Tài liệu Đề tài Nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ Việt Nam: MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ, HÌNH VẼ
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ, HÌNH VẼ
Bảng 2.1: Một số chỉ tiêu tài chính cơ bản năm 2005 - 2008 35
Bảng 2.2: Tình hình huy động vốn giai đoạn 2006 -2008 40
Bảng 2.3: Tình hình huy động nợ giai đoạn 2006 - 2008 44
Bảng 2.4: Doanh thu tín dụng giai đoạn 2006 – 2008 53
Bảng 2.5: Cơ cấu vốn của Công ty giai đoạn 2002 - 2008 54
Bảng 2.6: Chi phí huy động vốn của Công ty 55
Biểu đồ 2.1: Sơ đồ cơ cấu tổ chức của Công ty 34
Biểu đồ 2.2: Tăng trưởng doanh thu giai đoạn 2002 - 2008 36
Biểu đồ 2.3: Tăng trưởng lợi nhuận trước thuế giai đoạn 2002 - 2008 37
Biểu đồ 2.4: Tăng trưởng tổng nguồn vốn giai đoạn 2002 - 2008 39
Biểu đồ 2.5: Tăng trưởng vốn điều lệ giai đoạn 2002 - 2008 42
Biểu đồ 2.6: Cơ cấu huy động nợ năm 2008 45
Biểu đồ 2.7: Tăng trưởng dư nợ giai đoạn 2002 - 2008 52
LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam đang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, vì thế nên sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước đòi hỏi phải huy động được mọi ngu...
84 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1110 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ, HÌNH VẼ
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ, HÌNH VẼ
Bảng 2.1: Một số chỉ tiêu tài chính cơ bản năm 2005 - 2008 35
Bảng 2.2: Tình hình huy động vốn giai đoạn 2006 -2008 40
Bảng 2.3: Tình hình huy động nợ giai đoạn 2006 - 2008 44
Bảng 2.4: Doanh thu tín dụng giai đoạn 2006 – 2008 53
Bảng 2.5: Cơ cấu vốn của Công ty giai đoạn 2002 - 2008 54
Bảng 2.6: Chi phí huy động vốn của Công ty 55
Biểu đồ 2.1: Sơ đồ cơ cấu tổ chức của Công ty 34
Biểu đồ 2.2: Tăng trưởng doanh thu giai đoạn 2002 - 2008 36
Biểu đồ 2.3: Tăng trưởng lợi nhuận trước thuế giai đoạn 2002 - 2008 37
Biểu đồ 2.4: Tăng trưởng tổng nguồn vốn giai đoạn 2002 - 2008 39
Biểu đồ 2.5: Tăng trưởng vốn điều lệ giai đoạn 2002 - 2008 42
Biểu đồ 2.6: Cơ cấu huy động nợ năm 2008 45
Biểu đồ 2.7: Tăng trưởng dư nợ giai đoạn 2002 - 2008 52
LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam đang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, vì thế nên sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước đòi hỏi phải huy động được mọi nguồn lực trong xã hội về con người, công nghệ, và vốn. Đóng góp vào sự nghiệp chung đó là cá tổ chức tài chính – tín dụng.
Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ Việt Nam là một Công ty Tài chính Nhà nước trực thuộc Tổng công ty Công nghiệp Tàu thuỷ Việt Nam hoạt động theo Luật các tổ chức tín dụng, Luật doanh nghiệp và các Luật có liên quan khác. Được thành lập theo quyết định 3456/QĐ-BGTVT của Bộ Giao Thông Vận tải và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 9/5/2000. Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ Việt Nam là một trong những đơn vị thành viên của Tổng công ty Công nghiệp Tàu thuỷ Việt Nam với chức năng chủ yếu là thu xếp vốn cho các dự án đầu tư, thực hiện các đề án phát hành trái phiếu trong nước và quốc tế, nhận uỷ thác quản lý vốn và các dịch vụ tài chính cho Tổng công ty và các đơn vị thành viên.
Cho đến nay, sau hơn gần 10 năm đi vào hoạt động, thông qua hoạt động chủ yếu là huy động vốn, Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ Việt Nam dần chứng tỏ được vai trò là đầu mối cung cấp và thu xếp vốn chủ yếu cho các thành viên của Tổng công ty Công nghiệp Tàu thuỷ Việt Nam, cho các dự án mà Tổng công ty đang làm chủ đầu tư.
Tuy nhiên, hiệu quả của hoạt động này chưa thực sự được đánh giá cao. Để đứng vững trong môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt trong thời gian tới và khẳng định vai trò không thể thiếu trong quá trình phát triển của Tổng công ty, nâng cao hiệu quả huy động vốn là vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng đối với Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ Việt NamCông ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ Việt Nam. Chính vì lý do đó nên em đã lựa chọn đề tài: “Nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ Việt Nam”.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài được chia làm 3 phần:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về huy động vốn của Công ty Tài chính
Chương 2: Hiệu quả huy động vốn tại Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ Việt Nam
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn của Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ Việt Nam.
Do khả năng còn hạn chế và thời gian có hạn nên bài viết không thể tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô và của cơ quan thực tập. Em xin chân thành cảm ơn sự chỉ bảo tận tình của thầy giáo PGS.TS. Lê Đức Lữ cùng toàn thể cán bộ nhân viên nơi em thực tập đã giúp em có một số kinh nghiệm và bài học hoàn thành chuyên đề thực tập và cho công việc trong tương lai.
CHƯƠNG INHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HUY ĐỘNG VỐN CỦA CÔNG TY TÀI CHÍNH
1.1 Tổng quan về huy động vốn của Công ty Tài chính
1.1.1 Khái quát về Công ty Tài chính
1.1.1.1 Khái niệm, vai trò và phân loại Công ty Tài chính
● Khái niệm Công ty Tài chính
Các tổ chức trung gian tài chính là một bộ phận cấu thành của hệ thống tài chính quốc gia. Nó có vai trò đặc biệt trong việc huy động các nguồn lực tài chính và cung cấp các dịch vụ tài chính cho hoạt động sản xuất, thương mại, dịch vụ và đầu tư phát triển nền kinh tế của đất nước. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, các tổ chức trung gian tài chính cũng ngày càng phát triển phong phú và đa dạng.
Có nhiều cách phân loại các tổ chức trung gian tài chính khác nhau ở các nước, song nhìn chung thường được phân thành hai loại là các Ngân hàng và các Tổ chức Tài chính phi Ngân hàng.
Các Tổ chức Tài chính phi Ngân hàng bao gồm: các Công ty Tài chính và các Công ty cho thuê tài chính, Công ty Bảo hiểm, Công ty chứng khoán... Đó là các tổ chức kinh doanh trong lĩnh vực tài chính tiền tệ, được thực hiện một số hoạt động Ngân hàng như là huy động các món tiền gửi có kỳ hạn, đặc biệt là tiền tiết kiệm để đưa vào lĩnh vực đầu tư, cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn cho các cá nhân, tổ chức kinh tế… nhưng đặc biệt không được nhận tiền gửi không kỳ hạn và thực hiện dịch vụ thanh toán.
Tuy là loại hình trung gian tài chính xuất hiện sau vào đầu thế kỷ XX, nhưng các Công ty Tài chính đã khắc phục hạn chế về mặt luật pháp đối với hoạt động của các Ngân hàng (các Ngân hàng thương mại không được phép mở rộng các dịch vụ tài chính - ngân hàng sang các lĩnh vực khác) và bổ sung cho các khu vực thị trường mà các Ngân hàng Thương mại không đáp ứng được nhu cầu về vốn đầu tư ngày càng to lớn.
Có nhiều cách hiểu và diễn đạt khác nhau về Công ty Tài chính. Tuỳ theo chính sách phát triển loại hình các tổ chức tài chính để quy định, phạm vi, nội dung các nghiệp vụ của mỗi nước mà các Công ty Tài chính được phép thực hiện. Thị trường tài chính càng phát triển thì cấu trúc tổ chức và hoạt động của các Công ty Tài chính càng đa dạng và phong phú.
Nhìn chung, các Công ty Tài chính trên thế giới đều có đặc điểm :
- Công ty Tài chính là một tổ chức kinh doanh chuyên nghiệp trên thị trường tài chính, hạch toán độc lập và được đăng ký kinh doanh theo pháp luật quy định;
- Quy mô của các Công ty Tài chính thường là nhỏ và vừa, và không có nhiều chi nhánh như các Ngân hàng Thương mại;
- Khác với các Ngân hàng Thương mại được hoạt động ở cả 3 lĩnh vực là nhận tiền gửi, cho vay và thực hiện nghiệp vụ thanh toán, hoạt động của các Công ty Tài chính hẹp hơn và bị giới hạn ở một số khâu và mang tính chất chuyên nghiệp, đặc biệt là một số nghiệp vụ nhất định. Đặc biệt các Công ty Tài chính không nhận được nhận tiền gửi không kỳ hạn hoặc tiền gửi dưới 1 năm, và không được thực hiện nghiệp vụ thanh toán. Các Công ty Tài chính huy động vốn bằng các công cụ nợ như kỳ phiếu, trái phiếu và dùng số tiền đó cho vay hoặc đầu tư.
Theo Điều 2 Nghị định số 79/2002/NĐ-CP ngày 04/10/2002 của Chính phủ định nghĩa Công ty Tài chính như sau:
"Công ty Tài chính là loại hình tổ chức tín dụng phi Ngân hàng với chức năng sử dụng vốn tự có, vốn huy động và các nguồn vốn khác để cho vay, đầu tư cung ứng cho các doanh nghiệp tư vấn về tài chính tiền tệ và thực hiện một số dịch vụ khác theo quy định của pháp luật nhưng không được thực hiện dịch vụ thanh toán, không được nhận tiền gửi dưới 1 năm".
● Vai trò của Công ty Tài chính
Công ty Tài chính là một trung gian tài chính nên nó mang đầy đủ vai trò của một trung gian tài chính trong nền kinh tế với nhiệm vụ thu hút, tích tụ và tập trung các nguồn vốn nhằm cho những người có nhu cầu sử dụng vốn vay. Các Công ty Tài chính đã đem lại lợi ích đầy đủ cho những người có vốn (người cho vay) và người cần vốn (người đi vay) và cho cả nền kinh tế. Với tính chất là một tổ chức tài chính chuyên môn hoá cao trong một số nghiệp vụ được quy định, các Công ty Tài chính có vai trò quan trọng như sau:
- Thứ nhất, Công ty Tài chính giúp khách hàng tiết kiệm được các chi phí về thông tin và giao dịch khi cung ứng và sử dụng các nguồn vốn. Đặc biệt là tạo ra các cơ hội đầu tư sinh lời cho các cá nhân sẽ không dễ gì làm lợi từ các món tiền của mình do thiếu những thông tin cần thiết trên thị trường tài chính. Hơn nữa, món tiền của họ lại nhỏ, chi phí giao dịch lại quá lớn, thủ tục đôi khi rườm rà khiến cho cá nhân gặp khó khăn khi đầu tư. Trong khi đó, Công ty Tài chính có đủ điều kiện cần thiết để phân tích, tổng hợp tình hình, do đó việc đầu tư sẽ dễ đem lại lợi nhuận hơn. Khi gửi tiền vào các Công ty Tài chính, nguồn lợi sẽ mang lại cho cả hai bên nhờ tính kinh tế do quy mô, nhờ sự phân tán rủi ro thông qua việc đa dạng hoá các hình thức đầu tư và nhờ việc giảm chi phí giao dịch trong tổng thể. Các Công ty Tài chính giúp khách hàng của mình tiết kiệm được chi phí thông tin và giao dịch khi cung ứng hoặc sử dụng các nguồn vốn bởi họ luôn có những chiến lược hợp lý, linh hoạt trong quan hệ với khách hàng, trong việc triển khai các nghiệp vụ đuợc phép làm... nên họ tạo ra đuợc tỷ suất lợi nhuận cao, đảm bảo đem lại những cơ hội đầu tư tốt cho khách hàng gửi tiền vào Công ty.
- Thứ hai, Công ty Tài chính là kênh có tính chất chuyên môn hoá trong việc thu hút và đầu tư các khoản vốn trung và dài hạn. Các Công ty Tài chính thường có khả năng cung cấp vốn cho các giao dịch dài hạn và có tính chất rủi ro hơn (đầu tư mạo hiểm). Nhờ đó, Công ty Tài chính đã góp phần làm phong phú thêm các dịch vụ tài chính, ngân hàng.
- Thứ ba, sự phát triển của Công ty Tài chính đã thúc đẩy cạnh tranh trong đầu tư trên thị trường tài chính. Thông qua việc đáp ứng các nhu cầu về vốn trung và dài hạn, hoạt động của các Công ty Tài chính đã và đang thúc đẩy sự phát triển của thị trường tài chính. Những năm gần đây, nhiều loại hình Công ty Tài chính đã ra đời làm chất lượng phúc vụ được cải thiện, giá vốn đầu tư ngày càng giảm, tạo thêm nhiều khả năng lựa chọn cho khách hàng. Vì vậy, Ngân hàng và Công ty Tài chính mỗi loại hình đều có thế mạnh riêng nhưng tất cả đều góp phần tăng cường hiệu quả kinh tế - xã hội.
- Thứ tư, hoạt động của các Công ty Tài chính cũng rất phù hợp với các hoạt động giao dịch vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, do đó rất phù hợp với các nước đang phát triển. Do vậy, ngoài các Ngân hàng thì các Công ty Tài chính với sự linh hoạt trong hoạt động cũng đã tập trung được một lượng vốn lớn từ nguồn tiết kiệm của dân cư và các tổ chức kinh tế trên thị trường tài chính. Các Công ty Tài chính có thể phát hành những giấy tờ có giá với lãi suất cao, mệnh giá thấp... để thu hút được sự quan tâm của các nhà đầu tư lớn, nhỏ trên thị trường tài chính vào nó, điều này sẽ khiến nguồn vốn huy động được nhiều hơn, đồng thời mở rộng được giao dịch cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Ngoài ra đối với các Công ty Tài chính trực thuộc các tập đoàn kinh tế hay trực thuộc Tổng Công ty có điều kiện hiểu biết sâu về các Công ty thành viên, có nhiều điều kiện thuận lợi hơn trong việc quản lý rủi ro tài chính và huy động vốn cho tập đoàn trong việc cấp vốn cho các Công ty thành viên hay khách hàng của Công ty thành viên trong tập đoàn.
● Phân loại Công ty Tài chính
Căn cứ vào hoạt động nghiệp vụ
- Công ty Tài chính bán hàng là loại hình Công ty Tài chính chuyên cho người tiêu dùng vay để mua hàng hoá từ một nhà bán lẻ hoặc một nhà sản xuất khác. Các món vay thường được thực hiện nhanh chóng và tiện lợi tại nơi mua hàng của người tiêu dùng. Nhờ đó mà Công ty Tài chính bán hàng có thể cạnh tranh được với các Ngân hàng Thương mại trong cho vay tiêu dùng.
- Công ty Tài chính người tiêu dùng là loại hình Công ty Tài chính chuyên cho người tiêu dùng vay để mua những món hàng riêng như đồ đạc, dụng cụ gia đình hoặc giúp thanh toán các món nợ nhỏ. Công ty Tài chính người tiêu dùng thường là Công ty riêng biệt hoặc do các Ngân hàng sở hữu.
- Công ty Tài chính kinh doanh là loại hình Công ty Tài chính chuyên cung cấp các dạng tín dụng đặc biệt cho doanh nghiệp bằng cách mua các hoá đơn nợ của doanh nghiệp theo hình thức chiết khấu, việc cung cấp này gọi là bao thanh toán. Ngoài ra, các Công ty Tài chính kinh doanh cũng chuyên môn hoá trong việc cho thuê thiết bị, là những tài sản họ mua và sau đó cho các doanh nghiệp thuê lại trong một số năm.
Căn cứ vào quan hệ sở hữu
- Công ty Tài chính độc lập thực hiện nhiều hoạt động kinh doanh: nghiệp vụ tín dụng (cho vay, bảo lãnh cho khách hàng thương mại và sản xuất công nghiệp), các nghiệp vụ cho thuê, nghiệp vụ bao thanh toán, kinh doanh tiền tệ, tư vấn tài chính.
- Công ty Tài chính trong các tập đoàn kinh doanh tham gia chủ yếu các hoạt động như tìm kiếm các nguồn đầu tư để cung ứng cho các thành viên trong tập đoàn; quản lý và đầu tư các nguồn chưa sử dụng trong tập đoàn; quản lý các nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi; điều hoà vốn giữa các thành viên; làm đầu mối và tư vấn cho tập đoàn, các Công ty thành viên trong quan hệ với các Ngân hàng; quản lý rủi ro tài chính trong tập đoàn; các dịch vụ tài chính khác. Ngoài ra còn cung cấp dịch vụ tư vấn tài chính cho các khách hàng bên ngoài tập đoàn.
Công ty Tài chính trong tập đoàn kinh doanh là một loại hình Công ty Tài chính rất phổ biến hiện nay. Sự cần thiết của loại hình Công ty Tài chính này xuất phát từ những đặc trưng của tập đoàn kinh doanh:
- Thứ nhất, các tập đoàn kinh doanh là những chủ thể kinh tế kinh doanh quy mô lớn, lĩnh vực hoạt động đa dạng, do đó nhu cầu về vốn rất lớn và thường xuyên.
- Thứ hai, các tập đoàn thường có nhiều bộ phận, chi nhánh hoạt động trên nhiều lĩnh vực, do vậy tại một thời điểm nào đó trong nội bộ tập đoàn có nhiều bộ phận tiền nhàn rỗi, trong khi bộ phận khác đang cần vốn để đáp ứng nhu cầu đầu tư. Từ đó, xuất hiện nhu cầu về việc điều hoà vốn giữa các bộ phận trong tập đoàn.
Như vậy, tập đoàn kinh doanh cần có một trung gian tài chính làm kênh dẫn vốn từ những chủ thể có vốn trong nền kinh tế tới tập đoàn kinh doanh, đáp ứng nhu cầu về vốn của tập đoàn một cách hiệu quả nhất, đồng thời là trung gian điều hoà vốn giữa các bộ phận trong tập đoàn. Là một thành viên trong tập đoàn nên Công ty Tài chính có nhiều lợi thế nhờ hiểu rõ được đặc tính của tập đoàn, các mối quan hệ trong nội bộ tập đoàn cũng như hiểu rõ thuận lợi, khó khăn của ngành; có khả năng tiếp cận nguồn thông tin với chi phí thấp để nắm bắt được hoạt động sản xuất của các thành viên; nhờ đó rút ngắn được thời gian và chi phí thẩm định so với các tổ chức tín dụng khác. Vì vậy, Công ty Tài chính là hình thức tổ chức phù hợp và giữ vai trò rất quan trọng đối với tập đoàn kinh doanh.
Trong quá trình hoạt động, các Công ty Tài chính trong các tập đoàn phát triển theo hai xu hướng:
- Thứ nhất, phát triển thành một tổ hợp các Công ty Tài chính bao gồm Công ty mẹ và các Công ty con phần lớn mang họ Công ty mẹ. Công ty mẹ chi phối Công ty con về tài chính và chiến lược thông qua quyền biểu quyết do sở hữu một phần khống chế trong tổng số cổ phiếu đang lưu hành của Công ty con.
- Thứ hai, là hình thành các Công ty Tài chính độc lập trực thuộc tập đoàn, có chức năng giống nhau nhưng kinh doanh trên các khu vực địa lý khác nhau, hoặc có chức năng kinh doanh khác nhau nhưng hoạt động trên cùng một địa bàn.
Trên thế giới, hầu hết các tập đoàn kinh doanh ở mọi quốc gia đa ngành nghề chuyên doanh như General Motor (Mỹ), Siemens (Đức), Hitachi (Nhật Bản). SamSung (Hàn Quốc)...đều sở hữu các Công ty Tài chính. Mô hình Công ty Tài chính trong các tập đoàn kinh doanh lớn trên thế giới đã ra đời từ rất lâu và gắn liền với việc ra đời và mở rộng của các tập đoàn mẹ. General Motor Acceptant là thành viên của Tập đoàn General Motor được thành lập vào năm 1919, Hitachi Capital là Công ty Tài chính của Tập đoàn Hitachi được thành lập vào 1957. Các Công ty Tài chính của các tập đoàn kinh doanh trên thế giới ngày càng chiếm vai trò quan trọng đối với tập đoàn không chỉ vì đem lại lợi nhuận ngày càng lớn mà còn đóng góp cho sự phát triển bền vững của tập đoàn.
1.1.1.2 Hoạt động cơ bản của Công ty Tài chính
Công ty Tài chính thường có hai hoạt động chính là huy động và cho vay, ngoài ra còn có một số hoạt động kinh doanh khác. Do hoạt động của Công ty Tài chính bị bó hẹp và giới hạn ở một số nghiệp vụ nhất định mang tính chuyên môn nên không những loại hình cho vay của Công ty Tài chính đã luôn có sự thay đổi mà cách thức huy động vốn để cho vay cũng đã chuyển hướng. Các Công ty Tài chính không được nhận tiền gửi có kỳ hạn dưới một năm, đồng thời không được thực hiện nghiệp vụ thanh toán. Hoạt động huy động vốn của Công ty Tài chính chủ yếu thực hiện thông qua việc huy động tiền gửi có kỳ hạn và phát hành các chứng khoán nợ hay vay của các Ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác. Vì thế nên lượng vốn mà các Công ty Tài chính huy động được chủ yếu phụ thuộc vào các định chế tài chính khác. Vốn huy động được sử dụng để cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn đối với các đối tượng sản xuất hoặc tiêu dùng, thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán hoặc thuê mua.
Như vậy, hoạt động cơ bản của một Công ty Tài chính bao gồm:
● Hoạt động huy động vốn
- Công ty Tài chính được nhận tiền gửi có kỳ hạn của các cá nhân và các tổ chức kinh tế;
- Phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi và các giấy tờ có giá khác để huy động vốn của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước;
- Vay các tổ chức tài chính trong và ngoài nước như các Ngân hàng Thương mại, các trung gian tài chính khác nhưng không được phép vay Ngân hàng Nhà nước như các Ngân hàng Thương mại khác;
- Tiếp nhận vốn uỷ thác của Chính phủ, của tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước, bao gồm cả vốn uỷ thác của tập đoàn nếu Công ty Tài chính đó thuộc tập đoàn;
- Ngoài ra, Công ty Tài chính thuộc tập đoàn có thể huy động vốn từ tập đoàn. Các tập đoàn có thể cho vay bằng chính vốn tự có của tập đoàn hoặc dựa vào uy tín và lợi thế của mình, các tập đoàn đứng ra phát hành trái phiếu để huy động vốn rồi chuyển cho các Công ty Tài chính vay.
● Hoạt động sử dụng vốn
- Cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn đối với các cá nhân và tổ chức kinh tế;
- Cho vay theo uỷ thác của Chính phủ và các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước;
- Đầu tư chứng khoán, bao thanh toán;tài trợ và đồng tài trợ các dự án;
- Đầu tư vào các dự án phát triển, tái thiết các doanh nghiệp, ngành kinh tế kỹ thuật, các công trình tạo ra sản phẩm chất lượng cao, giá trị lớn và mang lợi ích quốc gia, quốc tế và các công trình bảo vệ, duy trì và phát triển môi trường sinh thái quốc gia và khu vực.
● Cung cấp các dịch vụ ngân hàng
Công ty Tài chính thực hiện tất cả các loại dịch vụ ngân hàng trừ việc phát hành hoặc cho khách hàng sử dụng các phương tiện thanh toán như tiền, thẻ tín dụng, ngân phiếu và thanh toán vãng lai, thanh toán bù trừ liên ngân hàng.
1.1.2 Huy động vốn của Công ty Tài chính
1.1.2.1 Sự cần thiết của việc huy động vốn đối với các Công ty Tài chính
Công ty Tài chính là một trung gian tài chính, là kênh dẫn vốn quan trọng cho nền kinh tế, có nhiệm vụ dẫn vốn từ nơi thừa vốn đến nơi thiếu vốn. Nguồn vốn của Công ty đóng vai trò quan trọng không chỉ trong hoạt động kinh doanh của Công ty nói riêng mà còn trong quá trình phát triển của nền kinh tế nói chung.
- Vốn là nền tảng để Công ty Tài chính thực hiện hoạt động kinh doanh
Vốn là điều kiện tiên quyết để các doanh nghiệp duy trì và phát triển sản xuất kinh doanh, đồng thời là cơ sở để phân phối và đánh giá hiệu quả của các hoạt động kinh tế về mặt pháp lý, mỗi doanh nghiệp khi thành lập phải có một lượng vốn nhất định lớn hơn mức vốn pháp định do Nhà nước quy định. Điều đó cho thấy vốn đảm bảo sự hình thành và tồn tại của doanh nghiệp trước pháp luật.
Đối với Công ty Tài chính, vốn còn là cơ sở nền tảng để điều hành tổ chức mọi hoạt động kinh doanh. Thật vậy, với đặc trưng của Công ty Tài chính là tổ chức kinh doanh loại hàng hoá đặc biệt trên thị trường tiền tệ và thị trường vốn thì vốn không chỉ là phương tiện kinh doanh mà nó còn là đối tượng kinh doanh chính của Công ty Tài chính, trực tiếp quyết định tới quy mô hoạt động của Công ty Tài chính. Như vậy, các Công ty Tài chính duy trì được lượng vốn lớn sẽ có nhiều thế mạnh trong kinh doanh, ngược lại những Công ty Tài chính có ít vốn đồng nghĩa với việc gặp khó khăn khi tiến hành kinh doanh.
- Vốn quyết định quy mô hoạt động của Công ty Tài chính
Những Công ty có quy mô lớn thường có những khoản mục đầu tư hoặc cho vay đa dạng hơn rất nhiều so với những Công ty có quy mô vốn nhỏ, đồng thời phạm vi và khối lượng cho vay của các Công ty Tài chính này cũng lơn hơn. Hơn nữa, do lượng vốn hạn hẹp nên các Công ty Tài chính nhỏ sẽ không phản ứng nhanh nhạy trước những biến động về lãi suất thị trường, từ đó tác động đến khả năng huy động vốn từ các tầng lớp dân cư và thành phần kinh tế trong xã hội. Vì vậy, khi lượng vốn huy động được dồi dào thì chắc chắn Công ty Tài chính sẽ mở rộng và đáp ứng đuợc nhu cầu vay vốn, có điều kiện để mở rộng thị trường tín dụng, tăng khả năng thanh toán và dịch vụ Công ty Tài chính.
- Vốn đảm bảo khả năng thanh toán và uy tín của Công ty Tài chính
Trong hoạt động của Công ty Tài chính, uy tín có thể nói là yếu tố quan trọng, quyết định trực tiếp đến sự tồn tại của Công ty Tài chính. Uy tín của Công ty Tài chính trong kinh doanh được thể hiện trước hết ở khả năng sẵn sàng thanh toán chi trả cho khách hàng. Khả năng thanh toán chi trả của Công ty Tài chính càng cao thì uy tín cũng như vốn khả dụng của Công ty Tài chính càng lớn. Nói cách khác, khả năng thanh toán của Công ty Tài chính tỷ lệ thuận với lượng vốn của Công ty Tài chính nói chung và lượng vốn khả dụng nói riêng.
Như vậy, với khả năng cung ứng vốn lớn, các Công ty Tài chính có thể tiến hành hoạt động kinh doanh với quy mô ngày càng mở rộng, cạnh tranh có hiệu quả nhưng đồng thời lại giữ được chữ tín và nâng cao danh tiếng của Công ty Tài chính.
- Vốn quyết định khả năng cạnh tranh Công ty Tài chính
Những Công ty Tài chính có quy mô lớn, trình độ nghiệp vụ của đội ngũ nhân viên cao cũng như trang thiết bị phượng tiện kỹ thuật hiện đại là tiền đề quan trọng cho việc huy động vốn. Đồng thời, quy mô vốn lớn lại là điều kiện thuận lợi đối với Công ty Tài chính trong việc mở rộng quan hệ tín dụng với các Ngân hàng và các tổ chức kinh tế xã hội trong nền kinh tế. Khi đó, Công ty Tài chính sẽ thu hút được ngày càng nhiều khách hàng đến với mình, kết quả là doanh số hoạt động của Công ty sẽ tăng lên nhanh chóng và Công ty Tài chính sẽ có nhiều thuận lợi hơn trong kinh doanh. Mặt khác, vốn lớn sẽ giúp cho Công ty Tài chính có đủ khả năng tài chính để kinh doanh đa dạng trên thị trường, mở rộng các lĩnh vực kinh doanh như: kinh doanh chứng khoán, kinh doanh dịch vụ thuê mua... chứ không chỉ dừng lại ở dịch vụ cho vay đơn thuần. Thêm vào đó, chính các hình thức kinh doanh đa dạng đã góp phần phân tán rủi ro, tạo thêm vốn cũng như tăng sức cạnh tranh cho Công ty Tài chính trên thị trường.
Do đó, có thể thấy vốn là yếu tố quan trọng đối với doanh nghiệp nói chung và các Công ty Tài chính nói riêng, nếu sử dụng hiệu quả và hợp lý thì Công ty sẽ tồn tại và ngày càng phát triển.
1.1.2.2 Các hình thức huy động vốn
Vốn của Công ty Tài chính bao gồm vốn chủ sở hữu và nợ, do đó huy động vốn của Công ty Tài chính bao gồm huy động vốn chủ sở hữu và huy động nợ.
● Huy động vốn chủ sở hữu
Để bắt đầu hoạt động, Công ty Tài chính phải có một lượng vốn nhất định. Đây là loại vốn Công ty Tài chính có thể sử dụng lâu dài, được dùng phần lớn cho việc mua sắm trang thiết bị, nhà cửa cho Công ty. Hình thức huy động này rất đa dạng tuỳ theo tính chất sở hữu và năng lực tài chính của Công ty.
Huy động vốn góp ban đầu
Tuỳ theo tính chất của mỗi Công ty Tài chính mà nguồn gốc hình thành vốn ban đầu khác nhau. Nếu là Công ty Tài chính Nhà nước, vốn ban đầu do Nhà nước cấp (vốn của Nhà nước). Nếu là Công ty Tài chính Cổ phần, vốn sẽ do các cổ đông đóng góp thông qua việc mua cổ phần. Đối với Công ty Tài chính liên doanh vốn do các bên liên doanh góp. Công ty Tài chính trực thuộc các tổ chức tín dụng thì vốn góp ban đầu là vốn góp của tổ chức tín dụng thành lập ra Công ty Tài chính; tỷ lệ và quy mô vốn góp của các bên tham gia Công ty phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như: quy định của pháp luật, cơ cấu liên doanh...
Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động
Trong quá trình hoạt động, Công ty Tài chính có thể tăng vốn chủ sở hữu theo nhiều phương thức khác nhau tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể, bao gồm:
- Nguồn bổ sung từ phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm... để mở rộng quy mô hoạt động, hoặc để đổi mới trang thiết bị hoặc để đáp ứng yêu cầu gia tăng vốn của chủ sở hữu do Ngân hàng Nhà nước quy định. Đặc điểm của hình thức huy động này là không thường xuyên, tuy nhiên nó giúp Công ty Tài chính có được lượng vốn sở hữu lớn vào lúc cần thiết.
- Nguồn từ lợi nhuận không chia: trong điều kiện thu nhập sau thuế lớn hơn không, Công ty Tài chính có xu hướng gia tăng vốn chủ sở hữu bằng cách chuyển một phần thu nhập sau thuế thành vốn chủ sở hữu, tỷ lệ tích luỹ tuỳ thuộc vào cân nhắc của chính Công ty Tài chính về tích luỹ và tiêu dùng.
Các quỹ
Công ty Tài chính có nhiều quỹ khác nhau, mỗi quỹ có mục đích sử dụng khác nhau. Quỹ dự phòng tổn thất được trích lập hàng năm và được tích luỹ lại nhằm bù đắp những tổn thất xẩy ra. Quỹ bảo toàn vốn nhằm bù đắp hao mòn của vốn đối với tác động của lạm phát. Quỹ thặng dư là phần đánh giá lại tài sản của Công ty Tài chính và chênh lệch giữa thị giá và mệnh giá của cổ phiếu khi phát hành cổ phiếu mới. Tuỳ theo quy định cụ thể của từng nước, các Công ty Tài chính có thể có thêm quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng, quỹ giám đốc...
Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần
Các khoản vay trung và dài hạn của Công ty Tài chính mà có khả năng chuyển đổi thành vốn cổ phần có thể được coi là một bộ phận của vốn chủ sở hữu của Công ty Tài chính (vốn bổ sung) do nguồn này có một số đặc điểm sử dụng lâu dài, có thể đầu tư vào nhà cửa, đất đai và có thể không phải hoàn trả khi đến hạn.
● Huy động nợ
Công ty Tài chính có thể sử dụng các công cụ huy động nợ khác nhau nhưng nhìn chung vẫn tập trung chủ yếu vào các hình thức sau:
Nhận tiền gửi và làm đại lý bảo hiểm
Các Công ty Tài chính được nhận tiền gửi của các tổ chức và các nhân trong nền kinh tế. Cùng với xu thế đa dạng hoá hoạt động, Công ty Tài chính còn thực hiện dịch vụ bảo hiểm. Dịch vụ bảo hiểm giúp Công ty Tài chính huy động được một lượng vốn rất lớn từ phí bảo hiểm và khoản phí này trong thời gian nhàn rỗi sẽ là nguồn vốn quan trọng đối với Công ty.
Vay trực tiếp các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước
Công ty Tài chính có thể vay vốn trực tiếp từ các cá nhân và tổ chức nếu có nhu cầu. Nguồn vốn này có thể là nguồn ngắn hạn, trung hoặc dài hạn. Việc vay mượn có thể diễn ra trong ngắn hạn để phục vụ nhu cầu thanh toán nhanh như vay trên thị trường liên Ngân hàng hoặc vay từ các trung gian tài chính khác để tài trợ cho các dự án. Các Công ty Tài chính trong tập đoàn chủ yếu vay trực tiếp từ Công ty mẹ và các thành viên trong tập đoàn với lãi suất ưu đãi.
Phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi và các loại giấy tờ có giá khác
Trái phiếu là tên chung của các giấy vay nợ trung và dài hạn, là một công cụ nợ mà người phát hành đảm bảo sẽ chi trả cho người thụ hưởng một khoản tiền nhất định sau một khoảng thời gian xác định. Có rất nhiều loại trái phiếu đang lưu hành trên thị trường tài chính mà Công ty Tài chính có thể phát hành như trái phiếu có lãi suất cố định, trái phiếu có lãi suất thay đổi, trái phiếu có thể thu hồi, trái phiếu công trình... Tuy nhiên sự hấp dẫn của các trái phiếu lại phụ thuộc vào các yếu tố sau:
- Lãi suất trái phiếu: Nhà đầu tư luôn muốn hưởng một mức lãi suất cao nhưng các nhà phát hành phải cân nhắc kỹ mức lãi suất có thể chấp nhận được.
- Kỳ hạn của trái phiếu: tuỳ từng thời kỳ phát triển của nền kinh tế và tâm lý của nhà đầu tư mà trái phiếu với kỳ hạn khác nhau được ưa thích khác nhau. Kỳ hạn trái phiếu càng dài thì rủi ro càng cao nhưng lãi suất để bù đắp rủi ro cũng càng cao.
- Uy tín của Công ty phát hành trái phiếu: Công ty có uy tín càng cao thì dễ dàng phát hành trái phiếu ra công chúng.
Tiếp nhận vốn uỷ thác đầu tư của chính phủ và các tổ chức cá nhân
Uỷ thác là việc Công ty Tài chính nhận quản lý một lượng vốn cho một đơn vị kinh tế khác. Công ty Tài chính có quyền sử dụng nhưng không có quyền sở hữu lượng vốn này. Lợi nhuận thu từ việc sử dụng, đầu tư trên lượng vốn đó sẽ được trích một phần gọi là phí uỷ thác cho Công ty. Có nhiều hình thức uỷ thác như uỷ thác đầu tư, uỷ thác quản lý tài sản, uỷ thác sử dụng vốn. Hiện nay, nguồn uỷ thác của Công ty Tài chính chủ yếu là uỷ thác đầu tư.
Công ty Tài chính trong tập đoàn ở vị trí người được uỷ thác lẫn người uỷ thác. Các tổ chức uỷ thác cho Công ty Tài chính chủ yếu là Công ty mẹ, các đơn vị thành viên và các trung gian tài chính khác. Công ty mẹ thường thông qua việc uỷ thác vốn cho Công ty Tài chính để hỗ trợ vốn đầu tư, phát triển cho các thành viên. Mục đích thành lập của Công ty Tài chính chủ yếu là huy động vốn, hỗ trợ các đơn vị trong Tổng Công ty và đơn vị cùng ngành kinh tế kỹ thuật nên Công ty Tài chính có lợi thế về việc nắm bắt thông tin, nghiệp vụ chuyên môn trong ngành, dẫn đến việc thẩm định các dự án tín dụng chính xác hơn, mối quan hệ với khách hàng chặt chẽ hơn. Do đó, các trung gian tài chính khác muốn đầu tư vào một dự án trong ngành sẽ uỷ thác cho Công ty Tài chính nhằm hạn chế rủi ro.
1.2 Hiệu quả huy động vốn của Công ty Tài chính
1.2.1 Quan điểm về hiệu quả huy động vốn
Hoạt động của Công ty Tài chính rất nhạy cảm đối với nền kinh tế. Bất kỳ một biến động kinh tế, chính trị, xã hội nào cũng ngay lập tức gây ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động huy động vốn nói riêng của Công ty Tài chính và đòi hỏi Công ty phải có những điều chỉnh về mặt cơ cấu. Do vậy, hiệu quả của việc huy động vốn không chỉ dừng lại ở việc đánh giá chính xác đúng đắn hoạt động huy động vốn của Công ty Tài chính mà còn là khả năng thích nghi và khẳng định sự phát triển của mình trên thị trường.
Hoạt động huy động vốn của Công ty Tài chính được thực hiện để đáp ứng cho hoạt động của Công ty Tài chính nói chung và cho nhu cầu đầu tư vốn của Công ty Tài chính nói riêng. Vì vậy, hiệu quả huy động vốn của Công ty Tài chính được thể hiện ở khả năng đáp ứng cao nhất nhu cầu cho hoạt động của Công ty Tài chính. Khả năng đó được thể hiện thông qua sự đáp ứng kịp thời, đầy đủ nhu cầu đầu tư vốn. Đây chính là yếu tố đầu tiên quan trọng nhất để đánh giá hiệu quả huy động vốn của Công ty Tài chính. Bên cạnh khả năng đáp ứng kịp thời nhu cầu đầu tư vốn thì hiệu quả huy động vốn còn được thể hiện thông qua chất lượng của các nguồn vốn huy động. Chất lượng của các nguồn vốn huy động của Công ty Tài chính được thể hiện ở cơ cấu vốn hợp lý, an toàn và chi phí vốn đảm bảo khả năng sinh lời của Công ty. Ngoài ra, hiệu quả huy động vốn của Công ty Tài chính còn thể hiện ở sự ổn định của lượng vốn huy động được. Điều đó có ý nghĩa rất quan trọng, nó giúp cho hoạt động của Công ty Tài chính luôn được an toàn và đạt hiệu quả.
Như vậy, hiệu quả huy động vốn của Công ty Tài chính là khả năng đáp ứng nhu cầu đầu tư vốn của Công ty Tài chính với một cơ cấu hợp lý, an toàn, ổn định cùng với chi phí vốn phù hợp với khả năng sinh lời của Công ty.
Vậy, để đánh giá một cách chính xác hiệu quả hoạt động huy động vốn của Công ty Tài chính cần dựa trên các tiêu chí cơ bản sau:
- Khả năng đáp ứng nhu cầu về vốn
- Cơ cấu vốn hợp lý và an toàn
- Chi phí vốn hợp lý
- Sự ổn định của các hình thức huy động vốn.
1.2.2 Các tiêu chí đánh giá hiệu quả huy động vốn
1.2.2.1 Khả năng đáp ứng nhu cầu về vốn
Nhu cầu về vốn của doanh nghiệp có thể là nhu cầu ngắn hạn như nhu cầu thanh toán, hay nhu cầu dài hạn như đầu tư, cho vay vào các dự án dài hạn. Đây là một chỉ tiêu khó tính toán cụ thể nên được xác định dựa trên cơ sở so sánh nhu cầu vốn và tổng lượng vốn huy động được.
Nhu cầu về vốn của Công ty Tài chính có thể tính toán, dự đoán nhưng khó chính xác tuyệt đối do có những nhu cầu nảy sinh tức thời. Do đó, việc huy động không chỉ thể hiện ở việc đáp ứng nhu cầu dự tính trước mà còn thể hiện ở khả năng đáp ứng linh hoạt các nhu cầu tức thời trong ngắn hạn.
Có các nhu cầu về vốn sau mà Công ty Tài chính cần đáp ứng:
- Nhu cầu về dự trữ, thanh toán: tuỳ vào từng giai đoạn mà các Công ty Tài chính cần tính toán mức ngân quỹ tối ưu nhằm đảm bảo khả năng thanh toán tức thời hoặc đảm bảo tỷ lệ dự trữ theo quy định của pháp luật.
- Nhu cầu cho hoạt động kinh doanh: Mọi Công ty Tài chính muốn thực hiện hoạt động kinh doanh của mình thì đều cần phải có vốn. Nhu cầu vay vốn của khách hàng, nhu cầu liên doanh, nhu cầu đầu tư... sẽ không thể đáp ứng được nếu như Công ty Tài chính không có đủ vốn. Đây chính là nhu cầu quan trọng nhất mà Công ty Tài chính cần phải đáp ứng.
- Các nhu cầu khác như nhu cầu mua sắm, nâng cấp tài sản cố định... Mọi hoạt động về mua sắm, sửa chữa, nâng cấp tài sản cố định hay mở rộng hoạt động kinh doanh của Công ty Tài chính đều dẫn đến nhu cầu về vốn.
Chỉ tiêu này được đánh giá thông qua việc so sánh nguồn vốn huy động được với các nhu cầu tín dụng, thanh toán, và các nhu cầu khác để thấy được nguồn vốn mà Công ty Tài chính huy động được có thể đáp ứng được bao nhiêu, và sẽ phải huy động thêm bao nhiêu để đáp ứng nhu cầu ấy.
Để đạt được mục tiêu này, Công ty Tài chính phải xây dựng được một kế hoạch huy động vốn hợp lý bao gồm các loại vốn ngắn hạn, trung và dài hạn đáp ứng tối đa nhu cầu sử dụng vốn, tránh tình trạng bất hợp lý giữa vốn huy động với nhu cầu sử dụng vốn. Bên cạnh đó, Công ty Tài chính cũng cần xem xét tỷ lệ dự trữ thanh toán và việc nắm giữ tài sản có tính lỏng cao để đáp ứng kịp thời nhu cầu nguồn vốn trong ngắn hạn.
1.2.2.2 Cơ cấu vốn hợp lý
Nói đến cơ cấu vốn tức là đề cập đến tỷ lệ giữa nợ và vốn chủ sở hữu mà một Công ty Tài chính đang sử dụng. Một cơ cấu vốn tối ưu cần đạt được cân bằng giữa rủi ro có thể xảy ra và lợi nhuận dự kiến đạt được. Do vậy, muốn đánh giá xem hoạt động huy động vốn là hiệu quả và hợp lý không, cần phải xem xét đến cơ cấu vốn của Công ty Tài chính đem lại từ việc huy động vốn. Một trong những mục tiêu quan trọng của việc huy động là nhằm hình thành lên cơ cấu vốn tối ưu cho Công ty trong từng thời điểm cụ thể. Giữa sự hợp lý của cơ cấu vốn và việc huy động vốn còn có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau: cơ cấu vốn sẽ góp phần quyết định đến hoạt động huy động vốn và ngược lại hoạt động huy động vốn sẽ hình thành nên cơ cấu vốn.
Ngày nay, các Công ty Tài chính không còn chịu hoạt động bó hẹp trong phạm vi một vùng nào đó mà luôn cố gắng mở rộng mạng lưới hoạt động kinh doanh của mình thông qua việc mở rộng chi nhánh, văn phòng đại diện trong và ngoài nước. Kết quả là mối quan hệ hợp tác kinh doanh giữa Công ty Tài chính và các tổ chức kinh tế khác ngày càng được tăng cường chặt chẽ hơn. Điều này giúp Công ty hoạt động hiệu quả hơn, nhưng mặt khác cũng sẽ nguy hiểm hơn nếu như một trong những đối tác kinh doanh của Công ty hoạt động yếu kém thậm chí là phá sản. Vì vậy, rủi ro trong hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động huy động vốn của Công ty Tài chính nói riêng cũng tăng lên theo mức độ phát triển về mặt tổ chức và quy mô hoạt động kinh doanh. Như vậy việc đảm bảo một cơ cấu vốn hợp lý, tối ưu không chỉ giúp đảm bảo an toàn cho chính bản thân Công ty Tài chính mà còn củng cố vững chắc chung cho toàn hệ thống tài chính quốc gia.
Để xây dựng một cơ cấu vốn hợp lý, nói cách khác là đảm bảo an toàn nguồn vốn, trước hết Công ty Tài chính cần có một chính sách quản lý điều hành đúng đắn, phù hợp, thông qua việc chấp hành đầy đủ các tiêu chí về an toàn vốn như: Hệ số an toàn của vốn tự có, hệ số giữa vốn chủ sở hữu và các vốn dài hạn, hệ số thanh toán...
Hệ số giữa vốn chủ sở hữu và vốn dài hạn = VCSH / Vốn dài hạn
Hệ số an toàn của vốn tự có = Vốn tự có / Tổng số vốn huy động
Theo quy định của pháp luật ở Việt Nam hiện nay, hệ số an toàn của vốn tự có của các Công ty Tài chính phải đạt mức tối thiểu là 5%.
Việc có áp dụng triệt để những chỉ tiêu trên hay không còn tuỳ thuộc vào quy định của Ngân hàng Nhà nước, chiến lược kinh doanh và đặc điểm riêng của từng Công ty Tài chính trong điều kiện cụ thể nhất định.
1.2.2.3 Chi phí vốn hợp lý
Chi phí vốn nói chung được hiểu là chi phí cơ hội của việc sử dụng vốn, phân chia theo nợ và vốn chủ sở hữu thì bao gồm có chi phí của nợ và chi phí của vốn chủ sở hữu.
Chi phí của vốn chủ sở hữu coi bằng lợi nhuận kỳ vọng của chủ sở hữu trên khoản đầu tư. Có ba cách để xác định mức lợi nhuận kỳ vọng này là phương pháp CAPM, phương pháp luồng tiền chiết khấu và phương pháp lấy lãi suất trái phiếu cộng phần bù rủi ro. Chi phí vốn chủ có thể xác định dễ dàng hơn nếu như có một thị trường tài chính phát triển với đầy đủ thông tin và công cụ. Còn đối với những nước có thị trường tài chính chưa phát triển như Việt Nam thì chi phí vốn chủ chưa mấy được quan tâm cũng như tìm hiểu cặn kẽ. Thông thường, ta dùng chỉ tiêu chi phí huy động vốn bình quân để đánh giá chỉ tiêu này:
CPHĐVBQ = (1 - t) * Chi phí nợ * Tỷ trọng nợ + Chi phí VCSH * Tỷ trọng VCSH
Trong đó: t là thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp
Như vậy, chỉ tiêu chi phí vốn dùng để đánh giá hiệu quả của việc huy động vốn là phải có chi phí thấp và hợp lý. Việc xác định nguồn vốn có chi phí thấp và hợp lý hết sức quan trọng đối với hoạt động huy động vốn của Công ty Tài chính, chi phí vốn hợp lý phải đảm bảo hoạt động sử dụng vốn đem lại lợi nhuận đủ để bù đắp chi phí, đảm bảo hoạt động của Công ty, đồng thời đem lại lợi nhuận cao nhất cho Công ty.
Như vậy, chi phí vốn là hoạt động thường xuyên và quan trọng của mỗi Công ty Tài chính vì mỗi sự thay đổi về cơ cấu nguồn vốn hay lãi suất đều có thể làm thay đổi chi phí trả lãi, từ đó làm ảnh hưởng đến lợi nhuận sau thuế của Công ty Tài chính.
1.2.2.4 Sự ổn định của các hình thức huy động vốn
Một hình thức huy động vốn được đánh giá là tốt ngoài những yếu tố đáp ứng nhu cầu với chi phí thấp thì cần phải có sự ổn định, tức là không có sự thay đổi đột ngột trong thời gian sử dụng. Nếu vốn huy động được thay đổi đột ngột, khó dự đoán sẽ ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của Công ty. Ví dụ như nguồn tiền gửi thường xuyên thay đổi do khách hàng lớn rút tiền đột ngột sẽ dẫn tới làm áp lực thanh toán cho ngân quỹ, đồng thời ảnh hưởng tới hoạt động sử dụng vốn. Hay việc người góp vốn đòi rút vốn đột ngột sẽ làm suy giảm tiềm lực tài chính của Công ty. Hơn nữa, việc nguồn vốn thay đổi đột ngột sẽ làm tăng chi phí của Công ty trong việc tìm kiếm các nguồn vốn khác để bù đắp.
Thông thường các nguồn vốn huy động đều có thể tính trước được thời gian sử dụng như nguồn tiền gửi có kỳ hạn, nguồn phát hành có thời gian xác định, hay nguồn đi vay cũng có thời hạn vay. Bên cạnh đó, có những nguồn có thời gian gắn liền với thời gian hoạt động của Công ty như phát hành cổ phiếu, lợi nhuận giữ lại. Mỗi nguồn có đặc điểm riêng về sự ổn định và phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Bởi vậy, Công ty cần tính đến sự ổn định của các nguồn trên cơ sở phân tích nhiều mặt để có những lựa chọn cho phù hợp.
Vốn huy động của Công ty Tài chính phải có sự tăng trưởng ổn định về số lượng để thoả mãn nhu cầu tín dụng, cũng như các hoạt động kinh doanh khác ngày càng tăng của Công ty. Tuy nhiên, vốn huy động được phải luôn ổn định về mặt thời gian. Nếu Công ty Tài chính huy động được một lượng vốn lớn nhưng không ổn định, thường xuyên có những dòng tiền lớn bị rút ra thì lượng vốn dành cho đầu tư, cho vay sẽ không lớn, do đó hiệu quả của việc huy động vốn sẽ không cao, thường xuyên phải đối mặt với vấn đề thanh khoản. Kết quả là trong nhiều trường hợp Công ty Tài chính sẽ gặp phải rủi ro lớn là mất khách hàng. Ngược lại, nếu vốn huy động được ổn định, dù không nhiều nhưng Công ty vẫn có thể yên tâm sử dụng vào các hoạt động chắc chắn, lâu dài và thu được lợi nhuận cao.
Chỉ tiêu này được đánh giá thông qua: mức độ tăng giảm nguồn vốn huy động và số lượng vốn huy động có kỳ hạn. Nếu nguồn vốn tăng lên đều qua các năm, có tốc độ gia tăng của từng thành phần vốn huy động ổn định, đều đặn thì nguồn vốn huy động đó được coi là nguồn vốn tăng trưởng ổn định.
1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả huy động vốn của Công ty Tài chính
1.3.1 Nhân tố chủ quan
1.3.1.1 Chính sách huy động vốn của Công ty
Chính sách huy động vốn của Công ty Tài chính sẽ ảnh hưởng quyết định đến hiệu quả huy động vốn của Công ty, nó quyết định số lượng vốn và cơ cấu vốn huy động. Số lượng vốn phải đáp ứng nhu cầu cho vay, đầu tư của Công ty còn cơ cấu vốn phải đạt mục tiêu cân bằng giữa rủi ro và lợi nhuận đạt được. Như vậy, nếu Công ty có chính sách huy động vốn phù hợp về số lượng và cơ cấu vốn thì hiệu quả huy động vốn sẽ đạt được. Do chính sách huy động vốn tác động đến hiệu quả huy động vốn của Công ty nên nhân tố ảnh hưởng tới chính sách huy động vốn cũng ảnh hưởng đến hiệu quả của việc huy động vốn, đó là các nhân tố:
- Thứ nhất, là nhu cầu vốn của Công ty trong từng thời kỳ, không chỉ phục vụ cho hoạt động đầu tư, tín dụng mà có thể còn cho nhu cầu điều hoà vốn nội bộ trong Công ty. Với thời kỳ thanh toán và đầu tư nhiều, Công ty Tài chính sẽ cần huy động một lượng vốn lớn, do đó Công ty cần có chính sách phù hợp để huy động đủ số vốn cần để vừa đảm bảo khả năng thanh khoản lẫn khả năng sinh lời.
- Thứ hai, quan điểm của các nhà quản lý Công ty có sự ưa thích nợ hay vốn chủ trong việc huy động vốn, quan điểm này dẫn đến những quyết định trong chiến lược huy động vốn của doanh nghiệp. Điều đó cũng gây ảnh hưởng đến hiệu quả của việc huy động vốn.
- Thứ ba, rủi ro kinh doanh: Rủi ro kinh doanh càng lớn thì tỷ lệ sử dụng nợ càng thấp, doanh nghiệp sẽ ít huy động nợ bằng các công cụ nợ.
- Thứ tư, chính sách thuế và các chính sách tín dụng khác. Chính sách thuế sẽ ảnh hưởng đến chi phí huy động vốn bình quân thông qua tiết kiệm nhờ thuế. Nếu thuế cao thì chi phí vốn bình quân thấp, khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng nợ. Từ đó, nghiệp vụ huy động vốn sẽ thay đổi theo hướng huy động nguồn như đi vay, phát hành trái phiếu... Còn chính sách tín dụng khác cũng tác động trực tiếp lên từng loại hình huy động vốn. Như hình thức huy động vốn uỷ thác đầu tư: trước đây, Chính phủ có quy định tổ chức nhận uỷ thác phải nhận trách nhiệm khi dự án xảy ra rủi ro, còn hiện nay, tổ chức uỷ thác lại phải chịu trách nhiệm khi dự án xảy ra rủi ro. Chính vì vậy, lượng vốn uỷ thác đầu tư sẽ được giảm dần. Tổ chức tín dụng có vốn để uỷ thác tự đầu tư thay vì uỷ thác cho một tổ chức tín dụng khác.
1.3.1.2 Hiệu quả cho vay và đầu tư của Công ty
Hiệu quả cho vay, đầu tư có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của việc huy động vốn. Nếu hoạt động cho vay, đầu tư của Công ty được thực hiện tốt, đồng nghĩa với việc vốn huy động sẽ được sử dụng có hiệu quả. Việc sử dụng vốn huy động có hiệu quả sẽ tạo ra nhu cầu về việc sử dụng vốn, từ đó tạo động lực thúc đẩy việc nâng cao hiệu quả huy động vốn. Ngược lại, nếu hoạt động cho vay, đầu tư của Công ty hoạt động không có hiệu quả sẽ dẫn đến nguồn vốn huy động không được sử dụng có hiệu quả. Như vậy sẽ tác động đến hoạt động huy động vốn, làm giảm hiệu quả huy động vốn của Công ty.
Vậy, hiệu quả của hoạt động cho vay và đầu tư sẽ tác động trực tiếp tới hiệu quả huy động vốn của Công ty. Để hoạt động huy động vốn đạt được hiệu quả thì việc sử dụng vốn cũng cần phải có hiệu quả nhất định.
1.3.1.3 Tình hình tài chính của Công ty
Tình hình tài chính của Công ty cũng có tác động trực tiếp đến hiệu quả của việc huy động vốn. Tình hình tài chính của Công ty tốt hay yếu kém đều ảnh hưởng đến hiệu quả huy động vốn. Các nhà cung ứng vốn luôn muốn tăng cường tài trợ cho những doanh nghiệp với tình hình tài chính lành mạnh. Vì vậy, nếu tình hình tài chính của Công ty yếu kém, khả năng thanh toán của Công ty thấp thì Công ty khó có thể huy động thêm vốn từ các tổ chức cá nhân trong nền kinh tế. Ngược lại, nếu Công ty đang có tình hình tài chính tốt sẽ có điều kiện thuận lợi để huy động thêm vốn. Từ đó, nâng cao thêm được hiệu quả của việc huy động vốn.
Tình hình tài chính chúng ta đề cập đến ở đây còn bao gồm cả nhu cầu về vốn của Công ty. Việc đánh giá tình hình tài chính của Công ty được thực hiện thông qua việc xác định các tỷ số: tỷ số doanh lợi tài sản (ROA), doanh lợi của vốn chủ sở (ROE). Cách xác định ROE, ROA như sau:
ROA = Lợi nhuận sau thuế / Tổng Tài sản
ROE = Lợi nhuận sau thuế / Vốn chủ sở hữu
Tình hình tài chính khả quan, các tỷ số này cao đủ bù chi phí nợ sẽ dẫn đến xu hướng sử dụng nợ nhiều hơn của Công ty, như vậy hiệu quả vốn sẽ được tăng cường.
1.3.1.4 Trình độ cán bộ và tổ chức quản lý của Công ty
Nhân tố này tuy không ảnh hưởng trực tiếp tới công tác huy động vốn nhưng lại có vai trò rất quan trọng, nó thường biểu hiện thông qua trình độ, thái độ phục vụ của cán bộ nhân viên trong Công ty. Một Công ty Tài chính có hệ thống cán bộ nhân viên có thái độ phục vụ vui vẻ, lịch sự, chu đáo đối với khách hàng đến giao dịch, tác phong làm việc nhanh nhẹn, chuyên môn nghiệp vụ vững vàng sẽ gây được ấn tượng tốt với khách hàng. Đây là một điểm mạnh của mỗi Công ty Tài chính giúp Công ty đó cạnh tranh được với các tổ chức tín dụng khác.
Lãnh đạo Công ty giỏi sẽ đưa ra những quyết định đúng đắn, phù hợp với tình hình chung của ngành cũng như đất nước. Nhân viên có trình độ cao có khả năng đưa ra nhiều sáng kiến trong công tác huy động vốn cũng như các hoạt động khác của Công ty Tài chính. Tất cả những biểu hiện trên sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả huy động vốn của Công ty Tài chính trên thị trường tài chính.
1.3.1.5 Uy tín của Công ty
Một Công ty có uy tín lớn trên thị trường sẽ thu hút được nhiều khách hàng trong việc nhận tiền gửi hay dễ dàng phát hành các công cụ nợ ra thị trường. Ngược lại, Công ty chưa có nhiều tên tuổi sẽ rất khó khăn trong việc thu hút vốn từ khách hàng. Bởi vậy, việc tạo danh tiếng cho Công ty là hết sức quan trọng.
Uy tín của Công ty được thể hiện ở rất nhiều mặt:
- Khả năng cung cấp và đáp ứng các dịch vụ tài chính: Một Công ty Tài chính luôn có đa dạng các sản phẩm, chính sách khách hàng, chính sách lãi suất theo đúng quy định chung của Ngân hàng Nhà nước, mà vẫn phù hợp với biến động chung của ngành, của nền kinh tế sẽ có lợi thế trong việc thu hút khách hàng. Tâm lý của khách hàng luôn thích những Công ty Tài chính hứa hẹn đem lại một khoản lợi lớn nhất từ khoản tiền đầu tư của mình, đồng thời được phục vụ một cách chu đáo, tận tình nhất. Ngoài ra, các dịch vụ do Công ty cung ứng cũng tác động đến các tổ chức kinh tế có nhu cầu gửi tiền vào Công ty, là đối tượng trung tâm trong công tác huy động vốn. Hệ thống dịch vụ tốt và đa dạng sẽ làm hài lòng các tổ chức và cá nhân gửi tiền.
- Cơ sở vật chất và công nghệ: Đây là điều kiện cần thiết và quan trọng để đánh giá tình hình hoạt động và uy tín của Công ty Tài chính. Khi một cá nhân hay tổ chức nào đó có nhu cầu gửi tiền, hay hợp tác làm ăn với Công ty thì trước hết họ sẽ xem qua cơ sở vật chất của Công ty như trụ sở có địa điểm dễ nhìn thấy, được xây dựng ưa nhìn, có trang thiết bị hiện đại, công nghệ tiên tiến, tiện lợi, tạo được không khí lịch sự... điều đó sẽ tạo ra được cái nhìn thiện cảm của đối tác ngay từ lần đầu tiên đến Công ty.
1.3.2 Nhân tố khách quan
1.3.2.1 Môi trường pháp lý
Môi trường pháp lý ở đây được hiểu là những quy định của pháp luật và Ngân hàng Nhà nước đối với hoạt động huy động vốn của Công ty Tài chính. Vì Công ty Tài chính là một trung gian tài chính nên chịu sự điều tiết của luật các tổ chức tín dụng và sự quản lý chặt chẽ của Ngân hàng Nhà nước. Công ty Tài chính phải tuân thủ theo những quy định của pháp luật về hoạt động huy động vốn. Như vậy, những quy định của pháp luật ảnh hưởng đến hiệu quả của hoạt động huy động vốn của Công ty Tài chính, cụ thể là đến lượng vốn huy động và cơ cấu vốn huy động. Đây là nhân tố cần phải được quan tâm đến đầu tiên trong hoạt động huy động vốn.
Một môi trường pháp lý đồng bộ, hoàn thiện sẽ là điều kiện thuận lợi giúp hoạt động của Công ty Tài chính nói chung và hoạt động huy động vốn nói riêng đạt được hiệu quả cao. Bởi vì khi có một hành lang pháp lý chặt chẽ, thuận lợi các tổ chức kinh doanh tiền tệ sẽ có điều kiện hoạt động năng động, an toàn hơn, có khả năng huy động được tối đa các nguồn vốn trong và ngoài nước đáp ứng kịp thời nhu cầu về vốn cho các hoạt động của Công ty, có khả năng hội nhập nhanh chóng với các tổ chức kinh doanh tiền tệ trong khu vực và trên thế giới.
1.3.2.2 Chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương
Chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương là những quy định hoặc nghiệp vụ của Ngân hàng Trung ương tác động lên thị trường tiền tệ, tài chính nhằm vào mục tiêu kinh tế như: công ăn việc làm, tăng trưởng kinh tế, bình ổn giá cả, lãi suất, ổn định thị trường tài chính và thị trường ngoại hối.
Các công cụ cơ bản của chính sách tài chính và chính sách tiền tệ là: nghiệp vụ thị trường mở, chính sách chiết khấu, dự trữ bắt buộc, chính sách lãi suất và hạn mức tín dụng. Những công cụ này tác động lên thị trường tài chính tiền tệ trong đó chủ yếu là các trung gian tài chính bao gồm cả Công ty Tài chính. Chính sách này tác động trực tiếp tới hiệu quả của việc huy động vốn như việc quy định lãi suất cao hay thấp sẽ ảnh hưởng tới việc huy động vốn tiền gửi. Các chính sách này tác động đến cung tiền tệ, từ đó ảnh hưởng gián tiếp đến việc huy động vốn.
1.3.2.3 Tình trạng nền kinh tế
Đây là một trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn của Công ty Tài chính. Nếu một nền kinh tế phát triển, tỷ lệ lạm phát thấp, thu nhập bình quân đầu người cao thì việc huy động vốn từ dân chúng là dễ dàng. Bên cạnh đó, nền kinh tế phát triển tốt thì sẽ khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng nợ, tức là làm tăng cả cung vốn lẫn cầu vốn. Trong khi đó, nếu nền kinh tế đang trong thời kỳ suy thoái, tỷ lệ lạm phát cao sẽ rất khó huy động nguồn tiền gửi. Nền kinh tế suy thoái cũng làm cho các doanh nghiệp hạn chế sử dụng nợ làm ảnh hưởng tới cầu về vốn do đó làm ảnh hưởng đến cung về vốn, việc huy động vốn của Công ty Tài chính sẽ suy giảm.
1.3.2.4 Sự phát triển của thị trường chứng khoán
Sự phát triển của thị trường chứng khoán cũng sẽ ảnh hưởng tới hoạt động huy động vốn của Công ty Tài chính. Nếu thị trường chứng khoán phát triển với đầy đủ chức năng sẽ cung cấp cho Công ty Tài chính đầy đủ những công cụ để huy động vốn. Còn nếu thị trường chứng khoán kém phát triển thì việc huy động vốn thông qua phát hành một số công cụ trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi là khó khăn do tính thanh khoản của các công cụ này trên thị trường thấp, khiến cho hiệu quả của hoạt động huy động vốn bị hạn chế.
1.3.2.5 Phương hướng hoạt động của tập đoàn
Nếu Công ty Tài chính là một thành viên của tập đoàn kinh tế thì lợi ích của Công ty Tài chính gắn liền với lợi ích của tập đoàn. Việc thành lập Công ty Tài chính cũng nhằm mục tiêu huy động vốn hỗ trợ các thành viên trong Tổng Công ty nên hoạt động huy động vốn sẽ được sự quan tâm, chỉ đạo và kiểm tra của Tổng Công ty. Như vậy, chiến lược hoạt động của Tổng Công ty trong từng giai đoạn sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của việc huy động vốn.
CHƯƠNG IIHIỆU QUẢ HUY ĐỘNG VỐN TẠI CÔNG TY TÀI CHÍNH CÔNG NGHIỆP TÀU THUỶ VIỆT NAM
2.1. Khái quát về Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ Việt Nam
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển
Bắt đầu từ năm 1991, các Công ty Tài chính bắt đầu đi vào hoạt động ở nước ta. Là một trong số các Công ty Tài chính ra đời muộn nhất ở nước ta, Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ Việt Nam là một trong những Công ty Tài chính trẻ nhất ở nước ta hiện nay.
Được sự quan tâm chỉ đạo của Chính phủ và Bộ Giao thông Vận Tải, với quyết tâm của Ban lãnh đạo Tổng Công ty Công nghiệp Tàu thuỷ Việt Nam (VINASHIN), Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ đã được Bộ Giao thông Vận Tải thành lập theo Quyết định số 3456/1998/BGTVT ngày 19/12/1998; Tổng Công ty Công nghiệp Tàu thuỷ Việt Nam ban hành điều lệ tổ chức và hoạt động ngày 27/01/2000; Thống đốc Ngân hàng Nhà nước phê chuẩn điều lệ và cấp phép hoạt động số 04/GP-NHNN ngày 16/03/2000 với số vốn điều lệ là 30 tỷ đồng và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 09/05/2000.
Công ty Tài chính được thực hiện một số hoạt động Ngân hàng như là nội dung kinh doanh thường xuyên theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng, các văn bản hướng dẫn thi hành của Ngân hàng Nhà nước và các văn bản pháp luật khác của các tổ chức có thẩm quyền, nhằm thực hiện mục tiêu phát triển ngành Công nghiệp Tàu thuỷ Việt Nam.
Cho tới 31/12/2007, Công ty đã tăng vốn điều lệ lên 1023 tỷ đồng, hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty ngày càng phát triển mạnh cả về chiều rộng lẫn chiều sâu và liên tiếp đạt hệu quả cao trong những năm qua. Công ty đã có những bước tiến đáng kể: xác lập được vị trí, vai trò hệ thống các tổ chức tài chính tiền tệ tín dụng Việt Nam, góp phần vào tiến trình phát triển nhanh, mạnh của ngành Công nghiệp Tàu thuỷ.
2.1.2 Nhiệm vụ và chức năng
Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thủy đã khẳng định được vị thế của một trung gian tài chính trong hơn 200 thành viên của Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam và trên thị trường tài chính Việt Nam với các chức năng chính:
- Huy động vốn từ các nguồn: nhận tiền gửi có kỳ hạn trên 1 năm, phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi và các giấy tờ có giá khác, vay các tổ chức tài chính trong và ngoài nước
- Cho vay dưới các hình thức: cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn; cho vay uỷ thác, cho vay tiêu dùng;
- Chiết khấu, tái chiết khấu, cầm cố thương phiếu và các loại giấy tờ có giá khác;
- Cấp tín dụng dưới các hình thức khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước;
- Mở tài khoản và dịch vụ ngân quỹ;
- Thực hiện các hoạt động khác như: góp vốn, mua cổ phần, đầu tư cho các dự án, tham gia vào thị trường tiền tệ; Được quyền nhận uỷ thác, làm đại lý trong các lĩnh vực tư vấn về ngân hàng, bảo hiểm và đầu tư; Cung ứng các dịch vụ tư vấn về ngân hàng, tài chính tiền tệ, đầu tư và các dịch vụ khác;
- Bảo lãnh bằng ngoại tệ;
- Hoạt động bao thanh toán;
- Cung ứng các dịch vụ ngân hàng tài chính: mua bán ngoại tệ, hoạt động ngoại hối, thu đổi ngoại tệ, chuyển tiền...;
Với quy mô đội ngũ nhân sự trẻ được đào tạo chính quy, chuyên ngành, phong cách phục vụ tận tình chu đáp, Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ luôn sẵn sàng đáp ứng nhu cầu về tài chính cho các cá nhân và tổ chức kinh tế với vai trò:
- Huy động và thu hút các nguồn vốn
- Tư vấn, thu xếp tài chính và cung ứng tín dụng dưới mọi hình thức
- Cung ứng dịch vụ tư vấn đầu tư và lập dự án
- Cung ứng các dịch vụ ngân hàng và tài chính.
2.1.3 Cơ cấu bộ máy tổ chức Công ty
Cơ cấu tổ chức: Công ty Tài chính CNTT có 18 phòng ban, 01 chi nhánh và 02 Công ty trực thuộc. Sơ đồ cơ cấu tổ chức của Công ty như sau:
Biểu đồ 2.1: Sơ đồ cơ cấu tổ chức của Công ty
BAN KIỂM SOÁT
Phòng Giao dịch Ngân quỹ
BAN ĐIỀU HÀNH
HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ
Phòng Đầu tư
Phòng Tài chính Kế toán
Phòng Tín dụng 3
Phòng Tín dụng 1
Phòng Tín dụng 2
Phòng Phát triển dự án
Phòng Kinh doanh tiền tệ
Phòng Kế hoạch Tổng hợp
Phòng Công nghệ Thông tin
Phòng Kinh doanh
Phòng Thẩm định
Phòng Kiểm toán nộibộ
Phòng Hành chính Quản trị
Phòng Nguồn vốn
Phòng Bảo lãnh
Phòng Marketing
Công ty Tư vấn đầu tư và dịch vụ tài chính (V.IBC)
Công ty Cho thuê tài chính CNTT (VFL)
Chi nhánh TP.HCM
Phòng Pháp chế
2.1.4 Kết quả hoạt động trong thời gian qua
Năm 2007 là năm đầu tiên Việt Nam chính thức trở thành thành viên của tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và thực hiện cam kết PNTR với Hoa Kỳ. Các rào cản thương mại giữa Việt nam và các nước thành viên WTO được dỡ bỏ, các doanh nghiệp Việt Nam cạnh tranh trực tiếp với các doanh nghiệp nước ngoài một cách bình đẳng. Năm 2008, nền kinh tế trong nước phải trải qua thời kỳ lạm phát cao và bị tác động từ cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới.
Tuy nhiên trong bối cảnh đó, Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ Việt Nam với tư cách là một người đảm nhận tài chính cho cả Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy trong nước vẫn tiếp tục đạt được những kết quả kinh doanh rất ấn tượng. Mọi mặt hoạt động đều có sự tăng trưởng khá tốt, hoạt động kinh doanh của Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ Việt Nam đã có những bước phát triển khả quan, đã thực hiện đạt và vượt các chỉ tiêu kế hoạch về tín dụng, huy động vốn và doanh thu.
Bảng 2.1: Một số chỉ tiêu tài chính cơ bản năm 2005 - 2008
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Năm 2008
Tổng doanh thu
116.200
213.136
911.560
1.088.000
Tổng tài sản
3.261.300
3.643.531
7.211.498
5.983.000
Vốn điều lệ
140.000
640.000
1.023.000
1.023.000
LNTT
5.310
6.843
196.284
118.339
TNBQ (trđ/ng)
3,2
4
5
6,9
Nguồn: Báo cáo thường niên 2005 - 2008
Năm 2007 tổng tài sản của Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ Việt Nam cao hơn so với năm 2006 cả về số tuyệt đối và tốc độ tăng trưởng. Cụ thể tổng tài sản năm 2006 tăng 247% so với năm 2005, tiếp tục đến năm 2007 chỉ tiêu này tăng 198% so với năm 2006 đạt 7.211,5 tỷ đồng. Quy mô tổng tài sản tăng lên mang lại những ưu thế cạnh tranh về vốn hoạt động cho Công ty. Tuy nhiên đến năm 2008, tổng tài sản của Công ty có sự giảm sút xuống còn 5.983 tỷ đồng.
Cùng với sự gia tăng về quy mô của tổng tài sản, doanh thu và lợi nhuận trước thuế của Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ Việt Nam cũng đạt được những kết quả ngoạn mục. Doanh thu đạt 911,56 tỷ đồng, tăng hơn 4 lần năm 2006. Tiếp tục năm 2008 doanh thu của Công ty tiếp tục tăng lên đạt mức 1.088 tỷ đồng. Mặc dù bị ảnh hưởng bởi khủng hoảng kinh tế Mĩ nhưng doanh thu của Công ty vẫn tăng gấp 1,194 lần so với năm 2007 cho thấy được chiến lược hoạt động kinh doanh của Công ty trong thời kỳ này rất đúng đắn và phù hợp.
Biểu đồ 2.2: Tăng trưởng doanh thu giai đoạn 2002 - 2008
Đơn vị: Tỷ VNĐ
Nguồn: Báo cáo thường niên giai đoạn 2002 - 2008
Lợi nhuận trước thuế năm 2007 Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ đạt 196,28 tỷ đồng, gấp gần 27 lần so với năm 2006. Tuy nhiên do chính sách kiềm chế lạm phát trong năm 2008 của chính phủ đã làm cho chi phí huy động vốn tăng lên cao, điều này đã làm cho chi phí của Công ty tăng khiến lợi nhuận trước thuế của Công ty chỉ đạt 118,339 tỷ đồng, bằng 60,3% so với năm 2007.
Biểu đồ 2.3: Tăng trưởng lợi nhuận trước thuế giai đoạn 2002 - 2008
Đơn vị: Tỷ VNĐ
Nguồn: Báo cáo thường niên giai đoạn 2002 - 2008
Với kết quả kinh doanh như trên thì thu nhập bình quân của người lao động năm 2008 là 6,9 triệu đồng/người/tháng, gấp 1,38 lần so với năm 2001.
2.2 Thực trạng hiệu quả huy động vốn của Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ
2.2.1 Tình hình huy động vốn
Trong những năm gần đây, ngành Công nghiệp tàu thuỷ luôn được coi là ngành kinh tế mũi nhọn được Nhà nước ưu tiên bảo hộ và phát triển rất nhanh, đạt mức 35%/ năm. Xuất phát từ nhu cầu ngày càng gia tăng của thị trường trong và ngoài nước, việc huy động được một lượng vốn lớn để đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh là một việc hết sức cần thiết. Một trong những giải pháp huy động vốn của Tổng Công ty Công nghiệp Tàu thuỷ Việt Nam là tăng khả năng vốn đầu tư, vốn kinh doanh thông qua kênh dẫn vốn của Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ. Sự tăng trưởng rất nhanh của Tổng Công ty Công nghiệp Tàu thuỷ đòi hỏi nhu cầu vốn rất lớn, đây chính là thuận lợi to lớn đồng thời cũng là thách thức đối với Công ty.
Được sự hỗ trợ của tập đoàn cùng sự năng động và sáng tạo trong hoạt động nghiệp vụ, Công ty luôn có nguồn vốn ổn định, đảm bảo thanh toán cho mọi hoạt động của mình. Nhờ chủ động thiết lập và củng cố quan hệ với các khách hàng là các tổ chức kinh tế và cá nhân cũng như các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước trên cơ sở xây dựng và củng cố uy tín của Công ty trong quan hệ với các tổ chức tín dụng, Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ đã giải quyết tốt khâu huy động vốn, đặc biệt là nguồn vốn dài hạn. Từ khi đi vào hoạt động đến nay, tổng nguồn vốn của Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ luôn tăng trưởng đều, điều đó chứng tỏ Công ty đã và đang khẳng định được vị thế của mình trên thị trường tài chính Việt Nam. Có thể thấy rõ điều này qua biểu đồ tăng trưởng tổng nguồn vốn giai đoạn 2001 - 2008 của Công ty như sau:
Biểu đồ 2.4: Tăng trưởng tổng nguồn vốn giai đoạn 2002 - 2008
Đơn vị: Tỷ đồng
Nguồn: Báo cáo thường niên giai đoạn 2002 - 2008
Qua biểu đồ, có thể thấy nguồn vốn của Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ trong những năm qua có xu hướng tăng và tăng với tốc độ ngày càng nhanh. Nếu như năm 2001, tổng nguồn vốn của Công ty là 303,4 tỷ đồng thì đến năm 2002, tổng nguồn vốn của Công ty là 390,4 tỷ đồng, tăng 29%. Năm 2003, tổng nguồn vốn tăng lên 856,6 tỷ đồng, tỷ lệ tăng trưởng đạt 119,5%. Đà tăng này lại tiếp tục, đến năm 2006, đạt 148,2% so với năm 2005 lên 3.666,6 tỷ đồng. Năm 2007, tổng nguồn vốn của Công ty là 7.211,5 tỷ, tăng 96,7%, gấp 23,77 lần so với năm 2001. Năm 2008, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới nên tổng nguồn vốn của Công ty đã giảm 17% xuống còn 5.983 tỷ đồng.
Tuy nhiên, nhìn chung tốc độ tăng trưởng nguồn vốn của Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ nhanh và ổn định sau hơn 9 năm đi vào hoạt động đã chứng tỏ được tiềm năng phát triển rất lớn của Công ty. Nhưng tổng nguồn vốn này còn nhỏ so với tổng nguồn vốn của các Ngân hàng Thương mại, điều này đã gây khó khăn trong việc cạnh tranh của Công ty so với các Ngân hàng Thương mại.
Bảng 2.2: Tình hình huy động vốn giai đoạn 2006 -2008
Đơn vị: Tỷ đồng
STT
Chỉ tiêu
Năm
2006
2007
2008
I
Vốn tự có
640
1023
1023
II
Vốn huy động
2410,9
5508,4
3460
1
Tiền gửi các TCTD
600
307
981,2
2
Tiền vay các TCTD
874
400
1471,8
3
Nguồn vốn uỷ thác
908,4
4499
705,8
4
Giấy tờ có giá
21
300
300
5
Tiền gửi của các cá nhân, TCKT
7,5
2,4
1,2
6
Nợ phải trả khác
615,7
680,1
1500
III
Tổng nguồn vốn
3666,6
7211,5
5983
Nguồn: Báo cáo thường niên giai đoạn 2006 – 2008
Theo quy định của pháp luật thì Công ty Tài chính thuộc tập đoàn kinh doanh được phép huy động vốn thông qua 2 hình thức chính, đó là huy động vốn chủ sở hữu và huy động nợ. Trong đó, hình thức huy động vốn chủ sở hữu chủ yếu là từ việc tăng vốn góp, từ lợi nhuận không chia, và phát hành cổ phiếu mới. Còn huy động nợ thì bao gồm: nhận tiền gửi của các cá nhân, tổ chức kinh tế có kỳ hạn từ một năm trở lên; làm đại lý bảo hiểm; vay các tổ chức trong và ngoài nước; phát hành giấy tờ có giá và tiếp nhận vốn uỷ thác của Chính phủ, tổ chức kinh tế trong và ngoài nước. Hiện nay, Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ cơ bản đều tận dụng được hầu hết các phương thức được phép nhằm huy động vốn tài trợ cho các hoạt động của mình cũng như hỗ trợ Tổng Công ty. Nhìn chung, nhờ những định hướng đúng đắn của Ban lãnh đạo cũng như sự giúp đỡ của Tổng Công ty, Ngân hàng Nhà nước, vốn huy động của Công ty đã không ngừng tăng lên cả về chất lượng lẫn số lượng, điều này đã tạo cơ sở vững chắc cho mọi hoạt động kinh doanh của Công ty.
Tình hình huy động vốn của Công ty sẽ được phân tích thông qua tình hình huy động vốn chủ sở hữu cùng tình hình huy động nợ cụ thể như sau:
2.2.1.1 Huy động vốn chủ sở hữu
Đối với một trung gian tài chính, vốn chủ sở hữu thường chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng vốn huy động và chủ yếu dùng để đầu tư vào tài sản cố định. Nhưng đối với Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ, vốn chủ sở hữu vẫn là nguồn vốn hoạt động chủ yếu và có tính chất quyết định với các hoạt động của Công ty. Sự tăng trưởng vốn chủ sở hữu của Công ty trong thời gian qua chủ yếu là do sự tăng lên của vốn điều lệ. Được sự hướng dẫn, giúp đỡ của Tổng Công ty, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước và thủ tướng Chính phủ, vốn điều lệ của Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ đã có sự tăng lên đáng kể, đóng góp quan trọng cho sự tăng trưởng của vốn chủ sở hữu. Điều này được thể hiện qua sự tăng trưởng của vốn chủ sở hữu như sau:
Biểu đồ 2.5: Tăng trưởng vốn điều lệ giai đoạn 2002 - 2008
Đơn vị: Tỷ đồng
Nguồn: Báo cáo thường niên giai đoạn 2002 - 2008
Năm 2001, vốn chủ sở hữu của Công ty là 30 tỷ đồng (toàn bộ là vốn điều lệ), đến năm 2003 riêng vốn điều lệ của Công ty đã đạt mức quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là 50 tỷ đồng, vượt thời hạn quy định 12 tháng (quy định đến hết năm 2004 vốn điều lệ của các Công ty Tài chính phải đạt 50 tỷ đồng). Đến năm 2004, vốn chủ sở hữu của Công ty là 171,747 tỷ đồng, trong đó vốn điều lệ là 120 tỷ đồng, tăng hơn 300% so với khi thành lập. Nhờ đó, hệ số an toàn vốn cũng được cải thiện hơn và phần nào đáp ứng được yêu cầu phát triển hoạt động kinh doanh của Công ty nói riêng và phục vụ cho mục tiêu của Tổng Công ty nói chung. Năm 2005, vốn điều lệ của Công ty đã tăng lên 140 tỷ đồng. Cuối năm 2006, vốn điều lệ của Công ty tăng lên 640 tỷ đồng, tăng 357% so với năm 2005, gấp hơn 21 lần so với số vốn điều lệ ban đầu thành lập. Đến tháng 5 năm 2007, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã ban hành quyết định 1009/QĐ-NHNN chấp thuận việc tăng vốn điều lệ của Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ Việt Nam lên 1023 tỷ đồng. Đây là tiền đề quan trọng cho việc phát triển của Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ Việt Nam trong hoạt động tín dụng, đầu tư và kinh doanh.
Tuy vậy, so với nhu cầu của Công ty và với các tổ chức tín dụng khác trên thị trường thì mức vốn điều lệ hiện tại vẫn còn thấp, gây hạn chế trong việc cạnh tranh trên thị trường tiền tệ và khả năng huy động vốn trực tiếp để đầu tư. Do đó, Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ Việt Nam cần có những định hướng, chiến lược, mục tiêu và giải pháp để tăng cường nguồn vốn này.
2.2.1.2 Huy động nợ
Tính đến nay, Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ Việt Nam đã thiết lập quan hệ tín dụng thường xuyên với hơn 80 tổ chức tài chính tín dụng trong và ngoài nước, đó là các Ngân hàng Thương mại, các Công ty tài chíh, Công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư nhằm huy động vốn đáp ứng nhu cầu vốn của các doanh nghiệp trong và ngoài tập đoàn. Công ty đã đa dạng hoá các hình thức huy động vốn như thu hút tiền gửi của dân cư bằng nội ngoại tế; tiếp nhận vốn uỷ thác, đồng tài trợ; đặc biệt là thu hút vốn thông qua việc phát hành trái phiếu của tổ chức tín dụng nhà nước. Năm 2007, Công ty đã nhận uỷ thác quản lý và sử dụng 3000 tỷ đồng từ nguồn phát hành trái phiếu trong nước của Tổng Công ty Công nghiệp Tàu thuỷ Việt Nam. Nhờ sự chủ động thiết lập và củng cố uy tín của Công ty trong hệ thống các tổ chức tín dụng, Công ty đã giải quyết tốt khâu huy động vốn, đặc biệt là nguồn vốn dài hạn.
Ngoài nguồn vốn huy động trong nước, Công ty tiếp tục đẩy mạnh hoạt động hợp tác quốc tế nhằm thu hút được một lượng vốn lớn trên thị trường quốc tế cho các dự án lớn của Tổng Công ty và đã thu được những thành công đáng kể như hoàn thành việc thu xếp vốn cho Công ty Công nghiệp Tàu thuỷ Dung quất đóng mới tàu thuỷ lớn nhất - tàu chở dầu 104000 DWT. Hay thu xếp 60 triệu EUR cho Công ty Vận tải Viễn Dương Vinashin mua tàu Ro-ropax Hoa Sen từ Italia. Tháng 11/2005, Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ đã được Tổng công ty uỷ thác quản lý và sử dụng 750 triệu USD từ nguồn phát hành trái phiếu quốc tế của Chính phủ cho Tổng công ty vay lại thông qua Bộ Tài chính. Năm 2007, Công ty được Tổng Công ty Công nghiệp Tàu thuỷ Việt Nam uỷ thác quản lý và sử dụng 600 triệu USD từ nguồn vốn vay nước ngoài. Đây là lần đầu tiên Tổng Công ty Công nghiệp Tàu thuỷ Việt Nam tổ chức thành công việc huy động vốn từ các tổ chức tài chính quốc tế mà không kèm điều kiện bảo lãnh của Chính phủ. Điều này đã minh chứng cho uy tín và vị thế của Công ty ngày càng được đánh giá cao không chỉ trên thị trường tài chính trong nước mà còn trên thế giới.
Công ty luôn củng cố và mở rộng quan hệ với các tổ chức tài chính tín dụng, các doanh nghiệp và các nhà đầu tư nước ngoài như: Ngân hàng HSBC, CITIC - Trung Quốc, KWF - Đức... góp phần bổ sung vào nguồn vốn hạn hẹp huy động từ trong nước để đầu tư cho các dự án lớn trong Tổng Công ty.
Bảng 2.3: Tình hình huy động nợ giai đoạn 2006 - 2008
Đơn vị: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
Năm
2006
%
2007
%
2008
%
TG của TCTD
600
24,9
307
5,6
981,2
28,4
Vay các TCTD
874
36,3
400
7,3
1471,8
42,5
Nguồn vốn uỷ thác
908,4
37,3
4499
81,7
705,8
20,4
Giấy tờ có giá
21
0,87
300
5,45
300
8,7
TG của cá nhân, TCKT
7,5
0,31
2,4
0,044
1,2
0,035
Tổng cộng
2410,9
100
5508,4
100
3460
100
Nguồn: Báo cáo thường niên giai đoạn 2006 – 2008
Trong tổng nguồn vốn của Công ty thì nguồn vốn nhận uỷ thác chiếm tỷ trọng lớn nhất sau đó là các khoản vay các tổ chức tài chính, rồi nguồn tiền gửi của các tổ chức tài chính và dân cư, và cuối cùng là nguồn từ việc phát hành giấy tờ có giá.
Biểu đồ 2.6: Cơ cấu huy động nợ năm 2008
Đơn vị: Tỷ đồng
● Tiếp nhận vốn uỷ thác của Chính phủ, các cá nhân, tổ chức
Hoạt động nhận uỷ thác của các Công ty Tài chính bao gồm nhiều hình thức như: uỷ thác đầu tư, uỷ thác quản lý vốn, uỷ thác quản lý tài sản... Các đơn vị uỷ thác đầu tư cho Công ty Tài chính là Tổng Công ty và các Ngân hàng Thương mại cũng như một số trung gian tài chính khác. Với mục đích huy động vốn trong và ngoài Tổng Công ty nhằm hỗ trợ hoạt động của các đơn vị thành viên, các Công ty Tài chính rất chú trọng đến huy động nguồn này. Tiền uỷ thác đầu tư vào các dự án trong ngành do Công ty Tài chính có được lợi thế trong việc nắm bắt thông tin cũng như có những chuyên gia trong lĩnh vực thẩm định các dự án trong ngành. Với việc uỷ thác đầu tư cho Công ty Tài chính, các đơn vị uỷ thác có lợi khi dự án đầu tư được thẩm định kỹ càng và có sự đảm bảo của Công ty nếu như có rủi ro xảy ra. Còn đối với Công ty Tài chính, ngoài việc nhận được phí uỷ thác, còn hoàn thành nhiệm vụ huy động vốn từ trong và ngoài ngành nhằm giúp đỡ các đơn vị thành viên của Tổng Công ty. Với những lợi thế của Công ty, nguồn uỷ thác đã và đang chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn của Công ty.
Trong những năm qua, vốn nhận uỷ thác luôn là một nguồn quan trọng của Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ, tỷ trọng của nguồn vốn uỷ thác trên tổng nguồn là khá cao và lượng vốn uỷ thác mà Công ty nhận được không ngừng tăng qua các năm. Năm 2001, nguồn vốn uỷ thác của Công ty là 204,7 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 54,55% tổng nợ huy động được. Sau đó liên tục tăng qua các năm, đến năm 2006 đã đạt 908,4 tỷ đồng gấp 4.44 lần so với năm 2001. Năm 2007, Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ ngoài việc được Tổng Công ty tín nhiệm uỷ thác quản lý và sử dụng 600 triệu USD từ nguồn vốn vay nước ngoài, Công ty còn nhận uỷ thác quản lý và sử dụng 3000 tỷ đồng từ nguồn phát hành trái phiếu của tập đoàn. Tổng nguồn uỷ thác của Công ty trong năm này đạt một con số ấn tượng là 4499 tỷ đồng, tăng 395,3% so với năm 3006, gấp 22 lần so với năm 2001. Năm 2008, do tình hình kinh tế khó khăn chung nên lượng vốn uỷ thác sụt giảm, chỉ còn 705,8 tỷ đồng, đây chủ yếu là nguồn do các Công ty đơn vị thành viên của Công ty Công nghiệp Tàu thuỷ uỷ thác cho Công ty quản lý.
Xu hướng gia tăng nguồn nhận uỷ thác của Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ một phần là do hạn chế bởi quy định của luật pháp. Với quy định dư nợ tối đa của một khách hàng của Công ty Tài chính không được phép vượt quả 15% vốn chủ, Công ty buộc phải tìm nguồn uỷ thác như một giải pháp nhằm đáp ứng được nhu cầu vốn lớn của các đơn vị thành viên trong Tổng Công ty.
● Vay trực tiếp các tổ chức kinh tế
Các tổ chức kinh tế mà Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ vay trực tiếp thường là các Ngân hàng Thương mại, Tổ chức tín dụng. Ngoài ra, Công ty còn thực hiện việc vay vốn trực tiếp từ Tổng Công ty Công nghiệp Tàu thuỷ Việt Nam và các đơn vị thành viên.
Do thiếu vốn nên Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ phải thực hiện những khoản vay tương đối lớn tại các Ngân hàng Thương mại để tài trợ cho hoạt động của mình. Các khoản vay này thường thực hiện trong thời gian ngắn và chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tổng vốn huy động. Chi phí của các khoản vay là tương đối cao do phải chịu lãi suất đầu ra của các trung gian tài chính khác. Việc sử dụng nợ của Công ty Tài chính trong thời gian vừa qua là tăng. Do nhu cầu về vốn hoạt động của Công ty tăng nhanh, trong khi việc huy động vốn thông qua các hình thức khác lại khá mất thời gian nên lượng vốn huy động theo hình thức này cũng chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tổng vốn. Điều này thể hiện rõ ở năm 2008, do sự khó khăn trong việc huy động vốn trên thị trường chứng khoán và từ tiền gửi của khách hàng nên tỷ trọng tiền vay các tổ chức kinh tế là khá cao những 54,8% trong khi tỷ lệ này vào năm 2007 chỉ có 7,3%. Nhưng tỷ trọng của nguồn vay trong tổng nợ đang có xu hướng giảm do Công ty luôn cố gắng huy động bằng những nguồn khác có chi phí thấp hơn để giảm thiểu chi phí, tăng lợi nhuận cho mình.
Theo bảng số liệu có thể thấy vốn vay của Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thủy trong giai đoạn 2006 - 2008 tăng giảm không đều, đó là do vốn vay này thường được sử dụng tài trợ cho các hoạt động tín dụng ngắn hạn cuả Công ty, xuất phát từ nhu cầu cần huy động vốn trong một thời gian ngắn nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng, đặc biệt là các thành viên trong cùng Tập đoàn.
Cùng với sự tăng nhanh của vốn huy động từ nhận uỷ thác, và ciệc Công ty đã được Tổng Công ty cấp thêm vốn điều lệ theo từng năm, tỷ trọng vốn huy động qua hình thức vay nợ đang giảm dần. Đây là một xu hướng hợp lý trong hoạt động của Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ nói riêng và hệ thống các Công ty Tài chính trong nước nói chung.
● Nhận tiền gửi từ các cá nhân và tổ chức
Hiện nay, Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ mới chỉ huy động nợ thông qua hình thức nhận tiền gửi của các cá nhân và tổ chức, còn hoạt động nhận làm đại lý bảo hiểm mới chỉ thực hiện bảo hiểm tiền gửi với quy mô rất nhỏ bé, không đáng kể. Theo quy định tại Điều 17 khoản 1 của Nghị định 79CP/NĐ-CP của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Công ty Tài chính thì Công ty Tài chính được nhận tiền gửi từ một năm trở lên của tổ chức cá nhân theo quy đinh của Ngân hàng Nhà nước. Tiền gửi của Công ty Tài chính bao gồm hai loại là tiền gửi của Kho bạc Nhà nước và các tổ chức tín dụng; tiền gửi của các cá nhân và tổ chức kinh tế.
Nguồn tiền gửi là một nguồn hết sức quan trọng đối với một trung gian tài chính, bởi Công ty Tài chính luôn có kế hoạch tăng cường nhận gửi tiết kiệm nhằm tăng tỷ trọng tiền gửi trong tổng nguồn vốn. Đối tượng khách hàng chủ yếu của Công ty Tài chính là các thành viên trong Tổng Công ty, các cán bộ công nhân trong ngành. Ngoài ra, còn huy động tiền gửi từ dân cư và các doanh nghiệp ngoài ngành. Tiềm năng của phương thức này là rất lớn, mặc dù phải chịu ảnh hưởng do quy định về thời hạn tiền gửi. Trong những năm qua, Công ty đã không ngừng phấn đấu để đáp ứng được nhu cầu huy động vốn thông qua nguồn này. Tuy nhiên, khoản tiền gửi của các tổ chức kinh tế và dân cư vẫn chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số vốn mà Công ty huy động được. Đó là do kỳ hạn nhận tiền gửi của Công ty Tài chính đối với các cá nhân, tổ chức là từ một năm trở lên, chính quy định này đã làm giảm sự hấp dẫn của việc gửi tiền tại Công ty Tài chính. Bên cạnh đó, thực tế lãi suất huy động của Công ty Tài chính luôn thấp hơn so với lãi suất huy động của các Ngân hàng Thương mại. Điều này cũng ảnh hưởng đến tâm lý muốn gửi tiền ở nơi sinh lãi nhiều hơn, làm cho lượng tiền gửi ở Công ty Tài chính giảm xuống.
Trước khó khăn đó, toàn bộ cán bộ công nhân viên của Công ty đã không ngừng nỗ lực trong việc đáp ứng và thu hút khách hàng sử dụng dịch vụ này. Bên cạnh một mức lãi suất hợp lý, Công ty còn thực hiện các chính sách nhằm thu hút khách hàng và khắc phục nhược điểm về thời gian. Nhờ vậy tiền gửi của các tổ chức kinh tế đã không ngừng tăng lên thể hiện uy tín của Công ty ngày càng tăng cao. Năm 2001 Công ty mới chỉ huy động được 95 triệu đồng từ hoạt động này thì năm 2004, số tiền gửi của các cá nhân, tổ chức kinh tế đã lên tới con số 25.306 triệu đồng, tăng tới 266 lần so với năm 2001. Tuy nhiên đến năm 2005, số tiền này giảm xuống còn 21.000 triệu đồng. Con số này vẫn tiếp tục theo đà giảm đến năm 2007 chỉ còn 2.443 triệu đồng. Nguyên nhân là do Công ty phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt từ phía các Ngân hàng Thương mại mới liên tục ra đời, luôn đưa ra mức lãi suất cực kỳ hấp dẫn. Đến năm 2008, khi mà cuộc chạy đua lãi suất giữa các Ngân hàng Thương mại diễn ra rất gay gắt, lãi suất thay đổi từng ngày với mức ngày càng cao nhằm tăng cường việc huy động nguồn tiền gửi từ dân cư thì lượng tiền gửi của các cá nhân, tổ chức giảm xuống chỉ còn 1,2 tỷ đồng.
Mục đích gửi tiền của dân cư là thu được tiền lãi còn đối với các tổ chức tài chính, ngoài việc thu được tiền lãi thì việc gửi tiền chủ yếu là để thanh toán nên trong khi lượng tiền gửi của dân cư giảm xuống thì lượng tiền gửi của các tổ chức tài chính không ngừng tăng lên qua các năm. Điều này thể hiện uy tín được của Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ trên thị trường tiền tệ ngày càng tăng. Nếu như năm 2001, mới bắt đầu thành lập Công ty mới chỉ nhận được 2,5 tỷ đồng từ tiền gửi của các tổ chức tài chính thì trong các năm tiếp sau, con số này không ngừng tăng lên. Năm 2005 con số này là 538 tỷ đồng, gấp 215,2 lần so với năm 2001, đến năm 2006 số tiền gửi của các tổ chức tài chính đã đạt 600 tỷ đồng, tăng 11% so với năm 2005. Năm 2007, con số này giảm xuống còn 307 tỷ đồng, nhưng đến năm 2008 lại tăng lên 981,2 tỷ đồng, gấp 392,84 lần so với khi mới thành lập.
Như vậy, nguồn tiền gửi tại Công ty đã không ngừng tăng lên qua các năm và đang dần trở thành một nguồn quan trọng của Công ty Tài chính.
● Phát hành kỳ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác
Công ty Tài chính được phép phát hành các công cụ nợ như trái phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi. Đây là hình thức huy động vốn rất quan trọng và có sự ổn định cao, nhất là đối với một trung gian tài chính. Nhưng hiện nay Công ty mới chỉ huy động vốn thông qua việc phát hành trái phiếu, và thực tế cho thấy là Công ty đã rất thành công trong việc huy động vốn theo hình thức này. Điều này đã đóng góp một phần rất lớn cho sự phát triển của thị trường trái phiếu Việt Nam và chứng minh được khả năng tiếp cận nguồn vốn nội tệ với lãi suất hợp lý của Công ty. Tuy nhiên, giá trị của những đợt phát hành trái phiếu chưa cao, trong khi chi phí của việc huy động nguồn này là thấp so với nguồn uỷ thác và vay nợ. Quý IV năm 2003, Công ty phát hành 50 tỷ đồng trái phiếu và đã bán hết trong vòng một tuần. Quý II năm 2004, Công ty phát hành Trái phiếu thành công với tổng mệnh giá là 150 tỷ đồng. Năm 2005, nguồn vốn từ phát hành trái phiếu cũng đạt tổng mệnh giá là 100 tỷ đồng. Tuy nhiên năm 2006, con số này mới chỉ dừng lại ở mức khiêm tốn là 21 tỷ đồng. Năm 2007 do sự phát triển mạnh mẽ của thị trường chứng khoán Việt Nam, Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ đã tư vấn thành công phát hành 3000 tỷ đồng trái phiếu tập đoàn - đợt phát hành trái phiếu với giá trị kỷ lục 3000 tỷ đồng kỳ hạn 10 năm.
Hiện nay, hình thức huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi và các giấy tờ có giá đang ngày càng chứng tỏ được vai trò quan trọng của nó trong hoạt động huy động vốn của Công ty. Điều đó cần phải được tiếp tục phát huy trong những năm tới cùng với việc mở rộng các hoạt động phát hành giấy tờ có giá khác.
2.2.2 Phân tích khả năng huy động vốn
2.2.2.1 Khả năng đáp ứng nhu cầu vốn
Cho đến nay, nhờ những thuận lợi do tình hình tăng trưởng nguồn vốn của Công ty đem lại, và nhờ những định hướng đúng đắn của Ban lãnh đạo Công ty, nguồn vốn huy động được của Công ty đã đáp ứng một phần đáng kể nhu cầu vốn của Công ty cũng như các đơn vị thành viên trong Tổng Công ty Công nghiệp Tàu Thuỷ Việt Nam và các khách hàng ngoài Tổng Công ty.
Hoạt động tín dụng được coi là hoạt động chính của Công ty đã đem lại 80% doanh thu cho Công ty trong năm 2007. Dư nợ của Công ty chủ yếu tập trung cho hơn 100 khách hàng là các đơn vị thành viên của Tổng công ty, điều đó phù hợp với mục tiêu hoạt động của Công ty và đáp ứng tối đa nhu cầu vốn cho các đơn vị thành viên và Tổng công ty Công nghiệp Tàu thủy VIệt Nam. Ngoài ra Công ty còn cung ứng vốn cho gần 250 khách hàng ngoài là các cá nhân, tập thể và tổ chức kinh tế ở các ngành khác. Điều đó đã chứng tỏ khả năng đáp ứng nhu cầu vốn của Công ty là rất cao.
Biểu đồ 2.7: Tăng trưởng dư nợ giai đoạn 2002 - 2008
Đơn vị: Tỷ đồng
Nguồn: Báo cáo thường niên giai đoạn 2002 - 2008
Dư nợ của Công ty đều tăng qua các năm. Nếu như năm 2002 dư nợ mới là 337 tỷ đồng thì năm 2005 dư nợ đã tăng gấp 4,77 lần lên 1.607 tỷ đồng. Năm 2006, dư nợ là 2.395 tỷ đồng, tăng 49% so với năm 2005, gấp 7,11 lần so với năm 2002. Đặc biệt năm 2007 chứng kiến một tốc độ tăng là 456% lên 13.319 tỷ đồng (bao gồm cả cho vay dự án và vốn lưu động). Đến 31/12/2008 thì dư nợ tiếp tục tăng 18,7% lên 15.816 tỷ đồng gấp 46,93 lần so với dư nợ năm 2002.
Doanh thu từ hoạt động tín dụng cũng khá cao, chiếm khoảng 60-80% doanh thu của Công ty. Doanh thu năm 2007 là 736,8 tỷ đồng, tăng 496% so với doanh thu năm 2006. Doanh thu năm 2008 lại tiếp tục tăng 143,5% lên mức 963 tỷ đồng.
Bảng 2.4: Doanh thu tín dụng giai đoạn 2006 – 2008
Đơn vị: Tỷ đồng
Năm 2006
Năm 2007
Năm 2008
Doanh thu tín dụng
123,6
736,8
963
Nguồn: Báo cáo thường niên giai đoạn 2006 -2008
Sự tăng trưởng rõ nét trong hoạt động tín dụng là do Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ đã thực hiện đúng đắn chiến lược khách hàng, thường xuyên bám sát khách hàng, mở rộng thị phần, đa dạng hoá các sản phẩm tín dụng. Tuy nhiên, việc gia tăng nhanh dư nợ qua các năm cũng không phải là một dấu hiệu tốt đối với Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ. Điều đó chứng tỏ lượng vốn huy động được đã vượt quá nhu cầu sư dụng, gây ra tình trạng ứ đọng vốn, khoản vốn ứ đọng này phải chịu chi phí huy động, nếu không được tranh thủ đưa vào đầu tư thì sẽ không tạo ra thu nhập mà còn làm giảm bớt lợi nhuận của Công ty.
Nhìn chung, cùng với sự tăng trưởng rất nhanh và mạnh của Tổng Công ty Công nghiệp Tàu thuỷ Việt Nam nói chung cũng như của Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ nói riêng, hoạt động huy động vốn đã đáp ứng tương đối tốt nhu cầu về việc sử dụng vốn của Công ty, thể hiện hiệu quả huy động vốn ngày càng được khẳng định.
2.2.2.2 Cơ cấu vốn của Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ
Trong những năm đầu đi vào hoạt động, nguồn vốn chủ yếu của Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ là vốn uỷ thác và vốn chủ sở hữu. Tuy nhiên, sau một thời gian, cơ cấu vốn của Công ty đã có sự thay đổi rõ nét. Cơ cấu vốn của Công ty hiện nay cũng như đã phân tích là cơ cấu trong đó chủ yếu là nợ còn vốn chủ sở hữu chỉ chiếm một phần nhỏ. Đây cũng chính là cơ cấu hợp lý đối với một trung gian tài chính. Cơ cấu vốn của Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ thể hiện qua bảng số liệu sau:
Bảng 2.5: Cơ cấu vốn của Công ty giai đoạn 2002 - 2008
Đơn vị: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
Tổng vốn
390,3
856,6
1476,4
3261,3
3666,6
7211,5
5983
VCSH
40,3
50,7
121,7
144,9
645,7
1028,7
1030,4
VCSH/TV(%)
10,3
5,9
8,2
9,9
17,6
14,3
17,2
Nợ
337,2
481,1
813,2
1606,8
2410,9
5508,4
3460
Nợ/TV(%)
86,4
56,2
55,1
49,3
65,8
76,4
57,8
Nguồn: Báo cáo thường niên 2002 - 2008
Từ bảng số liệu có thể thấy tỷ lệ nợ gấp khoảng 6 - 9 lần vốn chủ sở hữu tại Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ trong thời gian qua. Như vậy, cơ cấu giữa nợ và vốn chủ sở hữu là khá hợp lý, tuy nhiên trong cơ cấu nợ lại có những bất hợp lý của nó. Có thể nhận thấy những nguồn có chi phí cao như nguồn nhận uỷ thác và vay các tổ chức tín dụng chiếm tỷ trọng cao trong tổng nợ trong khi những nguồn có chi phí thấp và là nguồn cơ bản của Công ty như nhận tiền gửi, phát hành giấy tờ có giá lại chiếm tỷ trọng thấp.
Trên thế giới những nguồn vốn cơ bản mà Công ty Tài chính trong tập đoàn huy động sử dụng là vay từ Công ty mẹ và các đơn vị trong tập đoàn hoặc phát hành giấy tờ có giá. Trong khi đó ở Việt Nam điều này thì ngược lại. Các nguồn huy động thông qua uỷ thác và vay thường có chi phí cao do phải chịu lãi suất đầu ra của các trung gian tài chính. Với nguồn nhận uỷ thác thì Công ty Tài chính chỉ nhận được chủ yếu là phí uỷ thác. Có thể coi chi phí của nguồn uỷ thác là cao bởi đơn vị uỷ thác cho Công ty Tài chính nhằm đầu tư hoặc cho vay thường yêu cầu một mức sinh lời lớn. Như vậy, trong cơ cấu nợ mà phần lớn là nguồn uỷ thác, nguồn vay nợ, còn nguồn nhận tiền gửi và phát hành giấy tờ có giá lại chiếm tỷ trọng thấp hơn, đây chính là điểm bất hợp lý mà Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ cần phải có sự thay đổi trong thời gian tới.
2.2.2.3 Chi phí vốn
Chi phí vốn được hiểu là chi phí cơ hội của việc huy động vốn. Đây cũng là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hiệu quả hoạt động huy động vốn ngoài các chỉ tiêu như quy mô và cơ cấu vốn huy động. Chi phí huy động vốn bao gồm các chi phí trả lãi, chi phí quản lý và các chi phí khác có liên quan, trong đó chi phí trả lãi chiếm tỷ trọng lớn nhất. Chi phí vốn là căn cứ quan trọng để Công ty lựa chọn hình thức huy động. Vốn có chi phí thấp thường được ưa chuộng sử dụng hơn, tuy nhiên còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác.
Bảng 2.6: Chi phí huy động vốn của Công ty
Đơn vị: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Chi phí huy động (CPHĐ)
110,9
206,3
715,3
- Chi phí trả lãi (CPQL)
84,9
151,5
567,6
- Chi phí quản lý
26
54,8
147,7
CPTL/CPHĐ(%)
76,6
73,4
79,35
Nguồn: Báo cáo thường niên 2005-2007
Việc không được nhận tiền gửi dưới một năm đã làm cho Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ có chi phí huy động vốn cao hơn nhiều so với các Ngân hàng Thương mại. Đây cũng là một điểm hạn chế trong công tác huy động vốn của Công ty.
Nguồn vốn huy động tăng lên cùng với sự tăng lên của chi phí huy động cho thấy hiệu quả của hoạt động huy động vốn của Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ chưa cao. Điều này đặt ra cho Công ty áp lực là phải tìm cách giảm chi phí huy động. Do việc huy động vốn của Công ty đều là những nguồn có chi phí cao như nguồn uỷ thác và vay nợ các tổ chức tài chính nên Công ty cần điều chỉnh lại cơ cấu nợ cho hợp lý, tăng cường sử dụng những nguồn có chi phí thấp. Bên cạnh đó, Công ty cũng cần phải tiết kiệm chi phí quản lý. Muốn vậy, Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ cần tích cực hơn nữa trong việc đầu tư đổi mới và áp dụng công nghệ hiện đại vào hoạt động kinh doanh của mình, cắt giảm các khoản chi phí không cần thiết, đồng thời phải quán triệt tinh thần tiết kiệm của cán bộ nhân viên trong quá trình thực hiện nghiệp vụ.
2.3 Đánh giá hiệu quả huy động vốn
2.3.1 Thành tựu đạt được
Trong những năm qua. Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ đã phát huy được vai trò của mình là một trung gian tài chính có vai trò tích tụ và tập trung, phân phối vốn. Hiệu quả huy động vốn của Công ty Tài chính tuy được đánh giá là chưa cao nhưng đã và đang có sự thay đổi theo hướng tích cực. Điều này được thể hiện qua:
- Lượng vốn huy động của Công ty trong những năm qua luôn tăng nhanh và ổn định đáp ứng được nhu cầu đầu tư và cho vay của Công ty. Điều này thể hiện ở số lượng khách hàng có quan hệ tín dụng thường xuyên với Công ty. Nếu như trong thời kỳ đầu thành lập, Công ty chỉ có quan hệ với hơn 80 khách hàng thì đến nay đã có hơn 100 khách hàng là đơn vị thành viên trong Tổng Công ty và hơn 250 khách hàng ngoài là các cá nhân và tổ chức kinh tế trong, ngoài nước. Qua đó thấy được sự tin tưởng của khách hàng khi đầu tư vào Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ.
- Chi phí vốn mà hiện nay Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ sử dụng cũng đã mang đến một phần lợi nhuận khá lớn cho chông ty. Nhưng nó vẫn chưa thực sự đạt được hiệu quả cao, bởi chi phí này còn khá cao so với nhiều Ngân hàng Thương mại khác trong khi lợi nhuận từ cho vay còn thấp.
2.3.2 Hạn chế và khó khăn
Bên cạnh những thành tựu đạt được, không thể không nói đến những khó khăn và hạn chế trong hoạt động huy động vốn nói riêng cũng như trong hoạt động kinh doanh của Công ty Tài chính nói chung.
- Các hoạt động của Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thủy đã được triển khai đều khắp nhưng chưa có tính ổn định, nhiều hoạt động chưa xây dựng quy trình đầy đủ và đang ở trong giai đoạn vừa làm vừa hoàn thiện do đó chưa Công ty chưa mở rộng thu hút được danh tiếng và uy tín trên thị trường tài chính. Do đó, để phát triển các nghiệp vụ đòi hỏi sự cạnh tranh quyết liệt giữa Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thủy và các tổ chức tài chính trong và ngoài nước.
- Các hình thức huy động vốn của Công ty vẫn chưa đa dạng và phong phú. Hiện nay, Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ mới chỉ triển khai việc nhận tiền gửi, đi vay và nhận vốn uỷ thác. Ngoài ra, còn xin Tổng Công ty cấp thêm vốn để bổ sung vào vốn điều lệ. Trong hoạt động huy động nợ thì hình thức nhận tiền gửi hầu như không đáng kể trong khi đây là một trong những nguồn quan trọng nhất đối với một trung gian tài chính. Hiện nay, Công ty mới chỉ phát hành được một lượng nhỏ giấy tờ có giá đồng thời chỉ bó hẹp trong loại hình trái phiếu. Các tổ chức kinh tế cho Công ty vay chủ yếu là các trung gian tài chính, nguồn vay từ nội bộ chưa tương xứng cho dù đây là nguồn có chi phí thấp. Hoạt động đồng tài trợ do hạn chế bởi quy định của pháp luật cũng chưa được chú trọng và phát triển.
- Cơ cấu vốn cũng có điểm chưa hợp lý. Trong cơ cấu vốn của Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ thì nợ chiếm tỷ trọng chủ yếu. Trong thành phần của nợ thì vốn uỷ thác và đi vay lại chiếm phần lớn trong khi vốn huy động từ tiền gửi lại thấp. Nguồn huy động chủ yếu là nhận uỷ thác cho vay từ các tổ chức tài chính khác, đây là nguồn không ổn định, dễ bị rút về khi có nhu cầu, điều này khiến cho nguồn vốn kinh doanh của Công ty cũng không ổn định. Đặc điểm của Công ty Tài chính là cung cấp vốn trung và dài hạn nhưng khả năng thu hút vốn trung và dài hạn thấp nên Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ khó đáp ứng được mục tiêu này. Vốn vay thường là ngắn hạn sẽ làm tăng áp lực thanh khoản đối với Công ty. Bên cạnh đó, vốn chủ sở hữu của Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ chưa đảm bảo một cơ sở vững chắc cho Công ty hoạt động. Vốn chủ của một trung gian tài chính được coi là một khoản đảm bảo đối với khách hàng và thường được đầu tư vào tài sản cố định. Với số vốn chủ hiện tại, Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ sẽ gặp khó khăn trong việc huy động thêm nợ, bởi hạn mức tín dụng của Công ty Tài chính tại các tổ chức tín dụng khác hầu như đã hết. Nếu tăng cường sử dụng vốn chủ trong thời gian này còn có thể đem lại lợi nhuận cao hơn cho Công ty Tài chính.
- Vai trò đầu mối về huy động vốn cho Tổng Công ty và các đơn vị thành viên thực hiện không đạt hiệu quả cao do Tổng Công ty và các đơn vị thành viên vẫn trực tíêp huy động vốn từ các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước, có trường hợp Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ và Tổng Công ty cùng tiến hành giao dịch với cùng một Ngân hàng dẫn đến dự bất hợp lý và không hiệu quả. Một số đơn vị thành viên của Tổng Công ty khi được Tổng Công ty chỉ định thu xếp vốn qua Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ nhưng thực tế lại sự dụng nguồn vốn khác làm ảnh hưởng đến kế hoạch điều hành vốn của Công ty. Bên cạnh đó, các hồ sơ vay vốn của một số đơn vị chưa đầy đủ và gửi chậm hơn so với tiến độ thực hiện làm chậm thời gian ký kết hợp đồng và giải ngân.
- Cơ chế quản lý của Tổng Công ty với Công ty Tài chính và các đơn vị thành viên trong ngành còn chồng chéo. Tổng Công ty chưa có cơ chế để Công ty Tài chính được quyền chủ động quyết định góp vốn đầu tư, làm ảnh hưởng đến cơ hội đầu tư của Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ nhất là trong đấu thầu cổ phiếu của các Công ty cổ phần.
2.3.3 Nguyên nhân của hạn chế và khó khăn
2.3.3.1 Nguyên nhân khách quan
● Cơ chế chính sách chưa phù hợp
Những quy định hiện nay của pháp luật làm hạn chế hoạt động của các Công ty Tài chính. Theo quy định tại Nghị định 79/2002/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của Công ty Tài chính thì Công ty Tài chính chỉ được nhận tiền gửi có kỳ hạn từ một năm trở lên, không được nhận tiền gửi thanh toán. Chính quy định này đã làm hạn chế hoạt động nhận tiền gửi một cách đáng kể. Việc chỉ được gửi tiền dài hạn đã làm giảm tính hấp dẫn của hoạt động gửi tiền tại Công ty. Theo Quyết định 296/1999/QĐ-NHNN đối với hoạt động tín dụng của Công ty Tài chính thì tổng dư nợ cho vay đối với một khách hàng không quá 15% vốn tự có. Trong khi nhu cầu vay vốn đối với một khách hàng hay một dự án trong ngành đặc biệt là những dự án đóng tàu lớn để xuất khẩu nhiều khi lên tới vài chục tỷ hay vài trăm tỷ đồng. Công ty buộc phải tìm kiếm nguồn tài trợ vừa để thoả mãn nhu cầu vốn của khách hàng, vừa không vi phạm quy định, đây chính là lý do vì sao nguồn nhận uỷ thác lại chiếm một tỷ trọng lớn như vậy. Chính điều này đã làm tăng chi phí vốn của Công ty, vừa hạn chế huy động vốn từ nguồn khác, làm giảm lợi nhuận từ hoạt động tín dụng của Công ty.
● Các quy định của pháp luật chưa đồng bộ và nhất quán
Cơ sở pháp lý cho loại hình hoạt động Công ty Tài chính chưa đồng bộ, nhất quán. Nhà nước hầu như chưa nghiên cứu đầy đủ về mô hình hoạt động của các Công ty này. Hiện nay, quan điểm và chủ trương đối với các Công ty Tài chính trong Tổng Công ty nhà nước có nhiều bất đồng, các văn bản hướng dẫn luật chưa đầy đủ và rõ ràng khiến cho các Công ty Tài chính không thể triển khai các nghiệp vụ mới mặc dù đã được phép. Điều này đã dẫn tính kém hiệu quả trong việc phát huy vai trò của các Công ty Tài chính trong Tổng Công ty.
Ngân hàng Nhà nước chưa thực sự tạo điều kiện tốt nhất để loại hình các Công ty Tài chính phát triển, đồng thời quản lý nó bằng một cơ chế chặt chẽ đòi hỏi các Công ty Tài chính phải tuân thủ nghiêm các điều kiện an toàn trong hoạt động huy động, cho vay và đầu tư. Vai trò và nhiệm vụ của Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ chưa được xác định rõ ràng, cụ thể: khi cần hoạt động phục vụ cho Tổng Công ty thì coi Công ty Tài chính là một tổ chức độc lập, khi cần hoạt động với vai trò của tổ chức tín dụng thì lại coi đó là một doanh nghiệp thuộc Tổng Công ty và giới hạn hoạt động của các Công ty Tài chính chủ yếu trong phạm vi một Tổng Công ty.
● Môi trường kinh doanh chưa thực sự bình đẳng
Môi trường kinh doanh giữa các tổ chức tài chính chưa thực sự bình đẳng. Trong những năm qua, tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế bị chững lại do bị ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng kinh tế trên thế giới. Ngân hàng Nhà nước đã ban hành lãi suất thoả thuận, cung đồng nội tệ của các tổ chức tài chính giảm sút. Các Ngân hàng Thương mại cạnh tranh khốc liệt bằng cách tăng lãi suất huy động và hạ lãi suất cho vay, lợi thế thuộc về các Ngân hàng. Trong điều kiện như vậy, các Công ty Tài chính rất khó cạnh tranh được với các Ngân hàng Thương mại nhất là các Ngân hàng quốc doanh hiện đang được hưởng nhiều ưu đãi của Nhà nước.
● Chịu sự quản lý ràng buộc của Tổng Công ty
Một nguyên nhân khác là từ cơ chế chính sách của Tổng Công ty. Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ phải chịu sự quản lý của Tổng Công ty về chiến lược phát triển, tổ chức nhân sự. Tổng Công ty can thiệp qua sâu vào hoạt động điều hành của Công ty. Tổng Công ty chưa xác định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ của Công ty Tài chính. Các dự án lớn trong ngành vẫn do Ban tài chính - Kế toán của Tổng Công ty trực tiếp thực hiện. Trong hoạt động đồng tài trợ các dự án lớn của Tổng Công ty, Công ty Tài chính chưa được đứng ra làm tổ chức tín dụng đầu mối trong khi Công ty là bên dễ dàng thu thập thông tin, đánh giá và thẩm định dự án. Điều này làm giảm doanh thu của Công ty, đồng thời đánh mất đi cơ hội tạo uy tín và danh tiếng của Công ty trên thị trường tài chính - tín dụng.
Trong khi các Công ty Tài chính trong Tập đoàn trên Thế giới thường sử dụng các khoản vay Công ty mẹ làm vốn hoạt động thì sự hỗ trợ về vốn của Tổng Công ty đối với Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ là chưa nhiều.
Mặt khác Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ cũng gặp nhiều khó khăn do sự không tách bạch giữa quản lý và kinh doanh về tài chính. Tuy danh nghĩa là Công ty hạch toán độc lập nhưng Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ không tránh khỏi sự can thiệp sâu của Tổng Công ty về tổ chức cũng như hoạt động.
2.3.3.2 Nguyên nhân chủ quan
- Vốn tự có của Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ còn thấp làm hạn chế hoạt động tín dụng và đầu tư. Cơ cấu vốn huy động của Công ty còn khá đơn giản, khả năng huy động chưa cao, chưa ổn định khó đảm bảo được nhu cầu vay vốn của khách hàng trong tương lai. Mặc dù trong chức năng, quyền hạn của mình, Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ hoàn toàn có thể phát hành các loại tín phiếu, trái phiếu công trình cũng như vay trực tiếp các cá nhân, tổ chức. Tuy nhiên, Công ty chưa sử dụng các nguồn này, một phần là do khả năng cho vay của Công ty đang bị hạn chế nhiều, mặt khác chưa tạo được uy tín đủ để phát hành thành công các loại chứng khoán này. Khả năng huy động vốn trung và dài hạn của Công ty còn thấp, chưa đáp ứng được mục tiêu phát triển hoạt động cho vay trung và dài hạn thành hoạt động đầu tư chính của mình.
- Đội ngũ cán bộ chưa thành thạo trong công việc và trình độ nghiệp vụ, kiến thức pháp luật còn hạn chế. Một số bộ phận nhân viên làm việc chưa có kế hoạch và chưa chủ động trong công việc, còn có tâm lý chờ đợi cấp trên, một số đơn vị trong Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ còn thiếu các cán bộ có năng lực để triển khai công việc. Đội ngũ cán bộ tuổi đời còn trẻ tuy có chuyên môn về tài chính ngân hàng nhưng thiếu chuyên môn về hàng hải nên chưa đáp ứng được yêu cầu của các dự án lớn. Các chương trình đào tạo cán bộ công nhân viên chưa được quy hoạch tổng thể và mang tính quy hoạch dài hạn, chưa phối hợp tốt với Tổng Công ty để tổ chức đào tạo từ nguồn kinh phí của Tổng Công ty.
- Việc tiếp xúc với khách hàng chưa được quan tâm, chính sách marketing và chiến lược khách hàng chưa được coi trọng đúng mức. Công tác Marketing còn kém, chưa đồng bộ, chưa thực sự trở thành công cụ phát triển kinh doanh. Chưa tổ chức nghiên cứu kỹ về khách hàng, qua đó chưa xác định được nhu cầu của khách hàng để xây dựng kế hoạch phát triển lâu dài. Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ chưa quan tâm nhiều đến hoạt động marketing sản phẩm và xây dựng uy tín trên thị trường tài chính.
CHƯƠNG IIIGIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG VỐN CỦA CÔNG TY TÀI CHÍNH CÔNG NGHIỆP TÀU THUỶ
3.1 Mục tiêu chiến lược của Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ
Mặc dù phải đối mặt với sự ảnh hưởng của thị trường tài chính trong nước và quốc tế, sự điều chỉnh của các chính sách vĩ mô, trong đó có sự thay đổi về mục tiêu tăng trưởng và kiềm chế lạm phát, Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thủy vẫn quyết tâm thực hiện tăng trưởng cả doanh thu và lợi nhuận từ 10-15%. Một mặt Công ty phải chi phí nhiều cho việc đầu tư công nghệ, trụ sở, nhân lực cho các Công ty con và các chi nhánh, trong khi nguồn thu từ các Công ty, chi nhánh này năm đầu tiên chưa cao. Do đó, Công ty phải thực hiện cùng lúc nhiều nhiệm vụ trọng tâm để đạt được các mục tiêu đã đề ra trong năm 2009 là:
- Không tăng dư nợ quá 30% so với năm 2008, nhưng phải nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng, đầu tư, dịch vụ theo hướng nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ nhằm nâng cao thu nhập và đảm bảo an toàn, tuân thủ đúng pháp luật.
- Nhanh chóng đưa vào hoạt động các Công ty con trên các lĩnh vực tài chính làm cơ sở để đưa ra các gói sản phẩm đa dạng đầy đủ phục vụ nhu cầu phát triển của Tập đoàn trong tình hình mới.
- Hoàn thiện và phát triển các sản phẩm mới như tín dụng đóng tàu, bao thanh toán, các sản phẩm phái sinh, bảo hiểm tỉ giá, tư vấn phát hành trái phiếu, v.v... nhằm thực hiện được ngay một số nhu cầu của Tập đoàn, tăng thu nhập cho Công ty Tài chính đồng thời nâng cao trình độ cán bộ nhân viên.
- Đầu tư và phát triển mạnh hệ thống công nghệ thông tin đảm bảo quản trị có hiệu quả và kinh doanh tốt. Hoàn thiện và triển khai dự án tin học hoá trong Công ty Tài chính theo hướng chuyên nghiệp và hiện đại.
- Nâng cao uy tín và đảm bảo cân đối tốt về nguồn vốn phục vụ các nhu cầu của Tập đoàn, nhu cầu của thị trường và nhu cầu thanh khoản của Công ty Tài chính.
- Thực hiện chiến lược Xây dựng và quảng bá hình ảnh Công ty: là một tổ chức tín dụng có uy tín đối với khách hàng trong và ngoài ngành, giữ vai trò chủ lực trong hoạt động Tài chính của Tập đoàn.
- Phát triển nguồn nhân lực nội bộ, tiếp tục thu hút nhân lực mới có trình độ chuyên môn cao. Đào tạo nâng cao năng lực quản lý và kỹ năng chuyên môn cho cán bộ lãnh đạo và cán bộ nghiệp vụ, đặc biệt là kiến thức về nghiệp vụ quản lý rủi ro. Trong năm nay sẽ thành lập Trung tâm đào tạo và nghiên cứu phát triển đáp ứng toàn bộ nhu cầu đào tạo và nghiên cứu của Công ty.
- Thực hiện chiến lược xây dựng và quảng bá hình ảnh của Công ty là một tổ chức tín dụng có uy tín đối với khách hàng trong và ngoài ngành, giữ vai trò chủ lực trong hoạt động Tài chính của Tập đoàn.
Dưới sự lãnh đạo của Chi bộ Đảng Công ty, sự hỗ trợ của Công đoàn, Đoàn Thanh niên, cùng sự nỗ lực phấn đấu của toàn thể cán bộ công nhân viên trong năm 2009, cần phải xác định được tư tưởng đây sẽ là một năm rất nhiều kh
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A6142.DOC