Đề tài Nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản của công ty cổ phần Hàng Hải Hà Nội

Tài liệu Đề tài Nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản của công ty cổ phần Hàng Hải Hà Nội: MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Một doanh nghiệp tồn tại và phát triển vì nhiều mục tiêu khác nhau, song mục tiêu bao trùm nhất là tối đa hoá giá trị tài sản cho các chủ sở hữu. Để thực hiện mục tiêu tối đa hoá giá trị tài sản của chủ sở hữu, vấn đề sử dụng tài sản trở thành một trong những nội dung quan trọng trong quản trị tài chính. Sử dụng tài sản một cách hiệu quả giúp cho quá trình sản xuất kinh doanh tiến hành bình thường với hiệu quả kinh tế cao nhất, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp và làm tăng giá trị tài sản của chủ sở hữu. Trong thời kỳ nền kinh tế hội nhập như hiện nay, các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển bền vững cần phải có chiến lược và bước đi thích hợp. Trước tình hình đó, vấn đề nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản càng được đặc biệt quan tâm. Công ty cổ phần Hàng Hải Hà Nội (MARINA HANOI) trực thuộc Tổng công ty Hàng Hải Việt Nam, hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực quản lý và kinh doanh bất động sản; kinh doanh các dịch...

docx89 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 980 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản của công ty cổ phần Hàng Hải Hà Nội, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Một doanh nghiệp tồn tại và phát triển vì nhiều mục tiêu khác nhau, song mục tiêu bao trùm nhất là tối đa hoá giá trị tài sản cho các chủ sở hữu. Để thực hiện mục tiêu tối đa hoá giá trị tài sản của chủ sở hữu, vấn đề sử dụng tài sản trở thành một trong những nội dung quan trọng trong quản trị tài chính. Sử dụng tài sản một cách hiệu quả giúp cho quá trình sản xuất kinh doanh tiến hành bình thường với hiệu quả kinh tế cao nhất, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp và làm tăng giá trị tài sản của chủ sở hữu. Trong thời kỳ nền kinh tế hội nhập như hiện nay, các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển bền vững cần phải có chiến lược và bước đi thích hợp. Trước tình hình đó, vấn đề nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản càng được đặc biệt quan tâm. Công ty cổ phần Hàng Hải Hà Nội (MARINA HANOI) trực thuộc Tổng công ty Hàng Hải Việt Nam, hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực quản lý và kinh doanh bất động sản; kinh doanh các dịch vụ vận tải đa phương thức và hỗ trợ vận tải đa phương thức. Trong những năm qua, công ty đã quan tâm đến vấn đề hiệu quả sử dụng tài sản và đã đạt được những thành công nhất định. Nhờ đó, khả năng cạnh tranh cũng như uy tín của Công ty ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, hiệu quả sử dụng tài sản vẫn còn thấp so với mục tiêu. Thực tế đó ảnh hưởng tiêu cực tới hiệu quả hoạt động của Công ty. Trước yêu cầu đổi mới, để có thể đứng vững và phát triển trong môi trường cạnh tranh gay gắt, nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản là một trong những vấn đề hết sức cấp thiết đối với công ty. Từ thực tế đó, đề tài: “Nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản của công ty cổ phần Hàng Hải Hà Nội ” đã được lựa chọn nghiên cứu. 2. Mục đích nghiên cứu - Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp. - Phân tích, đánh giá thực trạng hiệu quả sử dụng tài sản tại công ty cổ phần Hàng Hải Hà Nội. - Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản tại công ty cổ phần Hàng Hải Hà Nội. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Hiệu quả sử dụng tài sản hữu hình, tài sản thực của doanh nghiệp. - Phạm vi nghiên cứu: Hiệu quả sử dụng tài sản của công ty cổ phần Hàng Hải Hà Nội giai đoạn từ năm 2004 đến năm 2006. 4. Phương pháp nghiên cứu Dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, các phương pháp được sử dụng trong quá trình viết luận văn: Phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp điều tra nghiên cứu, phương pháp chọn mẫu. 5. Kết cấu luận văn Đề tài: “Nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản tại Công ty cổ phần Hàng Hải Hà Nội” Ngoài các phần mở đầu, kết luận, mục lục và tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 3 chương như sau: Chương 1: Cơ sở lý luận về hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp. Chương 2: Thực trạng hiệu quả sử dụng tài sản tại Công ty cổ phần Hàng Hải Hà Nội. Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản tại Công ty cổ phần Hàng Hải Hà Nội. CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG TÀI SẢN CỦA DOANH NGHIỆP 1.1. TỔNG QUAN VỀ TÀI SẢN CỦA DOANH NGHIỆP 1.1.1. Khái niệm, phân loại doanh nghiệp Doanh nghiệp là chủ thể kinh tế độc lập, có tư cách pháp nhân, hoạt động kinh doanh trên thị trường nhằm làm tăng giá trị của chủ sở hữu. Ở Việt Nam, theo Luật doanh nghiệp: Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật, nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh. Kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi. Các doanh nghiệp ở Việt Nam bao gồm: Doanh nghiệp Nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, công ty liên doanh, doanh nghiệp tư nhân. Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp bao gồm các chủ thể kinh doanh: Kinh doanh cá thể, Kinh doanh góp vốn, Công ty. Kinh doanh cá thể: Là loại hình được thành lập đơn giản nhất, không cần phải có điều lệ chính thức và ít chịu sự quản lý của Nhà nước. Doanh nghiệp này không phải trả thuế thu nhập doanh nghiệp, tất cả lợi nhuận bị tính thuế thu nhập cá nhân. Ngoài ra, chủ doanh nghiệp chịu trách nhiệm vô hạn đối với các nghĩa vụ và các khoản nợ, không có sự tách biệt giữa tài sản cá nhân và tài sản của doanh nghiệp. Thời gian hoạt động của doanh nghiệp phụ thuộc vào tuổi thọ của người chủ. Tuy nhiên, khả năng thu hút vốn bị hạn chế bởi khả năng của người chủ. Kinh doanh góp vốn: Việc thành lập doanh nghiệp này dễ dàng và chi phí thành lập thấp. Theo hình thức kinh doanh này, các thành viên chính thức có trách nhiệm vô hạn với các khoản nợ. Mỗi thành viên có trách nhiệm đối với phần tương ứng với phần vốn góp. Nếu như một thành viên không hoàn thành trách nhiệm trả nợ của mình, phần còn lại sẽ do các thành viên khác hoàn trả. Doanh nghiệp tan vỡ khi một trong các thành viên chính thức chết hay rút vốn. Ngoài ra, lãi từ hoạt động kinh doanh của các thành viên phải chịu thuế thu nhập cá nhân. Khả năng về vốn của doanh nghiệp này hạn chế. Công ty: Là loại hình doanh nghiệp mà ở đó có sự kết hợp ba loại lợi ích: lợi ích của các cổ đông (chủ sở hữu), của hội đồng quản trị và của các nhà quản lý. Theo truyền thống, cổ đông kiểm soát toàn bộ phương hướng, chính sách và hoạt động của công ty. Cổ đông bầu nên hội đồng quản trị, sau đó hội đồng quản trị lựa chọn ban quản lý. Các nhà quản lý quản lý hoạt động của công ty theo cách thức mang lại lợi ích tốt nhất cho cổ đông. Việc tách rời quyền sở hữu khỏi các nhà quản lý mang lại cho công ty các ưu thế so với kinh doanh cá thể và góp vốn: - Quyền sở hữu có thể dễ dàng chuyển cho cổ đông mới. - Sự tồn tại của công ty không phụ thuộc vào sự thay đổi số lượng cổ đông. - Trách nhiệm của cổ đông chỉ giới hạn ở phần vốn mà cổ đông góp vào công ty (trách nhiệm hữu hạn). Mỗi loại hình doanh nghiệp có những ưu, nhược điểm riêng và phù hợp với quy mô và trình độ phát triển nhất định. Hầu hết các doanh nghiệp lớn hoạt động với tư cách là các công ty. Đây là loại hình phát triển nhất của doanh nghiệp. 1.1.2. Tài sản của doanh nghiệp 1.1.2.1. Khái niệm tài sản của doanh nghiệp Tài sản của doanh nghiệp là tất cả các nguồn lực có thực, hữu hình hoặc vô hình gồm các vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản của doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định, có khả năng mang lại lợi ích cho doanh nghiệp đó. 1.1.2.2. Phân loại tài sản của doanh nghiệp Tài sản của doanh nghiệp thường được chia thành 2 loại: Tài sản ngắn hạn và tài sản dài hạn. *Tài sản ngắn hạn Tài sản ngắn hạn là những tài sản mà thời gian sử dụng, thu hồi luân chuyển trong một năm hoặc một chu kỳ kinh doanh. Tài sản ngắn hạn gồm: Tiền và các khoản tương đương tiền. Tiền được hiểu là tiền mặt, tiền gửi ngân hàng và tiền đang chuyển. Các khoản tương đương tiền là các khoản đầu tư ngắn hạn không quá 3 tháng, có khả năng chuyển đổi dễ dàng thành tiền và không có nhiều rủi ro trong chuyển đổi thành tiền. Tài sản tài chính ngắn hạn: bao gồm các khoản đầu tư chứng khoán có thời hạn thu hồi dưới một năm hoặc trong một chu kỳ kinh doanh (như: tín phiếu kho Bạc, kỳ phiếu ngân hàng,…) hoặc chứng khoán mua vào bán ra (cổ phiếu, trái phiếu) để kiếm lời và các loại đầu tư tài chính khác không quá một năm. Các khoản phải thu ngắn hạn: Là các khoản phải thu ngắn hạn của khách hàng, phải thu nội bộ ngắn hạn và các khoản phải thu ngắn hạn khác có thời hạn thu hồi hoặc thanh toán dưới một năm. Tồn kho: Bao gồm vật tư, hàng hoá, sản phẩm, sản phẩm dở dang. Tài sản ngắn hạn khác, bao gồm: Chi phí trả trước ngắn hạn, thuế GTGT được khấu trừ, thuế và các khoản khác phải thu Nhà nước, tài sản ngắn hạn khác. *Tài sản dài hạn Tất cả các tài sản khác ngoài tài sản ngắn hạn được xếp vào loại tài sản dài hạn. Tài sản dài hạn bao gồm các khoản phải thu dài hạn, tài sản cố định, bất động sản đầu tư, các khoản tài sản tài chính dài hạn và các tài sản dài hạn khác. Các khoản phải thu dài hạn: là các khoản phải thu dài hạn của khách hàng, phải thu nội bộ dài hạn và các khoản phải thu dài hạn khác có thời hạn thu hồi hoặc thanh toán trên một năm. Bất động sản đầu tư: là những bất động sản, gồm: quyền sử dụng đất, nhà hoặc một phần của nhà hoặc cả nhà và đất, cơ sở hạ tầng do người chủ sở hữu hoặc người đi thuê tài sản theo hợp đồng thuê tài chính nắm giữ nhằm mục đích thu lợi từ việc cho thuê hoặc chờ tăng giá mà không phải để sử dụng trong sản xuất, cung cấp hàng hoá, dịch vụ hay cho các mục đích quản lý hoặc bán trong kỳ hoạt động kinh doanh thông thường. Một bất động sản đầu tư được ghi nhận là tài sản phải thoả mãn đồng thời hai điều kiện sau: - Chắc chắn thu được lợi ích kinh tế trong tương lai. - Nguyên giá của bất động sản đầu tư phải được xác định một cách đáng tin cậy. Nguyên giá của bất động sản đâu tư bao gồm giá mua và các chi phí liên quan trực tiếp, như: phí dịch vụ tư vấn luật pháp liên quan, thuế trước bạ và các chi phí giao dịch liên quan khác. Tài sản cố định: Là những tài sản có giá trị lớn, có thời gian sử dụng dài cho các hoạt động của doanh nghiệp và phải thoả mãn đồng thời tất cả các tiêu chuẩn sau: - Chắc chắn thu được lợi ích kinh tế trong tương lai từ việc sử dụng tài sản đó. - Nguyên giá tài sản phải được xác định một cách tin cậy. - Có thời gian sử dụng từ 1 năm trở lên. - Có giá trị từ 10.000.000 đồng (mười triệu đồng) trở lên. Trong điều kiện hiện nay, việc đầu tư đổi mới tài sản cố định là một trong các yếu tố quyết định đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, bởi vì: - Tài sản cố định là yếu tố quyết định năng lực sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp. - Nhờ đổi mới tài sản cố định mới có được năng suất cao, chất lượng sản phẩm và dịch vụ tốt, chi phí tạo ra sản phẩm, dịch vụ thấp tạo điều kiện đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ đó làm tăng doanh thu và do đó doanh nghiệp mới có đủ sức cạnh trạnh trên thị trường. Xét trên góc độ này, đầu tư đổi mới tài sản cố định kịp thời, hợp lý trở thành vấn đề sống còn đối với mỗi doanh nghiệp. - Xét trên góc độ tài chính doanh nghiệp, sự nhạy cảm trong đầu tư đổi mới tài sản cố định là một nhân tố quan trọng để giảm chi phí như: Chi phí sửa chữa lớn tài sản cố định, hạ thấp hao phí năng lượng, giảm chi phí biến đổi để tạo ra sản phẩm và là biện pháp rất quan trọng để hạn chế hao mòn vô hình trong điều kiện cách mạng khoa học kỹ thuật phát triển nhanh, mạnh như hiện nay. Tài sản cố định được phân loại dựa trên các tiêu thức nhất định nhằm phục vụ cho những yêu cầu quản lý của doanh nghiệp. Thông thường có một số cách thức phân loại chủ yếu sau: + Phân loại tài sản cố định theo hình thái biểu hiện: Theo phương pháp này, toàn bộ tài sản cố định của doanh nghiệp được chia thành hai loại: Tài sản cố định hữu hình và tài sản cố định vô hình Tài sản cố định hữu hình: Là những tài sản cố định có hình thái vật chất cụ thể do doanh nghiệp sử dụng cho hoạt động kinh doanh như: Nhà cửa, vật kiến trúc, máy móc, thiết bị, phương tiện vân tải, thiết bị truyền dẫn… Tài sản cố định vô hình: Là những tài sản không có hình thái vật chất nhưng xác định được giá trị, do doanh nghiệp quản lý và sử dụng trong các hoạt động sản xuất kinh doanh, cung cấp dịch vụ hoặc cho các đối tượng khác thuê phù hợp với tiêu chuẩn tài sản cố định vô hình. Thông thường, tài sản cố định vô hình bao gồm: Quyền sử dụng đất có thời hạn, nhãn hiệu hàng hoá, quyền phát hành, phần mềm máy vi tính, bản quyền, bằng sáng chế,… Phương pháp phân loại này giúp cho người quản lý thấy được cơ cấu đầu tư vào tài sản cố định theo hình thái biểu biện, là căn cứ để quyết định đầu tư dài hạn hoặc điều chỉnh cơ cấu đầu tư cho phù hợp và có biện pháp quản lý phù hợp với mỗi loại tài sản cố định. + Phân loại tài sản cố định theo mục đích sử dụng: Dựa theo tiêu thức này, toàn bộ tài sản cố định của doanh nghiệp được chia làm hai loại: Tài sản cố định dùng cho mục đích kinh doanh: Là những tài sản cố định đang dùng trong hoạt động sản xuất kinh doanh cơ bản và hoạt động sản xuất kinh doanh phụ của doanh nghiệp. Tài sản cố định dùng cho mục đích phúc lợi, sự nghiệp, an ninh, quốc phòng: Là những tài sản cố định không mang tính chất sản xuất do doanh nghiệp quản lý và sử dụng cho các hoạt động phúc lợi, sự nghiệp và các hoạt động đảm bảo an ninh, quốc phòng. Cách phân loại này giúp cho người quản lý doanh nghiệp thấy được kết cấu tài sản cố định theo mục đích sử dụng, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý và tính khấu hao tài sản cố định có tính chất sản xuất, có biện pháp quản lý phù hợp với mỗi loại tài sản cố định. + Phân loại tài sản cố định theo tình hình sử dụng: Căn cứ vào tình hình sử dụng tài sản cố định, có thể chia toàn bộ tài sản cố định của doanh nghiệp thành các loại sau: - Tài sản cố định đang dùng. - Tài sản cố định chưa cần dùng. - Tài sản cố định không cần dùng và chờ thanh lý. Dựa vào cách phân loại này, người quản lý nắm được tổng quát tình hình sử dụng tài sản cố định trong doanh nghiệp. Trên cơ sở đó đề ra các biện pháp sử dụng tối đa các tài sản cố định hiện có trong doanh nghiệp, giải phóng nhanh các tài sản cố định không cần dùng và chờ thanh lý để thu hồi vốn. Tài sản tài chính dài hạn: Là các khoản đầu tư vào việc mua bán các chứng khoán có thời hạn thu hồi trên một năm hoặc góp vốn liên doanh bằng tiền, bằng hiện vật, mua cổ phiếu có thời hạn thu hồi vốn trong thời gian trên một năm và các loại đầu tư khác vượt quá thời hạn trên một năm. Có thể nói tài sản tài chính dài hạn là các khoản vốn mà doanh nghiệp đầu tư vào các lĩnh vực kinh doanh, ngoài hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong thời hạn trên một năm nhằm tạo ra nguồn lợi tức lâu dài cho doanh nghiệp. Cụ thể, tài sản tài chính dài hạn bao gồm: - Các chứng khoán dài hạn: Phản ánh giá trị các khoản đầu tư cho việc mua bán các cổ phiếu và trái phiếu có thời hạn trên một năm và có thể bán ra bất cứ lúc nào với mục đích kiếm lợi nhuận. Bao gồm: + Cổ phiếu doanh nghiệp: Là chứng chỉ xác nhận vốn góp của chủ sở hữu vào doanh nghiệp đang hoạt động hoặc bắt đầu thành lập. Doanh nghiệp mua cổ phần được hưởng lợi tức cổ phần (cổ tức) căn cứ vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nhưng đồng thời chủ sở hữu vốn cũng phải chịu rủi ro khi doanh nghiệp đó bị thua lỗ, giải thể hoặc phá sản theo Điều lệ của doanh nghiệp và luật phá sản của doanh nghiệp. Cổ phần doanh nghiệp có thể có cổ phần thường và cổ phần ưu đãi. Mỗi cổ đông có thể mua một hoặc nhiều cổ phần. + Trái phiếu: là chứng chỉ vay nợ có kỳ hạn và có lãi do Nhà nước hoặc doanh nghiệp hay các tổ chức, cá nhân phát hành nhằm huy động vốn cho việc đầu tư phát triển. Có 3 loại trái phiếu: Trái phiếu Chính phủ: là chứng chỉ vay nợ của Chính phủ do Bộ Tài chính phát hành dưới các hình thức: Trái phiếu kho Bạc, trái phiếu công trình, trái phiếu xây dựng Tổ quốc. Trái phiếu địa phương: là chứng chỉ vay nợ của các chính quyền Tỉnh, Thành phố phát hành. Trái phiếu Công ty: là chứng chỉ vay nợ do doanh nghiệp phát hành nhằm vay vốn để mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh và đổi mới trang thiết bị, công nghệ của doanh nghiệp. Giá trị chứng khoán đầu tư dài hạn được xác định là giá thực tế (giá gốc) bằng giá mua + các chi phí thu mua (nếu có), như: Chi phí môi giới, giao dịch, lệ phí, thuế và phí ngân hàng. - Các khoản góp vốn liên doanh: góp vốn liên doanh là một hoạt động đầu tư tài chính mà doanh nghiệp đầu tư vốn vào một doanh nghiệp khác để nhận kết quả kinh doanh và cùng chịu rủi ro (nếu có theo tỷ lệ vốn góp). Vốn góp liên doanh của doanh nghiệp, bao gồm tất cả các loại tài sản, vật tư, tiền vốn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp kể cả vốn vay dài hạn dùng vào việc góp vốn kinh doanh. Tài sản dài hạn khác, bao gồm: Chi phí trả trước dài hạn, tài sản thuế thu nhập hoãn lại, tài sản dài hạn khác. 1.2. HIỆU QUẢ SỬ DỤNG TÀI SẢN CỦA DOANH NGHIỆP 1.2.1. Khái niệm hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp Hiệu quả được coi là một thuật ngữ để chỉ mối quan hệ giữa kết quả thực hiện các mục tiêu của chủ thể và chi phí mà chủ thể bỏ ra để có kết quả đó trong điều kiện nhất định. Như vậy, hiệu quả phản ánh kết quả thực hiện các mục tiêu hành động trong quan hệ với chi phí bỏ ra và hiệu quả được xem xét trong bối cảnh hay điều kiện nhất định, đồng thời cũng được xem xét dưới quan điểm đánh giá của chủ thể nghiên cứu. Các doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường cạnh tranh như hiện nay đều phải quan tâm tới hiệu quả kinh tế. Đó là cơ sở để doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển. Hiệu quả kinh tế được hiểu là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp để đạt được các mục tiêu xác định trong quá trình sản xuất – kinh doanh. Mỗi doanh nghiệp tồn tại và phát triển vì nhiều mục tiêu khác nhau như: Tối đa hoá lợi nhuận, tối đa hoá doanh thu, tối đa hoá hoạt động hữu ích của các nhà lãnh đạo doanh nghiệp,… song tất cả các mục tiêu cụ thể đó đều nhằm mục tiêu bao trùm nhất là tối đa hoá giá trị tài sản cho các chủ sở hữu. Để đạt được mục tiêu này, tất cả các doanh nghiệp đều phải nỗ lực khai thác triệt để và sử dụng có hiệu quả tài sản của mình. Như vậy, hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp phản ánh trình độ, năng lực khai thác và sử dụng tài sản của doanh nghiệp sao cho quá trình sản xuất - kinh doanh tiến hành bình thường với hiệu quả kinh tế cao nhất. 1.2.2. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng tài sản 1.2.2.1. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng tổng tài sản -Hiệu suất sử dụng tổng tài sản: Doanh thu thuần Hiệu suất sử dụng tổng tài sản = = Tổng tài sản bình quân trong kỳ Trong đó: Tổng tài sản bình quân trong kỳ là bình quân số học của tổng tài sản có ở đầu kỳ và cuối kỳ. Chỉ tiêu này cho biết một đơn vị tài sản tạo ra được bao nhiêu đơn vị doanh thu thuần. Chỉ tiêu này càng lớn hiệu quả sử dụng tài sản càng cao. - Hệ số sinh lợi tổng tài sản: Lợi nhuận trước thuế và lãi vay Tổng tài sản bình quân trong kỳ Hệ số sinh lợi tổng tài sản (ROA) = Hệ số sinh lợi tổng tài sản phản ánh một đơn vị tài sản tạo ra bao nhiêu đơn vị lợi nhuận trước thuế và lãi vay. Chỉ tiêu này được sử dụng để đo hiệu quả của việc tài trợ cho các nhu cầu về tài sản của doanh nghiệp bằng vốn chủ sở hữu và vốn vay. Nếu chỉ tiêu này lớn hơn chi phí nợ thì đầu tư bằng nợ có lợi cho doanh nghiệp hơn đầu tư bằng vốn chủ. 1.2.2.2. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn - Hiệu suất sử dụng tài sản ngắn hạn Doanh thu thuần TSNH bình quân trong kỳ Hiệu suất sử dụng TSNH = Trong đó: TSNH bình quân trong kỳ là bình quân số học của TSNH có ở đầu kỳ và cuối kỳ. Chỉ tiêu này cho biết mỗi đơn vị giá trị TSNH sử dụng trong kỳ đem lại bao nhiêu đơn vị doanh thu thuần. Chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ hiệu quả sử dụng TSNH càng cao. - Hệ số sinh lợi tài sản ngắn hạn Lợi nhuận sau thuế TS nganh nghiethành phố Hà Nội. Đề XXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXNH bình quân trong kỳ Hệ số sinh lợi TSNH = Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lợi của TSNH. Nó cho biết mỗi đơn vị giá trị TSNH có trong kỳ đem lại bao nhiêu đơn vị lợi nhuận sau thuế. 1.2.2.3. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng tài sản dài hạn - Hiệu suất sử dụng tài sản dài hạn Doanh thu thuần TSDH bình quân trong kỳ Hiệu suất sử dụng TSDH = Trong đó: TSDH bình quân trong kỳ là bình quân số học của TSDH có ở đầu kỳ và cuối kỳ. Chỉ tiêu này cho biết một đơn vị giá trị TSDH trong kỳ tạo ra bao nhiêu đơn vị doanh thu. Chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ hiệu quả sử dụng TSDH càng cao. Lợi nhuận sau thuế - Hệ số sinh lợi tài sản dài hạn Hệ số sinh lợi TSDH = TSDH bình quân trong kỳ Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lợi của TSDH. Nó cho biết mỗi đơn vị giá trị TSDH có trong kỳ đem lại bao nhiêu đơn vị lợi nhuận sau thuế. 1.3. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ SỬ DỤNG TÀI SẢN CỦA DOANH NGHIỆP Để đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản, ngoài việc tính toán và phân tích các chỉ tiêu trên, doanh nghiệp cũng cần hiểu rõ các nhân tố tác động tới hiệu quả sử dụng tài sản. Trên cơ sở đó, doanh nghiệp sẽ đưa ra các chiến lược và kế hoạch phù hợp với từng giai đoạn để có thể phát huy hiệu quả sử dụng tài sản một cách tối đa giúp cho doanh nghiệp đạt được những mục tiêu đã đề ra. 1.3.1. Các nhân tố chủ quan 1.3.1.1. Trình độ cán bộ quản lý và tay nghề của công nhân Có thể nói, con người là nhân tố quan trọng trong bất cứ hoạt động nào. Trong hoạt động sản xuất – kinh doanh cũng vậy, con người đóng vai trò quyết định đến hiệu quả hoạt động nói chung và hiệu quả sử dụng tài sản nói riêng, đặc biệt là trình độ cán bộ quản lý và tay nghề người công nhân. Trước hết, về trình độ cán bộ quản lý: Trình độ cán bộ quản lý thể hiện ở trình độ chuyên môn nhất định, khả năng tổ chức, quản lý và ra quyết định. Nếu cán bộ quản lý có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, khả năng tổ chức, quản lý tốt đồng thời đưa ra những quyết định đúng đắn, phù hợp với tình hình của doanh nghiệp và tình hình thị trường thì hiệu quả sử dụng tài sản cao, mang lại nhiều lợi ích cho doanh nghiệp. Nếu khả năng tổ chức, quản lý kém, quyết định sai lầm thì tài sản sẽ không được sử dụng một cách hiệu quả dẫn đến doanh nghiệp có thể thua lỗ, thậm chí phá sản. Như vậy, trình độ cán bộ quản lý đóng vai trò hết sức quan trọng đối với việc nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản trong doanh nghiệp. Do đó, yêu cầu đối với bộ phận này là rất cao, họ cần có chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, có tinh thần trách nhiệm cao, năng động, sáng tạo nhằm đưa ra các quyết định đúng đắn, kịp thời cho doanh nghiệp. Thứ hai, về trình độ tay nghề của công nhân: bộ phận công nhân là bộ phận trực tiếp tạo ra sản phẩm, dịch vụ, trực tiếp tiếp xúc với khách hàng nên là nhân tố trực tiếp sử dụng tài sản của doanh nghiệp. Đối với công nhân sản xuất có tay nghề cao, có khả năng tiếp thu công nghệ mới, phát huy được tính sáng tạo, tự chủ trong công việc, có ý thức giữ gìn và bảo quản tài sản trong quá trình vận hành thì tài sản sẽ được sử dụng hiệu quả hơn đồng thời sẽ tạo ra sản phẩm, dịch vụ chất lượng cao, hạ giá thành góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh cho doanh nghiệp. Ngược lại, nếu trình độ tay nghề người công nhân thấp, không nắm bắt được các thao tác kỹ thuật, ý thức bảo quản máy móc kém sẽ dẫn đến tình trạng sử dụng lãng phí nguyên vật liệu, giảm tuổi thọ của máy móc làm tăng giá thành, giảm chất lượng sản phẩm. Điều đó có thể làm giảm doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp dẫn đến hiệu quả sử dụng tài sản giảm. 1.3.1.2. Tổ chức sản xuất - kinh doanh Một quy trình sản xuất – kinh doanh hợp lý sẽ khắc phục được tình trạng chồng chéo chức năng, nhiệm vụ giữa các khâu, góp phần tiết kiệm nguồn lực, tăng năng suất lao động, giảm chi phí bất hợp lý, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, một doanh nghiệp có chiến lược kinh doanh tốt, có nhiều giải pháp thực hiện chiến lược phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của doanh nghiệp trong từng thời kỳ và phù hợp với nhu cầu thị trường thì hiệu quả sử dụng tài sản sẽ cao. Ngoài ra, sự tiến bộ của khoa học và công nghệ cũng đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp tiếp cận kịp thời với sự tiến bộ của khoa học, công nghệ để đổi mới trang thiết bị thì sẽ giảm được hao mòn vô hình của tài sản cố định, nâng cao chất lượng, đổi mới sản phẩm, hạ giá thành và nâng cao sức cạnh tranh cho doanh nghiệp. 1.3.1.3. Đặc điểm sản xuất – kinh doanh Đây là nhân tố có ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có đặc điểm khác nhau về ngành nghề kinh doanh sẽ đầu tư vào tài sản ngắn hạn và tài sản dài hạn khác nhau. Tỷ trọng tài sản ngắn hạn và tài sản dài hạn khác nhau nên hệ số sinh lợi của tài sản cũng khác nhau. Doanh nghiệp có đặc điểm hàng hoá khác nhau và đối tượng khách hàng khác nhau nên chính sách tín dụng thương mại cũng khác nhau dẫn đến tỷ trọng khoản phải thu khác nhau. Như vậy, đặc điểm sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp tác động quan trọng đến hiệu quả sử dụng tài sản, ảnh hưởng trực tiếp đến cơ cấu tài sản, vòng quay và hệ số sinh lợi của tài sản. 1.3.1.4. Năng lực quản lý tài sản của doanh nghiệp Quản lý tài sản một cách khoa học, chặt chẽ sẽ góp phần làm tăng hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp. Quản lý tài sản của doanh nghiệp được thể hiện chủ yếu trong các nội dung sau: * Quản lý tiền mặt Quản lý tiền mặt là quyết định mức tồn quỹ tiền mặt, cụ thể là đi tìm bài toán tối ưu để ra quyết định cho mức tồn quỹ tiền mặt sao cho tổng chi phí đạt tối thiểu mà vẫn đủ để duy trì hoạt động bình thường của doanh nghiệp. Việc xác định lượng tiền mặt dự trữ chính xác giúp cho doanh nghiệp đáp ứng các nhu cầu về: giao dịch, dự phòng, tận dụng được những cơ hội thuận lợi trong kinh doanh do chủ động trong hoạt động thanh toán chi trả. Đồng thời doanh nghiệp có thể đưa ra các biện pháp thích hợp đầu tư những khoản tiền nhàn rỗi nhằm thu lợi nhuận như đầu tư chứng khoán ngắn hạn. Điều này đòi hỏi nhà quản lý phải có năng lực phân tích và phán đoán tình hình trên thị trường tiền tệ, thực trạng tình hình tài chính của doanh nghiệp, từ đó có sự lựa chọn để đưa các quyết định sử dụng ngân quỹ đúng đắn, làm giảm tối đa các rủi ro về lãi suất hoặc tỷ giá hối đoái, tối ưu hoá việc đi vay ngắn hạn, tăng hiệu quả sử dụng tài sản. Quản lý tiền mặt hiệu quả góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn nói riêng và hiệu quả sử dụng tài sản nói chung cho doanh nghiệp. * Quản lý dự trữ, tồn kho Trong quá trình luân chuyển vốn ngắn hạn phục vụ cho sản xuất – kinh doanh thì hàng hóa dự trữ, tồn kho có ý nghĩa rất lớn cho hoạt động của doanh nghiệp, nó như tấm đệm an toàn giữa các giai đoạn khác nhau trong chu kỳ sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp do các hoạt động này diễn ra không đồng bộ. Hơn nữa, hàng hoá dự trữ, tồn kho giúp cho doanh nghiệp giảm thiệt hại trước những biến động của thị trường. Tuy nhiên, nếu dự trữ quá nhiều sẽ làm tăng chi phí lưu kho, chi phí bảo quản và gây ứ đọng vốn. Vì vậy, căn cứ vào kế hoạch sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp, khả năng sẵn sàng cung ứng của nhà cung cấp cùng với những dự đoán biến động của thị trường, doanh nghiệp cần xác định một mức tồn kho hợp lý nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn cho doanh nghiệp, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. * Quản lý các khoản phải thu Trong nền kinh tế thị trường, việc mua bán chịu hay còn gọi là tín dụng thương mại là một hoạt động không thể thiếu đối với mọi doanh nghiệp. Do đó, trong các doanh nghiệp hình thành khoản phải thu. Tín dụng thương mại giúp cho doanh nghiệp đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm, thu hút khách hàng, tăng doanh thu bán hàng, giảm chi phí tồn kho của hàng hóa, góp phần làm tăng hiệu quả sử dụng tài sản cố định và hạn chế hao mòn vô hình. Tuy nhiên, tín dụng thương mại cũng có thể đem đến những rủi ro cho doanh nghiệp như làm tăng chi phí quản lý, chi phí đòi nợ, chi phí bù đắp cho vốn thiếu hụt, làm tăng chi phí nếu khách hàng không trả được nợ. Do vậy, các nhà quản lý cần so sánh giữa thu nhập và chi phí tăng thêm để quyết định có nên cấp tín dụng thương mại không cũng như phải quản lý các khoản tín dụng này như thế nào để đảm bảo thu được hiệu quả cao nhất. Nội dung chủ yếu của chính sách quản lý các khoản phải thu bao gồm: Phân tích khả năng tín dụng của khách hàng, phân tích đánh giá khoản tín dụng được đề nghị, theo dõi các khoản phải thu. * Quản lý các khoản đầu tư tài chính dài hạn Kết quả tài chính cuối cùng của hoạt động đầu tư tài chính dài hạn chính là tổng mức lợi nhuận. Tổng mức lợi nhuận là phần chênh lệch giữa tổng doanh thu và tổng chi phí hoạt động đầu tư tài chính của doanh nghiệp. Ngoài việc so sánh theo hướng xác định mức biến động tuyệt đối và mức biến động tương đối chỉ tiêu tổng mức lợi nhuận thu được từ hoạt động đầu tư tài chính dài hạn, còn phân tích sự biến động tổng mức lợi nhuận do ảnh hưởng của 3 nhân tố: - Tổng doanh thu hoạt động đầu tư tài chính dài hạn. - Mức chí phí để tạo ra một đồng doanh thu từ hoạt động đầu tư tài chính dài hạn. - Mức lợi nhuận được tạo từ một đồng chi phí hoạt động đầu tư tài chính dài hạn. Từ mối quan hệ trên, có thể xây dựng phương trình kinh tế sau: Tổng mức lợi nhuận hoạt động đầu tư tài chính dài hạn = Tổng doanh thu hoạt động đầu tư tài chính dài hạn*Mức chi phí cho một đồng doanh thu từ hoạt động đầu tư tài chính dài hạn*Mức lợi nhuận được tạo ra từ một đồng chi phí hoạt động đầu tư tài chính dài hạn. Vận dụng phương pháp loại trừ có thể phân tích sự ảnh hưởng lần lượt từng nhân tố đến chỉ tiêu tổng mức lợi nhuận thu được từ hoạt động đầu tư tài chính dài hạn của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, doanh nghiệp đánh giá, phân tích và xem xét trong số các hoạt động đầu tư tài chính, hoạt động nào mang lại lợi ích kinh tế cao nhất, nhằm lựa chọn hướng đầu tư, loại hình đầu tư, quy mô đầu tư, danh mục đầu tư hợp lý nhất và đạt kết quả cao nhất trong kinh doanh của doanh nghiệp. * Quản lý tài sản cố định Để đạt được các chỉ tiêu về hiệu quả sử dụng tài sản cố định, doanh nghiệp phải xác định quy mô và chủng loại tài sản cần thiết cho quá trình sản xuất – kinh doanh. Đây là vấn đề thuộc đầu tư xây dựng cơ bản, đòi hỏi doanh nghiệp phải cân nhắc kỹ càng các quyết định về đầu tư dựa trên cơ sở các nguyên tắc và quy trình phân tích dự án đầu tư. Nếu mua nhiều tài sản cố định mà không sử dụng hết sẽ gây ra sự lãng phí vốn, song nếu phương tiện không đủ so với lực lượng lao động thì năng suất sẽ giảm. Trên cơ sở một lượng tài sản cố định đã mua sắm, một mặt doanh nghiệp phải tận dụng tối đa thời gian và hiệu suất của máy, thực hiện an toàn, tiết kiệm trong vận hành máy, cố gắng khấu hao nhanh để sớm đổi mới và áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật tiên tiến, hiện đại. Điều đó sẽ tạo tiền đề cho doanh nghiệp luôn luôn được đổi mới theo hướng tích cực, hiện đại, cung cấp những sản phẩm, dịch vụ phù hợp với nhu cầu của thị trường, mang tính cạnh tranh cao. Việc đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản cố định cho thấy khấu hao có tác động lớn đến các chỉ tiêu. Do đó, doanh nghiệp cần xác định phương pháp tính khấu hao tài sản cố định cho thích hợp. Trong quá trình tham gia vào hoạt động sản xuất – kinh doanh, do chịu nhiều tác động bởi nhiều nguyên nhân khác nhau nên tài sản cố định bị giảm dần về giá trị, hay còn gọi là hao mòn. Có hai loại hao mòn TSCĐ là hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình. - Hao mòn hữu hình là loại hao mòn do quá trình sử dụng và do tác động của môi trường, hình thái vật chất của TSCĐ bị mài mòn, biến dạng, gãy, vỡ, hỏng… - Hao mòn vô hình là loại hao mòn do tiến bộ của khoa học công nghệ, một loại máy móc, thiết bị mới ra đời ưu việt hơn làm TSCĐ bị giảm giá hoặc lỗi thời. Do TSCĐ bị hao mòn như vậy, doanh nghiệp cần tạo lập quỹ để thu hồi, tái đầu tư vào tài sản mới, doanh nghiệp cần trích khấu hao cho TSCĐ. Trích khấu hao TSCĐ là việc tính chuyển một phần giá trị của TSCĐ tương ứng với phần hao mòn vào giá thành sản phẩm và sẽ thu hồi được phần giá trị đó thông qua tiêu thụ sản phẩm. Việc xác định mức trích khấu hao là công việc tương đối phức tạp. Trước tiên, doanh nghiệp phải xác định tốc độ hao mòn của tài sản. Điều này rất khó khăn do xác định hao mòn hữu hình đã khó, xác định hao mòn vô hình còn khó hơn, nó đòi hỏi sự hiểu biết, khả năng dự đoán của doanh nghiệp. Khi đã xác định được mức độ hao mòn, doanh nghiệp cần phải cân nhắc đến các yếu tố sau: - Tình hình tiêu thụ sản phẩm do TSCĐ đó chế tạo trên thị trường. Do tình hình tiêu thụ tác động trực tiếp đến giá bán sản phẩm đồng thời cho biết lượng cầu sản phẩm của doanh nghiệp là bao nhiêu và hoạt động của TSCĐ sẽ ở mức công suất nào và kéo theo nó hao mòn ở mức độ nào. - Nguồn vốn đầu tư cho TSCĐ là vốn chủ sở hữu hay vốn vay. - Ảnh hưởng của thuế đến việc trích khấu hao. Do việc trích khấu hao ảnh hưởng trực tiếp đến giá thành sản phẩm, ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp và ảnh hưởng đến thuế thu nhập mà doanh nghiệp phải nộp. - Quy định của Nhà nước trong việc tính khấu hao: Nhà nước có quy định quản lý trong việc trích khấu hao TSCĐ như phương pháp tính khấu hao, thời gian sử dụng định mức của TSCĐ, tác động trực tiếp đến mức trích khấu hao hàng kỳ của doanh nghiệp. Việc lựa chọn được phượng pháp tính khấu hao TSCĐ thích hợp là biện pháp quan trọng để bảo toàn vốn cố định và cũng là một căn cứ quan trọng để xác định thời gian hoàn vốn đầu tư vào tài sản cố định từ các nguồn tài trợ dài hạn. Thông thường có các phương pháp khấu hao chủ yếu sau: - Phương pháp khấu hao đường thẳng: Phương pháp này có ưu điểm là cách tính đơn giản, dễ hiểu. Mức khấu hao được tính vào giá thành sản phẩm ổn định, tạo điều kiện ổn định giá thành sản phẩm. Nhưng phương pháp này không phản ánh chính xác mức độ hao mòn thực tế của TSCĐ vào giá thành sản phẩm trong các thời kỳ sử dụng TSCĐ khác nhau, khả năng thu hồi vốn đầu tư chậm, làm cho TSCĐ của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng bất lợi của hao mòn vô hình. Trong đó: Mkh: Số khấu hao hàng năm NG: Nguyên giá của TSCĐ T: Thời gian sử dụng định mức của TSCĐ - Phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần Thực chất của phương pháp này là đẩy nhanh mức khấu hao TSCĐ trong những năm đầu sử dụng và giảm dần mức khấu hao theo thời hạn sử dụng. Phương pháp này có ưu điểm là phản ánh chính xác hơn mức độ hao mòn TSCĐ vào giá trị sản phẩm, nhanh chóng thu hồi vốn đầu tư mua sắm TSCĐ trong những năm đầu sử dụng, hạn chế ảnh hưởng của hao mòn vô hình. Phương pháp này phù hợp với doanh nghiệp có TSCĐ chịu ảnh hưởng nhiều của hao mòn vô hình như thiết bị tin hoc, thiết bị điện tử… Mn = Tk * (NG – Mn-1) Trong đó: Mn : Số khấu hao năm n NG: Nguyên giá của TSCĐ Mn-1 : Số khấu hao năm n-1 Tk : Tỷ lệ khấu hao năm Tóm lại, mục đích của việc tạo lập quỹ khấu hao là để tái đầu tư, thay thế, đổi mới TSCĐ. Khi TSCĐ chưa được khấu hao hết, chưa được thay thế bằng TSCĐ mới thì khấu hao được tích luỹ và doanh nghiệp có quyền sử dụng số khấu hao luỹ kế cho hoạt động sản xuất – kinh doanh của mình. Riêng đối với doanh nghiệp Nhà nước, việc sử dụng số khấu hao luỹ kế cần tuân thủ đúng các quy định về chế độ quản lý tài chính hiện hành của Nhà nước. Đối với TSCĐ, bên cạnh việc xác định phương pháp khấu hao thích hợp thì để nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản, doanh nghiệp cũng cần thường xuyên tiến hành đánh giá, kiểm kê TSCĐ. Điều này giúp cho nhà quản lý nắm được chính xác số TSCĐ của doanh nghiệp, tình hình sử dụng cũng như giá trị thực tế của tài sản đó. Đánh giá TSCĐ là việc xác định lại giá trị của TSCĐ tại một thời điểm nhất định. Việc đánh giá chính xác giá trị của TSCĐ là căn cứ để tính khấu hao nhằm thu hồi vốn. Qua đánh giá và đánh giá lại TSCĐ còn giúp cho người quản lý nắm được tình hình biến động về vốn của doanh nghiệp để có biện pháp điều chỉnh thích hợp như: chọn hình thức khấu hao phù hợp, thanh lý, nhượng bán tài sản để giải phóng vốn… Đánh giá TSCĐ gồm những nội dung sau: - Xác định giá ban đầu của TSCĐ: giá ban đầu của TSCĐ là giá mua và những chi phí khác kèm theo. Cách đánh giá này giúp cho doanh nghiệp thấy được số tiền vốn đầu tư mua sắm TSCĐ ở thời điểm ban đầu, là căn cứ để xác định số tiền phải khấu hao để tái sản xuất giản đơn TSCĐ. - Xác định giá đánh giá lại TSCĐ: giá đánh giá lại TSCĐ là giá của tài sản tại thời điểm kiểm kê đánh giá. Giá đánh giá lại của TSCĐ có thể cao hơn hoặc có thể thấp hơn giá ban đầu của nó. Căn cứ vào kết quả phân tích tình hình cụ thể như: tình hình biến động giá trên thị trường, quan hệ cung cầu trên thị trường về loại tài sản đó, xu hướng về tiến bộ kỹ thuật trong ngành… người quản lý đưa ra quyết định xử lý tài sản một cách chuẩn xác như điều chỉnh mức khấu hao hoặc phương pháp khấu hao, thanh lý, nhượng bán để đổi mới TSCĐ, hiện đại hoá TSCĐ thông qua sửa chữa lớn… 1.3.1.5. Công tác thẩm định dự án Công tác thẩm định dự án và đặc biệt là thẩm định tài chính dự án có vai trò rất quan trọng đối với hiệu quả đầu tư của doanh nghiệp, ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp. Nếu công tác thẩm định tài chính dự án được thực hiện theo một quy trình chặt chẽ với đội ngũ cán bộ thẩm định có trình độ chuyên môn vững vàng thì dự án sẽ được đánh giá một cách chính xác về mức độ cần thiết của dự án đối với doanh nghiệp, quy mô của dự án, chi phí, lợi ích của dự án mang lại và cả những rủi ro có thể gặp phải trong tương lai. Điều này giúp cho doanh nghiệp có những quyết định đầu tư đúng đắn góp phần nâng cao sức mạnh cạnh tranh, mở rộng thị trường tiêu thụ, tăng doanh thu và tăng lợi nhuận làm cho hiệu suất sử dụng tổng tài sản và hệ số sinh lợi tổng tài sản tăng. Ngược lại, công tác thẩm định tài chính dự án không hiệu quả sẽ dẫn đến những quyết định đầu tư sai lầm hoặc doanh nghiệp có thể bỏ qua các cơ hội đầu tư do dự án bị đánh giá sai. Quyết định đầu tư sai lầm sẽ dẫn đến hiệu quả nghiêm trọng. Nếu đầu tư quá nhiều, không đúng hướng, hoặc đầu tư không đồng bộ sẽ dẫn đến tình trạng lãng phí vốn, làm giảm hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Nếu đầu tư quá ít không đáp ứng đủ nhu cầu thị trường, từ đó có thể bị mất thị trường, giảm khả năng cạnh tranh. Tất cả các đều này đều dẫn đến tài sản không được khai thác một cách triệt để và làm giảm hiệu quả sử dụng tài sản. 1.3.1.6. Khả năng huy động vốn và cơ cấu vốn Vốn là điều kiện không thể thiếu được để một doanh nghiệp được thành lập và tiến hành các hoạt động sản xuất – kinh doanh. Vốn là nguồn hình thành nên tài sản. Vì vậy, khả năng huy động vốn cũng như vấn đề cơ cấu vốn sẽ có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp có khả năng huy động vốn lớn sẽ là cơ hội để mở rộng quy mô sản xuất – kinh doanh, đa dạng hoá các hoạt động đầu tư làm tăng doanh thu cho doanh nghiệp và từ đó làm tăng hiệu suất sử dụng tổng tài sản. Bên cạnh đó, nếu doanh nghiệp duy trì được cơ cấu vốn hợp lý thì chi phí vốn sẽ giảm, góp phần làm giảm chi phí kinh doanh, tăng lợi nhuận và do đó hệ số sinh lợi tổng tài sản sẽ tăng. 1.3.2. Các nhân tố khách quan 1.3.2.1. Môi trường kinh tế Nhân tố này thể hiện các đặc trưng của hệ thống kinh tế trong đó các doanh nghiệp tiến hành hoạt động sản xuất – kinh doanh như: chu kỳ phát triển kinh tế, tăng trưởng kinh tế, hệ thống tài chính - tiền tệ, tình hình lạm phát, tỷ lệ thất nghiệp, các chính sách tài chính – tín dụng của Nhà nước. Nền kinh tế nằm trong giai đoạn nào của chu kỳ phát triển kinh tế, tăng trưởng kinh tế sẽ quyết định đến nhu cầu sản phẩm cũng như khả năng phát triển các hoạt động sản xuất – kinh doanh của các doanh nghiệp. Hệ thống tài chính - tiền tệ, lạm phát, thất nghiệp và các chính sách tài khoá của chính phủ có tác động lớn tới quá trình ra quyết định sản xuất – kinh doanh và kết quả hoạt động của doanh nghiệp. Nếu tỷ lệ lạm phát cao thì hiệu quả sử dụng tài sản thực của doanh nghiệp sẽ khó có thể cao được do sự mất giá của đồng tiền. Ngoài ra, chính sách tài chính - tiền tệ cũng tác động lớn đến hoạt động huy động vốn cũng như hiệu quả sử dụng vốn, tài sản của doanh nghiệp. Trong điều kiện nền kinh tế mở cửa, doanh nghiệp còn chịu tác động của thị trường quốc tế. Sự thay đổi chính sách thương mại của các nước, sự bất ổn của nền kinh tế các nước tác động trực tiếp đến thị trường đầu vào và đầu ra của doanh nghiệp. Như vậy, những thay đổi của môi trường kinh tế ngày càng có tác động mạnh đến hoạt động sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp, tạo cho doanh nghiệp những thuận lợi đồng thời cả những khó khăn. Do đó, doanh nghiệp phải luôn đánh giá và dự báo những thay đổi đó để có thể đưa ra những biện pháp thích hợp nhằm tranh thủ những cơ hội và hạn chế những tác động tiêu cực từ sự thay đổi của môi trường kinh tế. 1.3.2.2. Chính trị - pháp luật Trong nền kinh tế thị trường, vai trò của Nhà nước là hết sức quan trọng. Sự can thiệp ở mức độ hợp lý của Nhà nước vào hoạt động sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp là cần thiết và tập trung ở các nội dung như: duy trì sự ổn định kinh tế, chính trị; định hướng phát triển kinh tế, kích thích phát triển kinh tế thông qua hệ thống pháp luật; phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội. 1.3.2.3. Khoa học – công nghệ Khoa học – công nghệ là một trong những nhân tố quyết định đến năng suất lao động và trình độ sản xuất của nền kinh tế nói chung và của từng doanh nghiệp nói riêng. Sự tiến bộ của khoa học – công nghệ sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nâng cao năng lực sản xuất, giảm bớt chi phí, tăng khả năng cạnh tranh. Tuy nhiên, tiến bộ khoa học – công nghệ cũng có thể làm cho tài sản của doanh nghiệp bị hao mòn vô hình nhanh hơn. Có những máy móc, thiết bị, quy trình công nghệ… mới chỉ nằm trên các dự án, các dự thảo, phát minh đã trở nên lạc hậu trong chính thời điểm đó. Như vậy, việc theo dõi cập nhật sự phát triển của khoa hoc – công nghệ là hết sức cần thiết đối với doanh nghiệp khi lựa chọn phương án đầu tư để có thể đạt được hiệu quả cao nhất trong hoạt động sản xuất – kinh doanh của mình. 1.3.2.4. Thị trường Thị trường là nhân tố có ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đặc biệt là thị trường đầu vào, thị trường đầu ra và thị trường tài chính. Khi thị trường đầu vào biến động, giá cả nguyên vật liệu tăng lên sẽ làm tăng chi phí đầu vào của doanh nghiệp và do đó làm tăng giá bán gây khó khăn cho việc tiêu thụ sản phẩm. Nếu giá bán không tăng lên theo một tỷ lệ tương ứng với tỷ lệ tăng của giá cả nguyên vật liệu đầu vào cùng với sự sụt giảm về số lượng sản phẩm tiêu thụ sẽ làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. Nếu thị trường đầu ra sôi động, nhu cầu lớn kết hợp với sản phẩm của doanh nghiệp có chất lượng cao, giá bán hợp lý, khối lượng đáp ứng nhu cầu thị trường thì sẽ làm tăng doanh thu và lợi nhuận cho doanh nghiệp. Thị trường tài chính là kênh phân phối vốn từ nơi thừa vốn đến nơi có nhu cầu. Thị trường tài chính bao gồm thị trường tiền và thị trường vốn. Thị trường tiền là thị trường tài chính trong đó các công cụ ngắn hạn được mua bán còn thị trường vốn là thị trường cung cấp vốn trung hạn và dài hạn. Thị trường chứng khoán bao gồm cả thị trường tiền, là nơi mua bán các chứng khoán ngắn hạn và thị trường vốn, nơi mua bán các chứng khoán trung và dài hạn. Như vậy thị trường tài chính và đặc biệt là thị trường chứng khoán có vai trò quan trọng trong việc huy động vốn, mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu thị trường chứng khoán hoạt động hiệu quả sẽ là kênh huy động vốn hữu hiệu cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên, nếu các doanh nghiệp tập trung quá nhiều vào đầu tư chứng khoán sẽ dẫn đến tình trạng cơ cấu tài sản mất cân đối làm gián tiếp giảm hiệu quả sử dụng tài sản. 1.3.2.5. Đối thủ cạnh tranh Đây là một yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tồn tại, phát triển của doanh nghiệp. Nhân tố cạnh tranh bao gồm các yếu tố và điều kiện trong nội bộ ngành sản xuất có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình – kinh doanh của doanh nghiệp như khách hàng, nhà cung cấp, các đối thủ cạnh tranh, các sản phẩm thay thế…Các yếu tố này sẽ quyết định tính chất, mức độ cạnh tranh của ngành và khả năng thu lợi nhuận của doanh nghiệp. 1.3.2.6. Đơn vị cấp trên Đơn vị cấp trên cũng là một trong các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu qủa sử dụng tài sản của doanh nghiệp thông qua những định hướng, chính sách phát triển. Nếu các chiến lược, quy hoạch định hướng đầu tư phát triển dài hạn của đơn vị cấp trên được xây dựng một cách nhất quán, đúng hướng sẽ tạo cho doanh nghiệp thành viên những thuận lợi trong việc hoạch định kế hoạch sản xuất kinh doanh cho mình. Từ đó góp phần thực hiện hoạt động kinh doanh ổn định, hiệu quả. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ SỬ DỤNG TÀI SẢN TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN HÀNG HẢI HÀ NỘI 2.1. TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN HÀNG HẢI HÀ NỘI 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty Nằm trong chiến lược kinh doanh là xây dựng cơ sở vật chất trên cơ sở phát huy nội lực trong nước, huy động các nguồn vốn trong xã hội để đầu tư và phát triển, năm 1998, Tổng công ty Hàng Hải Việt Nam đã lập dự án kêu gọi vốn đầu tư xây dựng một toà cao ốc văn phòng cho thuê mang tên: “Trung tâm Thông tin Thương mại Hàng hải Quốc tế Hà Nội” (còn gọi là Toà OCEAN PARK BUILDING) tại khu đất số 1A đường Giải Phóng, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội. Để kêu gọi vốn đầu tư xây dựng OCEAN PARK BUILDING được triển khai từ năm 1998 là thời điểm hết sức khó khăn đối với thị trường cho thuê văn phòng. Tuy nhiên, đề án đã nhận được sự ủng hộ cao từ phía các doanh nghiệp thành viên Tổng công ty Hàng hải Việt Nam và cán bộ công nhân viên trong ngành Hàng hải tham gia góp vốn cổ phần. Để huy động vốn xây dựng toà nhà trên, dự án thành lập Công ty Cổ phần Hàng hải Hà Nội đã được Bộ Giao thông Vận tải chấp thuận tại văn bản 651/KHĐT ngày 13/3/1998 và Chính phủ đồng ý tại thông báo số 2686/VPCP-ĐMDN ngày 15/7/1998. Các thủ tục pháp lý nhanh chóng được triển khai và vào tháng 11/1998, Công ty Cổ phần Hàng hải Hà Nội (MARINA HANOI) được thành lập theo Giấy phép thành lập số 3829/Gp-UB do UBND Thành phố Hà Nội cấp ngày17 tháng 11 năm 1998 và Giấy phép đăng ký kinh doanh số 056428 ngày 19/11/1998 do Sở Kế hoạch Đầu tư Hà Nội cấp vào ngày 19/11/1998. Ra đời với mục đích đại diện cho Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam huy động vốn đầu tư xây dựng Toà OCEAN PARK BUILDING, MARINA HANOI chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01/01/1999. Lĩnh vực kinh doanh của Công ty bao gồm: Dịch vụ cho thuê văn phòng và khu siêu thị; Vận tải đường thuỷ, đường bộ; Dịch vụ giao nhận kho vận hàng hoá; Buôn bán xuất khẩu và nhập khẩu tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng; Đại lý mua, bán, ký gửi hàng hoá; Lai dắt tàu biển, bốc xếp hàng hoá và container; Đại lý hàng hải; Xây dựng công trình giao thông; Khai thác cảng và kinh doanh bãi container. Sau khi chính thức hoạt động, Công ty đã góp vốn 32.146.726.105 đồng để đầu tư xây dựng Toà nhà. Năm 2000, Công ty góp 24.005.474.321 đồng và tháng 4 năm 2002 Công ty chuyển vào vốn góp 8.141.251.784 đồng. Công ty được hưởng lợi nhuận từ dự án theo tỷ lệ góp vốn. Từ năm 2000, bên cạnh tập trung nguồn lực vào dự án khai thác Toà nhà, đội ngũ lãnh đạo của Công ty, với nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực kinh doanh vận tải hàng hải, đã đồng thời triển khai kinh doanh các dịch vụ vận tải da phương thức dành cho khách hàng và các dịch vụ hỗ trợ vận tải đa phương thức với mục đích tối ưu hoá nguồn vốn của cổ đông. Được sự hỗ trợ từ các doanh nghiệp thành viên cũng như từ Tổng công ty Hàng hải Việt Nam về mặt nhân sự, kinh nghiệm quản lý và kinh doanh, công ty đã đạt đựợc những kết quả đáng khích lệ trong những năm qua: sản lượng vận tải luôn chiếm thị phần lớn trên thị trường trong nước, công ty liên tục đạt mức lãi cao và đảm bảo chi trả cổ tức đều đặn hàng năm cho các cổ đông. Ngày 19 tháng 6 năm 2002, Hội đồng quản trị Tổng công ty Hàng hải Việt Nam đã quyết định giao toàn bộ nhiệm vụ quản lý và khai thác “Trung tâm Thông tin Thương mại Hàng hải Quốc tế Hà Nội” cho MARINA HANOI. Theo đó, Công ty đã tiến hành lập phương án kinh doanh Toà nhà “Trung tâm Thông tin Thương mại Hàng hải Quốc tế Hà Nội” trên cơ sở nghiên cứu tổng thể thị trường kinh doanh cho thuê văn phòng, mô hình tổ chức kinh doanh cao ốc văn phòng quốc tế, quy trình quản lý cao ốc văn phòng theo tập quán và tiêu chuẩn quốc tế. Điểm lại quá trình hoạt động của MARINA HANOI trong thời gian qua, có thể kể tới một số mốc đáng nhớ: - Năm 1999, Công ty đã góp 50% vốn cùng Tổng công ty Hàng hải Việt Nam đầu tư tàu container Phong Châu sức chở 1100 TEU; tham gia góp vốn (15% vốn điều lệ) với Công ty TNHH Vận tải Hàng công nghệ cao (TRANSVINA). - Năm 2000, lĩnh vực vận tải đa phương thức của Công ty đã phát triển ổn định, với tốc độ tăng trưởng thị phần, doanh thu và số lượng khách hàng tương đối. Các chi nhánh tại thành phố Hồ Chí Minh, Quảng ninh, Hải Phòng đều hoạt động hiệu qủa. - Năm 2001, Công ty ký hợp đồng tham gia xây dựng đê chắn sóng tại khu công nghiệp Dung Quất. Đây là dự án 5A – đê chắn sóng do Công ty liên doanh Nhà máy lọc dầu Việt Nga là chủ đầu tư. Trong thời gian này, Công ty đồng thời đầu tư xây dựng Bến số 02, Dung Quất, là trung tâm phân phối, bốc xếp và thu nhận hàng tại khu vực. Vào tháng 06/2001, văn phòng đại diện giao dịch của MARINA HANOI tại Quảng Ngãi đã được thành lập nhằm triển khai và thực hiện kế hoạch kinh doanh của Công ty. - Năm 2002, Công ty đầu tư mua tàu Ocean Park ( tàu chuyên chở container với sức chở 450 TEU) và bước đầu xây dựng kinh doanh vận tải tàu container. Vào tháng 11 năm 2002, Công ty thành lập công ty TNHH Quản lý và kinh doanh Bất động sản Hà Nội với mục đích tập trung chuyên môn hoá trong quản lý khai thác toà nhà OCEAN PARK BUILDING. Đồng thời, Công ty nghiên cứu đầu tư xây dựng Trung tâm phân phối hàng và bãi container Phù Đổng, tại huyện Gia Lâm, Hà Nội. -Năm 2005 : Công ty thành lập công ty TNHH Vận Tải và Đại lý Vận tải đa phương thức với mục đích phát triển dịch vụ kinh doanh, đa dạng các loại hình vận tải bao gồm đường bộ, đường biển và hàng không. Mở rộng mạng lưới đại lý ra nước ngoài nhằm phục vụ các tuyến vận tải container quốc tế. Ngày 21/3/2005, phiên giao dịch thứ 1000, cổ phiếu Công ty cổ phần Hàng hải Hà Nội (Marina Hanoi – mã chứng khoán MHC) chính thức được giao dịch tại Trung tâm giao dịch chứng khoán TP. HCM (nay là Sở giao dịch chứng khoán TP. HCM). -Năm 2006 : Công ty xây dựng bãi container Hải An – Hải Phòng và lập chi nhánh tại Quảng Ngãi. -Năm 2007: Công ty phát hành cổ phiếu tăng vốn từ 67 tỷ đồng lên 93 tỷ đồng. Ngoài ra, Công ty còn đầu tư mua tàu chuyên dụng container Ocean Asia sức chở 950teus, tham gia xây dựng đường hầm Thủ Thiêm – Tp Hồ Chí Minh. 2.1.2. Cơ cấu tổ chức công ty Ngoài trụ sở chính tại Hà Nội, Công ty cổ phần Hàng hải Hà Nội có năm chi nhánh tại các thành phố lớn, một văn phòng đại diện tại tỉnh Quảng Ngãi và hai công ty trực thuộc. Cụ thể là: - Chi nhánh Công ty Cổ phần Hàng hải Hà Nội tại thành phố Hải Phòng, thành lập và hoạt động tháng 5/1999. - Chi nhánh Công ty Cổ phần Hàng hải Hà Nội tại thành phố Hồ Chí Minh, thành lập và hoạt động tháng 6/2000. - Chi nhánh Công ty Cổ phần Hàng hải Hà Nội tại Quảng Ninh, thành lập và hoạt động tháng 12/2000. - Chi nhánh Công ty Cổ phần Hàng hải Hà Nội tại Nghệ An, thành lập và hoạt động tháng 4/2002. - Chi nhánh Công ty Cổ phần Hàng hải Hà Nội tại Cần Thơ, thành lập và hoạt động tháng 1/2003. Các chi nhánh trên đều có cùng nội dung hoạt động: Dịch vụ cho thuê văn phòng và khu siêu thị; Vận tải đường thuỷ, đường bộ; Dịch vụ giao nhận kho vận hàng hoá; Buôn bán xuất nhập khẩu tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng; Đại lý mua, bán, ký gửi hàng hoá; Lai dắt tàu biển; Bốc xếp hàng hoá và container; Đại lý hàng hải. - Văn phòng đại diện Công ty Cổ phần Hàng hải Hà Nội tại Quảng Ngãi, thành lập và hoạt động tháng 6/2001. Nội dụng hoạt động: Văn phòng đại diện có chức năng là văn phòng giao dịch trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, đồng thời thực hiện một số nhiệm vụ do công ty uỷ quyền phù hợp với Luật Doanh nghiệp. - Công ty TNHH quản lý và kinh doanh bất động sản Hà Nội, thành lập và hoạt động tháng 11/2002. Ngành nghề kinh doanh: Dịch vụ cho thuê văn phòng; Kinh doanh siêu thị, nhà hàng; Xúc tiến thương mại; Tổ chức hội chợ triển lãm; Đại lý mua, bán, ký gửi hàng hoá; Kinh doanh quản lý bất động sản. -Công ty TNHH vận tải và đại lý vận tải đa phương thức, thành lập và hoạt động tháng 01 năm 2005. Ngành nghề kinh doanh: Vận tải đường thuỷ, đường bộ; Dịch vụ giao nhận kho vận hàng hoá; Lai dắt tàu biển; Bốc xếp hàng hoá và container; Xây dựng công trình giao thông; Đại lý hàng hải; Kinh doanh vận tải đa phương thức; Khai thuê hải quan. Sơ đồ bộ máy quản lý của Công ty Sơ đồ 2.1: Sơ đồ bộ máy quản lý của Công ty ĐẠI HỘI ĐỒNG CỔ ĐÔNG BAN KIỂM SOÁT TỔNG GIÁM ĐỐC - OMR PHÓ TỔNG GIÁM ĐỐC PHÓ TỔNG GIÁM ĐỐC P.TỔNG GIÁM ĐỐC THƯỜNG TRỰC CÔNG TY Q.LÝ BẤT ĐỘNG SẢN HÀ NỘI CÔNG TY VẬN TẢI VÀ ĐẠI LÝ VẬN TẢI ĐA PHƯƠNG THỨC CN QUẢNG NINH CN QUẢNG NGÃI CN HẢI PHÒNG CN. TP. HỒ CHÍ MÍNH CN CẦN THƠ PHÒNG KINH DOANH BỘ PHẬN C.KHOÁN PHÒNG THƯƠNG VỤ PHÒNG QUẢN LÝ TÀU PHÒNG TÀI CHÍNH - KẾ TOÁN PHÒNG HÀNH CHÍNH - NHÂN SỰ SALES - MKT DỊCH VỤ K.HÀNG GIAO NHẬN LOGISTIC ĐỘI XE THƯƠNG VỤ CHỨNG TỪ K.TH-V.TƯ BẢO HIỂM ĐĂNG KIỂM QUẢN LÝ THUYỀN VIÊN P.CHẾ-AN TOÀN HH TỔN THẤT KẾ TOÁN QUỸ CÔNG NỢ TỔ CHỨC NHÂN SỰ ĐỘI XE VP TIỀN LƯƠNG BHXH HÀNH CHÍNH LỄ TÂN THI ĐUA KHEN THƯỞNG HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ 2.1.3. Đặc điểm hoạt động kinh doanh của Công ty Kinh doanh quản lý Cao ốc văn phòng cho thuê OCEAN PARK BUILDING là một trong số các toà cao ốc lớn nhất tại Hà Nội. Với diện tích đất sử dụng là 6.851 m2, OCEAN PARK BUILDING có thể đáp ứng được phần lớn các yêu cầu đa dạng của doanh nghiệp. Ngoài ra, kiến trúc và thiết kế của Toà nhà hiện đang được đánh giá cao trên thị trường cho thuê cao ốc văn phòng, với các trang thiết bị được lắp đặt hết sức hiện đại và phù hợp. Ngay sau khi thành lập, Công ty TNHH Quản lý và kinh doanh Bất động sản Hà Nội đã lập tức triển khai các hoạt động marketing giới thiệu về toà nhà, bước đầu đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Qua thống kê cho thấy, khối khách hàng là các văn phòng và các doanh nghiệp thành viên thuộc Tổng công ty Hàng hải Việt Nam đã đăng ký thuê khoảng 5000 m2, và khối khách hàng ngoài Tổng công ty thuê là 3000 m2. Vận tải đa phương thức tuyến nội địa – giải pháp vận tải trọn gói Trong cơ cấu doanh thu của MARINA HANOI các năm qua, doanh thu từ mảng dịch vụ vận tải đa phương thức hay giải pháp vận tải trọn gói, thường xuyên chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu hoạt động kinh doanh của Công ty. Thị trường vận tải đa phương thức hình thức hình thành từ nhu cầu khách hàng mong muốn được sử dụng dịch vụ vận chuyển hàng hoá với tiêu chí: nhanh chóng, hiệu quả và đơn giản về thủ tục. Nhận biết được nhu cầu, ngay từ khi thành lập, công ty đã triển khai sản phẩm Giải pháp vận tải trọn gói (Total Logistics Management – TLM). Giải pháp dịch vụ này là một tổng thể thống nhất bao gồm 12 yếu tố cấu thành nhằm đem lại hiệu quả tối đa trong giao nhận, vận chuyển, quản lý hàng hoá cho khách hàng và đảm bảo sự hài lòng cao nhất của khách hàng. Trong 12 yếu tố cấu thành của TLM thì 3 thành phần quan trọng nhất là: Giải pháp tìm kiếm và mua hàng (bao gồm việc tìm nguồn cung hàng hợp lý, ký kết hợp đồng thu mua, kiểm định chất lượng,…); Giải pháp lưu kho bãi và vận chuyển (bao gồm việc lựa chọn địa điểm và phương thức vận tải tối ưu đối với từng loại hàng, dịch vụ); Giải pháp dịch vụ hậu mãi (dịch vụ bảo hành, hỗ trợ kỹ thuật, đào tạo sử dụng,…). Hiện nay, Giải pháp dịch vụ trọn gói đang áp dụng phổ biến trên thế giới và được đánh giá rất cao vì thời gian vận chuyển ngắn, giá cước rẻ, lịch tàu liên tục và có khả năng tham gia vào quá trình sản xuất, tiêu thụ hàng hoá một cách đầy đủ và tối ưu nhất. Hàng hoá trong vận tải đa phương thức tuyến nội địa chủ yếu là hàng thương mại trong nước, bao gồm: Vật liệu xây dựng, hàng tiêu dùng, vật tư công nghiệp và các loại hàng giá trị thấp. Do đây là các loại sản phẩm được tiêu dùng thường xuyên nên nhu cầu sử dụng dịch vụ vận tải đa phương thức đối với các sản phẩm này là tương đối ổn định và lâu dài. Các tuyến vận tải đa phương thức do công ty cung cấp hiện nay bao gồm các tuyến trong nước và nước ngoài. Các dịch vụ đại lý, khai thác cảng, uỷ thác nhập khẩu, bán hàng hoá sản phẩm: Ngoài hai lĩnh vực kinh doanh chính của Marina Hanoi là vận tải đa phương thức và quản lý cao ốc văn phòng cho thuê, công ty còn thực hiện đa dạng kinh doanh sang các lĩnh vực khác như dịch vụ đại lý, khai thác cảng, uỷ thác nhập khẩu, bán hàng hoá sản phẩm. Tuy nhiên, doanh thu từ các hoạt động này không chiếm tỷ trọng lớn trong tổng doanh thu của cả công ty. Các dự án đã và đang triển khai: Đê chắn sóng Dung Quất; Trung tâm phân phối hàng và bãi container Phù Đổng; Bãi con tainer Hải An- Hải Phòng; Đường hầm Thủ Thiêm – Thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài ra, công ty còn có 4 bãi container, với tổng diện tích 40.000 m2 và các giàn cẩu container hiện đại. Hệ thống kho hàng tại các bãi container được bố trí hết sức khoa học nhằm hỗ trợ việc vận chuyển hàng hoá xuất - nhập thuận lợi, dễ dàng. 2.2. THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ SỬ DỤNG TÀI SẢN TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN HÀNG HẢI HÀ NỘI 2.2.1. Thực trạng tài sản của công ty Để đánh giá được thực trạng hiệu quả sử dụng tài sản tại công ty, trước hết ta tìm hiểu thực trạng tài sản của công ty trong những năm qua. Trong quá trình kinh doanh, công ty đã có những thay đổi về quy mô và tỷ trọng của tài sản và được thể hiện bằng số liệu sau: Bảng 2.1 – Cơ cấu tài sản của Công ty Cổ phần Hàng hải Hà Nội Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Giá trị (Tr. đồng) tỷ trọng (%) Giá trị (Tr. Đồng) tỷ trọng (%) Giá trị (tr. đồng) tỷ trọng (%) Tài sản ngắn hạn 77.508 37,34 97.252 50,06 90.445 33,37 Tài sản dài hạn 130.062 62,66 97.028 49,94 180.608 66,63 Tổng tài sản 207.570 100,00 194.280 100,00 271.053 100,00 ( Nguồn: Báo cáo tài chính các năm 2005-2007 của Công ty Cổ phần Hàng hải Hà Nội) Qua bảng 2.1, cho thấy tổng tài sản có sự thay đổi qua ba năm. Năm 2005, tổng tài sản ở mức 207 tỷ đồng. Sang năm 2006, tổng tài sản giảm đi 6,4% tương ứng 13 tỷ. Tuy nhiên, năm 2007, tổng tài sản đã tăng lên đáng kể, gần 77 tỷ đồng tương ứng 39,52% so với năm 2006 thể hiện quy mô hoạt động kinh doanh được mở rộng. Cùng với sự thay đổi về quy mô tài sản, cơ cấu tài sản cũng có sự thay đổi theo. Năm 2005, tỷ trọng tài sản dài hạn gần gấp đôi tỷ trọng tài sản ngắn hạn nhưng sang năm 2006, cùng với sự sụt giảm quy mô tài sản, tài sản ngắn hạn tăng lên trong khi tài sản dài hạn giảm đi làm cho tỷ trọng hai loại tài sản này ngang bằng nhau. Bước sang năm 2007, khi quy mô tài sản được mở rộng, tài sản dài hạn lại chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản (66,63%). Điều này cho thấy, sự mở rộng quy mô tài sản chủ yếu tập trung vào mở rộng quy mô tài sản dài hạn. Để có thể đánh giá một cách đầy đủ và chính xác hiệu quả sử dụng tài sản, chúng ta cần đi sâu phân tích cơ cấu của tài sản ngắn hạn cũng như tài sản dài hạn. Qua việc phân tích này sẽ giúp ta hiểu rõ hơn tác động của từng yếu tố đến hiệu quả chung, đồng thời sẽ là cơ sở để đưa ra những biện pháp thích hợp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản thông qua việc điều chỉnh cơ cấu đầu tư. 2.2.1.1. Thực trạng tài sản ngắn hạn của Công ty Để tiến hành hoạt động kinh doanh, việc đầu tư vào tài sản ngắn hạn là hết sức cần thiết. Tài sản ngắn hạn là một bộ phận quan trọng và có sự biến đổi nhanh chóng trong tổng tài sản của doanh nghiệp. Quy mô và cơ cấu trong tài sản ngắn hạn phụ thuộc vào nhiều yếu tố và nó sẽ có tác động lớn đến kết quả kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng tài sản nói riêng của doanh nghiệp. Đối với công ty Cổ phần Hàng hải Hà Nội, trong những năm qua, quy mô và cơ cấu của tài sản ngắn hạn đã có sự thay đổi, nó phụ thuộc vào chiến lược phát triển của công ty và sự tác động của môi trường kinh doanh. Bảng 2.2 – Cơ cấu tài sản ngắn hạn của công ty Cổ phần Hàng hải Hà Nội Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Giá trị (tr. đồng) Tỷ trọng (%) Giá trị (tr. đồng) Tỷ trọng (%) Giá trị (tr. đồng) Tỷ trọng (%) I.Tiền và các khoản tương đương tiền 31.377 40,48 25.205 25,92 30.157 33,34 1.Tiền 31.377 40,48 16.355 16,82 25.270 27,94 2.Các khoản tương đương tiền 8.850 9,1 4.887 5,40 II. Các khoản phải thu ngắn hạn 38.773 50,03 52.838 54,33 45.601 50,42 1. Phải thu khách hàng 28.504 36,78 45.013 46,28 41.025 45,36 2. Trả trước cho người bán 411 0,53 1.347 1,39 1.496 1,65 3. Các khoản phải thu khác 10.001 12,9 8.245 8,48 5.748 6,36 4. Dự phòng phải thu ngắn hạn khó đòi (143) (0,18) (1.767) (1,82) (2.668) (2,95) III. Hàng tồn kho 7.358 9,49 16.517 16,98 12.359 13,67 1. Nguyên liệu, vật liệu 609 0,78 1.113 1,14 2.171 2,40 2. Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang 6.749 8,71 15.404 15,84 10.188 11,27 IV. Tài sản ngắn hạn khác 2.692 2,77 2.328 2,57 1. Thuế GTGT được khấu trừ 1.271 1,31 2. Thuế và các khoản khác phải thu Nhà nước 2 0,002 472 0,52 4. Tài sản ngắn hạn khác 1.419 1,46 1.856 2,05 Tổng tài sản ngắn hạn 77.508 100,00 97.252 100,00 90.445 100,00 ( Nguồn: Báo cáo tài chính các năm 2005-2007 của công ty Cổ phần Hàng hải Hà Nội) Trong cơ cấu tài sản ngắn hạn của Công ty trong ba năm, các khoản phải thu ngắn hạn luôn chiếm tỷ trọng cao nhất (trên 50%), tiếp đó là tiền và các khoản tương đương tiền. Hàng tồn kho và tài sản ngắn hạn khác chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng tài sản ngắn hạn. Tuy nhiên, tỷ trọng của từng loại có sự thay đổi qua các năm. Trước hết, tiền và các khoản tương đương tiền có xu hướng giảm nhẹ qua ba năm. Năm 2005, tổng lượng tiền và các khoản tương đương tiền là hơn 31 tỷ đồng nhưng sang năm 2006 đã giảm xuống còn 25 tỷ và 30 tỷ vào năm 2007. Nguyên nhân là do vào năm 2006, có sự giảm đi đáng kể của lượng tiền gửi ngân hàng từ hơn 30 tỷ đồng xuống gần 15 tỷ. Mặc dù tiền mặt tuy có tăng thêm khoảng 0,5 tỷ đồng so với năm trước, các khoản tương đương tiền tăng gần 9 tỷ nhưng sự giảm đi nhiều của tiền gửi ngân hàng đã làm tổng khối lượng tiền và các khoản tương đương tiền năm 2006 giảm đi 19,67% còn 25 tỷ đồng. Tuy nhiên, sang năm 2007, con số này đã tăng đến 30 tỷ do lượng tiền gửi ngân hàng tăng lên khá nhiều trong khi lượng tiền mặt vẫn duy trì như trước, các khoản tương đương tiền giảm gần 4 tỷ đồng. Thứ hai, các khoản phải thu ngắn hạn có xu hướng tăng. Năm 2005, các khoản phải thu ở mức hơn 38 tỷ đồng nhưng sang năm 2006 đã tăng lên gần 53 tỷ và hơn 45 tỷ vào năm 2007. Nguyên nhân là do khách hàng nợ công ty nhiều hơn và công ty trả trước cho người bán cũng tăng lên. Qua tìm hiểu cho thấy, lý do của việc tăng các khoản phải thu khách hàng xuất phát từ sự biến động của môi trường kinh doanh trong những năm gần đây, trước sự canh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp cùng ngành, Công ty đã tăng khả năng tín dụng cho khách hàng nhằm thu hút khách hàng, tăng cường doanh thu. Tuy nhiên, tốc độ tăng khoản dự phòng phải thu khó đòi lớn hơn rất nhiều so với tốc độ tăng khoản phải thu khách hàng. Năm 2006, tốc độ tăng khoản phải thu khách hàng là 57,92% trong khi tốc độ tăng khoản dự phòng phải thu khó đòi là 1135,66%. Năm 2007, mặc dù khoản phải thu khách hàng giảm 8,86% nhưng dự phòng phải thu khó đòi lại tăng 50,99%. Do đó doanh nghiệp cần có biện pháp thúc đẩy quá trình thu hồi các khoản nợ phải thu. Bên cạnh đó, thị trường đầu vào biến động, giá cả xăng dầu, nguyên vật liệu xây dựng tăng cao, việc tăng khoản trả trước cho người bán nhằm mua được với giá rẻ hơn làm giảm chi phí đầu vào cho các hoạt động vận tải và xây dựng công trình của Công ty. Thứ ba, hàng tồn kho tăng lên qua các năm, đặc biệt là năm 2006. Tốc độ tăng hàng tồn kho năm 2006 là 124,48%. Điều này được giải thích là do chi phí sản xuất kinh doanh dở dang tăng lên đáng kể. Năm 2005 chi phí sản xuất kinh doanh dở dang là gần 7 tỷ đồng và ở năm 2006 đã lên tới hơn 15 tỷ. Ngoài ra, tốc độ tăng dự trữ nguyên vật liệu cũng khá cao, 82,8% năm 2006 và 95,06 % năm 2007. Thứ tư, tài sản ngắn hạn khác năm 2005 bằng 0, đã tăng lên gần 3 tỷ đồng ở năm 2006 và hơn 2 tỷ vào năm 2007. 2.2.1.2. Thực trạng tài sản dài hạn của Công ty Đối với mỗi doanh nghiệp, ngoài việc đầu tư vào tài sản ngắn hạn, doanh nghiệp còn tập trung đầu tư TSDH bởi TSDH luôn chiếm vị trí hết sức quan trọng trong hoạt động sản xuất – kinh doanh. Nó thể hiện quy mô năng lực sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp. Tỷ trọng của TSDH trong tổng số tài sản của doanh nghiệp phụ thuộc vào tỷ trọng của các khoản phải thu dài hạn, tài sản cố định, bất động sản đầu tư, các khoản đầu tư tài chính dài hạn và tài sản dài hạn khác. Dưới đây là cơ cấu tài sản dài hạn của công ty Cổ phần Hàng hải Hà Nội: Bảng 2.3 – Cơ cấu tài sản dài hạn của công ty Cổ phần Hàng hải Hà Nội Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Giá trị (tr. Đồng) Tỷ trọng (%) Giá trị (tr. đồng) Tỷ trọng (%) Giá trị (tr. Đồng) Tỷ trọng (%) I.Các khoản phải thu dài hạn 5.020 3,86 1.Phải thu dài hạn khách hàng 5.020 3,86 II.Tài sản cố định 80.683 62,03 56.630 58,36 133.571 73,96 1.Tài sản cố định hữu hình -Nguyên giá -Giá trị hao mòn luỹ kế 56.198 137.906 (81.708) 43,21 106,03 (62,82) 36.257 125.904 (89.647) 37,37 129,76 (92,39) 110.273 203.792 (93.519) 61,06 112,84 (51,78) 2.Tài sản cố định thuê tài chính -Nguyên giá -Giá trị hao mòn luỹ kế 17.024 28.774 (11.750) 13,09 22,12 (9,03) 11.269 28.774 (17.505) 11,61 29,65 (18,04) 13.355 38.333 (24.978) 7,39 21,22 (13,83) 3.Chi phí xây dựng cơ bản dở dang 7.462 5,73 9.104 9,38 9.943 5,51 III.Các khoản đầu tư tài chính dài hạn 39.339 30,25 38.473 39,65 46.673 25,84 1. Đầu tư vào công ty liên kết, liên doanh 32.147 24,72 32.147 33,13 2. Đầu tư dài hạn khác 7.192 5,53 6.326 6,52 46.673 25,84 IV.Tài sản dài hạn khác 5.020 3,86 1.925 1,99 363 0,20 1.Chi phí trả trước dài hạn 5.020 3,86 1.813 1,87 363 0,20 2.Tài sản dài hạn khác 112 0,12 Tổng tài sản dài hạn 130.062 100,00 97.028 100,00 180.607 100,00 ( Nguồn: Báo cáo tài chính các năm 2005-2007 của công ty Cổ phần Hàng hải Hà Nội) Qua bảng trên ta thấy, tỷ trọng các loại tài sản dài hạn thay đổi qua các năm. Tuy nhiên, tài sản cố định luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất, tiếp theo đó là tỷ trọng các khoản đầu tư tài chính dài hạn. Các khoản phải thu dài hạn và đầu tư dài hạn khác chiếm tỷ trọng không đáng kể trong tổng tài sản dài hạn của công ty. Thứ nhất, về các khoản phải thu dài hạn: Năm 2005, khoản này ở mức 5 tỷ đồng do sự xuất hiện khoản phải thu dài hạn của khách hàng. Tuy nhiên, với sự cố gắng trong việc thực hiện chính sách thu hồi nợ, đến năm 2006 công ty đã thu hồi được hoàn toàn khoản phải thu này. Thứ hai, về tài sản cố định: Tài sản cố định có sự thay đổi cả về giá trị lẫn tỷ trọng. Năm 2005, giá trị tài sản cố định ở mức hơn 80 tỷ đồng, tương ứng 62,03% tổng giá trị tài sản dài hạn. Sang năm 2006, giá trị tài sản cố định giảm hơn 24 tỷ đồng, tỷ trọng giảm từ 62,03% xuống 58,36%. Tuy nhiên, vào năm 2007, sự đầu tư vào tài sản cố định tăng lên rõ rệt: Giá trị TSCĐ tăng gần 77 tỷ tương đương tốc độ tăng 135,87% và kéo theo sự tăng lên về tỷ trọng, 73,96% trong tổng giá trị tài sản dài hạn. Có thể thấy ở đây sự mở rộng quy mô năng lực sản xuất, đổi mới trang thiết bị của Công ty. Trong đó, TSCĐ hữu hình luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất. Do đó, cơ cấu TSCĐ hữu hình là một yếu tố hết sức quan trọng cần được xem xét. Bảng 2.4 – Cơ cấu tài sản cố định hữu hình của công ty Cổ phần Hàng hải Hà Nội Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Giá trị (tr. đồng) Tỷ trọng (%) Giá trị (tr. đồng) Tỷ trọng (%) Giá trị (tr. đồng) Tỷ trọng (%) Nhà cửa, vật kiến trúc 45 0,08 15 0,04 6.408 5,81 Máy móc, trang thiết bị 2.032 3,62 408 1,13 2.566 2,33 Phương tiện vận tải 53.675 95,51 35.513 97,95 100.949 91,54 Thiết bị văn phòng 446 0,79 321 0,88 349 0,32 Tổng TSCĐ hữu hình 56.198 100,00 36.257 100,00 110.273 100,00 Nguồn: Báo cáo tài chính các năm 2005-2007 của công ty Cổ phần Hàng hải Hà Nội Là một doanh nghiệp hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực vận tải đa phương thức, giá trị của phương tiện vận tải luôn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản cố định hữu hình của công ty (trên 90%). Sự đầu tư vào phương tiện vận tải được thể hiện rất rõ vào năm 2007. Giá trị phương tiện vận tải tăng hơn 65 tỷ đồng tương đương với tốc độ tăng tương đối 184,26%. Như vậy, quy mô tài sản cố định hữu hình tăng lên đáng kể. Để có thể nhận biết được tình trạng TSCĐ hữu hình, ta cần đánh giá chính xác hệ số hao mòn của chúng. Số tiền khấu hao luỹ kế đã trích Nguyên giá TSCĐHH tại thời điểm đánh giá Hệ số hao mòn TSCĐHH = Hệ số hao mòn này càng lớn (càng tiến về 1) thì chứng tỏ TSCĐHH càng cũ, lạc hậu và cần được đổi mới, thay thế. Bảng 2.5 - Hệ số hao mòn TSCĐHH của công ty Cổ phần Hàng hải Hà Nội Chỉ tiêu ĐVT Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Nguyên giá TSCĐHH Tr.đồng 137.906 125.904 203.792 Số tiền khấu hao luỹ kế Tr.đồng 81.708 89.647 93.519 Hệ số hao mòn TSCĐHH 0,59 0,71 0,46 ( Nguồn: Báo cáo tài chính các năm 2005 -2007 của công ty Cổ phần Hàng hải Hà Nội) Qua các năm, hệ số hao mòn TSCĐHH đã có sự thay đổi: tăng từ 0,59 năm 2005 đến 0,71 năm 2006 và giảm đi còn 0,46 năm 2007. Điều này chứng tỏ gần đây, Công ty đã quan tâm đến việc đầu tư, đổi mới TSCĐHH, đặc biệt TSCĐHH dùng trong lĩnh vực vận tải, một hoạt động chủ chốt của Công ty. Ngoài ra, tài sản cố định của công ty còn thể hiện ở tài sản cố định thuê tài chính và chi phí xây dựng dở dang. Tuy nhiên, các loại tài sản này thay đổi không đáng kể trong các năm qua. Thứ ba, về các khoản đầu tư tài chính dài hạn: Chiếm tỷ trọng lớn thứ hai trong tổng giá trị tài sản dài hạn của công ty, sau tài sản cố định, các khoản đầu tư tài chính dài hạn giảm nhẹ vào năm 2006, và tăng lên nhiều vào năm 2007 (21,31%). Các khoản đầu tư tài chính dài hạn của công ty bao gồm: Đầu tư vào công ty liên kết, liên doanh; Đầu tư dài hạn khác. Điều này chứng tỏ khả năng tạo ra nguồn lợi tức lâu dài cho doanh nghiệp có xu hướng tăng. Cuối cùng, về tài sản dài hạn khác: Tài sản dài hạn khác có xu hướng giảm, mà chủ là do sự giảm đi của chi phí trả trước dài hạn. Năm 2005, chi phí trả trước dài hạn vào khoảng 5 tỷ đồng. Khoản chi phí này bao gồm: Chi phí bảo hiểm tàu, ô tô, chi phí sửa chữa lớn tàu, chi phí nội thất. Tuy nhiên, sang năm 2006, chi phí trả trước dài hạn đã giảm đi 63,88%, chỉ còn gần 2 tỷ và tiếp tục giảm còn xấp xỉ 0,4 tỷ đồng vào năm 2007. 2.2.2. Thực trạng hiệu quả sử dụng tài sản tại Công ty Cổ phần Hàng hải Hà Nội Trong những năm qua, nhằm đạt được mục đích kinh doạnh, Công ty Cổ phần Hàng hải Hà Nội luôn quan tâm đến vấn đề sử dụng tài sản và cố gắng tìm ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản. Việc phân tích và đánh giá thực trạng hiệu quả sử dụng tài sản của công ty Cổ phần Hàng hải Hà Nội sẽ cho thấy tình hình sử dụng tài sản tại công ty, những thành tựu đã đạt được cũng như những hạn chế cần khắc phục và nguyên nhân của những hạn chế này. Trên cơ sở đó, những giải pháp thích hợp sẽ được đưa ra để nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản tại công ty. 2.2.2.1. Thực trạng hiệu quả sử dụng tổng tài sản Bảng 2.6 – Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng tổng tài sản tại Công ty Cổ phần Hàng hải Hà Nội Chỉ tiêu ĐVT Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Doanh thu thuần Tr. đồng 162.115 223.880 242.353 Lợi nhuận trước thuế và lãi vay Tr. đồng 22.875 21.349 41.709 Tổng tài sản bình quân Tr. đồng 212.488,5 200.925,5 232.667 Hiệu suất sử dụng tổng tài sản 0,76 1,11 1,04 Hệ số sinh lợi tổng tài sản (ROA) 0,11 0,11 0,18 ( Nguồn: Báo cáo tài chính các năm 2005-2007 của Công ty Cổ phần Hàng hải Hà Nội) Qua bảng trên ta thấy, chỉ tiêu hiệu suất sử dụng tổng tài sản tuy có tăng vào năm 2006 từ 0,76 năm 2005 lên 1,11 nhưng lại giảm đi vào năm 2007 (1,04). Chỉ tiêu này cho biết một đồng tài sản sử dụng trong kỳ tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu. Nguyên nhân của sự thay đổi này là do năm 2006, tổng tài sản bình quân giảm đi trong khi doanh thu lại tăng lên còn năm 2007, tổng tài sản bình quân tăng lên 15,8% trong khi đó tốc độ tăng doanh thu chỉ là 8,25%. Mặc dù vậy, chỉ tiêu hệ số sinh lợi tổng tài sản lại có xu hướng tăng qua ba năm, đặc biệt là năm 2007, chỉ tiêu này tăng từ 0,11 năm 2006 lên tới 0,18. Chỉ tiêu này cho biết một đồng tài sản sử dụng trong kỳ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận trước thuế và lãi vay. Nguyên nhân của sự tăng lên này là do tổng tài sản bình quân năm 2007 tăng 15,8% trong khi lợi nhuận trước thuế và lãi vay tăng với tốc độ khá mạnh 95,37%. Điều này chứng tỏ việc sử dụng tài sản đã được quan tâm và một đồng tài sản đã tạo ra nhiều đồng lợi nhuận trước thuế và lãi vay hơn trước. Qua việc phân tích một số chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng tổng tài sản tại công ty Cổ phần Hàng hải cho thấy hiệu quả sử dụng tài sản của Công ty có xu hướng tăng. Điều này chứng tỏ vấn đề sử dụng tài sản một cách hợp lý và hiệu quả ngày càng được Công ty quan tâm nhiều hơn. 2.2.2.2. Thực trạng hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn Tài sản ngắn hạn là một bộ phận quan trọng trong tổng tài sản, có ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả sử dụng tài sản. Bảng 2.7 – Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả dụng TSNH tại công ty Cổ phần Hàng hải Hà Nội Chỉ tiêu ĐVT Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Doanh thu thuần Tr. đồng 162.115 223.880 242.353 Lợi nhuận sau thuế Tr. đồng 16.212 15.704 33.494 TSNH bình quân trong kỳ Tr. đồng 76.170,5 89.889,5 93.848,5 Hiệu suất sử dụng TSNH 2,13 2,49 2,58 Hệ số sinh lợi TSNH 0,21 0,17 0,36 ( Nguồn: Báo cáo tài chính các năm 2005-2007 của công ty Cổ phần Hàng hải Hà Nội ) * Hiệu suất sử dụng TSNH Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng TSNH được sử dụng trong kỳ sẽ đem lại bao nhiêu đồng doanh thu thuần. Trong ba năm qua, chỉ tiêu này có xu hướng tăng dần. Năm 2005, nếu sử dụng một đồng TSNH đem lại 2,13 đồng doanh thu thuần thì sang năm 2006 đem lại 2,49 đồng và năm 2007 là 2,58 đồng. Nguyên nhân là do TSNH có xu hướng tăng qua ba năm với tốc độ tăng nhỏ hơn tốc độ tăng doanh thu. * Hệ số sinh lợi TSNH Nhìn vào bảng trên cho thấy, hệ số sinh lợi tài sản ngắn hạn tuy có giảm nhẹ vào năm 2006 nhưng sang năm 2007 đã tăng lên hơn gấp đôi từ 0,17 đến 0,36. Điều này chứng tỏ một đồng tài sản ngắn hạn bình quân trong kỳ tạo ra nhiều lợi nhuận sau thuế hơn trước. Qua việc phân tích một số chỉ tiêu về hiệu quả sử dụng TSNH tại công ty Cổ phần Hàng hải Hà Nội trong ba năm cho thấy cả hai chỉ tiêu hiệu suất sử dụng TSNH và hệ số sinh lợi TSNH đều có xu hướng tăng. Mặc dù vậy, Công ty vẫn chưa đạt được mục tiêu đề ra. Điều này chứng tỏ hiệu quả sử dụng tổng tài sản ngắn hạn chưa cao. Nguyên nhân là do quy mô tài sản ngắn hạn ngày càng tăng nhưng việc tăng TSNH chủ yếu là do các khoản phải thu ngắn hạn và hàng tồn kho tăng. 2.2.2.3. Thực trạng hiệu quả sử dụng tài sản dài hạn Bảng 2.8 – Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng TSDH tại công ty Cổ phần Hàng hải Hà Nội Chỉ tiêu ĐVT Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Doanh thu thuần Tr. Đồng 162.115 223.880 242.353 Lợi nhuận sau thuế Tr. Đồng 16.212 15.704 33.494 TSDH bình quân trong kỳ Tr. Đồng 136.318 111.035 138.817,5 Hiệu suất sử dụng TSDH 1,19 2,02 1,75 Hệ số sinh lợi TSDH 0,12 0,14 0,24 ( Nguồn: Báo cáo tài chính các năm 2005-2007của công ty Cổ phần Hàng hải Hà Nội) * Hiệu suất sử dụng TSDH Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng TSDH được sử dụng thì tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu thuần trong kỳ. Trong ba năm qua, chỉ tiêu này có xu hướng tăng. Năm 2006, TSDH bình quân giảm 18,55% cùng với sự gia tăng doanh thu 38,10% đã làm cho hiệu suất sử dụng tài sản tăng lên từ 1,19 đến 2,02. Năm 2007, mặc dù TSDH bình quân tăng 25% nhưng doanh thu chỉ tăng 8,25% làm hiệu suất sử dụng tài sản giảm từ 2,02 xuống 1,75. * Hệ số sinh lợi tài sản dài hạn Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng TSDH sử dụng bình quân trong kỳ thì tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. Chỉ tiêu này có xu hướng tăng, đặc biệt là năm 2007, mặc dù hiệu suất sử dụng TSDH giảm nhưng hệ số sinh lợi TSDH lại tăng đáng kể. Một đồng TSDH được sử dụng trong năm 2007 tạo ra 0,24 đồng lợi nhuận sau thuế, tăng 0,1 đồng so với năm 2006. Qua phân tích một số chỉ tiêu như hiệu suất sử dụng TSDH và hệ số sinh lợi TSDH cho thấy các chỉ tiêu này đều có xu hướng tăng qua ba năm chứng tỏ hiệu quả sử dụng tổng tài sản dài hạn tăng. Tuy nhiên, các chỉ tiêu này vẫn còn ở mức thấp so với mục tiêu và các doanh nghiệp khác cùng ngành. 2.3. ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG TÀI SẢN TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN HÀNG HẢI HÀ NỘI 2.3.1. Kết quả đạt được Công ty cổ phần Hàng hải Hà Nội (Marina Hanoi) là một công ty hoạt động trong lĩnh vực vận tải biển và bất động sản, với hai mảng hoạt động chính là Kinh doanh cao ốc cho thuê và Kinh doanh dịch vụ vận tải đa phương thức. Trong những năm đầu mới thành lập, công ty đã gặp nhiều khó khăn về tài chính cũng như kinh nghiệm quản lý. Tuy nhiên, được sự hỗ trợ của Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam cùng sự nỗ lực của Ban lãnh đạo và toàn thể cán bộ công nhân viên, công ty đã ngày càng phát triển, nâng cao vị thế trên thị trường. So với các doanh nghiệp khác cùng ngành, Công ty là một trong những doanh nghiệp hàng đầu về thị phần vận tải. Thêm vào đó, vị thế của Công ty luôn được đánh giá cao nhờ vào các yếu tố sau: - Công ty có một đội ngũ nhân viên có trình độ và được đào tạo một cách tương đối có bài bản; Đội ngũ công nhân có kinh nghiệm và tay nghề cao. Đây chính là thế mạnh của Công ty trong chiến lược phát triển lâu dài dựa vào nguồn nhân lực. - Công ty được các đối tác đánh giá cao về kinh nghiệm và công nghệ quản lý dịch vụ vận tải đa phương thức. Đây là lợi thế xuất phát từ việc Công ty sớm tham gia vào thị trường dịch vụ vận tải đa phương thức từ năm 1999, khi mà thị trường mới bắt đầu phát triển. Trong quản lý và khai thác tòa nhà Ocean Park Building, Công ty đang áp dụng các quy trình theo tiêu chuẩn ISO 9001-2000. Công ty thuê nhà quản lý nước ngoài có kinh nghiệm và xây dựng các quy trình quản lý Tòa nhà theo mô hình tiên tiến. Đối với mảng dịch vụ vận tải, các máy móc thiết bị được Công ty khai thác và sử dụng đều đạt tiêu chuẩn, phù hợp với đặc thù hoạt động kinh doanh. Trong những năm gần đây, trước những diễn biến phức tạp về tình hình chính trị, kinh tế trên thế giới mà hệ quả là giá xăng dầu, giá vàng, giá nguyên vật liệu đều tăng và diễn biến bất thường, các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực vận tải trong nước nói chung và Marina Hanoi nói riêng đều ít nhiều chịu ảnh hưởng và phải đối mặt với khó khăn chung đó. Tuy nhiên, với quy mô tăng giá vốn hàng bán, chi phí nguyên vật liệu rất lớn như vậy, Marina Hanoi đã hết sức nỗ lực trong việc mở rộng quy mô dịch vụ, tìm ra các hướng đi mới để tăng doanh thu và lợi nhuận, từ đó tăng khả năng cạnh tranh và chất lượng dịch vụ trong lĩnh vực vận tải đa phương thức. Qua ba năm, tổng tài sản có xu hướng tăng trong đó tài sản dài hạn và đặc biệt là tài sản cố định tăng lên nhiều nhất thể hiện sự đầu tư hợp lý của Công ty. Mặt khác, trong cơ cấu hình thành tài sản, tỷ trọng nguồn vốn chủ sở hữu ngày càng tăng, tỷ trọng các khoản nợ dài hạn có xu hướng giảm thể hiện tình hình tài chính lành mạnh của Công ty. Bảng 2.9: Cơ cấu vốn của Công ty Cổ phần Hàng hải Hà Nội Đvt: tr.đồng Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Nợ ngắn hạn 54.935 57.167 88.608 Nợ dài hạn 50.432 39.207 44.355 Vốn chủ sở hữu 102.202 97.907 138.090 Tổng nguồn vốn 207.569 194.281 271.053 (Nguồn: Báo cáo tài chính các năm 2005-2007 của Công ty Cổ phần Hàng Hải Hà Nội) Biểu đồ 2.1. Cơ cấu nguồn vốn của Công ty Cổ phần Hàng Hải Hà Nội Bên cạnh đó, trong những năm qua, tài sản ngắn hạn của Công ty luôn đảm bảo tài trợ cho các khoản nợ ngắn hạn thể hiện ở vốn lưu động ròng luôn lớn hơn 0. Điều này chứng tỏ khả năng thanh toán của Công ty khá tốt. Bảng 2.10: Vốn ngắn hạn ròng tại Công ty Cổ phần Hàng hải Hà Nội Đvt: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Tài sản ngắn hạn 77.508 97.252 90.445 Nợ ngắn hạn 54.935 57.167 88.608 Vốn ngắn hạn ròng 22.573 40.085 1837 (Nguồn: Báo cáo tài chính các năm 2005-2007 của Công ty Cổ phần Hàng Hải Hà Nội) Đối với TSCĐ, Công ty đã không ngừng tăng cường khai thác năng lực của máy móc thiết bị. Đồng thời tiến hành trích khấu hao TSCĐ theo quy định của Bộ Tài chính nhằm chuyển dịch từng phần giá trị của tài sản cố định vào chi phí và tạo lập quỹ để bù đắp hao mòn. Ngoài ra, Công ty còn thực hiện thanh lý một số TSCĐ lạc hậu, đầu tư thêm máy móc thiết bị hiện đại góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản cho doanh nghiệp. Đối với đầu tư tài chính dài hạn, bằng cách đa dạng hoá hoạt động đầu tư như đầu tư vào công ty con; đầu tư vào công ty liên kết, liên doanh; đầu tư chứng khoán dài hạn; cho thuê TSCĐ,… cùng sự năng động, sáng tạo, nắm bắt thị trường của Ban lãnh đạo Công ty, hoạt động này ngày càng mang lại hiệu quả cho Công ty. Trong quá trình phát triển, Công ty đã xây dựng được mối quan hệ tốt với khách hàng trong và ngoài nước. Việc tìm kiếm và thiết lập các mối quan hệ khách hàng đã được Công ty hết sức quan tâm. Nhờ đó, ngoài các thị trường truyền thống, Công ty còn ngày càng mở rộng được thị trường góp phần làm tăng doanh thu. So với một số công ty trong cùng ngành thì giá vốn hàng bán của Marina Hanoi vẫn khá cao. Tuy nhiên, Công ty vẫn luôn đảm bảo cung cấp cho khách hàng những dịch vụ tốt nhất đồng thời chú trọng vào việc đầu tư nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và chất lượng dịch vụ để trở thành một trong những công ty hàng đầu trong lĩnh vực vận tải đa phương thức và vận tải biển. Trong thời gian qua, Công ty đã đạt được một số kết quả khả quan. Tuy nhiên, vẫn còn những hạn chế mà Công ty cần khắc phục để đạt được hiệu quả cao hơn trong hoạt động sản xuất - kinh doanh. 2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân 2.3.2.1. Hạn chế Qua việc phân tích các số liệu về tình hình sử dụng tài sản của Công ty trong thời gian qua cho thấy nhìn chung các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng tài sản của Công ty đều có xu hướng tăng. Tuy nhiên, năm 2006, chỉ tiêu hệ số sinh lợi tổng tài sản không tăng trong khi hiệu suất sử dụng tăng 0,35 còn năm 2007, mặc dù tổng tài sản bình quân tăng lên khá nhiều (15,8%) nhưng chỉ tiêu hiệu suất sử dụng tổng tài sản lại giảm 0,07 so với năm 2006. Bên cạnh đó, chỉ tiêu hệ số sinh lợi tổng tài sản tăng 0,07 từ 0,11 đến 0,18 do lợi nhuận đạt mức tăng trưởng 95,37%, song lợi nhuận này tăng chủ yếu là do hoạt động tài chính mang lại, mà cụ thể là do việc bán thanh lý tàu - một tài sản đồng kiểm soát với Tổng công ty Hàng hải đã mang lại lợi nhuận gần 16 tỷ đồng, chiếm gần 40% tổng lợi nhuận trước thuế và lãi vay. Ngoài ra, lợi nhuận thuần từ hoạt động sản xuất kinh doanh và các hoạt động tài chính khác tăng trưởng không đáng kể so với năm 2006. Mặt khác, các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng tài sản của Công ty vẫn còn thấp so với mục tiêu đặt ra. Bảng 2.11: Kế hoạch và thực hiện các chỉ tiêu về hiệu quả sử dụng tài sản tại Công ty Cổ phần Hàng hải Hà Nội Chỉ tiêu 2005 2006 2007 MT TH MT TH MT TH Hiệu suất sử dụng tổng tài sản 1,05 0,76 1,36 1,11 1,4 1,04 Hệ số sinh lợi tổng tài sản 0,14 0,11 0,15 0,11 0,27 0,18 Hiệu suất sử dụng TSNH 2,92 2,13 3,03 2,49 3,18 2,58 Hệ số sinh lợi TSNH 0,29 0,21 0,22 0,17 0,55 0,36 Hiệu suất sử dụng TSDH 1,64 1,19 2,48 2,02 2,5 1,75 Hệ số sinh lợi TSDH 0,16 0,12 0,18 0,14 0,43 0,24 (Nguồn: Báo cáo tài chính các năm 2005-2007 của công ty Cổ phần Hàng hải Hà Nội) Như vậy, so với mục tiêu, các chỉ tiêu đạt được còn thấp. Mặt khác, các chỉ tiêu này cũng thấp hơn so với các doanh nghiệp cùng ngành, như Công ty Cổ phần Đại lý Liên hiệp vận chuyển Gemadept: Năm 2006, hiệu suất sử dụng tổng tài sản là 1,27 và hệ số sinh lợi tổng tài sản là 0,29; Công ty cổ phần Hàng Hải Sài Gòn: Năm 2007, hiệu suất sử dụng tổng tài sản là 1,53 và hệ số sinh lợi tổng tài sản là 0,26 Để nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản của Công ty, việc tìm ra nguyên nhân của những hạn chế trên nhằm đưa ra các giải pháp khắc phục là hết sức cần thiết. Đó cũng chính là cơ sở để Công ty tăng khả năng cạnh tranh, tạo vị thế trên thị trường hiện nay. 2.3.2.2. Nguyên nhân Nguyên nhân chủ quan Thứ nhất, năng lực quản lý tài sản còn yếu kém + Các khoản nợ khó đòi tăng mạnh: Trong ba năm qua tỷ lệ các khoản phải thu khách hàng gia tăng cả về giá trị lẫn tỷ trọng trong tổng TSNH và đặc biệt là các khoản phải thu khó đòi tăng lên lớn hơn nhiều lần tốc độ gia tăng doanh thu làm hiệu quả sử dụng TSNH giảm. Năm 2006, tốc độ gia tăng các khoản phải thu khó đòi là 1135,66% trong khi doanh thu tăng 50,99%. Năm 2007, các khoản phải thu khó đòi tăng 38,1% trong khi doanh thu chỉ tăng 8,25%. Nguyên nhân là do công tác sàng lọc và quản lý khách hàng chưa thực sự hiệu quả. Bên cạnh đó, các biện pháp khuyến khích về vật chất đối với khách hàng thanh toán đúng hạn chưa được Công ty quan tâm thực hiện. + Nguyên vật liệu dự trữ quá nhiều: Việc tăng mức dự trữ nguyên vật liệu quá nhiều trong thời gian qua chưa hợp lý. Năm 2006, tốc độ tăng nguyên vật liệu dự trữ là 82,28% trong khi doanh thu chỉ tăng 38,10%. Năm 2007, nguyên vật liệu tăng 95,06%, lớn hơn rất nhiều tốc độ tăng doanh thu (8,25%). Điều này góp phần làm giảm hiệu quả sử dụng TSNH. Nguyên nhân là do tình hình lập đơn đặt hàng đôi khi không sát với thực tế, có trường hợp dư thừa nhiều so với nhu cầu sử dụng. Ngoài ra, một số nguyên vật liệu nhập về không đủ tiêu chuẩn chất lượng, sai quy cách, giá cả còn cao. Công ty chưa có định mức dự trữ và tiêu hao khiến viêc quản lý hàng tồn kho chưa khoa học. Bên cạnh đó, thị trường nguyên vật liệu đầu vào biến động thường xuyên làm công tác quản lý cũng gặp nhiều khó khăn. + Tiền mặt dự trữ chưa hợp lý: Công ty chưa áp dụng mô hình quản lý tiền mặt giúp cho hoạt động này có hiệu quả hơn. Do đó, lượng tiền dự trữ quá nhiều làm giảm lợi nhuận có thể thu được từ hoạt động đầu tư chứng khoán ngắn hạn dẫn đến giảm hiệu quả hoạt động của Công ty. + Công tác quản lý, đầu tư TSCĐHH chưa hiệu quả. Là một doanh nghiệp kinh doanh chủ yếu trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ vận tải, TSCĐHH là một bộ phận đóng vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động kinh doanh của Công ty. Trước năm 2007, mặc dù có sự đổi mới, sửa chữa, nâng cấp TSCĐHH song việc đầu tư này không đáng kể. Giá trị TSCĐHH có sự giảm đi nhiều (từ 56 tỷ đồng xuống 36 tỷ) do hao mòn và giá trị TSCĐHH đầu tư mới nhỏ hơn giá trị TSCĐHH thanh lý, nhượng bán. Phần lớn TSCĐHH đều không còn mới, năng suất không cao, giá trị còn lại rất nhỏ so với nguyên giá. Điều này dẫn đến chất lượng TSCĐ ngày càng giảm làm tăng chi phí nguyên vật liệu và chi phí sửa chữa, bảo dưỡng trong quá trình hoạt động dẫn đến tăng chi phí đầu vào. Đây là một trong những nguyên nhân làm giá vốn hàng bán và dịch vụ của Công ty trong lĩnh vực vận tải khá cao so với các công ty khác cùng ngành. Đến năm 2007, Công ty đã đầu tư thêm nhiều vào TSCĐHH, tổng giá trị TSCĐHH tăng lên hơn 70 tỷ đồng. Tuy nhiên, sự đầu tư này chưa được đồng bộ dẫn đến hiệu suất sử dụng tài sản cố định giảm đi từ 3,26 xuống còn 2,55. Kết quả là, năm 2006, lợi nhuận thuần từ hoạt động sản xuất kinh doanh giảm từ 14 tỷ đồng năm 2005 xuống còn 8 tỷ và năm 2007, mặc dù có sự đầu tư nhiều vào TSCĐ nhưng lợi nhuận thuần từ hoạt động sản xuất kinh doanh cũng chỉ tăng 435 triệu đồng so với năm 2006. Bên cạnh đó, chính sách quản lý tài sản chưa phù hợp, chưa có quy định rõ ràng trong việc phân cấp tài sản để quản lý góp phần làm cho hiệu quả sử dụng tài sản của Công ty không cao. Thứ hai, công tác thẩm định dự án chưa hiệu quả Trong những năm qua, công tác thẩm định dự án của Công ty chưa đạt hiệu quả cao dẫn đến tình trạng đầu tư vào một số dự án có giá trị cao nhưng chưa thu hồi được vốn, làm tăng chi phí sản xuất kinh doanh dở dang, gây ứ đọng vốn và ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng tài sản của Công ty. Điển hình là dự án Nhà máy lọc dầu số 1 Dung Quất, thời gian xây dựng dự định từ tháng 6 năm 2001 đến tháng 7 năm 2003 với chiều dài 2,4 km, trị giá hợp đồng 200 tỷ đồng. Do công tác thẩm định dự án chưa hiệu quả, không đánh giá được rủi ro dự án, Công ty đã thực hiện đầu tư dự án. Trong quá trình thi công, Công ty đã gặp phải rủi ro như phát hiện ra túi bùn ngoài dự kiến tại vị trí thi công, chủ đầu tư giải thể. Vì vậy, Công ty đã tham gia thi công giai đoạn 1 với giá trị xây dựng hơn 15 tỷ đồng từ năm 2001 nhưng đến nay vẫn chưa thu hồi được hết vốn. Ngoài ra, có một số công trình khi thực hiện, thời gian và chi phí luôn vượt quá dự toán làm giảm lợi nhuận của Công ty so với dự kiến. Thứ ba, khả năng huy động vốn còn hạn chế, chưa thiết lập và duy trì cơ cầu vốn tối ưu Qua ba năm, nguồn vốn tăng lên không đáng kể, từ 207 tỷ đồng đến 271 tỷ đồng. Trong đó, nguồn vốn chủ sở hữu huy động bằng cách phát hành cổ phiếu mới chỉ tăng hơn 20 tỷ đồng. Thêm vào đó, các khoản vay và nợ dài hạn có xu hướng giảm. Sự hạn chế về vốn dẫn đến khó khăn trong việc mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh cũng như việc tăng cường doanh thu, phát triển lợi nhuận của Công ty. Bên cạnh đó, Công ty chưa quan tâm đến vấn đề xác lập và duy trì cơ cấu vốn tối ưu dẫn đến chi phí vốn lớn gây ảnh hưởng xấu đến hiệu quả hoạt động của Công ty làm giảm hiệu quả sử dụng tài sản. Nguyên nhân khách quan Thứ nhất, nền kinh tế biến động bất lợi Dịch vụ vận tải đa phương thức, trong đó vận tải biển nội địa chiếm tỷ trọng lớn trong doanh thu của Marina Hanoi (năm 2006 doanh thu về dịch vụ vận tải đa phương thức chiếm 92% trong tổng doanh thu của Marina Hanoi). Sự biến động của nền kinh tế luôn có ảnh hưởng trực tiếp đến sự biến động về nhu cầu đối với dịch vụ vận tải đường biển. Bên cạnh đó, nền kinh tế biến động và không ổn định cũng dẫn đến sự biến động không ổn định của các yếu tố chi phí đầu vào như chi phí xăng dầu, thuê kho cảng, bến bãi, thuê tàu, thuyền viên… Đặc biệt trong lĩnh vực dịch vụ vận tải đa phương thức thì chi phí xăng dầu, vốn chủ yếu được nhập khẩu từ bên ngoài, cấu thành một bộ phận khá lớn trong giá thành dịch vụ. Bên cạnh đó, nền kinh tế hội nhập và mở cửa ngoài việc đem lại những cơ hội phát triển rất lớn cho ngành vận tải biển còn tạo ra rất nhiều thách thức, đặc biệt là thách thức trong cạnh tranh với sự xuất hiện của rất nhiều hãng tàu biển nhỏ với giá cước thấp trong nước và các hãng tàu biển của nước ngoài với kinh nghiệm và tiềm lực mạnh. Thứ hai, hệ thống cảng biển Việt Nam quy mô còn nhỏ, chất lượng không cao Trong vận tải đa phương thức, chất lượng cầu cảng, kho bãi và các dịch vụ hỗ trợ sẽ tác động đáng kể đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực này. Khó khăn của Công ty hiện nay xuất phát từ thực trạng hệ thống cảng biển Việt Nam chủ yếu có quy mô vừa và nhỏ, phân bố chưa hợp lý, luồng ra vào cảng có độ sâu hạn chế. Thêm vào đó, hầu hết các cảng đều đã được khai thác nhiều năm, thiếu đầu tư nên bị xuống cấp nghiêm trọng, năng suất xếp dỡ thấp, thiếu các thiết bị chuyên dùng xếp dỡ container, trình độ chuyên môn hoá, hiện đại hoá thấp. Điều này khiến thời gian tàu chờ tại cảng bị kéo dài ngoài dự kiến, ảnh hưởng không nhỏ đến thời gian và chi phí của doanh nghiệp. Thứ ba, luật pháp chưa hoàn chỉnh và thiếu đồng bộ Hiện nay, trong lĩnh vực kinh doanh cho thuê văn phòng vẫn còn thiếu nhiều quy định của Nhà nước, trong đó đáng kể là việc thiếu các tiêu chuẩn, quy định đối với cao ốc, chung cư. Ngoài ra, hệ thống luật điều chỉnh hợp đồng cho thuê văn phòng vẫn chưa điều chỉnh hết các quan hệ trong hợp đồng. Điều này gây khó khăn trong hoạt động kinh doanh bất động sản của Công ty. Trong lĩnh vực vận tải đa phương thức, ngoài lĩnh vực vận tải biển được điều chỉnh bởi “Bộ luật Hàng hải”, các hình thức vận tải khác mới chỉ được điều chỉnh bởi các văn bản dưới luật, các thông tư, nghị định… Ngoài ra, lĩnh vực vận tải biển còn phụ thuộc rất nhiều vào các quy hoạch tổng thể về giao thông đường bộ, cảng biển và các định hướng quản lý vĩ mô khác có liên quan. Các quy định này vẫn còn chưa hoàn chỉnh và ổn định, nhiều quy định chưa phù hợp cũng gây khó khăn trong hoạt động của Marina Hà Nội. Thư tư, sự biến động của tỷ giá. Lĩnh vực vận tải đa phương tiện, đặc biệt là vận tải biển chịu ảnh hưởng khá nhiều từ biến động của tỷ giá. Đặc biệt trong việc đầu tư vào tài sản cố định phục vụ cho việc cung cấp dịch vụ vận tải biển (ví dụ như mua tàu của nước ngoài…), Công ty thường xuyên phải duy trì mức dự nợ ngoại tệ khá cao thông thường một dự án đầu tư tàu phần vốn vay chiếm từ 70-85% trên tổng vốn đầu tư. Vì vậy, biến động của tỷ giá sẽ tác động mạnh đến chi phí đầu vào. Thứ năm, thị trường chứng khoán biến động Trong giai đoạn vừa qua, thị trường chứng khoán nhiều biến động, tiềm ẩn nhiều rủi ro, giá cả nhiều loại cổ phiếu không phản ánh thực chất giá trị nên việc phát hành cổ phiếu của Công ty cũng gặp phải khó khăn do số lượng cổ phiếu không bán được như mong muốn. Do đó, việc huy động vốn cho các dự án đầu tư bị hạn chế. Công ty buộc phải bổ sung vốn cho các dự án này bằng nguồn vay ngân hàng và từ Quỹ Đầu tư. Điều này cũng phần nào ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của Công ty. CHƯƠNG 3 GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG TÀI SẢN TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN HÀNG HẢI HÀ NỘI 3.1. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN HÀNG HẢI HÀ NỘI 3.1.1. Định hướng phát triển của ngành Hàng Hải Việt Nam Việt Nam là một quốc gia nằm ở vị trí địa lý thuận lợi để phát triển ngành kinh tế biển. Trong những năm qua, bên cạnh sự cố gắng, nỗ lực của bản thân Công ty và được sự hỗ trợ tích cực từ Chính phủ thông qua các cơ chế, chính sách cụ thể, ngành hàng hải Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc. Thủ tướng Chính phủ cũng đã ra quyết định Phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam đến năm 2010 và hiện cũng đang xem xét soạn thảo lại Quy hoạch cho hệ thống cảng biển Việt Nam cho phù hợp với tình hình thực tế hiện nay. Đó cũng là cơ sở để hệ thống cảng biển Việt Nam được xây dựng và phát triển theo một quy hoạch tổng thể và thống nhất trên quy mô cả nước; hình thành những trung tâm kết nối cơ sở hạ tầng giao thông vận tải tại các khu vực và đặc biệt là tại các vùng kinh tế trọng điểm; tạo cơ sở vật chất kỹ thuật về cảng biển và từ đó khẳng định vị trí và ưu thế của cảng biển Việt Nam đối với khu vực và thế giới. Bên cạnh đó, nhu cầu về dịch vụ vận tải biển ở Việt Nam là rất lớn, xuất khẩu của Việt Nam chiếm trên 50% GDP và nhập khẩu cũng chiếm trên 50% GDP trong khi năng lực của đội tàu và cảng biển của nước ta vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu đó. 3.1.2. Định hướng phát triển của Công ty Cổ phần Hàng hải Hà Nội Định hướng trong hoạt động và phát triển của Công ty được Hội đồng quản trị đề ra là: “Lấy quản lý, khai thác Tòa nhà cao ốc cho thuê làm cơ sở, lấy hoạt động dịch vụ hàng hải làm trọng tâm và lấy việc đầu tư đội tàu và cơ sở vật chất để phát triển”. Thông qua định hướng hoạt động đó, mục tiêu phát triển lâu dài của Công ty là nâng cao năng lực cạnh tranh trong lĩnh vực vận tải đa phương thức, tiến tới trở thành một công ty hàng đầu đặc biệt là trong lĩnh vực vận tải đường thủy và vận tải biển. Quy hoạch tổng thể cảng biển Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 được lập và phê duyệt hơn 8 năm qua (1999). Gần đây, Bộ Giao thông vận tải đã chấp thuận cho quy hoạch mới và điều chỉnh quy hoạch hiện hữu đến năm 2020, định hướng đến năm 2030. Mục đích của việc quy hoạch cảng biển là làm cho kinh tế biển phát triển hiệu quả, đồng bộ và hài hòa trong tổng thể nền kinh tế quốc dân ở phạm vi quốc gia hay rộng hơn là toàn cầu theo xu hướng hội nhập với thế giới. Bên cạnh đó, trên thế giới hiện tại vận tải biển vẫn là ngành chủ đạo, chiếm ưu thế tuyệt đối (80%) khối lượng và có mức tăng trưởng bình quân năm là 8%-9%. Do đó, định hướng hoạt động và phát triển của Marina Hanoi là hoàn toàn phù hợp với chính sách chung của Nhà nước cũng như đáp ứng được nhu cầu hội nhập với xu thế chung của thế giới. 3.2. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG TÀI SẢN TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN HÀNG HẢI HÀ NỘI 3.2.1. Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn của Công ty 3.2.1.1. Quản lý chặt chẽ các khoản phải thu Quản lý khoản phải thu khách hàng là một vấn đề rất quan trọng và phức tạp trong công tác quản lý tài chính doanh nghiệp của tất cả các doanh nghiệp. Đặc biệt với Công ty Cổ phần Hàng hải Hà Nội khi các khoản phải thu luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản ngắn hạn (trên 50%). Việc tăng khoản phải thu từ khách hàng kéo theo việc gia tăng các khoản chi phí quản lý nợ, chi phí thu hồi nợ, chi phí trả lãi tiền vay để đáp ứng nhu cầu vốn thiếu do vốn của doanh nghiệp bị khách hàng chiếm dụng. Hơn nữa, tăng khoản phải thu làm tăng rủi ro đối với doanh nghiệp dẫn đến tình trạng nợ quá hạn khó đòi hoặc không thu hồi được do khách hàng vỡ nợ, gây mất vốn của doanh nghiệp. Tuy nhiên, nếu có một chính sách tín dụng hợp lý doanh nghiệp sẽ thu hút được khách hàng, làm tăng doanh thu và lợi nhuận. Vì vậy, để quản lý khoản phải thu từ khách hàng, Công ty cần thực hiện một số biện pháp sau: - Xác định chính sách tín dụng thương mại với khách hàng: Công ty cần xem xét, đánh giá các yếu tố sau: Mục tiêu mở rộng thị trường tiêu thụ, tăng doanh thu và tăng lợi nhuận của doanh Công ty Tình trạng cạnh tranh: Công ty cần xem xét tình hình bán chịu của các đối thủ cạnh tranh để có đối sách bán chịu thích hợp và có lợi. Tình trạng tài chính của Công ty: Công ty không thể mở rộng việc bán chịu cho khách hàng khi đã có nợ phải thu ở mức cao và có sự thiếu hụt vốn lớn vốn bằng tiền trong cân đối thu chi bằng tiền. - Phân tích khách hàng, xác định đối tượng bán chịu Đây là khâu rất quan trọng để Công ty xác định rõ khách hàng là ai và quyết định thực hiện chính sách thương mại như thế nào. Do vậy, để thẩm định độ rủi ro cần có sự phân tích đánh giá khả năng trả nợ và uy tín của khách hàng, nhất là với những khách hàng tiềm năng. Trên cơ sở đó quyết định hình thức hợp đồng. - Xác định điều kiện thanh toán Công ty cần quyết định thời hạn thanh toán và tỷ lệ chiết khấu thanh toán. Chiết khấu thanh toán là phần giảm trừ một số tiền nhất định cho khách hàng khi khách hàng trả tiền trước thời han thanh toán. Chiết khấu thanh toán được xác định bằng một tỷ lệ phần trăm tính theo doanh số mua hàng ghi trên hoá đơn. Việc tăng tỷ lệ chiết khấu thanh toán sẽ thúc đẩy khách hàng thanh toán sớm trước hạn và thu hút thêm được khách hàng mới làm tăng doanh thu, giảm chi phí thu hồi nợ nhưng sẽ làm giảm số tiền thực thu. Vì vậy, Công ty cần cân nhắc tỷ lệ chiết khấu cho phù hợp. - Thiết lập một hạn mức tín dụng hợp lý. Quản lý nợ phải thu là nhằm tối đa hoá lợi nhuận. Vì vậy, Công ty nên chấp nhận đơn xin cấp tín dụng của những khách hàng nếu có cơ hội trở thành khách hàng thường xuyên và đáng tin cậy của Công ty. Trong trường hợp khách hàng có uy tín thấp hoặc đáng nghi ngờ, Công ty cần ấn định một hạn mức tín dụng hạn chế để tránh rủi ro. - Thường xuyên kiểm soát nợ phải thu Công ty phải mở sổ theo dõi chi tiết nợ phải thu và tình hình thanh toán với khách hàng, thường xuyên xem xét, đánh giá tình hình nợ phải thu và dự đoán nợ phải thu từ khách hàng theo công thức sau: Npt = Dn x Kpt Trong đó: Npt: Nợ phải thu dự kiến trong kỳ (năm) Dn: Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ tính theo giá thanh toán bình quân một ngày Kpt: Kỳ thu tiền bình quân trong năm Để tránh tình trạng mở rộng việc bán chịu quá mức, Công ty cần xác định giới hạn bán chịu qua hệ số nợ phải thu. Công thức xác định như sau: Nợ phải thu từ khách hàng Doanh số hàng bán ra Hệ số nợ phải thu = - Áp dụng các biện pháp thích hợp thu hồi nợ và bảo toàn vốn Đối với các khoản nợ sắp đến kỳ hạn thanh toán, Công ty phải chuẩn bị các chứng từ cần thiết đồng thời thực hiện kịp thời các thủ tục thanh toán, nhắc nhở, đôn đốc khách hàng. Đối với các khoản nợ quá hạn, Công ty phải chủ động áp dụng các biện pháp tích cực và thích hợp để thu hồi. Bên cạnh đó, Công ty phải tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến nợ quá hạn và có thể chia nợ quá hạn thành các giai đoạn để có biện pháp thu hồi thích hợp. Ngoài ra, việc trích lập dự phòng nợ phải thu khó đòi để chủ động bảo toàn vốn ngắn hạn phải dựa trên cơ sở là thời gian quá hạn trả nợ và tổng mức nợ của khách hàng. Công ty cần chia thời gian quá hạn trả nợ và tổng nợ ra các mức khác nhau, tương ứng với mỗi mức sẽ có tỷ lệ trích lập dự phòng phù hợp. Mặt khác, việc thường xuyên nhận định, đánh giá về khoản phải thu sẽ nâng cao nhận thức, trách nhiệm và hiệu quả hoạt động thu nợ. Tóm lại, quản lý chặt chẽ các khoản phải thu, thúc đẩy công tác thanh toán nợ là một trong những biện pháp tháo gỡ khó khăn về vốn, giảm lượng vốn ứ đọng ở khâu thanh toán, nhanh chóng thu hồi và quay vòng vốn, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả sản xuất – kinh doanh cũng như hiệu quả sử dụng tài sản của Công ty. 3.2.1.2. Quản lý chặt chẽ hàng tồn kho Để đảm bảo cho hoạt động kinh doa

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxThS10.docx
Tài liệu liên quan