Đề tài Nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Nhà Hà Nội

Tài liệu Đề tài Nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Nhà Hà Nội: MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU Trong quá trình hội nhập ngày càng sâu và rộng hậu WTO, lại bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, ngành Ngân hàng Việt Nam đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn và thách thức. Nâng cao chất lượng dịch vụ và đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ Ngân hàng đang là vấn đề sống còn của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ tài chính nói chung và của các Ngân hàng nói riêng. Năm 2008 là một năm đầy sóng gió đối với nền kinh tế thế giới nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói riêng. Những khó khăn này được cụ thể hóa qua cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế ở các quốc gia có nên kinh tế phảt triển. Như một hệ quả khó tránh khỏi, các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển chịu những thiệt thòi nhất định, Viêt Nam không nằm ngòai số đó. Những biến động xấu này được tiên đoán sẽ còn tiếp diễn ít nhất đến cuối năm 2009, đầu năm 2010 Trong mấy năm gần đây, hoạt động tín dụng trung và dài hạn của các ngân hàng tuy đạt được những kết quả đáng kể nhưng vẫn c...

doc77 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 941 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Nhà Hà Nội, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU Trong quá trình hội nhập ngày càng sâu và rộng hậu WTO, lại bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, ngành Ngân hàng Việt Nam đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn và thách thức. Nâng cao chất lượng dịch vụ và đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ Ngân hàng đang là vấn đề sống còn của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ tài chính nói chung và của các Ngân hàng nói riêng. Năm 2008 là một năm đầy sóng gió đối với nền kinh tế thế giới nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói riêng. Những khó khăn này được cụ thể hóa qua cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế ở các quốc gia có nên kinh tế phảt triển. Như một hệ quả khó tránh khỏi, các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển chịu những thiệt thòi nhất định, Viêt Nam không nằm ngòai số đó. Những biến động xấu này được tiên đoán sẽ còn tiếp diễn ít nhất đến cuối năm 2009, đầu năm 2010 Trong mấy năm gần đây, hoạt động tín dụng trung và dài hạn của các ngân hàng tuy đạt được những kết quả đáng kể nhưng vẫn còn hạn chế và gặp không ít các khó khăn trở ngại. Những gì làm được hôm nay còn nhỏ bé so với những đòi hỏi bức thiết ngày càng tăng về vốn cố định của các doanh nghiệp. Nghiên cứu về vấn đề này em mong muốn sẽ hiểu biết sâu hơn về hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại kết hợp với thực tế tại đơn vị thực tập từ đó thấy được sự gắn kết cũng như điểm khác biệt giữa lý luận và thực tiễn, điều này sẽ tạo thuận lợi cho em trong công việc sau này. Với những lý do trên, trong quá trình thực tập khảo sát thực tế tại Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội, em rất quan tâm đến hoạt động tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng. Là một sinh viên sắp tốt nghiệp trong giai đoạn này của đất nước, với những kiến thức đã được học tập tại trường và mong muốn được góp phần nhỏ bé của mình vào việc giải quyết những vấn đề bức xúc hiện nay trong hoạt động này của ngành ngân hàng. Vì vậy, đề tài: “Nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội” được lựa chọn làm khóa luận tốt nghiệp. Kết cấu khóa luận: Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, khóa luận được chia làm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề chung về chất lượng tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng Thương mại. Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng trung dài hạn tại Ngân hàng TMCP Nhà HN Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn tại Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội Em rất mong nhận được sự giúp đỡ, đánh giá, nhận xét từ phía ngân hàng và cô giáo đề em có thể hoàn thành tốt chuyên đề của mình. Em xin chân thành cảm ơn! Hà Nội 4/2009 Sinh viên Lê Phương Thảo Chương 1:Một số vấn đề chung về chất lượng tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng Thương mại 1.1. Tổng quan về Ngân hàng Thương mại 1.1.1. Khái niệm và vai trò Ngân hàng Thương mại 1.1.1.1. Khái niệm Ngân hàng Thương mại Ngân hàng thương mại là loại hình tổ chức tín dụng, thực hiện các hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cho vay, cung ứng các dịch vụ thanh toán và các hoạt động khác có liên quan. Khác với các tổ chức kinh doanh khác, mặc dù cùng hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận nhưng đối tượng kinh doanh của Ngân hàng thương mại là tiền tệ, trong đó hoạt động chủ yếu là huy động tiền gửi trong dân cư và các tổ chức kinh tế để cho vay. Trên thế giới, có nhiều khái niệm khác nhau về ngân hàng thương mại: Ở Hoa Kỳ: Ngân hàng thương mại là một công ty kinh doanh chuyên cung cấp các dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính. Ở Pháp: Ngân hàng thương mại là những xí nghiệp hay cơ sở nào thường xuyên nhận của công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác các số tiền mà họ dùng cho chính họ vào nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính. Ở Việt Nam, theo Luật các tổ chức tín dụng Việt Nam, khoản 2 điều 20: “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động của Ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác” Từ những định nghĩa trên về Ngân hàng có thể rút ra được Ngân hàng thương mại là loại hình doanh nghiệp giao dịch trực tiếp với doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, cá nhân thông qua nghiệp vụ tiền gửi, tiền tiết kiệm rồi sử dụng số vốn đó để cho vay, chiết khấu, cung cấp các phương tiện thanh toán và cung ứng các dịch vụ ngân hàng cho các đối tượng trên Ngoài ra, Ngân hàng thương mại còn thực hiện một loạt các hoạt động khác như: kinh doanh ngoại hối, tham gia thị trường chứng khoán, góp vốn mua cổ phần, đầu tư mua trái phiếu, kỳ phiếu và các chứng từ có giá khác, cung cấp dịch vụ tư vấn, dịch vụ quỹ két, dịch vụ thanh toán… 1.1.1.2. Vai trò của Ngân hàng Thương mại *Cung cấp nhu cầu vay vốn cho sự phát triển kinh tế Vốn được tạo ra từ quá trình tích lũy, tiết kiệm của mỗi cá nhân, doanh nghiệp và Nhà nước trong nền kinh tế. Vì vậy, muốn có nhiều vốn phải tăng thu nhập quốc dân và có mức độ tiêu dùng hợp lý. Để tăng thu nhập quốc dân tức là cần phải mở rộng chiều rộng lẫn chiều sâu của quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa, đẩy mạnh sự phát triển của các ngành trong nền kinh tế và muốn làm được điều đó cần thiết phải có vốn. Mặt khác khi nền kinh tế càng phát triển sẽ càng tạo ra nhiều nguồn vốn, điều đó sẽ tác động tích cực đến hoạt động ngân hàng. Ngân hàng thương mại là chủ thể chính đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh. Ngân hàng thương mại đứng ra huy động các nguồn vốn nhàn rỗi và tạm thời nhàn rỗi ở mọi tổ chức, cá nhân, mọi thành phần kinh tế như: vốn tạm thời được giải phóng ra từ quá trình sản xuất, vốn từ nguồn tiết kiệm của các cá nhân trong xã hội. Bằng vốn huy động được trong nền kinh tế, thông qua hoạt động tín dụng, ngân hàng thương mại sẽ cung cấp vốn cho mọi hoạt động kinh tế và đáp ứng các nhu cầu vốn một cách kịp thời cho quá trình táu sản xuất. Có thể nói Ngân hàng thương mại, với chức năng trung gian tín dụng của mình đã biến tiết kiệm thành đầu tư. * Nâng cao hiệu quả kinh tế: Trong điều kiện nền kinh tế thị trượng, hoạt động của các doanh nghiệp chịu sự tác động mạnh mẽ của các quy luật kinh tế khách quan như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh và sản xuất phải dựa trên cơ sở đáp ứng nhu cầu thị trường trên mọi phương diện: giá cả, khối lượng, chất lượng, chủng loại hàng hóa mà còn đòi hỏi thỏa mãn cả trên phương diện thời gian, địa điểm. Để có thể đáp ứng tốt nhất các nhu cầu của thị trường, doanh nghiệp không những cần nâng cao chất lượng lao động, củng cố và hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế, chế độ hạch toán kế toán…mà còn phải tìm tòi sử dụng nguyên liệu mới, mở rộng quy mô sản xuất một cách thích hợp….Những hoạt động này đòi hỏi một khối lượng lớn vốn đầu tư, nhiều khi vượt quá khả năng vốn tự có của doanh nghiệp. Do đó, để giải quyết khó khăn này doanh nghiệp có thể tìm đến ngân hàng xin vay vốn nhằm thỏa mãn nhu cầu đầu tư của mình. Bằng vốn huy động được trong nền kinh tế, thông qua hoạt động tín dụng, ngân hàng thương mại sẽ cung cấp vống cho mọi hoạt động kinh tế và đáp ứng các nhu cầu vốn một cách kịp thời cho quá trình tái sản xuất. Nhờ có hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại bà đặc biệt là hoạt động tín dụng, các doanh nghiệp có điều kiện mở rộng sản xuất,cải tiến máy móc công nghệ, tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả kinh tế. Có thể nói, ngân hàng là chiếc cầu nối giữa các doanh nghiệp với thị trường. Nguồn vốn tín dụng của ngân hàng cung ứng cho doanh nghiệp đã đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng mọi mặt của quá trình sản xuất kinh doanh, góp phần làm cho quái trình sản xuất của doanh nghiệp diễn ra liên tục, không bị đứt quãng và từ đó tạo cho doanh nghiệp một chỗ đứng vững chắc trong kinh doanh. * Tham gia vào vào sự ổn định và phát triển thị trường tài chính và thị trường chứng khoán NHTM là tổ chức quan trọng nhất trong Thị trường tài chính: NHTM là một tổ chức trung gian tài chính có vai trò quan trọng nhất trong tài chính gián tiếp, có khả năng chi phối hoạt động của hệ thống tài chính. Vị trí của nó trong hệ thống tài chính được thể hiện qua 2 biểu hiện chủ yếu sau: NHTM là loại trung gian tài chính có số lượng lớn nhất trong hệ thống các tổ chức trung gian tài chính và thực hiện phần lớn hoạt động của các tổ chức trung gian tài chính nói chung NHTM đóng vai trò quan trọng trong việc đáp ứng đầy đủ lợi ích của hệ thống tài chính. NHTM có thể cho phép tiết kiệm được chi phí giao dịch đối với những nhà cho vay và đi vay. Những người có món tiền tiết kiệm nhỏ khi mua các chứng khoán phải tốn chi phí để tập hợp thông tin cho việc mua chứng khoán nào là có lợi nhất, chi phí giao dịch của việc mua chứng khoán cũng có thể rất cao. Đối với người đi vay trên thị trường tài chính cũng chịu chi phí giao dịch rất cao. Sự có mặt của ngân hàng thương mại đã phần nào giải quyết được tình hình trên. NHTM là tổ chức thường xuyên nhận tiền gửi và cho vay do đó chi phí giao dịch cho mỗi khoản vay giảm đi rất nhiều. Số tiền ngân hàng tập hợp được sẽ dùng để đầu tư kiếm lời, đảm bảo khả năng thanh toán cho các nhà đầy tư và mở rộng khả năng cung các dịch vụ cho nền kinh tế. Ngân hàng thương mại góp phần điều hòa cung cầu, ổn định thị trường chứng khoán Vai trò này của NHTM được thể hiện một cách rõ rệt và tích cực thông qua các hoạt động: Điều hòa quan hệ cung cầu chứng khoán: NHTM là chủ thể quan trọng cung cấp hàng hóa cho thị trường chứng khoán, là người tạo thị trường, có thể làm tăng nhu cầu hoặc giảm nhu cầu chứng khoán khi cần thiết. Với cơ chế giao dịch đó, NHTM tham gia điều hòa cung cầu chứng khoán một cách nhanh nhạy. Khi NHTM tham gia mua bán một khối lượng chứng khoán lớn sẽ làm thay đổi giá trị chứng khoán theo những chiều hướng nhất định. Hơn nữa, NHTM chủ động thay đổi mức tín dụng sẽ tác động trực tiếp đến thị giá chứng khoán. Bằng những hoạt động này, các NHTM góp phần ổn định thị giá chứng khoán và thị trường chứng khoán Trợ giúp các công ty niêm yết, ổn định tâm lý của nhà đầu tư chứng khoán: Sự ổn định và phát triển của TTCK phụ thuộc chủ yếu vào hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, đặc biệt là các công ty niêm yết và tâm lý của công chúng – những người nắm giữ chứng khoán. Các NHTM còn thực hiện việc ổn định TTCK thông qua việc trợ giúp cho các công ty niêm yết khi họ có khó khăn về tài chính, đảm bảo khả năng thanh toán, tự chủ của họ trên thị trường. NHTM có thể đảm bảo cung cấp các thông tin chính xác, hạn chế những hiện tượng lừa đảo trong kinh doanh chứng khoán NHTM góp phần rất quan trọng vào việc thực hiện nguyên tắc công khai và công bằng thông qua chức năng kiểm soát. Các hành vi buôn bán tay trong, đầu cơ bất chính sẽ được phát hiện và hạn chế khi có sự tham gia của NHTM vào hoạt động của TTCK * NHTM là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài chính quốc tế: Trong nền kinh tế thị trường, khi mà các mối quan hệ hành hóa tiền tệ ngày càng được mở rộng thì nhu cầu giao lưu kinh tế - xã hội giữa các nước trên thế giới ngày càng trở nên cần thiết và cấp bách. Vì vậy, nền tài chính của mỗi nước cũng phải hòa nhập với nền tài chính quốc tế và ngân hàng thương mại cùng các hoạt động kinh doanh của mình đã đóng góp một vai trò vô cùng quan trọng trong sự hòa nhập này. Thông qua các hoạt động thanh toán, kinh doanh ngoại hối, quan hệ tín dụng với các ngân hàng thương mại nước ngoài, hệ thống ngân hàng thương mại đã thực hiện vai trò điều tiết nền tài chính trong nước phù hợp với sự vận động của nền tài chính quốc tế. Ngân hàng thương mại ra đời, phát triển trên cơ sở nền sản xuất và lưu thông hàng hóa phát triển và nền kinh tế càng ngày càng cần đến hoạt động của ngân hàng thương mại với các chức năng, vai trò của mình. Thông qua việc thực hiện các chức năng, vai trò của mình, nhất là chức năng trung gian tín dụng, ngân hàng thương mại đã trở thành một bộ phận quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển. * Tham gia kiểm soát các hoạt động kinh tế: Trong nền kinh tế thị trường, ngân hàng thương mại một mặt góp phần hình thành, duy trì và phát triển theo một cơ cấu ngành và khu vực nhất định, đồng thời góp phần điều chỉnh ngành, khu vực khi xuất hiện sự phát triển mất cân đối hoặc khi cần có sự thay đổi cho phù hợp với yêu cầu của thị trường. Mặt khác, trong sự vận hành của nền kinh tế thị trường, ngân hàng thương mại hoạt động một cách có hiệu quả thông qua nghiệp vụ kinh doanh của mình sẽ thực sự là một công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Việc hoạch định chính sách tiền tệ thuộc về Ngân hàng Trung ương. Để thực thi chính sách tiền tệ phải sử dụng các công cụ như lãi suất, dự trữ bắt buộc, thị trường mở…chính các ngân hàng thương mại là các chủ thể chịu sự tác động trực tiếp của những công cụ này và đồng thời đóng vai trò cầu nối trong việc chuyển tiếp các tác động của chính sách tiền tệ đến nền kinh tế. Bởi vì hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại gắn chặt với các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, các tổ chức và các chủ thể kinh tế. Mặc khác cũng qua ngân hàng thương mại và các định chế tài chính trung gian khác, tình hình sản lượng, giá cả, công ăn việc làm, nhu cầu tiền mặt,lãi suất, tỷ giá…của nền kinh tế được phản hồi về cho Ngân hàng trung ương, để chính phủ và Ngân hàng trung ương có những chính sách điều tiết phù hợp với từng tình hình cụ thể. Bằng hoạt động tín dụng và thanh toán giữa các ngân hàng thương mại trong hệ thống, các ngân hàng thương mại đã góp phần mở rộng khối lượng tiền cung ứng trong lưu thông. Thông qua việc cung ứng tín dụng cho các ngành trong nền kinh tế, ngân hàng thương mại thực hiện việc dẫn dắt các luồng tiền, tập hợp và phân chia vốn của thị trường, điều khiển chúng một cách có hiệu quả và thực thi vai trò điều tiết gián tiếp vĩ mô:”Nhà nước điều tiết ngân hàng, ngân hàng dẫn dắt thị trường” 1.1.2. Khái quát hoạt động của Ngân hàng Thương mại: 1.1.2.1. Nguồn vốn và nghiệp vụ nguồn vốn của NHTM: Vốn tự có Vốn tự có của NHTM là những giá trị tiền tệ do ngân hàng tạo lập được, thuộc sở hữu của ngân hàng. Vốn này chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng vốn của ngân hàng song lại là điều kiện pháp lý bắt buộc khi thành lập một ngân hàng. Do tính chất thường xuyên và ổn định nên vốn tự có có thể được ngân hàng sử dụng vào các mục đích khác nhau như: trang bị cơ sở vật chất, mua tài sản cố định, tham gia đầu tư, góp vốn…Mặt khác vốn tự có còn là một trong những căn cứ quyết định khả năng và khối lượng huy động vốn của Ngân hàng do nó được coi như là tài sản gây lòng tin đối với khách hàng, duy trì khả năng thanh toán trong trường hợp Ngân hàng gặp thua lỗ. Trong quá trình hoạt động, ngân hàng gia tăng vốn tự có nhờ có nguồn vốn bổ sung. Vốn tự có bổ sung bao gồm: quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ đầu tư và phát triển, quỹ dự phòng tài chính, quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm, quỹ khác….ngoài ra còn có các quỹ không hình thành từ lợi nhuận ngân hàng như quỹ khấu hao cơ bản tài sản cố định, quỹ khấu hao sữa chữa lớn, các quỹ khác theo quy định của pháp luật tài chính. Vốn tiền gửi của khách hàng: Trong tổng nguồn vốn hoạt động, vốn tiền gửi là vốn chủ yếu của ngân hàng, nó chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn của ngân hàng thương mại. Nguồn vốn tiền gửi gồm có: tiền gửi thanh toán và tiền gửi tiết kiệm Tiền gửi thanh toán được doanh nghiệp hoặc cá nhân gửi vào ngân hàng để nhờ ngân hàng giữ và thanh toán hộ. Khi mở tài khoản tiền gửi thanh toán, chủ tài khoản được hưởng dịch vụ ngân hàng với mức phí thấp, thay vài đó lãi suất của khoản tiền này rất thấp. Chính vì thế, đây là nguồn vốn thấp hơn cả trong các loại tiền gửi Tiền gửi tiết kiệm lại gồm: tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi không kỳ hạn. Tiền gửi có kỳ hạn là nguồn vốn tương đối ổn định nên ngân hàng có thể chủ động sử dụng chúng để cho vay ngắn, trung và dài hạn. Tiền gửi không kỳ hạn tuy biến động thường xuyên nhưng nó vẫn có được một số dư ổn định do số tiền gửi vào và rút ra trong một thời kỳ bù trừ cho nhau nên ngân hàng ngoài việc sử dụng cho vay ngắn hạn còn có thể cho vay trung hạn Nguồn vốn đi vay: Tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, ngân hàng vẫn phải vay mượn thêm khi có những tình huống phát sinh đặc biệt như để đảm bảo khả năng thanh khoản, tỷ lệ dự trữ bắt buộc theo quy định, để đáp ứng nhu cầu tín dụng. Tùy từng trường hợp cụ thể mà NHTM có thể vay NHNN, vay của tổ chức tín dụng khác hay vay của dân cư, các tổ chức kinh tế thông qua việc phát hành kỳ phiếu, trái phiếu. Nguồn vốn tiếp nhận: Những nguồn vốn mà ngân hàng thương mại ủy thác từ các tổ chức trong hoặc ngoài nước từ ngân sách nhà nước để cho vay trung, dài hạn thuộc kế hoạch xây dựng cơ bản tập trung của nhà nước, để thực hiện những dự án có mục tiêu định trước trong sản xuất kinh doanh. Các nguồn khác: Vốn phát sinh trong quá trình hoạt động của ngân hàng như khi làm đại lý, dịch vụ thanh toán, làm trung gian thanh toán… 1.1.2.2.Nghiệp vụ tài sản Có Là nghiệp vụ phản ánh quá trình sử dụng các nguồn vốn hình thành của ngân hàng vào các mục đích nhằm đảm bảo an toàn cũng như tìm kiếm lợi nhuận của các NHTM. Nội dung của nghiệp vụ này bao gồm: Thiết lập dự trữ: Hoạt động của ngân hàng thương mại nhằm mục đích kiếm lời. Song cần phải bảo đảm an toàn để giữ vững được lòng tin của khách hàng. Muốn có được sự tin cậy về phía khách hàng, trước hết phải bảo đảm khả năng thanh toán làm sao để đáp ứng được các nhu cầu rút tiền của khách hàng. Muốn vậy, các ngân hàng phải để dành một phần nguồn vốn, không sử dụng nó, để sẵn sàng đáp ứng nhu cầu thanh toán. Phần vốn để dành này gọi là dự trữ. Tiền mặt tại quỹ: có khả năng thanh toán kịp thời nhất. Ngân hàng thương mại phải để tại quỹ của mình một số tiền phòng hộ theo một tỷ lệ nhất định trên tiền gửi của khách hàng để đáp ứng nhu cầu thanh toán hoặc rút tiền mặt của khách hàng trong ngày. Tiền gửi tại Ngân hàng Trung ương: theo quy định, Ngân hàng thương mại phải mở tài khoản tại ngân hàng trung ương và gửi vào đó một số tiền nhất định gồm 2 phần: Phần tối thiểu theo quy định của Ngân hàng Trung ương về tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Ngân hàng trung ương được phép ấn định một tỷ lệ dự trữ bắt buộc trong từng thời kỳ nhất định. Việc trả lãi cho tiền gửi dự trữ bặt buộc do chính phủ quy định. Phần còn lại dùng để giao hoán séc và thanh toán nợ với các tổ chức tín dụng và ngân hàng thương mại khác. Tiền gửi của Ngân hàng Thương mại phải mở tài khoản tại Ngân hàng Trung ương biến động hàng ngày vì mỗi ngày Ngân hàng Thương mại đều có nộp hay rút tiền mặt, đổi séc tại phòng giao hoán. Tuy nhiên, Ngân hàng Thương mại phải duy trì đủ tỷ lệ dự trữ bắt buộc nếu thiếu sẽ bị phạt, nếu thừa sẽ gây lãng phí. Mục đích của việc hình thành tỷ lệ này là bảo đảm hoàn trả tiền gửi của khách hàng khi ngân hàng thương mại bị phá sản. Tiền gửi của ngân hàng thương mại tại các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác để đáp ứng nhu cầu thanh toán, chuyển tiền khác địa phương của khách hàng, số này cao hay thấp tùy theo mức độ quan hệ với đại lý và số lượng đại lý. Tiền đầu tư vào các chứng phiếu có giá trị, những chứng phiếu này có thể bán ra bất cứ lúc nào trên thị trường chứng khoán. Hoạt động này vừa tạo ra sự an toàn vừa mang lại lợi nhuận cho ngân hàng thương mại. Nghiệp vụ tín dụng: Nghiệp vụ tín dụng gồm có: Chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá khác Đây là nghiệp vụ cho vay gián tiếp mà ngân hàng sẽ cung ứng vốn tín dụng cho một chủ thể và chủ thể khác thực hiện việc trả nợ cho ngân hàng, là việc ngân hàng mua thương phiếu của khách hàng, đây phải là những thương phiếu còn trong thời hạn hiệu lực, người sở hữu những thương phiếu đó khi bán cho ngân hàng sẽ nhận một số tiền bằng mệnh giá của thương phiếu trừ cho lợi tức chiết khấu do ngân hàng quy định. Cho vay Trong các hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại thì hoạt động cho vay là hoạt động quan trọng nhất, nó chiếm một tỷ trọng rất lớn trong tổng tài sản và nó cũng là hoạt động mang lại lợi nhuận chủ yếu cho các ngân hàng thương mại. Chính vì lý do này mà nhiều khi hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại được hiểu là hoạt động cho vay và do vậy hoạt động cho vay hoạt động cho vay thường được tìm hiểu kỹ càng hơn. Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại có thể được phân chia theo nhiêu cách khác nhau. - Theo mục đích vay. - Phân loại theo hình thức bảo đảm - Theo kỳ hạn. - Theo phương pháp hoàn trả. - Theo nguồn gốc. - Theo loại hình tiền tệ. Cho thuê tài sản (Thuê – mua) Cho thuê của Ngân hàng thường là hình thức tín dụng trung và dài hạn trên cơ sở hợp đồng cho thuê tài sản giữa bên cho thuê là Ngân hàng với khách hàng thuê. Thời hạn thuê phải đảm bảo sao cho Ngân hàng phải thu gần đủ (hoặc thu đủ) giá trị của tài sản cho thuê cộng lãi . Khi kết thúc thời hạn thuê, khách hàng mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng thuê. Trong thời hạn cho thuê các bên không được đơn phương từ bỏ hợp đồng. Bảo lãnh hoặc tái bảo lãnh Bảo lãnh của Ngân hàng là cam kết của Ngân hàng đưới hình thức thư bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của Ngân hàng khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ như cam kết. Bảo lãnh thường có 3 bên: Bên hưởng bảo lãnh, bên được bảo lãnh và bên bảo lãnh. Bảo lãnh của Ngân hàng có nghĩa Ngân hàng là bên bảo lãnh; khách hàng của Ngân hàng là người được bảo lãnh và người hưởng bảo lãnh là bên thứ ba Nghiệp vụ đầu tư Khoản mục đầu tư có vị trí quan trọng thứ hai sau khoản mục cho vay, nó mang lại khoản thu nhập lớn và đáng kể cho ngân hàng thương mại. Trong nghiệp vụ này ngân hàng thực hiện kinh doanh kiếm lãi như các doanh nghiệp khác, ngân hàng sẽ dùng nguồn vốn của mình và nguồn vốn ổn định khác để đầu tư dưới các hình thức như: Đầu tư chứng khoán: Bằng cách cho các công ty cổ phần đa hoạt động, các xí nghiệp vay theo cách mua trái khoán của xí nghiệp, cho ngân hàng khác vay bằng cách mua công trái, đầu tư vào các công ty bằng cách mua cổ phiếu của công ty. Hùn vốn, liên doanh…là các biện pháp trực tiếp góp vốn với các doanh nghiệp để thành lập công ty, xí nghiệp mới. Tất cả mọi hành động đầu tư vào chứng khoán đều nhằm mục đích mang lại thu nhập. Nhưng mặt khác nhờ hoạt động mà các rủi ro trong hoạt động của ngân hàng được phân tán. Ngoài ra nếu đầu tư vào trái phiếu chính phủ thì mức độ rủi ro sẽ rất thấp. Vì vậy các ngân hàng thương mại có xu hướng sử dụng nguồn vốn ngày càng tăng cho việc đầu tư vào trái phiếu chính phủ. Theo quy định của ngân hàng thương mại chỉ được phép dùng nguồn vốn tự có để thực hiện nghiệp vụ đầu tư. Tài sản khác Những khoản mục còn lại của tài sản có, trong đó chủ yếu là tài sản lưu động-cơ sở vật chất để tiến hành hoạt động ngân hàng. -Xây dựng hoặc mua thêm nhà cửa để làm trụ sở văn phòng. -Mua sắm trang thiết bị, máy móc dụng cụ làm việc. -Mua sắm các phương tiện vận chuyển. -Xây dựng hệ thống kho quỹ. Ngoài tài sản lưu động, còn có các khoản thuộc tài sản có như các khoản phải thu, các khoản khác… 1.1.2.3.Hoạt động trung gian, cung cấp dịch vụ tài chính Những dịch vụ ngân hàng ngày càng phát triển vừa cho phép hỗ trợ đáng kể cho nghiệp vụ khai thác nguồn vốn, mở rộng các nghiệp vụ đầu tư, vừa tạo ra thu nhập cho ngân hàng các khoản tiền hoa hồng, lệ phí…có vị trí xứng đáng trong giai đoạn phát triển hiện nay của ngân hàng. Đây là nghiệp vụ mà ngân hàng thương mại thực hiện theo sự uỷ nhiệm của khách hàng được hưởng tiền hoa hồng như: -Chuyển tiền cho khách hàng sang địa phương khác để họ sử dụng theo yêu cầu hoặc trả cho một người nào đó. -Thu hộ: ngân hàng đứng ra thay mặt khách hàng để thu hộ các khoản kỳ phiếu đến hạn, chứng khoán, hàng hóa… -Ủy thác: là nghiệp vụ mà ngân hàng làm theo ủy thác của khách hàng như quản lý tài sản hộ, chuyển gia tài hộ, bảo quản chứng khoán và vật có giá, thanh lý tài sản của xí nghiệp bị phá sản… -Mua bán hộ: theo ủy nhiệm của khách hàng, ngân hàng đứng ra phát hành cổ phiếu hoặc trái phiếu hoặc trái khoán công ty hoặc trái khoán nhà nước, mua bán ngoại tệ, kim khí quý, đá quý cho khác hàng. -Kinh doanh vàng, bạc, ngoại tệ để kiếm lời nếu được phép của ngân hàng trung ương. -Làm tư vấn tài chính tiền tệ như cung cấp thông tin, hướng dẫn chính sách tiền tệ, thương mại, lập dự án đầu tư tín dụng, ủy thác đầu tư cho khách hàng. 1.2. Tín dụng trung và dài hạn của NHTM 1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của tín dụng trung và dài hạn 1.2.1.1. Khái niệm: Hoạt động tín dụng đã trải qua quá trình phát triển lâu dài gắn liền với lịch sử phát triển của hệ thống Ngân hàng. Với xu hướng phát triển của nền kinh tế, nghiệp vụ tín dụng ngày càng đa dạng phong phú, hoàn thiện đầu tư vào tất cả các lĩnh vực ngành nghề. Có thể hiểu một cách ngắn gọn: “Tín dụng là mối quan hệ kinh tế giữa người cho vay và người đi vay thông qua sự vận động của giá trị, vốn tín dụng được biểu hiện dưới hình thức tiền tệ hoặc hàng hóa” [Giáo trình nghiệp vụ kinh doanh Ngân hàng, trang 100]. Trong tín dụng Ngân hàng, Ngân hàng trao quyền sử dụng vốn cho khách hàng, khách hàng dùng số vốn này đầu tư vào sản xuất kinh doanh kiếm lời, đảm bảo trả nợ gốc và lãi cho Ngân hàng. Có nhiều cách phân loại tín dụng theo những tiêu chí khác nhau. Theo thời hạn tín dụng, tín dụng bao gồm tín dụng ngắn hạn, trung hạn và dài hạn Tín dụng trung và dài hạn là hoạt động tài chính tín dụng, cho khách hàng vay vốn để thực hiện các dự án phát triển sản xuất kinh doanh hay để phục vụ đời sống. Tùy theo từng quốc gia, từng thời kỳ mà hoạt động tín dụng được quy định cụ thể. Hiện nay, thời hạn của tín dụng trung và dài hạn ở Việt Nam được Ngân hàng Nhà nước quy định trong Điều 8, Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng (12/2001) như sau: Thời hạn cho vay trung hạn từ 1 – 5 năm Thời hạn cho vay dài hạn là từ 5 năm trở lên nhưng không quá thời hạn hoạt động còn lại theo quyết định thành lập hoặc giấy phép thành lập đối với pháp nhân và không quá 15 năm đối với các dự án phục vụ đời sống Mục đích của hoạt động tín dụng trung và dài hạn là để đầu tư dự án, xây dựng mới, mua tài sản cố định, mở rộng sản xuất kinh doanh, đổi mới công nghệ…nhằm mục tiêu lợi nhuận 1.2.1.2. Đặc điểm của tín dụng trung và dài hạn Thời gian hoàn vốn chậm Thời hạn hoàn vốn của tín dụng trung và dài hạn thường rất dài. Đây được coi là đặc điểm không thể thiếu trong tín dụng trung và dài hạn. Mục tiêu của tín dụng trung và dài hạn là nhằm hình thành mới hoặc hiện đại hóa cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp. Để thực hiện được mục đích đó cần một thời gian rất dài và thời hạn này phụ thuộc vào tính chất, đặc điểm của chu kỳ sản xuất kinh doanh, thời gian thi công thực hiện công trình, quy mô và mức độ phức tạp của công trình, công nghệ sản xuất…. của doanh nghiệp Lãi suất cao Tín dụng trung và dài hạn diễn ra trong một thời gian dài. Trong khoảng thời gian dài đó, việc sử dung vốn vay cũng như việc thực hiện các hoạt động khác của doanh nghiệp vay vốn luôn bị chi phối, ảnh hưởng trực tiếp, gián tiếp bởi vô vàn các yếu tố phức tạp như: tình hình chính trị, tình hình kinh tế - xã hội, các yếu tố thuộc về môi trường tự nhiên: hạn hán, lũ lụt, động đất… Sự biến động này không thể dự đoán hết được và nó có thể tác động và gây nên những hậu quả, tổn thất, thiệt hại cho bên vay cũng như Ngân hàng. Chính vì thế cho vay trung và dài hạn chứa đựng nhiều rủi ro hơn trong cho vay ngắn hạn và thông thường lãi suất trong cho vay trung và dài hạn cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn. Giá trị khoản vay lớn Đối tượng chủ yếu của tín dụng trung và dài hạn là chính là những chi phí để hình thành nên cơ sở vật chất kỹ thuật mới hoặc cải tạo, mở rộng, nâng cấp cơ sở vật chất kỹ thuật đã có sẳn của doanh nghiệp. Đây là hoạt động rất đa dạng và phức tạp, cần phải có sự sắp xếp, bố trí các công việc một cách khoa học, tiến hành thực hiện theo một trình tự nhất định, có sự quản lý chặt chẽ. Đặc biệt đòi hỏi không thể thiếu được đó là doanh nghiệp phải có một khối lượng vốn lớn nhằm tạo ra một tài sản cố định, một năng lực sản xuất mới. Vì vậy, giá trị khoản vay lớn cũng là một đặc điểm của tín dụng trung và dài hạn. 1.2.1.2. Vai trò của tín dụng trung và dài hạn a. Vai trò của tín dụng trung và dài hạn đối với hoạt động của Ngân hàng: Hoạt động chủ yếu của NHTM là việc thu hút vốn để mở rộng cho vay và đầu tư nhằm thu lợi nhuận.Việc sử dụng vốn có hiệu quả hay không quyết định đến sự thành bại trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Một trong các chiến lược kinh doanh quan trọng của ngân hàng là chiến lược tín dụng trung và dài hạn. Tín dụng trung và dài hạn thường có rủi ro cao hơn và đồng thời cũng hứa hẹn đem lại lợi nhuận cao hơn nên các ngân hàng thường phải chú trọng đặc biệt đến hình thức tín dụng này. Tín dụng trung và dài hạn tạo điều kiện cho tín dụng ngắn hạn phát triển. Các dự án đầu tư sẽ không thực hiện và trở nên vô nghĩa khi thiết bị, công nghệ đã lạc hậu, không được cải tiến, đổi mới cho phù hợp. Một khi đã có nền tảng cho sự phát triển từ các khoản đầu tư trung và dài hạn các doanh nghiệp mới yên tâm sử dụng các khoản vay ngắn hạn để sản xuất và kinh doanh. Nhờ vậy mà ngân hàng mới có điều kiện phát triển tín dụng ngắn hạn. b. Vai trò của tín dụng trung và dài hạn đối với doanh nghiệp: Muốn tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp phải không ngừng đổi mới và hoàn thiện để nâng cao năng suất lao động, giảm thiểu chi phí, giảm giá thành để đảm bảo sức cạnh tranh và thu được lợi nhuận cao. Về dài hạn, các doanh nghiệp luôn cần một lượng vốn lớn để mở rộng sản xuất, xây dựng nhà xưởng, đầu tư mua sắm máy móc, trang thiết bị, đổi mới công nghệ…Các doanh nghiệp có thể huy động nguồn vốn tài trợ cho các hoạt động đó bằng nhiều hình thức, tuy nhiên có một hình thức hữu hiệu để đáp ứng nhu cầu vốn dài hạn của các doanh nghiệp đó là vay vốn trung và dài hạn của NHTM Tín dụng trung và dài hạn thỏa mãn các cơ hội kinh doanh của các doanh nghiệp, cung cấp vốn cho họ khi họ đang tiềm năng sản xuất nhưng lại thiếu vốn. Khi có cơ hội kinh doanh cần phải mở rộng sản xuất, tăng sản lượng sản phẩm để chiếm lĩnh thị trường thì doanh nghiệp vay vốn của Ngân hàng và hoàn trả khi cơ hội kinh doanh không còn. Thậm chí doanh nghiệp vay vốn có thể trả nợ sớm trước hạn khi họ không cần đến việc sử dụng vốn đó nữa. So với việc tạo vốn dưới hình thức phát hành trái phiếu, cổ phiếu thì vay vốn trung và dài hạn doanh nghiệp không phải chịu sự chi phối, kiểm soát của cổ đông, không phải đối phó với việc trả lãi trái phiếu, lãi cổ phần ưu đãi khi việc sử dụng vốn có khó khăn hoặc không cần thiết nữa. Ngoài ra doanh nghiệp còn tránh được các chi phí phát hành, chi phí đăng ký chứng khoán…và lại được Ngân hàng tư vấn trong các công việc liên quan đến hoạt động đầu tư và lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp. c. Vai trò của tín dụng trung và dài hạn đối với nền kinh tế: Cung cấp vốn phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội: Hoạt động kinh tế trên thế giới ngày này đang diễn ra một cách khẩn trương, sôi nổi. Nhu cầu vốn trung và dài hạn cho đầu tư xây dựng các công trình sản xuất kinh doanh mới, hiện đại hóa công nghệ sản xuất…đều rất lớn cả ở những quốc gia phát triển lẫn các quốc gia. Nhu cầu này được thỏa mãn một phần bằng vốn Ngân sách Nhà nước, một phần huy động dân cư nhưng phần lớn vẫn bằng tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng thương mại. Tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng thương mại đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế quốc dân, điều hoà lượng cung cầu về vốn trong nền kinh tế. Thông qua cho vay trung và dài hạn mà xây dựng cơ sở hạ tầng, đổi mới công nghệ, góp phần đẩy nhanh quá trình tái sản xuất mở rộng, đầu tư phát triển nền kinh tế. Hoạt động tín dụng đã biến các phương tiện tạm thời nhàn rỗi trong xã hội thành những phương tiện hoạt động kinh doanh có hiệu quả, động viên nhanh chóng vật tư lao động và các phương tiện sẵn có khác đưa vào sản xuất, thúc đẩy lưu thông hàng hoá, đẩy nhanh chu chuyển tiền tệ, thúc đẩy tái sản xuất mở rộng. Tín dụng trung và dài hạn tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế đối ngoại phát triển: Trong điều hiện nay, sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia luôn gắn với thị trường thế giới, nền kinh tế đóng trước đây đã nhường bước cho nền kinh tế mở phát triển. Tín dụng trung và dài hạn đã trở thành một trong những phương tiện nối liền kinh tế các nước với nhau. Bởi ngân hàng thông qua hoạt động cho các doanh nghiệp trong nước vay ngoại tệ để đầu tư ra nước ngoài hoặc cho các đối tác nước ngoài vay để đầu tư vào trong nước hoặc cho vay xuất nhập khẩu đã tạo ra mối quan hệ giao lưu, hợp tác giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước, dần dần thiết lập quan hệ hợp tác chặt chẽ giữa nền kinh tế của nước đó với nền kinh tế các nước khác trong khu vực và trên thế giới. 1.2.2. Nghiệp vụ tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng Thương mại 1.2.2.1. Đặc điểm: Nguồn vốn tín dụng của các Ngân hàng Thương mại chủ yếu là nguồn vốn huy động. Khi tập trung huy động vốn, NHTM phải đảm bảo và có trách nhiệm hoàn trả đầy đủ, kịp thời cho người gửi khi họ có nhu cầu rút tiền gửi. Vì vậy trong cho vay nói chung cũng như trong cho vay trung và dài hạn nói riêng ngân hàng cũng đòi hỏi khách hàng vay vốn phải hoàn trả ngân hàng đúng hạn. Mặt khác, do thời gian hoàn vốn chậm nên trong quá trình thực hiện nghiệp vụ tín dụng trung và dài hạn, Ngân hàng phải bỏ ra chi phí nhiều hơn: trả lãi tiền gửi, trả lương cán bộ nhân viên, nộp thuế, trích lập các quỹ….Chính vì thế, trong cho vay trung và dài hạn, Ngân hàng cho vay và doanh nghiệp vay vốn phải thống nhất tính toán, xác định rõ thời hạn cho vay và kỳ hạn trả nợ của dự án. Đồng thời phải thường xuyên đôn đốc doanh nghiệp trong việc trả nợ, trả lãi. Do thời gian cho vay dài nên tín dụng trung và dài hạn chứa đựng rủi ro cao. Thêm vào đó, giá trị của khoản vay trung dài hạn lại có giá trị lớn nên Ngân hàng thường yêu cầu doanh nghiệp vay vốn phải có tài sản đảm bảo chắc chắn. Tài sản dùng để đảm bảo cho nợ vay phải có giá trị lâu dài và không bị mất giá theo thời gian. 1.2.2.2. Quy trình: Giai đoạn xét duyệt trước khi cho vay: Sau khi nhận từ khách hàng hồ sơ xin vay (bao gồm đơn xin vay, luận chứng kinh tế kỹ thuật, phương án vay và trả nợ, báo cáo tình hình tài chính, hồ sơ tài sản thế chấp…) và hồ sơ ban đầu (quyết định thành lập doanh nghiệp, giấy phép đăng ký kinh doanh…) cán bộ tín dụng thẩm định theo trình tự sau: + Hồ sơ pháp lý: theo đúng thủ tục pháp lý + Tư cách pháp nhân của doanh nghiệp + Thẩm định tính khả thi của phương án vay vốn: thẩm định về phương diện thị trường, kỹ thuật, tài chính, điều kiện vay vốn, hiệu quả kinh tế xã hội Sau khi xem xét các yếu tố trên, cán bộ tín dụng sẽ có đánh giá tổng quát, ghi ý kiến trình trưởng phòng, trưởng phòng tín dụng, kiểm tra lại nội dung tờ trình và ghi ý kiến trình giám đốc. Giám đốc là người duyệt và quyết định từ chối hay đồng ý cho vay. Thời gian thẩm định không quá 20 ngày làm việc kể từ khi nhận đủ hồ sơ của khách hàng. Thời gian quyết định cho vay không quá 25 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ của bộ phận thẩm định. Giai đoạn phát tiền vay: Đối với mỗi hợp đồng vay vốn, khách hàng có thể rút vốn nhiều lần. Cán bộ tín dụng có nhiệm vụ theo dõi, giám sát việc rút vốn vay từng lần của khách hàng để đảm bảo vốn rút ra đúng nội dung yêu cầu chi trả, phù hợp với mục đích vay. Đồng thời, cán bộ tín dụng phải thường xuyên bám sát tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng để sớm phát hiện những lệch lạc trong việc sử dụng vốn vay, phát hiện những khó khăn mà khách hàng gặp phải để có cơ hội cố vấn tốt cho khách hàng, tránh rủi ro cho ca hai bên. Giai đoạn thu nợ gốc và lãi: Việc trả nợ gốc và lãi do khách hàng và ngân hàng thỏa thuận với nhau. Nếu đến hạn trả nợ, khách hàng không trả thì ngân hàng được quyền trích tài khoản các loại để thu nợ. Trình tự trả lãi, phí, gốc có thể thay đổi cho linh hoạt, phù hợp với tình hình thực tế và trên cơ sở đề nghị của doanh nghiệp. Trong giai đoạn này, cán bộ tín dụng thường xuyên kiểm tra việc sử dụng tài sản hình thành từ vốn vay, cùng kế toán viên theo dõi kỳ hạn nợ, chủ động lập giấy thu nợ. Cán bộ tín dụng xem xét các báo cáo tài chính định kỳ của doanh nghiệp, nếu thấy có vấn đề, cán bộ tín dụng có ý kiến để doanh nghiệp kịp thời xử lý. Trước khi đến hạn trả nợ vay, nếu khách hàng không có khả năng trả nợ đúng hạn vì lý do khách quan và có đơn xin gia hạn nợ, cán bộ tín dụng xuống đơn vị tìm hiểu và kiểm tra thực tế, nếu thấy do nguyên nhân khách quan ngoài phạm vi quản lý điều hành của đơn vị thì cán bộ tín dụng trình Ban giám đốc giải quyết cho gia hạn nợ theo đúng quy định, chế độ cho vay của Ngân hàng Nhà nước. 1.3. Chất lượng tín dụng trung và dài hạn của NHTM 1.3.1. Khái niệm Chất lượng tín dụng là sự đáp ứng yêu cầu hợp lý của khách hàng, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng đồng thời góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế xã hội Chất lượng tín dụng trung dài hạn là chất lượng của các khoản vay có thời hạn trên một năm, được đánh giá là có chất lượng tốt khi vốn vay được sử dụng đúng mục đích, phục vụ cho các hoạt động sản xuất kinh doanh đem lại hiệu quả, Ngân hàng được trả nợ đúng hạn, vừa bù đắp được chi phí vừa có lợi nhuận vừa đem lại hiệu quả kinh tế xã hội Từ khái niệm trên ta thây rằng khách hàng, NHTM, và bối cảnh kinh tế là ba nhân tố được đề cập đến khi xem xét chất lượng hoạt động tín dụng trung dài hạn. Do đó chúng ta xem xét chất lượng tín dụng trung dài hạn trên ba giác độ đó Đối với Ngân hàng Thương mại: chất lượng tín dụng trung dài hạn thể hiện ở phạm vi, mức độ giới hạn tín dụng phải phù hợp với thực lực của ngân hàng và phải bảo đảm được khả năng cạnh tranh trên thị trường. Chất lượng tín dụng trung dài hạn thể hiện ở chỉ tiêu lợi nhuận hợp lý, dư nợ tăng trưởng, tỷ lệ nợ quá hạn hợp lý, đảm bảo cơ cấu giữa nguồn vốn ngắn hạn, trung dài hạn trong nền kinh tế. Đối với khách hàng: chất lượng tín dụng trung dài hạn là sự thoả mãn yêu cầu hợp lý của khách hàng với lãi suất hợp lý, thủ tục đơn giản nhưng vẫn tuân thủ đúng những quy định của tín dụng Đối với nền kinh tế: khoản tín dụng trung dài hạn có chất lượng phải hỗ trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh, giải quyết công ăn việc làm, xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, vừa thúc đẩy tiêu dùng, thu hút tối đa nguồn vốn trong nước, đồng thời tranh thủ vốn đầu tư nước ngoài phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế. Như vậy, chúng ta có thể rút ra một số vấn đề về cách tiếp cận khái niệm chất lượng cho vay hay chất lượng tín dụng: - Đây là một khái niệm tương đối: nó vừa cụ thể (thể hiện qua các chỉ tiêu tính toán như kết quả kinh doanh, nợ quá hạn...) lại vừa trừu tượng (thể hiện qua năng lực thu hút khách hàng, tác động đến nền kinh tế...). - Chất lượng cho vay là một chỉ tiêu tổng hợp và được xác định qua nhiều yếu tố như: lãi, mức độ an toàn vốn của kinh doanh, khả năng đáp ứng nhu cầu vốn của khách hàng.... 1.3.2. Tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn: 1.3.2.1. Nâng cao chất lượng tín dụng quyết định sư tồn tại và phát triển của các Ngân hàng Thương mại Chất lượng tín dụng trung và dài hạn làm tăng khả năng cung cấp dịch vụ của các ngân hàng thương mại do tạo thêm nguồn vốn từ việc tăng vòng quay vốn tín dụng và thu hút được nhiều khách hàng bởi các hình thức của sản phẩm, dịch vụ tạo ra một hình ảnh tốt đẹp về biểu tượng, uy tín của ngân hàng và sự trung thành của ngân hàng. Chất lượng tín dụng trung và dài hạn làm tăng khả năng sinh lời của các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng do giảm được sự châm trễ, giảm chi phí nghiệp vụ, chi phí quản lý, các chi phí thiệt hại do không thu hồi được vốn cho vay. Chất lượng tín dụng trung và dài hạn đảm bảo khả năng thanh toán và lợi nhuận của ngân hàng, tạo thế mạnh cho ngân hàng trong cạnh tranh. Với những ưu thế trên, việc củng cố và tăng cường chất lượng tín dụng trung và dài hạn là sự cần thiết khách quan vì sự tồn tại và phát triển lâu dài của ngân hàng thương mại. Và cũng chính vì vậy, chất lượng tín dụng luôn luôn đòi hỏi sự cải tiến. 1.3.2.1. Nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn là cần thiết để phát triển kinh tế Ngày nay cùng với sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá, tín dụng cũng ngày càng phát triển, nhằm cung cấp thêm các phương tiện giao dịch để đáp ứng nhu cầu giao dịch hàng ngày càng tăng trong xã hội. Trong điều kiện đó, chất lượng tín dụng ngày càng được quan tâm, bởi lẽ: + Đảm bảo chất lượng tín dụng là điều kiện để ngân hàng làm tốt vai trò trung tâm thanh toán: khi chất lượng tín dụng được đảm bảo sẽ tăng vòng quay vốn cho vay, với một lượng tiền như cũ có thể thực hiện số lần giao dịch lớn hơn, tạo điều kiện tiết kiệm tiền trong lưu thông, củng cố sức mua của đồng tiền. + Chất lượng tín dụng góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định tiền tệ, tăng trưởng kinh tế, tăng uy tín quốc gia. Điều này xuất phát từ chức năng tạo tiền của ngân hàng thương mại, thông qua cho vay chuyển khoản, thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt, ngân hàng thương mại có thể mở rộng tiền ghi sổ gấp nhiều lần so với số tiền thực có, hoặc vì lí do nào đó, các chủ tài khoản có khả năng phát hành séc và thanh toán bằng các phương tiện khác cho khách vượt quá số tiền gửi thực có, hay khi ngân hàng xử lý nghiệp vụ thanh toán cho khách hàng đã cung cấp cho doanh nghiệp một khối lượng thanh toán bằng cách ghi “có” trước ghi “nợ” sau. + Tín dụng nói chung và tín dụng trung và dài hạn nói riêng có quan hệ mật thiết với nền kinh tế xã hội, thiết lập một mối cơ chế chính sách tín dụng đồng bộ, có hiệu quả sẽ có tác động tích cực tới mọi mặt của nền kinh tế xã hội, điều đó cũng thể hiện chất lượng hoạt động tín dụng trong nền kinh tế thị trường. 1.3.3. Các chỉ tiêu đo lường chất lượng tín dụng trung và dài hạn: 1.3.3.1. Xét trên quan điểm ngân hàng Xét trên giác độ Ngân hàng, có rất nhiều các chỉ tiêu để đánh giá chất lượng tín dụng trung và dài hạn nhưng trong khuôn khổ khóa luận này em chỉ tập trung đánh giá trên những chỉ tiêu chủ yếu sau: Chỉ tiêu dư nợ Dư nợ tín dụng trung và dài hạn Tỷ lệ dư nợ trung và dài hạn = Tổng dư nợ tín dụng Chỉ tiêu này cho thấy biến động tỷ trọng dư nợ tín dụng trung và dài hạn trong tổng dư nợ tín dụng của một Ngân hàng trong các thời kì khác nhau. Có thể nghiên cứu biến động qui mô, khối lượng tín dụng trung và dài hạn nếu chỉ xem xét tử số. Tỷ lệ này càng cao chứng tỏ mức độ phát triển của nghiệp vụ này càng lớn, uy tín với khách hàng được nâng cao. Vì tín dụng trung và dài hạn có rất nhiều rủi ro tiềm tàng mà dư nợ lại lớn chứng tỏ mối quan hệ khách hàng- Ngân hàng là hoàn toàn tin cậy, có hiệu quả. Chỉ tiêu Nợ quá hạn Dư nợ quá hạn trung và dài hạn Tỷ lệ nợ quá hạn trung và dài hạn = Tổng dư nợ trung và dài hạn Đến kỳ hạn trả nợ và lãi tiền vay, nếu bên đi vay không đủ tiền để trả và không được gia hạn nợ thì ngân hàng sẽ chuyển số nợ đó sang nợ quá hạn. Nợ quá hạn chính là điều mà ngân hàng không hề mong muốn nhưng nó không phải là thước đo chuẩn để căn cứ vào đó đánh giá chất lượng tín dụng của món vay. Trên thực tế, các ngân hàng luôn cố gắng tìm cách để hạ tỷ lệ nợ quá hạn tới mức thấp nhất có thể được. Chỉ tiêu lợi nhuận Lợi nhuận từ tín dụng trung và dài hạn Tỷ lệ sinh lời trung và dài hạn = Tổng dư nợ tín dụng trung và dài hạn Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của tín dụng trung và dài hạn. Lợi nhuận ở đây phải hiểu là chênh lệch giữa chi phí đầu ra và đầu vào tức lãi suất huy động và thu từ lãi hay doanh thu đầu ra của tín dụng trung và dài hạn. Xét cho cùng thì khoản tín dụng dù không có nợ quá hạn, nợ khó đòi thì cũng chỉ nhằm mục đích tăng lợi nhuận cho Ngân hàng. Lợi nhuận từ tín dụng trung và dài hạn Tỷ lệ lợi nhuận trung và dài hạn = Tổng lợi nhuận Chỉ tiêu này cho thấy rõ hơn vị trí của tín dụng trung và dài hạn trong hoạt động Ngân hàng. Thu từ khoản tín dụng có chất lượng cao sẽ đóng góp lớn vào thu nhập của Ngân hàng. Nếu khoản tín dụng có chất lượng tồi thì thu không được gốc và lãi mà còn làm tăng chi phí của Ngân hàng nên sẽ kéo lợi nhuận giảm tương ứng. 1.4.3.2. Xét trên quan điểm khách hàng Chi phí vốn vay (lãi suất tiền vay): Đây là tiêu chí được khách hàng quan tâm hàng đầu khi tiếp cận với nguồn vốn của ngân hàng. Trong một ngân hàng cụ thể thì lãi suất của các khoản vay là không hoàn toàn giống nhau, nó phụ thuộc vào mức độ rủi ro tiềm ẩn của mỗi khoản vay đó, mức độ rủi ro nhiều hay ít là do đánh giá chủ quan của ngân hàng. Đối với tín dụng trung và dài hạn, thời gian vay dài, giá trị khoản vay lớn nên ngân hàng phải xem xét rất kỹ lưỡng và thông thường lãi suất cho vay sẽ tỷ lệ thuận với mức độ rủi ro của khoản vay. Còn xét trên tổng thể ngành ngân hàng trên cơ sở cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại thì lãi suất dịch vụ tín dụng nói chung và tín dụng trung và dài hạn nói riêng của các Ngân hàng thường không giống nhau. Thời gian bình quân để xét duyệt một khoản vay trung và dài hạn: Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay, thời gian được đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng có thể ảnh hưởng rất lớn, quyết định sự thành bại của một phương án kinh doanh. Chính vì thế mà tiêu chí này ảnh hưởng rất lớn đến việc lựa chọn Ngân hàng để vay vốn của khách hàng. Để tránh mất đi những khách hàng tốt, nâng cao chất lượng tín dụng thì các ngân hàng cần phải chú ý đến tiêu chí này, thực hiện đơn giản hóa các thủ tục vay vốn, giảm thiểu thời gian xét duyệt khoản vay trên cơ sở vẫn đảm bảo sự an toàn tìn dụng cho ngân hàng. Sự đa dạng của loại hình tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng: Chất lượng tín dụng đồng nghĩa với việc đáp ứng được tốt nhất nhu cầu của khách hàng trong quan hệ tín dụng. Như vậy, ngoài những yếu tố khác, Ngân hàng cần đặc biệt chú trọng đến sự đa dạng trong chủng loại sản phẩm tín dụng, đáp ứng được các nhu cầu khác nhau của khách hàng. 1.3.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng Thương mại 1.3.4.1. Nhóm nhân tố chủ quan Đây là những nhân tố thuộc về bản thân ngân hàng, liên quan đến sự phát triển của ngân hàng trên tất cả các mặt ảnh hưởng tới hoạt động tín dụng, bao gồm: Nguồn vốn của Ngân hàng Nguồn vốn luôn đóng vai trò quan trọng hàng đầu đối với hoạt động kinh doanh của các hoạt động kinh doanh của các ngân hàng, đặc biệt là nguồn vốn huy động trung và dài hạn. Môt ngân hàng có cấu trúc vốn tương đối lớn có thể cho vay với kỳ hạn dài hơn và nhiều rủi ro tín dụng hơn, nhưng bù lại lợi nhuận thu về có thể cao hơn và thường thì các ngân hàng không sử dụng vốn trung và dài hạn của mình để cấp tín dụng ngắn hạn. Thêm vào đó, đối với tín dụng trung và dài hạn, với nguồn đáp ứng tương đối ổn định, lãi suất hợp lý sẽ một mặt đảm bảo bù đắp những chi phí và những biến động của thị trường, và một mặt để nâng cao năng lực cạnh tranh được với các NHTM khác. Ở Việt Nam, tính ổn định của các khoản tiền ngắn hạn có ảnh hưởng lớn tới chất lượng tín dụng trung và dài hạn bởi các NHTM cho vay trung và dài hạn chủ yếu từ nguồn ngắn hạn theo một tỷ lệ nhất đinh do NHNN Việt Nam quy định, trong khi huy động vốn trung và dài hạn còn rất hạn chế. Chính sách tín dụng Chính sách tín dụng là đường lối, chủ trương đảm bảo cho hoạt động tín dụng đi đúng quỹ đạo, liên quan đến việc mở rộng hay thu hẹp tín dụng. Trước đây, việc quyết định thu hẹp hay mở rộng chính sách tín dụng có tác động rất lớn tới chất lượng tín dụng. Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường hiện nay, vấn đề đặt ra không phải là cho vay càng nhiều càng tốt mà điều ngân hàng quan tâm trên hết là lợi ích từ các món vay mang lại. Một chính sách tín dụng được xây dựng đúng đắn sẽ đảm bảo khả năng sinh lời của hoạt động tín dụng. Chính sách tín dụng phải phù hợp với đường lối chính sách của Nhà nước, tuân thủ pháp luật, đảm bảo kết hợp hài hòa quyền lợi của người gửi tiền, người đi vay và của chính bản thân ngân hàng, đồng thời phải đảm bảo tính công bằng. Năng lực, trình độ và phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ tín dụng: Chất lượng đội ngũ cán bộ, nhân viên ngân hàng là yêu cầu hàng đầu đối với mỗi ngân hàng, nó ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động và khả năng tạo lợi nhuận của ngân hàng. Con người chính là yếu tố quyết định đến sự thành bại trong quản lý vốn tín dụng nói riêng và hoạt động của ngân hàng nói chung. Khi nền kinh tế càng phát triển, các quan hệ kinh tế càng phức tạp, cạnh tranh ngày càng gay gắt, đòi hỏi trình độ của người lao động càng cao. Ở đây, năng lực không chỉ gói gọn trong ý nghĩa về chuyên môn nghiệp vụ mà còn phải kể đến những hiểu biết về pháp luật, chính trị, xã hội, tâm lý khoa học…Đối với tín dụng trung và dài hạn, năng lực trong công tác thẩm định phải được đặt lên hàng đầu. Đây là công việc phức tạp và liên quan nhiều tới các bên thứ ba, đòi hỏi cán bộ tín dụng không những có khả năng dự đoán những biến động sẽ xảy ra mà còn phải có vốn kinh nghiệm để giúp cho việc dự đoán được chính xác. Quy trình tín dụng: Đây là những trình tự, những giai đoạn, những bước phải thực hiện theo một thủ tục nhất định trong việc cho vay, thu nợ. Chất lượng tín dụng tùy thuộc vào việc lập ra một quy trình tín dụng đảm bảo tính khoa học và việc thực hiện tốt các bước trong quy trình tín dụng cũng như sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các bước. Khâu chuẩn bị cho vay là khâu rất quan trọng, đòi hỏi cán bộ tín dụng phải làm tốt công tác thẩm định đối tượng cho vay cũng như tính khả thi của dự án đầu tư để ra quyết định cho vay hay không cho vay. Việc tập trung vào phân tích tài chính doanh nghiệp và phân tích tài chính dự án sẽ giúp cho ngân hàng xác định được khả năng trả nợ của doanh nghiệp và có được cái nhìn bao quát toàn diện về hoạt động và kết quả của dự án trong tương lai. Đối với kiểm tra, giám sát quá trình sử dụng vốn vay và theo dõi rủi ro thì việc thiết lập hệ thống kiểm tra hữu hiệu, áp dụng có hiệu quả các hình thức, biện pháp kiểm tra sẽ góp phần nâng cao chất lượng tín dụng. Thu nợ và thanh toán nợ là khâu quan trọng nhất để đánh giá chất lượng của khoản tín dụng. Sự nhạy bén của ngân hàng trong việc phát hiện và xử lý thu nợ hợp lý sẽ giảm thiểu các khoản nợ quá hạn và có tác động tích cực đối với chất lượng tín dụng nói chung, đặc biệt là tín dụng trung và dài hạn. Thông tin tín dụng luôn là yếu tố cơ bản cần thiết cho công tác quản lý dù ở bất kỳ lĩnh vực nào. Trong hoạt động tín dụng ngân hàng cũng vậy, để thẩm định dự án, thẩm định khách hàng trước tiên phải có thông tin về khách hàng đó, về dự án đó,để làm tốt công tác giám sát sau khi cho vay cũng cần thông tin. Thông tin càng chính xác, kịp thời càng thuận lợi cho ngân hàng trong việc đưa ra quyết định cho vay, theo dõi việc sử dụng vốn vay và tiến độ trả nợ. Thông tin chính xác, kịp thời, đầy dủ còn giúp cho ngân hàng xây dựng hoặc điều chỉnh kế hoạch kinh doanh, chính sách tín dụng một cách linh hoạt cho phù hợp với tình hình thực tế. Tất cả những điều đó góp phần nâng cao chất lượng tín dụng cho ngân hàng. Kiểm tra, kiểm soát nội bộ là biện pháp giúp lãnh đạo ngân hàng nằm được tình hình hoạt động kinh doanh đang diễn ra như thế nào, cũng như việc tuân thủ các quy trình cho vay của cán bộ tín dụng từ đó có được đường lối, chủ trương, chính sách phù hợp nhằm giải quyết những khó khăn vướng mắc, phát huy những nhân tố thuận lợi và nâng cao hiệu quả kinh doanh. Chất lượng tín dụng phụ thuộc vào việc chấp hành những quy định, chính sách và sự phát hiện kịp thời các sai sót cũng như nguyên nhân dẫn đến sai sót trong quá trình thực hiện một khoản tín dụng. Công nghệ Ngân hàng, trang thiết bị kỹ thuật Đây cũng là một nhân tố tác động đến chất lượng tín dụng trung dài hạn của ngân hàng, nhất là trong thời đại khoa học kỹ thuật phát triển như hiện nay. Một ngân hàng sử dụng công nghệ hiện đại, được trang bị các phương tiện kỹ thuật chất lượng cao, sẽ tạo điều kiện đơn giản hoá các thủ tục, rút ngắn thời gian giao dịch, đem lại sự tiện lợi tối đa cho khách hàng vay vốn. Đó là điều kiện tiền đề để ngân hàng thu hút thêm khách hàng, mở rộng tín dụng. Sự hỗ trợ của các phương tiện kỹ thuật hiện đại còn giúp cho việc thu thập thông tin nhanh chóng, chính xác, công tác lập kế hoạch, xây dựng chính sách tín dụng cũng có hiệu quả hơn. 1.3.4.2. Các nhân tố từ phía khách hàng: a. Phẩm chất đạo đức và thiện chí của khách hàng: Trong quan hệ tín dụng, muốn có hiệu quả cao đòi hỏi phải có sự hợp tác từ cả hai phía người cho vay và người đi vay. Nếu như khách hàng không có thiện chí thì sẽ rất khó khăn cho ngân hàng trong việc thu hồi nợ. Sự thiếu thiện chí của khánh hàng có thể biểu hiện trực tiếp trong quan hệ tín dụng với ngân hàng. b. Năng lực quản lý, trình độ chuyên môn, khả năng phân tích đánh giá các dự án vay vốn ngân hàng của khách hàng. Đây là những nhân tố quan trọng tác động trực tiếp tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, do đó nó ảnh hưởng đến chất lượng các khoản vốn vay ngân hàng cho sản xuất kinh doanh. Nếu khả năng quản lý, hiểu biết về thị trường, trình độ chuyên môn… của khách hàng không tốt thì khó có thể điều hành được hoạt động kinh doanh có hiệu quả. Điều này có thể dẫn đến hậu quả xấu đó là sự thua lỗ của những dự án, không trả được cho ngân hàng. Chất lượng tín dụng vì thế mà không được đảm bảo. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt và đầy biến động thì vai trò của công tác quản lí trong doanh nghiệp càng quan trọng, bởi trong điều kiện đó đòi hỏi hoạt động của doanh nghiệp phải thường xuyên được điều chỉnh để thích ứng với những biến động của môi trường kinh doanh, của chính bản thân doanh nghiệp. 1.3.4.3. Nhóm nhân tố thuộc về quản lý vĩ mô của Nhà nước: Trong nền kinh tế thị trường có điều tiết của Nhà nước, pháp luật có vai trò rất quan trọng, đó là một hàng rào pháp lý tạo ra môi trường kinh doanh bình đẳng, thuận lợi, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể kinh tế Sự đồng bộ thống nhất của hệ thống pháp luật, ý thức chấp hành pháp luật và cơ chế đảm bảo cho sự tuân thủ pháp luật một cách nghiêm minh triệt để…ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng. Quan hệ tín dụng phải được pháp luật thừa nhận, pháp luật quy định cơ chế hoạt động tín dụng, tạo ra những điều kiện thuận lợi cho hoạt động tín dụng lành mạnh, phát huy được vai trò của tín dụng đối với sự phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo quyền và lợi ích của các bên tham gia quan hệ tín dụng. Sự thay đổi chủ trương chính sách của Nhà nước cũng gây ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của các doanh nghiệp. Việc thay đổi đột ngột cơ cấu kinh tế, chính sách xuất nhập khẩu… gây xáo động trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp: không tiêu thụ được sản phẩm, chưa có phương án sản xuất kinh doanh mới…dẫn đến nợ quá hạn, nợ khó đòi, chất lượng tín dụng giảm sút. 1.3.4.4. Các nhân tố khác: a. Môi trường kinh tế: Bất kì một Ngân hàng nào cũng chịu sự chi phối của những chu kỳ kinh tế. Trong giai đoạn nền kinh tế đang hưng thịnh, các doanh nghiệp làm ăn phát đạt, xuất hiện nhiều nhu cầu mở rộng sản xuất, nên nhu cầu tín dụng cũng tăng. Trong giai đoạn nền kinh tế suy thoái, nhu cầu tín dụng sẽ giảm, khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế cũng giảm sút, lúc này, Ngân hàng sẽ dư thừa, ứ đọng một lượng vốn lớn, nguồn vốn huy động được sử dụng không hiệu quả có nghĩa là chất lượng tín dụng bị giảm sút. Chu kỳ kinh tế cũng ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng xét trên quan điểm khách hàng. Khi nền kinh tế suy thoái, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sẽ bị đình trệ do sản phẩm không tiêu thụ được và có nghĩa là doanh nghiệp khó có khả năng trả nợ Ngân hàng, chất lượng tín dụng lúc này bị đánh giá là kém. b. Môi trường chính trị xã hội: Môi trường chính trị xã hội bất ổn có ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động kinh tế nói chung và hoạt động tín dụng của ngân hàng nói riêng. Lúc này, không chỉ riêng các doanh nghiệp mà bản thân ngân hàng cũng không yên tâm tập trung vào sản xuất kinh doanh chứ chưa nói là việc mở rộng. Người dân lo giữ của cải ở bên mình do đó các ngân hàng khó huy động được vốn để cho vay. Trường hợp có cho vay thì chất lượng tín dụng khó có thể đảm bảo trong tình hình biến động như vậy. c. Môi trường tự nhiên: Các nhân tố khách quan của môi trường như lũ lụt, hạn hán, thiên tai luôn là mối đe dọa đối với những dự án xây dựng công trình đặc biệt là những dự án có thời hạn dài. Đây là những nhân tố không thể lường trước được nên đối với các khu vực có điều kiện môi trường biến động như vậy thì chất lượng tín dụng là không đảm bảo. Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Nhà Hà Nội (Habubank) 2.1. Khái quát về Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội Tên: Ngân hàng thương mại cổ phần nhà Hà Nội Tên quốc tế: Hanoi Building Commercial Joint Stock Bank Tên viết tắt: Habubank Hội sở chính: Địa chỉ: B7 Giảng Võ – Quận Ba Đình – Hà Nội Điện thoại: (04) 3 8460 135/ 36 Fax: (04) 3 8235 693 Email: mysay@habubank.com.vn Website: www.habubank.com.vn Hệ thống mạng lưới Hà Nội: 1 Sở Giao dịch, 13 chi nhánh Quảng Ninh: 1 phòng giao dịch, 2 chi nhánh Bắc Ninh: 1 phòng giao dịch, 1 chi nhánh TPHCM: 2 phòng giao dịch, 1 chi nhánh Bình Dương: 1 phòng giao dịch, 1 chi nhánh Ngoài ra còn có các phòng giao dịch đặt tại: Hải Phòng, Hà Tây, Đà Nẵng,Vĩnh Phúc. Công ty con: Công ty chứng khoán Habubank (Habubank Securities) 2.1.1. Thành lập và hoạt động: Habubank là ngân hàng thương mại cổ phần đầu tiên ở Việt Nam, được thành lập từ năm 1989 theo quyết định số 104/QĐ-UB ngày 11 tháng 1 năm 1989 của ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội với mục tiêu ban đầu là hoạt động tín dụng và dịch vụ trong lĩnh vực phát triển nhà. Tiền thân của Habubank là Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam kết hợp với các cổ đông bao gồm Uỷ ban Nhân dân Thành phố Hà Nội và một số doanh nghiệp quốc doanh hoạt động trong lĩnh vực xây dựng, quản lý nhà và du lịch. Ngày 2/1/1989 Habubank khai trương hoạt động tại số 125 Bà Triệu , Hà Nội với số vốn điều lệ ban đầu là 5 tỷ đồng với tên gọi “Ngân hàng phát triển Nhà Hà Nội”, Habubank được phép kinh doanh các sản phẩm và dịch vụ ngân hàng trong 99 năm. Năm 1992, cùng với sự ra đời của Pháp lệnh Ngân hàng và Hợp tác xã tín dụng, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho phép Ngân hàng thực hiện thêm một số hoạt động kinh doanh ngoại tệ gồm tiền gửi, tiết kiệm, vay và tiếp nhận, cho vay, mua bán kiều hối, thanh toán ngoại tệ trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam. Ngân hàng cũng được đổi tên thành “Ngân hàng thương mại cổ phần nhà Hà Nội” Năm 1995 đánh dấu một bước ngoặt đáng chú ý trong chiến lược kinh doanh của Habubank với việc chú trọng mở rộng các hoạt động thương mại nhằm vào đối tượng khách hàng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ cùng các cá nhân và tổ chức tài chính khác bên cạnh việc thực hiện các hoạt động hỗ trợ và phát triển nhà. Thêm vào đó, cơ cấu cổ đông cũng được mở rộng một cách rõ rệt với nhiều cá nhân và doanh nghiệp quốc doanh và tư nhân tham gia đầu tư đóng góp phát triển. Cũng trong năm này, Habubank chính thức được phép cung cấp dịch vụ thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại tệ và tăng vốn điều lệ lên 24,396 tỷ đồng. Năm 2001 Habubank mua lại Ngân hàng TMCP Nông thôn Quảng Ninh và mở chi nhánh đầu tiên tại Quảng Ninh, khai trương website Habubank tại địa chỉ www.habubank.com.vn với những thông tin cơ bản về sản phẩm dịch vụ,lãi suất…cung cấp cho khách hàng. Cùng năm này, Habubank triển khai hệ thống Smartbank trong toàn hệ thống, là một trong những ngân hàng đầu tiên ở Việt Nam thực hiện quản lý dữ liệu tập trung và nối mạng online toàn hệ thống; trở thành thành viên chính thức của Hiệp hội viễn thông tài chính liên ngân hàng toàn cầu (SWIFT) Năm 2002 Habubank bắt đầu triển khai dự án Nâng cao năng lực kiểm soát rủi ro và năm 2004, hợp tác với dự án SBV-GTZ (Đức) nhằm đẩy mạnh công tác quản trị rủi ro của Ngân hàng. Năm 2005, triển khai dịch vụ ngân hàng tự động, thành lập Trung tâm thẻ Habubank, phát hành thẻ Habubank Vantage và trở thành thành viên chính thức trong liên minh thẻ VNBC (Vietnam Bankcard) Năm 2006, tăng vốn điều lện lên 1.000 tỷ đồng; thành lập và đưa vào hoạt động Công ty chứng khoán Habubank; triển khai dự án Nâng cấp hạ tầng dữ liệu thông tin phục vụ cho hoạt động kinh doanh và quản trị điều hành; được tạp chí The Banker (Anh) trao tặng danh hiệu “Ngân hàng Việt Nam của năm” Năm 2007, tăng vốn điều lệ lên 2.000 tỷ đồng; hoàn thành việc lựa chọn Deutsche Bank làm đối tác chiến lược nước ngoài; được nhận bằng khen của Thủ tướng Chính phủ và lần thứ 2 liên tiếp được tạp chí The Banker bầu chọn là “Ngân hàng Việt Nam của năm”. Cùng trong năm 2007, Công ty Chứng khoán Habubank tăng vốn điều lệ lên 150 tỷ đồng , đồng thời trở thành đơn vị dẫn đầu và có đóng góp to lớn trong việc xây dựng thị trường trái phiếu Việt Nam. Năm 2008, tổng vốn điều lệ của Habubank đạt được là 2.800 tỷ đồng. Số chi nhánh và phòng giao dịch của Habubank đạt 40 điểm trên toàn hệ thống. Tới nay, qua hơn 18 năm hoạt động, Habubank đã có mạng lưới ngày càng mở rộng, 8 năm liên tục được NHNN Việt Nam xếp lợi A và được công nhận là Ngân hàng phát triển toàn diện với hoạt động ổn định, an toàn và hiệu quả. Habubank luôn giữ vững niềm tin của khách hàng bằng chất lượng sản phẩm dịch vụ, phong cách phục vụ chuyên nghiệp, nhiệt tình của đội ngũ cán bộ nhân viên. Bước sang năm 2009, Habubank sẽ tiếp tục phấn đấu nỗ lực để đạt được các chỉ tiêu kế hoạch đặt ra, tiếp tục là một NHTM hoạt động an toàn, hiệu quả, hướng tới mục tiêu trở thành ngân hàng bán lẻ chuyên nghiệp hiện đại trong tương lai. 2.1.2. Cơ cấu tổ chức: Cung ứng dịch vụ Kiểm tra và xét duyệt tín dụng DVNH Doanh nghiệp phát triển kinh doanh DVNH cá nhân Phó tổng giám đốc Phó tổng giám đốc Phó tổng giám đốc Rủi ro tín dụng Rủi ro tín dụng Phó tổng giám đốc Rủi ro thị trường và thanh khoản UBCS.TÍN DỤNG UB.QUẢN LÝ TÀI SẢN BAN KIỂM SOÁT Nguồn vốn Chiến lược-Hợp tác-Marketing Tổng giám đốc điều hành HĐQT BAN ĐIỀU HÀNH HỖ TRỢ QUẢN LÝ VÀ KIỂM TOÁN NỘI BỘ 2.1.3. Tình hình hoạt động của Habubank giai đoạn 2006 – 2008 2.1.3.1. Về huy động vốn Với các sản phẩm đa dạng, phù hợp với nhu cầu của khách hàng, chính sách lãi suất linh hoạt, được hỗ trợ bởi các phương thức Marketing hiệu quả, Habubank đã thu hút được sự quan tâm của đông đảo khách hàng dân cư và tổ chức kinh tế. Bảng 1: Tình hình huy động vốn của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội Đơn vị: tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 Tăng trưởng 2007 so với 2006 Năm 2008 Tăng trưởng 2008 so với 2007 Số tuyệt đối Số tương đối(%) Số tuyệt đối Số tương đối(%) Tổng nguồn vốn huy động 9.743 19.970 10.227 104,9 19.770 -200 -1,01 -TG tiết kiệm 3.595 4.684 1.089 30,34 5.000 316 6,7 -TG khách hàng 1.371 4.987 3.616 263,7 4.531 -456 -9,14 -Huy động LNH 4.776 10.299 5.523 115,6 10.239 -60 0,58 (Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh của NHTMCP Nhà Hà Nội giai đoạn 2006-2008) Trong năm 2006, mặc dù thị trường huy động vốn có sự cạnh tranh gay gắt, nhiều ngân hàng mới thành lập, mạng lưới các chi nhánh của các ngân hàng thương mại liên tục được mở rộng kết hợp với việc chạy đua về lãi suất. Bằng các biện pháp hữu hiệu, Habubank đã duy trì tốc độ tăng trưởng nguồn huy động trong năm như: thường xuyên theo dõi và điều chỉnh kịp thời lãi suất huy động để đảm bảo tính cạnh tranh; áp dụng các phương thức Marketing hiệu quả khuyến khích khách hàng giao dịch nhiều và trung thành với ngân hàng, mở thêm kênh huy động vốn thông qua việc phát hành kỳ phiếu… Năm 2006 là năm đầu tiên Habubank phát hành giấy tờ có giá để huy động vốn trong nước, sau thời gian 10 ngày toàn hệ thống huy động được 131 tỷ đồng. Có thể thấy, nguồn vốn huy động được của Habubank có sự tăng trưởng tốt trong năm 2007. Tổng huy động vốn của Ngân hàng trong năm 2007 đạt 19.970 tỷ đồng, tăng 104,9% so với năm 2006 và vượt 50% kế hoạch đề ra, trong đó huy động tiết kiệm tăng 30,34%, huy động tiền gửi khách hàng tăng 263,7% và huy động từ thị trường liên ngân hàng tăng 115,6% Nhưng đến năm 2008 thì nguồn vốn huy động có phần giảm sút. Tổng huy động năm 2008 chỉ đạt 19.770 tỷ đồng, giảm 200 tỷ đồng so với năm 2007 (tương đương giảm 1,01%). Tuy nhiên, phải nhìn vào tổng quan nền kinh tế mới có thể đánh giá chính xác được hoạt động của Ngân hàng. Năm 2008 là năm có nhiều khó khăn đối với toàn ngành Ngân hàng do bị tác động mạnh bởi thị trường tiền tệ. Tỷ giá diễn biến phức tạp ở những tháng đầu năm; giá vàng chênh lệch rất lớn tại các thời điểm đầu năm, giữa năm và cuối năm; có những thời điểm thị trường khan hiếm tiền đồng và lãi suất giao dịch tiền đồng bị đẩy lên cao. Chính vì thế mà việc huy động vốn của hầu hết các Ngân hàng đề gặp khó khăn. Các Ngân hàng phải sử dụng nhiều biện pháp để hút và giữ nguồn vốn. Trong năm 2008 Habubank đã đẩy mạnh công tác chăm sóc khách hàng cũ, tiếp thị doanh nghiệp mới để nâng cao số dư tại Ngân hàng. Vì vậy, mặc dù tổng huy động vốn không tăng nhưng tỷ lệ tiền gửi tiết kiệm năm 2008 tăng 6,7% so với năm 2007. Như vậy có thể thấy Ngân hàng đã nỗ lực duy trì mức vốn huy động đủ đảm bảo tốt khả năng thanh toán và phục vụ họat động kinh doanh phát triển của mình trong bối cảnh nền kinh tế khó khăn như năm 2008. 2.1.3.2. Về hoạt động cho vay: Hoạt động cho vay là một trong những nghiệp vụ có thế mạnh nhất của Ngân hàng. Ngân hàng đã tích cực trong việc tìm kiếm và thu hút khách hàng bằng nhiều chính sách khách hàng hấp dẫn. Cùng với sự tăng trưởng liên tục của nền kinh tế trong những năm vừa qua, theo đó nhu cầu về vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế cũng không ngừng tăng lên. Để đáp ứng được nhu cầu của sự phát triển, với tiêu chí phục vụ khách hàng, Habubank đã không ngừng mở rộng và phát triển các dịch vụ cả về chiều rộng và chiều sâu, trong đó dịch vụ cho vay khách hàng vẫn là dịch vụ tạo ra nguồn thu chủ yếu cho ngân hàng. Kết quả hoạt động cho vay qua 3 năm như sau: Bảng 2: Tình hình hoạt động cho vay của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội Đơn vị: tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Số tiền Tăng trưởng so với 2006 Số tiền Tăng trưởng so với 2007 1.Doanh số cho vay 5.883 9.132 55,23% 9.254 1,3% 2.Doanh số thu nợ 5.743 8.900 54,97% 9.034 1,5% 3.Dư nợ tín dụng 5.983 9.419 57,43% 9.510 0,97% 4.Nợ quá hạn 56,84 234,5 312,5% 219,7 -6,3% 5.Tỷ lệ nợ quá hạn 0,95% 2,49% 2,31% 6.Tỷ lệ nợ xấu 2,35% 3,15% 2,5% (Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh của NHTMCP Nhà Hà Nội giai đoạn 2006-2008) Qua bảng số liệu trên có thể thấy hoạt động cho vay và thu nợ của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội phát triển khá tốt, doanh số cho vay, doanh số thu hồi nợ và dư nợ tín dụng tăng trưởng đều đặn. Cụ thể là: Về doanh số cho vay: năm 2007 đạt 9.231 tỷ đồng, tăng 3.249 tỷ đồng (tương đương 55,23%) so với năm 2006; sang đến năm 2008 doanh số cho vay chỉ đạt 9.254 tỷ đồng, tăng 119 tỷ đồng (tương đương 1,3%) so với năm 2007. Về doanh số thu nợ: năm 2007 đạt 8.853 tỷ đồng, tăng 3.157 tỷ đồng (tương đương 54,15% ) so với năm 2006; đến năm 2008 doanh số thu nợ đạt 9.034 tỷ đồng, tăng 181 tỷ đồng (tương đương 2,04%) so với năm 2007 2.1.3.3. Công tác dịch vụ ngân hàng: a. Bảo lãnh: Hoạt động bảo lãnh của Ngân hàng tăng trưởng đều qua các năm.Thu nhập từ hoạt động bảo lãnh năm 2006 đạt 11,8 tỷ VND, tăng 69% so với năm 2005. Năm 2007, tổng doanh số bảo lãnh đạt 2.499 tỷ VND, tăng 158,56% so với năm 2006. Thu nhập từ hoạt động bảo lãnh năm 2007 đạt 17,2 tỷ VND, tăng 45,76% so với năm 2006. Năm 2008, tổng doanh số bảo lãnh đạt 3.248 tỷ VND, tăng 130% so với năm 2007. Thu nhập từ hoạt động bảo lãnh năm 2008 đạt 23,985 tỷ VND, tăng 39,45% so với năm 2006 b. Thanh toán quốc tế: Dịch vụ thanh toán quốc tế tại Habubank được đánh giá là có chất lượng rất cao với tỷ lệ điện chuẩn được xử lý tự động đạt trên 98%, phương thức thực hiện nhanh chóng, linh hoạt không có sai sót, nhầm lẫn, đem lại sự hài lòng cho khách hàng. Năm 2006 là năm đánh dấu sự phát triển vượt bậc về cả chất và lượng trong trong hoạt động thanh toán quốc tế của Habubank. Doanh số thanh toán quốc tế năm 2006 đạt 349,22 triệu USD, đạt 149% so với kế hoạch đầu năm, tăng 131% so với cùng kỳ năm 2005. Năm 2006 cũng là năm Habubank đạt được giải thưởng về chất lượng thanh toán quốc tế xuất sắc do Citigroup trao tặng tháng 4/2006 dành cho ngân hàng có tỷ lệ tự động từ 98% trở lên. Trong năm, Ngân hàng cũng tạo nhiều chính sách ưu đãi cho khách hàng, đặc biệt là khách hàng xuất khẩu, đồng thời cung cấp thêm nhiều dịch vụ mới và thuận tiện như tái cấp vốn L/C nhập khẩu, bao thanh toán hàng xuất khẩu. Năm 2007, tổng doanh số thanh toán quốc tế của toàn Ngân hàng đạt được hơn 816 triệu USD, bằng 136,15% kế hoạch cả năm và bằng 233,92% so với năm 2006. Năm 2007, Habubank tiếp tục được các ngân hàng quốc tế đánh giá cao về chất lượng thanh toán. Tỷ lệ điện thanh toán chuẩn của Habubank luôn ở mức rất cao, góp phần làm giảm chi phí có thể phát sinh, rút ngắn thời gian giao dịch và nâng cao uy tín của Habubank đối với khách hàng cũng như với các ngân hàng nước ngoài. Trong năm 2008, Ngân hàng đã triển khai các dịch vụ mới nhằm đáp ưng nhu cầu đa dạng của khách hàng như thu đổi Sec du lịch, tái cấp vốn, tái chiết khấu L/C. Doanh số hoạt động thanh toán quốc tế năm 2008 đạt được 11.016 triệu USD 2.1.3.4. Công tác kế toán ngân quỹ: Từ năm 2002 Ngân hàng đã tham gia chương trình thanh toán điện tử, thanh toán điện tử liên ngân hàng, đẩy nhanh tốc độ thanh toán và xử lý khối lượng giao dịch lớn Trong công tác kế toán, Ngân hàng đã ứng dụng tốt công nghệ tin học, đảm bảo việc thanh toán được nhanh chóng và chính xác. Ngoài ra Ngân hàng cũng thực hiện chương trình nối mạng thanh toán điện tử trực tiếp với các ngân hàng bạn thông qua sự phối hợp với trung tâm thanh toán, trung tâm công nghệ thông tin. 2.1.3.5. Kết quả kinh doanh: Bảng3: Một số chỉ tiêu tài chính trong 3 năm gần nhất(Tính tại 31/12/2008) Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu 2006 2007 Tăng trưởng 07-06(%) 2008 Tăng trưởng 08-07(%) Tổng tài sản có 11.685.318 23.518.684 109,1% 23.606.717 0,37% Tổng dư nợ 5.983.267 9.419.378 57,43% 10.515.947 11,64% Tổng tài sản nợ 9.928.937 20.339.339 104,86% 20.613.956 1,35% Tổng huy động 9.735.102 19.970.336 105,13% 19.961.017 -0,047% Vốn điều lệ 1.000.000 2.000.000 100% 2.800.000 40% Tổng vốn cổ đông 1.756.381 3.179.345 81,04% 2.992.761 -0,87% (Nguồn: Báo cáo thường niên của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội) Nhìn vào bảng số liệu ta nhận thấy tổng tài sản, vốn điều lệ và các quỹ dự trữ của ngân hàng liên tục tăng qua các năm từ năm 2006 tới năm 2008 đã tạo điều kiện để ngân hàng mở rộng quy mô, thị phần và củng cố hình ảnh của mình trong hệ thống ngân hàng nói riêng và trong nền kinh tế nói chung. Bên cạnh đó, hiệu quả hoạt động của ngân hàng cũng được nâng cao rõ rệt thể hiện sự tăng lên của doanh thu hoạt động và lợi nhuận trước thuế. Uy tín của ngân hàng tăng lên, từ đó mà lượng tiền gửi và lượng tiền cho vay cũng tăng lên. Vốn huy động tăng trưởng mạnh, đặc biệt là huy động từ dân cư và các tổ chức tài chính, tạo thế ổn định trong hoạt động của ngân hàng. Để có được những thành quả như trên, ngân hàng ngày càng chú trọng củng cố hệ thống quản trị dựa trên nền tảng công nghệ và quy trình hợp lý, góp phần đáng kể vào việc hoàn thiện chương trình tái cấu trúc và hiện đại hóa ngân hàng. Habubank cũng không ngừng hoàn thiện công tác marketing, phát triển sản phẩm và chăm sóc khách hàng. Sản phẩm của Habubank ngày càng đa dạng phong phú đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Thêm vào đó, Habubank vẫn tiếp tục thực hiện chuyển dịch cơ cấu khách hàng phù hợp với các mục tiêu đề ra, kết hợp với việc phát triển sản phẩm mới và ngày càng tạo lập được hình ảnh Habubank trong công chúng, khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ ở các đô thị lớn, đặc biệt là tại Hà Nội, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh phù hợp với chiến lược phát triển của ngân hàng. Bên cạnh những thành công mà Ngân hàng đã đạt được đó, còn có những điểm yếu mà Ngân hàng phải nỗ lực để khắc phục, có thể kể ra đây các nhược điểm sau: - Công tác thu hồi nợ tồn đọng, mặc dù đạt được những kết quả khả quan vẫn tiến triển chậm so với kế hoạch đề ra; - Việc triển khai một số chương trình marketing, chương trình sản phẩm mới, chương trình hiện đại hóa công nghệ vẫn còn nhiều điểm bất cập, thiếu đồng bộ dẫn đến hạn chế hiệu quả hoạt động; - Các chương trình phát triển nguồn nhân lực mặc dù có những đầu tư lớn và tiến bộ trong công tác tuyển chọn, đào tạo, đãi ngộ, vẫn còn khập khiễng và thiếu đồng bộ dẫn đến hiệu quả động viên, cổ vũ và thu hút nhân tài còn hạn chế; - Các chương trình kiểm soát và quản trị rủi ro thị trường, phát triển thẻ và mở rộng mạng lưới mặc dù đã được bắt đầu nhưng quá trình phát triển khai còn bị chậm trễ. 2.2. Thực trạng chất lượng tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội: 2.2.1. Quy mô và cơ cấu tín dụng trung và dài hạn: 2.2.1.1. Quy mô tín dụng trung và dài hạn: Bảng 4: Doanh số cho vay trung và dài hạn của Habubank Đơn vị: tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 So sánh 2006-2007 Năm 2008 So sánh 2007-2008 Số tiền Tỷ lệ (%) Số tiền Tỷ lệ (%) Doanh số cho vay 5.83 9.132 3.249 55,23 9.254 122 1,3 -Ngắn hạn 4.176 5.886 1.710 40,95 6.107 221 3,75 -Trung và dài hạn 1.707 3.246 1.539 90,2 3.147 -99 -3,04 (Nguồn: Báo cáo thống kê của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội) Trong năm 2007, doanh số cho vay trung và dài hạn tăng cao hơn doanh số cho vay ngắn hạn. Doanh số cho vay trung và dài hạn năm 2007 tăng 1.539 tỷ đồng (tương đương 90,2%) so với năm 2006; trong khi đó doanh số cho vay ngắn hạn chỉ tăng 40,95%. Nguyên nhân chính ở đây là do ảnh hưởng của xu thế biến động kinh tế vĩ mô: nhu cầu vốn đầu tư chiều sâu, đầu tư cho mở rộng sản xuất kinh doanh tăng cao, sự nóng lên của thị trường bất động sản. Tuy nhiên sang đến năm 2008, doanh số cho vay chỉ tăng 1,3% so với năm 2007, trong đó cho vay ngắn hạn tăng 221 tỷ đồng (tương đương 3,75%), cho vay trung và dài hạn giảm 99 tỷ đồng (tương đương 3,04%). Đây là một trong những biện pháp của Ngân hàng: giảm tỷ trọng cho vay trung và dài hạn đồng thời tăng tỷ trọng cho vay ngắn hạn nhằm giảm thiểu rủi ro có thể xảy ra trong bối cảnh diễn biến thất thường của nền kinh tế. Năm 2007 là sự tăng trưởng mạnh ở các nghiệp vụ cho vay đầu tư bất động sản, chứng khoán và tín dụng tiêu dùng. Bước sang năm 2008, những nghiệp vụ này đều bị siết chặt. 2.2.1.2. Cơ cấu tín dụng trung và dài hạn: a. Cơ cấu tín dụng phân theo loại hình doanh nghiệp: Bảng 5: Cơ cấu dư nợ theo loại hình doanh nghiệp của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội giai đoạn 2006 – 2008 Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 So sánh 2006-2007 Năm 2008 So sánh 2007-2008 Số tiền Tỷ lệ(%) Số tiền Tỷ lệ(%) Dư nợ trung và dài hạn 1.772 3.391 1.619 91,37 3.224 -167 -4,92 DNNN 175,07 340,4 165,4 94,5 323,7 -16,77 -4,93 DNNQD 1.057 2.344 1.287 121,7 2.224 -119,4 -5,1 DN có vốn đầu tư nước ngoài 24,99 35,27 10,28 41,13 32,24 -3,03 -8,59 Kinh tế tập thể 18,78 34,25 15,47 82,37 33,21 -1,04 -3,04 Cho vay cá nhân 468,6 601,5 132,8 28,35 580,32 -21,24 -3,53 Các ngành khác 28 34,93 6,93 24,75 29,99 -4,94 -14,4 (Nguồn: báo cáo cho vay tại Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội) Từ bảng số liệu trên có thể xác định được đối tượng khách hàng chính của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Khách hàng cá nhân và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh luôn chiếm khoảng 80% tổng dư nợ tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng. Các doanh nghiệp Nhà nước lại chiếm tỷ trọng dư nợ không lớn tại Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội do ba nguyên nhân: Thứ nhất, một số DNNN đã thực hiện cổ phần hóa do đó dư nợ tại Ngân hàng được xếp vào khối ngoài quốc doanh Thứ hai, các doanh nghiệp có quy mô nhỏ và thuộc danh sách chuẩn bị cổ phần hóa hoạt động kém hiệu quả do đó Ngân hàng hạn chế không cho vay đối với các doanh nghiệp này Thứ ba, các DNNN có quy mô lớn, làm ăn hiệu quả lại thường vay vốn tại các Ngân hàng quốc doanh có vốn điều lệ lớn, một Ngân hàng có quy mô nhỏ hơn như Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội khó tiếp cận với những doanh nghiệp này Cơ cấu tín dụng phân theo ngành kinh tế: Bảng 6: Cơ cấu dự nợ theo ngành kinh té của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội giai đoạn 2006-2008 Đơn vị: tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 So sánh 06-07 Năm 2008 So sánh 07-08 Tuyệt đối Tương đối(%) Tuyệt đối Tương đối(%) Dư nợ trung và dài hạn 1.772 3.391 1.619 91,37 3.224 -167 -4,92 Nông lâm nghiệp 177,2 497,8 320,6 180,9 451,4 -46,4 -9,32 Thương mại dịch vụ 903,7 1.667 773,3 85,56 1.693 15,6 0,93 Sản xuất chế biến 88,6 305,2 216,59 244,5 322,4 17,21 5,64 Xây dựng 77,08 194,9 117,82 152,8 161,2 -33,7 -17,3 Vận tải&thông tin liên lạc 18,07 3,73 -14,34 -79,3 9,6 5,87 157,4 Các ngành khác 459,1 679,2 220,1 47,94 586,8 -92,4 -13,6 (Nguồn: báo cáo cho vay tại Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội) Ta có thể thấy được sự thay đổi trong tỷ trọng cơ cấu tín dụng theo ngành kinh tế. Hầu hết các khoản vay chủ yếu thuộc lĩnh vực thương mại và dịch vụ mặc dù trong năm vừa qua tốc độ tăng dư nợ tín dụng trung và dài hạn trong lĩnh vực này không nhiều. Tỷ trọng cơ cấu tín dụng của Ngân hàng dành cho lĩnh vực sản xuất và chế biến tăng đều đặn qua các năm. Nguyên nhân là do xu hướng phát triển trong những năm gần đây đối với nền kinh tế. Năm 2006 tỷ trọng của lĩnh vực này là 5%, năm 2007 là 9% và sang năm 2008 tăng lên là 10%. Tuy nhiên, xét về tốc độ tăng trưởng tín dụng mạnh mẽ phải kể đến ngành vận tải và thông tin liên lạc với tốc độ tăng là 157,4%. Điều này hoàn toàn phù hợp với tốc độ phát triển nhanh chóng của lĩnh vực này trong xã hội ngày nay. Như vậy có thể thấy định hướng phát triển tín dụng của Ngân hàng luôn gắn liền với những diễn biến của môi trường kinh tế vĩ mô. Bên cạnh đó, hoạt động tín dụng trong ngành xây dựng lại có sự giảm sút liên tục qua các năm: năm 2006 là 6,17%, năm 2007 là 5,75% và đến năm 2008 là 5%. Lý do ở đây là trong năm vừa qua, do điều kiện nền kinh tế khó khăn, cùng với sự leo thang của giá cả nguyên vật liệu trong lĩnh vực xây dựng mà hoạt động của các doanh nghiệp trong lĩnh vực này bị đình trệ. Chính vì vậy, Habubank đã thực hiện chính sách cắt giảm tín dụng đối với những doanh nghiệp thuộc ngành xây dựng để giảm thiểu rủi ro tín dụng có thể xảy ra. 2.2.2. Chất lượng tín dụng trung và dài hạn: 2.2.2.1. Chất lượng tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội qua chỉ tiêu Dư nợ tín dụng trung và dài hạn: Bảng 7: Tình hình dư nợ tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội giai đoạn 2006-2008 Đơn vị: tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Số tiền Kết cấu Số tiền Kết cấu So sánh 06-07(%) Số tiền Kết cấu So sánh 07-08(%) Tổng dư nợ 5.983 100 9.419 100 57,43 9.510 100 0,97 -Dư nợ ngắn hạn 4.211 70,39 6.028 64 43,15 6.286 66,1 4,28 -Dư nợ trung và dài hạn 1.772 29,61 3.391 36 91,36 3.224 33,9 -4,92 (Nguồn: Báo cáo cho vay tại Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội) Qua bảng số liệu trên, ta thấy tổng dư nợ của Ngân hàng tính đến ngày 31/12/2008 đạt 9.510 tỷ đồng, chỉ tăng 0,97% so với năm 2007, trong đó dư nợ ngắn hạn chiếm 66,1%, dư nợ trung và dài hạn chiếm 33,9%. Như vậy, mặc dù vẫn tiếp tục duy trì cơ cấu tín dụng theo hướng đã xác định đầu năm 2007 nhưng tốc độ tăng trưởng dư nợ trung và dài hạn có phần giảm sút so với năm 2007. Ta có thể thấy rõ hơn điều này qua biểu đồ sau: Biểu đồ tỷ trọng dư nợ ngắn hạn và dư nợ trung dài hạn trong tổng dư nợ của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội giai đoạn 2006-2008 Dư nợ tín dụng ngắn hạn đạt 6.286 tỷ đồng, tăng 4,28% so với năm 2007, trong khi đó dư nợ tín dụng trung và dài hạn năm 2007 tăng đến 43,15% so với năm 2006. Nguyên nhân của tình hình này chính là do ảnh hưởng tiêu cực của những biến động kinh tế trong năm vừa qua. Xu hướng đi xuống của nền kinh tế,tình hình lạm phát và các biện pháp điều chỉnh lãi suất của NHNN trong việc kiềm chế lạm phát đã tác động mạnh đến toàn hệ thống Ngân hàng. Do lãi suất bị đẩy lên quá cao nên hoạt động cho vay diễn ra ảm đạm, xuất hiện động thái tích trữ, tiết kiệm trong dân chúng trong năm vừa qua. Tình hình tín dụng trung và dài hạn cũng không mấy khả quan. Dư nợ tín dụng trung và dài hạn đạt 3.224 tỷ đồng, giảm 4,92% so với năm 2007. Mặc dù Ngân hàng vẫn tiếp tục đẩy mạnh tìm kiếm các dự án có hiệu quả nhưng vẫn không đạt được kết quả như mong muốn. Thị trường bất động sản ảm đạm, người dân ít có nhu cầu mua bán giao dịch nhà đất hơn. Còn đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, trong bối cảnh nền kinh tế đi xuống hiện nay, họ cũng gặp phải rất nhiều khó khăn về tài chính. Ngân hàng vì đảm bảo an toàn nên cũng khó để cho các doanh nghiệp tiếp cận nguồn của mình. Mặt khác, năm 2008 diễn ra việc thu nợ các dự án cho vay trước đây đã đến hạn trả nợ nên dư nợ tín dụng trung và dài hạn năm 2008 giảm so với năm 2007. 2.2.2.2. Chất lượng tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội qua chỉ tiêu nợ quá hạn: Hoạt động cho vay và thu nợ là hai công việc hết sức quan trọng. Một sự kết hợp giữa công tác cho vay và công tác thu nợ sẽ là nhân tố quan trọng quyết định đến hiệu quả kinh doanh của mỗi Ngân hàng. Do tính chất quan trọng của công tác thu nợ như vậy nên Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội luôn chú trọng tới công tác thu nợ, đặc biệt là các khoản nợ có giá trị lớn. Trước hết chúng ta tìm hiểu tình hình thu nợ của Ngân hàng thu nợ của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội trong thời gian qua: Bảng 8: Tình hình thu nợ của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội giai đoạn 2006-2008 Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 So sánh 06-07 Năm 2008 So sánh 06-07 Số tuyệt đối Số tương đối(%) Số tuyệt đối Số tương đối(%) Doanh số thu nợ 5.743 8.900 3.110 54,97 9.034 181 2,04 - Ngắn hạn 4.107 5.843 1.736 42,27 5.928 85 1,45 - Trung và dài hạn 1.683 3.057 1.374 83,9 3.106 49 1,6 (Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội) Năm 2007, doanh số thu nợ trung và dài hạn đạt 3.057 tỷ đồng, tăng 83,9% so với năm 2006, trong khi đó doanh số thu nợ năm 2008 chỉ tăng 49 tỷ đồng (tương đương 1,6%) so với năm 2007. Tuy nhiên nhìn vào doanh số cho vay năm 2008 có thế thấy điều này là hoàn toàn phù hợp. Doanh số thu nợ giảm sút vẫn chưa thể kết luận được chất lượng tín dụng là không tốt. Để đánh giá chính xác hơn cần tìm hiểu thêm về dư nợ quá hạn trung và dài hạn của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội trong thời gian vừa qua. Bảng 9: Tình hình nợ quá hạn và tỷ lệ nợ xấu trung và dài hạn của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội giai đoạn 2006-2008 Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Dư nợ trung và dài hạn(tỷ đồng) 1.772 3.391 3.224 -Nợ quá hạn(tỷ đồng) 12,5 40,69 32,24 -Tỷ lệ nợ quá hạn(%) 0,7% 1,2% 1% -Tỷ lệ nợ xấu(%) 1,95% 2,6% 2,1% (Nguồn: Báo cáo cho vay tại Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội) Từ bảng số liệu ta thấy tổng nợ quá hạn tại Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội trong những năm qua là tương đối thấp so với các Ngân hàng thương mại khác. Tuy tổng nợ quá hạn hàng năm có tăng về số tuyệt đối nhưng đây là do kết quả của việc tăng lên của các khoản vay chứ không phải do sự tăng lên của các khoản vay yếu kém. Ta có thể xem xét 2 chỉ tiêu là tỷ lệ nợ quá hạn và tỷ lệ nợ xấu Tỷ lệ nợ quá hạn: tỷ lệ này là quan trọng trong việc quyết định cấp tín dụng của Ngân hàng, việc thu nợ đúng kế hoạch sẽ giúp cho ngân hàng hoạt động theo đúng kế hoạch kinh doanh của mình. Từ bảng số liệu ta thấy tỷ lệ nợ quá hạn trung và dài hạn tại Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội là tương đối thấp, biến động không đều và có xu hướng gia tăng trong 2 năm 2007 và 2008. Điều này được giải thích bởi trong những năm vừa qua, các doanh nghiệp Việt Nam gặp phải khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh chính vì vậy mà các khoản hoàn trả của những người đi vay bị chậm lại. Tỷ lệ nợ xấu: Nợ xấu là khoản nợ mà tất cả các Ngân hàng đều gặp phải, đó là khoản tiền ngân hàng có thể mất không, không thu hồi được. Các khoản nợ xấu sẽ tác động làm giảm thu nhập hay lãi ròng của ngân hàng, chính vì vậy, mục tiêu của các ngân hàng là để khoản nợ này càng nhỏ càng tốt. Đó là vấn đề khó khăn, đòi hỏi sự nỗ lực của đội ngũ lãnh đạo, nhân viên ngân hàng. Từ số liệu đã trình bày ở bảng trên, ta có thể thấy được dấu hiệu đáng mừng trong việc nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội. Tỷ lệ nợ xấu ở mức thấp. Năm 2007 tỷ lệ nợ xấu là 2,6% nhưng sang năm 2008 tỷ lệ này đã giảm xuống còn 2,1% 2.2.2.3. Chất lượng tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội qua chỉ tiêu Lợi nhuận thu từ hoạt động cho vay trung và dài hạn: Bảng 10: Lợi nhuận thu từ tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội giai đoạn 2006-2008 Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 So sánh 06-07 Năm 2008 So sánh 07-08 Tuyệt đối Tương đối(%) Tuyệt đối Tương đối(%) Tổng lợi nhuận từ cho vay (tỷ đồng) 230 463 233 101,3% 550 87 18,8% Lợi nhuận từ cho vay trung dài hạn(tỷ đồng) 57,5 148,2 90,7 157,74% 147,95 -0,25 -0,0017% Lợi nhuận từ cho vay TDH/Dư nợ TDH(%) 3,24 4,37 1,13 34,87% 4,58 0,21 4,8% Lợi nhuận từ cho vay TDH/Tổng lãi cho vay(%) 25 32,1 7,1 28,4% 26,9 -5,2 16,2% (Nguồn: Báo cáo thường niên của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội năm 2008) Từ bảng số liệu ta thấy lợi nhuận từ cho vay nói chung và lợi nhuận từ cho vay trung và dài hạn nói riêng của Ngân hàng tăng trưởng tốt trong các năm gần đây, đặc biệt là năm 2007. Năm 2006 tổng thu lãi cho vay trung và dài hạn chỉ đạt 57,5 tỷ đồng thì sang đến năm 2007, con số này đã là 148,2 tỷ đồng, tức là tăng 157,74% so với năm 2006. Sang đến năm 2008, mặc dù tình hình kinh tế khó khăn ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, tín dụng trung và dài hạn bị thu hẹp nhưng xét về tổng lợi nhuận thu từ hoạt động cho vay trung và dài hạn vẫn đạt được 147,95 tỷ đồng, chỉ giảm 0,16% so với năm 2007. Nhìn vào chỉ tiêu lợi nhuận từ cho vay trung dài hạn trên tổng lợi nhuận từ cho vay ta có thể thấy hoạt động cho vay trung và dài hạn của Ngân hàng vẫn được duy trì khá ổn định qua các năm, mức độ đóng góp của lợi nhuận từ cho vay trung và dài hạn trong tổng lợi nhuận từ hoạt động tín dụng của ngân hàng là khá cao. Năm 2006 tỷ lệ này là 25%, tăng lên thành 32,1% vào năm 2007 và đến năm 2008 giảm nhẹ còn 26,9%. Nguyên nhân của việc tỷ lệ này giảm vào năm 2008 là do Ngân hàng chủ trương phát triển sản phẩm dịch vụ khác đem lại thu nhập nhằm bù đắp cho khoản lợi nhuận bị cắt giảm từ cho vay trung và dài hạn trong điều kiện thị trường tài chính có nhiều biến động. Qua đây có thể thấy được sự linh hoạt trong việc điều chỉnh chiến lược kinh doanh của Ngân hàng nhằm ứng phó với những biến động khó lường của thị trường. 2.3. Đánh giá về chất lượng tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội. 2.3.1. Kết quả đạt được Trước tình hình kinh tế xã hội của đất nước tăng trưởng và phát triển nhanh qua các năm cũng như những đổi mới trong cơ chế quản lý, điều hành đất nước, Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội đã có định hướng chiến lược kinh doanh đúng đắn, phù hợp với chính sách tiền tệ của Nhà nước, nhanh chóng hòa nhập vào thị trường để tồn tại, đứng vững và ngày càng tăng trưởng, phục vụ có hiệu quả cho đầu tư phát triển, tăng trưởng kinh tế đất nước. Tín dụng trung dài hạn đã thực hiện phương châm đổi mới cơ chế, lĩnh vực đầu tư nền kinh tế theo chiều sâu. Ngân hàng đã cung ứng vốn cho những doanh nghiệp có tiềm năng mở rộng sản xuất nhưng lại thiếu vốn. Nhất là trong giai đoạn hiện nay, các đơn vị rất cần đổi mới thiết bị để tăng năng suất và và nâng cao chất lượng sản phẩm thì hình thức tín dụng trung - dài hạn là một giải pháp đúng đắn để chuyển hoạt động của của các đơn vị kinh tế. Ngân hàng đã tích cực triển khai thay đổi cơ cấu kinh tế, nâng tỷ trọng cho vay trung - dài hạn trong tổng dư nợ, tập trung đa dạng hoá các ngành,các thành phần kinh tế, có sự khuyến khích ưu đãi với các khách hàng truyền thống, tạo màng lưới khách hàng đáng tin cậy. Tỷ lệ cho vay có tài sản đảm bảo/ Tổng dư nợ luôn đạt từ 70-78%, đặc biệt là các khoản vay trung và dài hạn có tài sản đảm bảo đều đạt 80-90% để đảm bảo an toàn cho Ngân hàng Thủ tục cho vay được đơn giản hóa để giảm thời gian cho khách hàng trong quá trình đến vay vốn tại Ngân hàng nhưng vẫn đảm bảo thực hiện đúng quy chế được ban hành của các cấp có thẩm quyền trong việc lập hồ sơ xét duyệt. Bên cạnh đó trong quá trình cho vay, Ngân hàng tiến hành thực hiện kiểm tra, gồm cả kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay. - Kiểm tra trước khi cho vay để ngân hàng xem xét tính khả thi của dự án, từ đó quyết định cho vay hay không. - Kiểm tra trong khi cho vay :ngân hàng thực hiện mỗi lần phát tiền vay phải có khối lượng, thiết bị hoặc chi phí công trình làm đảm bảo. - Kiểm tra sau khi cho vay là khâu mà ngân hàng rất chú trọng : Kiểm tra các chứng từ vay vốn, đảm bảo nghiệp vụ cho vay đúng chế độ, thể lệ nhà nước ban hành. kiểm tra đơn vị sử dụng tiền có đúng mục đích hay không. tiền vay phát ra có thực sự dùng để đầu tư máy móc, thiết bị hay chi phí cho công trình có đúng mục đích xin vay hay không. Ngoài ra, ngân hàng còn được xem xét các vấn đề thị trường, sản phẩm tiêu thụ thu nhập… của doanh nghiệp ở phạm vi cho phép. Việc kiểm tra được cán bộ tín dụng tiến hành thường xuyên, đồng thời có sự kiểm tra lẫn nhau, kiểm tra giữa các cán bộ và các phòng nghiệp vụ. Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội đã lựa chọn những cán bộ giỏi, có tài, có trách nhiệm với công việc, nhiệt tình công tác vào phòng kinh doanh để đầu tư những công trình trọng điểm, nhiều khó khăn, tạo điều kiện giúp đỡ chủ đầu tư, hoàn tất trong thời gian ngắn nhất đưa công trình vào sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Chính sách tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng đề ra phù hợp với thực tế phát triển của nước ta và đường lối phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước. Theo đó, hoạt động tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội đã đóng góp tích cực vào sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH – HĐH Hoạt động kinh doanh tiếp tục giữ vững tốc độ tăng trưởng, trong đó tín dụng trung và dài hạn được củng cố chấn chỉnh, đảm bảo được an toàn và giảm đi phần nào tỷ lệ nợ quá hạn, nợ khó đòi. Các hoạt động kinh doanh khác tiếp tục được củng cố, mở rộng và mức sinh lời từ các hoạt động này được tăng lên. Bên cạnh những kết quả đạt được của Ngân hàng trong thời gian qua, vẫn tồn tại nhiều khó khăn và các vấn đề cần khắc phục, trong đó có các vấn đề liên quan đến chất lượng tín dụng cần phải giải quyết. 2.3.2. Hạn chế Quy mô và chất lượng tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội chưa tương xứng với tiềm lực Ngân hàng, thể hiện qua các mặt sau: Quy trình tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng chưa được phối hợp chặt chẽ: Tín dụng ngân hàng, đặc biệt là tín dụng trung và dài hạn trong thời gian qua đã có những thành công bước đầu song vẫn gặp phải một số trở ngại sau đây. Hiện nay hầu hết các ngân hàng cạnh tranh nhau rất khốc liệt về lãi suất, khả năng thông thoáng về mặt giấy tờ thủ tục trong hoạt động xét duyệt cho vay, đơn giản hoá việc thẩm định tình hình các doanh nghiệp và các dự án xin vay vốn .. nhằm giành giật khách hàng về mình dẫn đến tình trạng rủi ro của các khoản tín dụng tăng lên Kết quả thực thi chính sách tín dụng, chính sách khách hàng mới chỉ là bước đầu. Công tác tiếp thị tìm kiếm khách hàng tốt, tìm kiếm dự án hiệu quả, khai thác thị trường ở trong nước còn nhiều khó khăn, nhất là đòi hỏi của hoạt động ngân hàng trong cơ chế thị trường. Những định hướng chính sách đề ra chưa triển khai được còn nhiều bất cập, các hình thức tín dụng còn nghèo nàn, chưa kết hợp chặt chẽ giữa tín dụng với các dịch vụ ngân hàng. Sự thiếu thông tin trong đầu tư đặc biệt là sự gắn kết cân đối giữa quy hoạch ngành và lãnh thổ , tao ra sự mất cân đối trong quan hệ cung cầu dẫn tới hiệu quả kinh tế hiệu quả đầu tư thấp. Đây là lý do khiến nhiều dự án đầu tư trung và dài không đạt hiệu quả như dự kiến, sản phẩm tiêu thu kém, giá thành còn cao gây khó khăn cho các dự án trong sản xuất kinh doanh. Trong thẩm định dự án đầu tư, chất lượng thẩm định còn chưa cao, khả năng phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp của cán bộ tín dụng còn hạn chế so với yêu cầu của công tác này. Đây là điểm bất cập cần phải được khắc phục sớm nếu không sẽ gây thiệt hại lớn cho ngân hàng. Các khoản tín dụng còn chứa dựng nhiều rủi ro: Tỷ lệ nợ quá hạn vẫn chưa ổn định, chưa giảm mặt khác nhiều tiềm ẩn rủi ro vẫn đe dọa hoạt động của Ngân hàng. Đây là vấn đề bức xúc đối với Ngân hàng, vì đầu tư sao cho có hiệu quả, thu hồi vốn nhanh, đủ gốc và lãi, để quay vòng vốn nhanh là mong mỏi của ngân hàng. Rủi ro tín dụng, nợ quá hạn, nợ khó đòi là những vấn đề được ngân hàng hết sức quan tâm, tìm cách giải quyết trong cả hiện tại và tương lai. Trong hoạt động tín dụng, mặc dù Ngân hàng đã thi hành nhiều biện pháp để nâng cao chất lượng tín dụng nhưng trên thực tế không phải lúc nào cũng đạt được những mong muốn. Trong thực tế đã có những trường hợp các khoản cho vay không có hiệu quả dẫn đến rủi ro cho Ngân hàng như nợ quá hạn, nợ khó đòi.. do nhiều nguyên nhân khách quan như môi trường kinh doanh chưa lành mạnh, môi trường kinh tế phát triển chưa bền vững, thực lực tài chính, năng lực quản lý tài chính của khách vay còn yếu kém .. do vậy dẫn đến tình trạng không muốn cho vay gây ứ đọng vốn của ngân hàng, không phát huy được vai trò của ngân hàng trong phát triển kinh tế. Qua phần trên ta đã thấy được những kết quả đạt được và những khó khăn còn tồn tại trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội trong vài năm gần đây. Những khó khăn thử thách đó đối với toàn bộ hoạt động kinh doanh nói chung, và với hoạt động tín dụng trung dài hạn nói riêng, đòi hỏi ngân hàng phải có những biện pháp khắc phục nâng cao chất lượng tín dụng để ngày càng giữ vững được vai trò chủ đạo trong đầu tư phát triển, thực hiện CNH - HĐH đất nước 2.3.3. Nguyên nhân: 2.3.3.1. Nguyên nhân từ phía Ngân hàng: a. Những nguyên nhân từ phía ngân hàng Một là: Về chính sách tín dụng, chính sách khách hàng - Chưa thu hút được các khách hàng lớn vay vốn . - Việc phân loại và đưa ra những tiêu chuẩn đối với khách hàng bị coi nhẹ nên gây lãng phí trong công tác xét duyệt cho vay. - Khâu thẩm định khách hàng trước khi cho vay còn chưa được quan tâm đúng mức. Hai là: Về năng lực, trình độ và phẩm chất đạo đức của đội ngũcán bộ tín dụng Trình độ phân tích của cán bộ thẩm định chưa toàn diện. Khả năng phân tích kỹ thuật của dự án và phân tích thị trường của cán bộ tín dụng còn hạn chế. Việc đánh giá khả năng cạnh tranh, khả năng tiêu thụ sản phẩm của dự án trên thị trường liên quan đến nhiều khía cạnh, đòi hỏi khả năng phân tích, tổng hợp, dự đoán nhạy bén của cán bộ tín dụng. Đây là một yêu cầu khó thực hiện đối với cán bộ tín dụng vì phần lớn không được đào tạo chuyên sâu toàn diện lĩnh vực này. Công tác phân tích tình hình tài chính của đơn vị vay vốn chưa được coi trọng. Phân tích tính khả thi của dự án chủ yếu dựa vào kết quả phân tích đánh giá trên phương diện kinh tế tài chính của dự án nhưng nguồn số liệu, cơ sở để phân tích chủ yếu được lấy từ các báo cáo của đơn vị vay vốn gửi tới với độ tin cậy không cao, chưa được xác nhận của cơ quan kiểm toán. Ba là: Quy trình tín dụng Về công tác thẩm định và xét duyệt cho vay vốn. Chất lượng công tác thẩm định dự án chưa sâu, các báo cáo thẩm định đôi khi còn dừng lại ở việc hướng dẫn thủ tục hành chính, chưa đi sâu đánh giá về chủng loại, giá thành, thị trường, công suất máy móc thiết bị, công nghệ, các tiêu chí xây dựng giá thành sản phẩm....Đặc biệt là chưa dự đoán tốt các rủi ro có thể xẩy ra đối với khoản cho vay và dự án đầu tư. Chất lượng của công tác thẩm định dự án đầu tư là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng rủi ro đối với các khoản tín dụng vẫn còn cao. Việc phân tích, đánh giá kết quả đầu tư còn làm được quá ít, chưa mang tính hệ thống, thường xuyên và kịp thời. Việc tổ chức liên kết, tổng hợp kinh nghiệm và thông tin nghiệp vụ còn chưa tốt, chính điều này đã ảnh hưởng ít nhiều tới việc thực hiện chính sách khách hàng, chính sách tín dụng của sở. Mức độ chủ động tiếp cận, xem xét , đánh giá dự án chưa cao, vai trò của công tác tư vấn đầu tư chưa đạt đúng tầm so với yêu cầu và tiềm năng hiện có. Hiệu quả, an toàn, chất lượng tín dụng tốt chỉ có được trước hết và bắt đầu từ công tác thẩm định dự án và xét duyệt cho vay. Vì vậy trong thời gian tới, hơn lúc nào hết công tác thẩm định dự án cần phải nâng cao chất lượng hơn nữa, phải đặt đúng vị trí của nó trong xét duyệt cho vay, dưới sự chỉ đạo chặt chẽ có cơ chế, quy trình công nghệ toàn diện và đồng bộ với quy trình công nghệ của các nghiệp vụ khác, tạo thành một tổng thể giải pháp mang tinh chiến lược trong định hướng phát triển cũng như trong quản trị điều hành nhằm không ngừng nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án và xét duyệt cho vay. Về công tác kiểm tra kiểm soát Công tác kiểm tra, kiểm soát hoạt động tín dụng tuy được tiến hành thường xuyên nhưng chưa phát huy được hiệu quả cao trong việc phát hiện kịp thời và xử lý những vướng mắc trong việc thực hiện quy trình tín dụng cũng như trong việc bố trí sắp xếp cán bộ sao cho đúng người đúng việc. Điều này gắn liền với sự hạn chế trình độ của cán bộ làm công tác này. Công tác thu nợ và xử lý nợ Công tác thu nợ và xử lý nợ quá hạn tiến triển chậm, đặc biệt ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.Chính sách ưu đãi về lãi xuất chưa có sự linh hoạt đối với từng loại dự án. Bốn là: Những hạn chế khác Những hạn chế trong chiến lược Marketing: Hoạt động tuyên truyền quảng cáo về ngân hàng thông qua các phương tiện truyền thông còn hạn chế, chưa thực sự gần gũi với quần chúng nhân dân, và nói chung chưa có sự đầu tư đúng mức từ phía chi nhánh. Ngân hàng chưa coi trọng công tác Marrketing Ngân hàng. Các thông tin về thị trường và khách hàng còn thiếu và chưa thường xuyên. Ngân hàng chưa có các biện pháp tích cực để lôi kéo khách hàng, đôi khi còn quá tin tưởng vào các khách hàng quen mà quên rằng nếu họ luôn được các Ngân hàng khác chào mời thì Ngân hàng có thể mất khách. Chính vì vậy Ngân hàng cần có những chính sách khuyến khích khách hàng thường xuyên. Trong những năm qua, Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội đã xây dựng được chiến lược phát triển tín dụng trung và dài hạn rõ ràng: lấy đối tượng khách hàng ngoài quốc doanh là đối tượng khách hàng chính của Ngân hàng. Đây là chiến lược rất đúng đắn vì đối tượng khách hàng này phù hợp với năng lực và quy mô của Ngân hàng. Hơn nữa với tốc độ cổ phần hóa nhanh như hiện nay cùng với sự ra đời của các doanh nghiệp mới thì số lượng khách hàng ngoài quốc doang sẽ tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng. Như vậy Ngân hàng có cơ hội lựa chọn khách hàng tốt và phân tán được rủi ro. Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội là Ngân hàng TMCP ra đời sớm nhất ở Việt Nam do đó Ngân hàng đã xây dựng được cho mình hình ảnh và vị trí nhất định trên thương trường. Đây là một thuận lợi không nhỏ của Ngân hàng trong việc phát triển hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động tín dụng trung và dài hạn nói riêng. Tuy nhiên, Ngân hàng cũng gặp phải nhiều khó khăn trong việc huy động tiền gửi đầu vào so với các Ngân hàng quốc doanh. Thực tế cho thấy chi phí đầu vào của Ngân hàng luôn cao hơn các Ngân hàng quốc doanh khá nhiều nên lãi suất cho vay đầu ra của Ngân hàng kém tính cạnh tranh hơn, điều này gây khó khăn cho Ngân hàng trong công tác Marketing các khách hàng lớn, uy tín. Điều này dẫn đến hệ quả chất lượng tín dụng của Ngân hàng bị ảnh hưởng bất lợi theo Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước đã sử dụng nhiều biện pháp để điều hành nền kinh tế, điều hành chính sách tiền tệ quốc gia nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, thị trường tiền tệ diễn biến thất thường, cùng với tác động xấu của khủng hoảng tài chính thế giới và hiệu ứng của tăng trưởng tín dụng nóng, tăng quy mô và mạng lưới hoạt động quá nhanh của những năm trước vẫn ảnh hưởng lớn tới hoạt động của Ngân hàng TMCP. Đến năm 2008, mặc dù một số chỉ tiêu cơ bản của Ngân hàng vẫn đạt được tốc độ tăng trưởng song tốc độ đã chậm lại. Hoạt động chủ yếu là tập trung huy động vốn để cân đối nguồn và đảm bảo khả năng thanh khoản, đảm bảo an toàn của mình. b. Những nguyên nhân từ phía khách hàng: Hiện nay các doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn rất cao nhưng họ rất khó đáp ứng được các tiêu chí của Ngân hàng. Một số nguyên nhân dẫn đến doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chưa được vay vốn là: Không có các dự án khả thi: khi đi vay vốn Ngân hàng, các doanh nghiệp phải có dự án khả thi được xây dựng trên cơ sở khoa học, thông tin đầy đủ, thẩm định và phân tích một

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA6001.DOC