài ra còn đem lại doanh thu cho doanh nghiệp. Trên cơ sở nguồn vốn nhàn rỗi này doanh nghiệp mới có thể tiến hành các hoạt động đầu tư, thu nhập từ hoạt động này mực đích là để duy trì tính ổn định trong kinh doanh của Công ty, đảm bảo khả năng chi trả, hơn thế nữa nó còn là nhân tố làm giảm mức phải đóng góp của khách hàng. Là Công ty cổ phần đầu tiên trong lĩnh vực bảo hiểm, PJICO trải qua không ít những khó khăn của những ngày đầu hoạt động, khi mà các điều kiện cơ chế pháp luật còn chưa đầy đủ, khách hàng còn ít lòng tin. Tuy nhiên với sự chỉ đạo sáng suốt của hội đồng quản trị, của các cơ quan ban ngành liên quan, sự ủng hộ, hợp tác giúp đỡ nhiệt tình của các cổ đông sáng lập, các khách hàng và đặc biệt là sự nỗ lực phấn đấu của toàn thể cán bộ nhân viên, Công ty đã từng bước phát triển, tạo được chỗ đứng trên thị ttrường bảo hiểm Việt Nam. Bảng 5: Doanh thu phí bảo hiểm gốc Chỉ tiêu Đơn vị 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 1. Doanh thu phí bảo hiểm gốc Triệu đồng 14.108 52.230 80.279 96.353 97.276 123.655 146.538 175.800 2. Tốc độ tăng Lần - 3,70 1,53 1,20 1,01 1,27 1,18 1,2 Nguồn: “Báo cáo tổng hợp về bảo hiểm gốc” Qua bảng số liệu cho thấy: Năm 1995, do Công ty mới đi vào hoạt động, lượng khách hàng không nhiều chủ yếu là từ cổ đông, vì thế doanh thu năm này chỉ đạt mức 14.108 triệu đồng. Nhưng đến năm 1996 doanh thu bảo hiểm gốc tăng 3,7 lần tức đạt 52.230 triệu đồng, điều đó chứng tỏ tuy mới đi vào hoạt động nhưng PJICO đã thích ứng khá nhanh, tạo được ấn tượng tốt, niềm tin ở khách hàng. Từ năm 1997 hoạt động của Công ty đã đi vào ổn định, doanh thu tăng đều đặn qua các năm (với tốc độ tăng bình quân 1,286) từ 1997 đến 2001 tương ứng là 80.297 triệu đồng, 97.276 triệu đồng, 123.655 triệu đồng, 146.538 triệu đồng và gần đây nhất là năm 2002 với mức doanh thu đạt 175.800 triệu đồng, tăng 1,2 lần so với năm 2001. Có thể coi đây là một kết quả rất đáng khích lệ đối với một công ty bảo hiểm còn non trẻ, ít kinh nghiệm hoạt động, đặc biệt lại là một công ty cổ phần bảo hiểm- một hình thức sở hữu mới mẻ trong lĩnh vực này. Cần phải nói thêm là tuy PJICO là Công ty bảo hiểm đầu tiên ra đời dưới hình thức sở hữu cổ phần, nhưng Công ty cũng không nhận được những ưu đãi nào từ phía Nhà nước như đối với các công ty Nhà nước thực hiện cổ phần hoá như: miễn thuế trong một thời gian hoạt động nhất định, cho vay vốn với lãi suất ưu đãi, giảm thuế nhập khẩu máy móc dây truyền công nghệ, nguyên vật liệu…. đó là những khó khăn thiệt thòi lớn, từ đó càng khẳng định những cố gắng nỗ lực của toàn Công ty trong thành công bước đầu này. Song song với tăng trưởng doanh thu phí bảo hiểm, thị phần của Công ty cũng không ngừng phát triển. Bảng 6: Thị phần của các công ty bảo hiểm hoạt động tại Việt Nam Đơn vị: (%) Stt Tên Cty 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 1 Bảo Việt 82,92 69,09 63,45 60,90 56,76 50,90 44,6 35,78 2 BảoMinh 15,54 20,28 21,15 22,28 24,53 25,10 26,71 34,04 3 PJICO - 4,08 5,89 5,80 5,87 6,04 6,22 6,18 4 PVIC - 4,96 6,64 6,76 4,80 5,36 8,28 10,47 5 BảoLong 1,44 1,59 1,77 1,28 1,52 1,40 1,24 1,57 6 VIA - - 1,10 1,09 1,69 2,40 1,57 1,28 7 UIC - - - 1,62 1,94 2,40 2,55 1,92 8 PTI - - - 0,27 2,80 4,00 4,39 3,61 9 BIDV- QBE - - - - 0,09 0,40 0,65 0,68 10 Allian-AGF - - - - - 2,0 3,79 4,47 Nguồn: “báo cáo hoạt động của Vinare” Năm 1995 thị trường bảo hiểm Việt Nam chính thức chỉ có ba công ty là Bảo Việt, Bảo Minh và Bảo Long chia nhau nắm giữ toàn bộ 100% thị trường trong nước, trong đó nổi lên là Bảo Việt với thị phần xấp xỉ 83%. Các năm tiếp theo cùng với sự ra đời của một số công ty bảo hiểm mới là PJICO, PVIC… lúc này thị phần của PJICO sau hơn một năm hoạt động đã đạt được 4,08%. Các năm tiếp theo thị phần của công ty không ngừng tăng, đặc biệt là hai năm 1997 đạt 5,89%, năm 2000 đạt 6,04%. Tuy nhiên cũng phải kể đến những đối thủ cạnh tranh của PJICO như Bảo Minh, thị phần của công ty bảo hiểm này tăng rất đều qua 7 năm (1995-2001) và đạt mức khá cao, năm 2002 (34,04%). Allian-AGF tập đoàn bảo hiểm của Đức tuy mới được phép hoạt động ở Việt Nam từ năm 1999, lại là một công ty nước ngoài không quen thuộc lắm với thị trường Châu á nhưng họ cũng có những kết quả khá nổi trội đạt 2,0% vào năm 2000 và 3,79% vào năm 2001 và năm 2002 là 4,47%. Năm 2001 thị phần của PJICO là 6,22% và năm 2002 là 6,18%. Mức tăng đều đặn thị phần qua các năm của PJICO tuy không cao, nhưng với sự giảm dần thị phần của Bảo Việt (mỗi năm Bảo Việt giảm gần 5% thị phần) các công ty bảo hiểm nói chung và PJICO nói riêng đang đứng trước cơ hội mở rộng quy mô hoạt động của mình. Song song với việc mở rộng mạng lưới kinh doanh, Công ty luôn tăng cường sự hợp tác với các công ty bảo hiểm bạn thông qua các dịch vụ đồng bảo hiểm với Bảo Việt, Bảo Minh, Bảo Long, UIC… và mở rộng hợp tác giúp đỡ với các công ty tái bảo hiểm trong và ngoài nước như Vinare, MunichRe, CollogeRe, SwissRe, HartforRe, West of England, Lloyd’s… Đến nay Công ty đã chính thức gia nhập Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam. Thông qua các mối quan hệ này Công ty đã tăng khả năng nhận bảo hiểm cho các khách hàng lớn, nhiều công trình có giá trị từ 1000-2000 tỷ đồng vẫn được khách hàng tham gia bảo hiểm với PJICO điển hình là: - Trung tâm thương mại DEAHA với giá trị bảo hiểm là 125 triệuUSD - Trung tâm thương mại quốc tế HITC có giá trị bảo hiểm là 100 triệuUSD - POSCONAMA cũng tham gia bảo hiểm của PJICO với giá trị là 67 triệu USD - Một phần khu công nghiệp đèn hình HANEL bảo hiểm với giá trị là 165 triệu USD Ngoài ra còn có: Nhà máy thuỷ điện sông Hinh, đường dây tải điện Hàm Thuận- Đa My, đường quốc lộ 1, đường quốc lộ 5… Hơn thế nữa, qua các mối quan hệ với các công ty bảo hiểm, tái bảo hiểm giàu kinh nghiệm trong nước và thế giới, công ty sẽ học hỏi được kinh nghiệm, tranh thủ được hỗ trợ đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ. 4.2. Hoạt động đầu tư 4.2.1. Vai trò và nguyên tắc đầu tư của Công ty Đầu tư là một trong số những mảng hoạt động lớn của PJICO, nó có một vai trò quan trọng không những tác động đến hoạt động kinh doanh của Công ty mà còn đối với cả nền kinh tế. - Đối với bản thân Công ty: + Hoạt động đầu tư giúp Công ty nâng cao khả năng cạnh tranh thông qua việc đưa ra sản phẩm mới với mức giá rẻ hơn. + Hoạt động đầu tư góp phần tăng doanh thu và lợi nhuận cho Công ty + Góp phần khuyếch trương thanh thế, hình ảnh của Công ty + Hoạt động đầu tư giúp Công ty thực hiện được cam kết với khách hàng. - Đối với nền kinh tế: Quỹ đầu tư của Công ty bảo hiểm sẽ góp phần phát triển kinh tế của đất nước, thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội, ngoài ra còn tạo công ăn việc làm cho người lao động * Nguồn vốn đầu tư của PJICO: - Vốn điều lệ của Công ty sẽ được trích ký quỹ một khoản (khoảng 15%), số còn lại sẽ được đem đầu tư. - Quỹ nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ. - Quỹ dự trữ bắt buộc và quỹ dự trữ tự nguyện - Lãi của các năm trước chưa sử dụng * Cũng giống như các công ty bảo hiểm khác hoạt động đầu tư của PJICO phải tuân theo những nguyên tắc chặt chẽ sau: - Nguyên tắc an toàn: Việc đầu tư thường gặp các rủi ro sau, khi đầu tư Công ty sẽ tránh gặp phải: + Rủi ro lãi suất; Lãi suất trên thị trường luôn có sự biến động làm cho giá trị các tài sản đem đầu tư biến đổi theo + Rủi ro tỷ giá: Là việc đồng nội tệ bị mất giá làm cho giá trị các khoản đầu tư của Công ty giảm theo + Rủi ro tín dụng: liên quan đến việc người vay vốn của doanh nghiệp không đủ khả năng trang trải các khoản tiền đã vay, gây khó khăn cho Công ty trong việc thu hồi vốn. + Rủi ro thị trường: Xuất phát từ việc các điều kiện của thị trường chưa hoàn chỉnh dẫn đến giá cả của các tài sản không phản ánh đúng giá trị thực của các tài sản đó. - Nguyên tắc sinh lời: Khi đầu tư, Công ty phải đảm bảo thu được một khoản lợi nhuận nhất định để tăng doanh thu cho Công ty, đảm bảo khả năng chi trả thường xuyên. - Đảm bảo khả năng thanh khoản: Đó là khả năng mà các khoản đầu tư phải nhanh chóng chuyển đổi xang thành tiền để thực hiện các cam kết đối với khách hàng 4.2.2. Các lĩnh vực đầu tư chủ yếu của công ty + Cho vay thế chấp: Hình thức đầu tư này sẽ tạo dưng được mối quan hệ về tiêu thụ sản phẩm giưa doanh nghiệp bảo hiểm và đơn vị kinh doanh + Đầu tư vào chứng khoán: Với loại hình này tỷ suất lợi nhuận thường cao hơn so với các hình thức khác. Đặc biệt là đối với hình thức cổ phiếu khi mà độ rủi ro càng cao thì khả năng thu được lợi nhuận cao càng lớn + Đầu tư vào bất động sản: Lãi suất thu được từ hoạt động đầu tư này cao nhưng độ rủi ro đi kèm càng lớn. Ngoài ra đầu tư vào bất động sản có độ thanh khoản kém + Các hình thức đầu tư khác: Góp vốn liên doanh, gửi tiền ở các tổ chức tín dụng… Các khoản đầu tư này hàng năm đem lại cho Công ty một khoản lợi nhuận không nhỏ góp phần nâng cao tổng doanh thu của Công ty, điều này được thể hiện qua bảng sau: Bảng 7: Doanh thu hoạt động đầu tư của PJICO trong giai đoạn 1995-2002 đơn vị: (VNĐ) Năm Doanh thu hoạt động đầu tư 1995 2.974.819.000 1996 5.171.081.000 1997 6.066.343.000 1998 6.512.688.000 1999 7.146.023.000 2000 7.557.730.000 2001 8.497.317.000 2002 9.500.000.000 Nguồn : “Báo cáo kết quả kinh doanh của PJICO” Doanh thu từ hoạt động đầu tư của Công ty khômg ngừng tăng qua các năm, năm 1995 doanh thu này chỉ đạt gần 3 tỷ đồng, năm 2001 doanh thu này đã là gần 8,5 tỷ đồng đây là một con số quả là không nhỏ đối với một Công ty còn non trẻ như PJICO. Năm 2002, tổng nguồn vốn nhàn rỗi cho đầu tư quy ra VNĐ của PJICO đến thời điểm 31/12/2002 là 152.679.348.237 đồng tăng 12,6% so với năm 2001. Doanh thu đầu tư: 9,5 tỷ đồng, đạt 105,6% kế hoạch, tăng 11,8% so với năm 2001. Năm 2002, Công ty đã triển khai đầu tư trên thị trường chứng khoán trên 2 lĩnh vực: + Cho vay vốn cầm cố chứng khoán (rủi ro thấp và lãi suất cho vay cao hơn lãi suất bình quân. + Trực tiếp kinh doanh các loại chứng khoán niêm yết. Tổng giá trị đã mua là 4816 tỷ đồng với kết quả chỉ số tăng giá tích hợp dương, mức cổ tức cao. Kết quả đầu tư qua các năm là tương đối cao trong điều kiện môi trường đầu tư Việt Nam còn hạn hẹp, nhiều rủi ro, lãi suất ngân hàng một vài năm gần đây giảm mạnh. 4.3. Một số hoạt động khác PJICO có đội ngũ nhân viên trẻ, có trình độ cao năng động sáng tạo, ham học hỏi hơn nữa lại được ban giám đốc và các cấp lãnh đạo quan tâm tạo điều kiện hướng dẫn đào tạo kỹ năng nghiệp vụ. Đã có nhiều khoá học bồi dưỡng chuyên ngành cho cán bộ, hàng năm Công ty cử hàng trăm lượt cán bộ tham dự các khoá đào tạo nghiệp vụ chuyên môn ở trong nước, mỗi năm Công ty thu xếp cho hàng chục cán bộ xuất sắc đi đào tạo ở nước ngoài. Cho đền nay tất cả cán bộ nhân viên đều được ký hợp đồng lao động, được thực hiện đầy đủ chế độ BHXH và BHYT theo đúng quy định của Nhà nước. Hàng năm được sự ủng hộ của ban lãnh đạo công ty, ban chấp hành công đoàn vẫn duy trì và tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ, nhân viên đi nghỉ mát… điều này giúp cán bộ nhân viên yên tâm công tác, gắn bó hơn với Công ty. PJICO còn rất chú trọng đến công tác bồi dưỡng chính trị cho nhân viên, đã có nhiều khoá học bồi dưỡng đối tượng Đảng được tổ chức cho những người lao động tiêu biểu theo học, không ngừng nâng cao giác ngộ chính trị, giáo dục tinh thần ý thức tổ chức kỷ luật của lớp người lao động trẻ. Có thể nói sự ra đời của Công ty PJICO vào ngày 15/6/1995 đã đánh dấu sự mở cửa thực sự của Nhà nước đối với hoạt đông kinh doanh bảo hiểm. Ngay sau khi ra đời, PJICO đã nhanh chóng triển khai kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm cả về chiều sâu và trên diện rộng. Số lượng nghiệp vụ bảo hiểm triển khai ngày càng tăng thêm và đa dạng hoá. Tới nay Công ty đã thực hiện trên 40 nghiệp vụ bảo hiểm đáp ứng nhu cầu bảo hiểm đa dạng của khách hàng. Về kinh doanh bảo hiểm gốc những năm đầu Công ty chỉ tiến hành bảo hiểm cho khách hàng trong cổ đông, đến nay trên 70% doanh thu của Công ty là từ khách hàng ngoài cổ đông. Vị trí, chỗ đứng và uy tín của Công ty PJICO trên thị trường bảo hiểm ngày càng được củng cố và khẳng định. Trong suốt những năm hoạt động và phát triển doang thu phí bảo hiểm doanh thu phí bảo hiểm của PJICO liên tục tăng trưởng cao hơn tốc độ tăng trưởng của toàn thị trường 5. Vài nét về văn phòng bảo hiểm Phi hàng hải Phòng bảo hiểm Phi hàng hải là một văn phòng trực thuộc Tổng công ty có địa chỉ tại 22 Láng Hạ- Đống Đa Hà Nội, cũng như các văn phòng khác của công ty, phòng bảo hiểm Phi hàng hải có quy mô không lớn (chỉ có 9 cán bộ) nhưng được cơ cấu, tổ chức khá chặt chẽ bao gồm: - Trưởng phòng: Là người được công ty tuyển chọn, bổ nhiệm, có năng lực chuyên môn cao, có trình độ đại học. Trưởng phòng làm nhiệm vụ quản lý tổng hợp hoạt động vủa toàn bộ văn phòng, trực tiếp báo cáo kết quả kinh doanh cũng như những đề xuất, kiến nghị lên Công ty. - Hai phó phòng: Là những cán bộ có năng lực, trình độ, có nhiệm vụ hỗ trợ quản lý văn phòng cùng với trưởng phòng và chịu sự phân công công việc của trưởng phòng. - Sáu nhân viên: Là những cán bộ có, trình độ đã qua tuyển chọn của Công ty, có nhiệm vụ tham gia triển khai các nghiệp vụ bảo hiểm trong phạm vi hoạt động của văn phòng. Phòng bảo hiểm Phi hàng hải triển khai tất cả các nghiệp vụ của Công ty. Tuy nhiên hai mảng hoạt động mạnh nhất và có kết quả cao nhất đó là bảo hiểm xe cơ giới và bảo hiểm kết hợp học sinh- sinh viên, ngoài ra một nghiệp vụ khác cũng được triển khai khá rộng rãi là bảo hiểm du lịch, nhưng do nghiệp vụ này có tính thời vụ và phí tương đối thấp nên doanh thu mang lại thấp hơn nhiều so với hai nghiệp vụ kể trên. II. Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại công ty PJICO Loại hình bảo hiểm vật chất xe cơ giới PJICO triển khai chủ yếu là áp dụng với xe ôtô, rất ít áp dụng cho xe máy. Vì giá trị của xe máy là tương đối thấp nếu chăng may xảy ra tai nạn, chi chi sửa chữa cũng không lớn như đối với ôtô. Với những khoản chi phí nhỏ này thì ngay cả trường hợp có tham gia bảo hiểm chủ phương tiện cũng rất ngại đòi bồi thường vì giấy tờ yêu cầu rắc rối, tốn thời gian, số tiền bồi thường thấp nên có ít khách hàng tham gia bảo hiểm vật chất cho xe máy. Đây là loại hình bảo hiểm tự nguyện vì thế mà kết quả hoạt động phụ thuộc rất lớn vào tâm lý khách hàng (chủ xe, lái xe) và uy tín của công ty. Hơn nữa phí bảo hiểm vật chất xe cơ giới là rất cao, nếu so với phí bảo hiểm trách nhiệm dân sự thì cao hơn nhiều. Phí bảo hiểm trách nhiệm dân sự đối vơi ôtô thông thường khoảng từ 160.000- 400.000 đồng tuỳ từng loại xe và tuỳ từng hạn mức trách nhiệm tham gia, trong khi đó phí bảo hiểm vật chất xe (bảo hiểm toàn bộ) trung bình khoảng 3 triệu đồng một xe, nếu là xe mới, có giá trị lớn thì số phí này còn cao hơn nữa. Do số phí lớn như vậy, nên việc tham gia hay không tham gia hoặc tham gia ở công ty bảo hiểm nào để được giảm phí nhiều nhất, bồi thường thuận tiện nhất đều được chủ xe cân nhắc rất kỹ lưỡng. Quyết định này còn chịu ảnh hưởng bởi trình độ hiểu biết cũng như khả năng tài chính của mỗi chủ xe vì thế tiếp cận và thuyết phục được khách hàng là rất quan trọng và tương đối khó khăn. Không chỉ có vậy, PJICO còn phải đương đầu với cạnh tranh từ phía các công ty bảo hiểm khác như Bảo Việt, Bảo Minh, Bảo Long… Đặc biệt là từ sau năm 1998 nhiều công ty bảo hiểm nước ngoài tham gia như Allian, bảo hiểm Việt úc với tiềm lực tài chính mạnh, có nhiều kinh nghiệm quản lý, hoạt động đã thu hút được lượng lớn khách hàng là các doanh nghiệp nước ngoài tham gia. Đây là một thách thức lớn mà công ty phải vượt qua. Trước những khó khăn chung, để tồn tại và phát triên PJICO đã không ngừng cải tiến chất lượng dịch vụ từ khâu khai thác đến khâu bồi thường nhằm mang đến sức cạnh tranh mới cho sản phẩm của Công ty, giúp sản phẩm có đặc trưng riêng, đưa sản phẩm đến với khách hàng tạo sự ưa chuộng nơi khách hàng. Do vậy, nghiệp vụ này được phát triển mạnh mẽ, mang lại doanh thu rất lớn cho Công ty. Bảng dưới đây sẽ cho thấy doanh thu phí bảo hiểm vật chất xe cơ giới qua các năm các năm: Bảng 8: Tình hình khai thác bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại PJICO Chỉ tiêu Đơn vị 1997 1998 1999 2000 2001 2002 1. Số xe tham gia bảo hiểm Chiếc 3.920 4.704 6.545 7.174 7.944 9.237 2. Doanh thu phí Trđ 7.432 8.323 11.581 15.472 22.802 32.766 3. Tốc độ tăng DT liên hoàn % - 11,99 39,14 33,6 47,38 43,7 4. Chi phí khai thác Trđ 599,10 963,30 1.308,60 1.348,80 1.398,30 1.502,76 5. Hiệu quả khai thác (=D/C) Trđ/Trđ 12,40 8,64 8,805 11,47 16,3 21,80 6. chi phí khai thác/đầu xe(C/S) Nghìn đồng/xe 152,83 204,78 199,94 188,01 176,02 162,689 Nguồn: “Báo cáo tổng hợp về bảo hiểm gốc” Hay dưới dạng biểu đồ sau: Biểu đồ minh doanh thu phí BHVC xe cơ giới tại PJCO Biểu đồ minh hoạ số xe tham gia BHVC tại PJCO Nhìn vào bảng 8 cho thấy: Năm 1997: Sau hơn một năm hoạt động và triển khai nghiệp vụ đã có 3.920 đầu phương tiện tham gia doanh thu đạt 7.432 triệu đồng. Năm 1997 có khoảng 43.600 đầu xe tham gia giao thông, tỷ lệ đầu xe tham gia bảo hiểm còn thấp (0,9%). Chi phí khai thác vào năm 1997 cho hoạt động này không nhiều chiếm 699,1 triệu đồng vì thế hiệu quả là khá cao (12,40), một đồng chi phí thu được xấp xỷ 13 đồng doanh thu Tỷ lệ đầu xe tham gia thấp là do khách hàng chưa thực sự tin tưởng vào Công ty mới thành lập, khách hàng chủ yếu là các cổ đông của Công ty Năm 1998: Số đầu xe tham gia bảo hiểm là 4.704, chiếm 1% tổng số xe lưu hành thực tế, doanh thu phí đạt 8.232 triệu đồng tăng gần 12% so với năm 1997 và đồng thời cao hơn tốc độ tăng về số lượng đầu xe điều này cho thấy số phí thu được trên từng đầu xe được nâng lên, chất lượng khai thác tăng. Nhưng do phí khai thác tăng nên hiệu quả khai thác lại giảm xuống (8,64) đồng thời đây cũng là tỷ lệ thấp nhất trong các năm. Lúc này do Công ty dần mở rộng mạng lưới hoạt động, đội ngũ khai thác tăng lên đáng kể vì thế các khoản chi phí khai thác cho mỗi đầu xe tăng lên 204,780 đồng/xe Năm 1999, đây là năm Việt Nam chịu ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng kinh tế Châu á làm cho số xe thực tế lưu hành trên toàn quốc tăng chậm lại, nhưng doanh thu phí bảo hiểm vật chất của PJICO vẫn tăng 39,14% so với năm 1998 đạt 11.581 triệu đồng. Tổng số đầu xe tham gia bảo hiểm vật chất ở PJICO đã chiếm 1,25% tổng số xe lưu hành thực tế. Đây là một dấu hiệu rất khả quan, sau một vài năm hoạt động, vị thế của Công ty dần được củng cố, tạo được niềm tin cho khách hàng, thể hiện ở doanh thu phí không ngừng tăng qua các năm. Năm 2000, số lượng đầu xe tham gia bảo hiểm vật chất là 7.174 xe, chiếm 1,27% tổng số xe lưu hành. Số xe tham gia này đem lại cho Công ty 15.742 triệu đồng tiền phí, tốc dộ tăng doanh thu phí năm 2000 là 33,6% so với năm 1999. Hiệu quả khai thác tăng lên 11,47, trong 11,47 đồng doanh thu thì có sự đóng góp của một đồng chi phí khai thác. Năm 2001, số xe ôtô tham gia bảo hiểm vật chất tại PJICO đã chiếm 1,32% tổng số xe lưu hành trên cả nước, chiếm 7,76% tổng số xe tham gia bảo hiểm vật chất trên toàn thị trường. Doanh thu mang lại cho Công ty là 22.802 triệu đồng, tăng 47,38% so với năm 2000. Năm 2002 là năm PJICO diễn ra sự kiện thay đổi nhân sự cấp cao, nhưng điều này không ảnh hưởng đến doanh thu phí bảo hiểm vật chất xe cơ giới và đã đạt được 32.766 triệu đồng tăng 43,7% so với năm 2001 Hiệu quả khai thác tăng cao đạt tỷ lệ 21,8, đây đồng thời là tỷ lệ cao nhất giữa doanh thu và chi phí khai thác trong các năm. Chi phí khai thác trên mỗi đầu xe giảm xuống còn 162,689 ngđ/xe. Năm 2002 là một năm thực sự đáng nhớ của PJICO, mặc dù có sự thay đổi về người điều hành, nhưng trong 6 tháng cuối năm đã có sự tăng trưởng vượt bậc và đã hoàn thành kế hoạch do HĐQT giao trước ngày 30/12/2002. Điều đó cho thấy thị trường bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Việt Nam có tiềm năng phát triển rất lớn, tạo ra nhiều cơ hội khai thác, PJICO cũng rất năng động trong thị trường này, doanh thu phí được tăng đều đặn qua các năm và hiện đã dần đi vào ổn định. Công ty đã tìm được nhưng khách hàng lớn, trung thành, không còn phụ thuộc chủ yếu vào lượng khách hàng là các thành viên như trước đây. Công ty đã mở rộng được mạng lưới phân phối, xây dựng nhiều chi nhánh, văn phòng đại diện trên nhiều tỉnh thành khắp cả nước, có được mối quan hệ tốt với các đầu mối cung ứng. Những mối quan hệ này hứa hẹn sẽ đem lại khách hàng đều đặn, doanh thu ổn định cho Công ty. Tuy nhiên Công ty cần không ngừng mở rộng quan hệ, tìm kiếm khách hàng để củng cố năng lực tài chính cho mình. III. Công tác xác định phí bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại PJICO 1. Nguyên tắc xác định phí của công ty Xác định phí bảo hiểm là nhiệm vụ tiếp theo sau khi đã khai thác được hợp đồng bảo hiểm. Phí bảo hiểm do người bảo hiểm đóng chính là sự đóng góp của các chủ xe vào quỹ chung để chia xẻ rủi ro. Sự đóng góp này phả công bằng và phải phản ánh được mức độ nguy cơ rủi ro mà người được bảo hiểm mang đến cho quỹ chung. Do do nguyên tắc xác định phí của công ty là cân bằng thu chi, tức là phí bảo hiểm phải đủ để: + Bồi thường các khiếu nại dự tính suốt trong thời gian bảo hiểm: Kinh doanh bảo hiểm đồng nghĩa với việc chấp nhận rủi ro, tức là công ty bảo hiểm có nhiệm vụ ước tính mức độ bồi thường có thể phát sinh. Tuy nhiên không thể đua ra con số chính xác về số tiền sẽ thanh toán cho các khiếu nại. Nhưng nhờ vào các số liệu có liên quan như: loại xe, trình độ, tuổi tác của người điều khiển, các số liệu thống kê về các tai nạn đã xảy ra trong quá khứ… Công ty có thể đánh giá tương đối chính xác về chi phí bồi thường. + Ước tính về khiếu nại chưa giải quyết: Không phải mọi khiếu nại đều được giải quyết trong năm thanh toán phí bảo hiểm. Vì vậy, phí bảo hiểm cũng cần tính đến những khiếu nại sẽ được giải quyết vào cuối năm. Có những khiếu nại phải mất hơn một năm mới giải quyết được, Công ty sẽ lưu ý điều này khi tính phí bảo hiểm. + Cung cấp một khoản dự phòng: Công ty sẽ phải tính đến trường hợp có những vụ phải bồi thường tổn thất rất lớn vượt ngoài dự đoán của Công ty trong tương lai. Vì vậy, phí bảo hiểm phải bảo đảm cho việc lập được quỹ dự phòng dao động lớn, để tránh cho Công ty gặp phải những cú sốc về tài chính khi gặp phải những tổn thất lớn vượt ngoài tầm kiểm soát. + Bù đắp phí hoạt động kinh doanh: Trong kinh doanh, công ty bảo hiểm phải chi một số tiền nhất định cho các hoạt động kinh doanh bao gồm: Lương cho nhân viên Chi phí văn phòng dưới mọi hình thức Chi phí quảng cáo khai thác Chi hoa hồng cho môi giới, đại lý… Phí bảo hiểm thu được từ mỗi người được bảo hiểm phải đủ để đáp ứng cho các chi phí hoạt động này + Đem lại lợi nhuận: Mục tiêu tối cao của công ty đó là mang lại lợi nhuận. Do đó phí bảo hiểm phải đem lại một khoản lợi nhuận hợp lý. Mặt khác công ty phải chịu trách nhiệm trước cổ đông và phải tạo ra một khoản lợi nhuận hợp lý cho việc đầu tư của các cổ đông vào Công ty. Tuy nhiên, để có được mức phí bảo hiểm đưa ra cho khách hàng, không chỉ đơn thuần là việc tính phí bảo hiểm chính xác bằng một công thức toán học, mà còn phải cân nhắc tới cả những yếu tố thương mại. Bao gồm: + Lạm phát: Nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, có sự giao lưu buôn bán với nước ngoài, nền kinh tế luôn biến động vì thế mà giá trị của đồng tiền luôn thay đổi. Phí bảo hiểm thu ngày hôm naysẽ được sử dụng để bồi thường khiếu nại xảy xảy trong tương lai. Điều này có nghĩa là chi phí giải quyết khiếu nại có thể tăng không phải do sự gia tăng khiếu nại mà đơn giản là do giá trị của đồng tiền giảm xuống. Đây là một trong những yếu tố rất quan trọng trong tính phí bảo hiểm mà Công ty không thể bỏ qua. + Lãi suất : Công ty bảo hiểm là người đầu tư quỹ. Những quỹ này cũng tạo ra thu nhập đầu tư đáng kể để nuôi sống Công ty. Sự thay đổi trong lãi suất cũng cần được chú ý trong tính phí bảo hiểm. + Cạnh tranh: Yếu tố thương mại cuối cùng là cạnh tranh. Không phải trên thị trường chỉ có duy nhất một mình Công ty hoạt động mà Công ty phải đương đầu với các công ty có nhiều kinh nghiệm như Bảo Việt, Bảo Minh… hoặc các tập đoàn bảo hiểm nước ngoài có tiềm lực tài chính mạnh như Allianz,… Mặt khác nghiệp vụ Bảo hiểm vật chất xe cơ giới được các công ty bảo hiểm trên thị trường triển khai rất rộng rãi. Do đó cạnh tranh diễn ra ngày càng gay gắt. Việc tính phí bảo hiểm quá cao có thể dẫn đến mất dịch vụ, nhưng nếu tính phí bảo hiểm quá thấp sẽ dẫn đến thua lỗ, mặt khác Công ty phải chấp hành mức phí tối thiểu do Bộ tài chính quy định. Thông thường phí bảo hiểm được tính bằng: Tỷ lệ phí bảo hiểm GTBH Nhưng tỷ lệ phí bảo hiểm là khác nhau đối với mỗi loại xe có nguy cơ xảy ra tổn thất khác nhau. Tức là tỷ lệ phí bảo hiểm cho các loại xe thường xuyên chạy trên những đoạn đường nguy hiểm (đèo, dốc…) sẽ cao hơn tỷ lệ phí bảo hiểm cho những loại xe chạy trong thành phố có hệ thống đường xá an toàn. Theo cách này tỷ lệ phí bảo hiểm phản ánh nguy cơ mà người được bảo hiểm mang đến cho quỹ bảo hiểm . Tuy nhiên, không phải quy mô rủi ro của đối tượng được bảo hiểm đều giống nhau. Nói cách khác, tổn thất sẽ khác nhau giữa một đội xe có số lượng đầu xe lớn và một đội xe có số lượng đầu xe nhỏ. Mục đích của cơ sở phí bảo hiểm là tính đến vấn đề nói trên. Số tiền bảo hiểm phản ánh mức độ tổn thất khác nhau và khi áp dụng tỷ lệ phí bảo hiểm vào số tiền được bảo hiểm, Công ty sẽ hi vọng thu được một mức phí bảo hiểm thực tế. Trong thực tế, Công ty có thể đòi một khoản phí bảo hiểm cố định thay vì áp dụng một tỷ lệ phí bảo hiểm vào cơ sơ phí bảo hiểm. Các chủ xe sẽ phải thanh toán một khoản phí bảo hiểm cố định, tất nhiên trừ trường hợp xe có giá trị lớn, hoặc rủi ro khác thường, cần phải có sự điều chỉnh phí bảo hiểm. Mức phí bảo hiểm cố định được được tính dựa trên bảng tỷ lệ có tính đến nguy cơ có liên quan đến cá nhân người được bảo hiểm và xe. Như vậy, những người lái xe trẻ tuổi phải đóng phí bảo hiểm cao hơn người lái xe lớn tuổi, những xe có tốc độ cao phải chịu mức phí bảo hiểm cao hơn so với các xe bảo hiểm của gia đình. Những yếu tố khác nhau ảnh hưởng đến phí bảo hiểm đều phải được khai báo trong đơn yêu cầu bảo hiểm. Những yếu tố này sẽ được lưu trong trương trình máy tính để khi tính phí bảo hiểm chỉ việc nhập vào những dữ liệu cần thiết. 2. Thực trạng công tác xác định phí của công ty PJICO Mục đích của tính phí là để xác định phí bảo hiểm phù hợp với mức độ rủi ro. Nói cách khác người được bảo hiểm phải đóng góp vào qũy chung với tỷ lệ tương ứng với khả năng xảy ra rủi ro của người được bảo hiểm. Do đó: Căn cứ quyết định 23/2003/QĐ- BTC Ngày 25/2/2003 của Bộ Tài Chính vè việc ban hành quy tắc, biểu phí và mức trách nhiệm bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới Quy tắc bảo hiểm kết hợp xe cơ giới do PJICO ban hành năm 1999 Bảo hiểm Ptrolimex (PJICO) hướng dẫn phí bảo hiểm vật chất xe cơ giới như sau: Bảng 9: Phí bảo hiểm vật chất xe cơ giới (áp dụng từ ngày 10/3/2003) Loại hình bảo hiểm Tỷ lệ phí/ Giá trị bảo hiểm Thuế Tổng thanh toán Ôtô + Bảo hiểm toàn bộ + Bảo hiểm bộ phận 1,82% 2,27% 0,18% 0,23% 2% 2,5% 2. Xe máy 0,91% 0,09 1% Nguồn: Biểu phí bảo hiểm xe cơ giới Từ biểu phí có thể dẽ dàng thành lập đựơc mẫu tính phí bảo hiểm vật chất xe cơ giới và kết quả được lưu trong máy tính, khi cần tính phí chỉ cần nhập vào giá trị bảo hiểm sẽ cho ra số phí phải đóng Ví dụ: Giá trị tham gia Thân vỏ (2,5%) Toàn bộ (2%) Tổng phí Phí BH VAT Tổng phí Phí BH VAT 45.000.000 1.125.000 1.022.727 102.273 900.000 818.182 81.818 50.000.000 1.125.000 1.136.364 113.636 1.000.000 909.091 90.909 55.000.000 1.375.000 1.250.000 125.000 1.100.000 1.000.000 100.000 60.000.000 1.500.000 1.363.636 136.364 1.200.000 1.090.909 109.091 65.000.000 1.625.000 1.477.273 147.727 1.300.000 1.181.818 118.182 70.000.000 1.750.000 1.590.909 159.091 1.400.000 1.272.727 127.273 75.000.000 1.875.000 1.704.545 170.455 1.500.000 1.363.636 136.364 80.000.000 2.000.000 1.818.182 181.818 1.600.000 1.454.545 145.455 85.000.000 2.125.000 1.931.818 193.182 1.700.000 1.545.455 154.545 90.000.000 2.250.000 2.045.455 204.545 1.800.000 1.636.364 163.636 95.000.000 2.375.000 2.159.091 215.909 1.900.000 1.727.273 172.727 100.000.000 2.500.000 2.272.727 227.273 2.000.000 1.818.182 181.818 110.000.000 2.750.000 2.500.000 250.000 2.200.000 2.000.000 200.000 120.000.000 3.000.000 2.727.273 272.727 2.400.000 2.181.818 218.182 125.000.000 3.125.000 2.840.909 284.091 2.500.000 2.272.727 227.273 130.000.000 3.250.000 2.954.545 295.455 2.600.000 2.363.636 236.364 … … … … … … … Nếu khách hàng yêu cầu bảo hiểm cho phương tiện của họ trong một giai đoạn ngắn hơn trong một năm. Công ty sẽ áp dụng biểu phí ngắn hạn. Tỷ lệ phí bảo hiểm này cao hơn so với tỷ lệ phí tương ứng cho cả năm, do Công ty vẫn phải chịu cùng các chi phí hành chính bất chấp thời hạn của hợp đồng Biểu phí ngắn hạn: Dưới 03 tháng: 30% phí cả năm Từ 03- 06 tháng: 60% phí cả năm Tứ 06- 09 tháng: 90% phí cả năm Trên 09 tháng: 100% phí cả năm Nếu thời hạn của hợp đồng > 1 năm thì tương ứng sẽ là biểu phí dài hạn: Trên 12 tháng đến 15 tháng: 124% phí cả năm Trên 15 tháng đến 18 tháng: 144% phí cả năm Trên 18 tháng đến 21 tháng: 162% phí cả năm Trên 21 tháng dến 24 tháng: 160% phí cả năm Trên 24 tháng đến30 tháng: 208% phí cả năm Trên 30 tháng đến 36 tháng: 240% phí cả năm Nếu chủ xe đã đóng phí bảo hiểm cả năm, nhưng trong năm xe không hoạt động một số tháng vì một lý do nào đó. Công ty sẽ tiến hành hoàn phí theo công thức: Phí hoàn lại = Phí cả năm x Với tỷ lệ hoàn phí 80% Ví dụ: Một xe có giá trị 50.000.000 tham gia bảo hiểm toàn bộ (1 năm) nhưng trong năm xe không hoạt động 4 tháng (do sửa chữa) Phí hoàn lại = 1.000.000 x 3. Nhận xét chung Sau khi xem xét thực trạng xác định phí cũng như các kết quả đạt được trong triển khai nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới của Công ty PJICO cho thấy: - Với biểu phí Công ty đã áp dụng cho bảo hiểm vật chất xe cơ giới trong những năm qua đã cho thấy tính hợp lý của biểu phí đối với khách hàng. Điều này được khẳng định ở số đầu xe tham gia bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Công ty cũng như doanh thu phí thu được không ngừng tăng trong những năm qua, tỷ lệ tái tục lớn. Ngày 10/3/2003 Công ty đã áp dụng biểu phí mới cho bảo hiểm xe cơ giới, nhưng chỉ thay đổi cách tính phí cho bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe còn biểu phí áp dụng cho bảo hiểm vật chất xe cơ giới không thay đổi. Điều này một lần nữa khẳng định biểu phí trên đã được sự chấp thuận và tín nhiệm của khách hàng trên thị trường. - Tuy nhiên, có một thực tế mà Công ty cũng cần phải xem xét đó là nếu so sánh số đầu xe tham gia bảo hiểm vật chất với số lượng đầu xe tham gia TNDS thì có một sự chênh lệch rất lớn: Năm 2002 số xe tham gia bảo hiểm TNDS là 89.269 xe, trong khi chỉ có 9.237 xe tham gia bảo hiểm vật chất. Từ đó có thể thấy được tỷ lệ khách hàng sau khi tham gia bảo hiểm TNDS thì tham gia cả vật chất xe là rất thấp, chỉ chiếm khoảng 10%. Điều này là rất bất lợi vì trên thực tế triển khai số phí thu được từ mỗi xe tham gia bảo hiểm là rất nhỏ (Xe môtô 3 bánh: 154.000 đồng/xe, xe không kinh doanh vận tải dưới 6 chỗ:220.000 đồng/xe…) trong khi đó nếu xảy ra tổn thất thì mức bồi thường là 30 triệu đồng/người/vụ. Khi mà bảo hiểm tránh nhiệm của chủ xe cơ giới đã trở thành bắt buộc. Doanh thu phí từ nghiệp vụ bảo hiểm TNDS có thể sẽ tăng trong những năm tiếp theo. Nếu Công ty có hình thức khuyến khích khách hàng tham gia đồng bộ cả vật chất và trách nhiệm (như giảm phí, áp dụng biểu phí đặc biệt…) Thì hai phần phí này sẽ có khả năng bù đắp cho nhau, tránh được tình trạng quỹ bảo hiểm thu không đủ bồi thường. Hơn nữa, trong những năm tới lượng xe cơ giới tham gia lưu thông sẽ tăng mạnh, đây sẽ là nguồn khách hàng tiềm năng rất lớn của Công ty - Chi phí khai thác của Công ty không nhiều vì chưa đầu tư mạnh vào quảng cáo, cần phải đầu tư đến một mức độ nhất định thì quảng cáo tuyên truyền mới phát huy được hiệu quả, nếu không theo chiến lược thì hiệu quả thấp chỉ góp phần làm tăng chi phí. - Tốc độ tăng doanh thu từ phí bảo hiểm vật chất thân xe của PJICO là rất cao (năm 2002 tăng 43,7% so với năm 2001). Nhưng đó chỉ là số tương đối, nhưng nếu so sánh số tuyệt đối với Bảo Việt thì thấp hơn nhiều mặc dù Bảo Việt có tốc độ tăng doanh thu phí chỉ có 8% năm 2002 so với năm 2001: Bảo Việt: Năm 2001 có 57.787 xe tham gia, doanh thu đạt: 202.253 Trđ Năm 2002 có 62.410 xe tham gia, doanh thu đạt: 218.433 Trđ Trong khi đó: PJICO: Năm 2001 có 7.944 xe tham gia, doanh thu đạt: 22.802 Trđ Năm 2002 có9.237 xe tham gia, doanh thu đạt: 32.766 Trđ Những số liệu trên cho thấy PJICO thấp hơn cả Bảo Việt cả về doanh thu lẫn số đầu xe tham gia, từ đó cho thấy PJICO gặp phải sự canh tranh rất lớn từ Bảo Việt. Họ là đối thủ cạnh tranh khổng lồ với nhiều uy tín phát triển từ lâu, có mạng lưới phân phối khắp cả nước, trong khi đó PJICO chỉ có văn phòng, chi nhánh ở một số thành phố lớn. Vì thế với một cơ cấu phí hợp lý sẽ giú cho sản phẩm của Công ty có được dấu ấn riêng, từ đó sẽ thu hút được sự quan tâm của khách hàng. Đây chính là điều là Công ty cần phải nỗ lực, phấn đấu nhiều hơn nữa để đạt được. IV.Công tác bồi thường tổn thất tại Công ty PJICO 1. Phương thức bồi thường Khi có tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm xảy ra, ở một chừng mực nào đó người được bảo hiểm sẽ phải chịu những cơn sốc. Thông qua các nhân viên giải quyết khiếu nại, Công ty sẽ làm hết sức để làm đơn giản hoá quá trình xét giải quyết bồi thường trong khả năng có thể. Các khiếu nại sẽ được giải quyết theo cách cả hai bên đều hài lòng hết sức tránh các vụ khiếu nại dẫn đến tranh chấp thực sự. Khi phát sinh các khiếu nại hợp lệ, Công ty sẽ áp dụng cách thức bồi thường sau: * Bồi thường trên cơ sở chi phí thiệt hại Là phương án chủ yếu khắc phục thiệt hại. Đây là cách khắc phục thiệt hại kinh tế nhất, là cơ sở cho việc bồi thường sát với thực tế thiệt hại. Gồm các cách sau: + Cho chủ xe tự đi sửa chữa: áp dụng nhỏ nguyên nhân đơn giản. Để quản lý được giá, chủ xe phải báo giá hoặc thoả thuận với công ty trước khi sửa chữa, thay thế. + Đấu thầu sửa chữa: áp dụng với trường hợp thiệt hại nặng, khó có khả năng đánh giá đúng được chi phí sửa chữa. Việc đấu thầu phải đảm

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc13015.DOC
Tài liệu liên quan