Tài liệu Đề tài Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Công ty cổ phần Đại Việt: LỜI NÓI ĐẦU
Trong nền kinh tế cạnh tranh quyết liệt, doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển được thì đòi hỏi doanh nghiệp phải có một sức mạnh về tài chính cụ thể là vốn.
Vốn là biểu hiện vật chất không thể thiếu được trong hoạt động sản xuất kinh doanh, trong việc mở rộng quy mô về chiều sâu và chiều rộng của mỗi doanh nghiệp. Vì thế doanh nghiệp phải luôn đảm bảo vốn cho hoạt động của mình, không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, từ đó doanh nghiệp mới có thể tăng lợi nhuận, tăng thu nhập để tồn tại và phát triển.
Sản phẩm công nghệ là một thị trường luôn phát triển và thay đổi thường xuyên, điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp kinh doanh sản phẩm này phải luôn có sự cập nhật về sản phẩm cũng như công nghệ tiên tiến nhất để phục vụ các yêu cầu của khách hàng. Vốn lưu động là một yếu tố quan trọng trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong lĩnh vực này. Vì thế, việc sử dụng hiệu quả vốn lưu động trong hoạt động sản xuất kinh doanh luôn là một vần đề thường xuyên được quan tâ...
66 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1145 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Công ty cổ phần Đại Việt, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Trong nền kinh tế cạnh tranh quyết liệt, doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển được thì đòi hỏi doanh nghiệp phải có một sức mạnh về tài chính cụ thể là vốn.
Vốn là biểu hiện vật chất không thể thiếu được trong hoạt động sản xuất kinh doanh, trong việc mở rộng quy mô về chiều sâu và chiều rộng của mỗi doanh nghiệp. Vì thế doanh nghiệp phải luôn đảm bảo vốn cho hoạt động của mình, không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, từ đó doanh nghiệp mới có thể tăng lợi nhuận, tăng thu nhập để tồn tại và phát triển.
Sản phẩm công nghệ là một thị trường luôn phát triển và thay đổi thường xuyên, điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp kinh doanh sản phẩm này phải luôn có sự cập nhật về sản phẩm cũng như công nghệ tiên tiến nhất để phục vụ các yêu cầu của khách hàng. Vốn lưu động là một yếu tố quan trọng trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong lĩnh vực này. Vì thế, việc sử dụng hiệu quả vốn lưu động trong hoạt động sản xuất kinh doanh luôn là một vần đề thường xuyên được quan tâm và là vần đề cốt lõi trong hoat động kinh doanh của doanh nghiệp.
Công ty cổ phần Đại Việt là một đơn vị hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực công nghệ, công ty đã có nhiều nỗ lực trong việc quản lý và sử dụng vốn lưu động sao cho hiệu quả và đã gặt hái được một số thành tựu nhất định. Bên cạnh đó, Công ty vẫn còn tồn tại một số vấn đề bất cập trong công tác quản lý và sử dụng vốn lưu động. Do vậy, việc đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng vốn lưu động là rất cần thiết.
Xuất phát từ thực tế trên, tôi đã chọn đề tài : “Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Công ty cổ phần Đại Việt" làm mục đích và nội dung nghiên cứu cho chuyên đề tốt nghiệp của mình
“ Xin trân trọng cảm ơn
Tập thể cán bộ công nhân viên trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
Thầy cô giáo khoa Ngân Hàng Tài Chính
Công ty cổ phần Đại Việt
Và đặc biệt xin trân trọng cảm ơn
Phó giáo sư – Tiến sỹ: Vũ Duy Hào
Đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập tại trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân và tận tình hướng dẫn tôi hoàn thành chuyên đề này”
Học viên : Nguyễn Hải Bằng
Chương I:
HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN LƯU ĐỘNG TRONG DOANH NGHIỆP
1.1 Tổng quan về vốn của doanh nghiệp
1.1.1 Khái niệm
Vốn là điều kiện không thể thiếu để một doanh nghiệp được thành lập và tiến hành sản xuất kinh doanh.
Vốn kinh doanh của doanh nghiệp được hiểu là số tiền ứng trước về toàn bộ tài sản hữu hình và tài sản vô hình phục vụ cho sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp nhằm mục đích kiếm lời.
Trong mọi doanh nghiệp, vốn đều bao gồm hai bộ phận: vốn chủ sở hữu và nợ. Mỗi bộ phận này được cấu thành bởi nhiều khoản mục khách nhautuỳ theo tính chất của chúng. Tuy nhiên, việc lựa chọn nguồn vốn trong các doanh nghiệp khác nhau sẽ không giống nhau, nó phụ thuộc vào một loạt cac nhân tố như:
Trạng thái của nền kinh tế
Ngành kinh doanh hay lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp
Quy mô và cơ cấu tổ choc của doanh nghiệp
Trình độ khoa học kỹ thuật và trình độ quản lý
Chiến lược phát triển và chiến lựợc đầu tư của doanh nghiệp
Thái độ của chủ doanh nghiệp
Chính sách thuế…
1.1.2 Đặc điểm
- Vốn của doanh nghiệp là số tiền ứng trước cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên muốn có được lượng vốn đó, các doanh nghiệp phải chủ động khai thác, thu hút vốn trên thị trường.
- Mục đích vận động của tiền vốn là sinh lời. Nghĩa là vốn ứng trước cho hoạt động sản xuất kinh doanh phải được thu hồi về sau mỗi chu kỳ sản xuất, tiền vốn thu hồi về phải lớn hơn số vốn đã bỏ ra.
1.1.3 Phân loại
Vốn của doanh nghiệp bao gồm hai bộ phận: vốn chủ sở hữu và nợ.
Vốn chủ sở hữu
Là phần vốn thuộc quyền sở hữu của chủ doanh nghiệp, doanh nghiệp có quyền chiếm hữu và sử dụng, bao gồm: vốn góp ban đầu, lợi nhuận không chia, tăng vốn bằng phát hành cổ phiếu. Trong đó:
- Vốn góp ban đầu: Trong các doanh nghiệp tư nhân vốn đầu tư ban đầu do cổ đông,chủ sở hữu góp. Trong các doanh nghiệp Nhà nước, vốn góp ban đầu chính là vốn đầu tư của nhà nước.
- Lợi nhuận không chia: là bộ phận lợi nhuận được sử dụng tái đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanhcủa doanh nghiệp. Trong quá trình hoật động sản xuất kinh doanh, nêu doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả thì doanh nghiệp sẽ có những điều kiện thuận lợi để tăng trưởng nguồn vốn.
- Phát hành cổ phiếu: Một nguồn tài chính dài hạn rất quan trọng là phát hành cổ phiếu để huy động vốn cho doanh nghiệp. Phát hành cổ phiếu được gọi là hoạt động tài trợdài hạn của doanh nghiệp.
VỐN CSH TỔNG NỢ
TẠI MỘT = NGUỒN - PHẢI
THỜI ĐIỂM VỐN TRẢ
Nợ
Để bổ sung cho quá trình sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp có thể sử dụng nợ từ các nguồn: tín dụng ngân hàng, tín dụng thương mại và vay thông qua phát hành trái phiếu.
Nguồn tín dụng ngân hàng và tín dụng thương mại: là một trong những nguồn vốn quan trọng nhất, không chỉ đối với sự phát triển của bản thân các doanh nghiệp mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Sự hoạt động và phát triển của các doanh nghiệpđều gắn liền với các dịch vụ tài chính do các ngân hàng cung cấp, trong đó có việc cung ứng các nguồn vốn. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp thường xuyên khai thác tín dụng thương mại hay còn gọi là tín dụng của nhà cung cấp. Nguồn vốn này hình thành một cách tự nhiên trong quan hệ mua bán chịu, mua bán trả chậm hay trả góp.
Phát hành trái phiếu công ty: trái phiếu là một tên chung của giấy vay nợ dài hạn và trung hạn, hay còn được gọi là trái khoán. Việc lựa chọn trái phiếu thích hợp là quan trọng vì có liên quan đến chi phí trả lãi, cách thức trả lãi, khả năng lưu hành và tính hấp dẫn của trái phiếu. Các loại trái phiếu thường được lưu hành: trái phiếu có lãi suất cố định, trái phiếu có lãi suất thay đổi, trái phiếu có thể thu hồi, chứng khoán có thể chuyển đổi
1.2 Hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong doanh nghiệp
1.2.1 Khái niệm
1.2.1.1 Khái niệm và phân loại vốn lưu động
Trong nền kinh tế quốc dân mỗi doanh nghiệp được coi như một tế bào của nền kinh tế với nhiệm vụ chủ yếu là thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm tạo ra các sản phẩm hàng hoá, lao vụ, dịch vụ cung cấp cho xã hội. Doanh nghiệp có thể thực hiện một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm lao vụ, dịch vụ trên thị trường nhằm mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận.
Để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh doanh nghiệp cần phải có đối tượng lao động, tư liệu lao động và sức lao động. Quá trình sản xuất kinh doanh là quá trình kết hợp các yếu tố đó để tạo ra sản phẩm hàng hoá lao vụ, dịch vụ. Khác với tư liệu lao động, đối tượng lao động khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh luôn thay đổi hình thái vật chất ban đầu, giá trị của nó được chuyển dịch toàn bộ một lần vào giá trị sản phẩm và được bù đắp khi giá trị sản phẩm được thực hiện. Biểu hiện dưới hình thái vật chất của đối tượng lao động gọi là tài sản lưu động, TSLĐ của doanh nghiệp gồm TSLĐ sản xuất và TSLĐ lưu thông.
TSLĐ sản xuất gồm những vật tư dự trữ để chuẩn bị cho quá trình sản xuất được liên tục, vật tư đang nằm trong quá trình sản xuất chế biến và những tư liệu lao động không đủ tiêu chuẩn là tài sản cố định. Thuộc về TSLĐ sản xuất gồm: Nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu, phụ tùng thay thế, sản phẩm dở dang, công cụ lao động nhỏ.
TSLĐ lưu thông gồm: sản phẩm hàng hoá chưa tiêu thụ, vốn bằng tiền, vốn trong thanh toán.
Quá trình sản xuất của doanh nghiệp luôn gắn liền với quá trình lưu thông. Trong quá trình tham gia vào các hoạt động sản xuất kinh doanh tài sản lưu động sản xuất và tài sản lưu động lưu thông luôn chuyển hoá lẫn nhau, vận động không ngừng làm cho quá trình sản xuất kinh doanh được liên tục. Để hình thành nên tài sản lưu động sản xuất và tài sản lưu động lưu thông doanh nghiệp cần phải có một số vốn thích ứng để đầu tư vào các tài sản ấy, số tiền ứng trước về những tài sản ấy được gọi là vốn lưu động của doanh nghiệp.
Như vậy, vốn lưu động của các doanh nghiệp sản xuất là số tiền ứng trước về tài sản lưu động sản xuất và tài sản lưu động lưu thông nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra liên tục nên vốn lưu động cũng vận động liên tục, chuyển hoá từ hình thái này qua hình thái khác. Sự vận động của vốn lưu động qua các giai đoạn có thể mô tả bằng sơ đồ sau:
T
T-H-SX-H’- T’
Δ T
Đối với doanh nghiệp thuộc lĩnh vực lưu thông, quá trình vận động của vốn lưu động theo trình tự sau:
T
T – H – T’
Δ T
Sự vận động của vốn lưu động trải qua các giai đoạn và chuyển hoá từ hình thái ban đầu là tiền tệ sang các hình thái vật tư hàng hoá và cuối cùng quay trở lại hình thái tiền tệ ban đầu gọi là sự tuần hoàn của vốn lưu động. Cụ thể là sự tuần hoàn của vốn lưu động được chia thành các giai đoạn như sau:
- Giai đoạn 1(T-H): khởi đầu vòng tuần hoàn, vốn lưu động dưới hình thái tiền tệ được dùng để mua sắm các đối tượng lao động để dự trữ cho sản xuất. Như vậy ở giai đoạn này vốn lưu động đã từ hình thái tiền tệ chuyển sang hình thái vốn vật tư hàng hoá.
- Giai đoạn 2(H-SX-H’): ở giai đoạn này doanh nghiệp tiến hành sản xuất ra sản phẩm, các vật tư dự trữ được đưa dần vào sản xuất. Trải qua quá trình sản xuất các sản phẩm hàng hoá được chế tạo ra. Như vậy ở giai đoạn này vốn lưu động đã từ hình thái vốn vật tư hàng hoá chuyển sang hình thái vốn sản phẩm dở dang và sau đó chuyển sang hình thái vốn thành phẩm.
- Giai đoạn 3:(H’-T’): doanh nghiệp tiến hành tiêu thụ sản phẩm và thu được tiền về và vốn lưu động đã từ hình thái vốn thành phẩm chuyển sang hình thái vốn tiền tệ trở về điểm xuất phát của vòng tuần hoàn vốn. Vòng tuần hoàn kết thúc. So sánh giưa T và T’, nếu T’ >T có nghĩa doanh nghiệp kinh doanh thành công vì đồng vốn lưu động đưa vào sản xuất đã sinh sôi nảy nở, doanh nghiệp bảo toàn và phát triển được VLĐ và ngựơc lại. Đây là một nhân tố quan trọng đánh giá hiệu quả sử dụng đồng VLĐ của doanh nghiệp.
Do quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được tiến hành thường xuyên liên tục nên vốn lưu động của doanh nghiệp cũng tuần hoàn không ngừng, lặp đi lặp lại có tính chất chu kỳ gọi là sự chu chuyển của vốn lưu động. Do sự chu chuyển của vốn lưu động diễn ra không ngừng nên trong cùng một lúc thường xuyên tồn tại các bộ phận khác nhau trên các giai đoạn vận động khác nhau của vốn lưu động. Khác với vốn cố định, khi tham gia vào các hoạt động sản xuất kinh doanh, vốn lưu động luôn thay đổi hình thái biểu hiện, chu chuyển giá trị toàn bộ một lần vào giá trị sản phẩm và hoàn thành một vòng tuần hoàn sau mỗi chu kỳ sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Để quản lý, sử dụng vốn lưu động có hiệu quả cần phải tiến hành phân loại vốn lưu động của doanh nghiệp theo các tiêu thức khác nhau. Thông thường có những cách phân loại sau đây:
* Phân loại theo vai trò từng loại vốn lưu động trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Theo cách phân loại này vốn lưu động của doanh nghiệp có thể chia thành 3 loại:
- Vốn lưu động trong khâu dự trữ sản xuất: bao gồm giá trị các khoản nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu, động lực, phụ tùng thay thế, công cụ dụng cụ.
- Vôn lưu động trong khâu sản xuất: bao gồm các khoản giá trị sản phẩm dở dang, bán thành phẩm, các khoản chi phí chờ kết chuyển.
- Vốn lưu động trong khâu lưu thông: bao gồm các khoản giá trị thành phẩm, vốn bằng tiền(kể cả vàng bạc, đá quý...); các khoản vốn đầu tư ngắn hạn(đầu tư chứng khoán ngắn hạn, cho vay ngắn hạn...) các khoản thế chấp, ký cược, ký quỹ ngắn hạn; các khoản vốn trong thanh toán(các khoản phải thu, các khoản tạm ứng...).
Cách phân loại này cho thấy vai trò và sự phân bố của vốn lưu động trong từng khâu của quá trình sản xuất kinh doanh. Từ đó có biện pháp điều chỉnh cơ cấu vốn lưu động hợp lý sao cho có hiệu quả sử dụng cao nhất.
* Phân loại theo hình thái biểu hiện.
Theo cách nay vốn lưu động có thể chia thành hai loại:
- Vốn vật tư, hàng hoá: là các khoản vốn lưu động có hình thái biểu hiện bằng hiện vật cụ thể như nguyên, nhiên, vật liệu, sản phẩm dở dang, bán thành phẩm, thành phẩm....
- Vốn bằng tiền: bao gồm các khoản vốn tiền tệ như tiền mặt tồn quỹ, tiền gửi ngân hàng, các khoản vốn trong thanh toán, các khoản đầu tư chứng khoán ngắn hạn....
Cách phân loại này giúp cho các doanh nghiệp xem xét, đánh giá mức tồn kho dự trữ và khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
* Phân loại theo quan hệ sở hữu.
Theo cách này người ta chia vốn lưu động thành 2 loại:
- Vốn chủ sở hữu: là số vốn lưu động thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp, doanh nghiệp có đầy đủ các quyền chiếm hữu, sử dụng, chi phối và định đoạt. Tuỳ theo loại hình doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau mà vốn chủ sở hữu có nội dung cụ thể riêng như: vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước; vốn do chủ doanh nghiệp tư nhân tự bỏ ra; vốn góp cổ phần trong công ty cổ phần; vốn góp từ các thành viên trong doanh nghiệp liên doanh; vốn tự bổ sung từ lợi nhuận doanh nghiệp.....
- Các khoản nợ: là các khoản vốn lưu động được hình thành từ vốn vay các nhân hàng thương mại hoặc các tổ chức tài chính khác; vốn vay thông qua phát hành trái phiếu; các khoản nợ khách hàng chưa thanh toán. Doanh nghiệp chỉ có quyền sử dụng trong một thời hạn nhất định.
Cách phân loại này cho thấy kết cấu vốn lưu động của doanh nghiệp được hình thành bằng vốn của bản thân doanh nghiệp hay các khoản nợ. Từ đó có các quyết định trong huy động và quản lý, sử dụng vốn lưu động hợp lý hơn, đảm bảo an ninh tài chính trong sử dụng vốn của doanh nghiệp.
* Phân loại theo nguồn hình thành.
Nếu xét theo nguồn hình thành vốn lưu động có thể chia thành các nguồn như sau:
- Nguồn vốn điều lệ: là số vốn lưu động được hình thành từ nguồn vốn điều lệ ban đầu khi thành lập hoặc nguồn vốn điêù lệ bổ sung trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nguồn vốn này cũng có sự khác biệt giữa các loại hình doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau.
- Nguồn vốn tự bổ sung: là nguồn vốn do doanh nghiệp tự bổ sung trong quá trình sản xuất kinh doanh như từ lợi nhuận của doanh nghiệp được tái đầu tư.
- Nguồn vốn liên doanh, liên kết; là số vốn lưu động được hình thành từ vốn góp liên doanh của các bên tham gia doanh nghiệp liên doanh. Vốn góp liên doanh có thể bằng tiền mặt hoặc bằng hiện vật là vật tư, hàng hoá....theo thoả thuận của các bên liên doanh.
- Nguồn vốn đi vay: vốn vay của các ngân hàng thương mại hoặc tổ chức tín dụng, vốn vay của người lao động trong doanh nghiệp, vay các doanh nghiệp khác.
- Nguồn vốn huy động từ thị trường vốn bằng việc phát hành cổ phiếu, trái phiếu.
Việc phân chia vốn lưu động theo nguồn hình thành giúp cho doanh nghiệp thấy được cơ cấu nguồn vốn tài trợ cho nhu cầu vốn lưu động trong kinh doanh của mình. Từ góc độ quản lý tài chính mọi nguồn tài trợ đều có chi phí sử dụng của nó. Do đó doanh nghiệp cần xem xét cơ cấu nguồn tài trợ tối ưu để giảm thấp chi phí sử dụng vốn của mình.
* Phân loại theo thời gian huy động và sử dụng vốn.
Theo cách này nguồn vốn lưu động được chia thành nguồn vốn lưu động tạm thời và nguồn vốn lưu động thường xuyên.
- Nguồn vốn lưu động tạm thời là nguồn vốn có tính chất ngắn hạn chủ yếu để đáp ứng các nhu cầu có tính chất tạm thời về vốn lưu động phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Nguồn vốn này bao gồm các khoản vay ngắn hạn ngân hàng, các tổ chức tín dụng và các khoản nợ ngắn hạn khác.
- Nguồn vốn lưu động thường xuyên là nguồn vốn có tính chất ổn định nhằm hình thành nên TSLĐ thường xuyên cần thiết.
Chúng ta có thể khái quát như sau:
TSLĐ tạm thời
Nguồn tạm thời
-TSLĐ thường xuyên cần thiết
-TSCĐ
Nguồn thường xuyên
Việc phân loại nguồn vốn lưu động như trên giúp cho người quản lý xem xét huy động các nguồn vốn lưu động một cách phù hợp với thời gian sử dụng để nâng cao hiệu quả tổ chức và sử dụng VLĐ trong doanh nghiệp mình. Ngoài ra nó còn giúp cho nhà quản lý lập các kế hoạch tài chính hình thành nên những dự định về tổ chức nguồn vốn lưu động trong tương lai, trên cơ sở xác định quy mô, số lượng VLĐ cần thiết để lựa chọn nguồn vốn lưu động này mang lại hiệu quả cao nhất cho doanh nghiệp.
1.2.1.2 Kết cấu và nhân tố ảnh hưởng đến kết cấu vốn lưu động
* Kết cấu vốn lưu động.
- Khái niệm kết cấu VLĐ: là quan hệ tỷ lệ giữa các thành phần vốn lưu động chiếm trong tổng số vốn lưu động của doanh nghiệp.
VLĐ là một bộ phận của vốn sản xuất kinh doanh, vấn đề tổ chức quản lý, sử dụng vốn lưu động có hiệu quả sẽ quyết định đến sự tăng trưởng và phát triển của doanh nghiệp, nhất là trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay. Doanh nghiệp sử dụng vốn lưu động có hiệu quả, điều này đồng nghĩa với việc doanh nghiệp tổ chức được tốt quá trình mua sắm dự trữ vật tư, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, phân bổ hợp lý vốn trên các giai đoạn luân chuyển để vốn luân chuyển từ loại này thành loại khác, từ hình thái này sang hình thái khác, rút ngắn vòng quay của vốn.
Để quản lý vốn lưu động được tốt cần phải phân loại vốn lưu động. Có nhiều cách phân loại vốn, mỗi cách phân loại có tác dụng riêng phù hợp với yêu cầu của công tác quản lý. Thông qua các phương pháp phân loại giúp cho nhà quản trị tài chính doanh nghiệp đánh giá tình hình quản lý và sử dụng vốn của những kỳ trước, rút ra những bài học kinh nghiệm trong công tác quản lý kỳ này để ngày càng sử dụng hiệu quả hơn vốn lưu động. Cũng như từ các cách phân loại trên doanh nghiệp có thể xác định được kết cấu vốn lưu động của mình theo những tiêu thức khác nhau.
Trong các doanh nghiệp khác nhau thì kết cấu vốn lưu động cũng không giống nhau. Việc phân tích kết cấu vốn lưu động của doanh nghiệp theo các tiêu thức phân loại khác nhau sẽ giúp doanh nghiệp hiểu rõ hơn những đặc điểm riêng về số vốn lưu động mà mình đang quản lý và sử dụng. Từ đó xác định đúng các trọng điểm và biện pháp quản lý vốn lưu động có hiệu quả hơn phù hợp với điều kiện cụ thể của doanh nghiệp.
* Các nhân tố ảnh hưởng đến kết cấu vốn lưu động của doanh nghiệp, có thể chia ra thành 3 nhóm chính sau:
- Các nhân tố về mặt cung ứng vật tư như: khoảng cách giữa doanh nghiệp với nơi cung cấp; khả năng cung cấp của thị trường; kỳ hạn giao hàng và khối lượng vật tư được cung cấp mỗi lần giao hàng; đặc điểm thời vụ của chủng loại vật tư cung cấp.
- Các nhân tố về mặt sản xuất như: đặc điểm, kỹ thuật, công nghệ sản xuất của doanh nghiệp; mức độ phức tạp của sản phẩm chế tạo; độ dài của chu kỳ sản xuất; trình độ tổ chức quá trình sản xuất.
_ Các nhân tố về mặt thanh toán như: phương thức thanh toán được lựa chọn theo các hợp đồng bán hàng; thủ tục thanh toán; việc chấp hanh kỷ luật thanh toán giữa các doanh nghiệp.
1.2.2 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng VLĐ.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh của mình các doanh nghiệp đã sử dụng VLĐ để đảm bảo cho quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm được bình thường và liên tục. Lợi ích kinh doanh đòi hỏi các doanh nghiệp phải sử dụng hiệu quả từng đồng vốn lưu động. Việc sử dụng hợp lý, có hiệu quả VLĐ được đánh giá thông qua các chỉ tiêu sau:
* Tốc độ luân chuyển VLĐ.
Việc sử dụng hợp lý tiết kiệm vốn lưu động được biểu hiện trước hết ở tốc độ luân chuyển vốn lưu động của doanh nghiệp nhanh hay chậm. Vốn lưu động luân chuyển càng nhanh thì hiệu suất sử dụng vốn lưu động càng cao và ngược lại.
Tốc độ luân chuyển VLĐ có thể đo bằng hai chỉ tiêu là số lần luân chuyển(số vòng quay vốn) và kỳ luân chuyển vốn(số ngày của một vòng quay vốn). Số lần luân chuyển VLĐ phản ánh số vòng quay vốn được thực hiện trong thời kỳ nhất định, thường tính trong 1 năm. Công thức tính như sau:
L=M/VLĐ
Trong đó:
L: số lần luân chuyển(số vòng quay) của VLĐ trong kỳ.
M: tổng mức luân chuyển vốn trong kỳ.
VLĐ; vốn lưu động bình quân trong kỳ.
Kỳ luân chuyển VLĐ phản ánh số ngày để thực hiện một vòng quay VLĐ.
Công thức được xác định như sau:
K=360/L hay K=(VLĐ x 360)/M
Trong đó:
K:kỳ luân chuyển VLĐ.
M,VLĐ: như công thức trên.
Vòng quay VLĐ càng nhanh thì kỳ luân chuyển vốn càng được rút ngắn và chứng tỏ VLĐ càng được sử dụng có hiệu quả.
* Mức tiết kiệm vốn lưu động do tăng tốc độ luân chuyển.
Mức tiết kiệm vốn lưu động do tăng tốc độ luân chuyển vốn được biểu hiện bằng hai chỉ tiêu là mức tiết kiêm tuyệt đối và mức tiết kiệm tương đối.
- Mức tiết kiệm tuyệt đối là do tăng tốc độ luân chuyển vốn nên doanh nghiệp có thể tiết kiệm được một số vốn lưu động để sử dụng vào công việc khác. Nói một cách khác với mức luân chuyển vốn không thay đổi(hoặc lớn hơn báo cáo) song do tăng tốc độ luân chuyển nên doanh nghiệp cần số vốn ít hơn. Công thức tính như sau:
M1
Vtktđ = ( x K1 ) - VLĐ0 = VLĐ1 – VLĐ0
360
Trong đó: Vtktđ : Vốn lưu động tiết kiệm tuyệt đối.
VLĐ0, VLĐ1: Vốn lưu động bình quân năm báo cáo và năm kế hoạch.
M1 : Tổng mức luân chuyển năm kế hoạch
K1 : Kỳ luân chuyển vốn lưu động năm kế hoạch
Điều kiện để có VLĐ tiết kiệm tuyệt đối là tổng mức luân chuyển vốn kỳ kế hoạch phải không nhỏ hơn tổng mức luân chuyển vốn kỳ báo cáo và vốn lưu động kỳ kế hoạch phải nhỏ hơn vốn lưu động kỳ báo cáo.
- Mức tiết kiệm tương đối là do tăng tốc độ luân chuyển vốn nên doanh nghiệp có thể tăng thêm tổng mức luân chuyển vốn song không cần tăng thêm hoặc tăng không đáng kể quy mô VLĐ. Công thức xác định số VLĐ tiết kiệm tương đối như sau:
M1
Vtktgđ = x (K1 – K0)
360
Trong đó:
Vtktgđ : Vốn lưu động tiết kiệm tương đối.
M1 : Tổng mức luân chuyển vốn năm kế hoạch.
K0, K1: Kỳ luân chuyển vốn năm báo cáo và năm kế hoạch.
Điều kiện để có vốn lưu động tiết kiệm tương đối là tổng mức luân chuyển vốn kỳ kế hoạch phải lớn hơn kỳ báo cáo và VLĐ kỳ kế hoạch phải lớn hơn VLĐ kỳ báo cáo.
* Hàm lượng VLĐ(hay còn gọi là mức đảm nhận VLĐ).
Hàm lượng VLĐ là số vốn lưu động cần có để đạt được một đồng doanh thu. Đây là chỉ tiêu nghịch đảo của chỉ tiêu hiệu quả sử dụng VLĐ, chỉ tiêu này được tính như sau:
Hàm lượng VLĐ=1/H
Trong đó:
H:hiệu quả sử dụng VLĐ của doanh nghiệp.
* Mức doanh lợi VLĐ(tỷ suất lợi nhuận VLĐ).
- Tỷ suất lợi nhuận VLĐ trước thuế và lãi vay: chỉ tiêu này phản ánh mức sinh lời của VLĐ chưa có sự tác động của thuế TNDN và chưa tính đến VLĐ được hình thành từ nguồn nào.
Công thức tính như sau:
LN trước thuế và lãi vay
Tỷ suất VLĐ trước thuế và lãi vay = x 100%
VLĐ
Trong đó:
VLĐ: vốn lưu động bình quân trong kỳ.
- Tỷ suất lợi nhuận vốn lưu động tính với lợi nhuận trước thuế.
Chỉ tiêu này phản ánh mức sinh lời của VLĐ chưa có sự tác động của thuế TNDN.
Công thức tính như sau:
LN trước thuế
Tỷ suất VLĐ trước thuế = x 100%
VLĐ
- Tỷ suất lợi nhuận thuần: chỉ tiêu này phản ánh mức sinh lời của VLĐ, một đồng vốn lưu động có thể đạt được bao nhiêu đồng lợi nhuận thuần. Chỉ tiêu này phản ánh mức sinh lời của VLĐ đã chịu sự tác động của cả thuế TNDN và lãi vay.
Công thức tính như sau:
LN sau thuế
Tỷ suất VLĐ sau thuế = x 100%
VLĐ
Trên đây là một số chỉ tiêu tài chính nhằm đánh giá hiệu quả tổ chức và sử dụng VLĐ của doanh nghiệp giúp cho nhà quản lý tài chính đánh giá đúng đắn tình hình của kỳ trước, từ đó có nhận xét và nêu ra những biện pháp nâng cao hiệu quả tổ chức quản lý vốn cho kỳ tiếp theo.
1.2.3 Sự cần thiết nâng cao hiệu qủa sử dụng vốn lưu động
Trong doanh nghiệp thương mại vốn lưu động thường chiếm tỷ trọng rất cao trong tổng nguồn vốn, đó là một điều kiện thuận lợi để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
Chính vì vậy cùng với việc xác định vốn, khả năng sử dụng vốn lưu động có tầm quan trọng đặc biệt đối với doanh nghiệp thương mại. Chỉ khi quản lý sử dụng tốt vốn kinh doanh và vốn lưu động nói riêng thì doanh nghiệp mới mở rộng được quy mô về vốn, tạo được uy tín trên thị trường. Điều đó đồng nghĩa với việc tạo ra những sản phẩm dịch vụ với chất lượng cao, giá thành hạ không những mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp mà còn là cơ sở để mở rộng sản xuất kinh doanh.
Đối với các doanh nghiệp thương mại, phải tìm cách giải quyết tốt các phương diện về vốn lưu động, tăng cường quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh thường xuyên, liên tục. Sử dụng vốn lưu động với vòng quay nhanh, giảm rủi ro là sử dụng vốn với hiệu quả cao, nó đòi hỏi người điều hành kinh doanh phải có những quyết định đúng đắn. Do đó, doanh nghiệp phải đưa ra những cách thức hợp lý cung cấp đủ lượng vốn lưu động cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Do hoạt động trong cơ chế thị trường doanh nghiệp phải tự trang trải tài chính, tạo ra thu nhập để trang trải các khoản chi phí và có lãi. Vì vậy, doanh nghiệp phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động để thu hồi vốn, giảm chi phí, tăng lợi nhuận để phát triển sản xuất.
Sử dụng có hiệu quả vốn lưu động còn là huy động vốn trên thị trường tài chính, mở rộng và phát triển hoạt động kinh doanh, thực sự trở thành điều kiện quyết định thành công của doanh nghiệp.
Quản lý vốn lưu động là một bộ phận trọng yếu của công tác quản lý tài chính của doanh nghiệp. Quản lý vốn lưu động hợp lý không những đảm bảo sử dụng vốn lưu động hợp lý, tiết kiệm từ đó dẫn đến việc giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm. Tiết kiệm chi phí về bảo quản đồng thời thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm và thanh toán công nợ một cách kịp thời. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng, nó không chỉ phát huy được tính chủ động trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mà còn giúp doanh nghiệp chớp được thời cơ, tạo lợi thế trong kinh doanh.
Vì vậy, quản lý vốn lưu động là vấn đề được quan tâm đặc biệt, với đặc điểm của vốn lưu động là chuyển dịch toàn bộ một lần vào giá trị sản phẩm. vốn lưu động vận động có tính chất chu kỳ. Do đó để quản lý và bảo toàn vốn lưu động cần lưu ý một số nội dung sau:
- Xác định số vốn lưu động cần thiết tối thiểu trong kỳ kinh doanh, đảm bảo đủ vốn lưu động để quá trình kinh doanh được tiến hành thường xuyên, liên tục tránh tình trạng gián đoạn quá trình kinh doanh và tránh tình trạng lãng phí vốn.
- Khai thác tốt các nguồn vốn bên trong và bên ngoài doanh nghiệp
- Có giải pháp bảo toàn và phát triển vốn lưu động có nghĩa là bảo toàn được giá trị thực tế của đồng vốn, bảo toàn sức mua của đồng vốn không bị giảm sút so với ban đầu khi ứng vốn ra đầu tư vào tài sản lưu động. Đảm bảo khả năng mua sắm và khả năng thanh toán của doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Để thực hiện những điều trên ngoài việc sử dụng các biện pháp như: đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm, giải phóng hàng tồn kho, thu hồi các khoản nợ khó đòi doanh nghiệp phải thường xuyên tiến hành phân tích tình hình sử dụng vốn lưu động thông qua các chỉ tiêu: vòng quay vốn lưu động, hiệu suất sử dụng vốn lưu động, hệ số nợ... Nhờ những chỉ tiêu này có thể điều chỉnh các biện pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động nhằm tăng mức sinh lời.
VLĐ đóng một vai trò rất quan trọng trong hợp đồng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong cùng một lúc, VLĐ được phân bổ trên khắp các giai đoạn luân chuyển và biểu hiện dưới nhiều hình thái khác nhau. Để đảm bảo cho quá trình sản xuất được tiến hành thường xuyên liên tục, đòi hỏi doanh nghiệp phải có đủ VLĐ vào các hình thái đó, để cho hình thái đó có được mức tồn tại tối ưu và đồng bộ với nhau nhằm tạo điều kiện cho việc chuyển hoá hình thái của vốn trong quá trình luân chuyển được thuận lợi. Do sự chu chuyển của VLĐ diễn ra không ngừng nên thiếu vốn thì việc chuyển hoá hình thái sẽ gặp khó khăn, VLĐ không luân chuyển được và quá trình sản xuất do đó bị gián đoạn.
Quản lý VLĐ là một bộ phận trọng yếu của công ty quản lý tài chính doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ cũng chính là nâng cao hiệu quả của hoạt đông sản xuất kinh doanh. Quản lý VLĐ không những đảm bảo sử dụng VLĐ hợp lý, tiết kiệm mà còn có ý nghĩa quan trọng trong việc tiết kiệm chi phí, thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm và thanh toán công nợ một cách kịp thời. Do đặc điểm của VLĐ là luân chuyển nhanh, sử dụng linh hoạt nên nó góp phần quan trọng đẩm bảo sản xuất và luân chuyển một khối lượng lớn sản phẩm. Vì vậy kết quả hoạt động của doanh nghiệp là tốt hay xấu phần lớn là do chất lượng của công tác quản lý VLĐ quyết định.
Quan niệm về tính hiệu quả của việc sử dụng VLĐ phải được hiểu trên hai khía cạnh:
+ Một là, với số vốn hiện có có thể cung cấp thêm một số lượng sản phẩm với chất lượng tốt, chi phí hạ nhằm tăng thêm lợi nhuận doanh ntghiệp.
+ Hai là, đầu tư thêm vốn một cách hợp lý nhằm mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh nhằm tăng doanh số tiêu thụ với yêu cầu bảo đảm tốc độ tăng lợi nhuận phải lớn hơn tốc độ tăng vốn.
Hai khía cạnh đó cũng chính là mục tiêu cần đạt tới trong công tác quản lý và sử dụng vốn sản xuất kinh doanh nói chung và VLĐ nói riêng.
Mỗi doanh nghiệp như một tế bào của nền kinh tế, vì vậy nền kinh tế muốn phát triển thì doanh nghiệp hoạt động phải có hiệu quả. Như đã phân tích ở trên, sử dụng hiệu quả VLĐ là một nhân tố tích cực nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuát kinh donh của doanh nghiệp. Do đó, không thể phủ nhận vai trò của việc nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ đối với sự phát triển của nền kinh tế.
Trên thực tế những năm vừa qua, hiệu qủa sử dụng vốn nói chung và VLĐ nói riêng của các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà nước đạt thấp. Nguyên nhân chính là các doanh nghiệp chưa bắt kịp với cơ chế thị trường nên còn nhiều bất cập trong công tác quản lý và sử dụng vốn.
Mặt khác, hiệu quả sử dụng VLĐ là chỉ tiêu chất lượng phản ánh tổng hợp những cố gắng, những biện pháp hữu hiệu về kĩ thuật, về tổ chức sản xuất, tổ chức thúc đẩy sản xuất phát triển. Nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ là đảm bảo với số vốn hiện có, bằng các biện pháp quản lý và tổng hợp nhằm khai thác để khả năng vốn có thể mang lại nhiều lợi nhuận hơn cho doanh nghiệp.
Lợi ích kinh doanh đòi hỏi các doanh nghiệp phải sử dụng một cách hợp lý, hiệu quả từng đồng VLĐ nhằm làm cho VLĐ được thu hồi sau mỗi chu kỳ sản xuất. Việc tăng tốc độ luân chuyển vốn cho phép rút ngắn thời gian chu chuyển của vốn, qua đó, vốn được thu hồi nhanh hơn, có thể giảm bớt được số VLĐ cần thiết mà vẫn hoàn thành được khối lượng sản phẩm hàng hoá bằng hoặc lớn hơn trước. Nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ còn có ý nghĩa quan trong trong việc giảm chi phí sản xuất, chi phí lưu thông và hạ giá thành sản phẩm.
Hơn nữa, mục tiêu hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là thu được lợi nhuận và lợi ích xã hội chung nhưng bên cạnh đó một vấn đề quan trọng đặt ra tối thiểu cho các doanh nghiệp là cần phải bảo toàn VLĐ. Do đặc điểm VLĐ lưu chuyển toàn bộ một lần vào giá thành sản phẩm và hình thái VLĐ thường xuyên biến đổi vì vậy vấn đề bảo toàn VLĐ chỉ xét trên mặt giá trị . Bảo toàn VLĐ thực chất là đảm bảo cho số vốn cuối kỳ được đủ mua một lượng vật tư, hàng hoá tương đương với đầu kỳ khi giá cả hàng hoá tăng lên, thể hiện ở khả năng mua sắm vật tư cho khâu dự trữ và tài sản lưu động định mức nói chung, duy trì khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, tăng cương quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ còn giúp cho doanh nghiệp luôn có được trình độ sản xuất kinh doanh phát triển, trang thiết bị, kỹ thuật được cải tiến. Việc áp dụng kỹ thuật tiên tiến công nghệ hiện đại sẽ tạo ra khả năng rộng lớn để nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo ra sức cạnh tranh cho sản phẩm trên thị trường. Đặc biệt khi khai thác được các nguồn vốn, sử dụng tốt nguồn vốn lưu động, nhất là việc sử dụng tiết kiệm hiệu quả VLĐ trong hoạt động sản xuất kinh doanh để giảm bớt nhu cầu vay vốn cũng như việc giảm chi phí về lãi vay.
Từ những lý do trên, cho thấy sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả công tác quản lý và sử dụng vốn lưu động trong các doanh nghiệp. Đó là một trong những nhân tố quyết định cho sự thành công của một doanh nghiệp, xa hơn nữa là sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế.
1.3 Nhân tố ảnh hưởng đến hiệu qủa sử dụng vốn lưu động
Vốn lưu động được vận động chuyển hoá không ngừng. Trong quá trình vận động đó, vốn lưu động chịu tác động bởi nhiều nhân tố làm ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp.
1.3.1 Nhân tố chủ quan
* Xác định nhu cầu vốn lưu động: do xác định nhu cầu VLĐ thiếu chính xác dẫn đến tình trạng thừa hoặc thiếu vốn trong sản xuất kinh doanh, điều này sẽ ảnh hưởng không tốt đến quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
* Việc lựa chọn phương án đầu tư: là một nhân tố cơ bản ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả sử dụng VLĐ của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp đầu tư sản xuất ra những sản phẩm lao vụ dịch vụ chất lượng cao, mẫu mã phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng, đồng thời giá thành hạ thì doanh nghiệp thực hiện được quá trình tiêu thụ nhanh, tăng vòng quay của vốn lưu động, nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ và ngược lại.
* Do trình độ quản lý: trình độ quản lý của doanh nghiệp mà yếu kém sẽ dẫn đến thất thoát vật tư hàng hoá trong quá trình mua sắm, dự trữ, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, dẫn đến sử dụng lãng phí VLĐ, hiệu quả sử dụng vốn thấp.
* Do kinh doanh thua lỗ kéo dài, do lợi dụng sơ hở của các chính sách gây thất thoát VLĐ, điều này trực tiếp làm giảm hiệu quả sử dụng VLĐ.
1.3.2 Nhân tố khách quan
* Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế: Do tác động của nền kinh tế tăng trưởng chậm nên sức mua của thị trường bị giảm sút. Điều này làm ảnh hưởng đến tình hình tiêu thụ của doanh nghiệp, sản phẩm của doanh nghiệp sẽ khó tiêu thụ hơn, doanh thu sẽ ít hơn, lợi nhuận giảm sút và như thế sẽ làm giảm hiệu quả sử dụng vốn nói chung và vốn lưu động nói riêng.
* Rủi ro: do những rủi ro bất thường trong quá trình sản xuất kinh doanh mà các doanh nghiệp thường gặp phải trong điều kiện kinh doanh của cơ chế thị trường có nhiều thành phần kinh tế tham gia cùng cạnh tranh với nhau. Ngoài ra doanh nghiệp còn gặp phải những rủi ro do thiên tai gây ra như hoả hoạn, lũ lụt...mà các doanh nghiệp khó có thể lường trước được.
* Do tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ nên sẽ làm giảm giá trị tài sản, vật tư...vì vậy, nếu doanh nghiệp không bắt kịp điều này để điều chỉnh kịp thời giá trị của sản phẩm thì hàng hoá bán ra sẽ thiếu tính cạnh tranh làm giảm hiệu quả sử dụng vốn nói chung và vốn lưu động nói riêng.
* Ngoài ra, do chính sách vĩ mô của Nhà nước có sự thay đổi về chính sách chế độ, hệ thống pháp luật, thuế... cũng tác động đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp.
Trên đây là những nhân tố chủ yếu làm ảnh hưởng tới công tác tổ chức và sử dụng VLĐ của doanh nghiệp. Để hạn chế những tiêu cực ảnh hưởng không tốt tới hiệu quả tổ chức và sử dung VLĐ, các doanh nghiệp cần nghiên cứu xem xét một cách kỹ lưỡng sự ảnh hưởng của từng nhân tố, tìm ra nguyên nhân của những mặt tồn tại trong việc tổ chức sử dụng VLĐ, nhằm đưa ra những biện pháp hữu hiệu nhất, để hiệu quả của đồng vốn lưu động mang lại là cao nhất.
Chương II:
THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN LƯU ĐỘNG TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN ĐẠI VIỆT
2.1 Khái quát về tình hình sử dụng vốn lưu động trong Công ty cổ phần Đại Việt
2.1.1 Tổng quan về công ty cổ phần Đại Việt
Công ty Cổ Phần Đại Việt ra đời theo giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số: 0103002976 ngày 8 tháng 10 năm 2001 của phòng đăng ký kinh doanh Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà Nội.
Tên công ty: Công ty Cổ Phần Đại Việt
Tên giao dịch: DAI VIET JOINT STOCK COMPANY
Tên viết tắt: DVC., JSC
Địa chỉ trụ sở chính: Số 13 ngõ 174, phố Kim Ngưu, quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội.
Công ty Cổ Phần Đại Việt được thành lập dưới hình thức công ty cổ phần, tổ chức và hoạt động theo Luật Công ty trên cơ sở các thành viên tự nguyện tham gia góp vốn, cùng chia nhau lợi nhuận, cùng chịu rủi ro và lỗ tương ứng với phần vốn góp và chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty theo tỷ lệ cổ phần của công ty mình sở hữu hoặc đại diện của các chủ sở hữu..
SƠ ĐỒ BỘ MÁY TỔ CHỨC CÔNG TY
P. Kế toán
P. Kỹ thuật
Kế toán kho
Kế toán thanh toán
P. Kinh doanh
Đại hội đồng cổ đông
Ban Giám đốc
Hội đồng quả trị
Ban kiểm soát
+ Đại hội đồng cổ đông: là cơ quan quyết định cao nhất của công ty, bao gồm tất cả các cổ đông có quyền biểu quyết.
+ Quản trị công ty:
+ Hội đồng quản trị: do đại hội đồng bầu, là cơ quan thường trực của Đại Hội Đồng, thay mặt Đại Hội Đồng quản trị công ty giữa các kỳ Đại Hội đồng và có toàn quyền nhân danh công ty để quyết định mọi vấn đề liên quan đến mục đích, quyền lợi của công ty. Hội đồng quản trị có những quyền hạn và trách nhiệm như sau: Quản trị công ty theo pháp luật, kiến nghị loại cổ phần và tổng số cổ phần được quyền chào bán cho từng loại, quyết định việc chào bán cổ phần mới, trình Đại Hội đồng cổ đông việc tổ chức lại hoặc giải thể công ty, đề xuất việc đề cử và bãi miễn thành viên Hội đồng quản trị và ban kiểm soát, trình báo cáo quyết toán hàng năm lên Đại Hội đồng, kiến nghị mức trả cổ tức, quyết định thời hạn và thủ tục trả cổ tức hoặc xử lý các khoản lỗ phát sinh trong quá trình kinh doanh; thông qua qui chế lao động, tiền lương phụ cấp, thưởng phạt.
+ Ban kiểm soát: Ban kiểm soát gồm 3 thành viên do Đại Hội đồng bầu và bãi nhiễm với đa số phiếu bằng hình thức trực tiếp bỏ phiếu kín. Các kiểm soát viên chịu trách nhiệm trước Đại Hội đồng về những sai phạm của mình gây thiệt hại cho công ty trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được giao.
Ban kiểm soát có quyền hạn và trách nhiệm chính như sau: thông báo định kì tài chính, kết quả kiểm soát cho hội đồng quản trị, tham gia ý kiến cho hội đồng quản trị trước khi trình báo cáo, kết luận và kiến nghị lên Đại Hội đồng ; thành viên ban kiểm soát phải chịu trách nhiệm về tính trung thực của số liệu báo cáo cũng như bí mật của công ty. Không được cung cấp bất kì thông tin nào của công ty mà theo quyết định của công ty được coi là bảo mật.
+ Ban giám đốc: giám đốc điều hành là người đại diện theo Pháp luật của công ty, là người điều hành hoạt động kinh doanh hàng ngày, chịu trách nhiệm cá nhân trước Hội Đồng quản trị về việc tiến hành các quyền và nghĩa vụ được giao.
Giám đốc có quyền hạn và trách nhiệm như sau: Đại diện cho công ty trong các giao dịch với các cơ quan nhà nước, các tổ chức và các nhân về các vấn đề liên quan đến các hoạt động của công ty; thay mặt Đại Hội đồng quản ly toàn bộ tái sản của công ty, xây dựng cơ cấu ,tổ chức điều hành và chịu trách nhiệm về mọi hoạt động kinh doanh của công ty theo đúng pháp luật; quyết định tuyển dụng sa thải, bổ nhiệm , miễn nhiệm ,cách chức khen thưởng, kỷ luật nhân viên và các chức danh quản lý trong công ty, trừ các chức danh do Đại Hội đồng bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức; báo cáo Hội đồng quản trị và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định về kết quả hoạt động kinh doanh của công ty.
+ Các phòng nghiệp vụ:
+ Phòng kế toán: Hạch toán các nghiệp vụ phát sinh không chỉ cho công ty mà còn cho các khách hàng của công ty. Quản lý lượng hàng hoá nhập bán. Đây là phòng có chức năng rất quan trọng của công ty trong quá trình kinh doanh, bám sát quá trình đảm bảo cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác ,kịp thời phục vụ cho GĐ ra quyết định đúng đắn .
+ Phòng kinh doanh: phụ trách việc kinh doanh, mua bán, Marketing, trao đổi hàng hoá, linh kiện máy tính, máy văn phòng và các sản phẩm dịch vụ khác mà công ty cung cấp.
Phòng kinh doanh làm nhiệm vụ bán hàng, tạo ra doanh thu và lợi nhuận chính cho công ty. Mục tiêu của phòng kinh doanh là làm tốt khâu bán hàng, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, tổ chức quảng bá hình ảnh, sản phẩm của công ty trên thị trường.
Bên cạnh đó , theo xu hướng chung của thị trường, phòng kinh doanh có nhiệm vụ theo sát những biến động của thị trường về giá cả, nhu cầu để tư vấn đa dạng hoá sản phẩm, mặt hàng kinh doanh đáp ứng nhu cầu khách hàng trong lĩnh vực chủ yếu về thiết bị công nghệ thông tin.
+ Phòng kỹ thuật: phụ trách công viêc lắp đặt, cài đặt hệ thống, bảo hành, bảo trì các sản phẩm dịch vụ do công ty cung cấp.
+ Phòng kế toán: gồm có kế toán kho và kế toán thanh toán. Kế toán thanh toán quản lý chi tiêu chung trong công ty, các phát sinh chi tiêu hàng ngày, từ đó tập hợp đến cuối kì, đối chiếu nguồn thu, các khoản phải thu, các khoản phải trả, các khoản chi phí phát sinh trong kì do hoạt động kinh doanh. Báo cáo tổng hợp, tổ chức ghi chép phản ánh một cách chính xác, kịp thời về hiện trạng bán hàng, nguồn thu từ hoạt động bán hàng. Trong công viêc của kế toán thanh toán có nhiệm vụ của kế toán công nợ: Theo dõi hợp đồng kinh doanh, để chốt thời điểm thanh toán tiền hàng của khách hàng, đồng thời theo dõi hoạt động bán hàng, tiêu thụ sản phẩm, tổng hợp doanh thu, và báo cáo thường xuyên tình hình tiêu thụ, công nợ của khách hàng. Từ đó hối thúc nhân phiên phòng kinh doanh thu tiền theo đúng hạn với khách hàng.
Kế toán kho: Bộ phận này có trách nhiệm theo dõi, ghi chép các nghiệp vụ phát sinh trong vấn đề nhập , xuất , tồn sản phẩm. Đồng thời có trách nhiệm tập hợp số liệu cho kế toán thanh toán, phòng kinh doanh và báo cáo trực tiếp ban giám đốc
2.1.2 Tình hình sử dụng vốn lưu động
2.1.2.1 Cơ cấu vốn kinh doanh
Việc phân bổ tài sản thế nào cho hợp lý để phát huy hiệu quả, đó là vấn đề của mọi doanh nghiệp. Để nắm được điều này chúng ta hãy xem xét kết cấu tài sản của công ty trong 3 năm gần đây qua bảng số 01
Bảng số 01: Cơ cấu vốn kinh doanh của Công ty cổ phần Đại Việt
(năm 2005 - 2007)
Đơn vị tính: triệu đồng.
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Số tiền
Tỷ trọng %
Số tiền
Tỷ trọng %
Số tiền
Tỷ trọng %
Vốn kinh doanh
628,5
100
956
100
1317,75
100
Vốn lưu động
523,5
83,29
811
84,83
1130,85
85,81
Vốn cố định
105
16,71
145
15,17
186,9
14,19
(Nguồn: Bảng cân đối kế toán năm 2005, 2006, 2007 của Công ty cổ phần Đại Việt)
Qua bảng số 01 chúng ta nhận thấy vốn kinh doanh nói chung và vốn lưu động nói riêng của công ty có sự tăng lên cả về giá trị và tỷ trọng:
Vốn kinh doanh: năm 2007 tăng 1,38% so với năm 2006 và tăng 2,09% so với năm 2005
Vốn lưu động: năm 2007 tăng 1,39% so với năm 2006 và tăng 2,16% so với năm 2005
Bên cạnh đó, tỷ trọng vốn cố định lại có xu hướng giảm trong 3 năm vừa qua. Cụ thể năm 2005 chiếm 16,71% vốn kinh doanh, sang đến năm 2006 và 2007 chỉ còn 15,17% và 14,19%
Trong cơ cấu vốn kinh doanh, vốn lưu động chiếm tỷ trọng lớn 80% đến 90% . Điều này đã phần nào nói lên được đặc điểm của doanh nghiệp kinh doanh thương mại như Công ty cổ phần Đại Việt.
2.1.2.2 Cơ cấu nguồn vốn
Bảng số 02: Cơ cấu nguồn vốn kinh doanh của Công ty cổ phần Đại Việt (năm 2005 - 2007)
Đơn vị tính: triệu đồng.
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Số tiền
Tỷ trọng %
Số tiền
Tỷ trọng %
Số tiền
Tỷ trọng %
Nguồn vốn
628,5
100
956
100
1317,75
100
Nợ phải trả
328,5
52,27
641
67,05
952,75
72,3
Nợ ngắn hạn
228,5
36,35
541
56,59
802,75
60,92
Nợ dài hạn
100
15,91
100
10,46
150
11,38
Vốn chủ sở hữu
300
47,73
315
32,95
365
27,7
Lợi nhuận không chia
15
1,57
50
3,79
Vốn góp
300
47,73
300
31,38
315
23,9
(Nguồn: Bảng cân đối kế toán năm 2005, 2006, 2007 của Công ty cổ phần Đại Việt)
Ta thấy trong năm 2005, vốn chủ sở hữu chiếm 47,73% nguồn vốn kinh doanh, nợ phải trả chiêm 52,27%. Tỷ lệ vốn chủ sở hữu và nợ phải trả là gần ngang bằng nhau, điều đó cho thấy phần nào về sự chủ động nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp, không quá phụ thuộc vào nguồn vốn đi vay.
Nhưng đến năm 2007, do nhu cầu mở rộng thị trường, công ty đã tăng số vốn kinh doanh lên 1.317.750.000đ và các khảon nợ của công ty cũng theo đó tăng lên. Năm 2007 nợ phải trả của công ty là 952.750.000đ chiếm 72,3% tổng vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Nợ phải trả chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn. Với tình hình kinh doanh hiện nay, việc tăng các khoản nợ ngắn hạn sẽ ảnh hưởng không tốt đến hoạt động kinh doanh của công ty do phải trả lãi vay lớn. Ngoài ra việc kinh doanh phụ thuộc vào vốn vay cũng làm cho vai trò tự chủ của công ty bị hạn chế và khả năng rủi ro về tài chính cao, công ty cần phải tăng nguồn vốn chủ sở hữu và giảm nguồn vốn vay.
2.2 Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Công ty cổ phần Đại Việt
2.2.1 Báo cáo tài chính Công ty cổ phần Đại Việt (2005-2007)
Bảng số 03: Báo cáo kết quả kinh doanh của Công ty cổ phần Đại Việt (năm 2005 - 2007)
Đơn vị tính: triệu đồng.
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
Doanh thu
1785,000
2890,750
4756,600
Giá vốn hàng bán
1333.800
2178,15
3665,150
Lãi gộp
451,200
712,600
1091,450
Chi phí bán hàng và quản lý DN
256,500
342,750
528,250
Lợi nhuận trước thuế
194,700
369,850
563,200
Thuế thu nhập doanh nghiệp
54,516
103,558
157,696
Lợi nhuận sau thuế
140,184
266,292
405,504
Trả lãi cổ phần
130,184
251,292
355,504
Lợi nhuận không chia
10,000
15,000
50,000
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2005, 2006, 2007 của Công ty cổ phần Đại Việt)
Sự tồn tại của mỗi doanh nghiệp gắn liền với kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chỉ tiêu quan trọng nhất để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp là lợi nhuận, lợi nhuận càng cao thì doanh nghiệp càng có điều kiện mở rộng qui mô sản xuất ( tái sản xuất mở rộng), vị thế của doanh nghiệp càng được củng cố trên thị trường. Ngược lại nếu làm ăn thua lỗ thì doanh nghiệp dễ dẫn đến tới phá sản.
Qua bảng kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty cổ phần Đại Việt trong 3 năm 2005 đến 2007, ta thấy tổng doanh thu trong 3 năm của công ty đã tăng lên. Năm 2006 tổng doanh thu là 2890,75 triệu đồng tăng 61,95% tương ứng 1785 triệu đồng so với năm 2005, năm 2007 tổng doanh thu là 4756,6 triệu đồng tăng 64,55% tương ứng 2890,75 triệu đồng so với năm 2006. Đồng thời với việc tăng doanh thu, giá vốn hàng bán cũng tăng. Xem xét giá vốn hàng bán ta thấy năm năm sau tăng bình quân 65% so với năm trước. Với tốc độ tăng giá vốn như vậy so sánh với tốc độ tăng doanh thu thì tốc độ tăng giá vốn hàng bán gần ngang bằng với tốc độ tăng doanh thu , chứng tỏ công ty chưa thực sự đạt hiệu quả cao trong kinh doanh.
Chi phí năm 2005 khoảng 14% thì sang 2006 và 2007 chi phí chỉ còn khoảng 11% so với doanh thu.
Ngoài ra, trong hai năm qua các hoạt động kinh doanh của công ty lại đang có dấu hiệu tăng lên cụ thể là: lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh năm 2006 tăng đáng kể so với năm 2005 là 90%, năm 2007 so với 2006 là 59,3%. Điều này cho thấy công ty kinh doanh có hiệu quả.
Tóm lại, tuy còn nhiều khó khăn nhưng nhờ sự cố gắng của toàn bộ cán bộ công nhân viên công ty kinh doanh và xây dựng nhà đã khắc phục mọi khó khăn để kết quả kinh doanh năm 2007 đạt kết quả rất tốt. Và với sự nỗ lực này của công ty chúng ta có thể hoàn toàn tin tưởng hoạt động kinh doanh của Công ty trong các năm tiếp theo sẽ đạt kết quả tốt hơn.
2.2.2 Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Công ty cổ phần Đại Việt
2.2.2.1 Vốn và nguồn vốn kinh doanh của Công ty cổ phần Đại Việt
Công ty cổ phần Đại Việt là một doanh nghiệp thương mại nên yếu tố vốn luôn là một vấn đề quyết định đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Sự cần thiết của vốn và tính ổn định của nguồn vốn luôn được doanh nghiệp chú trọng quan tâm. Trong bảng số 2 thể hiện cơ cấu nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp trong 3 năm 2005 dến 2007, trên cơ sở đó ta thấy:
Nguồn vốn thường xuyên = vay dài hạn + vốn chủ sở hữu
Nguồn vốn thường xuyên năm 2005 = 100 + 300 = 400 triệu đồng chiếm tỷ trọng 63,64% tổng nguồn vốn.
Nguồn vốn thường xuyên năm 2006 = 100 + 315 = 415 triệu đồng chiếm tỷ trọng 43,41% tổng nguồn vốn.
Nguồn vốn thường xuyên năm 2007 = 150 + 365 = 515 triệu đồng chiếm tỷ trọng 39,8% tổng nguồn vốn
Nguồn vốn tạm thời = Nợ ngắn hạn
Năm 2005 nguồn vốn tạm thời là: 228,5 triệu đồng chiếm 36,35% tổng nguồn vốn.
Năm 2006 nguồn vốn tạm thời là: 541triệu đồng chiếm tỷ trọng 56,59% tổng nguồn vốn.
Năm 2007 nguồn vốn tạm thời là: 802,75 triệu đồng chiếm tỷ trọng 60,92% tổng nguồn vốn.
Như vậy xét về tính ổn định của nguồn vốn, từ những tính toán phân tích ở trên ta có thể đi đến một số nhận xét, đánh giá khái quát tình hình nguồn vốn kinh doanh của công ty trong 3 năm từ 2005 và 2007 như sau:
Nguồn vốn kinh doanh có xu hướng tăng, nguồn vốn thường xuyên chủ yếu đầu tư vào vốn lưu động đây là một điều thuận lợi trong việc huy động vốn lưu động vào phục vụ cho hoạt động kinh doanh, nó cũng phù hợp với đặc điểm hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp thương mại cần nhiều vốn lưu động.
Nhìn chung, hệ số nợ lớn nhưng nguồn vốn thường xuyên cũng chiếm tỷ trọng nhỏ do đó công ty phải luôn quan tâm tới cách thức sử dụng vốn vay cho hợp lý và có hiệu quả, cũng như quan tâm tới vấn đề an ninh tài chính của công ty.
2.2.2.2 Nguồn vốn lưu động của Công ty cổ phần Đại Việt
Là một doanh nghiệp thương mại, do đó vốn lưu động chiếm một tỷ trọng rất lớn trong tổng nguồn vốn.
Nguồn vốn lưu động của công ty gồm: nguồn vốn lưu động thường xuyên và nguồn vốn lưu động tạm thời.
Nguồn vốn lưu động thường xuyên đảm bảo một phần cho tình hình tài chính cũng như hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Nguồn vốn lưu động thường xuyên = Tài sản lưu động - Nợ ngắn hạn
Qua thể hiện cơ cấu vốn ở bảng số 1 và 2 ta có:
Nguồn vốn lưu động thường xuyên năm 2005 = 523,5 – 228,5 = 295 triệu đồng chiếm tỷ trọng 56,35% trong tổng số tài sản lưu động.
Nguồn lưu động thường xuyên năm 2006 = 811- 541 = 270 triệu đồng chiếm tỷ trọng 32,29% trong tổng số tài sản lưu động.
Nguồn lưu động thường xuyên năm 2007 = 1130,85 – 802,75 = 328,1 triệu đồng chiếm tỷ trọng 29,1% trong tổng số tài sản lưu động.
Bảng 04. Nguồn vốn lưu động của Công ty cổ phần Đại Việt
Đơn vị tính: triệu đồng.
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Số tiền
Tỷ trọng %
Số tiền
Tỷ trọng %
Số tiền
Tỷ trọng %
I.Vốn lưu động
523,5
100
811
100
1130,85
100
Tiền
76,50
14,61
90,50
11,16
125,69
11,11
Các khoản phải thu
124,50
23,78
196,86
24,27
281.42
24,89
Hàng tồn kho
274,45
52,43
465,28
57,37
680,90
60,21
TSLĐ khác
48,05
9,18
58,36
7,2
42,84
3,79
II.Nguồn vốn lưu động
Theo thời gian huy động và sử dụng
Nguồn VLĐ thường xuyên
423,50
80,9
711
91,89
980,85
86,74
Nguồn VLĐ tạm thời
100
19,1
100
8,11
150
13,26
(Nguồn: Bảng cân đối kế toán năm 2005, 2006, 2007 của Công ty cổ phần Đại Việt)
Qua bảng 3 ta thấy vốn lưu động năm 2005 là: 523,5 triệu đồng năm 2006 là: 811 triệu đồng, năm 2007 là 1130,85 triệu đồng như vậy vốn lưu động năm 2006 tăng so với năm 2005 là 287,5 triệu đồng, năm 2007 tăng so với 2006 là 319,85 triệu đồng tỷ lệ tăng tương ứng là 54.92% và 39,44%. Trong đó chủ yếu là các khoản phải thu tăng, năm 2006 tăng so với 2005 là 72,36 triệu tương ứng với tỷ lệ tăng 58,12%, năm 2007 tăng so với 2006 là 84,56 triệu tương ứng tỷ lệ tăng 42,95%. Tiền mặt tăng: năm 2006 tăng so với 2005 là 14 triệu tương ứng 18,3%, năm 2007 tăng so với 2006 là 35,19 triệu tương ứng với 38,89%. Đặc biệt hàng tồn kho của công ty tăng lớn nhất, năm 2006 tăng so với năm 2005 là 190,83 triệu tương ứng 69,53%, năm 2007 tăng so với 2006 là 215,62 triệu tăng tương ứng 46,34%
Có thể nói, việc luôn có lượng hàng trong kho thường xuyên để đáp ứng nhu cầu kinh doanh thường xuyên của công ty, nhưng lượng hàng tồn kho sao cho là hợp lý lại phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác nhau. Với tỷ trọng hàng tồn kho quá nhiều lại là một bất lợi đối với công ty trong hoạt động kinh doanh, do bị ứ đọng một lượng vốn lớn và bị khách hàng chiếm dụng vốn, khi đó công ty cần có những biện pháp kịp thời và cứng rắn trong việc thu hồi nợ, cũng như cần nghiên cứu thị trường, thẩm định về loại hàng, chất lượng, giá cả để giảm dần lượng hàng tồn kho tới mức hợp lý nhất, từ đó làm cho đồng vốn lưu động được sử dụng một cách có hiệu quả hơn. Do doanh nghiệp bị chiếm dụng vốn quá nhiều để hoạt động kinh doanh liên tục và bình thường thì tất yếu doanh nghiệp lại phải đi vay ngân hàng.
Năm 2006 nguồn vốn lưu động tạm thời là: 100 triệu tương ứng chiếm tỷ trọng 8,11% tổng nguồn vốn lưu động. Năm 2007 nguồn vốn lưu động tạm thời là: 150 triệu chiếm tỷ trọng 13,26%. Như vây nguồn vốn lưu động tạm thời năm 2007 tăng so với năm 2006 là 50 triệu với tỷ lệ tăng tương ứng là 50%
Xét trên tình hình thực tế của công ty cũng như kết quả hoạt động kinh doanh 3 năm gần đây cho thấy công ty đã biết khai thác và sử dụng tốt nguồn vốn lưu động thường xuyên nhằm đảm bảo nhu cầu vốn lưu động cho hoạt động kinh doanh. Điều này chứng tỏ công ty rất năng động trong việc tổ chức nguồn vốn lưu động đáp ứng nhu cầu kinh doanh của mình sao cho có hiệu quả cao nhất.
2.2.2.3 Vốn tiền mặt và khả năng thanh toán của Công ty cổ phần Đại Việt
Trong hoạt động kinh doanh vốn tiền mặt là hết sức quan trọng và cần thiết, nó có thể đáp ứng kịp thời nhu cầu chi tiêu của doanh nghiệp hàng ngày như mua sắm hàng hoá, vật liệu, thanh toán các khoản chi phí cần thiết. Ngoài ra còn xuất phát từ nhu cầu dự phòng để ứng phó với những nhu cầu vốn bất thường chưa dự đoán được và động lực trong “đầu cơ” trong việc dự trữ tiền mặt để sẵn sàng kinh doanh khi xuất hiện các cơ hội kinh doanh có tỷ suất lợi nhuận cao. Việc duy trì một mức dự trữ vốn tiền mặt đủ lớn còn tạo điều kiện cho doanh nghiệp thu được triết khấu trên hàng mua trả đúng kỳ hạn, làm tăng hệ số khả năng thanh toán nhanh của doanh nghiệp. Song việc dự trữ tiền mặt phải luôn luôn chủ động và linh hoạt.
Bảng 05. Tình hình tiền mặt và khả năng thanh toán
của Công ty cổ phần Địa Việt
Đơn vị tính: triệu đồng.
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Số tiền
Tỷ trọng %
Số tiền
Tỷ trọng %
Số tiền
Tỷ trọng %
Tiền mặt
76,50
100
90,50
100
125,69
100
Tiền tại quỹ
14,50
18,95
20
22,1
28,01
22,28
Tiền gửi ngân hàng
62
81,05
70,50
77,9
97,68
77,72
(Nguồn: Bảng cân đối kế toán năm 2005, 2006, 2007 của Công ty cổ phần Đại Việt)
Từ bảng trên ta thấy:
Năm 2005 vốn tiền mặt là: 76,5 triệu đồng chiếm tỷ trọng 14,61% trong tổng VLĐ.
Năm 2006 vốn tiền mặt là: 90,5 triệu đồng chiếm tỷ trọng 11.16% trong tổng VLĐ.
Năm 2007 vốn tiền mặt là: 125,69 triệu đồng chiếm tỷ trọng 11.11% trong tổng VLĐ.
Như vậy vốn tiền mặt năm 2006 đã tăng so với năm 2005 là: 14 triệu với tỷ lệ tăng tương ứng 18.3%, năm 2007 tăng so với 2006 là 35,19 triệu với tỷ lệ tăng tương ứng 38,9%
Vốn tiền mặt tăng là do:
Tiền mặt tại quỹ năm 2006 tăng so với năm 2005 là 5,5 triệu tươ, năm 2007 tăng so với 2006 là 8,01 triệu tương ứng tỷ lệ 40,05% Song tiền mặt tại quỹ chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng vốn tiền mặt.
Trong khi đó TGNH lại chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng vốn tiền mặt. Cụ thể năm 2005 là 62 triệu đồng chiếm tỷ trọng 81,05% tổng vốn tiền mặt, năm 2006 là 70,5 triệu đồng chiếm tỷ trọng 77.9% tổng vốn tiền mặt, năm 2007 là 97,68 triệu chiếm tỷ trọng 77,72%. Như vậy TGNH năm 2006 tăng so với năm 2005 là 8,5 triệu với tỷ lệ tăng tương ứng 13,7%, năm 2007 tăng so với 2006 là 27,18 triệu với tỷ lệ tăng tương ứng 38,55%. Việc tăng TGNH là một điều có lợi cho công ty vì khi đó ta không chỉ được hưởng lãi mà việc dùng chúng để thanh toán cũng khá thuận tiện, nhanh gọn, chống thất thoát nhờ hệ thống thanh toán của ngân hàng.
Lý do TGNH tăng do trong kỳ những khoản chưa dùng đến công ty đem gửi vào ngân hàng như: quỹ phát triển kinh doanh, quỹ khen thưởng phúc lợi hoặc do khách hàng thanh toán cho công ty qua ngân hàng.
Việc dự trữ lượng tiền mặt tại quỹ thấp sẽ giúp công ty tăng được các tài sản lưu động sinh lãi giảm chi phí cơ hội của việc giữ tiền. Mặt trái của nó là công ty phải đi vay ngắn hạn ngân hàng để trang trải khoản chi phát sinh, khi đó chi phí sử dụng vốn sẽ tăng cao hơn ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh cũng như hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty.
Như vậy ta thấy công ty dự trữ một lượng ít vốn tiền mặt trong tổng vốn lưu động. điều này chưa cho phép công ty có thể đáp ứng nhanh các khoản chi khi cần thiết, cũng như chớp cơ hội kinh doanh. Song công ty luôn phải xem xét để có một tỷ trọng hợp lý sao cho hiệu quả sử dụng vốn tiền mặt là hiệu quả và hợp lý nhất.
Việc dự trữ một lượng vốn tiền mặt nói riêng và tình hình vốn lưu động nói chung có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng thanh toán của công ty. Trong nền kinh tế thị trường, các đối tác kinh doanh, nhất là các bạn hàng thường xuyên quan tâm đến khả năng thanh toán để xem xét và đưa ra các quyết định tài chính khi quan hệ với doanh nghiệp. Đối với Công ty cổ phần Đại Việt việc xem xét khả năng thanh toán còn có ý nghĩa trong việc đánh giá và điều chỉnh lại tình hình tài chính của mình sao cho đảm bảo khả năng thanh toán tốt hơn cũng như đảm bảo về sự lành mạnh tài chính của công ty.
TSLĐ
Khả năng thanh toán ngắn hạn =
Nợ ngắn hạn
Hệ số khả năng thanh toán ngắn hạn:
523,5
+ Năm 2005 : = 2.29
228,5
Cứ 1 đồng nợ ngắn hạn thì DN có 2,29 đồng VLĐ có khả năng chuyển thành tiền mặt để thanh toán.
881
+ Năm 2006 : = 1,63
541
Cứ 1 đồng nợ ngắn hạn thì DN có 1,63 đồng VLĐ có khả năng chuyển thành tiền mặt để thanh toán.
1130,85
+ Năm 2007 : = 1,41
802,75
Cứ 1 đồng nợ ngắn hạn thì DN có 1,41 đồng VLĐ có khả năng chuyển thành tiền mặt để thanh toán.
Như vậy khả năng thanh toán nợ ngắn hạn đang giảm dần, nhưng vẫn có thể coi là an toàn, bởi vì vào năm 2004 công ty chỉ cần giải phóng 1/1,41 = 70,9% số tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn hiện có là đủ thanh toán nợ ngắn hạn. Tuy nhiên không phải hệ số này càng lớn càng tốt, vì khi đó có một lượng tài sản lưu động tồn trữ lớn, phản ánh việc sử dụng vốn không hiệu quả, vì bộ phận này không vận động, không sinh lời. Nhưng dây là doanh nghiệp thương mại do đó tài sản lưu động chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản, thì hệ số này lớn và ngược lại. Khi đó lại có được sự hợp lý trong khả năng thanh toán nợ ngắn hạn.
TSLĐ - hàng tồn kho
Khả năng thanh toán nhanh =
Tổng nợ ngắn hạn
Hệ số khả năng thanh toán nhanh:
523,5 – 274,45
+ Năm 2005 : = 1,09
228,5
811 – 465,28
+ Năm 2006 : = 0,64
541
1130,85 – 680,9
+ Năm 2007 : = 0,56
802,75
Hệ số thanh toán nhanh giảm dần từng năm, nhìn chung công ty gặp ít khó khăn trong việc thanh toán công nợ. Vì các tài sản lưu động và đầu ngắn hạn và vật tư hàng hoá tồn kho có thể nhanh chuyển đổi thành tiền đáp ứng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn.
Vậy ta có bảng tổng kết về khả năng thanh toán của Công ty cổ phần Đại Việt trong 3 năm 2005 đến 2007 như sau:
Bảng 06. Tổng kết khả năng thanh toán của Công ty cổ phần Đại Việt.
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
1. Hệ số thanh toán ngắn hạn
2,29
1,63
1,41
2. Hệ số thanh toán nhanh
1,09
0,64
0,56
Các khoản phải thu
Trong quá trình kinh doanh do nhiều nguyên nhân khác nhau thường tồn tại một khoản vốn trong quá trình thanh toán, đó là các khoản phải thu. Tỷ lệ các khoản phải thu trong các doanh nghiệp có thể khác nhau, thông thường chúng chiếm từ 15% đến 20% trên tổng tài sản của doanh nghiệp.
Qua bảng 4 và bảng 6 trên ta thấy khoản phải thu năm 2006 tăng so với năm 2005 là 72,36 triệu đồng với tỷ lệ tăng tương ứng là 58,12%, năm 2007 tăng so với 2006 là 84,56 triệu đồng với tỷ lệ tương ứng là 44,48 % cụ thể:
Năm 2005 tổng các khoản phải thu là: 124,5 triệu đồng chiếm 23,78% tổng vốn lưu động.
Năm 2006 tổng các khoản phải thu là: 196,86 triệu đồng chiếm 24,27% tổng vốn lưu động.
Năm 2007 tổng các khoản phải thu là: 281,42 triệu đồng chiếm 24,89% tổng vốn lưu động.
Như vậy ta thấy các khoản phải thu năm sau cao hơn so với năm trước, doanh nghiệp chưa xử lý tốt vấn đề thu hồi nợ, khách hàng vẫn còn nợ DN một khoản tương đối lớn, vốn lưu động bị ứ đọng, hiệu quả sử dụng VLĐ bị giảm. Vấn đề cần giải quyết với DN lúc này và trong tương lai là thu hồi nợ tốt, với khách hàng mua chịu với thời gian lâu sẽ chịu giá bán cao hơn.
Để đánh giá đúng tình hình quản lý các khoản phải thu ta sử dụng một số chỉ tiêu sau:
Doanh thu(thuần)
· Vòng quay các khoản phải thu =
Số dư bình quân các khoản phải thu
1785
+ Năm 2005: = 14,34 (vòng)
124,5
2890,7
+ Năm 2006: = 14,68 (vòng)
196,8
4756,6
+ Năm 2006: = 16,9 (vòng)
281,42
360
· Kỳ thu tiền trung bình =
Vòng quay các khoản phải thu
360
+ Năm 2005: = 25,1(ngày)
14,34
360
+ Năm 2006: = 24,5(ngày)
14,68
360
+ Năm 2007: = 21,3(ngày)
16,9
Với các chỉ tiêu tính toán trên ta có thể rút ra một số nhận xét sau:
Vòng quay các khoản phải thu năm 2005 và 2006 lần lượt là 14,34 và 14,68(vòng) nên tốc độ thu hồi các khoản phải thu là chưa tốt. Điều đó chứng tỏ công ty phải đầu tư nhiều vào các khoản phải thu(phải cấp tín dụng nhiều cho khách hàng). Tình trạng này rất rễ xảy ra sự thiếu hụt vốn đầu tư vào hoạt động kinh doanh của công ty.
Kỳ thu tiền trung bình năm 2007 là 21.3(ngày). Đây là một biểu hiện tốt hơn. Chỉ mất khoảng 21 ngày DN đã thu hồi được các khoản phải thu. Mặt khác khoản phải thu năm 2007 lại có xu hướng tăng so với năm 2005 và 2006. Đây là một hạn chế của công ty trong công tác thu hồi nợ.
Quản lý hàng tồn kho
Đây là một doanh nghiệp thương mại nên hàng tồn kho chủ yếu là sản phẩm hàng hoá chờ tiêu thụ, mà cụ thể ở Công ty cổ phần Đại Việt là các loại máy tính, linh kiện máy tính, các thiết bị ngoại vi, máy văn phòng, thiết bị mạng…
Đây chủ yếu là tồn kho dự trữ ở dạng chờ bán, nên việc tồn bao nhiêu lại phụ thuộc vào:
- Cách thức tiêu thụ sản phẩm.
- Hợp đồng tiêu thụ sản phẩm giữa doanh nghiệp và khách hàng.
- Khả năng thâm nhập và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp.
Để xem xét hàng tồn kho của công ty là hợp lý hay không ta trở lại xét bảng 4.
Theo bảng4 (Nguồn vốn lưu động của Công ty cổ phần Đại Việt) ta thấy hàng tồn kho chiếm một tỷ trọng khá lớn trong tổng vốn lưu động,cụ thể. Năm 2005 hàng tồn kho là 274,45 triệu đồng chiếm tỷ trọng 52,43% tổng vốn lưu động, năm 2006 hàng tồn kho là 465,28 triệu đồng chiếm tỷ trọng 57,37% tổng vốn lưu động, năm 2007 hàng tồn kho là 680,09 triệu đồng chiếm tỷ trọng 60,21% tổng vốn lưu động. Như vậy hàng tồn kho mỗi năm tăng khoảng 200 triệu và tương ứng tỷ lệ tăng dao động từ 46% đến 70%. Điều này là biểu hiện chưa được tốt, DN có thể đáp ứng được nhu cầu của thị trường một lượng hàng lớn, song tỷ trọng này vẫn còn rất cao, công ty cần có biện pháp sao cho việc dự trữ tồn kho đúng mức hợp lý sẽ giúp cho công ty không bị thiếu sản phẩm hàng hoá để bán, đồng thời sử dụng tiết kiệm và hợp lý vốn lưu động.
2.3. Đánh giá thực trạng hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Công ty cổ phần Đại Việt
2.3.1 Kết quả đạt được
Qua một số phân tích các chỉ tiêu cũng như số liệu kinh doanh của công ty trong 3 năm từ 2005 đến 2007, ta nhận thấy rằng mặc dù gặp nhiều khó khăn nhưng với sự quyết tâm cố gắng của toàn thể cán bộ công nhân viên nên Công ty cổ phần Đại Việt đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Công ty đã khai thác triệt để nguồn vốn hiện có và vốn đi vay, do đó doanh thu hàng năm và lợi nhuận 3 năm vừa qua được cải thiện đáng kể. Để biết tình hình cụ thể, ta có thể xem xét một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động của Công ty cổ phần Đại Việt
Hiệu suất sử dụng VLĐ.
Hiệu suất sử dụng VLĐ là một chỉ tiêu khá quan trọng nói lên hiệu quả của công ty trong công tác quản lý VLĐ. Nó lên khả năng tạo ra đơn vị doanh thu trên lượng VLĐ mà Công ty đã bỏ ra.
Hiệu suất sử dụng VLĐ được tính bằng công thức:
Hiệu suất sử dụng VLĐ = Tổng doanh thu
VLĐ
Hiệu suất sử dụng vốn lưu động:
1785
+ Năm 2005: = 3,4
523,5
Nghĩa là trong năm 2005, một đồng VLĐ đã tạo ra 3,4 đồng doanh thu.
2890,75
+ Năm 2006: = 3,56
811
Nghĩa là trong năm 2006, một đồng VLĐ đã tạo ra 3,56 đồng doanh thu.
4756,6
+ Năm 2007: = 4,2
1130,85
Nghĩa là trong năm 2006, một đồng VLĐ đã tạo ra 4,2 đồng doanh thu.
Như vậy ta thấy qua 3 năm, hiệu suất sử dụng VLĐ của doanh nghiệp năm 2007 đã tăng lên so với năm 2003 và ở mức cao. Doanh nghiệp đã làm ăn khá có hiệu quả, doanh thu tăng cao, hiệu quả sử dụng VLĐ cũng tăng theo.
Sức sinh lợi của VLĐ
Đây cũng là một chỉ tiêu quan trọng nói lên khả năng của VLĐ , được đánh giá bằng thương số giữa lợi nhuận sau thuế và VLĐ
LNST
Sức sinh lợi của VLĐ =
VLĐ
Sức sinh lời của VLĐ:
140,184
+ Năm 2005: = 0,27
523,5
Doanh nghiệp bỏ ra 1đ VLĐ thì thu được 0.27 đ LNST.
266,292
+ Năm 2006: = 0,33
811
Doanh nghiệp bỏ ra 1đ VLĐ thì thu được 0.33 đ LNST.
405,504
+ Năm 2007: = 0,36
1130,85
Doanh nghiệp bỏ ra 1đ VLĐ thì thu được 0.36 đ LNST.
Đây là một con số khá cao. Nó phản ánh VLĐ của doanh nghiệp đã mang lại hiệu quả tốt cho doanh nghiệp.
Vòng quay hàng tồn kho.
Trong quá trình kinh doanh , DN liên tục mua các hàng hoá của mình rồi lại bán ra. Nếu như DN tiêu thụ hàng hoá tốt thì thu hồi được vốn nhanh. Nhiệm vụ nhà quản trị là phải tính toán sao cho lượng hàng trong kho của mình là hợp lý nhất. Cùng một lượng VLĐ nếu đem lại một lượng doanh thu càng lớn thì lượng vốn đó càng có ý nghĩa. Vòng quay hàng tồn kho là một chỉ tiêu nói lên số chu kỳ kinh doanh của Công ty là bao nhiêu lần trong năm.
Giá vốn hàng bán
Vòng quay hàng tồn kho =
Hàng tồn kho
Vòng quay hàng tồn kho:
1333,8
+ Năm 2005: = 4,86
274,45
2178,15
+ Năm 2006: = 4,68
465,28
3665,15
+ Năm 2007: = 5,38
680,9
Qua kết quả trên ta thấy năm 2005, doanh nghiệp đã thực hiện được 4,86 chu kỳ kinh doanh, năm 2006 số chu kỳ kinh doanh doanh nghiệp thực hiện được là 4,68 chu kỳ, năm 2007 số chu kỳ kinh doanh doanh nghiệp thực hiện được là 5,38 chu kỳ . Ta thấy trong 2 năm 2005 và 2006 số chu kỳ giảm, đến năm 2007 chu kìy kinh doanh mới tăng được gần 1 chu kỳ. Điều này cho ta thấy doanh nghiệp đã thực hiện chưa tốt việc quay vòng vốn, chưa đem lại hiệu quả cao trong sử dụng VLĐ.
2.3.2 Hạn chế – Nguyên nhân
Trong bối cảnh nền kinh tế hiện nay cũng như các công ty thương mại, đặc biệt là các công ty họat động trong lĩnh vực công nghệ thông tin, Công ty cổ phần Đại Việt cũng còn gặp nhiều khó khăn trong công tác quản lý và sử dụng VLĐ dẫn tới việc hiệu quả sử dụng vốn chưa cao. Đó là một số vấn đề cụ thể sau:
+ Doanh nghiệp còn thiếu về vốn do đó hàng năm luôn phải đi vay một lượng vốn lớn làm công ty phải trả nhiều lãi vay cũng như không chủ động trong việc kinh doanh, do các khoản vay chủ yếu là ngắn hạn.
+ Công ty chưa làm tốt công tác thanh toán và thu hồi nợ, làm hạn chế tính luân chuyển của vốn. Với mục đích là mở rộng thị phần nên công ty muốn có nhiều bạn hàng mới, chính sách tín dụng nới lỏng hơn cả về thời gian, số lượng và phạm vi. Chưa có các biện pháp cứng rắn trong việc thu hồi nợ, do đó các khách hàng vẫn thanh toán nợ chậm, dây dưa chiếm dụng vốn của công ty làm tăng lãi trả ngân hàng ảnh hưởng lớn tới kết quả kinh doanh cũng như làm giảm hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty.
+ Chất lượng nghiên cứu thị trường chưa cao cũng như công tác vận chuyển, công tác bán hàng chưa tốt đã làm cho hàng tồn kho còn nhiều do đó hiệu quả sử dụng VLĐ bị giảm đi đáng kể.
+ Trong việc sử dụng vốn lưu động công ty vẫn còn bị lãng phí một lượng vốn rất lớn.
+ Công ty chưa khai thác hết đượctiềm năng của nhân tố con người. Công tác quản lý nhân sự chủ yếu trên góc độ hành chính nên hiệu quả hoạt động kinh doanh giảm mà chi phí quản lý doanh nghiệp vẫn cao.
Trên đây là một số vấn đề đặt ra trong công tác quản lý và sử dụng VLĐ ở Công ty cổ phần Đại Việt. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng trực tiếp cũng như gián tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty.
+ Yếu tố con người: Quản lý chưa xác định được đúng nhu cầu về VLĐ của doanh nghiêp,đội ngũ kinh doanh hoạt động chưa thực sự hiệu quả thể hiện ở lượng hàng tồn kho còn cao.
+ Yếu tố kỹ thuật: Do thị lĩnh vực công nghệ thông tin thường xuyên thay đổi, các vòng đời sản phẩm ngày càng ngắn và luôn được thay thế bằng các công nghệ và thiết bị tiên tiến hơn trong thời gian ngắn. Dẫn tới việc các sản phẩm tồn kho dễ bị lạc hậu và khó tiêu thụ
+ Cơ chế: Sự quản lý không chặt chẽ, cơ chế bán hàng, công nợ không phù hợp gây thất thoát VLĐ, điều này ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng VLĐ.
Chương III:
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN LƯU ĐỘNG TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN ĐẠI VIỆT
3.1 Định hướng phát triển công ty
Trong xu thế đổi mới của đất nước, nền kinh tế thị trường đã và đang mở ra nhiều cơ hội cũng như thách thức lớn đối với các Doanh nghiệp.Để có thể đứng vững và không ngừng lớn mạnh trên thị trường, đòi hơi các Doanh nghiệp phải chú trọng đến tất cả các khâu trong qua trình hoạt động kinh doanh, từ khâu bỏ vốn ra cho đến tiết kiệm được chi phí và thu được lợi nhuận cao để bù đắp sự trượt giá trên thị trường không ổn định hay thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước, cải thiện đời sỗng cho người lao động và mở rộng mạng lưới tiêu thụ để chi nhánh không ngừng phát triển.Và để có chỗ đứng vững chắc trên thị trường các Doanh nghiệp phải luôn phấn đấu nâng cao chất lượng, giảm giá thành sản phẩm để có thể cạnh tranh với các Doanh nghiệp khác. Đồng thời nâng cao uy tín với khách hàng, hết hợp tạo thương hiệu mạnh mở rộng mạng lưới tiêu thụ sản phẩm trên thị trường
Với thế mạnh là một công ty đã hoạt động lâu năm trên thị trường sản phẩm công nghệ tại Việt Nam, Công ty cổ phần Đại Việt luôn hướng tới mục tiêu trở thành một đơn vị hàng đầu của lĩnh vực này. Trong thời gian tới, công ty sẽ tiến hành mở thêm chi nhánh và mở rộng mạng lưới tiêu thụ sản phẩm tại các tỉnh phía Bắc. Cụ thể công ty sẽ mở thêm hai chi nhánh tại Hà Nội để phát triển bán lẻ và tiến hành mở rộng mạng lưới phân phối về các tình thành lân cận.
Chính vì thế để phục vụ tốt hoạt động mở rộng kinh doanh của doanh nghiệp, ban lãnh đạo công ty coi yếu tố vồn là một vấn đề sống còn, đặc biệt là vốn lưu động.
3.2 Giải pháp nhằm năng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty được xem là một mục tiêu quan trọng của công ty trong quá trình hoạt động kinh doanh. Nhưng làm thế nào để tổ chức quản lý và sử dụng vốn lưu dộng một cách có hiệu quả nhất thì đây lại là một vấn đề lớn đòi hỏi các nhà quản lý công ty cũng như toàn thể đội ngũ cán bộ công nhân viên của Công ty cổ phần Đại Việt phải không ngừng phấn đấu, nâng cao trình độ chuyên môn để nhận biết và đánh giá tình hình thực tế một cách sát thực nhất để công tác trên đạt dược hiệu quả cao nhất có thể.
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động kinh doanh trong điều kiện khó khăn chung của các doanh nghiệp cộng thêm sự cạnh tranh ngày càng gay gắt của các doanh nghiệp thương mại khác nhưng công ty đã thu được những thành quả đáng khích lệ, hoạt động kinh doanh liên tục có lãi, quy mô ngày càng mở rộng và đời sống của cán bộ công nhân viên không ngừng được cải thiện.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành quả đã đạt được công ty còn bộc lộ một số tồn tại trong hoạt động kinh doanh cũng như trong tác quản lý tài chính.
Bằng kiến thức đã học ở nhà trường và sự tìm hiểu đánh giá của bản thân qua thực tế thực tập tại công ty, tôi xin mạnh dạn đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm góp phần nâng cao hiệu quả công tác tổ chức quản lý và sử dụng vốn lưu động tại Công ty cổ phần Đại Việt như sau:
3.2.1 Xác định nhu cầu VLĐ thường xuyên của doanh nghiệp
Xác định đúng đắn nhu cầu VLĐ thường xuyên, cần thiết để đảm bảo hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được tiến hành liên tục, tiết kiệm và có hiệu quả kinh tế cao. Đặc biệt trong điều kiện các doanh nghiệp chuyển sang hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường, mọi nhu cầu về VLĐ cho hoạt động kinh doanh các doanh nghiệp đề phải tự tài trợ thì điều này càng có ý nghĩa thiết thực hơn.
Thực trạng ở Công ty cổ phần Đại Việt cho thấy: VLĐ chủ yếu là vốn vay( chiếm 62,75% tổng VLĐ năm 2005, chiếm 79,4% tổng VLĐ năm 2006 và chiếm 84,25% tổng VLĐ năm 2007) mà chủ yếu là nợ ngắn hạn. Do đó việc sử dụng vốn vay này được xem như là con dao hai lưỡi. Mặt thuận lợi là công ty có vốn để kinh doanh, mặt khác nó tạo nên gánh nặng nợ nần mà chỉ khi hoạt đông kinh doanh xấu đi sẽ thấy hậu quả của nó ngay vì tiền lãi phải trả rất lớn.
Để sử dụng nguồn vốn này hợp lý và có hiệu quả cần xác định nhu cầu VLĐ thường xuyên cần thiết tối thiểu cho hoạt động kinh doanh , trong đó cần xem xét nhu cầu vốn cho từng khâu của VLĐ. Từ đó bố trí cơ cấu VLĐ đầy đủ, hợp lý.
Trên cơ sở nhu cầu VLĐ, lập kế hoạch sử dụng VLĐ sao cho chi phí sử dụng vốn là thấp nhất mà đưa lại hiệu quả cao nhất.
Lập kế hoạch xin cấp vốn cũng như tìm nguồn vốn bổ sung thích hợp từ các khoản như: lợi nhuận sau thuế hàng năm, quỹ khấu hao hàng năm để bổ sung vào nguồn VLĐ thường xuyên. Song việc dự đoán nhu cầu VLĐ thường xuyên sao cho là hợp lý trong từng thời kỳ lại phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố khác nhau như:
Quy mô hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong từng thời kỳ; sự biến động của các loại hàng hoá trên thị trường; chính sách chế độ về lao động, tiền lương đối với người lao động trong doanh nghiệp; trình độ tổ chức quản lý sử dụng VLĐ của doanh nghiệp trong quá trình dự trữ sản xuất, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Vì vậy, để nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ, giảm thấp tương đối nhu cầu VLĐ không cần thiết công ty có thể có các biện pháp sau để tác động đến các nhân tố ảnh hưởng trên sao cho có hiệu quả nhất như:
Qua tổng kết đánh giá phải xác định được quy mô kinh doanh hiện tại và dự đoán được quy mô kinh doanh trong những năm tới một cách sát thực nhất.
Đánh giá sự biến động của giá cả thị trường năm qua cũng như những năm tới trên cơ sở sự biến động về tình hình tài chính khu vực và thế giới, tình hình chính trị trong và ngoài nước...
Hàng quý phải cập nhật những thông tin sơ bộ về tình hình kinh doanh, về các nguồn vốn đang vận động cũng như các nguồn vốn đang ứ đọng để từ đó đưa ra các giải pháp phù hợp trong công tác quản lý và sử dụng VLĐ của công ty trong các khâu của hoạt động kinh doanh.
Việc lập kế hoạch huy động vốn lưu động là hoạt động để hình thành nên những dự định về tổ chức nguồn vốn lưu động trên cơ sở dự toán quy mô số lượng vốn lưu động cần thiết , lựa chọn nguồn tài trợ cũng như quy mô thích hợp của mỗi nguồn tài trợ và tổ chức sử dụng vốn lưu động sao cho đạt hiệu quả cao nhất.
Để kế hoạch huy động và sử dụng vốn lưu động của Công ty sát đúng với tình hình thực tế và trở thành phương tiện đắc lực cho quản lý thì Công ty cần làm tốt các công việc sau:
-Phân tích tình hình tài chính kỳ báo cáo: thông qua việc phân tích tình hình tài chính mà trọng tâm là phân tích các báo cáo tài chính và các chỉ tiêu tài chính đặc trưng sẽ giúp ban giám đốc Công ty nắm bắt tình hình tài chính, từ đó đưa ra các quyết định tài chính phù hợp.
-Dự đoán nhu cầu vốn lưu động cho từng kế hoạch. Để dự đoán ngắn hạn nhu cầu vốn lưu động năm kế hoạch, Công ty có thể xem xét áp dụng phương pháp tỷ lệ phần trăm trên doanh thu . Nội dung phương pháp này như sau:
Bước 1: Tình số dư các khoản mục trong bảng cân đối kế toán kỳ thực hiện
Bước 2: Chọn các khoản mục chịu sự tác động trực tiếp và có quan hệ chặt chẽ với doanh thu . Tính tỷ lệ phần trăm các khoản đó so với doanh thu năm báo cáo
Bước 3: Dùng tỷ lệ phần trăm đã tính được ở bước 2 để ước tính nhu cầu vốn năm kế hoạch, dựa vào chỉ tiêu doanh thu dự tính cần đạt được ở năm sau
Bước 4: Định hướng nguồn trang trải nhu cầu tăng vốn kinh doanh trên cơ sở kết quả kinh doanh kỳ kế hoạch.
Việc lập kế hoạch huy động và sử dụng vốn lưu động sát đúng, toàn diện và đồng bộ là căn cứ chỉ đạo hoạt động sử dụng vốn lưu động trong Công ty , góp phần quan trọng để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
3.2.2 Nâng câo hiệu quả quản lý hàng tồn kho
Trong nền kinh tế thị trường, vốn bằng tiền là loại là loại tài sản linh động nhất. Việc Công ty đang tồn đọng một lượng vốn tương đối vào hàng tồn kho sẽ làm cho tính chủ động về tài chính trong việc mở rộng quy mô chớp lấy cơ hội đầu tư bị giảm sút, khả năng đáp ứng nghĩa vụ thanh toán bị hạn chế
Tỷ lệ hàng tồn kho của doanh nghiệp là quá cao, khoảng trên 50% trong năm 2005 , 2006 . Đặc biệt năm 2007 hàng tồn kho lên tới trên 60%. Hàng tồn kho quá lớn và tăng đột biến như vậy sẽ làm phát sinh thêm chi phí lưu kho, chi phí bảo quản, vật tư bị biến chất , mất mát...Hơn nữa vốn lưu động của Công ty phần lớn là đi vay ngắn hạn, phải chịu lãi suất. Do vậy, việc giải phóng một lượng lớn vốn lưu động bị ứ đọng trong hàng tồn kho là biện pháp quan trọng nhất góp phần tiết kiệm chi phí sử dụng vốn, chi phí lưu trữ để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong Công ty .
Khi đã giải phóng được hàng tồn kho và xác lập được mức dự trữ hàng tồn kho tối ưu thì trước tiên Công ty sẽ có thêm một lượng tiền mặt để cải thiện khả năng thanh toán của mình hoặc đầu tư vào mục đích kinh doanh khác đồng thời tiết kiệm được nhiều khoản chi phí khác.
3.2.3 Nâng cao hiệu quả công tác thu hồi công nợ
Công ty bị chiếm dụng vốn nhiều mà chủ yếu nằm ở các khoản phải thu của khách hàng và các khoản phải thu khác. Nguyên nhân do:
-Thứ nhất: với mục tiêu của công ty là mở rộng thị phần nên công ty mong muốn tìm được nhiều bạn hàng mới, do đó chính sách tín dụng đã lới lỏng đối với khách hàng. Công ty có thể gia hạn nợ với thời gian dài hơn, số lượng lớn hơn và phạm vi khách hàng rộng hơn.
-Thứ hai: công tác thẩm định uy tín và khả năng tài chính của khách hàng chưa được tốt, do đó công ty vẫn ký hợp đồng tiêu thụ với một số khách hàng mà khả năng thanh toán thấp.
-Thứ ba: trong một số trường hợp khi ký kết hợp đồng với khách hàng chưa có các điều kiện ràng buộc chặt chẽ về thời gian thanh toán và các điều khoản thanh toán mang tính pháp lý khác, do đó khách hàng coi thường kỷ luật thanh toán, dẫn đến khách hàng trả nợ chậm, dây dưa chiếm dụng vốn của công ty. Do đó, để đảm bảo sự ổn định, lành mạnh và tự chủ về mặt tài chính, đẩy nhanh tốc độ luân chuyển của vốn lưu động từ đó góp phần sử dụng vốn lưu động có hiệu quả, thì công ty cần phải có những biện pháp hữu hiệu để làm tốt hơn nữa công tác thanh toán và thu hồi nợ. Để làm tốt công tác trên, theo em công ty cần áp dụng một số biện pháp cụ thể sau:
Chính sách tín dụng có lỏng song phải ở trong một giới hạn an toàn, nó phải có sự hợp lý với khả năng tài chính của công ty, cũng như có thể gia hạn nợ căn cứ vào giá trị thực tế của lô hàng và tình hình thực tế của khách hàng sao cho vừa mềm mỏng vừa có khả năng thu hồi nợ nhanh nhất.
Trước khi ký kết hợp đồng và chấp nhận tín dụng công ty cần phải làm tốt hơn nữa công tác thẩm định về uy tín và khả năng thanh toán của khách hàng. Cụ thể phải xem xét: khả năng thanh toán, hệ số tín nhiệm, uy tín của khách hàng trên thương trường, tình hình hoạt động kinh doanh và cả những yếu tố tiềm năng có thể. Nếu chưa có điều kiện đi sâu thẩm định thì bắt buộc bên đối tác phải sử dụng đến các biện pháp như đặt cọc, trả trước một phần giá trị hợp đồng....
Trong hợp đồng tiêu thụ công ty cần phải quy định rõ thời hạn thanh toán, phương thức thanh toán... và yêu cầu các bên phải chịu trách nhiệm thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các điều khoản quy định trong hợp đồng phù hợp với chế độ chính sách tài chính hiện hành. Nếu thanh toán chậm so với thời hạn quy định đối tác sẽ phải chịu phạt vi phạm hợp đồng, phạt nợ quá hạn và phải chịu lãi theo lãi suất nợ quá hạn của ngân hàng.
Để giúp công ty có thể nhanh chóng thu hồi các khoản phải thu, hạn chế phát sinh các chi phí không cần thiết hoặc rủi ro, công ty có thể tiến hành các biện pháp chủ yếu sau:
Phải mở sổ theo dõi chi tiết các khoản nợ phải thu trong và ngoài công ty, thường xuyên đôn đốc thu hồi nợ đúng hạn.
Có chính sách bán chịu đúng đắn đối với từng khách hàng cụ thể. Khi bán chịu cho khách hàng phải xem xét kỹ khả năng thanh toán trên cơ sở hợp đồng kinh tế đã ký kết.
Phân loại các khoản nợ quá hạn, tìm nguyên nhân của từng khoản nợ(khách quan, chủ quan) để có biện pháp xử lý thích hợp, như gia hạn nợ, thoả ước xử lý.
Nâng cao trình độ đội ngũ quản lý và nhân viên
Nhân tố con người được xem là vô cùng quan trọng trong bất cứ môi trường nào. Đặc biệt trong hoạt động kinh doanh thì mọi thành công hay thất bại phần lớn đều do con người đem lại. Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt của cơ chế thị trường ngày nay, người ta không chỉ cần có vốn, công nghệ mà quan trọng hơn cả là con người, song con người có sẵn về tài về đức chưa đủ mà những con người ấy phải tạo thành một khối thống nhất thật sự vững mạnh, tạo nên sự lành mạnh của văn hoá doanh nghiệp.
Thực tế trong nhiều năm qua, cũng giống như các doanh nghiệp tư nhân khác, công ty vẫn chưa khai thác hết sức lực, trí tuệ của cán bộ công nhân viên trong công ty, phát huy tiềm năng trong mỗi cá nhân để tạo nên một tổ chức thống nhất, mạnh về mọi mặt. Đây là một vấn đề tồn tại cần phải có những biện pháp khắc phục, tuy nhiên để làm tốt việc này là rất khó vì sự trì trệ của thời kỳ bao cấp đã ăn sâu vào nếp sống của người Việt Nam. Vậy để làm tốt công tác này, theo tôi công ty có thể giải quyết một số vấn đề sau:
Thường xuyên đánh giá tổng kết về cơ cấu tổ chức, về trình độ nghiệp vụ chuyên môn của cán bộ công nhân viên, từ đó có các khoá học đào tạo chuyên sâu, nâng cao trình độ chuyên môn, sao cho đáp ứng mọi nhu cầu mới luôn thay đổi hiện nay.
Trên nền tảng của những cán bộ công nhân viên dày dặn kinh nghiệm để từng bước đưa các cán bộ công nhân viên trẻ chưa nhiều kinh nghiệm để học hỏi và dần khẳng định mình cũng như cống hiến tài năng của mình vì sự nghiệp chung của công ty.
Làm tốt công tác nhân sự là một nhân tố quan trọng góp phần vào hiệu quả hoạt động kinh doanh nói chung cũng như hiệu quả sử dụng vốn lưu động nói riêng. Do vậy, công ty cần quan tâm nhìn nhận vấn đề này một cách thường xuyên trong tất cả mọi định hướng, chiến lược của công ty.
Tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật và công nghệ
Trên cơ sở tình hình thực tế cũng như xu hướng phát triển của các doanh nghiệp hiện nay, việc đầu tư trang thiết bị, cơ sở vật chất và kỹ thuật công nghệ phục vụ cho quá trình làm việc là không thể thiếu. Với khối lượng công việc và đặc thù của lĩnh vực hàng công nghệ cần cập nhật thường xuyên các sản phẩm mới nhất trên thị trường, Công ty cần đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị phù hợp đến từng vị trí công việc và đảm bảo đáp ứng đủ nhu cầu công việc của từng nhân viên. Nó sẽ giúp tiếp cận thông tin một cách nhanh chóng và thường xuyên góp phần nâng cao hiệu suất làm việc của nhân viên. Công ty có thể đảm bảo một số trang thiết bị của các phòng ban tối thiểu mỗi phòng ban 01 máy tính và 01 điện thoại, riêng bộ phân kinh doanh, kế toán mỗi nhân viên phải được trang bị 01 máy tính và 01 điện thoại (với nhân viên kinh doanh)
Bên cạnh đó do đặc thù về hình thức thanh toán của các đơn vị kinh doanh mặt hàng công nghệ, bộ phận kế toán cần trang bị các phần mềm kế toán thích hợp để quản lý xuất nhập hàng hoá và hạch toán doanh thu.
Cơ sở vật chất trang thiết bị và công nghệ là những yếu tố không thể thiếu trong mỗi đơn vị kinh doanh nói chung và đặc biệt là đơn vị kinh doanh hàng công nghệ nói riêng. Nó góp phần tích cực và quyết định trong việc tìm kiếm thông tin, cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp, nhân tố quyết định trong việc lưu thông hàng hoá của doanh nghiệp. Đồng thời nó giúp doanh nghiệp quản lý một cách khoa học và có hiệu quả các nghiệp vụ phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh, góp phần kiểm soát và nâng cao được công tác sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp, đem đến cho doanh nghiệp những giải pháp hoàn thiện để nâng cao hiệu quả công việc cho mỗi bộ phận, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
Hoàn thiện chế độ, quy trình, hệ thống thông tin quản lý
Trong doanh nghiệp, việc xây dựng một hệ thống thông, chế độ và quy trình quản lý là công việc hết sức quan trọng. Nó sẽ chuẩn hoá các hoạt động của công ty, mang lại một môi trường làm việc chuyên nghiệp. Đồng nghĩa với nó đố là một quy trình hoạt động khoa học và phù hợp với từng bộ phận, nó sẽ giúp nhân viên và quản lý nắm được tất cả các thông tin cần thiết cho việc quản lý và sử dụng vốn hiện tại của doanh nghiệp để có những quyết định hay dự định hợp lý trong công việc nhằm tân dụng tối đa hiệu quả sủ dụng vốn lưu đông của doanh nghiệp.
Vì thế công ty cần chuẩn hoá các chế độ,quy trình làm việc đến từng bộ phận liên quan. Xây dựng một hệ thống thông tin quản lý đầy đủ và cập nhật để phục vụ công tác quản lý vốn lưu động và hoạt động kinh doanh.
Xây dựng các quy trình làm việc khoa học phù hợp cho từng bộ phận nhằm chuẩn hoá và chuyên nghiệp hoá từng khâu trong hoạt động của doanh nghiệp, tạo hiệu quả tối đa trong công việc.
Xây dựng hệ thống dữ liệu, thông tin quản lý để khi cần có thể dễ dàng truy cập để phục vụ công tác nghiệp vụ hoặc công tác quản lý.
Việc xây dựng tốt các yếu tố trên sẽ đem lại cho công ty một môi trường làm việc khoa học và tận dụng hiệu quả vốn lưu động trong hoạt động kinh doanh. Hoàn thiện chế độ, quy trình, hệ thống thông tin quản lý của doanh nghiệp là một nhân tố hết sức quan trọng và nó ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển lâu dài của doanh nghiệp. Nó góp phần định hướng sự phát triển của doanh nghiệp Vì vậy nó rất cần được quan tâm một cách sâu sát hơn trong công tác hoạch định chiến lược phát triển của công ty.
KẾT LUẬN
Hiệu quả sử dụng vốn lưu động nói riêng và hiệu quả sản xuất kinh doanh nói chung là vấn đề sống còn của mỗi doanh nghiệp. Do vậy việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động phải là nhiệm vụ thường xuyên và mục tiêu lâu dài của các doanh nghiệp.
Qua việc nghiên cứu những vấn đề lý luận về vốn lưu động, đi sâu phân tích từng khoản mục tài sản lưu động đã cho thấy rõ hơn về tình hình sử dụng vốn lưu động ở Công ty cổ phần Đại Việt. Đồng thời cũng qua đó để tìm ra những nguyên nhân làm ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong Công ty. Với những biện pháp đã nêu ra trong chuyên đề này, hy vọng rằng nó sẽ được Công ty xem xét để áp dụng nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong Công ty. Tuy nhiên, cũng cần phải thấy rằng hiệu quả sử dụng vốn lưu động chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố. Do vậy, để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động đòi hỏi sự cố gắng, quan tâm thường xuyên của toàn bộ cán bộ công nhân viên trong Công ty chứ không phải chỉ ở một bộ phận chức năng hay một cá nhân nào.
Trong thời gian thực tập tại Công ty cổ phần Đại Việt, được sự giúp đỡ và chỉ bảo nhiệt tình của Thầy giáo hướng dẫn, Ban Lãnh đạo Công ty, các phòng ban đã giúp tôi hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này. Vì vậy tôi xin chân thành cám ơn sự giúp đỡ chân tình này.
Tuy nhiên, do trình độ khả năng còn hạn chế nên những vấn đề được đề cập chắc chắn còn chưa đầy đủ và còn sai sót, tôi hy vọng sẽ nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy cô cùng tập thể cán bộ công nhân viên trong Công ty để chuyên đề được hoàn thiện với chất lượng cao hơn.
Hà Nội, tháng 7/2008
MỤC LỤC
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình: Tài chính doanh nghiệp - Trường Đại học kinh tế Quốc dân (khoa Ngân hàng – Tài chính)
2. Giáo trình: Lý thuyết Tài chính - Tiền tệ - Trường Đại học kinh tế Quốc dân
3. Phân tích báo cáo tài chính và hoạt động kinh doanh - Trường Đại học kinh tế Quốc dân.
4. Tài chính doanh nghiệp - Nhà xuất bản tài chính
5. Các báo, các tạp chí chuyên ngành tài chính
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
TSLĐ : Tài sản lưu động
VLĐ : Vốn lưu động
T : Tiền
H : Hàng
SX : Sản xuất
DN : Doanh nghiệp
LNST : Lợi nhuận sau thuế
TGNH : Tiền gửi ngân hàng
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 01: Cơ cấu vốn kinh doanh của Công ty cổ phần Đại Việt
Bảng 02: Cơ cấu ngồn vốn kinh doanh của Công ty cổ phần Đại Việt
Bảng 03: Báo cáo kết quả kinh doanh của Công ty cổ phần Đai Viêt (2005-2007)
Bảng 04: Nguồn vốn lưu động của công ty cổ phần Đại Việt
Bảng 05: Tình hình tiền mặt và khả năng thanh toán của Công ty cổ phần Đại Việt
Bảng 06: Tổng kết khả năng thanh toán của Công ty cổ phần Đại Việt
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- TC14.docx