Đề tài Nâng cao chất lượng tín dụng tại Chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Quảng An

Tài liệu Đề tài Nâng cao chất lượng tín dụng tại Chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Quảng An: MỤC LỤC Trang MỤC LỤC 1 LỜI MỞ ĐẦU 4 CHƯƠNG I: NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1. Ngân hàng thương mại 5 1.1.1 Khái niệm. 5 1.1.2. Các hoạt động chủ yếu của Ngân hàng Thương Mại 7 1.2. Tín dụng của Ngân hàng Thương Mại 9 1.2.1. Khái niệm 9 1.2.2. Các hình thức tín dụng của Ngân hàng Thương Mại 10 1.3. Chất lượng tín dụng ngân hàng 14 1.3.1. Quan niệm chất lượng tín dụng ngân hàng 14 1.3.2. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng 16 1.3.3- Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng ngân hàng 19 1.3.4- Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng ngân hàng 26 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TẠI CHI NHÁNH NHNO & PTNT QUẢNG AN 2.1. Khái quát chung về Chi nhánh NHNo & PTNT Quảng An 36 2.1.1- Quá trình hình thành và phát triển của Chi nhánh NHNo & PTNT Quảng An 36 2.1.2. Cơ cấu tổ chức của Chi nhánh NHNo & PTNT Quảng An 37 2.1.3. Khái quát về kết quả hoạt động của Chi nhánh NHNo & PTNT Quảng An 39 2...

docx92 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 964 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Nâng cao chất lượng tín dụng tại Chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Quảng An, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC Trang MỤC LỤC 1 LỜI MỞ ĐẦU 4 CHƯƠNG I: NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1. Ngân hàng thương mại 5 1.1.1 Khái niệm. 5 1.1.2. Các hoạt động chủ yếu của Ngân hàng Thương Mại 7 1.2. Tín dụng của Ngân hàng Thương Mại 9 1.2.1. Khái niệm 9 1.2.2. Các hình thức tín dụng của Ngân hàng Thương Mại 10 1.3. Chất lượng tín dụng ngân hàng 14 1.3.1. Quan niệm chất lượng tín dụng ngân hàng 14 1.3.2. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng 16 1.3.3- Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng ngân hàng 19 1.3.4- Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng ngân hàng 26 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TẠI CHI NHÁNH NHNO & PTNT QUẢNG AN 2.1. Khái quát chung về Chi nhánh NHNo & PTNT Quảng An 36 2.1.1- Quá trình hình thành và phát triển của Chi nhánh NHNo & PTNT Quảng An 36 2.1.2. Cơ cấu tổ chức của Chi nhánh NHNo & PTNT Quảng An 37 2.1.3. Khái quát về kết quả hoạt động của Chi nhánh NHNo & PTNT Quảng An 39 2.2. Thực trạng chất lượng tín dụng tại Chi nhánh NHNo & PTNT 46 2.2.1. Quy mô tín dụng 46 2.2.2. Cơ cấu tín dụng 47 2.2.3. Thu nhập từ hoạt động tín dụng 53 2.2.4. Tỷ lệ nợ quá hạn 54 2.2.5. Vòng quay vốn tín dụng 54 2.3. Đánh giá chất lượng tín dụng tại Chi nhánh NHNo & PTNT Quảng An 56 2.3.1. Những mặt đã đạt được 56 2.3.2. Những mặt hạn chế và nguyên nhân 57 CHƯƠNG 3 : GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CHI NHÁNH NHNO & PTNT QUẢNG AN 3.1. Định hướng hoạt động kinh doanh tại chi nhánh trong thời gian tới 63 3.1.1. Định hướng chung 63 3.1.2. Định hướng nâng cao chất lượng tín dụng 65 3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng Chi nhánh NHNo & PTNT Quảng An 66 3.2.1- Thực hiện chính sách tín dụng phù hợp với tình hình thực tế 66 3.2.2- Nâng cao chất lượng công tác thẩm định 67 3.2.3- Xây dựng chiến lược khách hàng đúng đắn hiệu quả 68 3.2.4- Nâng cao trình độ nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ của chi nhánh 69 3.2.5- Một số giải pháp khác 70 3.3. Một số kiến nghị 71 3.3.1- Kiến nghị với cơ quan nhàn nước có thẩm quyền, Quốc hội, Chính phủ 71 3.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 72 3.3.3 . Kiến nghị với cơ quan các cấp 73 3.3.4 . Kiến nghị với NHNo & PTNT Việt Nam 74 KẾT LUẬN 77 TÀI LIỆU THAM KHẢO 78 LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong năm 2006, nền kinh tế xã hội nước ta gặp nhiều khó khăn như giá xăng dầu, giá vàng biến động gây sức ép tăng giá các mặt hàng khác. Mặt khác, với sự tác động không thuận lợi của thiên tai bất thường, dịch bệnh cúm gia cầm, lở mồm long móng nguy cơ tái phát gây khó khăn cho hoạt động sản xuất nông nghiệp và đời sống. Nhưng với quyết tâm của Chính phủ, chỉ đạo của các Ban ngành cùng sự phấn đấu vượt khó của các thành phần kinh tế, nền kinh tế nước ta tiếp tục tăng trưởng, GDP tăng 8,17%, lạm phát kiềm chế ở mức thấp hơn tổng GDP,…. Trong hoạt động Ngân hàng những năm gần đây tiếp tục phát triển tốt, góp phần kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Các Ngân hàng Thương mại (NHTM) mở rộng mạng lưới hoạt động từng bước tiến tới cổ phần hóa để thu hút vốn đầu tư và công nghệ. Các chi nhánh Ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam cũng tăng dần thị phần hoạt động tín dụng và có thế mạnh về công nghệ và kinh nghiệm thị trường. Lãi suất đầu vào có xu hướng tăng, nhất là ở các Ngân hàng Thương mại Cổ phần, rủi ro trong hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng nhất là lĩnh vực cấp tín dụng có biểu hiện tăng: Nợ xấu có xu hướng tăng cao, thị trường nhà đất trầm lắng thu hồi vốn chậm, tình trạng nợ trong xây dựng cơ bản xử lý chậm, kéo theo vốn vay của các NHTM bị tồn đọng. Chi nhánh NHNo & PTNT Quảng An là một chi nhánh cấp I trực thuộc NHNo & PTNT Việt Nam được thành lập năm 2004. Tuy là một chi nhánh mới thành lập lại hoạt động trên địa bàn thủ đô là trung tâm kinh tế chính trị của cả nước, tập trung nhiều NHTM lớn và có sự cạnh tranh khốc liệt nhưng Chi nhánh NHNo & PTNT Quảng An đã đứng vững được trên thị trường trở thành một trong số các chi nhánh hoạt động hiệu quả nhất của NHNo & PTNT Việt Nam tại Hà Nội và đang trên đà phát triển mở rộng thị phần. Tuy nhiên, do là một đơn vị mới thành lập cơ sở vật chất còn thiếu so với yêu cầu đòi hỏi của hoạt động Ngân hàng. Mạng lưới tổ chức chưa đủ, thị phần còn thấp, đang trong giai đoạn gây dựng thương hiệu uy tín khách hàng chiếm lĩnh thị phần. Hoạt động kinh doanh chủ yếu dựa và hoạt động tín dụng nhưng do phải cạnh tranh với các NHTM lớn tại Hà Nội nên hoạt động tín dụng tuy có phát triển song tiềm ẩn rủi ro khá lớn. Là một cán bộ tín dụng của Chi nhánh NHNo & PTNT Quảng An trong qua trình làm việc, tiếp cận với thực tế bằng kinh nghiệm và đánh giá của bản thân đã giúp tôi nhận biết được phần nào thực trạng chất lượng tín dụng tại chi nhánh trong những năm qua. Vì vậy, tôi đã quyết định lựa chọn đề tài " Nâng cao chất lượng tín dụng tại Chi nhánh NHNo & PTNT Quảng An " để hoàn thành luận văn Thạc sỹ kinh tế của mình. 2. Mục đích nghiên cứu - Nghiên cứu: Chất lượng tín dụng của Chi nhánh NHNo & PTNT Quảng An - Phân tích đánh giá thực trạng chất lượng tín dụng của Chi nhánh NHNo & PTNT Quảng An - Đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Chi nhánh NHNo & PTNT Quảng An 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng : Chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại - Phạm vi nghiên cứu: Chi nhánh NHNo & PTNT Quảng An từ thời gian 2004 đến thời gian 2006 4. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp luận: Phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử - Tư duy logích biện chứng: Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử - Các phương pháp nghiên cứu chủ yếu được sử dụng trong bài: Phân tích, thống kê, tổng hợp, điều tra, kiểm soát 5. Đóng góp của đề tài Luận văn là vận dụng lý thuyết để phân tích, đánh giá thực trạng chất lượng tín dụng đối với Chi nhánh NHNo & PTNT Quảng An trong thời gian qua, từ đó thấy được những thành công cũng như hạn chế và xác định rõ nguyên nhân làm căn cứ đưa ra những giải pháp thích hợp nâng cao chất lượng tín dụng góp phần tăng hiệu quả, tăng khả năng cạnh tranh của chi nhánh. 6. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu thành 3 chương với nội dung căn bản sau: Chương 1: Chất lượng tín dụng của Ngân hàng Thương mại Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng tại Chi nhánh NHNo & PTNT Quảng An Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Chi nhánh NHNo & PTNT Quảng An Chương 1 CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1. Ngân hàng thương mại 1.1.1. Khái niệm Ngân hàng Thương mại Theo giới sử học, ngân hàng đầu tiên đã ra đời cách đây hơn 2000 năm ở Hy Lạp. Ngân hàng khi đó chỉ mang ý nghĩa là nơi đổi từ ngoại tệ sang bản tệ cho khách du lịch và chiết khấu thương phiếu cho các nhà buôn, với cách tổ chức ban đầu rất gọn nhẹ chỉ là một người ngồi ở chiếc bàn nhỏ hoặc một cửa hiệu nhỏ. Vì vậy khái niệm “ngân hàng”, xuất phát từ chữ La tinh là “bancus” có nghĩa là “bàn tiền”. Trong chế độ chiếm hữu nô lệ và phong kiến, nghiệp vụ ngân hàng gắn liền với việc cho vay nặng lãi, với những người đi vay chủ yếu là tầng lớp thống trị và những người sản xuất hàng hoá giản đơn. Vào giữa thế kỷ 16, khi tầng lớp thống trị không thu được thuế của dân, họ dựa vào quyền lực mà tuyên bố không trả nợ ngân hàng dẫn đến hàng loạt ngân hàng bị phá sản. Chuyển sang phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển, nhu cầu vốn vay tăng lên. Nhưng các nhà tư bản không chịu vay vốn của các ngân hàng vì lãi suất quá cao, chiếm hết toàn bộ lợi nhuận và một phần vốn tự có của họ. Họ đã hùn vốn lập ra các ngân hàng để cho vay với mức lãi suất vừa phải thấp hơn lợi nhuận bình quân, làm cho các ngân hàng cho vay nặng lãi từ thời Trung cổ bắt đầu buộc phải hạ lãi suất và chuyển sang kinh doanh như các ngân hàng tư bản. Trong suốt thế kỷ 18, các ngân hàng ở lục địa châu Âu, Bắc Âu, Bắc Mỹ đã đời hàng loạt. Việc ứng dụng phương thức sản xuất lớn trong thời kỳ này đòi hỏi một sự mở rộng tương tứng trong thương mại toàn cầu để tiêu thụ các sản phẩm công nghiệp, do đó kéo theo yêu cầu phát triển các phương thức thanh toán và tín dụng mới. Chính vì vậy đã làm cho hoạt động ngân hàng trở nên đa dạng hơn về loại hình. Ngày nay, hệ thống ngân hàng thương mại là hệ thống ngân hàng cấp hai, có mối quan hệ trực tiếp với mọi thành phần kinh tế. Và ngân hàng thương mại đã trở thành một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất bởi nó không chỉ đơn thuần nhận tiền gửi và cho vay mà còn đóng vai trò là trung gian thanh toán, là đại lí, người bảo lãnh, hay góp phần thực hiện chính sách của Chính phủ nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội. Do đó, khái niệm về ngân hàng thương mại cũng rất phong phú. Ở Mỹ, “bất kỳ tổ chức nào cung cấp tài khoản tiền gửi cho phép khách hàng rút tiền theo yêu cầu (như bằng cách viết séc hay bằng việc rút tiền điện tử) và cho vay đối với các tổ chức kinh doanh hay cho vay thương mại sẽ được xem là một ngân hàng”. Tuy nhiên để phân biệt ngân hàng thương mại với các tổ chức tài chính phi ngân hàng khác, Cục dự trữ liên bang Mỹ đã quy địng rằng: “việc cho vay đối với cá nhân và hộ gia đình cũng là một trong những hoạt động ngân hàng tiêu biểu để phân biệt ngân hàng với các tổ chức tài chính khác”. Quốc hội Mỹ cũng đã thêm vào quy định của mình, theo đó: “ngân hàng được định nghĩa như một công ty là thành viên của Công ty bảo hiểm tiền gửi liên bang”. Mặt khác, với cách tiếp cận dựa trên những loại hình dịch vụ mà các ngân hàng cung cấp thì “ngân hàng là tổ chức loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán - và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”. Trên nhiều góc độ, các cơ quan chức năng của Mỹ đã đưa ra những cách tiếp cận khác nhau về khái niệm ngân hàng thương mại. Trong khi đó, hệ thống ngân hàng Việt Nam trước đây là hệ thống ngân hàng một cấp, vừa làm nhiệm vụ của ngân hàng phát hành, vừa thực hiện chức năng của ngân hàng kinh doanh tiền tệ. Trước yêu cầu đổi mới toàn diện nền kinh tế, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã được chuyển thành hệ thống ngân hàng hai cấp. Các ngân hàng thương mại được thành lập và hoạt động dưới sự điều chỉnh của pháp lệnh ngân hàng, sau đó là luật các tổ chức tín dụng và các văn bản pháp luật khác có liên quan. Theo đó: “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác”. Mà “tổ chức tín dụng là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán.” Do đó, ngân hàng thương mại ở Việt Nam là: “ngân hàng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận, góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế của nhà nước”. Như vậy, ngân hàng thương mại, với tư cách là một trung gian tài chính, tương tự các tổ chức kinh doanh khác là lấy lợi nhuận làm mục tiêu hoạt động, nhưng khác ở đối tượng kinh doanh vì đối tượng kinh doanh của các ngân hàng thương mại là hàng hoá đặc biệt - tiền tệ. 1.1.2. Các hoạt động chủ yếu của Ngân hàng Thương Mại Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán. Hoạt động của một ngân hàng thương mại xét về một khía cạnh nào đó cũng khá giống như một doanh nghiệp kinh doanh bình thường, điểm khác biệt là các NHTM kinh doanh "quyền sử dụng tiền tệ". Với hai chức năng chủ yếu là tạo tiền và kinh doanh tiền tệ nhằm mục tiêu sinh lợi, một ngân hàng thương mại có các hoạt động chủ yếu sau đây: a) Hoạt động huy động vốn Để đáp ứng nhu cầu vốn của khách hàng, ngoài nguồn vốn của bản thân mình, các ngân hàng thương mại tiến hành huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế dưới các hình thức khác nhau, bao gồm: - Nguồn tiền gửi: Tiền gửi là nền tảng cho sự thịnh vượng và phát triển của ngân hàng, là cơ sở của các khoản cho vay và do đó là nguồn gốc sâu xa của lợi nhuận và sự phát triển của ngân hàng. Khách hàng gửi tiền vào ngân hàng với rất nhiều mục đích khác nhau hoặc để tiết kiệm hoặc để thanh toán, tuỳ theo mục đích của khách hàng ngân hàng có các hình thức huy động như: tiền gửi giao dịch, tiền gửi phi giao dịch. +Tiền gửi giao dịch đòi hỏi ngân hàng phải thanh toán ngay các lệnh rút tiền của khách hàng. Đây là một trong những nguồn vốn biến động nhất, kỳ hạn tiềm năng của tiền gửi giao dịch là ngắn nhất bởi vì nó có thể được rút ra bất kỳ lúc nào mà không cần phải báo trước. Tiền gửi giao dịch gồm tiền gửi có thể phát hành séc, uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi, tài khoản NOW, mạng. + Tiền gửi phi giao dịch là loại tiền được hình thành từ nguồn vốn của những người muốn dành một khoản tiền cho những mục tiêu hay nhu cầu tài chính được dự tính trước trong tương lai. Lãi suất của loại tiền gửi này cao hơn nhiều so với tiền gửi giao dịch. - Huy động vốn thông qua việc phát hành kỳ phiếu, tiết kiệm trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi ... - Nguồn vay NHTW, các tổ chức tín dụng khác NHTW là ngân hàng của các ngân hàng, là người cho vay cuối cùng của các tổ chức tín dụng trong trường hợp họ không có đủ khả năng thanh toán. Trong trường hợp này các ngân hàng thương mại vay tiền để bù đắp thiếu hụt, đảm bảo khả năng thanh khoản trong trường hợp cần thiết. Việc huy động vốn một cách hợp lý, với chi phí và cơ cấu phù hợp sẽ góp phần không nhỏ vào hiệu quả kinh doanh của một ngân hàng. b) Hoạt động tín dụng Khả năng cho vay đối với khách hàng chính là điều kiện để ngân hàng tồn tại và phát triển. Huy động được vốn rồi, ngân hàng phải có kế hoạch sử dụng nguồn vốn đó sao cho hợp lý và có hiệu quả nhất. Chỉ có lãi thu được từ hoạt động tín dụng mới bù đắp được chi phí tiền gửi, chi phí dự trữ, chi phí kinh doanh, chi phí quản lý. Khi nền kinh tế phát triển nhu cầu sử dụng vốn tăng lên, các doanh nghiệp tìm đến với ngân hàng như một chỗ dựa. c) Hoạt động trung gian Các nghiệp vụ trung gian bao gồm: thanh toán hộ, chuyển tiền, thu hộ, bảo lãnh, mở L/C, cung cấp thông tin về kinh doanh, đầu tư và quản trị doanh nghiệp, quản lý hộ tài sản…, các nghiệp vụ này được thực hiện theo sự uỷ nhiệm của khách hàng trên cơ sở khách hàng có tài khoản thanh toán tại ngân hàng. Những nghiệp vụ này cũng mang lại cho ngân hàng một khoản thu nhập dưới dạng phí dịch vụ. Điều đó có ý nghĩa lớn trong việc đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của khách hàng và nhu cầu phát triển cũng như cạnh tranh của ngân hàng. 1. 2. Tín dụng của Ngân hàng Thương mại 1.2.1. Khái niệm Hoạt động tín dụng là một trong những hoạt động chủ yếu của ngân hàng. Tín dụng là chức năng kinh tế hàng đầu của các ngân hàng thương mại, nhằm tài trợ cho các doanh nghiệp, cá nhân và các cơ quan Chính phủ. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, nhu cầu vốn ngày càng tăng, hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại lại ngày một cần thiết hơn. Tín dụng là một quan hệ kinh tế trong đó có sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị (hình thái tiền tệ hay hiện vật) từ người sở hữu sang người sử dụng để sau một thời gian thu về một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu với những điều kiện mà hai bên thoả thuận. Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng bằng tiền tệ giữa một bên là Ngân hàng với một bên là tất cả các tổ chức cá nhân trong xã hội, trong đó Ngân hàng giao quyền sử dụng tiền cho họ với những điều kiện thoả thuận nhất định (thời gian, lãi suất, khối lượng, điều kiện đảm bảo). Theo quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước định nghĩa như sau về hoạt động cho vay: "Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi". 1.2.2. Các hình thức tín dụng của Ngân hàng thương mại Việc phân loại các hình thức tín dụng thường được dựa vào một số tiêu thức nhất định. Căn cứ đó ngân hàng thiết lập quy trình cho vay, nâng cao hiệu quả tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng được tốt hơn. a) Căn cứ vào mục đích - Cho vay bất động sản: bao gồm các khoản cho vay xây dựng ngắn hạn và giải phóng mặt bằng cũng như các khoản cho vay dài hạn tài trợ cho việc mua đất canh tác, nhà, trung tâm thương mại và mua các tài sản nước ngoài. Đối với loại hình cho vay này, ngân hàng được bảo đảm bằng chính tài sản thực: đất đai, toà nhà và các công trình khác. - Cho vay đối với các tổ chức tài chính: bao gồm các khoản tín dụng dành cho ngân hàng, công ty bảo hiểm, công ty tài chính và các tổ chức tài chính khác. - Cho vay nông nghiệp: nhằm hỗ trợ nông dân trong hoạt động gieo trồng, thu hoạch và bảo quản sản phẩm. - Cho vay công nghiệp và thương mại: giúp doanh nghiệp trang trải các chi phí như mua hàng, nhập kho, trả thuế, trả lương cho cán bộ công nhân viên. - Cho vay đối với các cá nhân: giúp tài trợ cho việc mua ô tô, nhà ở, trang thiết bị gia đình, vật liệu xây dựng để sửa chữa, hiện đại hóa nhà cửa hay trang trải các khoản viện phí và các chi phí cá nhân khác. - Cho vay khác: gồm các khoản cho vay không được xếp ở trên và các khoản cho vay kinh doanh chứng khoán. - Tài trợ thuê mua: ngân hàng mua thiết bị máy móc hay phương tiện và cho khách hàng thuê. b) Căn cứ vào kỳ hạn - Cho vay ngắn hạn: những khoản cho vay có kỳ hạn tối đa đến 12 tháng, được xác định phù hợp với chu kỳ sản xuất, kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hàng. - Cho vay trung, dài hạn: những khoản cho vay được xác định chủ yếu để đầu tư mua sắm tài sản cố định, đổi mới trang thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án có quy mô thu hồi vốn lớn. Loại cho vay này đang ngày càng được các ngân hàng chú trọng phát triển, một mặt chúng đáp ứng nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp, mặt khác chúng cũng phù hợp với khả năng vốn của các ngân hàng thương mại. Thời hạn cho vay trung hạn là từ 12 tháng đến 60 tháng, thời hạn cho vay dài hạn từ 60 tháng trở lên nhưng không quá thời hạn hoạt động còn lại theo quyết định thành lập hoặc giấy phép thành lập đối với pháp nhân và không quá 15 năm đối với cho vay các dự án đầu tư phục vụ đời sống. c) Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng - Tín dụng không bảo đảm: là loại tín dụng không có tài sản thế chấp, cầm cố hay bảo lãnh của người thứ ba, việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng. Ngân hàng không nắm giữ một loại tài sản nào của người vay để thanh lý nhằm thu hồi khoản vay khi có vi phạm hợp đồng mà thay vào đó là những điều kiện: phương án kinh doanh được ngân hàng đánh giá có tính khả thi, có khả năng đem lại lợi nhuận cao; doanh nghiệp phải kinh doanh có lãi trong hai năm liền kề thời điểm vay vốn. Khách hàng là những khách hàng tốt, trung thực trong kinh doanh, khả năng tài chính lành mạnh, quản trị có hiệu quả, khi đó ngân hàng dựa vào uy tín của khách hàng mà không cần nguồn thu nợ bổ sung. - Tín dụng có bảo đảm: là hình thức tín dụng dựa trên cơ sở ngân hàng nắm giữ các tài sản thuộc sở hữu trực tiếp của người đi vay hoặc thuộc sở hữu của người bảo lãnh. Các hình thức bảo đảm thường gặp là: thế chấp, cầm cố, hoặc bảo lãnh. Mục đích của việc này là khi có sự vi phạm hợp đồng tín dụng ngân hàng có quyền xử lý các tài sản đó để thu hồi tiền cho vay. Sự bảo đảm này là căn cứ pháp lý để ngân hàng có thêm một nguồn thứ hai, bổ sung cho nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn. Các tài sản bảo đảm ở đây thường là các bất động sản, động sản thuộc quyền sở hữu của bên đi vay, được phép giao dịch, không có tranh chấp, tài sản được bảo hiểm theo quy định của pháp luật. d) Căn cứ vào hình thái giá trị của tín dụng - Tín dụng bằng tiền: là loại hình tín dụng được cung cấp bằng tiền. Đây là hình thức cấp tín dụng chủ yếu của ngân hàng và được thực hiện bằng các kỹ thuật khác nhau như: tín dụng ứng trước, thấu chi, tín dụng thời vụ, tín dụng trả góp. - Tín dụng bằng tài sản: là hình thức cho vay bằng tài sản rất phổ biến và đa dạng, mà điển hình nhất là tài trợ thuê mua. Theo phương thức này ngân hàng hoặc công ty thuê mua (công ty con của Ngân hàng) cung cấp trực tiếp tài sản cho khách hàng và theo định kỳ khách hàng hoàn trả nợ vay gồm cả gốc và lãi. e) Căn cứ vào xuất xứ của tín dụng - Cho vay trực tiếp: ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho những khách hàng có nhu cầu, đồng thời người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ vay cho ngân hàng. - Cho vay gián tiếp: là khoản cho vay được thực hiện thông qua việc mua lại các khế ước hoặc chứng từ nợ được phát sinh và còn trong thời hạn thanh toán. Các hình thức này gồm có: chiết khấu, mua lại các phiếu bán hàng, nghiệp vụ thanh lý. f) Căn cứ vào phương thức cho vay Theo quy chế cho vay của các tổ chức tín dụng ban hành ngày 31/12/2001, ngân hàng tiến hàng cho vay theo các phương thức như sau: - Cho vay từng lần: mỗi lần vay vốn khách hàng và ngân hàng tiến hành thực hiện những thủ tục vay vốn cần thiết và ký kết hợp đồng tín dụng. Phương thức này áp dụng với những khách hàng có nhu cầu vay vốn không thường xuyên, sản xuất không ổn định, kinh doanh theo thời vụ, thương vụ. - Cho vay theo hợp đồng tín dụng: ngân hàng và khách hàng xác định, thoả thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong một thời hạn nhất định hoặc theo chu kỳ sản xuất, kinh doanh. - Cho vay theo dự án đầu tư: ngân hàng cho khách hàng vay vốn để thực hiện đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các dự án đầu tư phục vụ đời sống. - Cho vay hợp vốn: một nhóm tổ chức tín dụng cùng cho vay đối với một dự án vay vốn hoặc phương án vay vốn của khách hàng. Trong đó có một tổ chức tín dụng làm đầu mối dàn xếp, phối hợp với các tổ chức tín dụng khác. Ngoài ra cho vay hợp vốn còn phải thực hiện theo quy chế đồng tài trợ của các tổ chức tín dụng do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành. Cho vay hợp vốn có ưu điểm là san sẻ được rủi ro song nhược điểm là nới lỏng việc kiểm soát tiền vay khách hàng. - Cho vay trả góp: khi vay vốn, ngân hàng và khách hàng xác định và thoả thuận số lãi vốn vay phải trả cộng với số nợ gốc chưa được chia ra để trả nợ theo nhiều kỳ hạn trong thời hạn cho vay. - Cho vay theo hạn mức tín dụng: khách hàng và ngân hàng xác định và thoả thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong một khoảng thời gian nhất định. Việc cho vay và thu nợ đan xen nhau, không phân định ranh giới, thời điểm cụ thể lúc nào cho vay, lúc nào thu nợ. Phương thức này áp dụng đối với các khách hàng có nhu cầu vay trả thường xuyên, tình hình kinh doanh ổn định, vòng quay vốn nhanh và có tín nhiệm trong quan hệ tín dụng. - Cho vay theo dự án đầu tư: Tổ chức tín dụng cho khách hàng vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các dự án đầu tư phục vụ đời sống. - Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng: Tổ chức tín dụng chấp thuận cho khách hàng được sử dụng số vốn vay trong phạm vi hạn mức tín dụng để thanh toán tiền mua hàng hoá, dịch vụ và rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động hoặc điểm ứng tiền mặt là đại lý của tổ chức tín dụng. Khi cho vay phát hành và sử dụng thẻ tín dụng, tổ chức tín dụng và khách hàng phải tuân theo các quy định của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về phát hành và sử dụng thẻ tín dụng. - Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: Tổ chức tín dụng cam kết đảm bảo sẵn sàng cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất định. Tổ chức tín dụng và khách hàng thoả thuận thời hạn hiệu lực của hạn mức tín dụng dự phòng, mức phí trả cho hạn mức tín dụng dự phòng. - Cho vay theo hạn mức thấu chi: Là việc cho vay mà tổ chức tín dụng thoả thuận bằng văn bản chấp thuận cho khách hàng chi vượt số tiền có trên tài khoản thanh toán của khách hàng phù hợp với các quy định của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán. Các phương thức cho vay khác mà pháp luật không cấm, phù hợp với quy định tại Quy chế cho vay và điều kiện hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng và đặc điểm của khách hàng vay 1.3. Chất lượng tín dụng Ngân hàng 1.3.1 Quan niệm chất lượng tín dụng Ngân hàng Hoạt động tín dụng hiện nay mang lại phần lợi nhuận lớn nhất cho các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, lợi nhuận trong hoạt động tín dụng lại gắn liền với chất lượng tín dụng, Vậy chất lượng tín dụng là gì? Khi nói đến chất lượng người ta thường nghĩ đến chất lượng của hàng hoá và dịch vụ thông thường. Đó là sự đáp ứng các yêu cầu của khách hàng về tính năng kỹ thuật và tính kinh tế (thể hiện ở chi chí có được sản phẩm, chi phí để sử dụng sản phẩm và hiệu quả sử dụng sản phẩm). Như vậy, chất lượng của hàng hoá dịch vụ nói chung là chất lượng đối với khách hàng (người tiêu dùng), là một trong những yếu tố để thu hút khách hàng. Ví dụ như, khi đi mua một chiếc ti vi màu, bạn thường xem xem chiếc tivi đó hình ảnh có sắc nét không, âm thanh có trung thực, hình dáng kích thước của tivi có gọn nhẹ, bắt mắt hay không, việc điều khiển tivi có dễ dàng tiện lợi không. Tất cả những biểu hiện trên đều phản ánh chất lượng của hàng hoá là chiếc tivi màu. Hoặc đối với dịch vụ cắt tóc, chất lượng của dịch vụ này thể hiện ở tay nghề của người thợ có thể tạo ra cho khách hàng một kiểu tóc hợp với khuôn mặt cùng với thái độ phục vụ niềm nở, lịch sự. Cũng giống như chất lượng hàng hoá dịch vụ thông thường, chất lượng tín dụng là yếu tố sống còn đối với hoạt động của một ngân hàng thương mại bởi chất lượng tín dụng thể hiện ở khả năng hoàn trả nợ đúng hạn của người đi vay cho ngân hàng. Nhưng điểm khác cơ bản ở đây là: chất lượng tín dụng không phải là điểm thu hút sự quan tâm của những người đi vay mà chất lượng tín dụng là yếu tố quan tâm của các nhân viên tín dụng và các nhà quản trị ngân hàng. Mặc dù hệ thống ngân hàng thương mại của các quốc gia trên thế đã rất phát triển, nhiều ngân hàng lớn đã vươn tầm hoạt động tín dụng của mình ra nhiều khu vực, nhiều nước trên thế giới, nhưng vẫn chưa có một định nghĩa chính xác về chất lượng tín dụng của một ngân hàng thương mại. Chất lượng tín dụng vẫn chỉ được bao hàm trong chất lượng tài sản có của ngân hàng. Mà chất lượng tài sản có của ngân hàng là chỉ tiêu tổng hợp nhất nói lên khả năng bền vững về mặt tài chính, khả năng sinh lời và năng lực quản lý của một ngân hàng. Chất lượng tín dụng có vai trò rất quan trọng đối với hoạt động tín dụng nói chung cũng như tổng thể hoạt động của ngân hàng. Chất lượng tín dụng quyết định khả năng thu hồi vốn và lãi cho ngân hàng. Trong khi các khoản cho vay đối với khách hàng (là các tổ chức kinh tế và các cá nhân) chiếm đến 70% tổng tài sản có, nguồn thu nhập từ lãi cho vay là nguồn thu nhập chủ yếu của một ngân hàng thương mại. Vì vậy chất lượng tín dụng quyết định khả năng thu lợi nhuận của ngân hàng. Chất lượng tín dụng tốt không chỉ nhằm đảm bảo an toàn cho hoạt động của mỗi ngân hàng riêng lẻ mà còn cho cả hệ thống bởi mối quan hệ mật thiết của các ngân hàng thương mại với tổng thể nền kinh tế cũng như với từng chủ thể kinh tế bằng vai trò thực thi chính sách tiền tệ và điều tiết vĩ mô nền kinh tế của mình. Do vây có thể hiểu “Chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu tổng hợp, phản ánh sức mạnh cạnh tranh, sự thích nghi của ngân hàng với môi trường bên ngoài để ngân hàng có thể tồn tại và phát triển” 1.3.2 Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng a, Chất lượng tín dụng đối với phát triển của nền kinh tế - xã hội Sinh ra từ nền sản xuất hàng hoá, tín dụng đã có những đóng góp đáng kể trong việc thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn để thúc đẩy tiến trình phát triển của xã hội. Lịch sử đã chứng minh điều đó thông qua sự ra đời và phát triển xã hội loài người qua các hình thái kinh tế xã hội. Ngày nay, cùng với sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá, tín dụng cũng ngày càng phát triển nhằm cung cấp thêm các phương tiện giao dịch để đáp ứng nhu cầu giao dịch ngày càng tăng trong toàn xã hội. Trong điều kiện đó, chất lượng tín dụng ngày càng được quan tâm, bởi lẽ: - Đảm bảo chất lượng tín dụng là điều kiện để ngân hàng làm tốt vai trò trung tâm thanh toán: Khi chất lượng tín dụng được đảm bảo sẽ tăng vòng quay vốn tín dụng, với một khối lượng tiền như cũ, có thể thực hiện số lần giao dịch lớn hơn, tạo điều kiện tiết kiệm tiền trong lưu thông, củng cố sức mua của đồng tiền. - Chất lượng tín dụng tạo điều kiện cho ngân hàng làm tốt chức năng trung gian tín dụng trong nền kinh tế quốc dân: là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, tín dụng góp phần điều hoà vốn trong nền kinh tế. Tăng cường chất lượng tín dụng sẽ giảm thiểu lượng tiền thừa trong lưu thông. Điều đó không chỉ giải quyết mối quan hệ cung cầu về vốn trong nền kinh tế mà còn tạo điều kiện để mở rộng phạm vi thanh toán không dùng tiền mặt, từ đó tiết kiệm chi phí lưu thông cho xã hội, góp phần vào việc điều hoà và ổn định lưu thông tiền tệ. - Chất lượng tín dụng góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định tiền tệ, tăng trưởng kinh tế, tăng uy tín quốc gia: Điều này xuất phát từ nghiệm vụ tín dụng của NHTM có quan hệ chặt chẽ với khối lượng tiền mặt trong lưu thông, thông qua cho vay chuyển khoản, thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt, các NHTM có khả năng mở rộng tiền ghi sổ gấp nhiều lần so với số tiền thực có. Xét về bản chất kinh tế, số tiền này bắt nguồn từ điều “kỳ diệu” của hệ thống ngân hàng (thường gọi là “khả năng tạo tiền”), chúng do “cơ sở” tạo ra nhưng khi đi vào lưu thông chúng đều có “quyền” thanh toán và chi trả như các phương tiện khác để rồi cuối cùng với xu hướng chung chúng sẽ được chuyển thành phương tiện có tính lỏng nhất, đó là tiền mặt. Chính vì vậy, tín dụng còn là nguyên nhân tiềm ẩn của lạm phát. Đảm bảo chất lượng tín dụng sẽ tạo điều kiện cho các NHTM cung cấp tổng phương tiện thanh toán phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế, tạo khả năng giảm bớt lượng tiền thừa trong lưu thông, góp phần hạn chế lạm phát, ổn định tiền tệ, tăng uy tín của quốc gia bằng việc phát huy tác dụng của các sản phẩm, dịch vụ trong tương lai của các công trình đầu tư. - Tín dụng là công cụ để thực hiện các chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế xã hội theo từng ngành, từng lĩnh vực. Mặt khác, thông qua sự phân tích, đánh giá khả năng phát triển của các đối tượng định đầu tư để có những quyết định đầu tư đúng đắn nhằm khai thác tiềm tàng về tài nguyên, lao động, tiền vốn… để tăng cường năng lực sản xuất, cung cấp ngày càng nhiều sản phẩm cho xã hội, giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người lao động… Chất lượng tín dụng được nâng cao sẽ góp phần tăng hiệu quả sản xuất xã hội, đảm bảo sự phát triển cân đối giữa các ngành các vùng trong cả nước, ổn định và phát triển nền kinh tế. - Chất lượng tín dụng góp phần lành mạnh hoá quan hệ tín dụng: Hoạt động tín dụng được mở rộng với các thủ tục được đơn giản hoá, thuận tiện nhưng vẫn tuân thủ các nguyên tắc tín dụng sẽ góp phần cho vay đúng các đối tượng cần thiết, giảm thiểu và đi đến xoá bỏ nạn cho vay nặng lãi chủ yếu hiện nay đang hoành hành ở nông thôn và các vùng xa xôi, hẻo lánh. Để có chất lượng tín dụng, ngoài sự nỗ lực của bản thân các NHTM, đòi hỏi nền kinh tế phải ổn định và phải có một cơ chế phù hợp về chính sách, chế độ, sự phối hợp nhịp nhàng và hiệu quả giữa các cấp, các ngành,… tạo môi trường thuận lợi cho các hoạt động của tín dụng. Tín dụng có mối quan hệ mật thiết với nền kinh tế, xã hội. Thiết lập một cơ chế chính sách tín dụng đồng bộ, có hiệu quả sẽ có tác dụng tích cực đến mọi mặt của nền kinh tế, xã hội. Điều đó cũng thể hiện chất lượng hoạt động tín dụng trong nền kinh tế thị trường. b, Chất lượng hoạt động tín dụng đối với sự tồn tại và phát triển của các NHTM - Chất lượng tín dụng làm tăng khả năng cung cấp dịch vụ của các NHTM do tạo thêm nguồn vốn từ việc tăng được vòng quay vốn tín dụng và thu hút được nhiều khách hàng bởi các hình thức của sản phẩm, dịch vụ, tạo ra một hình ảnh tốt về biểu tượng và uy tín của ngân hàng và sự trung thành của khách hàng; - Chất lượng tín dụng gia tăng khả năng sinh lợi của các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng do giảm được sự chậm chễ, giảm chi phí nghiệp vụ, chi phí quản lý, các chi phí thiệt hại do không thu hồi được vốn đã cho vay và yêu cầu kiểm tra tối thiểu; - Chất lượng tín dụng cải thiện tình hình tài chính của ngân hàng, tạo thế mạnh cho NH trong quá trình cạnh tranh; - Chất lượng tín dụng tạo thuận lợi cho sự tồn tại lâu dài của ngân hàng bởi vì chất lượng tín dụng cho phép ngân hàng có những khách hàng trung thành và những khoản lợi nhuận để bổ xung vốn đầu tư; - Chất lượng tín dụng củng cố mối quan hệ xã hội của ngân hàng bằng những điều kiện lao động tốt nhất. Với những ưu thế trên, việc củng cố và tăng cường chất lượng tín dụng của các NHTM là sự cần thiết khách quan vì sự tồn tại và phát triển lâu dài của các NHTM; và cũng chính vì vậy, chất lượng tín dụng luôn luôn phải được cải tiến. 1.3.3. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng Để đánh giá chất lượng tín dụng của một ngân hàng thương mại, các thanh tra ngân hàng, các chuyên gia ngân hàng phải dựa vào các tiêu chuẩn. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có một hệ thống chính thức các tiêu chuẩn quốc tế cũng như một hệ thống tiêu chuẩn của riêng Việt Nam để đánh giá chất lượng tín dụng của một ngân hàng thương mại. Vì vậy, việc đánh giá chất lượng tín dụng đều dựa trên một số tiêu chuẩn do các ngân hàng trung ương, cơ quan quản lý cao nhất trong hệ thống ngân hàng của một quốc gia, ban hành. Ở Mỹ, hệ thống ngân hàng thương mại với tư cách là nhóm trung gian tài chính lớn nhất, có khối lượng tài sản dưới hình thức các chứng khoán rất đa dạng. Mỗi năm, hệ thống này cung cấp cho nền kinh tế hàng ngàn tỷ USD tín dụng. Các thanh tra ngân hàng Mỹ đã đưa ra đánh giá về chất lượng tín dụng dựa trên việc phân loại các khoản vay, quy đổi các khoản vay nguy hiểm theo các hệ số rủi ro tương ứng và đem so sánh với quy mô dự phòng tổn thất tín dụng và vốn chủ sở hữu. Các khoản cho vay của một ngân hàng được các thanh tra ngân hàng phân loại như sau: Những khoản vay đang tiến triển tốt nhưng có một vài điểm hạn chế do ngân hàng không tuân thủ chính sách cho vay hay không nhận được đầy đủ giấy tờ từ người vay thì được cho là khoản cho vay cần được xem xét. Những khoản cho vay dường như chứa đựng những khiếm khuyết lớn hay bị các thanh tra ngân hàng đánh giá là có sự tập trung tín dụng nguy hiểm vào một người vay hay một ngành vay được gọi là những khoản cho vay cần lên kế hoạch. Các ngân hàng cần giám sát khoản tín dụng này một cách thận trọng và cố gắng hạn chế rủi ro do sự cho vay tập trung. Những khoản cho vay chứa đựng mầm mống rủi ro không thể thu hồi theo đúng kế hoạch sẽ được xếp vào hạng nguy hiểm. Sau đó, khoản vay nguy hiểm lại được xếp vào một trong 3 nhóm nhỏ sau: - Nhóm 1(Các khoản cho vay dưới mức tiêu chuẩn): mức độ an toàn của ngân hàng không được đảm bảo do sự giảm sút trong giá trị tài sản thế chấp hay trong năng lực hoàn trả của người vay. - Nhóm 2 (Các khoản cho vay đáng ngờ) có nhiều khả năng chúng mang lại tổn thất cho ngân hàng. - Nhóm 3 ( Các khoản cho vay không thể thu hồi được) Các thanh tra sẽ nhân toàn bộ các khoản cho vay dưới mức tiêu chuẩn với 0,2; các khoản cho vay đáng ngờ với 0,5; và các khoản cho vay không thu hồi với 1,0. Sau đó tính tổng và so sánh kết quả với quy mô dự phòng tổn thất tín dụng và vốn chủ sở hữu. Nếu tổng các khoản cho vay nguy hiểm đã quy đổi tương đối lớn so với dự phòng tổn thất tín dụng và nguồn vốn chủ sở hữu thì thanh tra ngân hàng sẽ yêu cầu ngân hàng thay đổi chính sách và thủ tục cho vay hoặc đề nghị ngân hàng bổ sung thêm dự phòng tổn thất và vốn chủ sở hữu. Tại Việt Nam, do hạn chế về khả năng phân loại các khoản vay, cũng như quy mô dự phòng tổn thất tín dụng và quy mô nguồn vốn chủ sở hữu còn quá nhỏ bé nên không thể áp dụng cách đánh giá chất lượng tín dụng như vừa trình bày ở trên, mà sẽ áp dụng những chỉ tiêu riêng phản ánh quy mô hoạt động tín dụng của ngân hàng đối với nền kinh tế, ngân hàng đáp ứng nhu cầu phát triển xã hội càng tăng thì chỉ tiêu này càng lớn. Chỉ tiêu này gồm có: a, Chỉ tiêu tổng dư nợ Tổng dư nợ phản ánh khối lượng vốn mà ngân hàng đã cho vay và chưa thu được nợ hoặc khách hàng chưa phải trả nợ gốc, nó được tính bằng tổng số cho vay năm nay và số dư nợ năm trước trừ đi số thu nợ năm nay. Tổng dư nợ thấp phản ánh ngân hàng không có khả năng mở rộng hoạt động cho vay, trình độ marketing tiếp cận với khách hàng và thị trường còn thiếu nhạy bén. Tổng dư nợ cao có thể kì vọng lãi từ hoạt động tín dụng cao nhưng không có nghĩa là chất lượng tín dụng tốt bởi rủi ro đối với ngân hàng sẽ tăng lên, ngân hàng có thể không thu hồi được nợ do khách hàng bị phá sản, không còn khả năng trả nợ hoặc cố tình chây ì, không trả nợ cho ngân hàng, trốn nợ... Thông thường ngân hàng nào theo đuổi mục tiêu lợi nhuận sẽ mong muốn mở rộng dư nợ tín dụng, còn nếu theo đuổi mục tiêu an toàn sẽ thận trọng trong gia tăng dư nợ tín dụng. Tuy nhiên, nâng cao chất lượng tín dụng không phải là việc hạn chế rủi ro bằng cách thắt chặt tín dụng mà phải mở rộng tín dụng với hiệu quả hoạt động cao nhất, nghĩa là có khả năng sinh lời cao nhất và an toàn nhất. Chỉ tiêu này được sử dụng để phản ánh quy mô tín dụng của ngân hàng, có thể thể hiện ở dạng số tuyệt đối hoặc số tương đối (cơ cấu tỷ lệ trong tổng dư nợ theo thời gian: dư nợ tín dụng ngắn hạn - trung/dài hạn; dư nợ tín dụng theo thành phần kinh tế: Doanh nghiệp nhà nước, Doanh ngoài quốc doanh, cá nhân; Dư nợ tín dụng có tài sản đảm bảo - không có tài sản đảm bảo... ). Bên cạnh đó chỉ tiêu này cũng phản ánh chất lượng tín dụng của ngân hàng song không phải là chỉ tiêu duy nhất, người ta phải kết hợp chỉ tiêu tổng dư nợ tín dụng và một số chỉ tiêu khác như doanh số cho vay, thu nợ …..để đánh giá chính xác chất lượng tín dụng của NHTM. b, Chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn Tỷ lệ nợ quá hạn được xem là một chỉ tiêu quan trọng trong việc đánh giá chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng. Tỷ lệ nợ quá hạn = Nợ Quá Hạn Tổng dư nợ Nợ quá hạn là điều mà các ngân hàng không mong muốn, trên thực tế, các NHTM luôn cố gắng giảm đến mức thấp nhất tỷ lệ nợ qúa hạn và theo thông lệ quốc tế tỷ lệ này dưới 5% được coi là có thể chấp nhận được. Tỷ lệ nợ quá hạn thấp biểu hiện chất lượng tín dụng tại ngân hàng cao, độ an toàn của ngân hàng cao. Ngược lại, tỷ lệ nợ quá hạn cao biểu hiện chất lượng tín dụng thấp, rủi ro trong hoạt động tín dụng cao. Song điều này chỉ mang ý nghĩa tương đối. Ta thử xét ví dụ về hai ngân hàng có tổng dư nợ bằng nhau nhưng một ngân hàng có nợ quá hạn thấp trong đó 100% là khoản nợ quá hạn không có khả năng thu hồi do doanh nghiệp vay đang đứng trên bờ vực phá sản... còn một ngân hàng có con số nợ quá hạn cao hơn tuy nhiên thực chất những khách hàng này lại vẫn còn khả năng hoạt động hiệu quả, 100% khoản nợ quá hạn là khoản nợ mang tính chất tạm thời, ít rủi ro ví dụ như nguyên nhân phát sinh của nó là do doanh nghiệp đã bán hàng nhưng tạm thời chưa thu đủ... Rõ ràng với tình huống này thì doanh nghiệp có tỷ lệ nợ quá hạn cao hơn lại có chất lượng tín dụng tốt hơn. Điều đó cho thấy nếu chỉ dựa vào con số tỷ lệ nợ quá hạn sẽ chưa phản ánh đúng thực trạng chất lượng tín dụng của ngân hàng là tốt hay xấu. Để quản lý tốt và đánh giá chính xác chất lượng tín dụng, ta có thể xét đến cơ cấu nợ quá hạn. c, Chỉ tiêu về cơ cấu nợ quá hạn Muốn xác định được cơ cấu nợ quá hạn phải xác định được các tiêu thức hợp lý để phân loại chúng. Bằng việc này ngân hàng có thể nắm được nợ quá hạn tập trung chủ yếu ở đối tượng nào, theo hình thức nào, thời hạn bao nhiêu... từ đó tìm ra nguyên nhân và giải pháp khắc phục. Tại Việt Nam, để quản lý và đánh giá đánh giá đúng bản chất các khoản nợ quá hạn nhằm hạn chế rủi ro thấp nhất cho hoạt động kinh doanh của các NHTM nâng cao hơn nữa chất lượng tín dụng ta thường phân loại nợ quá hạn theo các tiêu thức sau: - Căn cứ theo thành phần kinh tế có thể chia nợ quá hạn như sau: + Nợ quá hạn của doanh nghiệp nhà nước + Nợ quá hạn của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh; + Nợ quá hạn của cá nhân, hộ sản xuất kinh doanh. - Căn cứ theo khả năng thu hồi ta có nợ quá hạn bao gồm: + Nợ quá hạn bình thường; + Nợ quá hạn có vấn đề; + Nợ quá hạn khó thu hồi; + Nợ quá hạn thu giữ tài sản chưa xử lý. - Khả năng thu hồi là một tiêu thức quan trọng để đánh giá chính xác hơn chất lượng tín dụng. Như trong ví dụ trên, ta thấy dù tỷ lệ nợ quá hạn cao nhưng trong đó chủ yếu là những khoản nợ quá hạn có khả năng thu hồi lớn thì vẫn có thể khẳng định chất lượng tín dụng của ngân hàng đó là tốt. Theo cách này, chỉ tiêu thường được sử dụng là: Tỷ lệ nợ quá hạn có khả năng thu hồi = NQH có khả năng thu hồi Nợ quá hạn Hoặc ngược lại có thể sử dụng chỉ tiêu: Tỷ lệ nợ quá hạn khó đòi = NQH khó đòi Nợ quá hạn - Cơ cấu nợ quá hạn phân theo nguyên nhân Việc phân loại nợ quá hạn theo nguyên nhân sẽ giúp ngân hàng quản lý tốt các khoản đã cho vay, là cơ sở cho việc tìm ra các giải pháp phù hợp. + Nợ quá hạn theo nguyên nhân chủ quan. + Nợ quá hạn theo nguyên nhân khách quan. Ngoài ra, trong quá trình phân tích, có thể phân loại nợ quá hạn theo thời hạn cho vay: Nợ quá hạn của khoản nợ ngắn hạn - trung hạn - dài hạn; theo thời gian chuyển nợ quá: nợ quá hạn dưới 180 ngày, nợ quá hạn từ 180 - 360 ngày, nợ quá hạn trên 360 ngày; ... d, Chỉ tiêu về tốc độ chu chuyển vốn Vòng quay vốn tín dụng = Doanh số thu nợ trong năm Dư nợ bình quân trong năm Chỉ tiêu này phản ánh tốc độ luân chuyển vốn nhanh hay chậm, nghĩa là một đồng vốn của ngân hàng cho vay được bao nhiêu lần trong năm. Số vòng quay càng lớn chứng tỏ nguồn vốn của ngân hàng luân chuyển nhanh, sử dụng vốn hiệu quả. Tuy nhiên mức độ đánh giá nhanh hay chậm còn phụ thuộc vào đối tượng khách hàng là doanh nghiệp thương mại hay doanh nghiệp sản xuất, chẳng hạn đối với các doanh nghiệp thương mại, vòng quay vốn tín dụng đòi hỏi phải lớn, có khi đạt 5-7lần/năm mới gọi là tốt trong khi đó các doanh nghiệp sản xuất có thể chỉ cần đạt khoảng 1-2vòng/năm; ngoài ra vòng quay vốn tín dụng còn phụ thuộc vào tính thời vụ, tính chu kì của sản xuất; phụ thuộc vào thời gian của dự án... e, Chỉ tiêu thu nhập từ hoạt động cho vay Như ta đã đề cập, chất lượng tín dụng nhìn từ phía ngân hàng xét trên hai khía cạnh: lợi nhuận và an toàn. Do vậy, chất lượng tín dụng tốt chỉ thực sự có ý nghĩa khi nó góp phần nâng cao khả năng sinh lời của ngân hàng. Và đây là một chỉ tiêu cần thiết để đo lường khả năng sinh lời của ngân hàng mang lại từ hoạt động tín dụng. Hiểu theo nghĩa đen, thu nhập từ hoạt động cho vay chính là lãi từ hoạt động cho vay nhưng ta có thể xét thêm thu nhập thực từ hoạt động cho vay của ngân hàng sau khi đã trừ đi các chi phí phát sinh trong quá trình hình thành và chấp nhận cho vay, ví dụ như các chi phí thẩm định, chi phí quản lý theo dõi khoản vay... Trên thực tế, các NHTM Việt Nam hiện nay hiểu thu nhập từ hoạt động cho vay chính là tỷ lệ lãi từ hoạt động cho vay trên tổng thu nhập. Tỷ lệ thu nhập từ hoạt động cho vay = Lãi từ hoạt động cho vay Tổng thu nhập Tỷ lệ này cho thấy tầm quan trọng của hoạt động tín dụng trong việc tạo ra tổng thu nhập của ngân hàng. Ở Việt Nam hiện nay, các NHTM có tỷ lệ thu nhập từ hoạt động cho vay thường rất lớn, điều đó thể hiện rõ rằng tín dụng vẫn là hoạt động sinh lời chủ yếu. Tuy nhiên, ở các nước phát triển thì tỷ lệ này lại rất khiêm tốn, bởi các ngân hàng có xu hướng phát triển các loại hình dịch vụ tài chính trung gian khác hơn là việc cung cấp tín dụng. Ngoài ra, để phân tích khả năng của ngân hàng trong việc thu nợ lãi ta có thể phân tích tỷ lệ lãi thực thu trên lãi dự thu từ hoạt động cho vay. Ngay sau khi phát tiền vay, ngân hàng sẽ dự tính khoản lãi có thể thu được trong tương lai gọi là lãi dự thu, còn lãi thực thu là khoản lãi thực tế trong hạn ngân hàng đã thu từ khách hàng. Tỷ lệ này càng cao có nghĩa là doanh nghiệp đã tiến hành trả nợ lãi đúng hạn, điều này phản ánh doanh nghiệp hoạt động ổn định, có hiệu quả, có khả năng trả nợ tốt. Hiện nay, đối với các NHTM Việt Nam để đánh giá chất lượng tín dụng của một Ngân hàng nhằm hạn chế rủi ro thấp nhất trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thì các Ngân hàng thực hiện phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro theo quyết định 493/2005/QĐ-NHNN. Theo quyết định này thì các khoản cho vay của Ngân hàng sẽ được phân thành các nhóm sau: - Nhóm 1 (nợ đủ tiêu chuẩn) Bao gồm: + Các khoản nợ trong hạn mà Ngân hàng nơi cho vay đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng hạn. + Các khoản nợ quá hạn dưới 10 ngày và Ngân hàng nơi cho vay đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ gốc, lãi bị quá hạn và thu hồi đẩy đủ gốc và lãi đúng thời hạn còn lại. - Nhóm 2 (nợ cần chú ý) Bao gồm: + Các khoản nợ quá hạn từ 10 ngày đến 90 ngày + Các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu - Nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn) Bao gồm: + Các khoản nợ quá hạn từ 91 đến 180 ngày + Các khoản nợ cơ cầu lại thời hạn trả nợ lần đầu trừ các khoản điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu phân loại vào nhóm 2 + Các khoản nợ được miễn hoặc giảm lại do khách hàng không đủ năng lực trả lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng + Các khoản nợ phải thực hiện nghĩa vụ theo cam kết quá hạn dưới 30 ngày - Nhóm 4 (nợ nghi ngờ) Bao gồm: + Các khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày + Các khoản nợ cơ cầu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu + Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thức 2 + Các khoản nợ phải thực hiện nghĩa vụ theo cam kết quá hạn từ 30 đến 90 ngày - Nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn) Bao gồm: + Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày + Các khoản nợ cơ cầu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu + Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ 2 quá hạn theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần thứ 2. Ngoài các chỉ tiêu như trên, ngân hàng còn được đánh giá về chất lượng tín dụng trên cơ sở nhiều tiêu chuẩn khác như: thái độ tiếp đón, hướng dẫn và phục vụ khách hàng một cách hoà nhã ân cần, thủ tục nhanh gọn, hợp lý, đơn giản, phục vụ cho khách hàng nhanh nhất trong phạm vi thời gian quy định; đảm bảo cung ứng đúng và đủ lượng tiền theo Hợp đồng tín dụng đã ký; đồng thời tuân thủ các quy định do Nhà nước đề ra trong lĩnh vực cho vay (các Luật và văn bản dưới Luật). 1.3.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng ngân hàng Ta biết rằng chất lượng hoạt động TD có ý nghĩa rất lớn đối với sự tồn tại và phát triển của các NHTM và của toàn xã hội. Để quản lý chất lượng TD đồng bộ, đòi hỏi phải hiểu rõ tác động của các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng TD. Có thể chia các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng TD làm hai loại: các nhân tố bên ngoài (nhân tố khách quan) và các nhân tố bên trong (nhân tố chủ quan). Tuỳ thuộc vào điều kiện, hoàn cảch cụ thể của từng nước, của từng NHTM mà hai loại nhân tố này qua nghiên cứu cụ thể từng loại nhân tố ảnh hưởng. a, Các nhân tố bên ngoài: Gồm 3 nhân tố: kinh tế, xã hội, pháp lý. - Nhân tố kinh tế: Về phương diện tổng thể, nền kinh tế ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tín dụng. Nền kinh tế ổn định làm cho quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp tiến hành bình thường không bị ảnh hưởng bởi các yếu tố lạm phát, khủng hoảng làm cho khả năng tín dụng và khả năng trả nợ vay không biến động lớn. Trong trường hợp này chất lượng tín dụng phụ thuộc chủ yếu vào khả năng quản lý chất lượng tín dụng của bản thân các NHTM. Tuy nhiên, để xã hội tồn tại và phát triển, đòi hỏi nền kinh tế phải có sự tăng trưởng. Với mục tiêu tăng trưởng kinh tế, một số nước đã sử dụng mức lạm phát vừa phải để tăng trưởng tín dụng, kích thích đầu tư. Giới hạn của mở rộng quy mô tín dụng có ảnh hưởng lớn chất lượng tín dụng: nếu mở rộng quá giới hạn cho phép sẽ làm cho giá cả tăng quá mức, xảy ra lạm phát phi mã và siêu lạm phát, các NHTM sẽ chịu thiệt hại lớn do đồng tiền mất giá, chất lượng tín dụng bị giảm thấp. Ngoài ra, chính sách và luật lệ điều tiết về ưu tiên hay hạn chế sự phát triển của một ngành, một lĩnh vực… để hạn chế tác động tiêu cực như ô nhiễm môi trường, đảm bảo sự phát triển cân đối trong nền kinh tế cũng ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động tín dụng. Vốn nước ngoài cũng có ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng: do tình trạng thiếu vốn để phát triển kinh tế, các nước kém phát triển phải tìm mọi cách huy động vốn nước ngoài để đầu tư. Việc đầu tư sẽ làm tăng tổng cầu trong nền kinh tế trong khi tổng cung chưa tăng theo kịp làm mất cân đối giữa tổng cung và tổng cầu trong nền kinh tế gây nguy cơ lạm phát. Mặt khác, do hệ thống ngân hàng chưa phát triển, tình trạng “đô la hoá” không kiểm soát được, luồng tiền từ nước ngoài chảy vào trong nước cũng trở thành phương tiện thanh toán làm cho khối lượng tiền trong nước tăng, gây sức ép lạm phát. Như vậy, vốn nước ngoài nếu không có sự tính toán kỹ càng và không có sự quản lý chặt chẽ gây nguy cơ lạm phát và tác động xấu tới hoạt động tín dụng. Hoạt động tín dụng là hoạt động “vay để cho vay”, do đó chất lượng tín dụng còn phụ thuộc vào công tác huy động và cho vay vốn, hay nói cách khác là phụ thuộc vào chất lượng khách hàng. Tín dụng là nhịp cầu nối giữa hoạt động sản xuất kinh doanh của ngân hàng với hoạt động của lĩnh vực sản xuất vật chất và kinh doanh dịch vụ. Do đó, mỗi biểu hiện xấu hay tốt trong hoạt động của khách hàng sẽ có những ảnh hưởng tương ứng tới hoạt động tín dụng thông qua cơ chế tác động của những mối quan hệ tín dụng: với khách hàng sản xuất kinh doanh có lãi, có xu thế phát triển, có khả năng chiếm lĩnh thị trường và có quan hệ tín dụng tốt (vay và trả nợ sòng phẳng) thì cầu nối giữa vay cho vay sẽ thông suốt, tạo điều kiện tăng vòng quay vốn tín dụng và mở rộng quy mô vốn đầu tư. Ngược lại, bằng cơ chế chính sách tín dụng phù hợp, phương pháp phân tích kinh tế doanh nghiệp được xây dựng phù hợp với đặc điểm hoạt động tín dụng ngân hàng, các NHTM sẽ tìm kiếm được khách hàng tốt để vay và cho vay, tạo sự tương thích hợp lý giữa nguồn vốn huy động được với việc đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng. Chu kỳ phát triển kinh tế có tác động không nhỏ tới hoạt động tín dụng. Trong thời kỳ kinh tế đình trệ sản xuất – kinh doanh bị thu hẹp, hoạt động tín dụng gặp khó khăn trên tất cả các lĩnh vực. Nhu cầu vốn tín dụng giảm trong thời kỳ này và nếu vốn tín dụng đã được thực hiện cũng khó có thể sử dụng có hiệu quả hoặc trả nợ đúng hạn cho ngân hàng. Ngược lại, thời kỳ hưng thịnh, nhu cầu vốn tín dụng tăng, rủi ro tín dụng có ít đi, nhưng cũng không loại trừ trường hợp do chạy đua trong sản xuất kinh doanh, nạn đầu cơ tích trữ, làm cho nhu cầu vốn tín dụng lên quá cao và có quá nhiều khoản tín dụng được thực hiện. Những khoản này cũng có thể khó được hoàn trả nếu sự phát triển sản xuất kinh doanh không có kế hoạch nó trên dẫn đến suy thoái và khủng khoảng kinh tế. Mức độ phù hợp giữa lãi suất ngân hàng với mức lợi nhuận của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng hoá và dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân cũng ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng. Theo Mác: “lợi tức chỉ là một phần của lợi nhuận mà nhà tư bản công nghiệp phải trả cho nhà tư bản kinh doanh tiền tệ mà giới hạn tối đa của lợi tức là bản thân lợi nhuận “TB q.3, tập 2 NXB Sự thật – 1962”. Như vậy, lợi tức của ngân hàng thu được từ hoạt động tín dụng bị giới hạn bởi lợi nhuận của doanh nghiệp sản xuất kinh doanh sử dụng vốn vay ngân hàng. Vì vậy, với mức lãi suất cao hơn mức lợi nhuận các doanh nghiệp vay vốn thu được từ hoạt động sản xuất - kinh doanh, các doanh nghiệp sẽ không có khả năng trả nợ ngân hàng, ảnh hưởng tới quá trình tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng của doanh nghiệp nói riêng và tình hình phát triển của toàn bộ nền kinh tế nói chung (trừ các doanh nghiệp có lợi nhuận siêu ngach hoặc lợi nhuận độc quyền). Hoạt động tín dụng lúc này không còn là đòn bẩy để thúc đẩy sản xuất phát triển và theo đó chất lượng tín dụng cũng bị ảnh hưởng. - Nhân tố xã hội: Nhân tố ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng tín dụng là các tác nhân trực tiếp tham gia quan hệ tín dụng, đó là người gửi tiền, ngân hàngvà người vay tiền. Tín dụng có nghĩa là sự vay mượn dựa trên cơ sở sự tín nhiệm, lòng tin, điều đó cũng có nghĩa là quan hệ tín dụng là sự kết hợp giữa 3 yếu tố: nhu cầu của khách hàng, khả năng của ngân hàng và sự tin tưởng lẫn nhau giữa ngân hàng và khách hàng. Vì vậy, chất lượng tín dụng phụ thuộc vào cả 3 yếu tố: khách hàng, ngân hàng và sự tín nhiệm, trong đó sự tín nhiệm là cầu nối mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng: sự tín nhiệm của ngân hàng càng cao, thu hút khách hàng càng lớn; khách hàng có tín nhiệm đối với ngân hàng thường được vay vốn dễ dàng và có thể được vay với lãi suất thấp hơn so với các đối tượng khác. Tín nhiệm là tiền đề, điều kiện để không ngừng cải tiến chất lượng tín dụng. + Khách hàng: là chủ thể đại diện cho bên cung về vốn tín dụng, đồng thời cũng đại diện cho bên cầu về vốn cho vay. Với tư cách là người cung vốn tín dụng, họ mong muốn nhận được từ ngân hàng một khoản lãi từ tiền gửi hay những dịch vụ thanh toán thuận tiện. Sự tín nhiệm của khách hàng đối với ngân hàng sẽ làm tăng thêm tính ổn định của nguồn vốn huy động để đáp ứng nhu cầu của người vay. Đối với người vay, họ đến với ngân hàng với mong muốn nhu cầu vay của mình được đáp ứng để có được một khoản tín dụng sử dụng cho mục đích sản xuất kinh doanh với sự xác định rõ ràng về số lượng tiền vay, thời hạn vay và lãi suất - giá của việc sử dụng vốn vay có thể chấp nhận được. Nếu nhu cầu của khách hàng được chấp nhận với thái độ niềm nở và thủ tục đơn giản sẽ thu hút được nhiều khách tốt, tạo điều kiện cho hoạt động tín dụng được thuận lợi, chất lượng tín dụng được đảm bảo. Ngược lại, nếu kháhc hàng đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu về cung cấp thông tin khách hàng một cách trung thực, tình hình hình tài chính lành mạnh, kết quả hoạt động kinh doanh ổn định có xu hướng ngày càng mở rộng và phát triển , đảm bảo uy tín trong vay và trả nợ Ngân hàng điều đó cũng làm cho chất lượng tín dụng của Ngân hàng được nâng cao hơn và rủi ro đạo đức kinh doanh sẽ thấp đi + Ngân hàng: là chủ thể đại diện cho bên cầu về huy động vốn để cho vay, đồng thời cũng đại diện cho bên cung về cấp tín dụng. Quy mô và phạm vi hoạt động của tín dụng phụ thuộc vào nguồn vốn tự có của ngân hàng, khả năng huy động vốn (về quy mô và thời hạn) cũng như uy tín và trình độ quản lý của ngâ hàng, ngoài ra còn phụ thuộc vào trình độ kỹ thuật, nghiệp vụ, màng lưới hoạt động…, khả năng tạo tiền của bản thân NHTM và việc sử dụng các công cụ quản lý tiền tệ của Ngâ hàng Nhà nước. Ngoài những yếu tố kể trên, còn có những yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng như: đạo đức xã hội có liên quan tới rủi ro trong tín dụng trong trường hợp lợi dụng lòng tin để lừa đảo; hoặc do trình độ dân trí chưa cao, kém hiểu biết dẫn tới hiểu chưa đúng bản chất hoạt động ngân hàng nói chung cũng như hoạt động tín dụng nói riêng, làm ăn kém hiệu quả, không phát huy tốt chức năng các phương tiện tín dụng… Bên cạnh đó sự biến động của tình hình kinh tế, chính trị, xã hội ở nước ngoài cũng có ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng: trong tình hình hiện nay, các quan hệ kinh tế, xã hội được mở rộng, theo đó các loại hình doanh nghiệp đa quốc gia cũng ngày càng tăng về số lượng và quy mô hoạt động, các trào lưu văn hoá - xã hội cũng ngày càng phát triển. Vì vậy, mọi sự biến động về kinh tế, văn hoá, xã hội ở nước ngoài đều ảnh hưởng tới tình hình kinh tế, chính trị, xã hội trong nước và ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng. Ví dụ: sự kiện Đông Âu làm cho hàng loạt hợp đồng tiêu thụ của các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu bị phá vỡ hợp hay do hàng nội địa không cạnh tranh được với hàng ngoại nhập lậu về giá cả, chất lượng và chủng loại dẫn tới hàng sản xuất ra không tiêu thụ được, gây khó khăn cho việc trả nợ… Ngoài ra, chất lượng hoạt động tín dụng còn phụ thuộc nhiều vào các yếu tố môi trường như tình hình thời tiết, dịch bệnh… cũng như các biện pháp tích cực trong việc bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái. - Nhân tố pháp lý: Nhân tố pháp lý bao gồm tính đồng bộ của hệ thống pháp luật, tính đầy đủ, thống nhất của các văn bản dưới luật, đồng thời gắn liền với quá trình chấp hành phấp luật và trình độ dân trí. Thực tiễn kinh tế thị trường hàng trăm năm qua có đủ cơ sở để kết luận rằng: pháp luật đã trở thành một bộ phận không thể thiếu được của nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Không có pháp luật hoặc pháp luật không phù hợp với những yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường thì mọi hoạt động trong nền kinh tế đó không thể tiến hành trôi chảy được. Với vai trò đảm bảo cho việc chuyển nền kinh tế thị trường từ tự phát, kém tổ chức sang một nền kinh tế thị trường văn minh, pháp luật, có nhiệm vụ tạo lập một môi trường pháp lý cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh tiến hành thuận tiện và đạt hiệu quả kinh tế cao; là cơ sở để giải trí hết sức quan trọng đối với hoạt động ngân hàng nói chung và chất lượng hoạt động tín dụng nói riêng. Chỉ có trong điều kiện các chủ thể tham gia quan hệ tín dụng tuân thủ pháp luật một cách nghiêm chỉnh thì quan hệ tín dụng mới đem lại lợi ích cho cả hai phía và chất lượng tín dụng mới được đảm bảo. Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng nhằm: Hạn chế rủi ro, bảo toàn vốn, nâng cao thu nhập và lợi nhuận từ hoạt động tín dụng ngân hàng. Xã hội hoá hoạt động ngân hàng, biến NHTM trở thành người bạn tin cậy của mọi tổ chức, cá nhân, đơn vị trong nền kinh tế xã hội, tạo điều kiện cho NHTM khác. Hợp pháp hoá hoạt động ngân hàng, đảm bảo cho ngân hàng hoạt động theo pháp luật; tạo môi trường pháp lý lành mạnh và ổn định để hoạt động tín dụng được an toàn, có hiệu quả. b, Các nhân tố bên trong Các nhân tố bên trong trường thường liên quan tới sự phấn đấu của bản thân ngân hàng trên tất cả các mặt có liên quan tới hoạt động tín dụng và ảnh hưởng trực tiếp tới những khía cạnh khác nhau của chất lượng tín dụng. Các nhân tố bên trong gồm 7 nhân tố (về chính sách; công tác tổ chức; trình độ lao động; quy trình nghiệp vụ; thông tin; kiểm tra kiểm soát và trang thiết bị), ảnh hưởng của nó tới chất lượng hoạt động tín dụng được thể hiện qua nội dung của các nhân tố như sau: - Chính sách tín dụng: Chính sách tín dụng là kim chỉ nam đảm bảo cho hoạt động tín dụng đi đúng quỹ đạo, nó có ý nghĩa quyết định đến sự thành công hay thất bại của một ngân hàng. Một chính sách tín dụng đúng đắn sẽ thu hút được nhiều khách hàng, đảm bảo khả năng sinh lời của hoạt động tín dụng trên cơ sở phân tán rủi ro, tuân thủ luật pháp, đường lối chính sách của Nhà nước và đảm bảo công băng xã hội. Điều đó cũng có nghĩa là chất lượng tín dụng tuỳ thuộc vào việc xây dựng chính sách tín dụng của NHTM có đúng đắn hay không. Bất cứ NHTM nào muốn có chất lượng tín dụng đều phải có chính sách tín dụng rõ ràng, thích hợp cho ngân hàng mình. - Công tác tổ chức của ngân hàng: Tổ chức của Ngân hàng được sắp xếp một cách có khoa học, đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các phòng ban trong từng ngân hàng, trong toàn bộ hệ thống ngân hàng cũng như giữa ngân hàng với các cơ quan khác như tài chính, pháp lý… sẽ tạo điều kiện đáp ứng kịp thời yêu cầu của khách hàng; theo dõi, quản lý sát sao các khoản vốn huy động cũng như các khoản cho vay, đây là cơ sở đển tiến hành các nghiệp vụ tín dụng lành mạnh và quản lý có hiệu quả các khoản vốn tín dụng. Tổ chức ngâ hàng theo nguyên tắc tập trung có phân cấp chính là một khâu trong quá trình quản lý chất lượng tín dụng đồng bộ, góp phần thực hiện chính sách tiền tệ của Nhà nước trong từng thời kỳ. - Chất lượng nhân sự: Con người là yếu tố quyết định đến sự thành bại trong quản lý vốn tín dụng cũng như trong hoạt động của ngân hàng. Xã hội ngày càng phát triển đòi hỏi chất lượng nhân sự ngày càng cao để có thể đối phó kịp thời, có hiệu quả với các tình huống khác nhau của hoạt động tín dụng. Việc tuyển chọn nhân sự có đạo đức nghề nghiệp tốt và giỏi về chuyên môn (có năng lực phân tích và xử lý đơn xin vay, đánh giá tài sản thế chấp, giám sát số tiền cho vay ngay từ khi cấp tiền vay cho tới khi thu hồi được nợ hoặc xử lý xong món nợ theo chính sách cho vay của ngân hàng …) sẽ giúp cho ngân hàng có thể ngăn ngừa được những sai phạm có thể xảy ra khi thực hiện chu kỳ khép kín của một khoản tín dụng. - Quy trình tín dụng: Quy trình tín dụng bao gồm những quy định cần phải thực hiện trong quá trình cho vay, thu nợ nhằm đảm bảo an toàn vốn tín dụng, nó được bắt đầu từ khi chuẩn bị cho vay, phát triển vay, kiểm tra quá trình cho vay cho đến khi thu hồi được nợ. Chất lượng tín dụng có đảm bảo hay không tuỳ thuộc vào việc thực hiện tốt các quy định ở từng bước và sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các bước trong quy trình tín dụng. Trong quy trình tín dụng, bước chuẩn bị cho vay (khách hàng viết đơn xin vay và ngân hàng đánh giá đơn xin vay để quyết định cho vay hay không cho vay) rất quan trọng, là cơ sở để lượng định rủi ro trong quá trình cho vay. Trong bước này, chất lượng tín dụng tuỳ thuộc vào chất lượng công tác thẩm định đối tượng được vay vốn cũng như những quy định về điều kiện và thủ tục cho vay của từng NHTM. Kiểm tra quá trình cho vay giúp cho ngân hàng nắm được nguyên nhân diễn biến của khoản tín dụng đã cung cấp để có những hành động điều chỉnh hoặc can thiệp khi cần thiết, sớm ngăn ngừa những rủi ro có thể xẩy ra. Việc lựa chọn và áp dụng có hiệu quả các hình thức kiểm tra sẽ thiết lập được một hệ thống phòng ngừa hữu hiệu cho chất lượng tín dụng, góp phần cải thiện chất lượng tín dụng. Thu nợ và thanh lý nợ là khâu quan trọng có tính quyết định đến sự tồn tại của ngân hàng do đó ngân hàng phải tích cực trong công tác thu nợ. Sự nhạy bén của ngân hàng trong việc phát hiện kịp thời những điều kiện bất lợi xảy ra đối với khách hàng cùng những biện pháp xử lý chính xác, đúng lúc sẽ giảm thiểu các khoản nợ quá hạn và điều đó sẽ có tác dụng tích cực đối với chất lượng tín dụng. Sự phối hợp nhịp nhàng giữa các bước trong quy trình tín dụng sẽ tạo điều kiện cho vốn tín dụng được luân chuyển bình thường, theo đúng kế hoạch đã định, nhờ đó đảm bảo chất lượng tín dụng. - Thông tin tín dụng: Thông tin tín dụng có vai trò quan trọng trong quản lý chất lượng tín dụng. Nhờ có thông tin tín dụng, người quản lý có thể đưa ra những quyết định cần thiết có liên quan đến cho vay, theo dõi và quản lý tài khoản cho vay. Thông tin tín dụng có thể thu được từ các nguồn sãn có ở ngân hàng (Hồ sơ vay vốn, thông tin giữa các tổ chức tín dụng, phân tích của cán bộ tín dụng …); từ khách hàng (theo chế độ báo cáo định kỳ hoặc phản ánh trực tiếp); từ các cơ quan chuyên về thông tin tín dụng ở trong và ngoài nước; từ các nguồn thông tin khác (các cơ quan thông tấn, báo chí, toà án). Số lượng, chất lượng của thông tin thu nhận được có liên quan đến mức độ chính xác trong việc phân tích, nhận định thị trường, khách hàng… để đưa ra những quyết định phù hợp. Thông tin càng đầy đủ, nhanh nhạy, chính xác và toàn diện thì khả năng phòng ngừa rủi ro trong hoạt động tín dụng càng lớn, chất lượng tín dụng càng cao. - Kiểm soát nội bộ: Đây là biện pháp giúp cho Ban lãnh đạo ngân hàng có được các thông tin về tình trạng kinh doanh nhằm duy trì có hiệu quả các hoạt động kinh doanh đang được xúc tiến, phù hợp với các chính sách, thực hiện được các mục tiêu đã định. Trong lĩnh vực tín dụng, hoạt động kiểm soát bao gồm: Kiểm soát chính sách tín dụng và các thủ tục có liên quan đến các khoản vay (thẩm quyền về điều hành, quản lý, giám sát các khoản tiền cho vay, hồ sơ, thủ tục cho vay…) Kiểm tra định kỳ do kiểm toán viên nội bộ thực hiện, báo cáo các trường hợp ngoại lệ, những vi phạm chính sách, thủ tục, kiểm soát kế toán và các nghiệp vụ có liên quan đến cho vay. Chất lượng tín dụng tuỳ thuộc vào mức độ phát hiện kịp thời nguyên nhân các sai sót phát sinh trong quá trình thực hiện một khoản tín dụng của công tác kiểm soát nội bộ để có biện pháp khắc phục kịp thời. Để kiểm soát nội bộ có hiệu quả, ngân hàng cần có cơ cấu tổ chức hợp lý, cán bộ kiểm tra phải giỏi nghiệp vụ, trung thực và có chính sách thưởng phạt vật chất nghiêm minh. - Trang thiết bị phục vụ cho hoạt động tín dụng: Để có thể quản và theo dõi có hiệu quả hoạt động tín dụng, song song với việc nâng cao chất lượng công tác hoạch định chính sách, công tác tổ chức quản lý ngân hàng, công tác nhân sự, quản lý quá trình cho vay, công tác thông tin, kiểm soát nội bộ, cần phải chú ý tới các phương tiện cần thiết phục vụ cho quá trình quản lý hoạt động tín dụng. Trang bị đầy đủ trang thiết bị tiên tiến phù hợp với khả năng tài chính và phạm vi, quy mô hoạt động của ngân hàng sẽ giúp cho ngân hàng: Phục vụ kịp thời yêu cầu của khách hàng về tất cả các mặt dịch vụ phục vụ (nhận tiền gửi, cho vay, thu nợ…) với chi phí mà cả hai bên cùng chấp nhận được. Giúp cho các cấp quản lý của NHTM kịp thời nắm bắt tình hình hoạt động tín dụng để điều chỉnh kịp thời cho phù hợp với tình hình thực tế nhằm thoả mãn ngày càng cao yêu cầu của khách hàng. Như vậy, trang thiết bị cũng là một trong các nhân tố không thể thiếu được để không ngừng cải tiến chất lượng tín dụng. Tóm lại: Qua nghiên cứu nội dung các loại nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng ta thấy: Tuỳ theo sự phát triển, điều kiện kinh tế xã hội và sự hoàn thiện môi trường pháp lý của từng nước cũng như khả năng quản lý, cơ sở vật chất kỹ thuật và trình độ cán bộ của từng NHTM mà các nhân tố này có ảnh hưởng khác nhau tới chất lượng hoạt động tín dụng. Vấn đề cơ bản đặt ra là chúng ta phải nắm vững các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng và biết vận dụng sáng tạo sự ảnh hưởng của các nhân tố này trong hoàn cảnh thực tế sẽ tạo điều kiện cho sự thành công của hoạt động tín dụng nói riêng cũng như toàn hệ thống ngân hàng nói chung. Chương 2 THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TẠI CHI NHÁNH NHNO & PTNT QUẢNG AN 2.1. Khái quát về Chi nhánh NHNNo & PTNT Quảng An 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Chi nhánh NHNo & PTNT Quảng An Chi nhánh NHNo & PTNT Quảng An được thành lập theo quyết định số: 306/QĐ/HĐQT-TCCB ngày 16/08/2004 của Chủ tịch Hội đồng Quản trị – NHNo&PTNT Việt nam là Chi nhánh trực thuộc NHNo & PTNT Việt Nam, có trụ sở tại số 296 Nghi Tàm, phường Yên Phụ, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội. Đến tháng 01/2007 được sự chấp thuận của các cơ quan có thẩm quyền, Chi nhánh NHNo & PTNT Quảng An chuyển trụ sở làm việc và giao dịch từ số 296 Nghi Tàm, phường Yên Phụ, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội về làm việc tại số 164 Trần Quang Khải, phường Lý Thái Tổ, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội với nhiệm vụ huy động vốn trong dân cư, các tổ chức và thực hiện những dịch vụ Ngân hàng nhằm mục đích thu lợi nhuận, ổn định và phát triển kinh tế trên địa bàn Thủ đô. Với lợi thế nằm ngay trên quận trung tâm của Thủ đô, nơi tập trung cơ quan đầu não của các Bộ và các doanh nghiệp lớn… Nên mọi thông tin về đường lối phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước đối với Chi nhánh NHNo & PTNT Quảng An rất nhanh chóng và có điều kiện triển khai chiến lược kinh doanh rất kịp thời. Chi nhánh NHNo & PTNT Quảng An có 01 Chi nhánh NHNo & PTNT Tây Hồ trực thuộc Chi nhánh NHNo&PTNT Hà Nội được sát nhập thuộc Chi nhánh sau khi chi nhánh được thành lập và 05 phòng Giao dịch; Phòng Giao dịch Châu Long; Phòng Giao dịch Lạc Long Quân; Phòng Giao dịch Yên Phụ; Phòng giao dịch Phương Mai; Phòng giao dịch số 21; Phòng giao dịch số 22. Do vậy Chi nhánh NHNo & PTNT Quảng An tập trung được mọi điều kiện giao dịch thuận lợi nhất cho khách hàng. 2.1.2. Cơ cấu tổ chức của Chi nhánh NHNo & PTNT Quảng An Sơ đồ bộ máy tổ chức chi nhánh NHNo & PTNT Quảng An (Biểu số 2.1) - Giám đốc: Tại Chi nhánh NHNo & PTNT Quảng An giám đốc là người phụ trách chung, trực tiếp phụ trách phòng Hành chính nhận sự và Phòng kiểm tra kiểm soát nội bộ, ra các quyết định kinh doanh, ký các văn bản, các hợp đồng liên quan đến hoạt động kinh doanh theo uỷ quyền của Tổng Giám đốc NHNo & PTNT Việt Nam. - Phòng tổ chức hành chính nhân sự. Chức năng của phòng hành chính là tham mưu đề xuất cho Giám đốc để bổ nhiệm, bãi miễn, bố trí sắp xếp, tuyển dụng cán bộ phù hợp với hoạt động kinh doanh thực tế tại chi nhánh. Đồng thời liên hệ với các phòng chuyên đề của NHNo & PTNT Việt Nam để tổ chức đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công nhân viên trong Chi nhánh và tổ chức về hoạt động hành chính, công tác hoạt động của cơ quan. - Phòng tín dụng. Là một chi nhánh mới thành lập, hoạt động dịch vụ thanh toán chưa phát triển, thị phần chiếm lĩnh còn thấp. Hoạt động kinh doanh của Chi nhánh NHNo & PTNT Quảng An chủ yếu dựa vào hoạt động tín dụng. Nguồn thu nhâp từ hoạt động tín dụng chiếm đến hơn 90% tổng thu nhập của Ngân hàng. Phòng tín dụng là phòng thực hiện các mục tiêu chiến lược kinh doanh, tăng uy tín và chất lượng phục vụ khách hàng. Với vai trò chủ đạo trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng chức năng của phòng tín dụng đó là: Chỉ đạo nghiên cứu văn bản, hướng dẫn nghiệp vụ Tín dụng cho các cán bộ trong phòng, tìm kiếm mở rộng, phân tích khách hàng để trực tiếp tham gia các hoạt động đầu tư tín dụng và huy động vốn đồng thời cho vay và thu nợ khách hàng có quan hệ tín dụng, theo dõi và quản lý giám sát trong suốt quá trình khách hàng có quan hệ tín dụng. Tổng hợp số liệu để báo cáo lên Ngân hàng cấp trên theo định kỳ. - Phòng ngân quỹ: Chức năng của phòng là tham mưu cho ban giám đốc trực tiếp thực hiện hoạt động ngân quỹ theo quy định, quy chế của NHNN Việt Nam. Tổ chức tốt việc thu, chi tiền cho khách hàng giao dịch tại Chi nhánh. Cuối ngày cộng sổ thu chi đối chiếu với tiền mặt và điều chuyển nộp về NHNN thành phố Hà Nội, đảm bảo an toàn tài sản của cơ quan. - Phòng kế toán: Chức năng nhiệm vụ của phòng là tổ chức thực hiện tốt các nghiệp vụ thanh toán, tài chính hạch toán kế toán theo quy định của NHNo & PTNT Việt Nam. Tổ chức hạch toán phân tích, hạch toán tổng hợp các loại tài khoản về nguồn vốn, các tài khoản về sử dụng vốn của toàn chi nhánh. Theo dõi tiền gửi, của các tổ chức kinh tế giao dịch tại Chi nhánh,...tổ chức thanh toán điện tử trong hệ thống, thanh toán bù trừ với các ngân hàng trên địa bàn. Tham mưu cho Giám đốc công tác kế toán thanh toán, lập kế hoạch tài chính năm, quý, tháng để làm cơ sở cho các bộ phận trong chi nhánh thực hiện, quản lý hướng dẫn công tác kế toán toàn chi nhánh thực hiện quản lý hướng dẫn công tác kế toán toàn chi nhánh. Trực tiếp tham gia công tác huy động nguồn vốn, triển khai các sản phẩm mới cho Chi nhánh. - Phòng Kế hạch nguồn vốn: Tham mưu cho Ban giám đốc xây dựng chiến lược mục tiêu kế hoạch sử dụng vốn của toàn chi nhánh. - Phòng Kiểm tra kiểm soát nội bộ: Có chức năng nhiệm vụ kiểm tra kiểm soát toàn bộ hoạt động nội bộ của chi nhánh và ngăn ngừa những rủi ro có thể xẩy ra. - Phòng thẩm định: Có chức năng nhiệm vụ thẩm định các hồ sơ cho vay vượt quyền phán quyết của Giám đốc chi nhánh hoặc các hồ sơ do Giám đốc chi nhánh chỉ định yêu cầu thẩm định. - Phòng thanh toán quốc tế: Có chức năng nhiệm vụ mở L/C thanh toán xuất, nhập khẩu, chiết khấu bộ chứng từ, mua bán ngoại tệ, theo dõi tỷ giá ngoại tệ hàng ngày của chi nhánh. - Chi nhánh cấp II: Chi nhánh NHNNo & PTNT Tây Hồ thực hiện tất cả các hoạt động dịch vụ Ngân hàng dưới sự chỉ đạo của Giám Đốc - 05 phòng Giao dịch: Phòng Giao dịch Châu Long; Phòng Giao dịch Lạc Long Quân; Phòng Giao dịch Yên Phụ; Phòng giao dịch Phương Mai; Phòng giao dịch số 21; Phòng giao dịch số 22; thực hiện tất cả các hoạt động như một chi nhánh độc lập dưới sự chỉ đạo của Ban Giám đốc. 2.1.3. Hoạt động kinh doanh chủ yếu của Chi nhánh NHNo & PTNT Quảng An Quá trình đổi mới và phát triển của Chi nhánh NHNo & PTNT Quảng An gắn liền với sự đổi mới của hệ thống NHNo & PTNT Việt Nam, là kết quả của quá trình đổi mới và phát triển kinh tế do Đảng và Nhà nước ta khởi xướng và chỉ đạo thực hiện. Chi nhánh NHNo & PTNT Quảng An đã chú trọng đổi mới trong mọi lĩnh vực hoạt động nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu ngày càng tăng của xã hội, vừa phát huy nghiệp vụ cổ truyền của ngân hàng là các hoạt động tín dụng, thanh toán, đồng thời mở rộng sản phẩm mới trong kinh doanh như: Chiết khấu chứng từ, Các nghiệp vụ bảo lãnh, chuyển tiền điện tử... a, Hoạt động huy động vốn Trong những năm qua, trước yêu cầu phát huy các nguồn nội lực cho công cuộc CNH-HĐH đất nước, các NHTM đều nỗ lực tìm kiếm và áp dụng các biện pháp huy động vốn hiệu quả, vì vậy, thị trường vốn diễn ra rất sôi động. Trên địa bàn Hà Nội, các NHTM cạnh tranh gay gắt bằng việc đưa ra các mức lãi suất với nhiều hình thức huy động hấp dẫn. Là một Chi nhánh mới thành lập nên Chi nhánh NHNo & PTNT Quảng An đã nỗ lực trong công tác huy động vốn bằng việc đẩy mạnh tiếp thị quảng cáo trên phương tiện thông tin đại chúng, cử cán bộ xuống địa bàn, thâm nhập vào các tổ chức để phân tích cho khách hàng thấy được những tiện ích khi đến giao dịch tại Chi nhánh. Ngoài ra, Ngân hàng còn áp dụng nhiều biện pháp gửi tiền vừa linh hoạt vừa hiệu quả, đơn giản hoá thủ tục gửi tiền... nhờ vậy mà nguồn vốn của Ngân hàng ngày càng tăng trưởng mạnh góp phần tăng hiệu quả kinh doanh của toàn chi nhánh Cuối năm 2006, nguồn vốn huy động ước tính đạt 2.136.554 so với năm 2005 là 1.211.279 triệu đồng triệu đồng tăng 925.275 triệu đồng tương đương 76%, trong khi đó, năm 2005 so với năm 2004 là 439.927 triệu đồng tăng 727.352 triệu đồng tương đương 175,3%. - Trong đó, phân theo nội - ngoại tệ: nguồn vốn huy động bằng VNĐ năm 2006 đạt 1.976.000 đồng tăng 824.375 triệu đồng tương đương là 71,5% so với năm 2005, trong khi năm 2005 là 1.152.524 triệu đồng so với năm 2004 chỉ tăng khoảng 757.261 triệu tương đương 191.6%; nguồn vốn huy động bằng ngoại tệ năm 2006 là 160.554 tăng 101.799 triệu đồng tương đương 173.3% so với năm 2005, nhưng năm 2005 là 58.757 tăng so với năm 2004 là 14.039 tỷ tương đương 31,6%. Có thể thấy rằng tốc độ tăng vốn huy động ngoại tệ của chi nhánh nhanh hơn tốc độ tăng vốn huy động bằng VNĐ đó là do ảnh hưởng của nền kinh tế trong nước và thế giới đồng Đôla lên giá so với VNĐ. Mỹ liên tục tăng lãi suất USD trên thế giới buộc NHNo cũng phải tăng lãi suất huy động USD của mình. Tuy nhiên, công tác huy động vốn của chi nhánh vẫn được đánh giá là có hiệu quả cao. - Phân theo đối tượng huy động: Huy động từ dân cư năm 2006 đạt 482.967 triệu đồng, tăng 55,4% so với năm 2004, chiếm 22,6% tổng nguồn vốn huy động và nguồn vốn huy động USD từ bộ phận này chiếm trên 43% tổng nguồn vốn huy động vào bằng ngoại tệ. Huy động từ các TCTD năm 2006 đạt 721.048 triệu đồng tăng so với năm 2005 là 117.012 tương đương 19,4 chiếm 33,7% trong tổng nguồn vốn huy động. Còn huy động từ các tổ chức kinh tế đạt 932.539 đồng, tăng 214% so với năm 2005 và chiếm 43,7% trong tổng nguồn vốn huy động. Kết quả cho thấy tình hình huy động vốn từ dân cư tăng nhanh song vẫn còn chiếm tỷ trọng nhở trong tổng nguồn vốn huy động. Do vậy Ngân hàng cần đẩy mạnh công tác tiếp thị quảng cáo để thu hút hút vốn từ dân cư do đây là nguồn vốn giá rẻ, ổn định thuận tiện cho việc đầu tư kinh doanh của Ngân hàng. Nguồn vốn huy động từ tổ chức kinh tế của Chi nhánh NHNo & PTNT Quảng An rất tốt vì nguồn vốn này có lượng vốn không kỳ hạn lớn đặc biệt các khách hàng là tổ chức kinh tế còn có thể mang lại cho Ngân hàng lợi nhuận từ việc thu phí thanh toán chuyển tiền… Biểu số 2.2: Tình hình huy động vốn của CN NHNo& PTNT Quảng An Đơn vị: Triệu đồng - quy VNĐ Nguồn vốn Huy động Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 05/04 06/05 VNĐ 395.263 1.152.524 1.976.000 191,6% 71,5% USD 44.664 58.757 160.554 31,6% 1.73% Tổng- quy VNĐ 439.927 1.211.279 2.136.554 175,3% 76,4% (Nguồn: Báo cáo hoạt động KD của CN NHNo & PTNT Quảng An từ năm 2004-2006) Như vậy, năm 2006 tổng nguồn vốn tăng so với năm 2005 là 925.275 triệu đồng, mức tăng 76,3%. Trong thời gian qua công tác huy động vốn nội tệ ở các NHTM nói chung là rất khó khăn, điều này ảnh hưởng lớn về vốn kinh doanh: Trước tình hình đó, để giữ vững nguồn vốn, chi nhánh Chi nhánh NHNo & PTNT Quảng An luôn quan tâm tới việc nâng cao chất lượng nghiệp vụ huy động vốn: thường xuyên chỉ đạo cán bộ công nhân viên thực hiện tốt quy chế, lề lối làm việc, đặc biệt là chú trọng xây dựng văn hoá giao dịch với khách hàng, thường xuyên phát động các đợt thi đua huy động vốn, áp dụng các biện pháp tiếp thị khách hàng mới, chăm sóc khách hàng truyền thống như: áp dụng lãi suất huy động linh hoạt và hợp lý, tặng quà khuyến mại, thực hiện thu- chi tiền lưu động theo yêu cầu của khách hàng, ký kết các hợp đồng gửi tiền, đảm bảo thực hiện thanh toán nhanh, chính xác, an toàn cho khách hàng. b, Hoạt động cho vay Trong những năm gần đây, với sự lợi thế về nhiều mặt, chi nhánh đã thu hút được khá nhiều khách hàng nằm trên địa bàn Thủ đô, trong đó có nhiều khách hàng thuộc các Tổng Công ty 90, 91 và các đơn vị thành viên như Tổng Công ty Muối - Công ty Xuất Nhập Khẩu Tổng Hợp ... Ngoài ra Chi nhánh đã đầu tư cho nhiều Công ty Cổ phần, Công ty TNHH, Hộ kinh doanh cá thể như Công ty Cổ phần BOT Quốc Lộ 2, Công ty CPTM Bình Phát, Công ty Cổ Phần TM và Tư vấn Tân Cơ, Công ty CPTB Công nghiệp và Xây dựng, Nhà máy Xi Măng Hạ Long … Đây là những khách hàng có tiềm lực tài chính mạnh và có hiệu quả kinh doanh cao nên trong thời gian vừa qua Chi nhánh NHNo & PTNT Quảng An đã đạt được kết quả cho vay khả quan, thể hiện trong bảng sau: Biểu số 2.3: Tình hình tín dụng của Chi nhánh NHNo & PTNT Quảng An năm 2004-2006 Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 So sánh 06/04 Số tiền TLệ% Số tiền TLệ% Số tiền TLệ% Số tiền Lần Tổng dư nợ tín dụng 216.000 100 401.331 100 670.000 100 454.000 3.1 1. Ngắn hạn 155.000 72 326.711 81 537.300 72 382.300 3.5 2. Trung - dài hạn 61.000 28 74.620 19 132.700 28 71.700 2.2 (Nguồn: Báo cáo Kết quả KD Chi nhánh NHNo & PTNT Quảng An năm 2004-2006) Tổng dư nợ tín dụng của Chi nhánh NHNo & PTNT Quảng An tăng đều qua các năm đặc biệt năm 2006 có sự tăng trưởng mạnh mẽ tổng dư nợ năm 2006 tăng gấp 3.1 lần so với năm 2004 trong đó: + Dư nợ tín dụng ngắn hạn qua các năm liên tục tăng cả về số tương đối và số tuyệt đối (155.000 triệu đồng năm 2004 chiếm 72% tổng dư nợ tín dụng lên 326.711 triệu đồng năm 2005 - 81% tổng dư nợ tín dụng và tiếp tục tăng lên 537.300 triệu đồng năm 2006- 72%), cho thấy Chi nhánh NHNo & PTNT Quảng An đã chú trọng công tác marketing, phục vụ tốt khách hàng sẵn có, mở rộng tìm kiếm khách hàng mới. Thực hiện chính sách khách hàng trên cơ sở các chỉ tiêu phân loại đánh giá khách hàng, xây dựng và thực hiện cho vay theo hợp đồng khung, hợp đồng hạn mức tín dụng thường xuyên, giảm thiểu hồ sơ thủ tục vay vốn nhưng vẫn đảm bảo an toàn tín dụng, áp dụng nhiều hình thức cho vay linh hoạt, cải tiến và nâng cao chất lượng giao dịch. Kết quả có nhiều khách hàng có doanh số và dư nợ thường xuyên lớn như : Tổng Công ty 90, 91 và các đơn vị thành viên như Tổng Công ty Muối - Công ty Xuất Nhập Khẩu Tổng Hợp ... Ngoài ra Chi nhánh đã đầu tư cho nhiều Công ty Cổ phần, Công ty TNHH, Hộ kinh doanh cá thể như Công ty Cổ phần BOT Quốc Lộ 2, Công ty CPTM Bình Phát, Công ty Cổ Phần TM và Tư vấn Tân Cơ, Công ty CPTB Công nghiệp và Xây dựng, Nhà máy Xi Măng Hạ Long, Công ty Cổ phần Cơ điện Hà Giang, Công ty cổ phần Xây dựng Hạ Tầng Thanh Xuân… + Xác định tín dụng trung - dài hạn là hoạt động cần được quan tâm và phát huy trong tương lai, Chi nhánh NHNo & PTNT Quảng An đã không ngừng nâng cao chất lượng các hoạt động ngân hàng để có thể đáp ứng tôt nhất nhu cầu tín dụng của khách hàng về các khoản vốn tín dụng trung và dài hạn. Dư nợ tín dụng trung và dài hạn thương mại liên tục tăng do khách hàng ngày càng tin tưởng hơn vào các chính sách, tiện ích mà ngân hàng mang lại cho họ khi tiến hành vay vốn. Dư nợ tín dụng trung dài hạn tăng liên tục qua các năm 2004 là 61.000 triệu đồng, năm 2005 là 74.620 tỷ triệu đồng, năm 2006 là 132.700 triệu đồng, tương ứng chiếm 28% - 19% - 28%). Ngân hàng đã không ngừng hoàn thiện các nghiệp vụ, nâng cao trình độ cán bộ và chất lượng các dịch vụ ngân hàng để phục vụ cho các khách hàng có nhu cầu vay vốn tín dụng trung và dài hạn thương mại để tăng tính cạnh tranh và doanh thu của ngân hàng so với các ngân hàng khác trên cùng địa bàn. Ngay từ đầu, Chi nhánh NHNo & PTNT Quảng An đã triển khai tích cực công tác tín dụng đầu tư, chủ động tìm kiếm các dự án khả thi, tiếp xúc và làm việc với các doanh nghiệp nhanh chóng hoàn thành hồ sơ để có thể ký hợp đồng tín dụng. Qua số liệu trên thấy tổng dư nợ của Chi nhánh tăng nhanh qua các năm thể hiện bước chuyển mình rõ rệt của Chi nhánh trong việc mở rộng và tăng cường hoạt động cho vay trên cơ sở nguồn vốn tự chủ của mình c, Một số hoạt động kinh doanh khác Nhằm tăng hơn nữa hiệu quả kinh doanh Ngân hàng, đẩy mạnh cung cấp dịch vụ Ngân hàng cung cấp một cách tốt nhất nhu cầu khách hàng, quảng bá rộng rãi thuơng hiệu Quảng An. Chi nhánh NHNo & PTNT Quảng An đã đẩy mạnh phát triển các dịch vụ kinh doanh, thanh toán cụ thể: - Kinh doanh đối ngoại: Trong quá trình hội nhập nền kinh tế hoạt động kinh xuất nhập khẩu phát triển nhiều doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng ngoại tệ trong thanh toán. Đặc biệt khi hệ thống chuyển tiền điện tử Westen Union mở rộng ra toàn bộ chi nhánh NHNo thì hoạt động mua bán ngoại tệ cũng là một yếu tố làm tăng nguồn thu cho Ngân hàng. Đồng thời đa dạng hơn các dịch vụ Ngân hàng đáp ứng yêu cầu đa dạng của khách hàng khi đến giao dịch với Chi nhánh + Nghiệp vụ mua bán ngoại tệ: Chi nhánh NHNo & PTNT Quảng An chỉ được phép mua ngoại tệ rồi bán về cho Ngân hàng cấp trên chứ không được bán ra ngoài, doanh số mua bán trong các năm qua chi nhánh đạt tương đối cao. +/ Doanh số mua ngoại tệ: Năm 2005 đạt 10,850 triệu USD tăng 87% so với năm 2004, năm 2006 đạt 16,817 triệu USD tăng 55% so với năm 2005. +/ Doanh số bán ngoại tệ: Năm 2005 đạt 10,746 triệu USD tăng 75% so với năm 2004, năm 2006 đạt 16,764 triệu USD tăng 56% so với năm 2005. - Nghiệp vụ thanh toán quốc tế: Nghiệp vụ này Chi nhánh Quảng An được độc lập thực hiện do đó được hưởng một phần phí, lãi cho vay (nếu khách hàng nhận nợ) và tận dụng nguồn vốn ký quỹ của khách hàng nên thu nhập từ nghiệp vụ này cho Chi nhánh tương đối tốt. Hiện nay, Chi nhánh đã có những khách hàng truyền thống trong dịch vụ thanh toán quốc tế như Công ty TNHH Tùng Lâm, Chi nhánh Công ty nuôi trồng Thủy Sản, công ty CMS…. +/ Thanh toán nhập khẩu: Năm 2005 đạt 5,708 triệu USD tăng 37% so với năm 2004, năm 2006 đạt 7,079 triệu USD tăng 24% so với năm 2005. +/ Thanh toán hàng xuất khẩu: Năm 2005 đạt 2,712 triệu USD tăng 45% so với năm 2004, năm 2006 đạt 3,363 triệu USD tăng 24% so với năm 2005. +Nghiệp vụ kiều hối: Thực hiện dịnh vụ chi trả kiều hối với chất lượng cao, Năm 2004 nhận và chi trả 75 món số tiền là 112.500 USD, Năm 2005 là 114 món số tiền là 255.993USD, năm là 273 món, số tiền 302.743 USD, đảm bảo an toàn, thuận tiện, nhanh chóng cho khách hàng. - Công tác thanh toán - điện toán: + Trong năm 2006, thực hiện trên 18.794 món số tiền: 10.366 triệu đồng thanh toán, chuyển tiền thông qua hệ thống thanh toán điện tử nội bộ, thanh toán điện tử liên ngân hàng được thực hiện tốt, đảm bảo luân chuyển vốn cho khách hàng nhanh chóng, thuận lợi và hiệu quả, Dịch vụ thanh toán chuyển tiền ra nước ngoài năm 2006 thực hiện 98 món số tiền: 4.381.835 USD. + Chi nhánh luôn chấp hành nghiêm túc chế độ tài chính, kế toán về chi tiêu nội bộ, mua sắm bảo dưỡng, sửa chữa tài sản, trích khấu hao tài sản cố định, quản lý kiểm soát các khoản chi phí chặt chẽ… + Chi nhánh được NHNo & PTNT Việt Nam trang bị đầy đủ các trang thiết bị cần thiết để phục vụ giao dịch nhằm đảm bảo thực hiện tốt công tác tổng hợp, truyền nhận file, đảm bảo đến 8h/ ngày làm việc kế tiếp đã có số liệu tổng hợp của ngày hôm trước. + Chi nhánh đã và đang tích cực, chủ động và sẵn sàng thực hiện chương trình hiên đại hoá ngân hàng theo chỉ đạo của NHNo & PTNT Việt Nam. Cụ thể năm 2005 và 2006, Chi nhánh đã tạo điều kiện tổ chức cho 100% cán bộ đi học lớp WB, Western Union, Chuyển tiền điện tử … - Công tác ngân quỹ: + Năm 2005 tổng thu đạt 73.353 triệu đồng tăng 41.332 triệu đồng, tỷ lệ tăng 129% so với năm 2004; tổng chi 61.084 triệu đồng tăng 32.484 triệu đồng, tỷ lệ tăng 136%. Năm 2006 tổng thu VNĐ đạ158.829 triệu đồng, tăng 85.476 triệu đồng, tỷ lệ tăng 116,5% so với năm 2005; tổng chi VNĐ đạt 128.749 tiệu đồng, tăng 67.665 triệu đồng, tỷ lệ tăng 110.8% so với năm 2005. + Khối lượng tiền mặt VND và các loại ngoại tệ chu chuyển qua quỹ lớn, tăng khá so với những năm trước nhưng luôn đảm bảo an toàn, chính xác không phải khất chi với khách hàng, công tác phân loại, bó tiền …được thực hiện đúng chế độ. + Đã phát hiện lập biên bản thu giữ 35 tờ tiền giả các loại, trả lại 8 món tiền khách hàng nộp thừa trị giá 15.000.000 đồng. Đây là yếu tố quan trọng trong việc xây dựng và nâng cao uy tín của ngân hàng trong điều kiện cạnh tranh gay gắt trong cơ chế thị trường mở. - Hoạt động phát triển dịch vụ ngân hàng: + Dịch vụ thẻ ATM: Năm 2006, được sự giúp đỡ của NHNo & PTNT Việt Nam, Chi nhánh NHNo & PTNT Quảng An đã đẩy mạnh công tác tiếp thị, ký các hợp đồng chi hộ lương qua máy ATM, ký các hợp đồng mở thẻ ATM cho các doanh nghiệp, trường học trên địa bàn Thủ đô, và các khu vực lân cận khác, đến nay đã mở được trên 1.179 thẻ ATM tăng 65% so với năm 2005, hiện Chi nhánh NHNo&PTNT Quảng An có 04 máy ATM. + Dịch vụ chuyển tiền nhanh Western Union: Dịch vụ này đang từng bước được khách hàng sử dụng nhiều, năm 2006 đã chi trả được 273 món trị giá 302.743 USD, tăng 100 món so với cùng kỳ năm 2005. + Dịch vụ thu - chi theo yêu cầu: Dịch vụ này thu - chi tiền lưu động, chi tiền, chi hộ lương tại các cơ quan, đơn vị của khách hàng tiếp tục được duy trì và thực hiện tốt, được nhiều bạn hàng tín nhiệm, bình quân mỗi tháng chi khoản 100 tỷ đồng. 2.2. Thực trạng chất lượng tín dụng tại Chi nhánh NHNo & PTNT Quảng An 2.2.1. Quy mô tín dụng Chi nhánh NHNo & PTNT Quảng An là đơn vị mới được thành lập theo Quyết định số: 306/QĐ-HĐQT ngày 16 tháng 8 năm 2004, nhưng do phải chuẩn bị các điều kiện và thủ tục pháp lý cần thiết cho hoạt động Ngân hàng, nên thực tế Chi nhánh hoạt động kinh doanh chính thức bắt đầu từ ngày 19 tháng 11 năm 2004. Hoạt động tín dụng chủ yếu nhận bàn giao từ chi nhánh NHNo & PTNT Tây Hồ (nhận bàn giao Chi nhánh NHNo & PTNT Hà Nội). Song bằng sự có gắng nỗ lực còn toàn bộ cán bộ nhân viên trong chi nhánh Chi nhánh NHNo & PTNT Quảng An đã đạt được kết quả đáng khâm phục trong hoạt động kinh doanh . Cụ thể: Biểu số 2.4: Quy mô tín dụng CN NHNo & PTNT Quảng An 2004-2006 Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 So sánh 2005/2004 So sánh 2006/2005 ± % ± % 1. Doanh số cho vay 317.215 844.149 1.920.307 526.934 166,1 1.076.158 127 2. Doanh số thu nợ 189.342 658.818 1.651.638 469.476 248 1.134.620 219 3. Dư nợ cho vay 216.000 401.331 670.000 185.331 85,8 268.669 66,9 (Nguồn: Báo cáo tài chính Chi nhánh NHNo & PTNT Quảng An 2004-2006) Trong biểu 2.4 ta thấy tổng dư nợ năm 2005 tăng 85,8% so với năm 2004, năm 2006 tăng 66,9% so với năm 2005. Mặt khác, nếu xem xét trên doanh số cho vay ta nhận thấy nguồn tiền cho vay phát ra liên tục tăng một cách tuyệt đối trong các năm. Năm 2005 tăng 166,1% so với năm 2004, năm 2006 tăng 127% so với năm 2005. Những con số này đã phần nào thể hiệ được sự tăng trưởng mạnh mẽ quy mô tín dụng của Chi nhánh NHNo & PTNT Quảng An trong những năm gần đây. 2.2.2 Cơ cấu tín dụng Với quy mô tín dụng có sự tăng trưởng như đã phân tích ở trên, hoạt động tín dụng được đánh giá là hiệu quả thực sự hay không còn được phản ánh thông qua các chỉ tiêu về cơ cấu tín dụng. Cụ thể: a, Cơ cấu tín dụng theo thành phần kinh tế Thông qua việc xem cơ cấu tín dụng theo thành phần kinh tế để thấy được tỷ trọng cho vay của Ngân hàng đối với thành phần kinh tế nào chiếm vại trí chủ đạo từ đó có thể đánh giá được xu hướng phát triển tín dụng của Ngân hàng đối với từng khu vực kinh tế, xu hướng này có phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước và chủ trương lãnh đạo của Đảng hay không. Nếu đó là sự phù hợp sẽ làm tăng đáng kể chất lượng tín dụng của Ngân hàng. Biểu số 2.5: Tình hình sử dụng vốn phân theo thành phần kinh tế Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 So sánh 05/04 So sánh 06/05 Số tiền % Số tiền % Số tiền % +/- % +/- % 1. Doanh số cho vay 317.215 844.149 1.920.307 526.934 166 1.076.158 127 Doanh nghiệp Quốc doanh 35.134 11,1 90.000 10,7 120.000 6,2 54.866 156,2 30.000 33,3 Ngoài Q D 242.081 76,3 664.149 78,6 1.700.307 88,5 422.068 174,3 1.036.158 156 Hộ sản xuất kinh doanh 40.000 12,6 90.000 10,7 100.000 5,3 -31.000 -77,5 10.000 11,1 2. Doanh số thu nợ 189.342 658.609 1.651.638 469.267 247,8 992.820 151 Doanh nghiệp Quốc doanh 5.654 3.1 10.000 1,5 119.300 7,2 4.346 76,9 98.400 471 Ngoài Q D 157.432 83 638.609 97 1.443.807 87,4 481.177 305,6 895.558 163 Hộ sản xuất kinh doanh 26.256 13,9 10.000 1,5 88.531 5,4 -16.256 -69,1 -1.138 -1,3 3. Dư nợ cho vay 216.000 401.331 670.000 185.331 85,8 268.669 66,9 Doanh nghiệp Quốc doanh 23.400 10,8 92.500 23 93.200 13,9 69.100 295,3 700 0,75 Ngoài QD 155.600 72 271.500 67,7 528.000 78,8 115.900 74,5 256.5000 94,4 Hộ sản xuất kinh doanh 37.000 17,2 37.331 9,3 48.800 7,3 331 0,9 11.469 30,7 (Nguồn: Báo cáo tài chính Chi nhánh NHNo & PTNT Quảng An 2004-2006) Dư nợ cho vay các khoản đầu tư đến 31/10/2005 là 401.331 triệu đồng tăng 185.331 triệu đồng so với cùng kỳ năm 2004, tỷ lệ tăng 85,8%; đến 31/12/2006 dư nợ đạt 670.000 triệu đồng tăng 268.669 triệu đồng so với cùng kỳ năm 2005, tỷ lệ tăng 66,9%. Doanh số cho vay năm 2005 tăng 526.934 triệu đồng so với năm 2004, tỷ lệ tăng 166% so với năm 2004; năm 2006 tăng 1.076.158 triệu đồng so với năm 2005, tỷ lệ tăng 127% so với năm 2005. Nguyên nhân tăng: để đảm bảo tài chính và chỉ tiêu kế hoạch do NHNo & PTNT Việt Nam giao Chi nhánh tập trung đẩy mạnh cho vay đặc biệt là khách hàng ngoài quốc doanh, hộ kinh doanh. Doanh số thu nợ năm 2005 tăng 469.267 triệu đồng so với năm 2004, tỷ lệ tăng 247,8%; Năm 2006 tăng 992.820 triệu đồng so với năm 2005, tỷ lệ tăng 151%. Qua biểu trên ta còn thấy được chiến lựợc phát triển hoạt động tín dụng của Chi nhánh NHNo & PTNT Quảng An là tập trung phát triển thị trường ở khu vực các doanh nghiệp ngoài quốc doanh như công ty cổ phần, công ty TNHH, và doanh nghiệp tư nhân. Ngoài ra còn do sự tác động khách quan của nhân tó bên ngoài nên tỷ trọng cho vay thu nợ và dư nợ của các donh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm tỷ trọng cao, chiếm khoảng 76%. Đó là do - Sự ảnh hưởng của luật doanh nghiệp đã đẩy mạnh việc thành lập các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, kéo theo nhu cầu vay vốn của khối này tăng lên. - Cơ chế cho vay được nới lỏng, mở rộng hơn cho thành phần kinh tế ngoài quốc doanh và chủ trương của Nhà nước trong thời gian qua là quan tâm, hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ không phân biệt là DNNN hay DNNQD. Còn đối với các doanh nghiệp nhà nước và hộ kinh doanh cá thể dư nợ có tăng nhưng tốc độ tăng thấp điều này cũng phù hợp với xu thế phát triển nền kinh tế khi mà các doanh nghiệp nhà nước làm ăn ngày càng kém hiệu quả so với các đơn vị ngoài quốc doanh. Đối với các hộ kinh doanh cá thể khi họ có đủ tiềm lực tài chính họ sẽ phát triển thành các doanh nghiệp để có thể hưởng lợi ích nhiều hơn trong hoạt động kinh doanh của bản thân. Điều này cũng phản ánh được tính năng động trong hoạt động tín dụng của Chi nhánh Để đạt được kết quả như trên Chi nhánh NHNo & PTNT Quảng An luôn chấp hành nghiêm túc chỉ đạo của NHNo & PTNT Việt Nam: xây dựng mức tăng trưởng tín dụng phù hợp với tình hình cụ thể của chi nhánh, đồng thời tập trung nâng cao chất lượng vốn đầu tư, đôn đốc thu róc nợ gốc, lãi đến hạn, hạn chế tối đa nợ xấu, không để phát sinh nợ quá hạn kéo dài. Chấp hành nghiêm túc quy chế, quy trình nghiệp vụ tín dụng và sự chỉ đạo điều hành của NHNo &PTNT Việt Nam; tập trung mọi biện pháp nâng cao chất luợng tín dụng đặc biệt là cho vay trung và dài hạn. b, Cơ cấu tín dụng theo thành thời hạn vay Trong hoạt động tín dụng ngân hàng, cho vay ngắn hạn là nguồn vốn đáp ứng nhu cầu tạm thời cho các khách hàng, các khoản cho vay ngắn hạn được coi là có tính thanh khoản cao hơn các khoản cho vay trung- dài hạn song khoản lợi nhuận mà nó mang lại cho ngân hàng lại không cao. Ngược lại các khaỏn cho vay trung – dài hạn thường đem lại nguồn thu lợi nhuận cao hơn cho Ngân hàng nhưng việc thẩm định các dự án trung dài hạn thường gặp nhiều khó khăn do hạn chế về trình độ chuyên môn trong thẩm định của các cán bộ tín dụng, việc quản lý các khoản nợ trung và dài hạn cũng gặp nhiều khó khăn do chịu sự ảnh hưởng và tác động của nhiều nhân tố. Do vậy, để đảm bảo an toàn nguồn vốn thanh toán, thu được lợi nhuận tối đa trong hoạt động tín dụng mỗi Ngân hàng phải luôn lập và theo dõi các chỉ tiêu kế hoạch kinh doanh sử dụng vốn theo thời gian phù hợp, cân đối với thời gian của nguồn vốn huy động được. Tại Chi nhánh NHNo & PTNT Quảng An tình hình sử dụng vốn theo thời gian được thể hiện cụ thể: Biểu số 2.6: Tình hình sử dụng vốn phân theo thời gian. Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2004 Tỷ trọng Năm 2005 Tỷ trọng Năm 2006 Tỷ trọng 05/04 06/05 ± % ± % 1. Doanh số cho vay 317.215 100 844.149 100 1.920.307 100 526.934 166 1.076.158 127 - Ngắn hạn 274.357 86.4 764.149 90.5 1.720.307 89.6 489.792 178 956.158 125 - Trung và dài hạn 42.858 13.6 80.000 9.5 200.000 11.4 37.142 87 120.000 150 2. Doanh số thu nợ 189.342 100 658.818 100 1.651.638 100 469.476 248 1.134.620 219 - Ngắn hạn 171.321 90.5 592.418 89.9 1.509.638 91.4 281.097 164 1.057.220 234 - Trung và dài hạn 18.021 9.5 66.400 11.1 142.000 9.6 46.579 259 77.400 120 3. Dư nợ cho vay 216.000 100 401.331 100 670.000 100 185.331 86 268.669 66,9 - Ngắn hạn 155.000 71.7 326.731 81.4 537.400 80.2 171.731 111 210.669 64,4 - Trung và dài hạn 61.000 28.3 74.600 19.6 132.600 19.8 13.600 22 58.000 77,7 (Nguồn: Báo cáo tài chính Chi nhánh NHNo & PTNT Quảng An 2004-2006) Có thể thấy trong những năm gần đây tại Chi nhánh NHNo & PTNT Quảng An, phần lớn doanh số cho vay là các khoản ngắn hạn, tỷ trọng này qua các năm đều chiếm trên 85%. Năm 2006 là năm đánh dấu sự dồi dào trong nguồn vốn huy động nên quy mô cho vay cũng được mở rộng và tăng mạnh: trong khi năm 2005 so với năm 2004, doanh số cho vay chỉ tăng 526.934 triệu đồng (trong đó số tăng ngắn hạn là 489.792 triệu đồng, số tăng trung-dài hạn là 37.142 triệu đồng) nhưng đến năm 2006, doanh số cho vay đạt tới 1.920.307 triệu đồng tức là so với năm 2005 tăng khoảng 1.076.158 triệu đồng (trong đó doanh số cho vay ngắn hạn tăng 956.178 triệu đồng, trung- dài hạn tăng 120.000 triệu đồng). Dư nợ chủ yếu của Chi nhánh NHNo & PTNT Quảng An là cho vay ngắn hạn, việc phát triển và đầu tư cho các dự án trung và dài hạn còn rất khiêm tốn chỉ chiếm khoảng trên 20% tổng dư nợ. Điều này chứng tỏ chi nhánh chưa nâng cao khả năng tím kiếm các dự án đầu tư dài hạn có hiệu quả, việc thẩm định các dự án đầu tư của Chi nhánh chưa được sâu. Thể hiện tiến trình giải ngân các dự án còn chậm như dự án cải tạo nâng cấp quốc lộ 2, dự án xây dựng nhà máy xi măng Hạ Long. Chi nhánh cần đẩy mạnh hơn nữa tiến độ giải ngân các dự án trung và dài hạn nhằm tăng chất lượng tín dụng cho vay trung và dài hạn. Nếu xét mối tương quan giữa thời hạn nguồn vốn huy động và thời hạn cho vay ta thấy rõ được sự mất cân đối trong việc sử dụng nguồn để phát triển tín dụng của Chi nhánh. Cụ thể: Biểu số 2.7: Quan hệ giữa thời hạn huy động vốn và thời hạn cho vay Đơn vị: Triệu đồng Năm Ngắn hạn Trung và dài hạn HĐV Cho vay Tỷ lệ tài trợ HĐV Cho vay Tỷ lệ tài trợ 2004 269.000 274.357 98% 170.921 42.858 399% 2005 846.500 764.149 111% 364.779 80.000 456% 2006 414.000 1.634.002 25% 1.722.544 12.000 14355% (Nguồn: Báo cáo tài chính Chi nhánh NHNo & PTNT Quảng An 2004-2006) Trong quản trị Ngân hàng việc sử dụng vốn ngắn hạn để cho vay trung - dài hạn mang lại nhiều lợi nhuận do lãi suất huy động ngắn hạn thấp, lãi suất cho vay trung và dài hạn cao. Biên độ chênh lệch lãi suất là rất lớn. Nhưng điều này đồng nghĩa với việc Ngân hàng phải chịu nhiều rủi ro về khả năng thanh toán. Tuy nhiên theo biểu số 2.7 ta nhận thấy tại Chi nhánh NHNo & PTNT Quảng An nguồn huy động vốn ngắn hạn của Chi nhánh đã giảm cụ thể năm 2005 là 846.500triệu đồng, năm 2006 chỉ đạt 414.000 triệu đồng. Nguồn vốn dài hạn thì lại tăng rõ rệt như năm 2004 là 170.921 triệu đồng, năm 2005 là 364.779 triệu đồng tăng so với năm 2004 là 113%, đến năm 2006 là 1.722.544 triệu đồng tăng so với năm 2005 là 372%. Nguồn vốn dài hạn của chi nhánh năm 2006 đặc biệt tăng nhanh là do chi nhánh đã thực hiện các đợt phát hành kỳ phiếu, sổ tiết kiệm dự thưởng và trái phiếu Agribank với lãi suất cao trả trước. Nhưng thực tế lượng cho vay trung dài hạn có tăng lên về số tuyệt đối nhưng mức tăng còn quá thấp so với mức tăng nguồn. Chi nhánh NHNo & PTNT Quảng An đã dùng nguồn vốn trung và dài hạn để cho vay ngắn hạn điều đó đã làm giảm đáng kể lượng doanh thu từ hoạt động tín dụng của Chi nhánh. c, Cơ cấu tín dụng theo tài sản đảm bảo Tài sản đảm bảo không phải là yếu tố kiên quyết khi ra quyết định cho vay nhưng đó là nguồn thu thứ hai sau nguồn thu thứ nhất từ phương án cho vay khi rủi ro tín dụng xảy ra. Đồng thời đây cũng là một nhân tố để thúc để ràng buộc khách hàng có trách nhiệm hơn đối với khoản nợ vay Ngân hàng. Đối với một Ngân hàng mới thành lập như Chi nhánh NHNo & PTNT Quảng An việc xem xét cho vay theo tài sản đảm bảo là rất quan trọng vì Ngân hàng mới thành lập chưa có khách hàng truyền thống có uy tín trên 3 năm quan hệ với Ngân hàng nên hoạt động cho vay tín chấp không đảm bảo bằng tài sản là rất khó khăn và sẽ ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng tín dụng của Ngân hàng Biểu số 2.8: Cơ cấu tín dụng theo tài sản đảm bảo Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Số tiền % Số tiền % Số tiền % Tổng dư nợ 216.000 100 401.331 100 670.000 100 Cho vay có TSĐB 197.534 91.5 368.397 91,8 471.735 70,4 +TSĐB hình thành từ vốn vay 72.121 33.4 96.357 24 218.325 32,6 + TSĐB khác 125.413 58,1 272.040 67,8 253.410 37,8 Cho vay không có TSĐB 18.466 8.5 32.934 8,2 198.265 29.6 (Nguồn: Báo cáo tài chính Chi nhánh NHNo & PTNT Quảng An 2004-2006) Do Chi nhánh NHNo & PTNT Quảng An là một chi nhánh mới thành lập nên dư nợ cho vay không đảm bảo bằng tài sản là thấp bởi khi xét duyệt cho vay không đảm bảo tài sản thì khách hàng phải đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về dự án khả thi, khả năng hoàn trả, tiềm lực tài chính và điều đặc biệt quan trọng đó là uy tín đối với Ngân hàng. Sang năm 2006 ta thấy dư nợ cho vay không đảm bảo trong tài sản của Chi nhánh đã tăng một cánh nhanh chóng chiếm 29,6% trong tổng dư nợ thấy được việc xác định khách hàng truyền thống và có uy tín của Ngân hàng đã được chú trọng. Tuy nhiên ở đây ta nhận thấy tỷ trọng cho vay có tài sản đảm bảo bằng tài sản hình thành từ vốn vay là cao. Tài sản hình thành bằng vốn vay ở đây chủ yếu là dây truyền máy móc thiết bị của các doanh nghiệp sản xuất. Trên thực tế việc thanh lý các tài sản đảm bảo hình thành từ vốn vay là máy móc rất khó khăn do việc tìm kiếm người có nhu cầu là rất khó điều đó ảnh hưởng nhiều đến chất lượng tín dụng của chi nhánh, rủi ro trong hoạt động tín dụng là cao 2.2.3. Thu nhập hoạt động tín dụng Thu nhập luôn là mục tiêu, cái đích cuối cùng mà bất cứ một doanh nghiệp kinh doanh nào cũng đều phải hướng tới. Thông qua thu nhập người ta có thể đánh giá toàn bộ quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đối với các NHTM cũng vậy trên cơ sở kinh doanh tiền và cung cấp các dịch vụ thanh toán thì thu nhập được xem là yếu tố quyết định, then chốt có ảnh hưởng tới toàn bộ kế hoạch kinh doanh và định hướng phát triển của Ngân hàng trong tương lai. Hoạt động tín dụng là hoạt động kinh doanh chủ yếu của các Ngân hàng thương mại Việt Nam, tạo nguồn thu lớn nhất trong tổng thu của Ngân hàng thương mại.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxThS23.docx
Tài liệu liên quan