Tài liệu Đề tài Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty Dịch vụ và Thương mại (TSC): LỜI MỞ ĐẦU
Vốn luôn được coi là một nhân tố hết sức quan trọng trong mọi quá trình sản xuất kinh doanh, vì vậy việc sử dụng vốn có hiệu quả đóng vai trò quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Hiện nay, trước xu thế hội nhập và toàn cầu hoá nền kinh tế sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, nhất là giữa các doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp nước ngoài là hết sức mãnh liệt. Trong khi đó, hầu hết các doanh nghiệp nước ta đều có khối lượng vốn thấp. Vì thế, để có thể cạnh tranh trên thị trường thì việc sử dụng vốn tiết kiệm có hiệu quả đóng vai trò sống còn đối với mỗi doanh nghiệp.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, sau một thời gian thực tập tại công ty Dịch vụ và Thương mại TSC, em đã lựa chọn đề tài:
“Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty Dịch vụ và Thương mại (TSC)”
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của luận văn được chia thành ba chương:
Chương I: Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Chương...
77 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1377 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty Dịch vụ và Thương mại (TSC), để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Vốn luôn được coi là một nhân tố hết sức quan trọng trong mọi quá trình sản xuất kinh doanh, vì vậy việc sử dụng vốn có hiệu quả đóng vai trò quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Hiện nay, trước xu thế hội nhập và toàn cầu hoá nền kinh tế sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, nhất là giữa các doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp nước ngoài là hết sức mãnh liệt. Trong khi đó, hầu hết các doanh nghiệp nước ta đều có khối lượng vốn thấp. Vì thế, để có thể cạnh tranh trên thị trường thì việc sử dụng vốn tiết kiệm có hiệu quả đóng vai trò sống còn đối với mỗi doanh nghiệp.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, sau một thời gian thực tập tại công ty Dịch vụ và Thương mại TSC, em đã lựa chọn đề tài:
“Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty Dịch vụ và Thương mại (TSC)”
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của luận văn được chia thành ba chương:
Chương I: Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Chương II: Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn tại công ty Dịch vụ và Thương mại TSC.
Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty Dịch vụ và Thương mại (TSC).
Em xin trân trọng cảm ơn PGS.TS Lưu Thị Hương, kế toán trưởng Chu Xuân Thanh và các anh chị trong Công ty Dịch vụ và Thương mại TSC đã giúp đỡ em hoàn thành luận văn này.
CHƯƠNG I
HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN CỦA DOANH NGHIỆP
1.1 Vai trò của vốn đối với hoạt động của doanh nghiệp
1.1.1. Hoạt động cơ bản của doanh nghiệp
Doanh nghiệp là những tổ chức kinh tế độc lập, có tư cách pháp nhân, hoạt động sản xuất kinh doanh trên thị trường vì mục đích, tối đa hoá giá trị doanh nghiệp và phát triển.
Thực tế phát triển kinh tế ở các nước trên thế giới và Việt Nam cho thấy rằng: đối với tất cả các loại hình doanh nghiệp muốn sản xuất, kinh doanh có hiệu quả thì đều phải giải quyết được ba vấn đề kinh tế cơ bản là:
- Sản xuất kinh doanh cái gì ?
- Sản xuất, kinh doanh như thế nào?
- Sản xuất, kinh doanh cho ai ?
Quyết định sản xuất, kinh doanh cái gì đòi hỏi doanh nghiệp phải tiến hành nghiên cứu thị trường. Nhu cầu của thị trường về hàng hoá và dịch vụ rất phong phú, đa dạng và ngày một tăng về số lượng cũng như chất lượng. Nhưng thực tế nhu cầu có khả năng thanh toán lại thấp hơn, cho nên muốn thoả mãn nhu cầu lớn trong khi khả năng thanh toán có hạn, người tiêudùng phải lựa chọn từng loại nhu cầu có lợi nhất cho họ ở từng thời điểm nhất định. Tổng nhu cầu có khả năng thanh toán của xã hội chính là căn cứ để các nhà kinh doanh quyết định việc đầu tư vào sản xuất, kinh doanh của mình.
Mặt khác, do sự giới hạn của của khả năng sản xuất nên khi doanh nghiệp đưa ra một quyết định đầu tư nào đó thì luôn phải chịu một chi phí cơ hội nhất định. Nghĩa là khi doanh nghiệp quyết định sản xuất, kinh doanh một loại sản phẩm, dịch vụ nào đó thì sẽ có một sản phẩm, dịch vụ khác bị bỏ qua. Việc lựa chọn, xác định được sản phẩm, dịch vụ để sản xuất, kinh doanh phù hợp với nhu cầu của thị trường và năng lực của doanh nghiệp sẽ giúp doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, ngược lại nếu xác định sai thì hậu quả mà doanh nghiệp phải gánh chịu sẽ là rất lớn.
Sản xuất, kinh doanh như thế nào? Quyết định sản xuất như thế nào nghĩa là do ai thực hiện và những nguồn lực, hình thức công nghệ và phương pháp sản xuất kinh doanh nào sẽ được sử dụng. Sau khi đã lựa chọn được sản xuất, kinh doanh cái gì, doanh nghiệp phải xem xét và lựa việc sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ đó như thế nào để đáp ứng tốt nhất nhu cầu của thị trường, với chi phí ít nhất, giành thắng lợi trong cạnh tranh nhằm thu được lợi nhuận cao nhất.
Sản xuất cho ai? Quyết định sản xuất cho ai đòi hỏi phải xác định rõ ai sẽ được hưởng và được lợi từ những hàng hoá, dịch vụ. Thị trường quyết định giá cả của các yếu tố sản xuất do đó cũng quyết định thu nhập của các hàng hoá, dịch vụ. Thu nhập của cá nhân hay tập thể phụ thuộc vào quyền sở hữu và giá trị của các yếu tố sản xuất, phụ thuộc vào lượng hàng hoá, dịch vụ và giá cả của chúng. Về nguyên tắc thì cần đảm bảo cho mọi người lao động được hưởng và được lợi từ những hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp đã tiêu thụ căn cứ vào những cống hiến của họ đối với quá trình sản xuất, kinh doanh hàng hoá dịch vụ ấy.
1.1.2.Vai trò của vốn đối với doanh nghiệp
1.1.2.1. Khái niệm vốn
Trong cơ chế thị trường, hoạt động của các doanh nghiệp đều nhằm mục tiêu tối đa hoá giá trị tài sản của chủ sở hữu. Để thực hiện việc sản xuất kinh doanh một loại hàng hoá, dịch vụ nào đó, doanh nghiệp phải mua sắm những yếu tố vật chất cần thiết như máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu dự trữ... nghĩa là doanh nghiệp phải đầu tư vào tài sản. Muốn đầu tư vào tài sản, doanh nghiệp phải có nguồn tài trợ nghĩa là phải có tiền để trả cho đầu tư, đó chính là vốn. Vì thế, có thể coi vốn là tiền đề của mọi quá trình đầu tư sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Vậy vốn là gì? Vốn là một khối lượng tiền tệ nào đó được đưa vào lưu thông nhằm mục đích kiếm lời. Số tiền đó được sử dụng muôn hình muôn vẻ, nhưng suy cho cùng là để mua sắm tư liệu sản xuất và trả công cho người lao động, nhằm hoàn thành công việc sản xuất kinh doanh hay dịch vụ nào đó với mục đích là thu về số tiền lớn hơn ban đầu. Còn “nguồn vốn” chính là nơi cung cấp vốn cho các hoạt động trên.
Vốn có các đặc trưng cơ bản sau:
- Vốn được biểu hiện cả bằng tiền lẫn giá trị của các vật tư, tài sản, hàng hoá của doanh nghiệp. Nhưng vốn không đồng nhất với hàng hoá, tiền tệ thông thường. Tiền tệ, hàng hoá là hình thái biểu hiện của vốn nhưng chỉ khi chúng được đưa vào quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm mục đích kiếm lời thì chúng mới được coi là vốn.
- Vốn được tích tụ tập trung đến một lượng nhất định mới có thể phát huy được tác dụng. Vốn của doanh nghiệp phải được tích tụ, tập trung thành một lượng tiền đủ lớn mới có thể đầu tư vào sản xuất kinh doanh được. Để kinh doanh có hiệu quả, doanh nghiệp cần phải cân nhắc để lựa chọn nguồn vốn sao cho có chi phí thấp nhất mà mang lại hiệu quả cao nhất.
- Vốn phải được gắn với một chủ sở hữu nhất định để tránh sự chi tiêu lãng phí, thất thoát và kém hiệu quả.
- Quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là một quá trình vận động liên tục, do vậy vốn của doanh nghiệp cũng luôn vận động tạo ra sự tuần hoàn và chu chuyển vốn. Vốn vận động theo quy luật: T – H – T’…
1.1.2.2 Phân loại vốn
Vốn có vai trò rất quan trọng trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vì vậy việc quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả đóng vai trò sống còn đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Để đảm bảo việc quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả người ta phân vốn thành nhiều loại tuỳ theo mục đích quản lý và sử dụng:
* Căn cứ vào tính chất sở hữu
Theo hình thức sở hữu, vốn của doanh nghiệp được chia thành hai loại là vốn chủ sở hữu và nợ phải trả.
Vốn chủ sở hữu: đây là nguồn vốn thuộc sở hữu của chủ doanh nghiệp và các thành viên trong công ty liên doanh hoặc các cổ đông trong công ty cổ phần. Có ba nguồn tạo nên vốn chủ sở hữu: số tiền góp vốn của các nhà đầu tư, tổng số tiền tạo ra từ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh (lãi chưa phân phối) và chênh lệch đánh giá lại tài sản. Ngoài ra, vốn chủ sở hữu còn bao gồm vốn đầu tư xây dựng cơ bản và kinh phí sự nghiệp (khoản kinh phí Nhà nước cấp phát không hoàn lại, giao cho doanh nghiệp chi tiêu cho mục đích kinh tế lâu dài, mục đích chính trị xã hội ...)
Nợ phải trả: là các khoản nợ phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp có trách nhiệm phải thanh toán. Nợ phải trả bao gồm các khoản nợ ngắn hạn và dài hạn.
Để đảm bảo vốn cho quá trình sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải cân đối hai nguồn vốn nói trên tạo ra cơ cấu vốn tối ưu đối với doanh nghiệp. Cơ cấu vốn tối ưu của doanh nghiệp là cơ cấu vốn tại đó chi phí vốn của doanh nghiệp là thấp nhất nhưng vẫn đảm bảo an toàn khả năng thanh khoản của doanh nghiệp.
* Căn cứ vào thời gian sử dụng vốn
Căn cứ vào thời gian sử dụng vốn thì vốn của doanh nghiệp được chia thành vốn thường xuyên và vốn tạm thời.
Vốn thường xuyên bao gồm vốn chủ sở hữu và các khoản vay dài hạn. Đây là nguồn vốn mang tính chất ổn định và lâu dài mà doanh nghiệp có thể sử dụng. Đây là vốn mà doanh nghiệp có thể đầu tư mua sắm tài sản cố định và một bộ phận tài sản lưu động thường xuyên cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Vốn tạm thời: là nguồn vốn có tính chất ngắn hạn (dưới 1 năm hay một chu kỳ kinh doanh) mà doanh nghiệp sử dụng để đáp ứng nhu cầu vốn có tính chất tạm thời, phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vốn này bao gồm các khoản vay Ngân hàng và các tổ chức tín dụng, các khoản nợ ngắn hạn khác...
* Căn cứ vào đặc điểm luân chuyển của vốn trong chu kỳ sản xuất kinh doanh
Theo đặc điểm luân chuyển vốn, vốn được phân thành vốn lưu động và vốn cố định. Đây là hình thức phân loại thể hiện rõ ràng, chính xác và thuận tiện nhất mà hầu hết các doanh nghiệp hiện nay đang áp dụng.
- Vốn cố định:
Vốn cố định của doanh nghiệp là số vốn ứng trước cho những tư liệu lao động chủ yếu mà đặc điểm của nó là từng bộ phận giá trị được chuyển dần vào sản phẩm cho đến khi tư liệu lao động hết thời hạn sử dụng thì vốn cố định mới hoàn thành một vòng tuần hoàn. Vốn cố định là biểu hiện bằng tiền của của các TSCĐ. Nhưng vốn cố định và TSCĐ khác nhau ở chỗ: lúc mới hoạt động, vốn cố định của doanh nghiệp có giá trị bằng giá trị nguyên thuỷ của TSCĐ. Về sau, giá trị của vốn cố định thường thấp hơn giá trị nguyên thuỷ của TSCĐ do hao mòn.
Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, vốn cố định một mặt giảm dần do trích khấu hao và thanh lý TSCĐ, mặt khác lại tăng thêm giá trị do đầu tư xây dựng cơ bản đã hoàn thành. Như vậy giá trị của vốn cố định sẽ thay đổi: giảm giá trị TSCĐ sản xuất đã chuyển dịch vào sản phẩm hoàn thành và tăng thêm các chi phí đầu tư xây dựng cơ bản và sửa chữa lớn. Việc đổi mới TSCĐ và tăng thêm vốn cố định trong các doanh nghiệp có tác dụng rất lớn đối với việc nâng cao năng suất lao động, cải thiện điều kiện làm việc của lao động.
Trong quá trình luân chuyển, TSCĐ vẫn giữ nguyên hình thái vật chất nhưng giá trị của nó giảm thông qua hình thức khấu hao. Bởi vậy, yêu cầu của việc quản lý và sử dụng vốn cố định là phải dựa trên hai cơ sở: một là, phải đảm bảo cho TSCĐ của doanh nghiệp được toàn vẹn và nâng cao hiệu quả sử dụng của nó. Hai là, phải tính toán chính xác sổ trích lập quỹ khấu hao, đồng thời phân phối và sử dụng quĩ đó hợp lý để có kế hoạch trích khấu hao bù lại giá trị hao mòn, thực hiện đổi mới TSCĐ.
Như vậy, TSCĐ chính là biểu hiện của vốn cố định do đó sử dụng vốn cố định cũng có nghĩa là sử dụng TSCĐ. TSCĐ cũng là một loại hàng hoá như những hàng hoá thông thường khác, không chỉ có giá trị mà còn có giá trị sử dụng. TSCĐ ngoài việc được mua bán trên thị trường cũng còn có thể thuê, mượn, cầm cố, thế chấp tuỳ mục đích của người sử dụng. Để thuận tiện cho việc quản lý và sử dụng vốn cố định người ta có thể chia vốn cố định theo TSCĐ (TSCĐ hữu hình, vô hình), hay theo các phương tiện vật chất cụ thể (nhà cửa vật kiến trúc, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, thiết bị truyền dẫn...)
Vốn cố định của doanh nghiệp đóng một vai trò quan trọng đối với một doanh nghiệp trong quá trình hình thành và phát triển, do đó việc thường xuyên sửa chữa, đổi mới, bổ sung TSCĐ mới là việc làm sống còn đối với doanh nghiệp.
- Vốn lưu động:
Vốn lưu động là vốn của doanh nghiệp ứng trước vào vật tư và tài sản lưu động khác nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất và tái sản xuất của doanh nghiệp được tiến hành thường xuyên, liên tục. Khác với vốn cố định, vốn lưu động chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất của doanh nghiệp và không còn giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu, giá trị của nó được dịch chuyển toàn bộ, một lần vào giá trị sản phẩm. Vốn này được thu hồi sau một chu kỳ sản xuất kinh doanh và tiếp tục được đưa vào chu kỳ sản xuất tiếp theo một cách liên tục.
Vốn lưu động chính là biểu hiện bằng tiền của TSLĐ. Do đó, đặc điểm vận động của vốn lưu động luôn chịu sự chi phối của sự vận động của TSLĐ. Trong các doanh nghiệp, TSLĐ được chia làm hai loại:
- TSLĐ sản xuất: bao gồm các nguyên, nhiên vật liệu, bán thành phẩm, sản phẩm dở dang... đang trong quá trình dự trữ hoặc chế biến
- TSLĐ lưu thông: bao gồm các thành phẩm chờ tiêu thụ, các loại vốn bằng tiền, các khoản vốn trong thanh toán, các khoản phí chờ kết chuyển, chi phí trả trước...
Trong quá trình, sản xuất kinh doanh, các TSLĐ sản xuất và TSLĐ lưu thông luôn vận động, thay thế và chuyển hoá lẫn nhau, đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành liên tục.
Để phù hợp với các đặc điểm trên của TSLĐ, vốn lưu động của doanh nghiệp cũng không ngừng vận động qua các giai đoạn của chu kỳ sản xuất kinh doanh: dự trữ - sản xuất - lưu thông. Quá trình này diễn ra liên tục, thường xuyên, lặp đi lặp lại theo chu kỳ và được gọi là quá trình tuần hoàn, chu chuỷen của vốn lưu động. Qua mỗi giai đoạn của chu kỳ kinh doanh, vốn lưu động lại thay đổi hình thái biểu hiện, từ hình thái tiền tệ ban đầu chuyển sang hình thái vốn vật tư, hàng hoá dự trữ và vốn sản xuất rồi cuối cùng lại trở về hình thái vốn tiền tệ. Sau mỗi chu kỳ sản xuất, vốn lưu động hoàn thành một vòng chu chuyển.
Cũng giống như vốn cố định, việc quản lý vốn lưu động cũng có vai trò quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đặc biệt, đối với các doanh nghiệp thương mại và dịch vụ với lượng vốn lưu động thường cao hơn vốn cố định thì việc quản lý vốn lưu động có vai trò sống còn đối với doanh nghiệp.
1.1.2.2 Vai trò của vốn đối với hoạt động của doanh nghiệp
Trong thực tế, bất cứ một hoạt động sản xuất kinh doanh nào của doanh nghiệp cũng cần phải có sự kết hợp của 3 yếu tố là: tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động.
Tư liệu lao động và đối tượng lao động được gọi là tư liệu sản xuất. Để có hoạt động sản xuất kinh doanh thì cần có sự kết hợp giữa tư liệu sản xuất và sức lao động. Đối với doanh nghiệp thì tư liệu sản xuất và sức lao động chính là tài sản của doanh nghiệp. Vậy để tiến hành được quá trình sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải có tài sản, tức là phải có máy móc, nhà xưởng các trang thiết bị kỹ thuật và các nguyên vật liệu, vật tư, nhân công... Nhưng để có được tài sản đó thì doanh nghiệp phải có tiền để mua, lượng tiền đó chính là vốn. Do đó, với tư cách là đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh vốn có vai trò quyết định đối với quy mô sản xuất, chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp.
Vốn được đưa vào đầu tư sản xuất kinh doanh, dưới sự tác động của người sử dụng vốn, thông qua quy luật T – H – T’. Quy luật này với T’ > T, cho thấy vốn của doanh nghiệp sau quá trình sản xuất kinh doanh đã tạo ra một lượng giá trị lớn hơn ban đầu, đó là giá trị thặng dư. Như vậy, vốn có vai trò tạo ra giá trị thặng dư, đó chính là nguồn gốc của lợi nhuận doanh nghiệp.
Bên cạnh vai trò tạo ra giá trị thặng dư, vốn còn đóng vai trò quan trọng nữa là giám đốc quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Phần lớn mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đều có liên quan đến vốn, đều sử dụng vốn vì thế thông qua quản lý vốn có thể quản lý doanh nghiệp. Sự vận động của vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh cũng phản ánh sự vận động của hàng hoá dịch vụ vì vậy quản lý vốn cũng chính là quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Tóm lại, vốn có vai trò rất quan trọng trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, do đó việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là một việc là cần thiết của doanh nghiệp.
1.1 Hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp
1.2.1. Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp
Mỗi một doanh nghiệp trong một chu kỳ sản xuất kinh doanh đều phải sử dụng vốn để hoạt động. Với cùng một lượng vốn nhưng lợi nhuân thu được ở các doanh nghiệp khác nhau lại khác nhau. Vậy điều gì đã tạo ra sự khác biệt này? Vấn đề này có rất nhiều câu trả lời. Có thể do biến động của thị trường mà hàng hoá của công ty này bán chạy hơn công ty khác, song một nguyên nhân lớn là do công tác sử dụng vốn của các doanh nghiệp có hiệu quả khác nhau.
Vốn là một nhân tố hết sức quan trọng đối với doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh dù nó có nguồn gốc như thế nào, nhưng sử dụng vốn sao cho có hiệu quả lại quan trọng hơn nhiều. Nếu việc sử dụng vốn không mang lại hiệu quả sẽ dẫn tới việc lợi nhuận của doanh nghiệp bị giảm sút, thậm chí còn đưa doanh nghiệp tới việc mất khả năng thanh toán các khoản nợ, và phải giải thể. Vì vậy, việc đánh giá hiệu quả sử dụng vốn là không thể thiếu đối với bất kỳ doanh nghiệp nào trong nền kinh tế thị trường.
Hiệu quả sử dụng vốn có thể được đánh giá bằng nhiều cách, nhiều chỉ tiêu, trong nhiều mô hình khác nhau nhưng nhìn chung nó thường được đánh giá thông qua mối quan hệ giữa khối lượng đầu vào (vốn) với kết quả có được ở đầu ra (sản lượng, lợi nhuận...).
Nếu ta gọi đầu vào (vốn) là K, đầu ra (sản lượng) là G, thì quan hệ giữa đầu vào và đầu ra là: G = K/ k (hay G = a.K với a = 1/k) với k là một hằng số, gọi là hệ số vốn – sản lượng. Hệ số này cho biết số vốn cần thiết để tạo ra một đơn vị sản lượng. Với một lượng vốn cụ thể phương án sử dụng nào cho hệ số k nhỏ nhất thì chi phí ít nhất và sẽ được lựa chọn để thực hiện.
Hiệu quả sử dụng vốn cũng còn được đánh giá bằng một chỉ tiêu quan trọng khác đó là thời gian sử dụng vốn. Thời gian sử dụng vốn càng ngắn thì chi phí quản lý trong quá trình sử dụng vốn càng được giảm bớt, đồng thời vốn bỏ ra càng sớm được thu hồi, do vậy hiệu quả sử dụng vốn càng cao. Ví dụ có thể sử dụng công thức sau: h = (Dt/T).100
Với : h - hiệu quả sử dụng vốn
Dt - thời gian sử dụng vốn được rút ngắn so với thời gian định mức hay dự kiến.
T - Thời hạn thu hồi vốn
Như vậy, nếu Dt càng lớn tức là thời gian sử dụng vốn được rút ngắn càng nhiều thì hiệu quả sử dụng vốn càng cao.
1.1.2 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp
Vốn là nhân tố quan trọng hàng đầu đối với quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nhưng việc sử dụng vốn sao cho có hiệu quả lại còn quá trình hơn rất nhiều. Hiệu quả sử dụng vốn có thể được đánh giá thông qua nhiều chỉ tiêu khác nhau tuỳ theo mục đích nghiên cứu. Thông thường, hiệu quả sử dụng vốn được đánh giá thông qua một số chỉ tiêu sau:
1.2.2.1. Các chỉ tiêu về cơ cấu vốn
Nhóm chỉ tiêu này phản ánh một cách tổng quát về cơ cấu vốn cũng như cơ cấu sử dụng vốn của doanh nghiệp. Nhóm chỉ tiêu này bao gồm một số chỉ tiêu:
* Hệ số cơ cấu nguồn vốn
S Vốn chủ sở hữu (S Nợ phải trả)
Hệ số cơ cấu nguồn vốn =
S Nguồn vốn
Chỉ tiêu này cho biết cơ cấu vốn của doanh nghiệp. Cơ cấu vốn của các loại hình doanh nghiệp, từng ngành sản xuất kinh doanh là khác nhau. Đối với các doanh nghiệp lớn, có uy tín thì họ có khả năng huy động vốn từ vay nợ lớn hơn các doanh nghiệp vừa và nhỏ... Việc phân tích chỉ tiêu cơ cấu vốn có ý nghĩa rất quan trọng đối với doanh nghiệp, bởi cơ cấu vốn là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp.
* Hệ số nợ vốn chủ sở hữu
S Nợ phải trả
Hệ số nợ vốn chủ sở hữu =
S Vốn chủ sở hữu
Chỉ tiêu này cho biết tổng số vốn huy động từ vay nợ của doanh nghiệp bằng bao nhiêu lần vốn chủ sở hữu. Đối với doanh nghiệp thì việc sử dụng nợ càng nhiều thì càng có lợi vì sử dụng nợ có tác dụng làm tăng thu nhập trên vốn chủ sở hữu. Nhưng nếu tỷ lệ sử dụng nợ cao quá thì doanh nghiệp cũng sẽ phải chịu rủi ro thanh toán, rủi ro này do người cho vay gánh chịu, do đó họ sẽ yêu cầu lãi suất cao hơn và đến một lúc nào đó doanh nghiệp sẽ không thể vay được vốn nữa.
* Hệ số nợ tổng tài sản
S Nợ phải trả
Hệ số nợ tổng tài sản =
S Tài sản
Chỉ tiêu này cho biết một đồng tài sản của doanh nghiệp được tài trợ bởi bao nhiêu đồng nợ phải trả. Thông thường tài sản của doanh nghiệp được tài trợ bởi hai nguồn là vốn chủ sở hữu và nợ phải trả. Thông thường TSCĐ và một phần tài sản lưu động thường xuyên được tài trợ bởi nợ dài hạn và vốn chủ sở hữu còn tài sản lưu động tạm thời thì có thể tài trợ bằng nợ ngắn hạn. Căn cứ vào chỉ tiêu này doanh nghiệp có thể có kế hoạch điều chỉnh việc huy động và sử dụng vốn.
* Hệ số cơ cấu tài sản
Vốn và tài sản có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Vì vậy, nghiên cứu vốn phải đặt trong mối quan hệ với tài sản.
TSCĐ hoặc TSLĐ
Hệ số cơ cấu tài sản =
S Tài sản
Hệ số cơ cấu tài sản cho biết cơ cấu sử dụng vốn của doanh nghiệp. Doanh nghiệp sử dụng vốn để đầu tư vào tài sản, và sử dụng tài sản đó phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh của mình. Tùy từng loại hình doanh nghiệp, cũng như trong từng giai đoạn sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp có thể sử dụng vốn đầu tư vào TSLĐ, hay TSCĐ. Ví dụ, các doanh nghiệp sản xuất, xây dựng thường có tỷ trọng TSCĐ cao, trong khi các doanh nghiệp thương mại, dịch vụ thì tỷ trọng TSLĐ trong tổng tài sản lại cao hơn.
1.2.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định
* Hiệu suất sử dụng vốn cố định
Doanh thu thuần
Hiệu suất sử dụng =
vốn cố định Vốn cố định bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng vốn cố định có thể tham gia tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu thuần trong kỳ. Có thể thấy chỉ tiêu này là nghịch đảo của chỉ tiêu hàm lượng vốn cố định nên chỉ tiêu này càng cao thì hiệu quả sử dụng vốn cố định càng cao.
* Tỷ suất sinh lợi vốn cố định
Lợi nhuận sau thuế
Tỷ suất sinh lợi =
vốn cố định Vốn cố định bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn cố định trong kỳ có thể tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. Khi sử dụng chỉ tiêu này cần lưu ý là chỉ tính lợi nhuận do có sự tham gia trực tiếp của TSCĐ tạo ra, vì thế cần phải loại ra các khoản thu nhập khác như lãi do hoạt động tài chính, lãi do góp vốn liên doanh, lãi khác... không có sự tham gia của TSCĐ.
Ngoài các chỉ tiêu trên, hiệu quả sử dụng TSCĐ còn được đánh giá thông qua một số chỉ tiêu khác như hệ số hao mòn TSCĐ, kết cấu TSCĐ, hệ số trang bị TSCĐ cho một công nhân.
1.2.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động
Hiệu quả sử dụng vốn lưu động được phản ánh dựa trên cơ sở mối quan hệ giữa đầu vào (vốn lưu động) và đầu ra (doanh thu, lợi nhuận, sản lượng...) và dựa trên thời gian sử dụng vốn (tốc độ luân chuyển vốn lưu động).
Trên cơ sở mối quan hệ giữa đầu vào và đầu ra, hiệu quả sử dụng vốn lưu động được đánh giá qua các chỉ tiêu:
* Hiệu suất sử dụng vốn lưu động
Doanh thu thuần
Hiệu suất sử dụng =
vốn lưu động Vốn lưu động bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn lưu động có thể tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu. Số doanh thu được tạo ra trên một đồng vốn lưu động càng cao thì hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng cao.
* Tỷ suất sinh lợi vốn lưu động
Lợi nhuận sau thuế
Tỷ suất sinh lợi =
vốn lưu động Vốn lưu động bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng vốn lưu động bỏ vào sản xuất kinh doanh thì có thể tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. Tỷ suất sinh lợi vốn lưu động càng cao chứng tỏ doanh nghiệp sử dụng vốn có hiệu quả.
Trên cơ sở thời gian sử dụng vốn, hiệu quả sử dụng vốn lưu động được phản ánh thông qua các chỉ tiêu:
* Tốc độ luân chuyển vốn lưu động
Tốc độ luân chuyển vốn lưu động thể hiện bởi số vòng quay vốn lưu động trong một kỳ sản xuất kinh doanh.
Doanh thu thuần
Số vòng quay =
vốn lưu động Vốn lưu động bình quân trong kỳ
Số vòng quay vốn lưu động có ý nghĩa rất lớn đối với doanh nghiệp. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ vốn lưu động của doanh nghiệp luân chuyển nhanh, do vậy rút ngắn được thời gian hoàn vốn, cũng như chi phí sử dụng vốn lưu động.
* Thời gian của một vòng luân chuyển
Thời gian của một vòng luân chuyển phản ánh số ngày để thực hiện một vòng quay vốn lưu động.
360 (ngày)
Thời gian một =
vòng luân chuyển Số vòng quay vốn lưu động
Vòng quay vốn càng nhanh thì thời gian của một vòng luân chuyển càng được rút ngắn và chứng tỏ vốn lưu động càng được sử dụng có hiệu quả cao.
* Kỳ thu tiền bình quân
Các khoản phải thu
Kỳ thu tiền bình quân =
Doanh thu bình quân 1 ngày
Kỳ thu tiền bình quân đo lường khả năng thu hồi vốn trong thanh toán của doanh nghiệp đồng thời phản ánh công tác quản lý các khoản phải thu và chính sách tín dụng của doanh nghiệp đối với khách hàng của mình.
* Vòng quay hàng tồn kho
Vòng quay hàng tồn kho phản ánh khả năng tiêu thụ của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả thì hàng tồn kho thấp, vòng quay hàng tồn kho sẽ cao.
Giá vốn hàng bán
Vòng quay hàng tồn kho =
Hàng tồn kho
1.2.2.4. Các chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh lợi
* Hệ số sinh lợi doanh thu
Lợi nhuận sau thuế
Hệ số sinh lợi =
doanh thu Doanh thu thuần
Hệ số này phản ánh cứ một đồng doanh thu thì tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. Hệ số này càng cao chứng tỏ doanh nghiệp đang làm ăn có hiệu quả. Trong thực tế, lợi nhuận là phần còn lại của doanh thu sau khi trừ đi mọi chi phí và nộp thuế thu nhập doanh nghiệp. Do vậy, với một doanh nghiệp doanh thu cao chưa chắc lợi nhuận đã cao mà nó còn phụ thuộc vào chi phí của doanh nghiệp và thuế.
* Hệ số sinh lợi vốn chủ sở hữu
Lợi nhuận sau thuế
Hệ số sinh lợi =
vốn chủ sở hữu Vốn chủ sở hữu
Hệ số sinh lợi vốn chủ sở hữu cho biết một đồng vốn chủ sở hữu được sử dụng thì tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. Vì vốn chủ sở hữu khi sử dụng có chi phí cơ hội nên nếu hệ số này không cao thì chi phí vốn sẽ lớn và hiệu quả sử dụng vốn thấp.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp
1.3.1. Các nhân tố thuộc về phía Nhà nước
Nhà nước quản lý vĩ mô nền kinh tế bằng pháp luật và các chính sách kinh tế vĩ mô. Do đó mọi doanh nghiệp đều phải tiến hành sản xuất kinh doanh trên cơ sở pháp luật và phù hợp với chính sách phát triển kinh tế của Nhà nước. Chỉ một sự thay đổi nhỏ trong chế độ chính sách hiện hành đều trực tiếp hoặc gián tiếp ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đặc biệt, các doanh nghiệp Nhà nước còn chịu sự quản lý trực tiếp của Nhà nước thông qua việc cấp ngân sách, và định hướng phát triển sản xuất kinh doanh.
Các chính sách của Nhà nước trực tiếp ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp có thể kể tới chính sách thuế, chính sách lãi suất, chính sách tỷ giá hối.
CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT
Lãi suất thể hiện như là chi phí của việc sử dụng vốn, do vậy nó là nhân tố quan trọng trong quyết định sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Khi lãi suất ở mức cao, chi phí của việc sử dụng vốn đầu tư vào kinh doanh sẽ cao do chi phí cơ hội của việc sử dụng vốn lớn, do vậy doanh nghiệp sẽ ít đầu tư vào sản xuất kinh doanh hơn, ngược lại khi lãi suất giảm các doanh nghiệp sẽ đầu tư vào các tài sản nhiều hơn.
Đối với việc đầu tư hàng dự trữ, chi phí của việc gửi hàng dự trữ là khoản lãi trả cho khoản tiền đáng lẽ thu được do bán nhượng hàng hoá này đi hay khoản vay để mua hàng. Lãi suất tăng làm cho chi phí của việc giữ hàng tăng và làm cho đầu tư vào hàng dự trữ giảm.
Như vậy, lãi suất là nhân tố chủ yếu quyết định việc sử dụng vốn của doanh nghiệp để đầu tư vào vốn là tài sản hay hàng dự trữ. Do đó chính sách lãi suất có ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ
Tỷ giá là giá cả tiền tệ của nước này được thể hiện bằng đơn vị tiền tệ của nước khác. Tỷ giá là quan trọng vì nó tác động đến giá cả tương đối của hàng hoá trong nước và hàng hoá nước ngoài.
Khi đồng tiền một nước tăng giá (tăng trị giá so với các đồng tiền khác) thì hàng hoá của nước đó tại nước ngoài trở thành đắt hơn và hàng hoá nước ngoài tại nước đó trở thành rẻ hơn (giá nội địa tại hai nước giữ nguyên). Ngược lại, khi đồng tiền của một nước sụt giá, hàng hoá của nước đó tại nước ngoài trở thành rẻ hơn trong khi hàng hoá nước ngoài tại nước đó trở thành đắt hơn.
Tỷ giá có ảnh hưởng rất lớn tới các hoạt động xuất nhập khẩu, do đó ảnh hưởng tới các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu. Đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, một lượng vốn lớn được đầu tư vào việc nhập khẩu hay xuất khẩu hàng hoá, do đó tỷ giá có ảnh hưởng rất lớn tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Tỷ giá quyết định giá cả hàng hoá xuất nhập khẩu, gián tiếp ảnh hưởng tới khả năng tiêu thụ của hàng hoá vì thế ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Vì vây, chính sách tỷ giá của Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong hoạt động của các doanh nghiệp dịch vụ và thương mại nhất là các doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu.
Chính sách thuế
Chính sách thuế có ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Thuế thu nhập doanh nghiệp trực tiếp ảnh hưởng tới lợi nhuận của doanh nghiệp. Thuế thu nhập doanh nghiệp còn ảnh hưởng tới quyết định sử dụng vốn của doanh nghiệp. Thuế thu nhập doanh nghiệp cao hay thấp sẽ ảnh hưởng tới việc doanh nghiệp sử dụng lợi nhuận sau thuế hay vay nợ để tái đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Do hai nguồn vốn này có chi phí khác nhau nên hiệu quả sử dụng cũng khác nhau.
Thuế xuất nhập khẩu ảnh hưởng tới giá cả hàng hoá xuất nhập khẩu, do vậy ảnh hưởng tới khả năng tiêu thụ hàng hoá của các doanh nghiệp thương mại có hoạt động xuất nhập khẩu do đó có tác động tới hiệu quả sử dụng vốn của các doanh nghiệp này.
Chính sách thuế của Nhà nước là nhân tố ảnh hưởng rất quan trọng tới công tác sử dụng vốn của doanh nghiệp, vì vậy để đạt hiệu quả sử dụng vốn cao doanh nghiệp phải luôn chú ý tới nhân tố này.
Ngoài ra, các chính sách kinh tế đối ngoại, các văn bản pháp luật về hoạt động của doanh nghiệp… đều có ảnh hưởng tới hoạt động của doanh nghiệp trong suốt quá trình kinh doanh.Vì vậy, nếu các chính sách của Nhà nước được quyết định đúng đắn sẽ là động lực rất lớn đối với các doanh nghiệp trong việc đầu tư vào sản xuất kinh doanh, ngược lại sẽ gây ra nhiều khó khăn cho doanh nghiệp.
1.3.2. Các nhân tố thuộc về phía doanh nghiệp
1.3.2.1. Loại hình doanh nghiệp
Quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phụ thuộc nhiều vào đặc điểm của từng loại hình doanh nghiệp. Loại hình doanh nghiệp trực tiếp ảnh hưởng tới việc tổ chức sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và do đó ảnh hưởng tới việc sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Quá trình kinh doanh của doanh nghiệp sản xuất vật chất khác với doanh nghiệp thương mại – dịch vụ. Đối với các doanh nghiệp sản xuất vật chất, quá trình kinh doanh được gọi là quá trình sản xuất kinh doanh, đó là quá trình bao gồm từ việc đầu tiên là nghiên cứu, xác định nhu cầu của thị trường về hàng hoá dịch vụ, tổ chức sản xuất đến việc cuối cùng là tổ chức tiêu thụ hàng hoá và thu tiền về cho doanh nghiệp. Do đặc điểm gồm nhiều giai đoạn, sử dụng nhiều công nghệ khác nhau nên các doanh nghiệp sản xuất đòi hỏi phải sử dụng lượng vốn thường lớn trong đó vốn cố định có tỷ trọng cao trong tổng vốn đầu tư. Vì thế, việc quản lý vốn cố định có vai trò rất quan trọng trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp.
Đối với doanh nghiệp thương mại - dịch vụ thì quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra chủ yếu là mua và bán hàng hoá dịch vụ, chu kỳ kinh doanh ngắn hơn, hàm lượng vốn lưu động sử dụng thường cao hơn vốn cố định, do vậy việc quản lý vốn lưu động đóng vai trò sống còn đối với doanh nghiệp.
1.3.2.2. Cơ cấu vốn và chi phí vốn
Cơ cấu vốn là thuật ngữ dùng để chỉ một doanh nghiệp sử dụng các nguồn vốn khác nhau nhưng với một tỷ lệ nào đó của mỗi nguồn để tài trợ cho tổng tài sản. Chi phí vốn chính là chi phí trả cho việc huy động và sử dụng vốn. Mỗi nguồn vốn đều có chi phí, đối với vốn chủ sở hữu thì đó là chi phí cơ hội còn đối với vốn vay thì đó chính là lãi suất.
Do mỗi nguồn vốn huy động có chi phí khác nhau nên cùng với một lượng vốn được huy động nhưng tỷ lệ của các nguồn vốn khác nhau thì chi phí trung bình của vốn cũng khác nhau. Cơ cấu vốn có liên quan đến việc tính toán chi phí trung bình của vốn và nó được sử dụng trong quyết định dự toán sử dụng vốn.
Ảnh hưởng của cơ cấu vốn đến thu nhập của doanh nghiệp là rất rõ rệt. Ngoài tác dụng làm tăng thu nhập trên vốn chủ sở hữu, khi doanh nghiệp sử dụng nợ tài trợ cho tài sản của doanh nghiệp thì chỉ cần một số lượng vốn hạn chế cũng vẫn nắm được quyền kiểm soát doanh nghiệp, mặt khác khi vốn chủ sở hữu có tỷ trọng nhỏ thì doanh nghiệp phải đối mặt với rủi ro thanh khoản.
Do cơ cấu vốn có ảnh hưởng tới thu nhập cũng như rủi ro của doanh nghiệp do đó nó có ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp xác định được cơ cấu vốn tối ưu thì không những đảm bảo được vốn để kinh doanh mà còn giảm được chi phí sử dụng vốn vì thế có thể nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Do vậy, trong thực tiễn hoạt động của mình, các doanh nghiệp phải tìm ra được cơ cấu vốn phù hợp với tình hình cụ thể của doanh nghiệp, trên cơ sở đó để tiến hành huy động và sử dụng vốn.
Cơ cấu vốn tối ưu là cơ cấu vốn làm cân bằng tối đa giữa rủi ro và lãi suất và bằng cách đó tối đa hoá giá trị của doanh nghiệp. Với cơ cấu vốn tối ưu thì chi phí trung bình quân gia quyền của vốn cũng thấp nhất.
Có bốn nhân tố chính ảnh hưởng tới quyết định về cơ cấu vốn:
Một là: Rủi ro kinh doanh
Rủi ro kinh doanh là rủi ro cố hữu trong tài sản của doanh nghiệp trong trường hợp doanh nghiệp không sử dụng nợ. Rủi ro kinh doanh càng lớn thì tỷ lệ nợ tối ưu càng thấp.
Hai là: Thuế thu nhập doanh nghiệp
Thuế thu nhập càng cao thì càng hạ thấp chi phí thực tế của nợ. Do vậy, khi thuế thu nhập cao thì các doanh nghiệp có xu hướng sử dụng nợ.
Ba là: Khả năng linh hoạt tài chính hay khả năng huy động vốn trong những điều kiện thay đổi. Thực tế cho thấy, những doanh nghiệp có uy tín lớn thì việc huy động vốn dễ dàng hơn do đó họ có thể duy trì tỷ lệ nợ cao hơn.
Cuối cùng, một nhân tố cũng có ảnh hưởng tới cơ cấu vốn là quan điểm của các nhà quản lý. Có nhà quản lý thích sử dụng nợ nhiều hơn, trong khi nhiều người khác lại thích sử dụng vốn chủ sở hữu.
Tóm lại, cơ cấu vốn và chi phí vốn là một nhân tố quan trọng mà bất cứ nhà quản lý nào cũng phải chú ý trong khi sử dụng vốn. Nếu cơ cấu vốn được sử dụng tối ưu thì sẽ làm giảm chi phí vốn, giúp doanh nghiệp tăng lợi nhuận, tăng giá trị tài sản của doanh nghiệp.
1.3.2.3. Trình độ lao động
Ngày nay, khi trình độ khoa học công nghệ đã phát triển, nhiều công việc có thể được vận hành bằng máy móc. Tuy vậy, vai trò của người lao động trong doanh nghiệp vẫn không thể thiếu được. Lao động của doanh nghiệp được nhìn nhận dưới cả hai góc độ: lao động quản lý và lao động trực tiếp sản xuất kinh doanh.
Lao động quản lý là lao động của các nhà lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp. Trong một doanh nghiệp, quyết định của các nhà lãnh đạo là quyết định cuối cùng , trực tiếp ảnh hưởng tới mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Người lãnh đạo là người quyết định sẽ sử dụng vốn như thế nào, đầu tư vào đâu, với số lượng bao nhiêu, với cơ cấu vốn ra sao. Quan điểm, phương pháp sử dụng vốn của mỗi người là không giống nhau, tùy vào trình độ năng lực và mục đích của họ. Do vậy, trình độ, trách nhiệm của người lãnh đạo có ảnh hưởng lớn tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Lao động của công nhân ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả của việc sử dụng vốn. Vốn được đầu tư vào các yếu tố đầu vào của sản xuất kinh doanh, còn người lao động sẽ sử dụng đầu vào đó để tạo ra đầu ra, thu nhập của doanh nghiệp. Lao động có trình độ tay nghề, tâm huyết và có ý thức trách nhiệm là nguồn vốn lớn nhất của doanh nghiệp, nó là yếu tố giúp doanh nghiệp nâng cao năng suất lao động, tránh được những lãng phí, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
1.3.2.4. Hiệu quả huy động vốn của doanh nghiệp
Vốn của doanh nghiệp được hình thành từ hai nguồn chủ yếu là vốn chủ sở hữu và nợ phải trả. Doanh nghiệp sử dụng vốn đó đầu tư vào tài sản doanh nghiệp để sản xuất kinh doanh. Khi đầu tư vào mua sắm tài sản, dù bằng nguồn nào thì doanh nghiệp cũng phải chịu một chi phí đó là chi phí sử dụng vốn. Đối với vốn chủ sở hữu thì chi phí là chi phí cơ hội mà doanh nghiệp có thể dùng vốn đó để đầu tư vào một dự án khác, còn với nợ phải trả thì chi phí chính là lãi vay.
Hiệu quả huy động vốn có tác động khá lớn đối với hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Do việc sử dụng vốn là có chi phí do vậy nếu doanh nghiệp có khả năng huy động được những nguồn vốn lớn, ổn định và có chi phí thấp thì việc sử dụng vốn của doanh nghiệp sẽ gặp rất nhiều thuận lợi. Đối với mỗi doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp thương mại luôn có những nhu cầu vốn bất thường cần sử dụng, ví dụ như cần trả tiền nguyên vật liệu trong khi chưa tiêu thụ được hàng hoá hoặc cần những khoản tiền để đặt cọc trong các thương vụ làm ăn lớn... trong trường hợp này khả năng huy động vốn tức thời, với chi phí phù hợp sẽ làm tăng khả năng chủ động của doanh nghiệp trong kinh doanh.
Vì vậy, hiệu quả huy động vốn của một nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Để nâng cao khả năng huy động vốn, doanh nghiệp cần tạo cho mình những mối quan hệ tốt đối với khách hàng, nhà cung cấp, các Ngân hàng thương mại... đồng thời không ngừng nâng cao uy tín của công ty trong kinh doanh.
1.3.2.5. Nhân tố thị trường
Trong nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, mọi hoạt động sử dụng vốn của doanh nghiệp từ việc huy động vốn, sử dụng vốn mua sắm các yếu tố đầu vào, đến việc bán sản phẩm thu hồi vốn đều diến ra trên thị trường. Do vậy, thị trường là một nhân tố có ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Thị trường là nơi gặp gỡ của doanh nghiệp với khách hàng, nhà cung cấp, và cả những đối thủ cạnh tranh để xác định được cung cầu và giá cả hàng hoá. Thông qua cung cầu và giá cả hàng hoá trên thị trường, doanh nghiệp có thể xác định được quy mô sản xuất, số lượng và chất lượng sản phẩm do đó ảnh hưởng tới quy mô của việc huy động và sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Giá cả của các yếu tố đầu vào quyết định chi phí sản xuất kinh doanh, giá cả của hàng hoá bán ra quyết định doanh thu, lợi nhuận của doanh nghiệp, mặt khác hiệu quả được đánh giá thông qua kết quả và chi phí do vậy giá cả có ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp
Cạnh tranh là một đặc trưng cơ bản của thị trường, nó là động lực phát triển của doanh nghiệp. Cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải sử dụng vốn có hiệu quả nhất thì mới có thể nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm... giành lợi thế trong cạnh tranh, mở rộng thị phần doanh nghiệp trên thị trường.
1.3.3. Các nhân tố khác
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải chịu tác động rất nhiều của các nhân tố khách quan bắt nguồn từ môi trường bên ngoài. Các nhân tố khách quan như thiên tai, hoả hoạn, dịch bệnh, sự khủng hoảng kinh tế, chiến tranh... đều có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp do vậy cũng ảnh hưởng tới tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Ảnh hưởng của các nhân tố này khi chúng xảy ra là rất lớn, nhiều khi chúng có thể phá hoại cả một nền kinh tế chứ không riêng gì một doanh nghiệp.
Xác suất xảy ra rủi ro bởi các nhân tố khách quan là rất thấp nhưng không phải là không thể xảy ra. Đặc biệt, việc dự đoán tác động của chúng đối với doanh nghiệp là rất khó vì vậy chỉ có thể phòng ngừa nhằm giảm tác hại khi chúng xảy ra. Để có thể hạn chế rủi ro của các tác nhân này doanh nghiệp cần phải chú ý tới các biện pháp phòng ngừa rủi ro đồng thời trích lập các quỹ dự phòng rủi ro để có thể hạn chế tổn thất cũng như có thể duy trì đươcj kinh doanh khi rủi ro xảy ra.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN
TẠI CÔNG TY DỊCH VỤ VÀ THƯƠNG MẠI TSC
2.1. Giới thiệu chung về công ty Dịch vụ và Thương mại TSC
2.1.1 Giới thiệu về công ty
Công ty dịch vụ và thương mại (tiếng Anh là: Trade and Service Company, viết tắt là TSC) là doanh nghiệp đoàn thể do phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam thành lập, đầu tư 100% vốn và quản lý trực tiếp, toàn diện.
Công ty Dịch vụ và Thương mại hoạt động theo cơ chế quản lý đối với các doanh nghiệp Nhà nước được quy định tại văn bản 283/CN ngày 16 tháng 1 năm 1993 do Bộ trưởng Chủ nhiệm văn phòng Chính phủ ký, thông báo ý kiến của Thủ tướng chính phủ về việc quản lý các doanh nghiệp đoàn thể.
Công ty Dịch vụ và Thương mại (dưới đây gọi tắt là công ty) có tư cách pháp nhân đầy đủ, có trụ sở làm việc riêng, có tài khoản tiền đồng Việt Nam và tài khoản ngoại tệ mở tại các ngân hàng, có con dấu để giao dịch và thực hiện chế độ hạch toán kinh tế độc lập.
Công ty có trụ sở chính tại 79 Phố Bà Triệu – Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội. Ngoài ra công ty còn có các chi nhánh tại Thành phố Hải Phòng, Đà Nẵng và Thành Phố Hồ Chí Minh.
2.1.2. Đặc điểm kinh doanh của công ty
Công ty Dịch vụ và Thương mại (TSC) là một doanh nghiệp đoàn thể, hạch toán độc lập và trực thuộc sự quản lý của phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam. Chức năng của công ty là kinh doanh dịch vụ và hàng hoá nhằm tạo ra nguồn thu bổ sung kinh phí hoạt động xúc tiến thương mại và đầu tư của Phòng Thương mại.
Tuy là một công ty trực thuộc nhưng công ty được phép chủ động trong việc tiếp cận tìm kiếm thị trường, khai thác các mặt hàng, các dịch vụ nhằm mục đích kinh doanh thu lợi. Công ty có chi nhánh tại các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí minh và có mối quan hệ làm ăn với các cá nhân và tổ chức trên toàn quốc.
Hiện tại, những hoạt động kinh doanh chính mang lại thu nhập cho công ty là: lữ hành du lịch, dịch vụ vé máy bay, kinh doanh hàng hoá xuất nhập khẩu, hoạt động tư vấn và hội chợ triển lãm, và xuất khẩu lao động.
Hoạt động lữ hành du lịch: đây là hoạt động quan trọng không chỉ trong việc tạo ra doanh thu lớn cho công ty mà còn có tác dụng thúc đẩy giao lưu thương mại, mở rộng thị trường cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Hàng năm công ty đã đưa hàng trăm đoàn doanh nghiệp Việt Nam đi Hội chợ triển lãm, khảo sát thị trường, học hỏi kinh nghiệm, dự hội thảo chuyên đề nghiệp vụ ở nước ngoài tại 15 nước. Tổ chức đón gần một ngàn khách vào tham quan du lịch, khảo sát thị trường, tìm kiếm cơ hội kinh doanh ở Việt Nam.
Hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá: đây là hoạt động mang lại đầu tư chủ yếu cho công ty. Là một công ty thương mại nhưng hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá của công ty hầu như chỉ mang tính chất dịch vụ chứ không mang nhiều tính chất thương mại. Hàng hoá xuất khẩu của công ty chủ yếu là hàng thủ công mỹ nghệ (hàng sơn mài, mây, tre đan…), các nguyên liệu thô như quặng đồng, kẽm,... Công ty không trực tiếp mua hàng để xuất khẩu mà chủ yếu do các công ty có nguồn hàng cần xuất khẩu nhờ bán hộ do công ty có nhiều mối quan hệ làm ăn ở nước ngoài. Do vậy, công ty không cần vốn để mua hàng mà chủ yếu là mua chịu, sau khi xuất khẩu thu tiền mới phải thanh toán. Hàng hoá nhập khẩu của công ty chủ yếu là các máy móc, thiết bị sản xuất, hàng tiêu dùng... Các hàng hoá này hầu hết công ty đều được các công ty trong nước đặt hàng nhờ công ty nhập hộ, công ty chỉ làm dịch vụ trung gian hưởng hoa hồng.
Hoạt động xuất khẩu lao động: đây là hoạt động mang lại lợi nhuận rất lớn cho công ty. Lao động được công ty đưa ra nước ngoài chủ yếu là các thuyền viên làm việc trên các tàu viễn dương, các lao động giúp việc cho các gia đình ở nước ngoài. Thị trường xuất khẩu lao động của công ty chủ yếu là Malaixia, Đài Loan và Nhật Bản.
Hoạt động tư vấn và hội chợ triển lãm: tổ chức các hội chợ triển lãm hàng Việt Nam trong và ngoài nước, đồng thời tư vấn cho các doanh nghiệp Việt Nam về luật pháp cũng như các thông tin về môi trường kinh doanh trong và ngoài nước.
Ngoài ra, công ty còn làm đại lý bán vé máy bay cho hãng hàng không Việt Nam Airline.
Nhìn chung, trong tất cả các hoạt động của công ty ta nhận thấy tuy là một công ty thương mại và dịch vụ nhưng chủ yếu công ty vẫn là làm dịch vụ, đây là một hạn chế. Để tăng lợi nhuận thì trong thời gian tới công ty cần chủ động hơn trong việc kinh doanh, mở rộng hơn nữa các lĩnh vực dịch vụ cũng như tăng cường hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá.
2.1.3. Tình hình kinh doanh của công ty Dịch vụ và Thương mại TSC trong những năm gần đây
Trong những năm gần đây, được sự ủng hộ và chỉ đạo sát sao của Ban thường trực, các chi nhánh, các công ty trong hệ thống Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, cùng với những nỗ lực của toàn bộ tập thể cán bộ công nhân viên, công ty đã thu được những kết quả nhất định về kinh doanh.
Mặc dù lượng vốn chủ sở hữu của công ty bỏ ra kinh doanh trong những năm gần đây hầu như không tăng, nhưng doanh thu và lợi nhuận của công ty ngày một tăng mạnh cho thấy công ty hiện đang sử dụng vốn khá có hiệu quả.
Biểu 1 : Doanh thu thực hiện chia theo các lĩnh vực kinh doanh
Đơn vị: tỷ đồng
Lĩnh vực kinh doanh
Doanh thu
2002
Doanh thu
2001
2002/2001
(%)
Xuất khẩu hàng hoá
15
9
166,7
Xúc tiến thương mại
26
18,6
139,7
Xuất khẩu lao động
1,6
1,2
133.3
Các lĩnh vực khác
54,9
41
133,9
Tổng doanh thu
97,5
69,8
139.7
(Nguồn: Phòng tài chính kế toán)
Cùng với việc hoàn thành vượt mức kế hoạch, công ty đã đóng góp một phần đáng kể vào sự phát triển kinh tế xã hội nói chung và tạo ra nguồn thu bổ sung cho kinh phí hoạt động xúc tiến của Phòng thương mại nói riêng.
Công tác xuất nhập khẩu hàng hoá : duy trì và mở rộng thị trường đã có, khai thác thêm nhiều thị trường mới. Ngoài Nhật Bản, Tiệp Khắc, Sinhgapo, Hồng Kông, đã thêm Trung Quốc, Australia tạo hiệu quả kinh doanh cao hơn trước.
Công tác xúc tiến thương mại công ty đã khai thác tốt lợi thế chung của Phòng Thương mại, cùng với việc được cấp lại giấy phép lữ hành quốc tế đã đẩy mạnh tổ chức đưa các đoàn doanh nghiệp của Việt Nam đi Hội chợ triển lãm, khảo sát thị trường, học hỏi kinh nghiệm, dự hội thảo chuyên đề nghiệp vụ ở nước ngoài với 120 đoàn, 1750 người, 650 doanh nghiệp đơn vị tại 15 nước. Tổ chức đón 850 khách vào tham quan khảo sát tại Việt Nam (năm 2002)
Công tác xuất khẩu lao động năm 2002 đã đưa được 727 lao động sang Đài Loan, làm việc trên các tàu du lịch vùng Thái Bình Dương, hoàn tất thủ tục chuẩn bị đưa lao động đi làm việc tại Nhật Bản và Malaixia.
Bên cạnh bước tập trung phát triển các dịch vụ trên, công ty đã khai thác thêm những lợi thế khác để tạo việc làm trong các lĩnh vực như: nhập khẩu hàng hoá, tạm nhập tái xuất, xuất nhập khẩu uỷ thác...
* Nộp ngân sách Nhà nước và kinh phí cho Phòng Thương mại:
- Nộp ngân sách Nhà nước năm 2001 là 9,1 tỷ đồng, năm 2002 là: 13,4 tỷ tăng 147% năm 2001.
- Đóng góp kinh phí cho Phòng Thương mại mỗi năm khoảng 200 triệu đồng.
* Thu nhập và tích luỹ công ty
Lương bình quân 1 tháng 1 lao động năm sau cao hơn so với năm trước chứng tỏ đời sống của cán bộ công nhân viên đang được nâng cao. Lương bình quân tháng 1 nhân viên năm 2001 là 1,3 triệu đồng ; năm 2002 là 1,65 triệu đồng tăng 128% năm 2001.
Lợi nhuận của công ty cũng tăng qua các năm, năm 2001 lợi nhuận sau thuế đạt 404,5 triệu đồng, năm 2002 đạt 578 triệu đồng, tăng 143% so với năm 2001. Nhờ làm ăn có lãi, hàng năm công ty đã tích cực bổ sung nguồn vốn cho công ty cũng như tích cực đầu tư mua sắm tài sản cố định phục vụ kinh doanh. Năm 2002 công ty đã mua sắm trang bị thêm nhiều phương tiện làm việc cho CBCNV và bổ sung nguồn vốn bằng 1 ô tô trị giá trên 300 triệu đồng.
2.2. Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn của công ty Dịch vụ và Thương mại TSC
2.2.1. Thực trạng vốn của công ty
Công ty Dịch vụ và Thương mại (TSC) là một doanh nghiệp hạch toán độc lập, trực thuộc Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, do Phòng Thương mại trực tiếp quản lý và đầu tư 100% vốn. Do vậy, vốn của công ty cũng giống như mọi doanh nghiệp khác trong nước đều được huy động từ hai nguồn là nợ phải trả và vốn chủ sở hữu. Điều khác là, 100% vốn chủ sở hữu ở thời điểm ban đầu khi thành lập công ty là do Phòng Thương mại cấp (4 tỷ đồng). Song do quá trình phát triển, hoạt động của công ty ngày càng mở rộng, số vốn được cấp không thể đủ cho công ty có thể kinh doanh được. Do vậy, để phục vụ quá trình kinh doanh của mình công ty đã chủ động vay một khối lượng vốn lớn từ các cá nhân, tổ chức, Ngân hàng trong và ngoài nước. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam là một tổ chức có uy tín ở trong và ngoài nước nên việc vay vốn của công ty rất thuận lợi, đây là một nhân tố rất quan trọng giúp cho công ty có thể sử dụng tỷ lệ nợ cao, có thể chiếm dụng được lượng vốn khá lớn để kinh doanh.
Tình hình vốn của công ty được thể hiện qua biểu 2 – Nguồn huy động vốn của công ty
Biểu 2: Nguồn huy động vốn của công ty
Đơn vị: Triệu đồng
Nguồn vốn
2000
2001
2002
A. Nợ phải trả
8.836
14.475
14.358
I. Nợ ngắn hạn
8.575
14.386
14.199
1. Vay ngắn hạn
305
91
356
2. Phải trả người bán
1.869
1.121
3.967
3. Người mua trả tiền trước
128
693
573
4. Thuế và các khoản phải nộp Nhà nước
384
- 79
- 41
5.Phải trả cho các đơn vị nội bộ
2.475
8.063
6.264
6. Các khoản phải trả phải nộp khác
3.414
4.498
3.080
II. Nợ khác
261
89
159
1. Chi phí phải trả
261
89
159
B. Nguồn vốn chủ sở hữu
6.257
6.270
6.743
1. Nguồn vốn kinh doanh
5.900
5.899
6.399
2. Chênh lệch tỷ giá
2
1
19
3. Lãi chưa phân phối
38
71
104
5. Quỹ dự phòng tài chính
27
30
30
6. Quỹ phát triển kinh doanh
234
247
247
7. Quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm
14
11
9
8. Quỹ khen thưởng phúc lợi
44
11
- 65
Tổng nguồn vốn
15.093
20.745
21.101
(Nguồn: Bảng cân đối kế toán công ty TSC ngày 31/12 năm 2000, 2001, 2002).
Số liệu ở biểu cho thấy:
Tổng nguồn vốn huy động được của công ty, cũng là tổng số vốn mà công ty có thể sử dụng, liên tục có sự tăng trưởng nhưng không đều qua các năm.
Năm 2001 so với năm 2000, tổng nguồn vốn tăng khá lớn khoảng 5,6 tỷ đồng (37%). Trong khi đó, năm 2002 so với năm 2001 tổng nguồn vốn tăng rất ít chỉ 0,4 tỷ đồng (1,9%).
Nguyên nhân của sự tăng không đồng đều này là do bước vào năm 2001 công ty đã chủ trương mở rộng hoạt động kinh doanh của mình. Lĩnh vực xuất nhập khẩu hàng hoá không những duy trì được những thị trường truyền thống như Nhật Bản, Tiệp Khắc, Hồng Kông, Sinhgapore, mà còn mở rộng được sang các thị trường mới, nhiều tiềm năng như Trung Quốc, Australia. Do việc mở rộng thị trường, đòi hỏi công ty cũng phải có thêm các nguồn hàng, các chi phí mới phát sinh do đó công ty đã phải đầu tư thêm một lượng vốn lớn. Bên cạnh đó, công tác xúc tiến thương mại do việc được cấp lại giấy phép lữ hành quốc tế nên đã đẩy mạnh tổ chức đưa các đoàn Việt Nam đi Hội chợ triển lãm, Khảo sát thị trường, dự hội thảo chuyên đề nghiệp vụ ở nước ngoài, đồng thời tổ chức đón rất nhiều đoàn khách vào tham quan khảo sát thị trường Việt Nam. Do đó, việc tăng vốn đầu tư vào công tác xúc tiến thương mại cũng đòi hỏi một lượng vốn lớn. Qua năm 2002, khi các thị trường đã ổn định, lượng vốn đầu tư đã đáp ứng nhu cầu sử dụng thì lượng vốn tăng thêm là không đáng kể.
Tổng nguồn vốn tăng lên được giải thích bởi sự tăng giảm của hai bộ phận là vốn chủ sở hữu và nợ phải trả.
* NGUỒN VỐN CHỦ SỞ HỮU
Không có nhiều điều để nói về nguồn vốn chủ sở hữu của công ty. Thực vậy, nguồn vốn chủ sở hữu qua ba năm hầu như không có sự thay đổi về lượng. Từ lượng vốn là 4 tỷ đồng được cấp bởi Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam ở ngày đầu thành lập công ty, đến nay công ty phát triển nó thành 6,7 tỷ đồng. Lượng vốn tăng thêm chủ yếu được tích luỹ qua các năm làm ăn có lãi, công ty đã giữ lại một phần lợi nhuận để tái đầu tư mở rộng công ty.
Mặc dù không có sự thay đổi đáng kể nào về lượng nhưng xét về tỷ trọng của vốn chủ sở hữu trong tổng nguồn vốn thì lại có sự thay đổi đáng kể. Năm 2000 vốn chủ sở hữu của công ty chiếm tới 41% trong tổng số nguồn vốn của công ty nhưng bước sang năm 2001 nó chỉ còn chiếm 30% và năm 2002 cũng chỉ là 32%.
Sở dĩ có sự sụt giảm như vậy, là do trong năm 2001, do yêu cầu của việc mở rộng kinh doanh hàng hoá, dịch vụ công ty đã chủ động tăng thêm vốn đầu tư như đã nói ở trên. Nhưng vốn đầu tư vào mở rộng kinh doanh chủ yếu được huy động từ các khoản vay ngắn hạn và từ việc chiếm dụng vốn, chứ không tăng thêm vốn chủ sở hữu. Bước sang năm 2002, công ty do làm ăn có lãi nên đã bổ sung nguồn vốn kinh doanh thêm 500 triệu, do đó tỷ trọng vốn chủ sở hữu trong tổng nguồn vốn có tăng thêm 2%.
Để thấy rõ hơn tình hình vốn chủ sở hữu của công ty, ta phân tích cụ thể từng bộ phận của vốn chủ sở hữu. Vốn chủ sở hữu được hình thành từ các bộ phận chủ yếu là nguồn vốn kinh doanh, lãi chưa phân phối và các quỹ.
Nguồn vốn kinh doanh trong hai năm 2000 và 2001 không có sự thay đổi, nhưng sang năm 2002, nguồn vốn kinh doanh được bổ sung thêm 500 triệu từ lợi nhuận của công ty. Đây chính là nguyên nhân chính làm tăng tỷ trọng của vốn chủ sở hữu.
Phần lãi chưa phân phối của công ty đều tăng qua các năm nhưng số lãi này không lớn, năm 2002 cao nhất mới đạt 103 triệu đồng.Tuy vậy, sự tăng này cũng ảnh hưởng tới tỷ trọng vốn chủ sở hữu nhưng là rất nhỏ.
Các nguồn quỹ của doanh nghiệp như quỹ phát triển kinh doanh, quỹ dự phòng tài chính, quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm được công ty duy trì ổn định qua các năm. Đây là điều tốt, bởi nó sẽ giúp công ty ổn định được nếu gặp những rủi ro trong kinh doanh và cũng đáp ứng nhu cầu thanh toán khi cần thiết. Riêng quỹ khen thưởng, phúc lợi lại có xu hướng giảm, thậm chí đạt con số âm vào năm 2002 trên bảng cân đối kế toán. Thoạt nhìn, có thể cho rằng công ty không chú trọng tới việc khen thưởng cũng như các chương trình phúc lợi của công ty nhưng trái lại sự sụt giảm hay con số âm không đủ để khẳng định được điều đó. Trong các năm qua, do công ty ăn có hiệu quả là cũng một phần do công ty đã biết khuyến khích, khen thưởng kịp thời cán bộ công nhân viên, do quỹ khen thưởng không đủ đáp ứng nhu cầu chi nên công ty đã phải sử dụng cả lãi chưa phân phối. Tuy vậy, việc duy trì một quỹ khen thưởng, phúc lợi đủ lớn sẽ giúp công ty có thể chủ động trong việc sử dụng hơn. Đây là một vấn đề công ty cần chú ý trong thời gian tới.
* NỢ PHẢI TRẢ
Một điều dễ nhận thấy trong các khoản nợ của công ty là công ty không hề sử dụng các khoản vay dài hạn. Các khoản nợ của công ty chủ yếu bắt nguồn từ vay ngắn hạn và các khoản phải trả. Như vậy toàn bộ các tài sản thường xuyên và một phần tài sản không thường xuyên của công ty được tài trợ bằng vốn chủ sở hữu, phần tài sản không thường xuyên còn lại được tài trợ bằng việc sử dụng nợ.
Biểu 3: Các hệ số nợ của công ty TSC
Các hệ số
2000
2001
2002
01/00
02/01
Hệ số nợ tổng vốn
0,59
0,70
0,68
0,11
- 0,02
Hệ số nợ vốn chủ sở hữu
1,41
2,31
2,13
0,9
- 0,18
Hệ số cơ cấu nguồn vốn
0,41
0,30
0,32
- 0,11
0,02
(Nguồn: Phòng - tài chính kế toán)
Qua biểu 3 có thể dễ dàng nhận xét về cơ cấu nguồn vốn của công ty. Với hệ số nợ trên tổng nguồn vốn cao và có xu hướng tăng cùng với sự tăng nguồn vốn cho thấy việc công ty mở rộng kinh doanh hoàn toàn dựa vào việc sử dụng nợ. Mặt khác, hệ số nợ trên vốn chủ sở hữu quá cao đồng thời với việc tỷ trọng vốn chủ sở hữu trong tổng vốn thấp và có xu hướng giảm chứng tỏ khả năng tự chủ về tài chính của công ty còn rất thấp. Để nghiên cứu kỹ hơn về các khoản nợ của công ty ta quan sát biểu 4.
Biểu 4: Nợ phải trả của công ty TSC
Đơn vị: triệu đồng
Nợ phải trả
2000
2001
2002
I. Nợ ngắn hạn
8.574
14.386
14.1989
1. Vay ngắn hạn
305
91
356
2. Phải trả người bán
1.869
1.121
3.967
3. Người mua trả tiền trước
128
693
573
4. Thuế và các khoản phải nộp Nhà nước
384
- 79
- 41
5.Phải trả cho các đơn vị nội bộ
2.474
8.062
6.264
6. Các khoản phải trả phải nộp khác
3.414
4.498
3.080
II. Nợ khác
261
89
159
1. Chi phí phải trả
261
89
159
Tổng số
8.835
14.475
14.358
(Nguồn: Phòng tài chính – kế toán)
Số liệu ở biểu 3 cho thấy tỷ lệ nợ của công ty khá cao nhưng tỷ lệ vay ngắn hạn Ngân hàng lại rất thấp (cao nhất cũng chỉ chiếm khoảng 3%). Như vậy nợ của công ty chủ yếu nằm trong các khoản phải trả. Đây là một điều rất tốt đối với mỗi doanh nghiệp bởi lượng vốn chiếm dụng được nhiều, mà lượng vốn này hầu như không có chi phí, do đó lợi nhuận kiếm được không lo phải trả lãi vay. Việc công ty sử dụng tỷ lệ nợ cao là xuất phát từ nhiều nguyên nhân:
- Trước hết, do công ty TSC là một công ty trực thuộc Phòng Công nghiệp và Thương mại Việt Nam, vốn của công ty do Phòng Thương mại cấp. Nhưng lượng vốn được cấp ban đầu không thể đáp ứng được nhu cầu vốn kinh doanh. Mặt khác, phạm vi hoạt động kinh doanh rộng cả trong và ngoài nước, thực hiện nhiều chức năng hay nghiệp vụ kinh doanh do đó đòi hỏi phải có một lượng vốn đủ lớn. Vì vậy, nhu cầu sử dụng nợ của công ty là điều tất yếu. Nhờ uy tín của Phòng Thương mại, nên việc sử dụng nợ của công ty tỏ ra rất thuận lợi, việc vay vốn Ngân hàng rất dễ dàng, và nhất là việc mua bán chịu của công ty đối với các công ty trong nước nhất là các công ty cùng trực thuộc sự quản lý của Phòng Thương mại không gặp khó khăn gì. Do có những thuận lợi như vậy nên công ty có thể sử dụng tỷ trọng nợ rất cao, và có thể còn cao hơn trong thời gian tới.
- Thứ hai, căn cứ vào đặc điểm kinh doanh của công ty. Công ty TSC là công ty thương mại và dịch vụ nhưng trong mọi hoạt động của công ty tính thương mại rất ít mà hầu như công ty chỉ làm dịch vụ. Ví dụ, trong việc kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá: việc nhập khẩu một hàng hoá nào đó không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của công ty mà đều do các công ty trong nước đặt hàng, đặt tiền cho công ty, sau đó công ty mới mua hàng hoá ở nước ngoài để nhập về. Trong lĩnh vực xuất khẩu hàng hoá cũng vậy, các công ty trong nước có hàng cần xuất khẩu trong khi công ty lại có thị trường ở nước ngoài, do đó công ty cứ việc lấy hàng xuất bán thu tiền sau đó mới thanh toán với phía trong nước. Tuy cũng có lúc công ty phải đặt cọc để giữ mối hàng nhưng lượng đặt cọc cũng không lớn nên không phát sinh những khoản chi bất thường lớn. Những khoản vay ngắn hạn Ngân hàng chính là nhằm đáp ứng cho những nhu cầu bất thường này.
Tuy việc sử dụng nợ có chi phí thấp, nhưng rủi ro từ nợ cũng không phải là ít. Điều gì sẽ xảy ra đối với công ty khi các khoản nợ đến hạn thanh toán mà các khoản phải thu chưa đòi được hoặc không đòi được. Hoặc giả dụ, khi công ty không thể huy động được nợ do các bạn hàng không đồng ý bán chịu, hoặc lãi suất vay nợ quá cao thì công việc kinh doanh nhất định sẽ gặp khó khăn. Vì vậy, trong thời gian tới công ty cần có kế hoạch cơ cấu lại nguồn vốn cho phù hợp. Bên cạnh sử dụng nợ, công ty cũng có thể tự tích luỹ nội bộ để có thể có một lượng vốn chủ sở hữu lớn hơn để đảm bảo an toàn trong kinh doanh.
Như vậy, điều kiện tiền đề để công ty có thể hoạt động sản xuất kinh doanh là vốn đã có nguồn tài trợ. Nhưng vấn đề là lượng vốn đó được sử dụng đầu tư vào đâu cho có hiệu quả mới là điều thực sự đáng quan tâm hơn.
Để có cơ sở đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của công ty, việc xem xét tình hình phân bổ vốn của công ty là việc làm cần thiết.
Như đã biết, doanh nghiệp sử dụng vốn để đầu tư vào tài sản, như vậy cơ cấu tài sản cũng phản sánh cơ cấu sử dụng vốn của doanh nghiệp. Cơ cấu sử dụng vốn của doanh nghiệp được phản ánh trong biểu 5: Cơ cấu sử dụng vốn của công ty TSC.
Biểu 5: Thực trạng sử dụng vốn của công ty TSC
Đơn vị: triệu đồng
Tài sản
2000
2001
2002
A. TÀI SẢN LƯU ĐỘNG VÀ ĐẦU TƯ NGẮN HẠN
13.696
19.812
20.305
I. TIỀN
1.070
819
2.451
1. Tiền mặt tại quỹ (kể cả ngân phiếu)
609
71
514
2. Tiền gửi Ngân hàng
461
737
1.932
3. Tiền đang chuyển
12
4
II. CÁC KHOẢN PHẢI THU
9.447
9.265
12.227
1. Phải thu của khách hàng
724
424
808
2. Trả trước cho người bán
60
53
418
3. Thuế giá trị gia tăng được khấu trừ
253
332
402
4. Phải thu nội bộ
4.083
2.213
3.889
5. Các khoản phải thu khác
4.327
6.243
6.711
III. HÀNG TỒN KHO
1.210
6.405
4.705
1. Nguyên liệu, vật liệu tồn kho
175
2. Công cụ dụng cụ trong kho
10
40
32
3. Chi phí sản xuất, kinh doanh dở dang
72
4. Hàng hoá tồn kho
1.200
6.365
4.426
IV. TÀI SẢN LƯU ĐỘNG KHÁC
1.969
3.323
923
1. Tạm ứng
1.598
2.897
283
2. Chi phí trả trước
268
12
12
3. Chi phí chờ kết toán
102
413
170
4. Các khoản thế chấp, ký cược, ký quỹ ngắn hạn
1
1
458
B. TÀI SẢN CỐ ĐỊNH VÀ ĐẦU TƯ DÀI HẠN
1.397
933
796
I. Tài sản cố định
818
354
214
1. TSCĐ hữu hình
818
354
214
- Nguyên giá
5.365
2.827
2.578
- Giá trị hao mòn luỹ kế (*)
-4.547
-2.473
-2.364
II. CÁC KHOẢN ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH DÀI HẠN
60
60
60
1. Góp vốn liên doanh
60
60
60
IV. CÁC KHOẢN KÝ QUỸ, KÝ CƯỢC DÀI HẠN
519
520
522
Tổng cộng tài sản
15.093
20.745
21.101
(Nguồn: Bảng cân đối kế toán ngày 31/12 năm 2000, 2001, 2002).
Công ty sử dụng vốn không ngoài mục đích đầu tư vào TSLĐ (vốn lưu động) hoặc TSCĐ (vốn cố định).
Số liệu trên bảng cân đối kế toán của công ty cho thấy, vốn lưu động của công ty luôn chiếm tỷ lệ rất cao (luôn trên 90% tổng vốn, thậm chí các năm 2001, 2002 còn chiếm tới 96%).
BIỂU 6: CƠ CẤU VỐN CỦA CÔNG TY TSC
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
2000
2001
2002
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
Vốn lưu động
13.696
91
19.812
96
20.305
96
Vốn cố định
1.397
9
933
4
796
4
Tổng vốn
15.093
100
20.745
100
21.101
100
(Nguồn: Phòng tài chính – kế toán)
Tỷ lệ vốn lưu động cao như vậy phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh của một công ty thương mại và dịch vụ, lấy việc mua đi bán lại hàng hoá dịch vụ làm công cụ kiếm lời.
Vốn cố định của công ty hay vốn mà công ty đầu tư vào tài sản cố định là không lớn. Do đặc thù là một doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực thương mại và dịch vụ nên tỷ trọng vốn cố định thường thấp (tỷ trọng vốn cố định của công ty thường xuyên dưới 10%).
Trong khi nghiên cứu về nguồn hình thành vốn của công ty, ta thấy có sự tăng đột biến về tổng nguồn vốn ở năm 2001, và ổn định vào năm 2002. Sở dĩ có hiện tượng như vậy là do năm 2001, công ty sử dụng thêm 5,6 tỷ đồng để đầu tư vào kinh doanh, tăng thêm 30% so với cùng kỳ năm trước. Sự tăng đột biến trong sử dụng vốn này xuất phát từ nhu cầu mở rộng thêm việc kinh doanh hàng hoá cũng như mở thêm những dịch vụ mới.Vậy lượng vốn tăng thêm của công ty được sử dụng đầu tư vào đâu ? Việc phân tích hiệu quả sử dụng vốn của công ty sẽ trả lời cho câu hỏi đó.
2.2.2. Phân tích hiệu quả sử dụng vốn của công ty TSC
2.2.2.1. Hiệu quả sử dụng vốn
Mục tiêu của mọi doanh nghiệp là tối đa hoá giá trị tài sản, tối đa hoá lợi nhuận, vì thế việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cũng phải nhằm mục tiêu ấy. Để đánh giá hiệu quả của việc sử dụng vốn ta có thể xem xét một số chỉ tiêu:
Biểu 11: Hiệu quả sử dụng vốn của công ty TSC
Chỉ tiêu
Đơn vị
2000
2001
2002
1. Doanh thu thuần
Triệu
58.186
69.816
97.498
2. Lợi nhuận sau thuế
’’
241,5
404,5
578
3. Tổng vốn bình quân
’’
15.093
20.745
21.101
4. Vốn chủ sở hữu
’’
6.257
6.269
6.743
Các hệ số
Lần
Hiệu suất sử dụng vốn (1/3)
’’
3,855
3,365
4,621
Tỷ suất sinh lợi tổng vốn (2/3)
’’
0,016
0,019
0,027
Hệ số sinh lợi doanh thu (2/1)
’’
0,004
0,006
0,006
Hệ số sinh lợi VCSH (2/4)
’’
0,038
0,064
0,085
(Nguồn: Phòng tài chính – kế toán)
Hiệu suất sử dụng vốn phản ánh cứ một đồng vốn doanh nghiệp bỏ ra kinh doanh thì tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu trong kỳ. Hiệu suất sử dụng vốn của công ty năm 2000 là 3,855 năm 2001 giảm xuống còn 3,365 nhưng năm 2002 đã tăng khá mạnh đạt 4,621. Như vậy, hiệu quả sử dụng vốn của công ty chưa ổn định, trong thời gian tới công ty cần chú trọng vấn đề này.
Tỷ suất sinh lợi tổng vốn phản ánh một đồng vốn bỏ ra trong kỳ có thể tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. Khả năng sinh lợi của tổng vốn khá thấp nhưng hiện đang tăng dần qua các năm; năm 2000 là 0,016; năm 2001 là 0,019; năm 2002 tăng lên 0,027. Tỷ suất sinh lợi tăng cho thấy hiệu quả sử dụng vốn của công ty ngày một tốt hơn.
Hệ số sinh lợi doanh thu phản ánh trong một đồng doanh thu thuần của doanh nghiệp có bao nhiêu đồng lợi nhuận. Trong các năm qua hệ số này hơi thấp, nhưng đang có xu hướng tăng tuy chưa đáng kể. Đây là một dấu hiệu tốt đối với tình hình sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Hệ số sinh lợi vốn chủ sở hữu phản ánh một đồng vốn chủ sở hữu bỏ ra kinh doanh trong kỳ thì có thể thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Hệ số sinh lợi vốn chủ sở hữu cũng tăng liên tục trong ba năm chứng tỏ chi phí cho việc sử dụng vốn chủ sở hữu ngày một giảm. Hệ số sinh lợi vốn chủ sở hữu ngày một tăng mở ra cho công ty một triển vọng đầu tư mở rộng việc kinh doanh của mình.
Các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn của công ty cho thấy trong những năm qua công tác sử dụng vốn của công ty đã có kết quả khá tốt. Tuy vậy hiệu quả sử dụng vốn của công ty vẫn chưa tương xứng với những điều kiện thuận lợi mà công ty có được. Trong thời gian tới công ty cần tiếp tục chú trọng tới việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn để có thể hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ kinh doanh mà công ty đã đặt ra.
2.2.2.2. Hiệu quả sử dụng vốn cố định
Công ty TSC hoạt động trên lĩnh vực thương mại và dịch vụ nhưng công ty chủ yếu là làm dịch vụ, do đó lượng vốn cố định, lượng vốn mà công ty sử dụng để mua sắm TSCĐ, là không nhiều.
Vốn đầu tư vào tài sản cố định chỉ chiếm một tỷ trọng rất nhỏ trong tổng tài sản của công ty (năm 2000 là 9%, và giảm còn 4% trong hai năm 2001, 2002).
Do quy mô của công ty rất nhỏ, hơn nữa lại trực thuộc sự quản lý lý của Phòng Thương mại nên tài sản cố định của công ty được đầu tư rất ít. Những tài sản cố định như đất đai, nhà cửa, vật kiến trúc hầu như công ty không có. Các trụ sở, văn phòng, kho bãi chứa hàng, công ty đều phải thuê để sử dụng chứ không thuộc sở hữu của công ty.
Vốn cố định của công ty chủ yếu đầu tư vào các máy móc, thiết bị văn phòng và phương tiện giao thông vận chuyển. Trong năm 2002, do nhu cầu đòi hỏi của việc mở rộng kinh doanh công ty đã đầu tư thêm một số thiết bị làm việc và một ô tô.
Một điều đáng nói về tài sản cố định của công ty đó là giá trị còn lại của các tài sản đó không còn nhiều, thậm chí là rất ít đối với một công ty. Tài sản cố định của công ty hầu hết được đầu tư từ ngày công ty mới thành lập, hầu như đã khấu hao gần hết. Nhiều thiết bị đã trở nên lạc hậu, không còn đáp ứng được nhu cầu sử dụng của công ty. Hàng năm công ty vẫn tiến hành kiểm kê tài sản cố định và lập báo cáo về tình hình tăng giảm tài sản cố định.
Biểu 7: Tình hình tăng giảm TSCĐ của công ty
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
2000
2001
2002
1. Nguyên giá
- Đầu kỳ
5.826
5.365
2.827
- Tăng trong kỳ
52
96
63
- Giảm trong kỳ
513
2.634
313
- Cuối kỳ
5.365
2.827
2.578
2. Giá trị đã hao mòn
- Đầu kỳ
4.839
4.548
2.474
- Tăng trong kỳ
81
384
182
- Giảm trong kỳ
300
2.458
292
- Cuối kỳ
4.458
2.474
2.364
3. Giá trị còn lại
- Đầu kỳ
988
818
354
- Cuối kỳ
818
354
214
(Nguồn: Thuyết minh báo cáo tài chính năm 2000, 2001, 2002).
Số liệu trong bảng cho thấy số giá trị còn lại của tài sản cố định của công ty là rất ít, không đủ để đáp ứng yêu cầu kinh doanh của công ty. Trong thời gian tới để mở rộng quy mô của công ty thì việc đầu tư vào tài sản cố định là một vấn đề rất cấp thiết. Do khả năng về tài chính của công ty có hạn, nên việc đổi mới tài sản cố định rất cần có sự hỗ trợ của Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam.
* Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định
Trong điều kiện vốn cố định của công ty rất thấp, những tài sản cố định do đó cũng được đầu tư có giới hạn. Nhưng trong khuôn khổ giới hạn về vốn cố định đó, với tinh thần tiết kiệm, tận dụng hết công suất của tài sản cố định vì vậy cũng mang lại hiệu quả nhất định cho công ty. Có thể khái quát về các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn cố định của công ty qua bảng sau:
Biểu 8: Hiệu quả sử dụng vốn cố định
Chỉ tiêu
Đơn vị
2000
2001
2002
1. Doanh thu thuần
Triệu
58.186
69.816
97.498
2. Nguyên giá TSCĐ
’’
5.365
2.827
2.578
3. VCĐ bình quân
’’
903
586
284
4. Lợi nhuận sau thuế
’’
241,5
404,5
578
Các hệ số
Hiệu suất sử dụng VCĐ (1/3)
Lần
64,4
119,1
343,3
Hiệu suất sử dụng TSCĐ (1/2)
’’
10,8
24,7
37,8
Tỷ suất sinh lợi VCĐ (4/3)
’’
0,267
0,690
2,035
Nguồn: Phòng tài chính - kế toán.
Qua số liệu được tính trong biểu trên ta thấy:
Chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn cố định cho biết một đồng vốn cố định bình quân được sử dụng vào sản xuất kinh doanh trong kỳ thì tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu thuần. Năm 2000 chỉ số này đạt 64,4 lần; năm 2001 tăng lên 119,1 lần và năm 2002 là 343,3 lần. Sự tăng mạnh của chỉ tiêu này cho thấy hiệu suất sử dụng vốn cố định ngày càng cao, mặc dù lượng vốn không tăng lên mà còn giảm đi.
Chỉ tiêu hiệu suất sử dụng tài sản cố định cho biết một đồng nguyên giá tài sản cố định tham gia vào sản xuất kinh doanh trong kỳ thì tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu thuần. Do tài sản cố định và vốn cố định có quan hệ chặt chẽ với nhau nên hiệu suất sử dụng tài sản cố định cũng phản ánh phần nào hiệu quả sử dụng vốn cố định. Trong năm 2000, một đồng nguyên giá tài sản cố định của công ty sử dụng vào kinh doanh đem lại 10,8 đồng doanh thu thuần, năm 2001 con số này tăng lên 24,7 và sang năm 2002 là 37,8. Hiệu quả sử dụng tài sản cố định ngày một tăng cho thấy công ty luôn sử dụng hết công suất các tài sản cố định hiện có, mặc dù lượng tài sản này là không nhiều.
Chỉ tiêu tỷ suất sinh lợi vốn cố định cho biết một đồng vốn vốn cố định bình quân sử dụng trong kỳ tạo ra cho công ty bao nhiêu đồng lợi nhuận (sau thuế). Tỷ suất sinh lợi vốn cố định của công ty liên tục tăng trong ba năm do lượng vốn cố định sử dụng giảm nhưng lợi nhuận lại tăng đáng kể do đó có thể nói vốn cố định đang được sử dụng có hiệu quả tại công ty TSC.
Qua các số liệu và các chỉ tiêu được tính toán trên ta đều thấy hiệu quả sử dụng vốn cố định của công ty là rất cao. Đóng góp của vốn cố định vào doanh thu là rất lớn. Nhưng liệu điều đó có ý nghĩa thực tế không ? Hiệu quả sử dụng vốn cố định nếu chỉ dựa vào việc đánh giá các chỉ tiêu như vậy có thực sự đúng không ?. Đây là một vấn đề cần xem xét. Chỉ quan sát qua các chỉ tiêu ta cũng có sự không bình thường bởi các chỉ tiêu này đều quá lớn, khó mà có doanh nghiệp nào có thể đạt được. Nhưng sự bất bình thường này hoàn toàn có thể lý giải được.
Thật vậy, việc các chỉ tiêu này đều vượt xa kết quả mong đợi là do các kết quả kinh doanh không phụ thuộc nhiều lắm vào lượng vốn cố định. Nói cách khác, vốn cố định không thực sự đóng góp nhiều trong việc tạo ra doanh thu hay lợi nhuận của doanh nghiệp. Đối với một doanh nghiệp sản xuất, tài sản cố định đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra sản lượng, doanh thu và lợi nhuận. Nhưng ngược lại, đối với các doanh nghiệp thương mại và dịch vụ, nhất là hầu như chỉ làm dịch vụ như công ty TSC, với lượng vốn cố định chỉ chiếm vài phần trăm, thì vai trò tạo ra doanh thu, lợi nhuận lại nằm ở vốn lưu động. Do đó, giữa vốn cố định và các chỉ tiêu doanh thu, lợi nhuận có mối liên hệ rất lỏng lẻo. Điều này lý giải tại sao khi tính toán các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn cố định lại có sự khác thường như vậy. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn cố định quá lớn chủ yếu là do lượng vốn cố định sử dụng quá nhỏ trong khi kết quả kinh doanh lại lớn chứ không hẳn là do hiệu quả sử dụng vốn cố định cao đến mức như vậy.
Mặc dù các chỉ tiêu được tính không phản ánh thực tế sự đóng góp của vốn cố định vào thu nhập của doanh nghiệp nhưng có thể khẳng định qua các chỉ tiêu trên là vốn cố định của công ty đã được sử dụng rất có hiệu quả. Với một lượng vốn cố định rất nhỏ, lượng tài sản cố định được đầu tư có hạn nhưng công ty vẫn có thể hoạt động tốt. Mọi công việc kinh doanh của công ty vẫn được hoạt động trôi chảy mà không hề bị gián đoạn vì một lý do nào của việc thiếu tài sản cố định.
Tuy nhiên, việc duy trì một cơ cấu sử dụng mất cân đối như vậy nếu tiếp tục kéo dài thì chắc chắn sẽ gây ra khó khăn không nhỏ cho công ty. Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt như cũng như xu hướng toàn cầu hoá, hiện đại hoá nền sản xuất kinh doanh thì việc có những máy móc thiết bị hiện đại sẽ giúp công ty có thể giành lợi thế trong cạnh tranh, mở rộng hoạt động một cách dễ dàng hơn. Do đó việc xác định lại cơ cấu sử dụng vốn của công ty là việc làm cần thiết.
2.2.2.3. Hiệu quả sử dụng vốn lưu động
Công ty Dịch vụ và Thương mại TSC là một công ty hoạt động trên lĩnh vực lưu thông và dịch vụ do đó tỷ trọng vốn lưu động trên tổng nguồn vốn lớn hơn các doanh nghiệp sản xuất. Do vốn lưu động được sử dụng để mua sắm, đầu tư vào các tài sản lưu động nên cơ cấu tài sản lưu động chính là phản ánh trung thực nhất của cơ cấu sử dụng vốn lưu động.
Do đặc thù kinh doanh của các ngành thương mại và dịch vụ là chiếm dụng vốn lẫn nhau thông qua hình thức mua bán chịu, đồng thời công ty phải dự trữ những lượng hàng hoá khá lớn nên tỷ trọng tài sản lưu động trong tổng tài sản của công ty luôn luôn ở mức cao. Tỷ trọng tài sản lưu động của công ty trong các năm qua luôn chiếm trên 90% trong tổng số tài sản, thậm chí trong hai năm gần đây nó luôn chiếm tới 96%.
Biểu 9: Cơ cấu vốn lưu động của công ty
CHỈ TIÊU
2000
2001
2002
Triệu
%
Triệu
%
Triệu
%
1. TIỀN
1.071
7
819
4
2.450
12
2. CÁC KHOẢN PHẢI THU
9.447
70
9.265
47
12.227
60
3. HÀNG TỒN KHO
1.210
9
6.405
32
4.705
23
4. TSLĐ KHÁC
1.968
14
3.322
17
923
5
TỔNG SỐ
13.696
100
19.811
100
20.305
100
(Nguồn: Phòng tài chính kế toán.)
VỐN BẰNG TIỀN
Thông thường thì công ty và khách hàng giao dịch qua Ngân hàng là chính cho nên khoản tiền mặt tại két là rất nhỏ. Công ty chỉ giữ lại một lượng tiền dùng để thanh toán hàng ngày, như thanh toán lương cho cán bộ công nhân viên, tạm ứng... Tiền mặt không có khả năng sinh lời, mặt khác giữ nó lại phải chịu chi phí cơ hội, chi phí bảo quản do đó công ty rất hạn chế giữ tiền mặt. Bảng cân đối kế toán cho thấy lượng tiền mặt tại quỹ không ổn định nó phụ thuộc vào nhu cầu chi tiêu tại từng thời điểm. Lượng tiền gửi tại Ngân hàng của công ty cũng thường không lớn, bởi mỗi khi công ty thu tiền hàng thì thường trả ngay cho người cung cấp do đó lượng tiền còn dư không nhiều. Lượng vốn bằng tiền của công ty giảm trong năm 2001, nhưng lại tăng trong năm 2002 cho thấy nhu cầu thanh toán của công ty ngày một tăng.
CÁC KHOẢN PHẢI THU
Các khoản phải thu thường bao gồm phải thu từ khách hàng; trả trước cho người bán, thuế giá trị gia tăng được khấu trừ, phải thu khác và dự phòng các khoản phải thu khó đòi. Tuy nhiên, đối với công ty TSC thì các khoản phải thu chủ yếu là phải thu từ khách hàng. Khách hàng của công ty chủ yếu là các công ty, các doanh nghiệp cùng trực thuộc Phòng Công nghiệp và Thương mại Việt Nam, do đó khoản phải thu từ khách hàng tồn tại cả dưới dạng các khoản mục phải thu nội bộ. Trong các năm gần đây các khoản phải thu của công ty có xu hướng tăng mạnh cả về lượng và tỷ trọng (30% năm 2002). Nguyên nhân là do công ty mở rộng công việc kinh doanh nhưng việc mua bán hàng hoá chủ yếu là mua bán chịu. Các khoản phải thu tăng nhanh cho thấy lượng vốn của công ty bị chiếm dụng nhiều, nếu chiều hướng này tiếp tục xảy ra trong khi các khoản phải trả lớn thì công ty sẽ gặp khó khăn trong thanh toán các khoản nợ.
HÀNG TỒN KHO
Đối với một công ty sản xuất thì lượng hàng tồn kho chủ yếu là lượng dự trữ nguyên liệu, vật liệu và thành phẩm tồn kho, còn đối với các công ty thương mại và dịch vụ thì hàng tồn kho chủ yếu là các hàng hoá được nhập vào chờ ngày tiêu thụ. Hàng tồn kho của công ty trong những năm gần đây chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản lưu động của công ty. Năm 2000 hàng tồn kho của công ty chỉ là 1,2 tỷ đồng, nhưng năm 2001 lượng hàng tồn kho đã tăng lên tới 6, 4 tỷ, năm 2002 giảm xuống còn 4,7 tỷ đồng. Lượng hàng tồn kho tăng chứng tỏ công ty ngày càng mở rộng việc kinh doanh mua bán
* Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động
Cũng như đối với vốn cố định, để đánh giá tình hình sử dụng vốn lưu động của công ty ta căn cứ vào một số chỉ tiêu được tính toán trong biểu 10 “Hiệu quả sử dụng vốn lưu động”.
Biểu 10: Hiệu quả sử dụng vốn lưu động
Chỉ tiêu
Đơn vị
2000
2001
2002
1. Doanh thu thuần
Triệu
58.186
69.816
97.498
2. VLĐ bình quân trong kỳ
’’
12.715
16.754
20.058
3. Lợi nhuận ròng
’’
241,5
404,5
578
4. Các khoản phải thu
’’
9.447
9.265
12.227
5. Hàng tồn kho
’’
1.210
6.405
4.705
6. Giá vốn hàng bán
’’
51.823
64.318
90.448
Các hệ số
Hiệu suất sử dụng VLĐ (1/2)
Lần
4,58
4,17
4,86
Thời gian 1 vòng luân chuyển
Ngày
79
86
73
Kỳ thu tiền bình quân (4*360/1)
Ngày
58
48
45
Vòng quay hàng tồn kho (6/5)
Vòng
43
10
19
Tỷ suất sinh lợi VLĐ (3/2)
Triệu
0,018
0,024
0,029
Nguồn: Phòng tài chính kế toán
Số liệu tính toán ở biểu trên cho thấy:
Chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn lưu động cho biết một đồng vốn lưu động tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ thì tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu. Qua chỉ tiêu này ta thấy hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty khá cao và có xu hướng tăng lên. Năm 2000 là 4,58, năm 2001 giảm đôi chút còn 4,17 nhưng năm 2002 lại tăng lên 4,86. Một đồng vốn lưu động tạo ra gần 5 đồng doanh thu thuần, đó là một kết quả rất tốt nhất là đối với các doanh nghiệp thương mại và dịch vụ nơi mà vốn được sử dụng chủ yếu là vốn lưu động. Việc hiệu suất sử dụng vốn lưu động ngày một được nâng cao cũng cho thấy khả năng công ty có thể mở rộng việc kinh doanh, tăng thêm lượng vốn đầu tư nhằm tối đa hoá lợi nhuận cho công ty.
Thời gian của một vòng luân chuyển cho ta biết khoảng thời gian bình quân một đồng vốn lưu động bỏ ra được thu hồi về để tiếp tục tái đầu tư. Vì vậy số ngày của một vòng luân chuyển càng ngắn thì hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng được nâng cao. Chỉ tiêu này năm vừa qua có biến động khá tốt. Nếu như năm 2000 là 79 ngày; năm 2001 là 86 ngày thì năm; 2002 thời gian của một vòng luân chuyển chỉ còn 73 ngày. Điều đáng nói là trong khi tổng vốn lưu động tăng thì thời gian luân chuyển lại giảm cho thấy tình hình sử dụng vốn lưu động là rất khả quan. Đây là một dấu hiệu tốt cho thấy sự phát triển của công ty.
Kỳ thu tiền bình quân đo lường khả năng thu hồi vốn trong thanh toán của doanh nghiệp đồng thời phản ánh công tác quản lý các khoản phải thu và chính sách tín dụng của doanh nghiệp đối với khách hàng của mình. Trong các năm vừa qua do đực thù của kinh doanh thương mại là mua bán chịu cho nên các khoản phải thu là tương đối lớn. Do đó quản lý các khoản phải thu có vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của công ty. Số liệu được tính toán cho thấy kỳ thu tiền bình quân của công ty là tương đối lớn, năm 2000 là 58 ngày, năm 2001 là 48 ngày và năm 2002 là 45 ngày. Tuy chỉ tiêu này tương đối lớn nhưng rõ ràng là nó đang được cải thiện một cách rõ rệt. Công ty cần tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa việc thu hồi các khoản nợ để góp phần nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng vốn lao động .
VÒNG QUAY HÀNG TỒN KHO CỦA CÔNG TY CÓ XU HƯỚNG GIẢM TRONG NHỮNG NĂM VỪA QUA. NĂM 2000 VÒNG QUAY HÀNG TỒN KHO LÀ 43, THÌ NĂM 2001 GIẢM XUỐNG CÒN 10 VÀ NĂM VỪA QUA TUY CÓ TĂNG NHƯNG CŨNG CHỈ ĐẠT CON SỐ 19. VÒNG QUAY HÀNG TỒN KHO GIẢM ĐỒNG NGHĨA VỚI VIỆC LƯỢNG HÀNG HOÁ TỒN KHO TRONG HAI NĂM VỪA QUA LÀ CAO. KHẢ NĂNG TIÊU THỤ HÀNG HOÁ CỦA CÔNG TY GIẢM HƠN SO VỚI TRƯỚC ĐÂY LÀ ĐIỀU ĐÁNG LO NGẠI VÌ NẾU CÔNG TY KHÔNG TIÊU THỤ NHANH ĐƯỢC HÀNG HOÁ THÌ SẼ GẶP RẤT NHIỀU KHÓ KHĂN TRONG KHẢ NĂNG THANH TOÁN CÁC KHOẢN NỢ. CHÍNH VÌ THẾ CÔNG TY HIỆN ĐANG KHÔNG NGỪNG CẢI THIỆN KHẢ NĂNG TIÊU THỤ CỦA MÌNH.
Chỉ tiêu tỷ suất sinh lợi vốn lưu động cho biết một đồng vốn lưu động được sử dụng trong kỳ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này phản ánh mức sinh lợi của vốn lưu động. Đối với một công ty thương mại thì đây chính là chỉ tiêu đáng quan tâm nhất. Với một cơ cấu sử dụng vốn có tới trên 90% là vốn lưu động thì lợi nhuận của công ty chủ yếu là do vốn lưu động tạo ra. Nếu tỷ suất sinh lợi vốn lưu động mà không cao thì chắc chắn công ty đang gặp khó khăn. Số liệu được tính toán cho thấy tỷ suất sinh lợi vốn lưu động của công ty TSC là chưa cao, năm 2000 là 0,018; năm 2001 là 0,024 và năm 2002 là 0,029. Tuy tỷ suất này là chưa cao nhưng trong các năm qua tỷ suất này luôn tăng chứng tỏ nỗ lực nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động đang thành công. Tỷ suất sinh lợi vốn lưu động của công ty chưa cao một phần nguyên nhân là do cùng với sự tăng doanh thu thì giá vốn hàng bán cũng tăng mạnh làm cho lợi nhuận của công ty không thể tăng lên mạnh. Vì vậy, để cải thiện tỷ suất sinh lợi vốn lưu động, ngoài việc phải đầu tư mở rộng kinh doanh thì công ty phải tìm mọi cách tiết kiệm chi phí, qua đó hạ giá vốn hàng bán để tăng lợi nhuận.
2.3. Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của công ty Dịch vụ và Thương mại TSC
2.3.1. Kết quả
Qua những phân tích về thực trạng sử dụng vốn tại công ty Dịch vụ và Thương mại TSC, ta thấy công tác sử dụng vốn tại công ty nhìn chung là tốt. Công ty đã đạt được một số kết quả cụ thể như:
Thứ nhất, lợi nhuận sau thuế của công ty ngày một tăng trong khi lượng vỗn chủ sở hữu của công ty hầu như không tăng (hệ số sinh lợi vốn chủ sở hữu tăng liên tục qua ba năm) là dấu hiệu tốt cho việc mở rộng kinh doanh của công ty.
Thứ hai, vốn cố định của công ty tuy ít nhưng đã được sử dụng tiết kiệm, hầu như không có sự lãng phí nên đã giúp công ty duy trì được quá trình kinh doanh ổn định.
Thứ ba, vốn lưu động chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng vốn nhìn chung được quản lý khá tốt. Tốc độ luân chuyển vốn lưu động đang tăng làm cho lượng vốn được nhanh chóng thu hồi và đưa vào chu kỳ kinh doanh mới tạo khả năng thu lợi lớn hơn. Hiệu suất sử dụng vốn lưu động và tỷ suất sinh lợi vốn lưu động tuy chưa cao như mong đợi nhưng hiện đang biến động theo chiều hướng có lợi là một dấu hiệu tốt cho việc kinh doanh của công ty.
Hàng năm không những công ty đã đảm bảo được việc làm thường xuyên với thu nhập cao cho toàn bộ cán bộ, nhân viên mà còn đóng góp kinh phí hoạt động cho Phòng Thương mại hàng trăm triệu đồng, đóng góp cho ngân sách Nhà nước nhiều tỷ đồng. Công tác khen thưởng, phúc lợi cũng như việc trích lập các quỹ dự phòng tài chính, dự phòng trợ cấp mất việc làm đều được công ty quan tâm đáp ứng đầy đủ.
Bên cạnh các kết quả trên, công ty còn có đóng góp khá lớn trong việc thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp trong nước. Công ty đã tìm đầu ra cho rất nhiều sản phẩm thủ công, mỹ nghệ nhằm khuyến khích, góp phần làm sống dậy nhiều làng nghề truyền thống. Đối với các ngành công nghiệp, công ty đã giúp các doanh nghiệp nhập về nhiều máy móc thiết bị hiện đại nhằm đổi mới, hiện đại công nghệ sản xuất trong nước. Đặc biệt với hoạt động tư vấn đầu tư và xúc tiến thương mại và tổ chức các hội chợ triển lãm hàng Việt Nam ở trong và ngoài nước công ty đã góp phần quảng bá nhãn hiệu hàng hoá Việt Nam trên thị trường thế giới. Để giúp các doanh nghiệp Việt Nam có thể mở rộng thị trường ra các nước trong khu vực và trên thế giới, công ty hàng năm tổ chức hàng trăm đoàn doanh nghiệp Việt Nam ra thăm quan học tập kinh nghiệm ở nước ngoài và đồng thời cũng tổ chức cho rất nhiều đoàn nước ngoài vào Việt Nam tìm kiếm bạn hàng, hợp tác làm ăn.
Công tác xuất khẩu lao động hàng năm đã tạo ra việc làm cho hàng ngàn lao động, góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp đồng thời thu về cho đất nước một lượng ngoại tệ lớn.
Những thành công của công ty có được là do một số lí do sau:
Trước hết, công ty đã có những nỗ lực rất lớn trong công tác quản lý và sử dụng vốn . Nhờ vậy, vốn của công ty đã được sử dụng đúng mục đích, tiết kiệm, phát huy được tác dụng đối với quá trình kinh doanh của công ty.
Thứ hai, công ty có lợi thế thương mại, thị trường, địa điểm và các đièu kiện làm việc mà các công ty khác khó có thể có được.
Thứ ba, việc bố trí công việc, nhân viên ngày càng hợp lý, phát huy được khả năng làm việc của nhân viên. Công tác đào tạo, nâng cao trình độ nghiệp vụ cho nhân viên bước đầu đã được chú trọng.
Ngoài ra, công ty đã được sự chỉ đạo sát sao của thường trực Phòng Công nghiệp và Thương mại Việt Nam. Ban thường trực Phòng Thương mại đã đánh giá đúng thực trạng của công ty, có nhiều giải pháp hữu hiệu tháo gỡ các khó khăn cơ bản của công ty.
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân
Bên cạnh những thành công mà công ty đã đạt được trong thời gian qua, công ty cũng bộc lộ một số hạn chế trong công tác sử dụng vốn, cụ thể như:
Thứ nhất, lượng vốn cố định của công ty thấp làm cho doanh nghiệp không chủ động trong kinh doanh nhất là kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá. Lượng vốn thấp cũng gây khó khăn cho việc đầu tư đổi mới tài sản cố định cũng như mở rộng kinh doanh trong tương lai.
Thứ ba, cơ cấu vốn của công ty chưa hợp lý và đang biến động theo chiều hướng không có lợi. Qua bảng cân đối kế toán có thể nhận thấy dễ dàng là công ty đang sử dụng một tỷ lệ nợ cao. Tỷ trọng nợ, trong đó chủ yếu là nợ ngắn hạn, thường xuyên chiếm tới 70% trong tổng số vốn của công ty và có xu hướng ngày một tăng. Nhưng tỷ lệ nợ quá cao thì tất nhiên sẽ tiềm ẩn những rủi ro nhất định về khả năng thanh khoản. Rủi ro này phần lớn do người cho vay phải gánh chịu. Đối với người cho vay khi họ thấy tỷ trọng nợ trong cơ cấu vốn của doanh nghiệp cao (rủi ro sẽ lớn) họ sẽ yêu cầu một lãi suất cao hơn và doanh nghiệp đến một lúc nào đó không vay được nữa. Như vậy, việc sử dụng nợ cao sẽ làm công ty mất chủ động trong kinh doanh.
Trên thực tế, có rất nhiều vụ làm ăn cần tới một lượng vốn lớn để đặt cọc, những lúc như vậy công ty mới bắt đầu vay vốn Ngân hàng nên thiếu chủ động, nhiều khi để lỡ cơ hội kinh doanh.
Thứ ba, hiệu quả sử dụng vốn lưu động chưa tương xứng với tỷ trọng vốn lưu động bỏ ra, làm cho lợi nhuận thu được chưa tương xứng với doanh thu.
Những hạn chế trên bắt nguồn từ một số nguyên nhân cơ bản sau:
Thứ nhất, hiệu quả sử dụng vốn lưu động chưa cao là do nhiều nguyên nhân tác động nhưng chủ yếu là do:
LƯỢNG HÀNG TỒN KHO CỦA CÔNG TY KHÁ LỚN
Với tỷ trọng tài sản lưu động luôn lớn hơn 90%, và hàng tồn kho luôn chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng tài sản lưu động đã gây ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng tài sản lưu động. Hàng tồn kho của công ty chủ yếu là các thành phẩm tồn kho, đó là các hàng hoá mà công ty nhập về chờ ngày tiêu thụ. Mặc dù không phải là một công ty sản xuất, không phải dự trữ nguyên vật liệu nhưng lượng tồn kho của công ty lớn như vậy là một điều đáng ngại. Lượng hàng tồn kho của công ty năm 2001 tới 6,4 tỷ đồng chiếm tới 32% trong tổng số tài sản lưu động, năm 2002 đã giảm nhưng vẫn còn tới 4,7 tỷ đồng. Hàng tồn kho không đồng nghĩa với việc công ty gặp khó khăn trong đầu ra, nhưng nếu hàng tồn kho cứ tồn tại với khối lượng lớn và trong thời gian dài thì chi phí bảo quản, rủi ro sẽ lớn vì hầu hết nhà kho, nơi bảo quản, thiết bị bảo quản công ty đều phải đi thuê. Do công ty sử dụng tỷ lệ nợ rất lớn nên nếu hàng tồn kho không được tiêu thụ nhanh tất nhiên sẽ ảnh hưởng nhiều tới khả năng thanh toán.
Hàng tồn kho của công ty tăng có thể do một số nguyên nhân như: việc quản lý đầu ra hay khả năng tiêu thụ chưa tốt, công ty chưa xác định đúng nhu cầu của thị trường. Hàng tồn kho lớn cũng có thể do chủ ý của công ty giữ hàng chờ giá cao hoặc chỉ đơn giản là do chênh lệch thời gian giữa nhập hàng và bán hàng. Dù là nguyên nhân gì thì việc nhanh chóng giải phóng hàng tồn kho để thu tiền là hết sức cần thiết, nhất là đối với những công ty có quy mô nhỏ.
CHI PHÍ KINH DOANH LỚN, LÀM TĂNG GIÁ VỐN HÀNG BÁN VÀ GIẢM LỢI NHUẬN
Qua ba năm gần đây ta thấy doanh thu của công ty rất lớn, năm 2001 là 69 tỷ đồng; năm 2002 tới 97 tỷ đồng nhưng lợi nhuận của công ty lại không lớn, chỉ vài trăm triệu. Nguyên nhân chính là do doanh thu tăng mạnh nhưng chi phí tăng làm tăng giá vốn dẫn đến lợi nhuận không tăng không tương xứng. Một nguyên nhân nữa là do lượng thuế phải nộp hàng năm qua lớn làm cho lợi nhuận sau thuế của công ty bị thu hẹp lại. Trong các khoản chi phí thì chi phí bán hàng và chi phí quản lý là tăng mạnh nhất. Trong nền kinh tế thị trường muốn bán hàng thì cần phải giới thiệu sản phẩm cho khách nhưng với một khoản chi phí rất lớn mà hiệu quả lại không tương xứng với chi phí bỏ ra. Do đó công ty cần chú ý tới mặt hiệu quả của các khoản chi này.
Một nguyên nhân khác làm tăng chi phí bán hàng là do lượng hàng tồn kho cao, chi phí bảo quản rất lớn do công ty phải thuê hầu hết từ nhà kho tới phương tiện, nhân lực bảo quản. Do đó, để giảm chi phí này thì cũng cần nhanh chóng giảm hàng tồn kho, cũng như công ty cần đầu tư thêm vào các tài sản cố định để giảm chi phí thuê ngoài.
TRÌNH ĐỘ CÁN BỘ VÀ NHÂN VIÊN CÒN BẤT CẬP
Xu thế hội nhập và toàn cầu hoá nền kinh tế đã và đang tạo ra những cơ hội mới, và cả những thách thức mới đối với các doanh nghiệp trong đó có công ty Dịch vụ và Thương mại TSC. Hiện nay, mặc dù đứng dưới sự bảo trợ của Phong Công nghiệp và Thương mại Việt Nam nhưng sự cạnh tranh trong ngành thương mại và tổ chức dịch vụ của công ty là rất lớn. Trong khi đó, trình độ năng lực của cán bộ, công nhân viên công ty tuy đã được đào tạo, rèn luyện qua thử thách nhưng trước những cơ hội và thách thức mới vẫn bộc lộ những hạn chế về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, và nhất là khả năng làm việc độc lập.
Hạn chế lớn nhất của nhân viên công ty chính là khả năng tiếp cận khách hàng, tiếp cận thị trường để có được những khách hàng thường xuyên, thị trường ổn định và mang tính chất bền vững cho các sản phẩm dịch vụ của công ty. Mặc dù có được những mối quan hệ rất thuận lợi ở trong và ngoài nước, đáng lẽ ra việc mở rộng thị trường cho các sản phẩm thương mại và dịch vụ của công ty như thị trường xuất khẩu lao động, công tác xúc tiến thương mại, và xuất nhập khẩu hàng hoá nhưng đến nay công ty vẫn chưa phát huy được hết các thế mạnh của mình. Những công việc của công ty vẫn là những công việc truyền thống từ ngày đầu thành lập, việc tìm ra các công việc làm ăn mới là rất ít, chứng tỏ công ty chưa tận dụng được hết các cơ hội kinh doanh của mình để thu lợi nhuận.
Trong thời gian tới, để có thể tiếp tục đứng vững và mở rộng quy mô kinh doanh thì công ty cần phải có kế hoạch đào tạo, bổ sung kiến thức cho nhân viên, cũng như cần có thêm những nhân tố mới tạo ra chuyển biến tích cực cho công ty.
Thứ hai, tỷ trọng vốn cố định thấp do hai nguyên nhân chủ yếu:
Trước hết do đặc thù là loại hình công ty kinh doanh thương mại và dịch vụ nên lượng vốn cố định không cần phải lớn như các doanh nghiệp sản xuất hàng hoá, do vậy công ty đầu tư rất ít cho các tài sản cố định.
Mặt khác, do lượng vốn kinh doanh của công ty còn rất thiếu, do đó việc hiện đại hoá cơ sở vật chất, phương tiện làm việc chưa được chú trọng đúng mức. Hầu hết lượng vốn cố định của công ty nằm ở một số tài sản cố định được Phòng thương mại cấp từ những ngày đầu thành lập nên đã lạc hậu, giá trị còn lại rất ít. Vì vậy, trong thời gian tới để có thể cạnh tranh trong kinh doanh thì công ty rất cần thiết tăng cường đầu tư đổi mới tài sản cố định.
Thứ ba, cơ cấu vốn của công ty chưa hợp lý với một tỷ trọng nợ cao trong tổng nguồn vốn. Nguyên nhân chính của việc công ty phải sử dụng một tỷ lệ cao như vậy là do vốn kinh doanh của công ty đang thiếu. Vốn kinh doanh của công ty chủ yếu được Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam cấp từ ngày mới thành lập, lượng vốn chủ yếu nằm trong một số tài sản cố định nhưng đến nay giá trị còn lại không còn nhiều. Lượng vốn bằng tiền không lớn trong khi quy mô kinh doanh của công ty ngày càng mở rộng do đó sử dụng nợ là điều tất yếu.
Trong những năm tới, do sự cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ và nhu cầu của việc mở rộng quy mô kinh doanh, việc tăng cường tích luỹ vốn kinh doanh là việc làm hết sức cần thiết nhằm cải thiện cơ cấu vốn của công ty.
CHƯƠNG III
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN
TẠI CÔNG TY DỊCH VỤ VÀ THƯƠNG MẠI TSC
3.1. Định hướng phát triển của công ty trong thời gian tới
3.1.1. Mục tiêu của công ty trong năm 2003
Trong năm 2003, căn cứ vào tình hình kinh doanh, công ty đã đặt ra mục tiêu như sau:
- Doanh thu : 100 tỷ đồng
- Nộp ngân sách : 10 tỷ đồng
- Lợi nhuận : 900 tỷ đồng
- Đảm bảo việc làm thường xuyên cho nhân viên với thu nhập bình quân 1, 5 triệu đồng/ người/ tháng.
- Đóng góp kinh phí hoạt động cho Phòng Thương mại : 300 triệu đồng.
3.1.2. Định hướng của công ty trong thời gian tới
Tăng cường nguồn vốn kinh doanh và xây dựng các cơ sở vật chất phục vụ kinh doanh.
Đưa chức năng xuất nhập khẩu lao động làm mục tiêu then chốt thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của toàn công ty.
Tiếp tục củng cố lại tổ chức và thành lập các tổ chức mới phù hợp với tình hình mới hiện nay.
Công ty cần có chương trình tổ chức thu thập, phân loại thông tin, thị trường, khách hàng tạo ra cơ hội kinh doanh phù hợp, nhất là tập trung đẩy mạnh hơn nữa trong lĩnh vực xuất nhập khẩu.
Thực hiện dân chủ, công khai trong kinh doanh, quản lý điều hành, xây dựng kế hoạch. Thay đổi cách giao chỉ tiêu kế hoạch, phân phối theo kết quả thực hiện kế hoạch. Xác định trách nhiệm công ty, chi nhánh, trung tâm và từng lao động để thực hiện được chỉ tiêu kế hoạch. Phối hợp thông tin chỉ đạo từng việc trên phạm vi công ty, đánh giá kết quả và các giải pháp cụ thể tạo việc làm nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Lập kế hoạch và quy hoạch thích hợp để tiếp tục đào tạo, nâng cao năng lực chuyên môn trong quản lý và nghiệp vụ kinh doanh cho cán bộ công nhân viên. Đảm bảo bố trí công việc phù hợp để nâng cao hiệu quả công tác của mỗi cán bộ, nhân viên. Tăng cường công tác quản lý, động viên nguồn nhân lực bằng việc gắn học tập với hiệu quả và trách nhiệm cá nhân.
Hoàn thiện các chế tài quản lý kinh doanh, kết hợp giữa lấy động lực phân phối kết quả kinh doanh và kỷ luật hành chính thúc đẩy các đơn vị và cán bộ công nhân viên tích cực chủ động tạo việc, tạo phong trào thi đua kinh doanh lành mạnh.
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty Dịch vụ và Thương mại TSC
Do đặc thù công ty, lượng vốn lưu động chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng lượng vốn và có vai trò quyết định tới việc tạo ra lợi nhuận cho công ty do đó các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn chủ yếu tập trung khắc phục các hạn chế trong việc sử dụng vốn lưu động và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nói chung.
Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động:
3.2.1. Tăng cường quản lý hàng tồn kho
Trong quá trình luân chuyển vốn lưu động phục vụ cho sản xuất kinh doanh thì việc tồn tại hàng hoá dự trữ, tồn kho là bước đệm cần thiết cho quá trình hoạt động bình thường của doanh nghiệp. Hàng tồn kho có ba loại: nguyên vật liệu thô phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh, sản phẩm dở dang và thành phẩm. Đối với các doanh nghiệp kinh doanh thương mại, dịch vụ thì hàng tồn kho chủ yếu là thành phẩm. Hàng tồn kho không tạo ra lợi nhuận nhưng nó có vai trò rất lớn cho quá trình kinh doanh được tiến hành bình thường. Do vậy, nếu doanh nghiệp dự trữ quá lớn sẽ tốn kém chi phí, ứ đọng vốn còn nếu dự trữ quá ít sẽ làm quá trình kinh doanh bị gián đoạn gây ra hàng loạt hậu quả tiếp theo.
Hàng tồn kho của công ty trong các năm qua là khá lớn chiếm tới 30% giá trị tài sản lưu động, mặc dù công ty không phải doanh nghiệp sản xuất. Do vậy, để nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản nói chung và tài sản lưu động nói riêng thì trước mắt công ty cần phải giải phóng nhanh lượng hàng tồn kho này bằng cách đẩy mạnh công tác tiếp thị, quảng cáo, đồng thời tạm ngưng việc nhập và dự trữ các hàng hoá khó bán.
Về lâu dài để không lập lại tình trạng dự trữ quá lớn, công ty có thể tham khảo mô hình dự trữ EOQ (Economic Odering Quantity) . Mô hình này được giả định là những lần cung cấp hàng hoá là bằng nhau cho nên áp dụng cho hàng tháng hoặc quý khi mà nhu cầu kinh doanh không biến động.
Mô hình này như sau:
Khi doanh nghiệp tiến hành dự trữ hàng hoá thì phát sinh hai loại chi phí chính:
* Chi phí lưu kho: bao gồm chi phí hoạt động, (như chi phí bốc xếp hàng hoá, chi phí bảo hiểm hàng hoá, chi phí do giảm giá trị hàng hoá, chi phí hao hụt mất mát, chi phí bảo quản...), chi phí tài chính (chi phí sử dụng vốn như trả lãi tiền vay, chi phí về thuế, khấu hao...).
Nếu gọi số lượng mỗi lần cung ứng hàng hoá là Q thì dự trữ trung bình sẽ là Q/2.
Gọi C1 là chi phí lưu kho 1 đơn vị hàng hoá thì tổng chi phí lưu kho của doanh nghiệp sẽ là (C1*Q)/2
Tổng chi phí lưu kho sẽ tăng nếu số lượng hàng mỗi lần cung ứng tăng.
* Chi phí đặt hàng: bao gồm chi phí quản lý giao dịch và vận chyển hàng hoá. Chi phí đặt hàng cho mỗi lần đặt hàng thường ổn định không phụ thuộc vào số lượng hàng hoá được mua.
Nếu gọi D là toàn bộ lượng hàng hoá cần sử dụng trong một đơn vị thời gian (năm, quý, tháng) thì số lượng lần cung ứng hàng hoá sẽ là D/Q. Gọi C2 là chi phí mỗi lần đặt hàng thì tổng chi phí đặt hàng sẽ là : (C2*D)/Q
Tổng chi phí đặt hàng tăng nếu số lượng mỗi lần cung ứng giảm.
Gọi TC là tổng chi phí tồn trữ hàng hoá ta có:
TC = (C1*Q)/2 + (C2*D)/Q
Gọi Q* là tổng chi phí dự trữ thấp nhất. Tìm Q* bằng cách lấy vi phân TC theo Q ta có:
2*D*C2
Q* =
C1
Điều quan trọng nhất ở đây là công ty phải xác định được lượng hàng hoá D cần được sử dụng trong từng tháng, từng quý. Tốt nhất, công ty nên dựa vào kế hoạch kinh doanh trong từng tháng, từng quý và khả năng tiêu thụ hàng hoá trong thời gian này để xác định được chính xác lượng hàng D.
3.2.2. Quản lý chặt chẽ các khoản phải thu
Các khoản phải thu tuy có tác động làm tăng doanh thu bán hàng, làm giảm chi phí tồn kho của hàng hoá, làm cho tài sản cố định được sử dụng có hiệu quả hơn và phần nào hạn chế được hao mòn vô hình, song nó cũng làm tăng chi phí đòi nợ, chi phí trả cho nguồn tài trợ để bù đắp cho sự thiếu hụt ngân quỹ. Các khoản phải thu cũng chịu rủi ro nhất định khi người mua không chịu trả tiền. Vì vậy, người quản lý phải so sánh giữa thu nhập và chi phí tăng thêm để quyết định có cho mua chịu hay không.
Tình trạng thực tế của công ty Dịch vụ và Thương mại TSC là các khoản phải thu ngày càng tăng. Năm 2001 các khoản phải thu là 9,2 tỷ, thì năm 2002 nó tăng lên 12,2 tỷ chiếm 60% tỷ trọng tài sản lưu động. Như vậy tài sản của công ty bị chiếm dụng khá lớn. Chính vì vậy, cần phải quản lý chặt chẽ các khoản phải thu để công ty vừa có thể gia tăng doanh thu, tận dụng tối đa khả năng tiêu thụ hiện có, đảm bảo tính hiệu quả.
Các biện pháp để giảm thiểu các khoản phải thu tốt nhất là:
Trước khi ra quyết định bán chịu hay không công ty cần phải phân tích khả năng tín dụng của khách hàng và đánh giá các khoản tín dụng được đề nghị. Đánh giá khả năng tín dụng của khách hàng nhằm xác định liệu khoản tín dụng này sẽ được khách hàng thanh toán đúng thời hạn hay không ? Để làm được việc này, công ty phải xây dựng một hệ thống các tiêu chuẩn tín dụng đối với các khách hàng thường xuyên mua chịu với khối lượng lớn như: phẩm chất, tư cách tín dụng; năng lực trả nợ; vốn của khách hàng; tài sản thế chấp; điều kiện kinh tế của khách hàng. Tiếp theo, công ty cần phân tích đánh giá giữa thu nhập và chi phí của khoản tín dụng đó. Công ty chỉ cung cấp khoản tín dụng cho các khách hàng có khả năng trả nợ đúng thời hạn, chi phí phải thấp hơn thu nhập.
Ngoài ra, công ty phải theo dõi chặt chẽ các khoản phải thu bằng cách: sắp xếp các khoản phải thu theo độ dài thời gian để theo dõi và có biện pháp giải quyết thu nợ khi đến hạn; theo dõi kỳ thu tiền bình quân khi thấy kỳ thu tiền bình quân tăng lên mà doanh thu không tăng nghĩa là công ty đang bị ứ đọng ở khâu thanh toán cần phải có biện pháp kịp thời giải quyết.
Đồng thời, với việc cho khách hàng mua chịu công ty cũng phải lập một quỹ dự phòng rủi ro khi không thu được nợ hoặc không thu được nợ đúng hạn.
Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nói chung
3.2.3. Tích cực tiết kiệm chi phí kinh doanh để tăng lợi nhuận
Phân tích tình hình tài chính công ty trong vài năm qua cho thấy, doanh thu hàng năm của công ty khá lớn nhưng tỷ suất lợi nhuận lại khong tương xứng. Nguyên nhân là do chi phí kinh doanh cao đẩy giá vốn của công ty lên rất lớn làm lợi nhuận bị thu hẹp lại. Chi phí kinh doanh tăng cao chủ yếu do việc chi phí bán hàng và chi phí quản lý cao.
Chi phí bán hàng của công ty lớn một phần do việc quảng cáo, giới thiệu sản phẩm còn phần lớn là do chi phí bảo quản, vận chuyển do lượng hàng hoá quá lớn, mặt khác hàng hoá của công ty chủ yếu là hàng hoá xuất nhập khẩu. Chi phí bán hàng cao còn do các phương tiện vận chuyển, lưu trữ cũng như nhân lực công ty bảo quản công ty đều phải thuê, do tài sản cố định của công ty không đáp ứng đủ.
Chi phí quản lý cũng tăng do máy móc thiết bị dùng cho quản lý hành chính tăng giá, thị trường của công ty trải rộng ở cả trong và ngoài nước do đó phát sinh nhiều chi phí.
Việc chi phí bán hàng và chi phí quản lý tăng là tất yếu, nhưng hai khoản này trực tiếp ảnh hưởng tới lợi nhuận của công ty vì thế việc tiết kiệm chi phí nhưng vẫn đảm bao được kinh doanh là rất cần thiết. Biện pháp cụ thể là điều chỉnh lại quy trình bán hàng, giảm tối thiểu lượng hàng tồn kho để có thể giảm các chi phí vận chuyển, bảo quản, nâng cao trình độ của nhân viên quản lý sao cho vừa đảm bảo được hiệu quả quản lý lại vừa tăng được doanh thu.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- TC02.docx