Đề tài Nâng cao hiệu quả cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng thương mại cổ phần Sài gòn chi nhánh Hà Nội

Tài liệu Đề tài Nâng cao hiệu quả cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng thương mại cổ phần Sài gòn chi nhánh Hà Nội: MỤC LỤC DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT SCB : Ngân hàng TMCP Sài Gòn SCB Hà Nội : Ngân hàng TMCP Sài Gòn Chi nhánh Hà Nội DNVVN : Doanh nghiệp vừa và nhỏ NHTM : Ngân hàng thương mại DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU VÀ SƠ ĐỒ Bảng 1: Số liệu về tình hình huy động vốn 51 Bảng 2: Tình hình sử dụng vốn trong 03 năm qua như sau: 55 Bảng 3: Chất lượng nợ cho vay 55 Bảng 4: Kết quả hoạt động kinh doanh 56 Bảng 5: Dư nợ DNVVN trên tổng dư nợ 57 Bảng 6: Dư nợ DNVVN phân theo thời hạn tín dụng 58 Bảng 7: Nợ quá hạn DNVVN 59 Bảng 8: Nợ quá hạn cho vay DNVVN theo thời hạn tín dụng 60 MỞ ĐẦU Ngày nay hoạt động ngân hàng đang không ngừng phát triển. Sự phát triển đó co thể nhận thấy trên tất cả các phương diện, từ sự ra đời của các sản phẩm dịch vụ mới cho tới sự xuất hiện của các tập đoàn ngân hàng có quy mô toàn cầu được tạo ra từ làn sóng sáp nhập, hợp nhất. Tất cả nhưng diễn biến đó xảy ra nhanh hơn nhưng gì mà chúng ta biết. Nhưng đối với các doanh nghiêp việc tiếp cận các nguồn tài chính từ n...

doc82 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1108 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Nâng cao hiệu quả cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng thương mại cổ phần Sài gòn chi nhánh Hà Nội, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT SCB : Ngân hàng TMCP Sài Gòn SCB Hà Nội : Ngân hàng TMCP Sài Gòn Chi nhánh Hà Nội DNVVN : Doanh nghiệp vừa và nhỏ NHTM : Ngân hàng thương mại DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU VÀ SƠ ĐỒ Bảng 1: Số liệu về tình hình huy động vốn 51 Bảng 2: Tình hình sử dụng vốn trong 03 năm qua như sau: 55 Bảng 3: Chất lượng nợ cho vay 55 Bảng 4: Kết quả hoạt động kinh doanh 56 Bảng 5: Dư nợ DNVVN trên tổng dư nợ 57 Bảng 6: Dư nợ DNVVN phân theo thời hạn tín dụng 58 Bảng 7: Nợ quá hạn DNVVN 59 Bảng 8: Nợ quá hạn cho vay DNVVN theo thời hạn tín dụng 60 MỞ ĐẦU Ngày nay hoạt động ngân hàng đang không ngừng phát triển. Sự phát triển đó co thể nhận thấy trên tất cả các phương diện, từ sự ra đời của các sản phẩm dịch vụ mới cho tới sự xuất hiện của các tập đoàn ngân hàng có quy mô toàn cầu được tạo ra từ làn sóng sáp nhập, hợp nhất. Tất cả nhưng diễn biến đó xảy ra nhanh hơn nhưng gì mà chúng ta biết. Nhưng đối với các doanh nghiêp việc tiếp cận các nguồn tài chính từ ngân hàng không phải là dễ dàng. Đặc biệt đó là một trở ngại lớn cho các DNVVN hiện nay bởi các DNVVN có quy mô nhỏ, vốn chủ sở hữu thấp, năng lực tài chính chưa cao, thiếu tài sản thế chấp, khả năng xây dựng các dự án có tính khả thi còn yếu, số liệu thông tin kế toán chưa đáng tin cậy…nên dưới con mắt của các nhà Ngân hàng, các DNVVN là những khách hàng có độ rủi ro cao. Tuy nhiên, các DNVVN lại được đánh giá là đối tượng khách hàng có tiềm năng lớn, trong những năm gần đây nhiều Ngân hàng thương mại (NHTM) đã không ngừng hoàn thiện và cung ứng nhiều sản phẩm dịch vụ dành riêng cho đối tượng khách hàng này. Việc hướng các sản phẩm dịch vụ vào DNVVN đặc biệt là các sản phẩm cho vay doanh nghiệp đã đem lại cho các NHTM doanh số hoạt động không nhỏ, góp phần nâng cao vị thế cạnh tranh của hệ thống NHTM trên thị trường tài chính. Do vậy vấn đề: “Nâng cao hiệu quả cho vay đối với DNVVN tại Ngân hàng TMCP Sài gòn chi nhánh Hà nội ”đã được em chọn làm chuyên đề tốt nghiệp. Với kiến thức và nghiên cứu có hạn nên không thể tránh khỏi thiếu sót, em mong muốn nhận được những ý kiến phê bình, đóng góp quý báu của các thầy cô nhằm giúp em nâng cao trình độ hiểu biết về lý luận cũng như thực tiễn tốt hơn. Kết cấu của đề tài: Chương I: Những vấn đề cơ bản về hiệu quả cho vay đối với DNVVN của NHTM Chương II: Thực trạng hiệu quả cho vay đối với các DNVVN tại SCB Hà Nội. Chương III: Các giải pháp nâng cao hiệu quả cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại SCB Hà Nội Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ, chỉ bảo tận tình, chu đáo của Ths. Lê Hương Lan – là người trực tiếp hướng dẫn cũng như các cán bộ tín dụng tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn chi nhánh Hà Nội đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này. Chương I: Những vấn đề cơ bản về hiệu quả cho vay đối với DNVVN của NHTM 1.1 NHTM và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường 1.1.1. Khái niệm NHTM Có nhiều quan điểm về ngân hàng thương mại. Theo quan điểm của K. Marx, ngân hàng là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ. Luật các tổ chức tín dụng của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì quy định rằng: Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Ở Mỹ, ngân hàng thương mại được coi là công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên cung cấp dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính. Ở Pháp, ngân hàng thương mại được quan niệm là xí nghiệp thường xuyên nhận tiền gửi của công chúng và sử dụng số tiền đó vào nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính. Ở Ấn Độ, thì ngân hàng thương mại được định nghĩa là: cơ sở nhận các khoản tiền ký thác để cho vay hay tài trợ đầu tư. Tóm lại có thể nói rằng: Ngân hàng thương mại là tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng- đặc biệt là tiết kiệm, tín dụng, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. 1.1.2 Các hoạt động cơ bản của NHTM 1.1.2.1 Hoạt động huy động vốn Ngân hàng kinh doanh tiền tệ dưới hình thức huy động, cho vay, đầu tư và cung cấp các dịch vụ khác. Huy động vốn- hoạt động tạo nguồn vốn cho ngân hàng thương mại- đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động của ngân hàng. Nguồn vốn của ngân hàng bao gồm vốn chủ sở hữu và vốn nợ: a) Vốn chủ sở hữu Để bắt đầu hoạt động ngân hàng chủ ngân hàng phải có một khối lượng vốn nhất định. Đây là loại vốn ngân hàng có thể sử dụng lâu dài, hình thành nên trang thiết bị, nhà cửa cho ngân hàng. Nguồn hình thành và nghiệp vụ hình thành loại vốn này rất đa dạng tuỳ theo tính chất sở hữu, năng lực tài chính của chủ ngân hàng, yêu cầu và sự phát triển của thị trường. Vốn chủ sở hữu có thể được hình thành từ các nguồn như nguồn vốn hình thành ban đầu, nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động, các quỹ, nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần. b) Vốn nợ Tiền gửi và các nghiệp vụ huy động tiền gửi Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Khi một ngân hàng bắt đầu hoạt động, nghiệp vụ đầu tiên là mở các tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho khách hàng, bằng cách đó ngân hàng huy động tiền của các doanh nghiệp, các tổ chức và của dân cư. Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của ngân hàng. Nguồn tiền gửi bao gồm có tiền gửi thanh toán; tiền gửi có kỳ hạn của các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội; tiền gửi tiết kiệm của dân cư, tiền gửi của các ngân hàng khác. Để gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và để có được nguồn tiền có chất lượng ngày càng cao, các ngân hàng đã đưa ra và thực hiện nhiều hình thức huy động khác nhau. Tiền vay Tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, khi cần, ngân hàng thường vay mượn thêm để đáp ứng nhu cầu chi trả khi khả năng huy động bị hạn chế. Ngân hàng có thể huy động bằng cách vay ngân hàng nhà nước, vay các tổ chức tín dụng khác, vay trên thị trường vốn. c) Vốn nợ khác Loại này bao gồm nguồn vốn uỷ thác, nguồn trong thanh toán, các nguồn khác. 1.1.2.2 Hoạt động sử dụng vốn Là tổ chức kinh doanh tiền tệ nên NHTM không chỉ huy động vốn mà còn phải sử dụng nguồn vốn đó sao cho có mức sinh lời lớn nhất. Sử dụng vốn như thế nào không chỉ có ý nghĩa với ngân hàng mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế. Các hoạt động sử dụng vốn của NHTM chủ yếu bao gồm: dự trữ, cho vay, đầu tư. Dự trữ Dự trữ hay còn gọi là ngân quỹ. Dự trữ của NHTM là những tài khoản có tính thanh khoản cao, được thiết lập nhằm duy trì khả năng chi trả và các yêu cầu khác của NHTM; bao gồm tiền mặt trong két, tiền gửi tại NHTW và tiền gửi tại các tổ chức tài chính khác. Dự trữ của NHTM là tài sản không sinh lời, song lại có tính thanh khoản cao, đáp ứng nhu cầu chi trả thường xuyên của NHTM, đồng thời giúp cho nền kinh tế ổn định, tránh cho nền kinh tế không bị rối loạn khi mà các NHTM không đáp ứng được yêu cầu chi trả. Cho vay Cho vay là việc mà ngân hàng sẽ đưa cho khách hàng một khoản tiền với cam kết hoàn trả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định. Cho vay là một hoạt động rất quan trọng của tín dụng. Ngân hàng không thể huy động vốn rồi để yên đó mà phải làm cho số vốn đó sinh lãi. NHTM có nhiều hoạt động để tạo ra lợi nhuận nhưng cho vay vẫn là hoạt động chủ yếu nhất. Trong hoạt động cho vay bao gồm các phương thức cho vay như: thấu chi, cho vay trực tiếp từng lần, cho vay theo hạn mức, cho vay luân chuyển, cho vay trả góp, cho vay gián tiếp. Đầu tư Là một đơn vị kinh doanh tiền tệ cho nên NHTM là người nắm vững những thông tin cũng như tình hình kinh tế rõ nhất nên có thể nói các NHTM là người đầu tư có hiệu quả nhất. Các NHTM thường dùng vốn sở hữu của ngân hàng và các vốn dài hạn để đầu tư vào các công ty liên doanh, các dự án…; trở thành cổ đông của công ty cổ phần. Ở Việt Nam thì các NHTM chỉ được nắm giữ dưới 10% cổ phiếu của công ty. 1.1.2.3 Hoạt động trung gian Ngoài hoạt động cho vay các NHTM còn thực hiện một số nghiệp vụ trung gian nhằm tối đa hóa lợi nhuận cho ngân hàng. Các nghiệp vụ trung gian như chuyển tiền, tư vấn đầu tư, môi giới đầu tư, uỷ thác, giải ngân… 1.2.3 Vai trò của NHTM Hoạt động của ngân hàng thương mại có ảnh hưởng rất lớn đối với sự ổn định và phát triển của nền kinh tế. 1.2.3.1 Tích tụ, tập trung vốn và phân phối vốn hiệu quả Các ngân hàng thương mại thông qua chức năng trung gian tài chính của mình tích tụ, tập trung vốn, phân phối vốn có hiệu quả cho nền kinh tế, nâng cao đời sống xã hội, góp phần làm cho quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra liên tục và ổn định. Đặc biệt đối với các nước mà thị trường chứng khoán chưa phát triển thì vai trò này của ngân hàng thương mại là rất quan trọng. Ngân hàng tham gia vào sự ổn định và phát triển của thị trường tài chính. Ngay cả những nước có thị trường chứng khoán phát triển, thì của ngân hàng cũng góp phần vào sự phát triển của thị trường tài chính thông qua các dịch vụ tư vấn đầu tư, cung cấp thông tin. 1.2.3.2 Chuyển thời hạn vốn NHTM có vai trò chuyển thời hạn vốn. Ngân hàng huy động vốn trong nền kinh tế, bao gồm nhiều loại vốn có thời hạn khác nhau như vốn ngắn hạn, trung và dài hạn. Sau đó khi cho vay trong nền kinh tế ngân hàng sẽ có những điều chỉnh linh hoạt về thời hạn để cho vay theo nhu cầu của nền kinh tế. Đây là một vai trò quan trọng của ngân hàng trong việc giải quyết sự lệch pha về các nguồn vốn trong nền kinh tế. 1.2.3.3. Cung cấp các dịch vụ tài chính đa dạng NHTM cung cấp các dịch vụ tài chính đa dạng. Các dịch vụ tài chính mà NHTM thực hiện bao gồm dịch vụ uỷ thác và tư vấn, dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán, các dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ đại lý. Đó là những dịch vụ đem lại rất nhiều lợi ích và giúp cho nền kinh tế năng động hơn. 1.2.3.4. Nâng cao hiệu quả sản xuất và lưu thông hàng hóa NHTM nâng cao hiệu quả sản xuất và lưu thông hàng hoá. Thông qua các hoạt động của mình như nhận gửi, cho vay, thanh toán ... ngân hàng cung cấp toàn bộ thông tin cho nền kinh tế. Thông tin từ phía ngân hàng là những thông tin chính xác nhất. Do đó, ngân hàng đã tham gia vào việc kiểm soát các hoạt động của nền kinh tế. Từ đó làm cho quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá đươc nâng cao. 1.2 Khái niệm, đặc điểm, vai trò DNVVN trong nền kinh tế quốc dân 1.2.1 Khái niệm DNVVN - Khái niệm doanh nghiệp: Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh (Theo Luật Doanh Nghiệp Việt Nam năm 2005) - Khái niệm DNVVN: Có thể nói, DNVVN là bộ phận doanh nghiệp rất quan trọng trong nền kinh tế Việt nam, đóng góp một phần đáng kể vào Ngân sách Nhà nước, giải quyết công ăn việc làm cho hàng triệu lao động, tạo tốc độ tăng trưởng kinh tế…Các DNVVN là một bộ phận doanh nghiệp phong phú với đủ mọi loại hình doanh nghiệp từ Hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác xã đến các Doanh nghiệp tư nhân, Công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần…kinh doanh trên nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác nhau. Ở nước ta DNVVN chiếm tỷ trọng tương đối cao, chiếm hơn 90% tổng số Doanh nghiệp của cả nước. Mặc dù chiếm tỷ trọng ưu thế nhưng hầu hết các DNVVN đều có quy mô nhỏ cả về vốn và lao động. Việc xác định quy mô DNVVN chỉ mang tính chất tương đối vì nó chịu tác động của các yếu tố như trình độ phát triển của một nước, tính chất ngành nghề và điều kiện phát triển của một vùng lãnh thổ nhất định hay mục đích phân loại doanh nghiệp trong từng thời kì nhát định. Tuy nhiên, DNVVN được định nghĩa một cách chung nhất là: DNVVN là những cơ sở sản xuất kinh doanh có tư cách pháp nhân, kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận, có quy mô doanh nghiệp trong những giới hạn nhất định tính theo các tiêu thức vốn, lao động, doanh thu, giá trị gia tăng thu được trong từng thời kỳ quy định của từng quốc gia. Ví dụ như Đài Loan, các doanh nghiệp trong lĩnh vực sản xuất, chế tạo có từ 1 tới 200 lao động được coi là DNVVN, trong khi các doanh nghiệp trong ngành thương mại- dich vụ có từ 1-50 lao động. Ở Nhật Bản, các DNVVN trong ngành sản xuất chế tạo có từ 1-300 lao động và số vốn kinh doanh không vượt quá 300 triệu Yên, còn các DNVVN trong ngành thương mại - dịch vụ có số lao động không quá 100 người với số vốn kinh doanh không quá 100 triệu Yên. Ngược lại ở Mỹ chỉ có một tiêu chí xác định chung cho các DNVVN là số lao động không quá 500 người DNVVN ở Việt Nam là những cơ sở sản xuất kinh doanh có tư cách pháp nhân, không phân biệt thành phần kinh tế, có quy mô về vốn hoặc lao động tuỳ theo quy định của Chính Phủ đối với từng ngành nghề tương ứng với từng thời kỳ phát triển của nền kinh tế. Theo Nghị định số 90/2001/NĐ-CP của Chính Phủ ngày 23/11/2001: DNVVN là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, có đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người. 1.2.2 Đặc điểm của DNVVN ở Việt Nam Các DNNVV là các DN có quy mô vốn nhỏ và hầu hết hoạt động trong các ngành thương mại, dịch vụ sử dụng nhiều lao động. Cũng như các loại hình DN khác, DNNVV có những đặc điểm nhất định trong quá trình hình thành và phát triển. Có thể nhận thấy DNNVV có một số đặc điểm cơ bản sau: * Về các điểm mạnh: - DNNVV dễ khởi sự. Các DNNVV thường chỉ cần một lượng vốn ít, số lao động không nhiều, diện tích mặt bằng nhỏ với các điều kiện làm việc giản đơn đã có thể bắt đầu kinh doanh ngay sau khi có ý tưởng kinh doanh. DNVVN gần như không đòi hỏi một lượng vốn đầu tư lớn ngay trong giai đoạn đầu. Khó khăn lớn đối với các DN là làm sao tạo được nguồn vốn kinh doanh, nhưng do tốc độ quay vòng vốn nhanh nên DNNVV có thể huy động vốn từ nhiều nguồn không chính thức khác nhau như bạn bè, người thân để đáp ưng cho nhu cầu vốn của mình. - Tính linh hoạt cao. Do hoạt động với quy mô nhỏ cho nên hầu hết các DNNVV đều rất năng động và dễ thích ứng với sự thay đổi nhanh chóng của môi trường. Trong một số trường hợp các DNNVV còn năng động trong việc đón đầu những biến động đột ngột của thể chế, chính sách quản lý kinh tế xã hội cũng như các biến động trên thị trường. Nhờ tính năng động này mà các DNNVV dễ dàng tìm kiếm và gia nhập thị trừơng khi nhận thấy việc kinh doanh có thể thu nhiều lợi nhuận hoặc rút khỏi các thị trường khi công việc kinh doanh trở nên khó khăn và kém hiệu quả. Điều này đặc biệt quan trong đối với các nền kinh tế đang chuyển đổi hoặc các nền kinh tế đang phát triển như nước ta. - Có lợi thế trong việc duy trì và phát triển các ngành nghề truyền thống. So sánh hai loại hình doanh nghiệp lớn và DNVVN thì DNNVV có lợi thế hơn trong việc khai thác, duy trì và phát triển các ngành nghề truyền thống, khả năng khai thác và sử dụng có hiệu quả những nguồn lực đầu vào như lao động, tài nguyên hay vốn tại chỗ của từng địa phương. Từ đó DNVVN từng bước trưởng thành và lớn mạnh. Mặt khác các DNVVN còn có nhiều lợi thế hơn các DN lớn trong việc nắm bắt kịp thời nhu cầu và thị hiếu thường xuyên thay đổi của người tiêu dùng, kết hợp với phương châm đa dạng hóa sản phẩm đã tạo ra nhiều loại hàng hóa và dịch vụ mới đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng. - DNVVN có lợi thế về sử dụng lao động. Quan hệ lao động trong các DNVVN thường có tính chất thân thiện, gần gũi hơn so với các doanh nghiệp lớn. Do đó người lao động thường dễ dàng được quan tâm, động viên, khuyến khích hơn trong công việc. Đặc biệt là mối quan hệ gần gũi, thân thiện đó rất phù hợp với văn hóa của người Việt Nam. Với lợi thế trong việc khai thác các nguồn lực sẵn có của địa phương, DNVVN có những tác động tích cực trong việc tạo ra việc làm cũng như nâng cao đời sống vật chất và tình thần cho dân cư tại địa phương hoặc duy trì và bảo vệ các giá trị văn hóa truyền thống. Bên cạnh đó, việc phát triển các DNVVN còn có lợi ích như giảm khoảng cách giữa người giàu và người nghèo, giảm sự các biệt giữa thành thị và nông thôn, qua đó cũng góp phần làm giảm tệ nạn trong xã hội. * Về các điểm yếu: _ Các DNVVN ở Việt Nam thường có công nghệ lạc hậu, thủ công. Hầu hểt các DNVVN ở Việt Nam đều sử dụng công nghệ lạc hậu từ 15-20 năm nên sản phẩm làm ra thường có giá trị công nghệ thấp, hàm lượng chất xám ít, giá trị thương mại và sức cạnh tranh kém so với sản phẩm cùng loại của các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Tình trạng máy móc thiết bị, công nghệ lạc hậu đã và đang là nguyên nhân chính của tình trạng lãng phí trong sử dụng nguyên nhiên vật liệu và ô nhiễm môi trường… Do chủ yếu tận dụng nguồn lao động tại địa phương với trình độ kỹ thuật tay nghề thấp nên khả năng tiếp cận với những công nghệ máy móc hiện đại là rất khó. Hơn nữa các doanh nghiệp vừa và nhỏ có quy mô vốn nhỏ, khả năng huy động vốn lại ít nên thường gặp khó khăn trong việc đầu tư đổi mới công nghệ và cũng hiếm có các chương trình đào tạo giúp nâng cao tay nghề cho lao động của doanh nghiệp. _Trình độ quản lý của chủ DNVVN bị hạn chế, thiếu thông tin trong khi đó lại khó có khả năng thu hút các nhà quản lý và lao động giỏi. Do khả năng tài chính có hạn, DNVVN thường gặp thường gặp khó khăn trong việc tiếp cận thông tin thị trường, công nghệ sản xuất và công nghệ quản lý tiên tiến cũng như ít có khả năng mua sắm những thiết bị hiện đại. Mặt khác phần lớn các DNVVN được thành lập do sự góp vốn của những người có vốn, khả năng quản lý của họ có hạn nên thường gặp lúng túng khi có biến động lớn trên thị trường. Các nhà quản lý doanh nghiệp chưa được đào tạo, thiếu sự hiểu biết đầy đủ về quản lý doanh nghiệp trong khi điều kiện hội nhập và cạnh tranh. Hơn nữa do quy mô sản xuất nhỏ, sản phẩm tiêu thụ không nhiều, các DNVVN khó có thể trả lương cao cho người lao động nên khó có khả năng thu hút được những người lao động có trình độ cao trong sản xuất kinh doanh và quản lý điều hành doanh nghiệp. _ Các DNVVN có năng lực tài chính thấp Vốn luôn là khó khăn lớn nhất đối với sự tăng trưởng của DNVVN. Khi mới thành lập, phần lớn các DNVVN thường gặp phải vấn đề về vốn. Các nhà đầu tư, các tổ chức tài chính thường e ngại khi tài trợ cho các doanh nghiệp này bởi các DNVVN chưa có uy tín trên thị trường cạnh tranh, chưa tạo lập được khả năng trả nợ. Vốn chủ sở hữu thấp, năng lực tài chính chưa cao, nếu chưa tạo dựng được uy tín bằng năng lực kinh doanh và hiệu quả sử dụng vốn thì doanh nghiệp rất khó tìm được người bảo lãnh cho mình trong quan hệ tín dụng. Vì thế DNVVN khó tiếp cận được vốn tín dụng của các Ngân hàng thương mại. Muốn vay vốn được từ nguồn tín dụng của các ngân hàng thương mại thì các DNVVN phải tạo lập được dự án đầu tư có tính khả thi nhưng do trình độ, khả năng quản lý kinh doanh của chủ doanh nghiệp thấp, khả năng dự báo trước những biến động của ngành, của nền kinh tế kém nên việc xây dựng các kế hoạch tài chính, phương án sản xuất kinh doanh khả thi của không ít DNVVN còn yếu trong khi dịch vụ tư vấn hỗ trợ doanh nghiệp lại chưa phát triển. Mặt khác không ít các DNVVN lập báo cáo tài chính chưa rõ ràng, không minh bạch do yếu kém về quản trị doanh nghiệp nên các báo cáo tài chính không đáp ứng được yêu cầu. Bên cạnh đó vẫn còn những doanh nghiệp lập báo cáo chỉ để đối phó với cơ quan Thuế nên đã cố tình làm giảm khấu hao tài sản, tăng nợ…Một số doanh nghiệp còn làm trái chức năng, trái pháp luật, sử dụng giấy tờ giả để lừa cơ quan quản lý Nhà nước trong việc xin hoàn thuế hoặc góp vốn liên doanh, liên kết…Do nguồn tài chính hạn hẹp, quá trình tích tụ và tập trung vốn thấp, khả năng xây dựng các dự án khả thi yếu, nhiều doanh nghiệp còn hoạt động kinh doanh theo thương vụ, không có chiến lược phát triển cụ thể nên mức độ rủi ro cao, trong khi các báo cáo tài chính không đủ sức thuyết phục do chưa chấp hành tốt công tác kế toán thống kê, một số doanh nghiệp chưa nhận thức đúng, đầy đủ nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý trong việc đăng ký kinh doanh nên việc tiếp cận vốn tín dụng từ các kênh thương mại cũng như ưu đãi đều rất hạn chế. Như vậy với quy mô vốn nhỏ, khả năng tiếp cận với các nguồn tài chính lại khó khăn nên tiềm lực tài chính của các DNVVN đã thấp lại càng thấp hơn, do đó khả năng cạnh tranh của các DNVVN trên thị trường rất thấp. Với những đặc điểm nổi bật của các DNVVN ở Việt Nam như trên, cộng với môi trường canh tranh gay gắt như hiện nay thì việc hỗ trợ phát triển DNVVN là nhiệm vụ hết sức cần thiết đảm bảo cho sự phát triển lâu dài của nền kinh tế. 1.2.3 Vai trò của DNVVN trong nền kinh tế quốc dân Các DNVVN đóng vai trò rất quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế và có vai trò quan trọng trong mạng sản xuất toàn cầu và chuỗi cung ứng hàng hóa và dịch vụ. Các DNVVN có khả năng tạo ra nhiều việc làm với chi phí thấp; cung cấp cho xã hội khối lượng đáng kể hàng hóa và dịch vụ và làm tăng GDP cho nền kinh tế; tăng cường kỹ năng quản lý và đổi mới công nghệ; góp phần giảm bớt chênh lệch về thu nhập trong xã hội, xóa đói nghèo; tăng nguồn tiết kiệm và đầu tư của dân cư địa phương làm cho nền kinh tế năng động và hiệu quả hơn, cải thiện mối quan hệ giữa các khu vực kinh tế khác nhau. Mức độ đóng góp vào sự phát triển kinh tế quốc gia của DNVVN được thể hiện ở mức độ thu hút lao động, vốn đầu tư, tạo ra giá trị gia tăng trong nền kinh tế. Theo số liệu thống kê của các nước, tỷ trọng thu hút lao động tạo ra giá trị gia tăng của các DNVVN rất đáng kể. Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt như hiện nay, để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, các nước đặc biệt là các nước đang phát triển cần có các chính sách hỗ trợ phát triển DNVVN, có như vậy mới huy động được tối đa nguồn lực xã hội, góp phần hỗ trợ các doanh nghiệp lớn phát triển, tăng sức cạnh tranh trên thị trường… Vai trò đó của DNVVN thể hiện cụ thể như sau: Thu hút vốn và khai thác nguồn lực sẵn có trong dân cư. DNVVN có vai trò quan trọng trong việc khai thác nguồn tài chính của dân cư trong vùng và sử dụng tối ưu nguồn lực tại chỗ của các địa phương. Với việc thành lập một doanh nghiệp loại này chỉ cần một số vốn nhỏ do đó đã tạo điều kiện cho dân cư tham gia đầu tư góp vốn vào DNVVN. Như vậy thông qua các DNVVN, những nguồn vốn nhỏ, tạm thời nhàn rỗi đã có khả năng được sinh lời. Hơn nữa việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng của các DNVVN rất hạn chế, nguồn vốn hoạt động chủ yếu được huy động từ những người thân quen vì thế DNVVN được tiếp xúc trực tiếp với người cho vay, người cho vay có khi là chủ sở hữu doanh nghiệp, trực tiếp điều hành hoạt động của doanh nghiệp nên việc sử dụng vốn sẽ hiệu quả hơn. Bên cạnh đó các DNVVN có thể tận dụng được nguồn lao động và nguyên vật liệu với giá rẻ do đó làm giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, tạo lợi thế cạnh tranh cho các doanh nghiệp trong việc tiêu thụ sản phẩm. Như vậy sự phát triển của các DNVVN đã tận dụng được tối đa các nguồn lực của xã hội, tạo công ăn việc làm cho nhiều lao động có trình độ, tay nghề thấp góp phần làm ổn định và phát triển xã hội. Về tiềm lực vốn: Vốn đầu tư là một yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất. Vốn là yếu tố cơ bản để khai thác và phối hợp các yếu tố sản xuất khác như lao động, đất đai, công nghệ và quản lý để tạo ra lợi nhuận cho các chủ doanh nghiệp. Vốn có vai trò to lớn trong việc đầu tư trang thiết bị, cải tiến công nghệ, đào tạo nghề, nâng cao trình độ tay nghề cho công nhân cũng như trình độ quản lý của chủ doanh nghiệp. Tuy nhiên một nghịch lý hiện nay là trong khi có nhiều doanh nghiệp đang thiếu vốn trầm trọng thì nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư còn nhiều nhưng không huy động được. Khi chính sách tài chính tín dụng của Chính phủ và các Ngân hàng chưa thực sự gây được niềm tin đối với những người có vốn nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư thì nhờ sự đa dạng hoá trong các loại hình hoạt động sản xuất kinh doanh, khởi sự bằng nguồn vốn hạn hẹp DNVVN thu hút được đông đảo người dân tham gia. Do đó, nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư được đưa vào đầu tư sản xuất kinh doanh, hạn chế tiêu dùng không sinh lợi, nhiều DNVVN đã tiếp xúc trực tiếp với người dân và huy động được vốn để kinh doanh, thành lập doanh nghiệp. Dưới khía cạnh đó, DNVVN có vai trò to lớn trong việc huy động vốn để phát triển kinh tế. Về lao động: Đặc điểm chung của các DNVVN là ít vốn và hoạt động chủ yếu trong các ngành sử dụng nhiều lao động. Do đó, DNVVN ở tất cả các nước có thể tạo công ăn việc làm cho một số lượng lớn người lao động. Ở nhiều nước trên thế giới, kể cả các nước phát triển, DNVVN là nơi tạo ra nhiều việc làm nhất. Hiện nay, DNVVN chiếm 90 - 99% trong tổng số lượng các doanh nghiệp các nước, ở Việt Nam con số này là 90%. Mặc dù số lượng lao động trong các doanh nghiệp không nhiều nhưng tổng số lao động làm việc trong các DNVVN chiếm tỷ lệ đáng kể từ 50 - 80%, khi các DNVVN phát triển sẽ tạo nhiều cơ hội tăng việc làm, thu hút lao động và giảm tỷ lệ thất nghiệp trong nền kinh tế. DNVVN thường nhằm vào mục tiêu sản xuất kinh doanh phục vụ nhu cầu tiêu dùng của nhân dân, sử dụng nhiều lao động, vốn ít với chi phí thấp nên phần lớn lao động trong khu vực này không đòi hỏi trình độ cao, mất nhiều thời gian đào tạo và chi phí tốn kém mà chỉ cần bồi dưỡng hoặc là người lao động có thể tham gia sản xuất trong doanh nghiệp. Khi những doanh nghiệp lớn ứng dụng công nghệ tự động hóa, lao động phổ thông dư thừa, cầu lao động phổ thông đối với doanh nghiệp lớn giảm mạnh. DNVVN là nơi thu hút tiếp nhận và đảm bảo thu nhập cho họ. Như vậy có thể thấy rằng DNVVN có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc tạo ra và tăng thêm việc làm cho nền kinh tế, góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp và ổn định xã hội bằng cách thu hút nhiều lao động với chi phí thấp và chủ yếu bằng vốn của dân. Trong tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước hiện nay, một bộ phận lao động không nhỏ dư thừa, với những kinh nghiệm tích luỹ được trong lao động họ có thể tự thành lập hay tìm kiếm công việc tại các DNVVN góp phần quan trọng vào việc đẩy mạnh sự phát triển của các DNVVN. Về khoa học kỹ thuật: Với quy mô hoạt động nhỏ, DNVVN thường lựa chọn kỹ thuật phù hợp với trình độ lao động và khả năng về vốn. Họ kết hợp kỹ thuật thủ công với kỹ thuật mà người lao động có thể nhanh chóng tiếp thu và làm chủ trong sản xuất. Đóng góp quan trọng vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Sự phát triển nhanh các DNVVN về cả số lượng và chất lượng đã đóng góp đáng kể vào tăng trưởng kinh tế và sự gia tăng thu nhập cho các nước. Cũng như DNVVN ở tất cả các nước, DNVVN ở Việt Nam cung cấp ra thị trường nhiều loại hàng hóa khác nhau đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước như trang thiết bị và linh kiện cần thiết cho các ngành sản xuất hàng tiêu dùng và các ngành thủ công nghiệp cũng như các hàng hóa tiêu dùng khác. Theo số liệu thống kê trong những năm vừa qua DNVVN đã đóng góp 25-28% GDP của cả nước, vốn kinh doanh của khu vực DNVVN chiếm 2% so với vốn kinh doanh của tất cả các doanh nghiệp. Ngoài ra, DNVVN Việt Nam còn cung cấp hầu hết sản phẩm trong nhiều ngành công nghiệp truyền thống thu hút nhiều lao động như giầy dép, chiếu cói… việc mở rộng và phát triển các DNVVN sẽ góp phần không nhỏ trong việc làm tăng GDP, đóng góp đáng kể vào nguồn thu ngân sách Nhà nước. Phát triển DNVVN làm số lượng các doanh nghiệp tăng lên rất lớn, tăng tính cạnh tranh giảm bớt mức độ rủi ro. Các DNVVN cung cấp nguyên liệu, sản xuất và tiêu thụ hàng hoá thâm nhập vào ngõ ngách thị trường những nơi doanh nghiệp lớn không làm được. Các DNVVN tham gia tích cực vào hoạt động xuất khẩu, số lượng DNVVN tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu chiếm 80,6%, nhập khẩu chiếm 84,2% tổng số doanh nghiệp tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu trên cả nước. DNVVN thường không có tình trạng cạnh tranh độc quyền, họ dễ dàng và sẵn sàng chấp nhận tự do cạnh tranh. tự do cạnh tranh là con đường tốt nhất để phát huy mọi tiềm lực. sự phát triển của DNVVN trong giai đoạn đầu là phương thức tốt nhất để sản xuất thay thế nhập khẩu với mức chi phí đầu tư thấp, kỹ thuật không phức tạp, sản phẩm phù hợp với sức mua của dân, từ đó tăng năng lực sản xuất và sức mua của thị trường. Quá trình phát triển của DNVVN cũng là quá trình cải tiến máy móc thiết bị, nâng cao năng lực sản xuất và chất lượng sản phẩm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường. từ đó đổi mới công nghệ, làm quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá diễn ra ở cả chiều rộng và chiều sâu. Với những ưu thế về ngành nghề, tính nhạy cảm của thị trường cao, các DNVVN có nhiều ưu thế trong việc sản xuất và cung ứng các sản phẩm đáp ứng nhu cầu trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu. ở một số nước DNVVN tham gia xuất khẩu chiếm tỷ trọng đáng kể trong kim ngạch xuất khẩu từ 30% - 50%. Tạo sự phát triển giữa các vùng, ngành góp phần phát triển quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Trong quá trình kinh doanh, nhiều DNVVN có thể hỗ trợ cho các doanh nghiệp lớn kinh doanh một cách hiệu quả hơn như làm đại lý và vệ tinh cho các doanh nghiệp lớn, cung cấp những bán thành phẩm hay nguyên liệu đầu vào cho các doanh nghiệp lớn hoặc thâm nhập vào mọi ngõ ngách thị trường mà doanh nghiệp lớn khó có thể với tới để phân phối các sản phẩm của doanh nghiệp lớn, tạo nên sự phát triển cân bằng giữa các vùng. Mục tiêu hoạt động của DNVVN là phục vụ nhu cầu tiêu dùng của nhân dân là chủ yếu, sử dụng nhiều lao động do đó giải quyết được tình trạng thất nghiệp ở các địa phương. Bên cạnh đó, khi số DNVVN tăng lên sẽ kéo theo sự gia tăng nnhanh chóng số lượng các sản phẩm và dịch vụ mới trong nền kinh tế. Nhờ hoạt động với quy mô nhỏ và vừa, các DNVVN có ưu thế là chuyển hướng kinh doanh nhanh từ những ngành nghề kém hiệu quả sang các ngành khác hiệu quả hơn, thoả mãn nhu cầu linh hoạt của dân cư. Chính sự phát triển đó của các DNVVN đã làm tăng tính cạnh tranh, tính linh hoạt và giảm bớt mức độ rủi ro trong nền kinh tế. Việc phát triển các DNVVN sẽ dẫn đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo tất cả các khía cạnh vùng kinh tế, ngành kinh tế và thành phần kinh tế. trước tiên, đó là sự thay đổi cơ cấu kinh tế vùng nhờ sự phát triển của các khu vực nông thôn qua phát triển các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn, xóa dần tình trạng thuần nông và độc canh. Các doanh nghiệp được phân bổ đều hơn về lãnh thổ ở cả vùng nông thôn, đô thị, miền núi, đồng bằng. Ngoài ra, sự phát triển mạnh các DNVVN còn có tác dụng làm cho cơ cấu thành phần kinh tế thay đổi nhờ sự tăng mạnh của các cơ sở kinh tế ngoài quốc doanh và việc sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước. sự phát triển các DNVVN cũng kéo theo sự thay đổi của cơ cấu ngành kinh tế thông qua sự đa dạng hóa các ngành nghề và lấy hiệu quả kinh tế làm thước đo. việc phát triển các DNVVN còn có tác dụng duy trì và thúc đẩy sự phát triển của các ngành nghề truyền thống và sản xuất ra các sản phẩm mang bản sắc văn hoá dân tộc, khai thác thế mạnh của đất nước. Xuất phát từ một nước kinh tế nông nghiệp, Việt Nam có nhiều làng nghề thủ công truyền thống nổi tiếng. Các ngành nghề này ngày càng thu hút được sự đầu tư phát triển của các DNVVN, góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, thực hiện các chương trình xoá đói giảm nghèo, tạo sự phát triển đồng đều, bền vững giữa các vùng. Hình thành nên các vùng sản xuất lớn, nhiều làng nghề xuất hiện góp phần gia tăng sản phẩm hàng hoá tinh chế, tăng sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường, thúc đẩy các ngành nghề phát triển các DNVVN hình thành và phát triển trong những ngành nghề khác nhau luôn có mối quan hệ mật thiết với nhau và có mối liên kết với các doanh nghiệp lớn. Nhiều doanh nghiệp nhỏ khi mới ra đời chỉ nhằm mục đích làm vệ tinh cung cấp các sản phẩm cho các doanh nghiệp lớn. Mối quan hệ giữa các DNVVN và các doanh nghiệp lớn cũng chính là nguyên nhân thành công của nền kinh tế Nhật Bản trong nhiều thập kỷ qua. Do đó, khi các DNVVN Việt Nam phát triển sẽ góp phần tăng cường các mối quan hệ liên kết hỗ trợ lẫn nhau giữa các DNVVN và các DNVVN với các doanh nghiệp lớn, nhờ đó các rủi ro kinh doanh dược phân tán làm tăng hiệu quả kinh tế xã hội. Đông thời, các DNVVN chính là nguồn tích luỹ ban đầu và là “lồng ấp” cho các doanh nghiệp lớn. Các cơ sở doanh nhân thường xuất phát từ một DNVVN do chưa có nhiều kinh nghiệm và chưa thật hiểu rõ về thị trường sau một thời gian hoạt động đã tích luỹ kinh nghiệm và khẳng định vị thế của mình và mở rộng hoạt động kinh doanh và phát triển với quy mô lớn. Từ DNVVN phát triển và mở rộng thành doanh nghiệp lớn còn tiết kiệm chi phí đào tạo khi tuyển được các nhân viên có tay nghề từ các DNVVN chuyển sang có thể nói, DNVVN là tiền đề cho các doanh nghiệp lớn. 1.3 Hoạt động cho vay đối với DNVVN của NHTM 1.3.1 Khái niệm và phân loại cho vay đối với DNVVN của NHTM a) Khái niệm Cho vay là chức năng kinh tế cơ bản của ngân hàng thương mại để tài trợ chi tiêu cho các doanh nghiệp, cá nhân và chính phủ. Đây cũng là chức năng lâu đời nhất của ngân hàng. Cho vay là hoạt động mang lại nhiều lợi nhuận cho ngân hàng nhưng cũng là hoạt động mang lại nhiều rủi ro. Trong quy chế cho vay của các tổ chức tín dụng ban hanh kèm theo quyết định số 284/2000/QĐ/NHNN ngày 25/8/2000 của Thống đốc ngân hàng nhà nước Việt Nam, cho vay được định nghĩa như sau: “ cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích nhất định trong thời gian nhất định theo sự thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc lẫn lãi”. b) Phân loại Có nhiều tiêu thức phân loại cho vay, ứng với mỗi tiêu thức có thể phân loại ra nhiều loại cho vay. * Căn cứ vào thời hạn cho vay Theo tiêu thức này cho vay phân làm ba loại: cho vay ngắn hạn, cho vay trung hạn, cho vay dài hạn. Cho vay ngắn hạn: là loại cho vay có thời hạn tối đa là 12 tháng, dùng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn. Cho vay trung hạn: trước đây theo quy định của ngân hàng Nhà nước thì thời hạn cho vay trung hạn từ 1 đến 3 năm, hiện nay theo quy định mới của NHNH thì thời hạn cho vay trung hạn là 1 đến 5 năm, sự thay đổi này một mặt để đáp ứng tốt hơn nhu cầu của doanh nghiệp, mặt khác tạo ra sự phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vì đối với một số tài sản nhất định thời hạn sử dụng của chúng tương đối dài nên cần phải có thời gian đủ lớn doanh nghiệp mới có thể hoàn trả (gốc +lãi) cho ngân hàng. Cho vay trung hạn chủ yếu được sử dụng để mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô vừa và nhỏ phục vụ đời sống, sản xuất có thời hạn thu hồi vốn nhanh. Trong nông nghiệp cho vay trung hạn chủ yếu để đầu tư vào các đối tượng như: máy cày, máy bơm nước, xây dựng các vườn cây công nghiệp như cà phê, điều . Cho vay dài hạn: đây là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm và thời hạn tối đa 20-30 năm,một số trường hợp cá biệt có thể lên đến 40 năm.Tín dụng dài hạn chủ yếu được sử dụng để đáp ứng nhu cầu dài hạn như: xây mới các công trình dân dụng, các công trình công nghiệp (nhà máy, xí nghiệp) hoặc mua sắm các dây chuyền sản xuất, các thiết bị, phương tiện vận tải quy mô lớn, các dự án đầu tư xây dựng cơ bản... * Căn cứ vào phương pháp cho vay - Cho vay trực tiếp: là loại cho vay mà người vay trực tiếp nhận tiền vay và trực tiếp trả nợ cho ngân hàng. - Cho vay gián tiếp là loại cho vay được thực hiện thông qua người thứ ba như cho vay qua tổ hội, nhóm sản xuất, cho vay thông qua tổ chức tín dụng khác dưới hình thức đồng tài trợ. * Căn cứ vào bảo đảm tiền vay: Cho vay đươc chia làm hai loại: - Cho vay có bảo đảm: là loại tín dụng mà khi cho vay ngân hàng đòi hỏi khách hàng phải có tài sản cầm cố, thế chấp hoặc có sự bảo lãnh của bên thứ ba. - Cho vay không có bảo đảm: là loại cho vay mà không có tài sản cầm cố, thế chấp hoặc có sự bảo lãnh của người thứ ba mà dựa trên cơ sở lòng tin, uy tín của khách hàng. Hình thức chủ yếu là tín chấp. Tín chấp là cho vay bằng lòng tin, căn cứ vào uy tín của khách hàng thay cho tài sản đảm bảo, áp dụng cho khách hàng truyền thông, có tình hình tài chính vững mạnh, dự án xin vay có tính khả thi cao. * Căn cứ vào mục đích vay vốn: có các loại cho vay sau: - Cho vay bất động sản là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây dựng bất động sản, nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ. - Cho vay công nghiệp và thương mại là cho vay ngắn hạn để bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực này. - Cho vay nông nghiệp là loại cho vay để trang trải các chi phí sản xuất như phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng,thức ăn gia súc ,lao động , nhiên liệu ... - Cho vay cá nhân là loại cho vay để đáp ứng nhu cầu tiêu dụng như mua sắm các vận dụng đắt tiền. Ngày nay ngân hàng còn cho vay để trang trải các chi phí thông thường của đời sống. * Căn cứ theo phương thức hoàn trả tiền vay - Cho vay trả góp: là loại cho vay khách hàng phải hoàn trả vốn gốc và lãi theo định kỳ. - Cho vay phi trả góp: khoản vay sẽ được trả một lần cả gốc và lãi theo thời hạn đã thoả thuận. - Cho vay hoàn trả theo yêu cầu: khoản vay sẽ hoàn trả cho ngân hàng bất cứ lúc nào khách hàng có thu nhập. 1.3.2. Vai trò của cho vay đối với DNVVN của NHTM Có thể nói thiếu vốn là khó khăn chủ yếu của các DNVVN Việt Nam và vì vậy vốn vay dịch chuyển được từ ngân hàng tới doanh nghiệp thông qua hoạt động cho vay có một vai trò rất quan trọng. Cụ thể như sau: 1.3.2.1. Đáp ứng nhu cầu vốn của doanh nghiệp một cách kịp thời Nguồn vốn tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp thường lấy từ các nguồn sau: nguồn vốn chủ sở hữu, vay từ các nguồn vốn phi chính thức, vay ngân hàng, vay vốn qua thị trường vốn hay thuê mua. Tăng nguồn vốn chủ sở hữu là biện pháp đơn giản nhất đối với bất cứ doanh nghiệp nào bởi đây là nguồn vốn do cổ đông đóng góp hoặc vốn của người chủ. Tuy nhiên giải pháp này thường không thực tế đối với DNVVN vì thực tế người chủ doanh nghiệp hay cổ đông có nguồn tài chính hạn chế, họ không có khả năng bỏ ra nhiều hơn số vốn mà họ góp vào doanh nghiệp. Vay từ các nguồn vốn phi chính thức như vay từ các đối tác kinh doanh, từ bạn bè… thường có lãi suất cao, số lượng ít, rủi ro lớn không ổn định đối với DNVVN. Vay trên thị trường vốn, thị trường vốn của Việt Nam đươc thể hiện thông qua hoạt động trên thị trường chứng khoán. Mặc dù, thị trường chứng khoán đang ngày càng chuyển biến tích cực nhưng đối với các DNVVN để có thể vay vốn tại đó thì gặp nhiều khó khăn vì để vay vốn tại đó cần có rất nhiều điều kiện như chế độ tài chính minh bạch, làm ăn có lãi trong 2 năm liên tục… đây là điều mà rất ít DNVVN Việt Nam đáp ứng được. Thuê mua là phương thức có thể tài trợ một số thiết bị máy móc nào đó cho doanh nghiệp. Tại các nước phát triển, thuê mua là một biện pháp phổ biến, thuận lợi thay thế cho tín dụng trung và dài hạn, đặc biệt đối với các DNVVN khi gặp khó khăn trong vay vốn trung dài hạn tại các ngân hàng. Tại Việt Nam đã có một số công ty thuê mua tài chính chuyên về thực hiện hình thức này, tuy vậy thì đây cũng là hình thức mới nên nó chưa thực sự phát triển. Vì vậy, vay vốn tại ngân hàng đối với các DNVVN vẫn là biện pháp lâu dài. Ngân hàng đóng vai trò là người cung cấp vốn cho doanh nghiệp để mở rộng sản xuất kinh doanh, đầu tư đổi mới công nghệ,… 1.3.2.2 Nâng cao việc sử dụng vốn của các doanh nghiệp Vốn vay ngân hàng là nguồn vốn tài trợ có hiệu quả hơn cả đối với doanh nghiệp bởi nó thỏa mãn nhu cầu vốn về số lượng và thời hạn đặc biệt là chi phí vốn vay từ ngân hàng thấp hơn chi phí vốn vay từ các nguồn không chính thức khác. Hơn nữa, các DNVVN muốn có uy tín đối với ngân hàng để được vay vốn, họ cần có phương án sản xuất kinh doanh khả thi. Khi đã nhận được vốn vay thì quá trình hoạt động của doanh nghiệp sẽ chịu sự giám sát của ngân hàng, điều đó giúp cho doanh nghiệp phát hiện ra những nhược điểm, sai sót từ đó có những điều chỉnh kịp thời nhằm hạn chế những rủi ro đối vơi doanh nghiệp và kinh doanh có hiệu quả hơn. Các nguồn vay khác sẽ không có được điều này. Như vậy, vốn vay đã ràng buộc các DNVVN với ngân hàng từ đó giúp nâng cao năng lực quản lý vốn và quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh sao cho có hiệu quả nhất. 1.3.2.3. Thúc đẩy các DNVVN tăng cường thực hiện chế độ hạch toán kinh doanh Để tiếp cận được nguồn vốn từ ngân hàng, các DNVVN bắt buộc phải thực hiện chế độ hạch toán kinh doanh bởi các ngân hàng chỉ có thể cho vay nếu doanh nghiệp làm ăn có lãi, điều đó thể hiện thông qua các báo cáo tài chính của doanh nghiệp như bảng cân đối kế toán, kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Như vậy, ngân hàng thông qua tài trợ vốn đã giúp các DNVVN tăng cường chế độ hạch toán kinh doanh, quản lý mọi hoạt động của các DNVVN cho các cơ quan nhà nước. 1.4 Hiệu quả cho vay đối với DNVVN của NHTM 1.4.1 Khái niệm hiệu quả cho vay Hiệu quả cho vay là thuật ngữ phản ánh hiệu quả của hoạt động cho vay của các Ngân hàng thương mại, nó được cấu thành bởi hai yếu tố là mức độ an toàn và khả năng sinh lời của ngân hàng do hoạt động cho vay mang lại. Trong quá trình thực hiện nghiệp vụ cho vay, để quyết định bỏ vốn tài trợ vào một dự án nào đó, các ngân hàng phải đứng trước hai sự lựa chọn là lợi nhuận và rủi ro. Mức rủi ro càng cao thì khả năng sinh lời càng lớn. Vì thế trong một quyết định cho vay, ngân hàng có thể theo đuổi mục tiêu lợi nhuận cao hay thấp, song phải xác định được mối liên hệ giữa rủi ro và sinh lời để đảm bảo hoạt động cho vay đem lại lợi nhuận cao nhất với độ rủi ro thấp nhất. Cho vay được coi là hoạt động chủ yếu đối với bất kỳ một ngân hàng nào, mang lại lợi nhuận cao nhưng cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro đe dọa hoạt động kinh doanh của ngân hàng. 1.4.2 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả cho vay 1.4.2.1. Chỉ tiêu về tỷ trọng dư nợ Đối với một đối tượng khách hàng là doanh nghiệp nào đó như DNVVN: Tỷ trọng dư nợ của DNVVN = Dư nợ của DNVVN x 100 Tổng dư nợ Chỉ tiêu này phản ánh quy mô tín dụng đối với doanh nghiệp: Nếu tỷ trọng này lớn hơn hẳn so với tỷ trọng của các đối tượng khác chứng tỏ doanh nghiệp là đối tượng khách hàng vay vốn thường xuyên của ngân hàng và ngân hàng cũng rất coi trọng cho vay đối với đối tượng này. 1.4.2.2. Các chỉ tiêu về nợ quá hạn Nợ quá hạn là khoản nợ mà khách hàng không trả được khi đã đến hạn thỏa thuận ghi trong hợp đồng tín dụng. Các chỉ tiêu về nợ quá hạn phản ánh mức độ an toàn của hoạt động cho vay của ngân hàng. Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ cho vay. Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ cho vay là tỷ lệ giữa khoản nợ gốc quá hạn (hoặc bao gồm cả lãi quá hạn) trên tổng dư nợ cho vay của ngân hàng. Phần lớn các khoản nợ quá hạn là những khoản nợ có vấn đề, nợ khó đòi hoặc có khả năng mất vốn. Ngân hàng càng có nhiều khoản nợ quá hạn thì hiệu quả cho vay càng thấp, nguy cơ rủi ro càng cao. Tỷ lệ nợ quá hạn cho vay DNVVN= Đây là chỉ tiêu quan trọng phản ánh độ an toàn cho vay nói riêng và hiệu quả cho vay nói chung của NHTM. Nếu tỷ lệ này ở mức quá cao chứng tỏ chất lượng cho vay của ngân hàng là thấp kém. Có thể ngân hàng đã vi phạm một số nguyên tắc cơ bản khi cấp tín dụng là cho vay không phân tích kỹ khả năng trả nợ của khách hàng, tài sản thế chấp không đúng quy định, cho vay tùy tiện, thiếu kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ…và nhất là vi phạm các nguyên tắc về phân tán rủi ro tín dụng, tập trung vốn quá quy định vào một nhóm khách hàng hoặc một ngành kinh tế. Nếu tỷ lệ này ở mức quá thấp, thể hiện quan điểm của ngân hàng khi cho vay là nếu không đủ tin tưởng thì không cho vay, cho vay đảm bảo thực hiện đúng các nguyên tắc tín dụng, nguyên tắc phân tán rủi ro, kiểm soát chặt chẽ các khoản vay của khách hàng. Nếu tỷ lệ này ở mức vừa phải, thể hiện chiến lược kinh doanh táo bạo của ngân hàng là chấp nhận rủi ro trong một chừng mực nhất định để có thể đạt được lợi nhuận cao. Ngân hàng thực hiện chiến lược này đã thể hiện khả năng quản lý cao trong việc kiểm soát rủi ro tín dụng của mình. Như vậy để hoạt động cho vay đem lại lợi nhuận cao đồng thời hạn chế được rủi ro cho ngân hàng thì các NHTM cần khống chế tỷ lệ này ở mức nào đó có thể chấp nhận được. Tỷ lệ nợ quá hạn phản ánh rủi ro đối với các khoản cho vay và hậu quả có thể xảy ra cho ngân hàng từ các khoản nợ quá hạn, nó cho biết tỷ lệ dư nợ cho vay có nguy cơ gây mất vốn một phần hoặc toàn bộ cho ngân hàng trên tổng dư nợ cho vay các doanh nghiệp. Tuy nhiên, tỷ lệ nợ quá hạn chỉ xem xét đến việc hoàn trả khi đã quá hạn chứ không xét đến tổng dư nợ có nguy cơ quá hạn. Nếu khoản vay tăng nhanh thì việc sử dụng tỷ lệ nợ quá hạn có thể phản ánh mức độ rủi ro từ hoạt động cho vay không chính xác cho các NHTM. Số dư nợ cho vay ra tăng, cùng với số tiền cho vay được giải ngân trong khi đó số dư nợ đến hạn chỉ tăng khi các khoản nợ đến kỳ hạn phải trả. Tốc độ tăng nhanh của các khoản cho vay có thể che dấu đi phần nợ quá hạn, nó không tính đến chỉ số đánh giá an toàn hoạt động cho vay. Do vậy các NHTM khi cho vay phải thận trọng khi xem xét độ an toàn của hoạt động cho vay bằng việc xác định kỳ hạn nợ hợp lý. Tỷ lệ nợ khó đòi trên tổng dư nợ quá của các DNVVN Nợ khó đòi là khoản nợ quá hạn đã quá một kỳ gia hạn nợ. Khi đến hạn mà khách hàng không có khả năng hoàn trả do gặp phải khó khăn nào đó trong sản xuất kinh doanh, ngân hàng thường gia hạn nợ cho khách hàng, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có thời gian thu xếp để trả nợ ngân hàng. Nợ khó đòi là một lời cảnh báo cho ngân hàng, việc thu nợ trở nên mong manh hơn, ngân hàng cần có biện pháp hữu hiệu để đảm bảo thu hồi được vốn, tránh tổn thất cho ngân hàng. Ngoài tỷ lệ nợ quá hạn, các ngân hàng còn sử dụng chỉ tiêu tỷ lệ nợ khó đòi trên tổng dư nợ quá hạn hoặc tỷ lệ nợ quá hạn có khả năng thu hồi trên tổng dư nợ cho vay quá hạn để qua đó đánh giá xem có khả năng thu hồi được vốn hay không và thu hồi được bao nhiêu, bao nhiêu % không có khả năng thu hồi. Như vậy sử dụng thêm các chỉ tiêu này giúp ngân hàng đánh giá được chi tiết hơn về độ an toàn trong cho vay. Tuy nhiên chỉ tiêu này cũng chưa cho phép ngân hàng đánh giá được chính xác khoản nợ nào có khả năng thu hồi được, khoản nợ nào không có khả năng thu hồi. Các chỉ tiêu này có liên quan chặt chẽ với nhau và phản ánh các mức độ rủi ro khác nhau do vậy khi đánh giá mức độ an toàn của các khoản cho vay các ngân hàng cần kết hợp nhiều chỉ tiêu để có cái nhìn cụ thể đối với từng khoản vay. Mặt khác khi đánh giá các chỉ tiêu này cần chú ý đến các yếu tố có thể làm cho các chỉ tiêu này bị biến dạng như định kỳ hạn trả nợ không đúng, không phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp khiến các doanh nghiệp không thể trả được nợ, hoặc do khi đảo nợ, giãn nợ không xem xét thận trọng các khoản vay làm cho các chỉ tiêu nợ quá hạn, nợ khó đòi không phản ánh đầy đủ rủi ro cho vay. 14.2.3. Tỷ lệ mất vốn Tỷ lệ mất vốn là tỷ số giữa số vốn bị mất do xóa nợ cho kì báo cáo trên tổng dư nợ bình quân của kỳ báo cáo. Các khoản nợ quá hạn loại 5 (Nợ có khả năng mất vốn) sau khi được xóa nợ, đưa ra khỏi bảng cân đối kế toán để tiếp tục theo dõi thì được xem như nợ không có khả năng thu hồi. Nếu số vốn cho vay của các ngân hàng thương mại được xóa nợ nhiều tức là tỷ lệ mất vốn cao chứng tỏ hiệu quả cho vay của NHTM bị đe dọa cả về mức độ an toàn và khả năng sinh lời. Tỷ lệ này có thể cung cấp cho các NHTM thấy được những khoản vay có khả năng bị mất và các khoản vay bị mất thực sự, cung cấp một cái nhìn về mối tương quan giữa số vốn cho vay bị mất trong tổng số vốn cho vay bình quân. Do vậy chỉ tiêu này được sử dụng để phân tích cùng với các chỉ tiêu nợ quá hạn để phản ánh mức độ an toàn nói riêng và hiệu quả hoạt động cho vay nói chung của các ngân hàng thương mại. 1.4.2.4. Tỷ lệ thu nhập từ hoạt động cho vay DNVVN trên tổng thu nhập từ hoạt động cho vay Là tỷ số giữa thu nhập từ hoạt động cho vay DNVVN với tổng thu nhập của hoạt động cho vay. Hoạt động cho vay đặc biệt là cho vay Doanh nghiệp là hoạt động cơ bản mạng lại thu nhập cao cho ngân hàng. Vì thế để đánh giá hiệu quả cho vay DNVVN phải xem xét đến tỷ trọng thu nhập của hoạt động cho vay DNVVN trong tổng thu nhập của hoạt động cho vay. Hiệu quả hoạt động cho vay DNVVN cao phải thể hiện ở tỷ lệ thu nhập từ hoạt động cho vay trên tổng thu nhập từ hoạt động cho vay cao. Để đánh giá đúng hiệu quả cho vay DNVVN của NHTM cần kết hợp phân tích nhiều chỉ tiêu với nhau, mỗi chỉ tiêu sẽ cho thấy được những khía cạnh khác nhau trong hoạt động cho vay của NHTM, giúp NHTM đánh giá được những kết quả đạt được cũng như những khó khăn mà ngân hàng gặp phải trong hoạt động cho vay. 1.4.3 Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả cho vay đối với DNVVN của NHTM DNVVN có vai trò hết sức quan trọng trong việc phát triển kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội. Ở Việt Nam, với hơn 90% doanh nghiệp hiện có là DNVVN, trong đó DNVVN chiếm 33,6% trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, 94,6% công ty trách nhiệm hữu hạn, 99% doanh nghiệp tư nhân và 75,9% doanh nghiệp Nhà nước, gần 100% doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực ở nông thôn là DNVVN. Với khoảng 230.000 doanh nghiệp, trong đó khoản 95% là DNNVV đóng góp khoảng 30% vào GDP mỗi năm cung cấp khoảng trên 30% tổng sản lượng công nghiệp và tạo ra khoảng 40% lao động việc làm…chưa kể các HTX, các hộ kinh doanh có thể chuyển lên được thành doanh nghiệp. Tuy nhiên, hiện nay các DNVVN gặp phải nhiều khó khăn trong sản xuất kinh doanh và cạnh tranh trên thị trường, sự tiếp cận các nguồn tài chính và tín dụng của các DNVVN gặp nhiều hạn chế. Nguyên nhân là do các DNVVN thành lập với số vốn nhỏ, hoạt động chưa ổn định, một số DNVVN sau một thời gian kinh doanh đã rút lui, thay tên đổi chủ gây nên tâm lý lo ngại cho các NHTM khi tiếp cận với DNVVN. Hiệu quả sản xuất kinh doanh của DNVVN bị hạn chế, khả năng sinh lời thấp, hoàn trả vốn khó khăn tạo cho NHTM tâm lý ngại tiếp cận. Một bộ phận nhỏ DNVVN hoạt động mang tính lừa đảo, các dự án phát triển sản xuất kinh doanh thiếu tính khả thi, thiếu chiến lược kinh doanh, chưa tạo lập được uy tín và có độ rủi ro quá cao đối với các ngân hàng. Hơn nữa rất nhiều NHTM hiện nay đặc biệt là các NHTM Nhà nước còn chưa tạo điều kiện thuận lợi cho các DNVVN tiếp cận với nguồn tín dụng của ngân hàng. Các NHTM thiếu thông tin về DNVVN, mặt khác năng lực thẩm định dự án còn có nhiều hạn chế. Do đó, việc nâng cao hiệu quả cho vay DNVVN là một sự cần thiết khách quan, bởi các DNVVN là bộ phận khách hàng có tiềm năng rất lớn. Băng cách đưa ra chính sách hỗ trợ tài chính phát triển phù hợp cho các DNVVN thì chắc chắn nó sẽ mang lại cho các ngân hàng nguồn thu nhập đáng kể, tránh được rủi ro đồng thời tạo điều kiện cho các DNVVN tiếp cận được nguồn vốn lớn phục vụ cho sản xuất kinh doanh. Khi hoạt động sản xuất của các DNVVN có hiệu quả thì hoạt động cho vay của NHTM cũng sẽ có hiệu quả hơn. 1.4.3.1. Đối với Ngân hàng thương mại - Nâng cao hiệu quả cho vay DNVVN giúp ngân hàng khảo sát được rủi ro từ việc phân tích các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả cho vay. Qua đó đánh giá được mức độ rủi ro và khả năng sinh lời của các khoản cho vay DNVVN. Rút ra được các vấn đề cần tập trung giải quyết giúp các NHTM tránh được những rủi ro do hoạt động cho vay DNVVN đem lại. - Nâng cao hiệu quả cho vay DNVVN làm tăng doanh thu và lợi nhuận cho ngân hàng. Đồng thời giúp các NHTM thu thập được nhiều thông tin về khach hàng, đánh giá, phân loại được từng đối tượng khách hàng để có các chính sách khác nhau cho từng loại khách hàng, giúp ngân hàng hạn chế được rủi ro và chính điều đó cũng làm tăng lợi nhuận cho ngân hàng. Trong quá trình đánh giá hiệu quả cho vay đối với DNVVN, bằng cách phân đoạn thị trường các NHTM sẽ xác định được thị trường mục tiêu đem lại nguồn lợi nhuận. Kết hợp với các chính sách ưu đãi về lãi suất và điều kiện vay vốn phù hợp để khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng các sản phẩm dịch vụ của mình từ đó làm tăng thu nhập và nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường tài chính. - Nâng cao hiệu quả cho vay DNVVN giúp các doanh nghiệp tiếp cận được nguồn vốn ngân hàng thuận lợi hơn. Khi các doanh nghiệp tiếp cận được với nguồn vốn của các NHTM thì quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trở nên thuận lợi hơn. Các doanh nghiệp buộc phải đưa ra được phương án sử dụng vốn có tính khả thi cao, mang lại hiệu quả cho doanh nghiệp từ đó hoạt động cho vay của NHTM cũng có được nâng cao hơn, ngân hàng không những không gặp phải rủi ro do khách hàng không trả nợ được đúng hạn mà còn thu được phần lợi nhuận cho mình, vị trí của ngân hàng dưới cái nhìn của các nhà doanh nghiệp cũng được nâng cao lên một bước. Tuy nhiên cả ngân hàng và doanh nghiệp cần phải cân nhắc kỹ trước khi quyết định vay và cho vay, cần xác định tỷ lệ vốn vay hợp lý để tránh được rủi ro cho ngân hàng nhưng đồng thời cũng không bỏ qua cơ hội kinh doanh tốt của doanh nghiệp. 1.4.3.2 Đối với doanh nghiệp - Nâng cao hiệu quả cho vay DNVVN giúp các doanh nghiệp này nâng cao được hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Một trong những nguyên tắc cho vay là phải trả lãi và gốc đúng hạn. Do đó doanh nghiệp khi đi vay phải tính toán chính xác các chi phí sản xuất kinh doanh, tốc độ quay vòng của vốn, giá thành sản phẩm…sao cho sau một chu kỳ sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp sẽ thu được không chỉ đủ để trả nợ ngân hàng mà còn có lợi nhuận để lại cho doanh nghiệp. Chính vì vậy, thực hiện đúng nguyên tắc này không chỉ đảm bảo an toàn hoạt động cho ngân hàng mà còn buộc các doanh nghiệp phải nâng cao khả năng hạch toán kinh doanh, tổ chức sản xuất kinh doanh, sử dụng vốn một cách có hiệu quả. - Nâng cao hiệu quả cho vay DNVVN buộc công tác hạch toán kế toán của các doanh nghiệp phải rõ ràng minh bạch hơn. Bản báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ và bảng cân đối kế toán… là những tài liệu quan trọng không thể thiếu trong hồ sơ vay vốn để ngân hàng phân tích và thẩm định năng lực tài chính và khả năng hoạt động của doanh nghiệp. Những tài liệu này nếu không được trình bày rõ ràng, minh bạch, không chứng minh được khả năng tài chính lành mạnh của doanh nghiệp thì sẽ gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc vay vốn. Việc phân tích các bản báo cáo tài chính của doanh nghiệp giúp các ngân hàng đưa ra được những quyết định tín dụng đúng đắn về hạn mức tín dụng, lãi suất, thời hạn vay vốn, phương thức trả gốc và lãi…Vì thế doanh nghiệp khi đi vay phải chuẩn bị đầy đủ và chính xác các thủ tục cần thiết này để tạo điều kiện cho việc vay vốn được thuận lợi, tiết kiệm được thời gian nhằm đảm bảo được nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra đúng chu kỳ. - Nâng cao hiệu quả cho vay của NHTM làm tăng khả năng cạnh tranh và uy tín cho DNVVN. Việc nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay DNVVN giúp các doanh nghiệp tiếp cận đẽ dàng hơn với nguồn vốn tín dụng của ngân hàng từ đó nâng cao năng lực tài chính cho các doanh nghiệp, khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ từ đó cũng được nâng lên. Các DNVVN có khả năng tiếp cận được với công nghệ sản xuất hiện đại, mở rộng được thị trường tiêu thụ sản phẩm, có điều kiện mở rộng quan hệ hợp tác với các đối tác trong nước và nước ngoài từ đó giúp các doanh nghiệp có được một chỗ đứng trên thị trường. 1.4.3.3 Đối với nền kinh tế Việc nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay DNVVN tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, đồng thời giúp cho hoạt động cho vay của các NHTM cũng hiệu quả hơn, đem lại lợi nhuận cao với mức rủi ro thấp. Vì vậy mà thúc đẩy được nền kinh tế phát triển. Mặt khác việc nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay buộc ngân hàng phải có một cơ cấu vốn, một chính sách tín dụng hợp lý từ đó giải quyết được mối quan hệ cung cầu về vốn trong nền kinh tế. Đồng thời cũng tạo điều kiện để mở rộng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt, giảm thiểu được lượng tiền mặt trong lưu thông, tiết kiệm chi phí lưu thông cho xã hội. Nâng cao hiệu quả cho vay doanh nghiệp tạo đà cho việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng uy tín cho ngân hàng đồng thời góp phần kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, thực hiện ổn định tiền tệ. Nâng cao hiệu quả cho vay sẽ thúc đẩy sự phát triển của các DNVVN, góp phần quan trọng trong việc thực hiện các quy hoạch, chương trình phát triển kinh tế của nền kinh tế quốc dân, giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, xóa đối giảm nghèo, khơi đậy các tiềm năng phát triển của địa phương, cung cấp ngày càng nhiều sản phẩm cho xã hội… Như vậy có thể nói nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay DNVVN của các NHTM có vai trò hết sức quan trọng đối với hoạt động cho vay của NHTM cung như hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Nâng cao hiệu quả cho vay giúp ngân hàng tránh được những rủi ro, nâng cao mức thu nhập đồng thời giúp cho các DNVVN khắc phục được những nhược điểm về vốn, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và năng lực cạnh tranh trên thị trường, từ đó thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế và cả xã hội. 1.5 Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả cho vay DNVVN 1.5.1 Các nhân tố khách quan Môi trường pháp lý. Xã hội phát triển cần phải có một môi trường pháp lý ổn định. Pháp luật có vai trò hết sức quan trọng đối với hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động cho vay nói riêng, nó ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả cho vay của ngân hàng. Pháp luật ban hành không hợp lý, đồng bộ sẽ gây khó khăn cho sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp cũng như hoạt động của ngân hàng. Ngược lại, hệ thống pháp luật đồng bộ và hợp lý sẽ tạo ra môi trường pháp lý lành mạnh, bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi để phat triển sản xuất kinh doanh; bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho ngân hàng và cả khách hàng, tiết kiệm được thời gian và chi phí cho ngân hàng và doanh nghiệp… Trong những năm qua, Nhà nước ta đã ban hành bổ sung, sửa đổi nhiều văn bản pháp luật có liên quan đến quan hệ cho vay của NHTM như luật các tổ chức tín dụng, luật doanh nghiệp, Nghị định số 90/ 2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001 về trợ giúp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, Quyết đinh số 193/2001/TT- BTC ngày 29/9/2001 về thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng cho các DNVVN, Thông tư số 01/2006/TT-NHNN ngày 20/02/2006 của Ngân hàng Nhà nước về hướng dẫn một số nội dung về thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng cho các DNVVN … Môi trường kinh tế. Sự phát triển kinh tế của đất nước có tác động rất nhiều đến hoạt động cho vay bởi nhu cầu tín dụng của các doanh nghiệp phụ thuộc nhiều vào sự tăng trưởng kinh tế. Nền kinh tế tăng trưởng ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho môi trường kinh doanh phát triển, nhu cầu tiêu dùng của dân cư tăng lên, đó cũng là cơ hội tốt cho các doanh nghiệp đầu tư mở rộng sản xuất do đó nhu cầu tín dụng của doanh nghiệp cũng được tăng lên tương ứng, tạo điều kiện cho các NHTM mở rông hoạt động cho vay. Khi nền kinh tế tăng trưởng ổn định làm cho giá cả được giữ ở mức ổn định, tình trạng lạm phát ở mưc kiểm soát được tạo điều kiện cho ngân hàng mở rộng được quy mô hoạt động và tránh được những thiệt hại cho ngân hàng do sự mất giá của đồng tiền từ đó hiệu quả cho vay của ngân hàng có điều kiện để được nâng cao. Ngược lại khi nền kinh tế trong giai đoạn trì trệ, suy thoái, sản xuất kinh doanh bị đình trệ, quy mô sản xuất thu hẹp, nhu cầu đầu tư giảm mạnh, thua lỗ kéo dài dẫn đến các khách hàng của ngân hàng gặp khó khăn trong việc trả nợ, hiệu quả cho vay của ngân hàng bị giảm sút. Các chủ trương chính sách vĩ mô của Nhà nước. Hoạt động cho vay của NHTM cũng chịu những tác động lớn từ các chủ trương chính sach của nhà nước. Việc Nhà nước đưa ra những định hướng, chính sách, mục tiêu phát triển kinh tế xã hội đặc biệt là chính sách tiền tệ quốc gia có ảnh hưỏng đặc biệt đến hoạt động cho vay của NHTM bởi hoạt động cho vay của NHTM chịu tác động trực tiếp từ các công cụ của chính sách tiền tệ như dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở, chính sách chiết khấu và tái chiết khấu… Ngoài ra các chính sách kinh tế vĩ mô như chính sách thuế, chính sách xuất nhập khẩu.v.v.. có tác động đến mọi hoạt động của nền kinh tế vì thế nó tác động trực tiếp đến các doanh nghiệp là các khách hàng vay vốn của NHTM. Nếu các chính sách này không tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư, gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh thì chắc chắn hiệu quả cho vay của các NHTM cũng bị giảm sút. Môi trường chính trị- xã hội. Mỗi quốc gia có một môi trường chính trị xã hội khác nhau. Quốc gia nào có môi trường chính trị- xã hội ổn định và phát triển sẽ tạo điều kiện thuận lợi và yên tâm cho các nhà đầu tư. Xã hội có ổn định thì nền kinh tế mới được phát triển, bất cứ một sự biến động nào về chính trị hay xã hội cũng đều gây ra sự xáo động cho toàn bộ nền kinh tế. Do đó mà sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng bị ảnh hưởng, làm tác động đến hoạt động của ngân hàng trong đó có hoạt động cho vay. Các yếu tố bất khả kháng. Những tổn thất do thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh… là những yếu tố bất khả kháng mà các doanh nghiệp phải gánh chịu trong quá trình sản xuất kinh doanh. Chúng làm giảm khả năng trả nợ thậm chí là mất khả năng trả nợ của doanh nghiệp đối với ngân hàng. Điều này ảnh hưởng lớn đến hiệu qủa cho vay của ngân hàng. Các nhân tố thuộc về doanh nghiệp Trở ngại lớn nhất hiện nay cho các DNVVN đi vay vốn là năng lực tài chính yếu kém, thiếu tài sản thế chấp, phương án sản xuất kinh doanh chưa có tính khả thi cao, thông tin kế toán chưa đáng tin cậy, hơn nữa trình độ quản lý của chủ doanh nghiệp yếu nên nhiều doanh nghiệp chưa đủ sức để cạnh tranh trên thị trường có thể dẫn đến việc sản xuất kinh doanh không có hiệu quả, ảnh hưởng đến việc trả nợ cho ngân hàng làm cho hoạt động cho vay của ngân hàng không có hiệu quả. Với quy mô vốn nhỏ, thiếu tài sản thế chấp dẫn làm cho doanh nghiệp không đủ điều kiện vay vốn. Các DNVVN chủ yếu tận dụng nguồn lao động rẻ tại địa phương nên trình độ chuyên môn, tay nghề của lao động thấp, kể cả chủ doanh nghiệp nên nhiều doanh nghiệp chưa xây dựng được các phương án sản xuất kinh doanh, các dự án đầu tư có tính khả thi cao để thuyết phục các nhà ngân hàng bỏ vốn đầu tư, ngân hàng không mở rộng được cho vay DNVVN nên hiệu quả cho vay không cao. Do yếu kém về quản trị, không ít doanh nghiệp lập báo cáo tài chính chưa rõ ràng, minh bạch. Có những doanh nghiệp cố tình cung cấp thông tin không chính xác, không trung thực cho ngân hàng. Điều này gây khó khăn cho ngân hàng trong việc nắm bắt tình hình sản xuất kinh doanh cũng như việc theo dõi, giám sát sử dụng vốn của doanh nghiệp, do vậy hoạt động cho vay DNVVN của NHTM có thể gặp rủi ro, hiệu quả cho vay bị giảm sút. Tư cách đạo đức của doanh nghiệp cũng là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến hiệu quả cho vay của ngân hàng. Nhiều khách hàng sẵn sàng mạo hiểm với kỳ vọng thu được lợi nhuận cao, họ sẵn sàng dùng mọi thủ đoạn để lừa gạt ngân hàng làm cho ngân hàng không xác định được chính xác về mục đích sử dụng vốn dẫn đến rủi ro cho ngân hàng. Có những trường hợp doanh nghiệp kinh doanh có lãi nhưng vẫn chây ì không trả nợ đúng hạn cho ngân hàng. Đặc biệt như trong giai đoạn hiện nay khi nhà nước áp dụng hạn mức tín dụng. Lãi suất cho vay tăng cao từ 18 – 21%/ năm thì một số doanh nghiệp cố tình để các khoản vay quá hạn và chấp nhận chịu lãi phạt. Nguyên nhân của sự chây ì này một phần là do thủ tục vay vốn rườm rà hoặc có thể tại thời điểm phải trả nợ nhà nước lại thay đổi chính sách tiền tệ hoặc doanh nghiệp đang có một phương án sản xuất kinh doanh có khả năng đem lại lợi nhuận cao vì thế họ sử dụng số vốn đáng lẽ phải trả nợ cho ngân hàng để tiếp tục đầu tư thực hiện phương án mới. Họ có thể trả món vay cũ để xin vay lại nhưng vì thủ tục vay vốn ngân hàng phải mất nhiều thời gian, không kịp để thực hiện phương án sản xuất kinh doanh hoặc do lãi suất liên tục tăng cao nên họ xin gia hạn nợ, nếu ngân hàng gia hạn nợ quá nhiều sẽ làm giảm độ an toàn và chất lượng của khoản vay. Việc các doanh nghiệp sử dụng vốn của ngân hàng không đúng đối tượng kinh doanh, không đúng với phương án, mục đích xin vay, thậm chí có những doanh nghiệp còn sử dụng vốn vay ngắn hạn để đầu tư vào tài sản cố định hoặc kinh doanh bất động sản… làm cho vốn đầu tư của ngân hàng đứng trước rủi ro lớn, hiệu quả cho vay bị suy giảm. Như vậy DNVVN cũng là những nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến hiệu quả cho vay của ngân hàng bởi DNVVN là đối tượng khách hàng lớn chủ yếu của các NHTM. Hoạt động cho vay của NHTM có hiệu quả hay không không chỉ phụ thuộc vào khả năng, trình độ chuyên môn của ngân hàng mà còn phụ thuộc nhiều vào bản thân doanh nghiệp. 1.5.2 Các nhân tố chủ quan Đó là các nhân tố thuộc về bản thân ngân hàng. Các nhân tố này đóng vai trò quan trọng nhất quyết định đến hiệu quả cho vay của các NHTM. Đó là : - Chiến lược kinh doanh của ngân hàng: Chiến lược kinh doanh là nhân tố ảnh hưởng đầu tiên tới hiệu quả cho vay của ngân hàng. Những chiến lược kinh doanh đúng đắn trong ngắn hạn và cả trong dài hạn giúp NHTM vạch ra được những kế hoạch bộ phận đúng đắn cho từng thời kỳ để đảm bảo thực hiện được các mục tiêu đề ra đặc biệt những kế hoạch có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả cho vay như kế hoạch tăng trưởng tín dụng, kế hoạch huy động vốn, kế hoạch Marketing ngân hàng vv.. - Chính sách tín dụng. Chính sách tín dụng của một NHTM là hệ thống các biện pháp liên quan đến việc mở rộng hay thu hẹp tín dụng để đạt được mục tiêu đã hoạch định của ngân hàng. Chính sách tín dụng phản ánh cương lĩnh tài trợ của ngân hàng, trở thành hướng dẫn chung cho cán bộ tín dụng và các nhân viên ngân hàng, tăng cường chuyên môn hóa trong phân tích tín dụng, tạo sự thống nhất chung trong hoạt động tín dụng nhằm hạn chế rủi ro và nâng cao khả năng sinh lời. Chính sách tín dụng bao gồm chính sách khách hàng, chính sách quy mô và giới hạn tín dụng, chính sách về lãi suất và phí suất tín dụng, chính sách về thời hạn và kì hạn nợ, chính sách về tài sản đảm bảo… Các chính sách này đảm bảo cho hoạt động tín dụng đi đúng hướng, nó có ý nghĩa quyết định đến sự thành công hay thất bại của hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động cho vay của ngân hàng nói riêng. Một chính sách tín dụng đúng đắn sẽ thu hút được nhiều khách hàng vay vốn, đảm bảo khả năng sinh lời từ hoạt động tín dụng cho ngân hàng trên cơ sở phân tán được rủi ro, tuân thủ pháp luật, đường lối chính sách của Nhà nước. Như vậy để đảm bảo hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động cho vay nói riêng của NHTM thực sự mang lại lợi nhuận cao cho ngân hàng thì các ngân hàng đều phải xây dựng được một chính sách tín dụng hợp lý, đảm bảo điều kiện thuận lợi cho khách hàng khi vay vốn cũng như đảm bảo an toàn trong cho vay của các NHTM nhưng đồng thời vẫn đảm bảo mức sinh lời cho ngân hàng. Phân tích tín dụng Tín dụng là hoạt động sinh lời lớn nhất song cũng là hoạt động rủi ro nhất của NHTM. Rủi ro này có rất nhiều nguyên nhân có thể gây ra tổn thất làm giảm thu nhập của ngân hàng. Do vậy các ngân hàng phải cân nhắc kỹ lưỡng, ước lượng khả năng rủi ro và sinh lời khi đưa ra quyết định cho vay. Đó chính là quá trình phân tích tín dụng. Phân tích khách hàng trong quan hệ tín dụng của ngân hàng chính là phân tích tín dụng. Nó bao hàm việc đưa ra và áp dụng chính sách tín dụng của ngân hàng đối với khách hàng… Phân tích tín dụng phải được thực hiện trước, trong và sau khi cho vay, đây là một công việc hết sức quan trọng, quyết định đến chất lượng của hoạt động cho vay giúp ngân hàng nắm được những thông tin về khách hàng, xác định được những rủi ro có thể xảy ra đối với các khoản cho vay. Nhờ đó hiệu quả hoạt động cho vay của NHTM được đảm bảo. - Quy trình cho vay Quy trình cho vay là thứ tự các bước mà cán bộ tín dụng và những người có liên quan, có thẩm quyền cần thực hiện trong quá trình cho vay. Nó được bắt đầu từ khi tiếp xúc khách hàng để chuẩn bị lập hồ sơ vay vốn cho đến khi thu hồi được hết nợ và lưu lại các thông tin vế khách hàng. Hiệu quả cho vay có được đảm bảo hay không phụ thuộc nhiều vào quy trình tín dụng của ngân hàng. Việc thực hiện tốt các nội dung, quy định trong từng bước cùng với việc phân tích tín dụng hiệu quả sẽ giúp ngân hàng tránh được rủi ro cũng như nâng cao được hiệu quả cho vay. Trong quy trình cho vay, ngân hàng cần đặc biệt chú ý đến một số bước quan trọng như bước tiếp xúc tìm hiểu khách hàng, bước thẩm định, phân tích hồ sơ vay vốn, bước kiểm tra sử dụng vốn vay và bước thu nợ gốc và lãi. Tiếp xúc tìm hiểu khách hàng là một khâu quan trọng trong quá trình cho vay. Trong giai đoạn này, chuyên viên khách hàng cần thu thập được đầy đủ thông tin, có được những thông tin chính xác, trung thực để có được những đánh giá đầy đủ và tổng thể về khách hàng để làm cơ sở đưa ra quyết định cho vay và đề xuất hạn mức cho vay đối với khách hàng. Bước thẩm định và phân tích hồ sơ vay vốn (gồm có hồ sơ tài chính, hồ sơ phương án vay vốn, tài sản đảm bảo, hồ sơ pháp lý..) phải đảm bảo phân tích chính xác tính khả thi của phương án sản xuất kinh doanh, của các dự án đầu tư của doanh nghiệp như khả năng sinh lời của dự án, hiệu quả kinh tế mà dự án mang lại…cũng như phải đánh giá đúng tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, năng lực tài chính và khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Phải xác minh tính hợp pháp và đánh giá đúng giá trị tài sản thế chấp, cầm cố. Đây là khâu đặc biệt quan trọng, nó ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng cho vay của NHTM. Đây là một bước khó và rất quan trọng nên đòi hỏi cán bộ thẩm định phải là người có năng lực, khách quan để đảm bảo việc thẩm định diễn ra trung thực, nhanh chóng, chính xác, có như vậy mới tránh được những rủi ro phát sinh sau này cho ngân hàng. Kiểm tra sử dụng vốn vay là bước giúp ngân hàng nắm được diễn biến của khoản vốn đã cung cấp cho khách hàng để ngân hàng có những điều chỉnh, can thiệp kịp thời, sớm ngăn ngừa được rủi ro có thể xảy ra. Việc lựa chọn và áp dụng có hiệu quả các hình thức kiểm tra sử dụng vốn giúp ngân hàng thực hiện tốt được quá trình giải ngân thiết lập được hệ thống phòng ngừa hữu hiệu, tránh được tổn thất cho ngân hàng Thu hồi nợ gốc và lãi là khâu rất quan trọng, cho biết hoạt động cho vay của ngân hàng có thực sự mang lại lợi nhuận cho ngân hàng hay không? Sự nhạy bén của ngân hàng trong việc phát hiện kịp thời những biểu hiện bất lợi có thể xảy ra do doanh nghiệp mang lại và đưa ra những biện pháp xử lý kịp thời sẽ làm giảm tối thiểu những khoản nợ quá hạn, hạn chế đến mức thấp nhất tổn thất cho ngân hàng. - Hệ thống thông tin tín dụng. Hệ thống thông tin hữu hiệu, nắm bắt kịp thời, chính xác luồng thông tin về khách hàng là điều kiện để xem xét và ra quyết định cho vay, đề phòng được những rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động cho vay của ngân hàng. Sống trong môi trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay thì việc nắm bắt những thông tin về đối tác, về các đối thủ cạnh tranh là điều hết sức cần thiết. Đối với các NHTM, việc xây dựng hoàn chỉnh một hệ thống thông tin tín dụng với nhiều kênh, nhiều nguồn cung cấp, xử lý thông tin kịp thời…là một trong những điều kiện quyết định sự thành công trong công tác kinh doanh và nâng cao hiệu quả cho vay của NHTM. - Hiệu quả công tác huy động vốn Ngân hàng muốn thực hiện được hoạt động cho vay thì điều kiện tiên quyết nhất là phải phát triển được hoạt động huy động vốn tốt, từ đó mới có thể nâng cao được hiệu quả cho vay. Khi một ngân hàng có được chính sách tín dụng hợp lý, có chiến lược khách hàng tốt, thu hút được nhiều khách hàng vay vốn có uy tín nhưng số vốn huy động được không đủ để cấp tín dụng kho khách hàng thì không những hoạt động cho vay không thể tiến hành được mà còn mang lại rủi ro rất lớn. - Công tác thanh tra, kiểm tra Công tác này phải được thực hiện song song kết hợp giữa thanh tra, kiểm tra ngân hàng và kiểm tra, giám sát doanh nghiệp. Và phải được thực hiện một cách khách quan, trung thực có như vậy mới giúp ngân hàng tránh được những rủi ro mang tính chủ quan gây ra. - Trình độ của cán bộ ngân hàng Con người luôn là trung tâm của mọi hoạt động, con người là yếu tố quyết định đến sự thành công hay thất bại trong hoạt động sản xuất kinh doanh của bất cứ doanh nghiệp nào, hoạt động cho vay của NHTM cũng không nằm ngoài sự tác động đó. Hiệu quả cho vay cao hay thấp phụ thuộc khá nhiều vào công tác tuyển chọn và đào tạo đội ngũ cán bộ của mỗi NHTM. Một NHTM có được một đội ngũ cán bộ nhân viên có trình độ chuyên môn cao, phẩm chất đạo đức tốt thì việc thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng nói chung và nghiệp cho vay nói riêng sẽ trở nên có hệ thống, chuyên nghiệp và đạt hiệu quả cao hơn. Chương II : Thực trạng hiệu quả cho vay đối với các DNVVN tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn Chi nhánh Hà Nội 2.1 Giới thiệu khát quát về SCB Hà Nội 2.1.1 Lịch sử hình thành và hoạt động Giấy phép thành lập số 0113009192 do Sở Kế hoạch và Đầu tư TP Hà Nội cấp ngày 04/10/2005. Hình thức sở hữu vốn: cổ phần Thành phần ban giám đốc : Ông Trần Minh Cương : Giám đốc Bà Đoàn Thu Hương : Phó giám đốc Trụ sở chính : Số 04 Hồ Xuân Hương -P.Nguyễn Du-Q.Hai Bà Trưng- Hà Nội. Số phòng giao dịch : 06 Tổng số cán bộ : 90 người SCB Hà Nội là một trong những chi nhánh của Ngân hàng TMCP Sài Gòn được thành lập tháng 10/2005 và đầu năm 2006 bắt đầu đi vào hoạt động. Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn có nguồn gốc xuất thân từ ngân hàng thương mại cổ phần Quế Đô trước đây. NHTMCP Quế Đô được thành lập từ năm 1992. Trải qua 11 năm hình thành, đi vào hoạt động, củng cố, phát triển, đến tháng 4 năm 2003 thương hiệu NHTMCP Sài Gòn chính thức được giới thiệu trên thương trường thay thế cho thương hiệu NHTMCP Quế Đô trước kia. 2.1.2. Cơ cấu tổ chức SCB Hà Nội Sơ đồ cơ cấu tổ chức Ban Giám Đốc KSNB HC-NS Kế Toán Tín Dụng PGD Ngân Quỹ Các phòng ban: -Ban Giám Đốc: Gồm giám đốc và phó giám đốc. Giám đốc là người có trách nhiệm điều hành tổ chức thực hiện của chi nhánh và chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị và Tổng Giám đốc về mọi mặt hoạt động của chi nhánh. Phó giám đốc là người có trách nhiệm quản lý phòng hành chính nhân sự, phòng kế toán, phòng ngân quỹ đồng thời chịu sự chỉ đạo của Giám đốc. -Phòng Tín Dụng:Tham mưu cho BĐH về việc xây dựng chính sách tín dụng, chiến lược đầu tư trung, dài hạn và kế hoạch hàng năm của SCB đối với khách hàng. Tham mưu xây dựng quy chế, quy trình chuẩn của SCB đối với hoạt động kinh doanh. Tổ chức triển khai, quản lý và hỗ trợ hoạt động tín dụng trong toàn hệ thống SCB nhằm đạt chỉ tiêu doanh thu lợi nhuận tăng trưởng, hoạt động kinh doanh hiệu quả và an toàn theo kế hoạch do Ban Điều hành giao.Quản lý, giám sát, tập huấn triển khai bảo đảm việc thực hiện quy chế, quy trình, chính sách tín dụng được thống nhất, minh bạch trong tòan ngân hàng. Phối hợp các Phòng, Ban xác định danh mục cho vay của SCB trong từng thời kỳ, định mức tiêu chuẩn dòng sản phẩm đối với khách hang. -Phòng Kế toán: Quản lý hoạt động tài chính, kế toán tòan ngân hàng nhằm đảm bảo tuân thủ các chuẩn mực kế toán theo quy định và cung cấp thông tin kế toán quản trị. Xây dựng các quy trình, quy chế, hướng dẫn hạch toán cho toàn hệ thống SCB. Thực hiện công tác kế toán tài chính, kế toán tổng hợp, kế toán quản trị và kế toán chi tiết. -Phòng Ngân quỹ: Quản lý kho quỹ hội sở hoạt động an toàn hiệu quả, xử lý các nghiệp vụ liên quan đế n tiền mặt được nhanh chóng, chính xác, kịp thời. Quản lý tiền mặt tại Hội sở. Cân đối quỹ tiền mặt cho nhhu cầu toàn ngân hàng. -Phòng hành chính nhân sự (HC-NS): Quản lý hiệu quả chức năng nhân sự nhằm thu hút, duy trì và phát triển một đội ngũ nhân viên chất lượng cao cho ngân hàng. Phát triển nguồn nhân lực và quản lý nhân sự. Tham mưu cho Tổng Giám đốc về các lĩnh vực trong công tác lao động tiền lương, công tác đào tạo. -Phòng Kiểm soát nội bộ: Tham mưu cho Giám Đốc xây dựng và ban hành các cơ chế-chính sách, các quy chế-quy trình làm cơ sở pháp lý trong quá trình hoạt động, tham mưu trong công tác quản trị điều hành hoạt động của SCB trong mọi lúc-mọi nơi đều thông suốt, tuân thủ đúng pháp luật, kiểm soát rủi ro, phát triển an toàn-hiệu quả. Tham mưu cho Giám đốc về việc giải quyết các đơn thư khiếu nại tố cáo liên quan đến cán bộ nhân viên và hoạt động của SCB. Trực tiếp quản lý và điều hành hệ thống kiểm tra - kiểm soát nội bộ (KTKSNB) trong toàn hệ thống thực hiện công tác KT-KSNB trên tất cả mọi lĩnh vực hoạt động của SCB theo đúng quy chế-quy trình và quy định của SCB; đôn đốc kiểm tra-giám sát, báo cáo Tổng Giám Đốc về tình hình chỉnh sửa các sai sót theo kiến nghị của Thanh tra NHNN, của các ngành chức năng và của KTNB. Đầu mối làm việc với Thanh tra NHNN và các cơ quan ban ngành hữu quan theo sự phân công-uỷ nhiệm của Giám Đốc. -Phòng Giao Dịch (PGD): là đơn vị hạch toán báo sổ và có con dấu riêng, được phép thực hiện một phần các nội dung hoạt động của Sở giao dịch/Chi nhánh theo ủy quyền của Giám đốc Sở Giao dịch/Chi nhánh theo các quy định của pháp luật, của Ngân hàng Nhà nước và của Ngân hàng TMCP Sài Gòn. 2.1.3 Kết quả hoạt động kinh doanh của SCB Hà Nội trong vài năm gần đây Hoạt động huy động vốn Bảng 1: Số liệu về tình hình huy động vốn Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu 2005 2006 % so với 2005 2007 % so với 2006 Tổng nguồn vốn huy động 135.479,4 1.096.817,72 809,58% 6.556.112 597,74% + Tiền gửi của các tổ chức kinh tế 117.477,9 664.528,41 565.66% 452,033 68,02% + Tiền gửi từ dân cư 18.001,5 432.289,31 2.401,41% 6.104.079 1.412,04% (Nguồn từ Báo cáo tài chính của SCB Hà Nội năm 2005, 2006, 2007) Qua bảng số liệu cho thấy, năm 2006 tổng nguồn vốn huy động là 1.096,8 tỷ đồng, tăng 809,58% so với năm 2005. Tính đến năm 2007, tổng nguồn vốn huy động lên đến 6.556 tỷ đồng tăng 597,74% so với năm 2006 Về cơ cấu nguồn vốn: * Năm 2006: - Tiền gửi của các tổ chức kinh tế đạt 664 tỷ đồng tăng 565% so với năm 2005 khi chi nhánh mới bắt đầu đi vào hoạt động, chiếm tỷ trọng 61 % trong tổng số nguồn huy động. - Nguồn vốn huy động từ dân cư đạt 432 tỷ đồng, tăng 2.401,4% so với năm 2006. * Tính đến ngày 31/12/2007: - Tiền gửi của các tổ chức kinh tế là 452.033 tỷ đồng đạt mức 68% so vơi năm 2006. - Nguồn vốn huy động từ dân cư là 6.104 tỷ đồng tăng 1.412% so với năm 2006 Như vậy, về tốc độ tăng trưởng nguồn vốn huy động của chi nhánh SCB Hà Nội năm 2006, 2007 đạt mức cao đặc biệt so với các ngân hàng trên địa bàn Hà Nội nói chung và các chi nhánh của ngân hàng TMCP Sài Gòn nói riêng ( Tổng nguồn vốn của các ngân hàng trên địa bàn Hà Nội tăng 19,2% trong đó tiền gửi dân cư tăng 23,8%, tiền gửi các tổ chức kinh tế tăng 15,9%; 8 chi nhánh lớn trên địa bàn Hà Nội tăng 11,4% ( Theo Báo cáo tài chính Ngân hàng TMCP Sài Gòn năm 2007)). Huy động vốn của ngân hàng những tháng đầu năm chủ yếu tập trung từ nguồn huy động trên thị trường liên ngân hàng theo tỷ lệ huy động, bắt đầu huy động giữa thị trường cấp 1 tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng huy động trên thị trường 2 giúp ngân hàng có một cơ cấu vốn an toàn. Cuối năm 2007, tỷ lệ huy động vốn giữa thị trường cấp 1 và thị trường cấp 2 là: 7,5 : 2,5 đây là cơ vốn rất hợp lý cho hoạt động của ngân hàng. Nguồn vốn huy động từ thị trường cấp 1 tăng đều và ổn định qua các tháng. Mặc dù kể từ cuối quý II/2007, dự trữ bắt buộc của Ngân hàng nhà nước tăng đáng kể cùng với áp lực cạnh tranh ngày càng gia tăng đã gây ra một sức ép lớn lên chi phí huy động của các ngân hàng; nhưng bằng các chương trình tiết kiệm dự thưởng với lãi suất hấp dẫn cũng như với chính sách huy động trên thị trường cấp 1. Loại hình tiền gửi thanh toán với giá rẻ bên cạnh tiền gửi tiết kiệm mang tính ổn định cao đã tạo ra một cơ cấu vốn huy động hợp lý, ổn định cho hoạt động của ngân hàng. Có một khoảng thời gian nguồn vốn huy động ở thị trường cấp 2 bị sụt giảm do xu thế chung về thừa dự trữ thanh khoản của các NHTM và một phần do ngân hàng muốn cơ cấu lại tỷ trọng nguồn vốn huy động từ thị trường cấp 1 và cấp 2. Từ giữa quý II/2007 huy động từ thị trường cấp 2 đã tăng ổn định góp phần đảm bảo thanh khoản ở mức an toàn cho ngân hàng. Không chỉ riêng chi nhanh SCB Hà Nội mà các chi nhánh SCB khác cũng đều có bước tăng trưởng về nguồn vốn huy động trong năm 2007. Đây là điều kiện tiên quyết để đơn vị chủ động được nguồn tài chính sử dụng cho nhu cầu phát triển tín dụng, đầu tư với mục tiêu lợi nhuận. Xét về mức độ đóng góp giữa các đơn vị trong hệ thống SCB, chi nhánh SCB Hà Nội luôn là đơn vị dẫn đầu về thành tích huy động vốn. Phát huy lợi thế thị trường, bình quân SCB Hà Nội cung cấp từ 25% đến 30% nguồn vốn huy động cho toàn bộ hệ thống. Hoạt động tín dụng Nền kinh tế Việt nam trong nhưng năm gần đây liên tục tăng trưởng với tốc độ cao. Sự kiện Việt nam gia nhập WTO là một cơ hội tạo đà đưa nền kinh tế Việt nam phát triển nhanh và nhu cầu vốn cho nền kinh tế cũng tăng mạnh là một tất yếu. Nắm bắt được tình hình đó, ngân hàng đã không ngừng nâng cao năng lực, tái cơ cấu đồng thời chấn chỉnh lại bộ máy hoạt động, hoàn thiện qui trình nghiệp vụ cũng như qui trình quản lý. Bằng cách tung ra các sản phẩm tín dụng hấp dẫn, linh hoạt, phù hợp với từng nhóm đối tượng cụ thể. Hoạt động tín dụng của ngân hàng đạt mức tăng trưởng cao, tiếp tục duy trì khách hàng truyền thống. Đồng thời mở rộng đối tượng khách hàng vay mới. Các sản phẩm của ngân hàng đáp ứng được các nhu cầu đa dạng của các thành phần kinh tế, đặc biệt là kinh tế ngoài quốc doanh. Dư nợ cho vay Tổng dư nợ cho vay: Năm 2006 dư nợ cho vay là 391 tỷ đồng, tăng 349,34% so với năm 2005. Đến 31/12/2007 dư nợ cho vay là 1.051 tỷ đồng tăng 268,74% so với năm 2006. Dư nợ cho vay ngắn hạn Năm 2006 dư nợ cho vay ngắn hạn là 150.871 tỷ đồng, tăng 127,3 tỷ đồng ( gấp 6 lần) so với năm 2005. Đến 31/12/2007 dư nợ cho vay ngắn hạn là 614,995 tỷ đồng, tăng 464,124 tỷ đồng (407,63 %) so với năm 2006. Dư nợ cho vay trung và dài hạn: Năm 2006 dư nợ cho vay trung và dài hạn là 240,371 tỷ đồng, tăng 151,957 tỷ đồng ( 271,87%) so với năm 2005. Đến 31/12/2007 dư nợ trung và dài hạn là 436,442 tỷ đồng, tăng 196,071 tỷ đồng (181,57%) so với năm 2006. Bảng 2: Tình hình sử dụng vốn trong 03 năm qua như sau: Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu 2005 2006 % so với 2005 2007 % so với 2006 Tổng dư nợ cho vay + Ngắn hạn + Trung hạn và dài hạn 111.993,49 23.579,38 88.414,11 391.242 150.871 240.371 349,34% 639,84% 271,87% 1.051.437 614.995 436.442 268,74% 407,63% 181,57% (Nguồn từ Báo cáo tài chính của SCB Hà Nội năm 2006, 2007) Chất lượng tín dụng: Bảng 3: Chất lượng nợ cho vay Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu 2005 2006 2007 Nợ đủ tiêu chuẩn - 372.010 1.046.766 Nợ cần chú ý - 19.232 0,00 Nợ dưới tiêu chuẩn - 0,00 2.833 Nợ nghi ngờ - 0,00 1.838 Nợ có khả năng mất vốn - 0,00 0,00 TỔNG - 391.242 1.051.437 (Nguồn từ Báo cáo tài chính của SCB Hà Nội các năm 2006, 2007) Dù mức độ tăng trưởng nhanh đặc biệt năm 2007 nhưng hoạt động tín dụng của ngân hàng vẫn được đảm bảo về chất lượng. Tỷ trọng nợ quá hạn, nợ xấu trên tổng dư nợ ngày càng thấp. Đó là kết quả của việc áp dụng và kết hợp nhiều biện pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng, kiểm soát và thu hồi nợ quá hạn. Tổng dư nợ xấu năm 2006 (bao gồm nợ dưới tiêu chuẩn, nợ nghi ngờ, nợ có khả năng mất vốn) chiếm 4,92 % trên tổng dư nợ. Đến 31/12/2007, chỉ tiêu nợ đủ tiêu chuẩn tăng đáng kể trong khi đa phần các chỉ tiêu nợ khác đều có xu hướng giảm còn 0,44 % so với năm 2006. Kết quả tài chính Bảng 4: Kết quả hoạt động kinh doanh Đơn vị : Triệu đồng Chỉ tiêu 2005 2006 % so với 2005 2007 % so với 2006 Tổng thu nhập - 44.882 0,00 448.132 999% Tổng chi phí - 33.735 0,00 376.359 1.116% Lợi nhuận - 11.147 0,00 71.773 644% (Nguồn từ Thuyết minh Báo cáo tài chính SCB Hà nội năm 2005, 2006, 2007) Qua bảng số liệu trên ta thấy mặc dù mới đi vào hoạt động tháng 10/205 nhưng lợi nhuận của Chi nhánh phát triển mạnh đặc biệt là trong năm 2007, năm 2006 là 11,147 tỷ đồng, năm 2007 là 71,773 tỷ đồng chiếm 644% so với năm 2006. 2.2 Thực trạng về hiệu quả cho vay các DNVVN tại SCB Hà Nội 2.2.1 Dư nợ DNVVN/Tổng dư nợ: Bảng 5: Dư nợ DNVVN trên tổng dư nợ Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu 2005 Tỷ lệ % 2006 Tỷ lệ % 2007 Tỷ lệ % Tổng dư nợ 111,993.49 100% 391.242 100% 1.051.437 100% Dư nợ DNVVN 105,945.84 94,6% 354.052 90,5% 651.176 61,9% Doanh số thu nợ DNVVN 0,00 0,00 336.703,45 95,1% 648.311 99,56% (Nguồn từ Thuyết minh Báo cáo tài chính SCB Hà nội năm 2005, 2006, 2007) - Năm 2007 dư nợ cho vay DNVVN là 61,9% giảm 28,6% so với năm 2006 (là 90,5%). Nguyên nhân dư nợ cho vay DNVVN thấp và giảm so với năm 2006 là: Cuối năm 2007, ngân hàng Nhà nước dự kiến ra quyết định tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với khối các NHTM nhằm rút bớt tiền từ lưu thông về, chủ động kiểm soát tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán và tăng trưởng tín dụng mục tiêu kìm chế lạm phát ( theo Quyết định số 187/2008/QĐ-NHNN). Do đó, SCB Hà Nội chủ động giảm doanh số cho vay DNVVN. Đồng thời chi nhánh tăng doanh số dư nợ cho vay sang đối tượng khách hàng cá nhân. Trước mắt do là một ngân hàng trẻ mục tiêu của ngân hàng là mô hình ngân hàng bán buôn khi đã đi vào ổn định ngân hàng sẽ dần chuyển sang mô hình ngân hàng bán lẻ. - Doanh số thu nợ DNVVN năm 2006 là 95,1% sang năm 2007 tăng lên đến 99,56% . Việc doanh số thu nợ tăng do các khoản cho vay đến hạn trả và các khoản nợ xấu, nợ quá hạn đã đòi được, cho nên doanh số năm 2007 tăng đáng kể. _ Xét theo thời hạn tín dụng Tín dụng đối với các DNVVN có thể được phân loại thành các nghiệp vụ cho vay đó là: nghiệp vụ cho vay ngắn hạn và nghiệp vụ cho vay trung và dài hạn. Các doanh nghiệp vay vốn ngắn hạn nhằm đáp ứng yêu cầu vốn lưu động bị thiếu trong quá trình sản xuất kinh doanh. Các doanh nghiệp vay trung và dài hạn nhằm đáp ứng nhu cầu đầu tư vào trang thiết bị, cơ sở vật chất nhằm hiện đại hoá quy trình sản xuất và công nghệ. Bảng 6: Dư nợ DNVVN phân theo thời hạn tín dụng Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu 2005 Tỷ lệ % 2006 Tỷ lệ % 2007 Tỷ lệ % Dư nợ DNVVN 105.993,49 100% 354.052 100% 651.176 100% Ngắn hạn 22.364,63 21,1% 136.523 38,56% 380.938 58,5% Trung và dài hạn 83.628,86 78,9% 217.529 61,44% 270.238 41,5% (Thuyết minh Báo cáo tài chính SCB Hà nội năm 2005, 2006, 2007) Trong năm 2005, dư nợ ngắn hạn chiếm tỷ lệ thấp trong tổng dư nợ cho vay DNVVN ( 21,1%). Điều này chưa phù hợp với mô hình hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ vì các khoản vốn tín dụng ngắn hạn nhằm cung ứng nhu cầu về vốn lưu động cho các doanh nghiệp, phục vụ quá trình sản xuất kinh doanh như mua nguyên vật liệu, chi trả lương, các khoản vay cho mục đích thương mại và du lịch … với đặc điểm thu hồi vòng quay vốn nhanh. Tuy nhiên, tỷ trọng này đã tăng lên trong năm 2007 là 58,5%. Tỷ trọng dư nợ trung và dài hạn năm 2005 là 78,9% và sang năm đã giảm xuống mức 41,5% cho thấy nhu cầu đầu tư về máy móc, trang thiết bị, đổi mới công nghệ, nhà xưởng của các DNVVN đã giảm đáng kể. Đó cũng là mứ giảm hợp lý do thang 10 năm 2005 SCB Hà nội mới bắt đầu đi vào hoạt động. 2.2.2 Chỉ tiêu về nợ quá hạn Bảng 7: Nợ quá hạn DNVVN Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu 2005 2006 2007 Tổng dư nợ DNVVN 105.993,49 354.052 651.176 Nợ quá hạn - 17.348,55 1,758 Tỷlệ Nợ quá hạn/Tổng dư nợ DNVVN(%) - 4,9% 0,27% Nợ khó đòi - 0,00 1.107 Tỷ lệ Nợ khó đòi/Tổng dư nợ(%) - 0,00 0,17% ( Thuyết minh Báo cáo tài chính SCB Hà nội năm 2005, 2006, 2007) Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy, nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ DNVVN năm 2007 giảm mạnh so với năm 2006. Tỷ lên nợ xấu trên tổng dư nợ cho vay DNVVN là 0,17%. Đây là một tỷ lệ rất tốt so với hệ thống NHTM ở Việt Nam. Đạt được kết quả này là do trong năm 2007, ngân hàng đã đề ra kế hoạch cụ thể cho hoạt động cho vay doanh nghiệp là tiếp tục mở rộng doanh số hoạt động cho vay nhưng phải tập trung vào giải quyết các khoản nợ quá hạn, tích cực kiểm tra, giám sát các khách hàng để đảm bảo thu hồi được nợ. _ Phân chia nợ quá hạn theo thời hạn tín dụng: Bảng 8: Nợ quá hạn cho vay DNVVN theo thời hạn tín dụng Chỉ tiêu 2005 Tỷ lệ % 2006 Tỷ lệ % 2007 Tỷ lệ % Tổng nợ quá hạn DNVVN 0,00 0,00 17.348,55 100% 2.865 100% Ngắn hạn 0,00 0,00 3.330,92 19,2% 1.761,97 61,5% Trung và dài hạn 0,00 0,00 14.017,63 80,8% 1.103,03 38,5% ( Thuyết minh Báo cáo tài chính SCB Hà nội năm 2005, 2006, 2007) Cũng qua bảng trên, ta thấy tỷ trọng nợ quá hạn theo thời hạn tín dụng trong 3 năm qua có sự thay đổi rõ rệt. Tỷ trọng nợ quá hạn của các khoản vay ngắn hạn tăng, tỷ trọng của các khoản vay trung và dài hạn lại giảm mạnh từ 80,8% (năm 2006) còn 38,5% (năm 2007). Nguyên nhân là do từ năm 2007 Chi nhánh bắt đầu thực hiện việc xử lý các khoản nợ phân nhóm 3, nhóm 4 đồng thời đề ra những giải pháp tích cực, cụ thể nhằm thu hồi nợ xấu, nợ đã xử lý. Đối với hoạt động của ngân hàng thì việc chấp nhận một tỷ lệ nợ quá hạn là điều đương nhiên, ngân hàng có chấp nhận rủi ro thì mới thu được lợi nhuận, mà rủi ro tín dụng là điều rất có thể xảy ra ở bất kỳ một ngân hàng nào. Các ngân hàng không thể loại trừ nó ra khỏi hoạt động của mình, tuy nhiên phải tìm mọi cách để khống chế nó ở mức thấp nhất có thể chấp nhận được. 2.2.3 Tỷ lệ mất vốn Các khoản nợ quá hạn nhóm 5 ( Nợ khó đòi ) chiếm 0,17% (1,107 tỷ đồng) cho thấy số vốn vay của SCB Hà Nội được xóa nợ ít tức tỷ lệ mất vốn thấp. Do đó hiệu quả cho vay của SCB Hà Nội có mức độ an toàn và khả năng sinh lời khá cao. 2.2.4 Thu nhập từ cho vay DNVVN Từ năm 2007 Chi nhánh thực hiện việc xử lý các khoản nợ phân nhóm 3, nhóm 4, do đó chi phí do trích lập dự phòng tăng lên. Trong năm 2006 lãi thu từ hoạt động cho vay DNVVN là 28.009 tỷ đồng, sang năm 2007 đã tăng lên 48.114 tỷ đồng.(Theo thuyết minh báo cáo tài chính của SCB Hà nội năm 2006, 2007) 2.3 Đánh giá về hiệu quả cho vay DNVVN tại SCB Hà Nội 2.3.1 Những thành quả đạt được Trong năm 2007, việc cho vay DNVVN đã đạt được những thành công đáng kể. Tỷ lệ nợ quá hạn đã giảm xuống từ 4,9% ( năm 2006 ) còn 0,27% (năm 2007), đây là một chỉ tiêu quan trọng chứng minh rằng chất lượng cho vay DNVVN tại SCB Hà nội đã tăng lên trong năm qua. Ngân hàng đã tập trung vào việc phân loại các khoản nợ để có những biện pháp cụ thể đối với từng loại nợ và từng đối tượng khách hàng. Cùng với quá trình phân loại nợ, Ngân hàng đã thực hiện đầy đủ về trích lập dự phòng rủi ro theo quy định của Ngân hàng Nhà nước và của SCB Hà nội nên tổn thất từ cho vay DNVVN được kiểm soát. Thị trường DNVVN là thị trường mà ngân hàng TMCP Sài Gòn lựa chọn để đầu tư phát triển trong thời gian tới. Tuy xâm nhập vào thị trường này chưa lâu, nhưng hoạt động tín dụng của Ngân hàng đã phần nào góp phần vào việc đáp ứng nhu cầu về vốn cho quá trình sản xuất kinh doanh của DNVVN. 2.3.2 Những hạn chế và nguyên nhân 2.3.2.1 Những hạn chế còn tồn tại Bên cạnh những kết quả đã đạt được, hoạt động cho vay DNVVN tại SCB Hà Nội vẫn còn nhiều hạn chế, chất lượng hoạt động cho vay đối với DNVVN chưa cao. Đây là những khó khăn mà ngân hàng cần phải đối mặt và cần phải có biện pháp khắc phục. - Dư nợ tín dụng đối với DNVVN là 61,9% còn chiếm tỷ lệ thấp trong tổng dư nợ cho vay của Ngân hàng. Trong khi DNVVN đang ngày càng phát triển, thị trường hoạt động tín dụng đối với các DNVVN là rất lớn và có nhiều tiềm năng phát triển. Các DNVVN hoạt động chủ yếu ở các lĩnh vực thương mại, dịch vụ do đó nhu cầu về nguồn vốn tín dụng của ngân hàng là rất lớn nhưng vấn đề là vẫn chưa tiếp cận được. - Về chất lượng tín dụng, ngân hàng đã từng bước xây dựng và hoàn thiện quy chế hoạt động của quản lý tín dụng nhưng tỷ lệ nợ quá hạn đối với các DNVVN cũng như đối với toàn bộ nền kinh tế vẫn tồn tại, tỷ lệ nợ khó đòi là 0,17% ( năm 2007) phản ánh chất lượng tín dụng của ngân hàng chưa thật đảm bảo. Cho vay đối với các DNVVN vẫn chứa đựng nhiều rủi ro vì họ có vốn chủ sở hữu nhỏ bé, kinh nghiệm và trình độ quản lý chưa cao. 2.3.2.2 Nguyên nhân của những hạn chế - Chính sách tín dụng chưa linh hoạt: Cũng giống như các ngân hàng thương mại nói chung, trước đây thường tập trung vào các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp Nhà nước vì vậy khi chuyển sang các DNVVN ngân hàng có những chính sách tín dụng chưa hợp lý. Mặc dù hiện nay đã có những thay đổi trong cách nhìn nhận về DNVVN nhưng ngân hàng vẫn có tâm lý thận trọng trong vấn đề cho vay đối với các doanh nghiệp này. Quan điểm tín dụng của SCB Hà Nội là mở rộng tín dụng trên cơ sở chất lượng tín dụng được đảm bảo. Tài sản đảm bảo là vấn đề được đặc biệt quan tâm trong quá trình xét duyệt cho vay. Các quy định về tài sản đảm bảo là những trở ngại lớn nhất mà các DNVVN khó vượt qua được. Đối với DNVVN phần lớn phải có tài sản thế chấp, hoặc cầm cố tương đối an toàn, có giá trị, có tính thị trường thuộc sở hữu của doanh nghiệp hay ban lãnh đạo doanh nghiệp. Có những DNVVN có khả năng thế chấp tài sản nhưng cũng không được vay vốn ngân hàng vì giá trị khoản vay tính trên giá trị tài sản đảm bảo tuỳ thuộc vào loại tài sản đảm bảo khoảng 60% đến 80%. Đây là quy định gây khó khăn cho các DNVVN khi có nhu cầu về vốn lớn hơn giá trị tài sản thế chấp. Trong quá trình phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp cũng như phương án, dự án đầu tư, ngân hàng mới chỉ tiến hành đơn giản sử dụng biện pháp so sánh, phân tích các chỉ số đơn giản. Ngoài ra ngân hàng còn gặp nhiều khó khăn trong quá trình làm hợp đồng cầm cố, thế chấp với khách hàng, nhất là vấn đề liên quan đến định giá tài sản đảm bảo đặc biệt là những tài sản là bất động sản. - Thủ tục cho vay đối với DNVVN còn nhiều ràng buộc như: phụ thuộc vào tài sản thế chấp, vào báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Về tài sản thế chấp, thực tế phần lớn tài sản đảm bảo của doanh nghiệp là đất đai, nhà xưởng lại chưa có giấy tờ hợp lệ để hoàn thiện thủ tục thế chấp ở ngân hàng. Thông tin hai chiều giữa ngân hàng và khách hàng còn chưa đầy đủ. Phía ngân hàng, việc thu thập, khai thác, tìm hiểu thông tin về khách hàng còn nhiều hạn chế, đặc biệt là thông tin về tình hình tài chính của khách hàng, tình hình tiêu thụ sản phẩm… Do đó ngân hàng còn dè dặt trong việc mở rộng cho vay đối với DNVVN. Phía khách hàng, họ chưa sẵn sàng cung cấp những thông tin cần thiết cho ngân hàng để ngân hàng có thể đưa ra quyết định cho vay, thậm chí còn che đậy thông tin không tốt về mình. - Khả năng thẩm định dự án của ngân hàng chưa cao, trình độ xây dựng dự án của doanh nghiệp cũng không tốt. Nhiều doanh nghiệp không có khả năng lập dự án mà phải đi thuê, nên tính khả thi không cao, dẫn đến khoản vay không có khả năng thu hồi, từ đó làm tăng tỷ lệ nợ quá hạn. - Chất lượng cán bộ tín dụng còn nhiều hạn chế. Cán bộ tín dụng chính là người chịu trách nhiệm trong việc ra quyết định có cho vay hay không, do đó chất lượng cán bộ tín dụng ảnh hưởng lớn đến chất lượng của khoản vay. Số lượng cán bộ tín dụng của ngân hàng còn ít, chưa đáp ứng kịp với quá trình phát triển. Công tác thẩm định khách hàng còn gặp nhiều khó khăn, sự phân tách chức năng bộ phận trong mô hình tín dụng chưa rõ ràng. Khối lượng công việc đối với một cán bộ tín dụng quá nhiều, trong khi yêu cầu thời gian giải quyết hồ sơ nhanh, dẫn đến chất lượng làm việc không đảm bảo. Đối với lĩnh vực hoạt động doanh nghiệp, đôi khi cán bộ tín dụng chưa hiểu biết cặn kẽ về cách thức hoạt động, hệ thống thiết bị cần thiết nhất là những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh những mặt hàng đặc thù của ngành. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến quá trình kiểm tra, kiểm soát trong quá trình vay vốn cũng như chất lượng tín dụng của ngân hàng. SCB Hà nội chưa xây dựng được chiến lược marketing rõ ràng để tiếp thị, thu hút khách hàng. Hình thức tiếp thị khách hàng đã mang tính chủ động nhưng chủ yếu mới chỉ trong địa bàn Hà nội. Mạng lưới chi nhánh của Ngân hàng TMCP Sài Gòn chưa mở rộng ra các địa bàn lân cận Hà Nội, chưa tạo được mối liên kết nên mở rộng hoạt động cho vay đối với các đối tượng khách hàng nói chung và DNVVN nói riêng còn hạn chế. Mặt khác các DNVVN chưa tìm thấy được lợi ích gia tăng khi đến với dịch vụ của ngân hàng ngoài thái độ phục vụ nhiệt tình của cán bộ. Sản phẩm dịch vụ chưa có sự khác biệt so với các ngân hàng khác, lãi suất chưa hấp dẫn. Hệ thống công nghệ thông tin và mạng lưới chi nhánh chưa đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng như hệ thống Smart Bank với đường truyền chậm, để tạo lập được một báo cáo cán bộ tín dụng thường phải mất rất nhiều thời gian. Vấn đề công nghệ cũng bắt nguồn từ nguyên nhân sâu xa là nguồn vốn tự có của ngân hàng còn thấp, chưa đáp ứng được nguồn vốn cần thiếp đầu tư đổi mới thiết bị, công nghệ hiện đại hoá của ngân hàng. - Nguyên nhân từ phía nhà nước: Hiện nay nhà nước đang có chủ trương khuyến khích các DNVVN phát triển, nhưng công tác quản lý đối với loại hình doanh nghiệp này còn nhiều hạn chế. Tình trạng DNVVN phát triển tràn lan với số lượng ngày càng nhiều nhưng không hiệu quả. Hệ thống doanh nghiệp chưa cung cấp được thông tin đầy đủ, các thông tin chỉ mang tính chất chung chung, không cụ thể và không được cập nhật thường xuyên do đó cơ quan quản lý không nắm được số lượng doanh nghiệp ngừng hoạt động và lý do ngừng hoạt động. Chính sự phát triển nhanh quá về số lượng trong khi bộ máy quản lý không kiểm soát được tình hình hoạt động của các doanh nghiệp, dẫn đến nhiều DNVVN làm vỏ bọc cho các hoạt động phi pháp, lừa đảo, chiếm dụng vốn của ngân hàng… Hệ thống văn bản pháp luật, cơ chế chính sách trong hoạt động tín dụng ngân hàng cũng như hoạt động của các DNVVN chưa đồng bộ, thiếu các văn bản hướng dẫn cụ thể. Các văn bản liên quan đến hoạt tín dụng ngân hàng còn nhiều hạn chế, chưa phù hợp với tình hình thực tế. Theo quy định hiện hành thì khi các doanh nghiệp sử dụng các tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh rất khó khăn trong việc xử lý các thủ tục như: đăng ký quyền sở hữu quyền tài sản, đăng ký giao dịch đảm bảo, xác định giá trị tài sản thế chấp nhất là bất động sản… Vấn đề trích lập và phân loại rủi ro chưa đảm bảo được tính an toàn cho ngân hàng, trích lập dự phòng mới chỉ dựa vào thời hạn tín dụng. Mặt khác trong giai đoạn hiện nay, Ngân hàng Nhà nước đang thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ, tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với khối các ngân hàng thương mại. Do đó các ngân hàng gần như không cho vay ra. Doanh nghiệp cũng khó khăn hơn khi tiếp cận nguồn vốn từ ngân hàng do lãi suất cho vay tăng cao. Chương III: Các giải pháp nâng cao hiệu quả cho vay đối với các DNVVN tại SCB Hà Nội 3.1 Định hướng hoạt động của SCB Hà Nội trong thời gian tới Định hướng chung - Trong giai đoạn mới, bắt đầu từ năm 2007, khi Việt Nam đã là thành viên chính thức của WTO, quá trình hội nhập của đất nước với thị trường thế giới sẽ càng diễn ra sâu rộng hơn; áp lực cạnh tranh đối với hoạt động của ngành ngân hàng nói chung và của SCB Hà Nội nói riêng, vì thế ngày càng gay gắt hơn. - Tình hình đó đặt ra yêu cầu chi nhánh phải luôn nổ lực trong mọi mặt hoạt động, tích cực phát huy những thành quả đạt được; thường xuyên tiếp cận kinh nghiệm của các ngân hàng đại lý – bạn hàng trong và ngoài nước; tạo bước đột phá mới trong ổn định – tăng trưởng huy động vốn từ thị trường I đồng thời với việc nâng cao tính hiệu quả trong quản trị điều hành sử dụng vốn theo tiêu thức ngân hàng hiện đại, đi đôi với việc phát triển đa dạng, đa tiện ích các sản phẩm dịch vụ ngân hàng truyền thống và hiện đại, phấn đấu đến năm 2010 hệ thống công nghệ dịch vụ ngân hàng SCB ngang tầm các ngân hàng lớn tại Việt Nam và khu vực ASEAN. Trong khi kiên trì thực hiện phương châm: “SCB luôn hướng đến sự hoàn thiện vì khách hàng”, phải đưa mọi hoạt động của ngân hàng bám sát hiệu quả theo định hướng hành động của toàn ngành ngân hàng. Việt Nam là “An toàn – Hiệu quả - Phát triển bền vững – Hội nhập quốc tế”… Mục tiêu chung - Là không ngừng hoàn thiện bộ máy tổ chức kinh doanh, lấy hoạt động kinh doanh ngân hàng thương mại đa năng, bán lẻ làm trọng tâm; đồng thời với việc đẩy mạnh các hoạt động đầu tư tài chính – thương mại liên doanh góp vốn đảm bảo tối đa hóa nguồn thu lợi nhuận; cùng với việc từng bước tạo dựng vững chắc các tổ chức, công ty kinh doanh độc lập, trực thuộc theo phương thức đa sở hữu trong mối quan hệ hợp tác liên kết chiến lược thị trường với các cổ đông và khách hàng chiến lược là tổ chức kinh tế có tiềm lực mạnh cả trong nước và nước ngoài. - Với định hướng, mục tiêu chiến lược trên đây, bước vào giai đoạn kế tiếp sau năm 2010, hệ thống tổ chức SCB sẽ dần hình thành một cách khách quan đáp ứng với yêu cầu thực tiễn mô hình tập đoàn tài chính – ngân hàng cỡ trung tại Việt Nam và khu vực ASEAN. 3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại SCB Hà Nội Với vai trò quan trọng của các DNVVN đối với nền kinh tế và thực trạng hoạt động của các doanh nghiệp này như hiện nay thì việc đưa ra những chính sách hỗ trợ phát triển cho bộ ph

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docM1094.DOC