Tài liệu Đề tài Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-Xã hội: MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
Trong quan niệm trước đây ở nước ta về quá trình công nghiệp hóa,vai trò của con người mặc dù đã được đề cao ở mức độ đáng kể,song con người với tất cả tiềm năng,hiện trạng và sức mạnh của mình thì lại chưa được nhìn nhận như là một nguồn lực của bản thân quá trình công nghiệp.Do vậy,trên thực tế trong một thời gian tương đối dài con người đã vô tình bị đặt ra ngoài hệ thống các nguồn lực nội tại của sự phát triển.Đây là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm cho quá trình phát triển kinh tế xã hội nước ta trước đây thiếu động lực và đạt kết quả rất hạn chế.
Ngày nay,do sự tác động chi phối bởi những đặc điểm mới của thời đại và do những nhu cầu của sự phát triển đất nước,cũng với những bài học rút ra từ thực tiễn và qua kinh nghiệm của nhiều nước,trong thực tiễn cũng như trong lý luận,đã có sự thay đổi đáng kể về nội dung và giải pháp.Vị trí và đặc điểm của nguồn nhân lực cũng được nhìn nhận lại,trong đó con người được coi vừa là nguồn lực nội tại,cơ bản,quyết...
38 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 990 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-Xã hội, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
Trong quan niệm trước đây ở nước ta về quá trình công nghiệp hóa,vai trò của con người mặc dù đã được đề cao ở mức độ đáng kể,song con người với tất cả tiềm năng,hiện trạng và sức mạnh của mình thì lại chưa được nhìn nhận như là một nguồn lực của bản thân quá trình công nghiệp.Do vậy,trên thực tế trong một thời gian tương đối dài con người đã vô tình bị đặt ra ngoài hệ thống các nguồn lực nội tại của sự phát triển.Đây là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm cho quá trình phát triển kinh tế xã hội nước ta trước đây thiếu động lực và đạt kết quả rất hạn chế.
Ngày nay,do sự tác động chi phối bởi những đặc điểm mới của thời đại và do những nhu cầu của sự phát triển đất nước,cũng với những bài học rút ra từ thực tiễn và qua kinh nghiệm của nhiều nước,trong thực tiễn cũng như trong lý luận,đã có sự thay đổi đáng kể về nội dung và giải pháp.Vị trí và đặc điểm của nguồn nhân lực cũng được nhìn nhận lại,trong đó con người được coi vừa là nguồn lực nội tại,cơ bản,quyết định sự nghiệp phát triển đất nước.Mặt khác,với thực trạng nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay,việc khai thác sử dụng và phát triển nguồn lực đó sao cho có hiệu quả nhất,đáp ứng được các yêu cầu phát triển cũng đang là những vấn đề bức xúc mà sự nhận thức và giải quyết tốt những vấn đề đó sẽ là điều kiện tiên quyết,bảo đảm cho sự phát triển mạnh mẽ nền kinh tế Việt Nam.
Nhằm góp phần vào việc phát huy yếu tố con người và đặc biệt quan tâm đến chất lượng nguồn nhân lực,em đã lựa chọn đề tài:"Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội".
Mục đích nghiên cứu là làm rõ thực trạng chất lượng nguồn nhân lực hiện nay và đưa ra những quan điểm và biện pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế.Tuy nhiên chất lượng nguồn nhân lực là vấn đề có nội dung rộng lớn,phức tạp và liên quan đến nhiều ngành,nhiều lĩnh vực khác nhau,do vậy đề tài không tránh khỏi thiếu sót hạn chế,em mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo để đề án được hoàn thiện hơn.Em xin trân thành cảm ơn đến Thầy Mai Văn Bưu đã hướng dẫn em thực hiện tốt đề án này.
CHƯƠNG I: MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC
1.1.Nguồn nhân lực.
1.1.1.Khái niệm.
Nguồn nhân lực là khái niệm chỉ số dân,cơ cấu dân số và nhất là chất lượng con người với tất cả đặc điểm và sức mạnh của nó trong sự phát triển của xã hội.Với cách hiểu như vậy,khái niệm nguồn nhân lực có nội dung rộng lớn,bao gồm những mặt cơ bản sau:
Lịch sử loài người trước hết là lịch sử lao động sản xuất,vì vậy
nguồn nhân lực trước hết cũng được biểu hiện ra là người lao động, là lực lượng lao động(số người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động),là nguồn lao động(đội ngũ lao động hiện có và sẽ có trong tương lai gần).Từ khía cạnh này,có thể hiểu rằng khai thác,sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực trước tiên là tạo việc làm và khai thác hợp lý nguồn lao động. Đồng thời,khái niệm nguồn nhân lực cũng phản ánh quy mô dân số thông qua số lượng dân cư và tốc độ tăng dân số của một nước trong một thời kỳ nhât định.
Nguồn nhân lực phản ánh khía cạnh cơ cấu dân cư và cơ cấu lao động trong các ngành,các vùng,cơ cấu lao động đã qua đào tạo trong các lĩnh vực và khu vực kinh tế,cơ cấu trình độ lao động,cơ cấu độ tuổi trong lực lượng lao động,cơ cấu nguồn lao động dự trữ...Cơ cấu và lao động ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng và sức mạnh của nguồn nhân lực.
Khái niệm nguồn nhân lực chủ yếu phản ánh phương diện chất lượng dân số, đặc biệt là chất lượng lực lượng lao động trong hiện tại và trong tương lai gần,thể hiện qua hàng loạt yếu tố. Đó là sức khỏe cơ thể và sức khỏe tâm thần,mức sống tuổi thọ,trình độ giáo dục đào tạo về văn hóa và chuyên môn nghiệp vụ,trình độ học vấn,trình độ phát triển trí tuệ,năng lực sáng tạo,khả năng thích nghi,kỹ năng lao động,văn hóa lao động,các khía cạnh tâm lý,ý thức, đạo đức,tư tưởng tình cảm,tính cách,lối sống..trong đó trí lực,thể lực và đạo đức là những yếu tố quan trọng nhất,quyết định chất lượng và sức mạnh của nguồn lực con người.
Có sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các yếu tố nội tại trong nguồn nhân lực,sự tác động qua lại giữa con người và tự nhiên,môi trường sống và các nguồn lực khác.Mặt khác,nó cũng nói lên sự biến đổi về số lượng,chất lượng,cơ cấu dân cư và lực lượng lao động.
Con người được xem xét với tư cách là một nguồn lực,nguồn lực nội tại,cơ bản trong hệ thống các nguồn lực của sự phát triển xã hội.Mặt khác,không chỉ là chủ thể quyết định sự vận động và phát triển của xã hội,mà còn là khách thể của các quá trình kinh tế-xã hội,là đối tượng mà chính sự phát triển xã hội phải hướng vào phục vụ.
Vì vậy,khi xem xét nguồn nhân lực đòi hỏi phải có quan điểm toàn diện,phải nhìn nhận con người với tất cả hiện trạng,tiềm năng, đặc điểm và sức mạnh của nó đối với sự phát triển xã hội ở cả phương diên chủ thể lẫn phương diện khách thể.
1.1.2.Vai trò nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế-xã hội.
Con người là động lực của sự phát triển.
Từ thời kỳ xa xưa con người bằng công cụ lao động thủ công và nguồn lực do chính bản thân mình tạo ra để sản xuất ra sản phẩm thỏa mãn nhu cầu của bản thân.Sản xuất ngày càng phát triển,phân công lao động ngỳa càng chi tiết,hợp tác ngày càng chặt chẽ tạo cơ hội để chuyển dần hoạt động cuả con người cho máy móc thiết bị thực hiện(các động cơ phát lực),làm thay đổi tính chất của lao động từ lao động thủ công sang lao động cơ khí và lao động trí tuệ.Nhưng ngay cả trong điều kiện đạt được khoa học kỹ thuật hiện đại như hiện nay thì cũng không thể tách rời nguồn lực con người bởi lẽ:
-Chính con người đã tạo ra máy móc thiết bị hiện đại đó, điều đó thể hiện mức độ hiểu biết và chế ngự tự nhiên của con người.
-Ngay cả đối với máy móc hiện đại,nếu thiếu sự điều khiển,kiểm tra của con người thì chúng chỉ là vật chất.Chỉ khi có sự tác động của con người mới phát động chúng và đưa chúng vào sản xuất.
Trong phạm vi xã hội,nguồn lực con người là một trong những nguồn nội lực quan trọng cho sự phát triển. Đặc biệt đối với những nước có nền kinh tế đang phát triển như nước ta dân số đông,nguồn nhân lực dồi dào đã trở thành một nguồn nội lực quan trọng nhất.Nếu biết khai thác nó sẽ tạo nên một động lực to lón cho sự phát triển.
b) Con người là mục tiêu của sự phát triển.
Con người là lực lượng tiêu dùng của cải vật chất và tinh thần của xã hội và như vậy nó thể hiện rõ nét nhất mối quan hệ giữa sản xuất và tiêu dùng.Mặc dù mức độ phát triển của sản xuất quyết định mức độ tiêu dùng,song nhu cầu tiêu dùng của con người lại tác đông mạnh mẽ tới sản xuất, đinh hướng phát triển sản xuất thông qua quan hệ cung cầu hàng hóa trên thị trường.Nếu trên thị trường nhu cầu tiêu dùng của một loại hàng hóa nào tăng lên,lập tức thu hút lao động cần thiết để sản xuất ra hàng hóa đó và ngược lại.
Nhu cầu của con người là vô cùng phong phú, đa dạng và thường xuyên tăng lên,nó bao gồm nhu cầu vật chất,nhu cầu tinh thần,về số lượng và chủng loại hàng hóa càng ngày càng phong phú và đa dạng, điều đó tác động tới quá trình phát triển kinh tế xã hội.
c) Yếu tố con người trong phát triển kinh tế-xã hội.
Con người không chỉ là mục tiêu, động lực của sự phát triển,thể hiện mức độ chế ngự thiên nhiên,bắt thiên nhiên phục vụ cho con người,mà còn tạo ra những điều kiện để hoàn thiện chính bản thân con người.
Lịch sử phát triển của loài người đã chứng minh rằng trải qua quá trình lao động hàng triệu năm mới trở thành con người ngày nay và trong quá trình đó,mỗi giai đoạn phát triển của con người lại làm tăng thêm sức mạnh chế ngự tự nhiên,tăng thêm động lực cho sự phát triển.
Như vậy động lực.mục tiêu của sự phát triển và tác động của sự phát triển tới bản thân con người cũng nằm trong chính bản thân con người. Điều đó lý giải tại sao con người được coi là nhân tố năng động nhất,quyết định nhất của sự phát triển.
1.1.3.Phân loại nguồn nhân lực.
a) Nguồn nhân lực sẵn có trong dân số.
Bao gồm toàn bộ những người nằm trong độ tuổi lao động,có khả năng lao động,không kể đến trạng thái có làm việc hay không làm việc.Độ tuổi lao động là giới hạn về những điều kiện cơ thể tâm lý-sinh lý xã hội mà con người tham gia vào quá trình lao động.Giới hạn độ tuổi lao động được quy định tùy thuộc vào điều kiện kinh tế-xã hội của từng nước và trong từng thời kỳ.Giới hạn độ tuổi lao động bao gồm:
-Giới hạn dưới: quy định số tuổi thanh niên bước vào độ tuổi lao động, ơ nước ta hiện nay là 15 tuổi.
-Giới hạn trên: quy định độ tuổi về hưu, ở nước ta quy định độ tuổi này là 55 tuổi đối với nữ và 60 tuổi đối với nam.
Nguồn nhân lực có sẵn trong dân cư chiếm một tỷ lệ tương đối lớn trong dân số,thường từ 50% hoặc hơn nữa,tùy theo đặc điểm dân số và nhân lực của từng nước.
b) Nguồn nhân lực tham gia vào hoạt động kinh tế.
Nguồn nhân lực tham gia vào hoạt động kinh tế hay còn gọi là dân số hoạt động kinh tế. Đây là lực lượng bao gồm những người từ đủ 15 tuổi trở lên đang có việc làm hoặc không có việc làm nhưng có nhu cầu tìm việc làm.Như vậy giữa nguồn nhân lực sẵn có trong dân số và dân số hoạt động kinh tế có sự khác nhau.Sự khác nhau này là do có một bộ phận những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động,nhưng vì nhiều nguyên nhân khác nhau,chưa tham gia vào hoạt động kinh tế(thất nghiệp,có việc làm nhưng không muốn làm việc,còn đang học tập,có nguồn thu nhập khác không cần đi làm,...)Năm 2003 số người không có việc làm ở nước ta chiếm 5,78% dân số hoạt động kinh tế.
c) Nguồn nhân lực dự trữ.
Các nguồn nhân lực dự trữ trong nền kinh tế bao gồm những người trong độ tuổi lao động,nhưng vì các lý do khác nhau,họ chưa có công việc làm ngoài xã hội.Số người này đóng vai trò của một nguồn dự trữ về nhân lực gồm có:
-Những người làm công việc nội trợ trong gia đình:khi điều kiện kinh tế xã hội thuận lợi,nếu bản thân họ muốn tham gia lao động ngoài xã hội,họ có thể nhanh chóng rời bỏ công việc nội trợ để làm công việc thích hợp ngoài xã hội. Đây là nguồn nhân lực đáng kể và đại bộ phận là phụ nữ,hàng ngày vẫn đảm nhiệm chức năng duy trì,bảo vệ và phát triển gia đình về nhiều mặt, đó là những hoạt động có ích và cần thiết.Công việc nội trợ gia đình đa dạng,vất vả đối với phụ nữ ở các nước chậm phát triển(do chủ yếu là lao động chân tay),dẫn đến năng suất lao động thấp so với những công việc tương tự được tổ chức ở quy mô lớn hơn,có trang bị kỹ thuật cao hơn.
-Những người tốt nghiệp ở các trường phổ thông và các trường chuyên nghiệp được coi là nguồn nhân lực dự trữ quan trọng và có chất lượng. Đây là nguồn nhân lực ở độ tuổi thanh niên,có học vấn,có trình độ chuyên môn(nếu được đào tạo tại các trường dạy nghề và các trường trung cấp, đại học).Tuy nhiên,khi nghiên cứu nguồn nhân lực nay cần phân chia tỷ mỷ hơn:
Nguồn nhân lực đã đến tuổi lao động,tốt nghiệp trung học phổ thông,không tiếp tục học nữa,muốn tìm việc làm.
Nguồn nhân lực đã đến tuổi lao động,chưa học hết trung học phổ thông,không tiếp tục học nữa,muốn tìm việc làm.
Nguồn nhân lực ở đọ tuổi lao động đã tốt nghiệp ở các trường chuyên nghiệp(trung cấp,cao đẳng, đại học)thuộc các chuyên môn khác nhau tìm việc làm.
-Những người đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự cũng thuộc nguồn nhân lực dự trữ,có khả năng tham gia vào hoạt động kinh tế xã hội.Số người thuộc nguồn nhân lực dự trữ này cũng cần phân loại để biết rõ có nghề hay không có nghề,trình độ văn hóa,sức khỏe,...từ đó tạo công việc làm thích hợp.
-Những người trong độ tuổi lao động đang bị thất nghiệp(có nghề hoặc không có nghề)muốn tìm việc làm,cũng là nguồn nhân lực dự trữ,sẵn sàng tham gia vào hoạt động kinh tế.
1.2.Chất lượng nguồn nhân lực.
1.2.1.Khái niệm.
Chất lượng nguồn nhân lực là trạng thái nhất định của nguồn nhân lực thể hiện mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành nên bản chất bên trong của nguồn nhân lực.Chất lượng nguồn nhân lực không những chỉ là chỉ tiêu phản ánh trình độ phát triển kinh tế,mà còn là chỉ tiêu phản ánh trình độ phát triển về mặt đời sống xã hội,bởi lẽ chất lượng nguồn nhân lực cao sẽ tạo ra động lực mạnh mẽ hơn với tư cách không chỉ là một nguồn lực của sự phát triển,mà còn thể hiện mức độ văn minh của một xã hội nhất định.
1.2.2.Vai trò.
Nhu cầu về lao động là nhu cầu dẫn xuất do nhu cầu sản xuất sản phẩm nhất định;nhu cầu sản xuất sản phẩm lại xuất phát từ nhu cầu tiêu dùng của con người.Cùng với sự phát triển của nền sản xuất,nhu cầu của con người ngày càng đa dạng,sản phẩm sản xuất ra càng nhiều hơn và chất lượng càng cao hơn. Điều đó chỉ có thể có được do loại lao động có trình độ cao sản xuất ra,nên không thể không chăm lo tới việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.Sự tác động qua lại giữa chất lượng nguồn nhân lực với điều kiện phát triển kinh tế thúc đẩy kinh tế phát triển theo chiều hướng có lợi cho xã hội chất lượng lao động được đảm bảo nâng cao sẽ thúc đẩy khoa học kỹ thuật,nâng cao tay nghề chất lượng người lao động,thúc đẩy sản xuất kinh doanh,dẫn đến mức sống được đảm bảo.
Trong quá trình phát triển đất nước không tránh khỏi việc chuyển từ lao động thủ công sang lao động máy móc cơ khí,lao động trí tuệ.Do đó vai trò của chất lượng nguồn lao động phải được đảm bảo đáp ứng sự cần thiết đổi mới của xã hội.
Chất lượng nguồn nhân lực được nâng cao chứng tỏ sự quan tâm của xã hội cho giáo dục và đạo tạo,qua đó cho thấy kết quả của giáo dục đào tạo.
1.2.3.Chỉ tiêu đánh giá chất lượng nguồn nhân lực.
Chất lượng nguồn nhân lực được thể hiện qua một hệ thống các chỉ tiêu,trong đó có các chỉ tiêu chủ yếu sau:
a)Chỉ tiêu phản ánh tình trạng sức khỏe của dân cư.
Sức khỏe là trạng thái thoải mái về thể chất và tinh thần chứ không phải đơn thuần là không có bệnh tật.Sức khỏe là tổng hòa nhiều yếu tố tạo nên giữa bên trong và bên ngoài,giữa thể chất và tinh thần.Có nhiều chỉ tiêu biểu hiện trạng thái về sức khỏe.Bộ y tế nước ta quy định có 3 loại:
A:Thể lực tốt loại không có bệnh tật gì.
B:Trung bình.
C:Yếu,không có khả năng lao động.
Gần đây Bộ Y tế kết hợp với Bộ Quốc phòng căn cứ vào 8 chỉ tiêu để đánh giá:
Chỉ tiêu thể lực chung:chiều cao,cân nặng,vòng ngực.
Mắt.
Tai mũi họng.
Răng hàm mặt.
Nội khoa.
Ngoại khoa.
Thần kinh tâm thần.
Da liễu
Căn cứ chỉ tiêu trên để chia thnàh 6 loại:rất tốt,tốt,khá,trung bình,kém và rất kém.
Bên cạnh việc đánh gía trạng thái sức khỏe của người lao động người ta còn nêu ra các chỉ tiêu đánh giá sức khỏe của quốc gia thông qua:
Tỷ lệ sinh thô,tỷ lệ chết thô,tỷ lệ tăng tự nhiên.
Tỷ lệ tử vong của trẻ em dưới 1 tuổi và dưới 5 tuổi.
Tỷ lệ sinh thấp cân ở trẻ em.
Tỷ lệ dừng mức sinh.
Tuổi thọ trung bình.
Tỷ lệ GDP/Đầu người.
Cơ cấu giới tính,tuổi tác...
b) Chỉ tiêu biểu hiện trình độ văn hóa của người lao động.
Trình độ văn hóa của người lao động là sự hiểu biết của người lao động đối với những kiến thức phổ thông về tự nhiên và xã hội.Trong chừng mực nhất định,trình độ văn hóa của dân số biểu hiện mặt bằng dân trí của quốc gia đó.Trình độ văn hóa được biểu hiện thông qua các quan hệ tỷ lệ như:
Số lượng người biết chữ và chưa biết chữ.
Số người có trình độ tiểu học.
Số người có trình độ phổ thông cơ sở(cấp II)
Số người có trình độ phổ thông trung học(cấp III).
Số người có trình độ đại học và trên đại học...
Trình độ văn hóa của dân số hay của nguồn nhân lực là một chỉ tiêu hết sức quan trọng phản ánh chất lượng cuả nguồn nhân lực và có tác động mạnh mẽ tới quá trình phát triển kinh tế xã hội.Trình độ văn hóa cao tạo khả năng tiếp thu và vận dụng một cách nhanh chóng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào thực tiễn.
c)Chỉ tiêu biểu hiện trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao động.
Trình độ chuyên môn là sự hiểu biết,khả năng thực hành về chuyên môn nào đó,nó biểu hiện trình độ được đào tạo ở các trường trung học chuyên nghiệp,cao đẳng, đại học và sau đại học,có khả năng chỉ đạo quản lý một công việc thuộc chuyên môn nhất định.Do đó trình độ chuyên môn của nguồn nhân lực được đo bằng:
Tỷ lệ cán bộ trung cấp.
Tỷ lệ cán bộ cao đẳng, đại học.
Tỷ lệ cán bộ trên đại học.
Trong mỗi chuyên môn có thể chia thành những chuyên môn nhỏ hơn như đại học:bao gồm kỹ thuật,kinh tế,ngoại ngữ...thậm chí trong từng chuyên môn lại chia thành những chuyên môn nhỏ hơn nữa.
Trình độ kỹ thuật của người lao động thường dùng để chỉ trình độ con người được đào tạo ở các trường kỹ thuật, được trang bị kiến thức nhất định,những kỹ năng thực hành về công việc nhất định.Trình độ kỹ thuật được biểu hiện thông qua các chỉ tiêu:
Số lao động được đào tạo và lao động phổ thông.
Số người có bằng kỹ thuật và không có bằng.
Trình độ tay nghề theo bậc thợ.
Trình độ chuyên môn và kỹ thuật thường kết hợp chặt chẽ với nhau,thông qua chỉ tiêu số lao động được đào tạo và không đào tạo trong từng tập thể nguồn nhân lực.
d)Chất lượng nguồn nhân lực được thể hiện thông qua chỉ số phát triển con người(HDI-Human Development Index)
Chỉ số này được tính bởi 3 chỉ tiêu chủ yếu:
Tuổi thọ bình quân.
Thu nhập bình quân đầu người(GDP/người).
Trình độ học vấn(tỷ lệ biết chữ và số năm đi học trung bình của dân cư)
Như vậy,chỉ số HDI không chỉ đánh giá sự phát triển con người về mặt kinh tế,mà còn nhấn mạnh đến chất lượng cuộc sống và sự công bằng tiến bộ xã hội.
e)Ngoài những chỉ tiêu có thể lượng hóa được như trên người ta còn xem xét chỉ tiêu năng lực phẩm chất của người lao động.Chỉ tiêu này phản ánh mặt định tính mà khó có thể định lượng được.Nội dung của chỉ tiêu này được xem xét thông qua các mặt:
Truyền thống dân tộc bảo vệ Tổ quốc.
Truyền thống về văn hóa văn minh dân tộc.
Phong tục tập quán,lối sống...
Nhìn chung chỉ tiêu này nhấn mạnh đến ý chí,năng lực tinh thần của người lao động.
1.2.4.Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực.
a) Tuyển dụng
Tuyển dụng nhân lực là một tiến trình nhằm thu hút những người có khả năng từ nhiều nguồn khác nhau đến nộp đơn và xin việc làm.Để có hiệu quả,quá trình tuyển dụng nên theo sát các chiến lược và kế hoạch nguồn nhân lực chỉ ra số lượng nhân lực còn thiếu để đáp ứng kế hoạch mở rộng của tổ chức.Nguồn thông tin này đóng vai trò quan trọng trong việc xã định mức tuyển mộ của tổ chức đó.Để tiết kiệm thời gian và chi phí,các nỗ lực tuyển dụng chỉ nên tập trung vào những người nộp đơn xin việc có những điều kiện cơ bản tối thiểu.Các điều kiện cơ bản này phải được xác địn nhờ vào kỹ thuật phân tích xác định các yêu cầu và đặc điểm công việc cần tuyển dụng.
Tuyển dụng đóng vai trò khá lớn trong quá trình nâng cao chất lượng đội ngũ nguồn nhân lực cho xã hội,tuyển dụng càng chặt chẽ đến đâu sẽ làm cho quá trình thực hiện kết quả sau này càng dễ dàng bấy nhiêu,chất lượng cán bộ sẽ phù hợp với tiêu chuẩn đáp ứng tốt nhất các yêu cầu đặt ra của công việc cần tuyển dụng.
b) Đào tạo
Đào tạo là các hoạt động nhằm nâng cao năng lực cho người lao động trong việc đóng góp vào hoạt động của tổ chức.Nội dung:
-Đào tạo kỹ năng thực hiện công việc nhằm bổ sung những kỹ năng còn thiếu hụt của nhân viên dưới dạng đào tạo lại hoặc đào tạo mới
-Đào tạo nhiều chức năng,nội dung đào tạo liên quan đến việc trang bị cho nhân lực khả năng thực hiện linh hoạt nhiều công việc cho tổ chức.
-Đào tạo hoạt động theo nhóm,nội dung đào tạo tập trung vào hướng dẫn cho học viên làm thế nào để làm việc theo nhóm hiệu quả nhất.
-Đào tạo tính sáng tạo,nội dung này giúp nhân lực có những cơ hội để suy nghĩ tự do,để giải quyết vấn đề theo những phương pháp mới mà không lo ngại sự đánh giá của các nhà quản lý hay đồng nghiệp.
Để đội ngũ nguồn nhân lực được nâng cao chất lượng cũng cần phải có phương pháp đào tạo thích hợp.
-Đào tạo gắn với thực hành công việc(đào tạo tại chỗ)là cách đào tạo mà những người học thực hiện công việc thực tế dưới sự hướng dẫn của những nhân lực có kinh nghiệm,những người quản lý hoặc giảng viên.Ưu điểm của cách đào tạo này là nội dung liên quan rõ ràng đến công việc cụ thể.Tuy nhiên khi thực hiện công việc thực tế,những người được đào tạo có thể làm hỏng và gây tổn thất cho tổ chức.
-Đào tạo không gắn với thực hành công việc:như tổ chức khóa học chính thức,đào tạo đóng kịch,đào tạo mô phỏng..Cách đào tạo này ít tốn kém chi phí do học viên không được hoặc chỉ được sử dụng dụng cụ giả và không gây thiệt hại tài sản cho tổ chức.Tuy nhiên phương pháp đào tạo này không gắn liền với thực tế công việc do đó hiệu quả đào tạo không cao.
c) Đãi ngộ
Đây là hình thức mang lại lợi ích cho người lao động,các chỉ tiêu được đặt ra với các mức thưởng phạt khác nhau giúp cho người lao động có được sự say mê trong công việc.Bao gồm hình thức trả công,khen thưởng thỏa đáng,các chính sách mở cho người lao động giúp họ yên tâm hơn trong công việc,làm hết mình để đạt được hiệu quả cao nhất có thể.Công cụ làm việc cũng là một phần yếu tố quan trọng giúp cho việc nâng cao chất lượng,nâng cao năng suất lao động,kể cả lao động quản lý.Chất lượng hoạt động không chỉ phụ thuộc vào trình độ,năng lực mà còn cả phương tiện kỹ thuật.Vì vậy trang bị đủ và đúng phương tiện làm việc cho cán bộ quản lý là một đòi hỏi để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Lợi ích luôn là động lực cho các hoạt động của con người.Hoạt động công vụ có đặc điểm là không vụ lợi,điều đó không có nghĩa tiền lương,khen thưởng và kỹ luật không ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực quản lý và các hoạt động của họ.Ảnh hưởng của tiền lương đến chất lượng nguồn nhân lực là quá rõ ràng,không thể đòi hỏi cao về cả năng lực và phẩm chất trong khi tiền lương và thu nhập lại không tương xứng.Tiền lương phải phản ánh được hoạt động của cán bộ quản lý về cả chất lượng và số lượng,tạo ra động lực phấn đấu vươn lên về mọi mặt đối với cán bộ quản lý.
d) Đánh giá
Đánh giá là quá trình so sánh,phân tích mức độ đạt được của quá trình phấn đấu,rèn luyện và thực hiện công việc của người cán bộ theo yêu cầu,tiêu chuẩn đề ra cho công việc được giao theo chức danh.Công tác đánh giá là hết sức quan trọng vì những mục đích cũng như những ảnh hưởng của nó đến các cá nhân và tổ chức.
Mục đích của việc đánh giá nhằm cung cấp các thông tin phản hồi cho người quản lý biết năng lực và việc thực hiện công việc của họ và người bị đánh giá đang ở mức nào,giúp họ phấn đấu để tự hoàn thiện mình và làm công việc tốt hơn.Cung cấp thông tin cho công tác quản lý cán bộ,từ quy hoạch,đào tạo,bố trí sử dụng,tuyển chọn cán bộ cho đến quản lý hệ thống lương thưởng cán bộ,công chức.Đánh giá suy cho cùng không phải chỉ biết kết quả,mà nhằm nâng cao chất lượng,kết quả và hiệu quả công tác của người cán bộ công nhân viên,đem lại lợi ích cho cả cá nhân,tập thể và Nhà nước.
Qua công việc đánh giá giúp cho hiểu được đội ngũ nguồn nhân lực đang ở mức nào và qua đó đưa ra các giải pháp khắc phục,nâng cao hiệu quả nguồn nhân lực..
CHƯƠNG II:THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC HIỆN NAY.
2.1.Thực trạng nguồn nhân lực.
2.1.1.Số lượng(quy mô) nguồn nhân lực.
Số lượng về nguồn nhân lực tiếp tục gia tăng,hệ quả của tăng trưởng dân số thời gian trước,từ năm 1976 nước ta có hiện tượng "bùng nổ" số người trong độ tuổi lao động.Nhịp độ tăng bình quân hằng năm qua các thời kỳ là:
-Thời kỳ 1960-1975 : 3,2% /năm
-Thời kỳ 1976-1980 : 3,37%/năm
-Thời kỳ 1981-1985 : 3,28%/năm
-Thời kỳ 1986-1990 : 3,55%/năm
-Thời kỳ 1991-1995 : 2,92%/năm
-Thời kỳ 1996-2000 : 3% /năm
Nhịp độ này vượt hẳn nhịp tăng thường thấy ở các nước chậm phát triển và gấp 1,5 lần nhịp tăng dân số.
Năm 1997 dân số trong độ tuổi lao động cả nước có gần 42,5 triệu người,tăng 8,5 triệu người so với năm 1990: Ước tính năm 2000 có 45,2 triệu người,tăng 11,5 triệu người so với năm 1990.Bình quân mỗi năm tăng thêm gần 1,15 triệu người(3,0%/năm).Trong đó nữ chiếm 52%.
Số người trong độ tuổi lao động
Năm
Dân số trong tuổi
lao động
(ngàn người)
% so với tổng số dân
Mức tăng bình quân mỗi năm
(ngàn người)
Tốc độ tăng bình quân /năm
(%)
1990
33.728
50,8
845,6
3,55
1995
38.955
52,6
1045,4
2,92
2000
45.175
55,5
1244,0
3,00
2010
57.772
60,8
1260,0
2,49
2020
68.000
64,7
1023,0
1,65
Đến năm 2010 sẽ có gần 57,8 triệu và 2020 sẽ có 68 triệu người trong độ tuổi lao động,chiếm 60,9% dân số 2010 và 63,8% dân số năm 2020.
Số người vào độ tuổi lao động tăng nhanh,số người ra khỏi tuổi lao động thấp và tăng chậm nên mức gia tăng của dân số trong độ tuổi lao động rất cao.Hằng năm có trên 1,7 triệu thanh niên bước vào độ tuổi lao động và chỉ có trên 3,5 vạn người ra khỏi tuổi lao động đã tạo ra áp lực rất lớn về đào tạo nghề và giải quyết việc làm.
Mức tăng dân số trong độ tuổi lao động
Đơn vị : Ngàn người
Năm
Tổng số vào tuổi lao động
(BQ mỗi năm)
Tổng số ra tuổi lao động
(BQ mỗi năm)
Tổng số trong tuổi lao động tăng thêm
Mức gia tăng bình quân hàng năm
1991-1995
7543(1510)
1888(378)
5020
1004
1996-2000
8570(1715)
1780(356)
6100
1200
2001-2005
8800(1760)
1954(390)
6200
1240
2006-2010
8300(1660)
2500(500)
5300
1060
Phần lớn nguồn nhân lực của cả nước (58,5%) tập trung ở cả 3 vùng là đồng bằng sông Cửu Long (8,7 triệu người chiếm 22,3% trong cả nước), đồng bằng sông Hồng(7,8 triệu chiếm 20% cả nước) và đồng bằng Nam Bộ(6,3 triệu chiếm 16,2 % cả nước).Khoảng 60% của tổng mức gia tăng nguồn nhân lực cũng tập trung tại 3 vùng này.Tây Nguyên và Tây Bắc là 2 vùng có diện tích lớn nhưng quy mô nguồn nhân lực lại nhỏ nhất(Tây Bắc 1,1 triệu,Tây Nguyên hơn 1,1 triệu).Nguồn nhân lực tăng nhanh ở các vùng Tây Nguyên, Đông Nam Bộ còn do di dân có tổ chức và di dân tự do nên ngoài tác động tích cực là tăng thêm lao động cho phát triển kinh tế-xã hội nhưng cũng đang gây ra những tác động tiêu cực về xã hội và môi trường.Nhu cầu giải quyết việc làm trên các vùng đến năm 2010 đều rất cao.
Dân số trong tuổi lao động(1000 người)
Năm
Khu vực
1995
2000
2005
2010
Nhịp tăng BQ
2001-2010
Cả nước
38.954,5
45.175,0
51.607,0
57.771,8
2,50
1. Đông Bắc
5.568,2
6.480,8
7.496,0
8.352,7
2,6
2.Tây Bắc
1.253,3
1.253,3
1.504,5
1.753,4
3,45
3. ĐB Sông Hồng
-ĐBTĐ Bắc Bộ
7.822,8
4.225,0
8.945,9
4.778,4
10.071,1
5.329,4
10.952,4
5.793,4
2,05
1,95
4.Bắc Trung Bộ
5.023,8
5.857,8
6.814,7
7.584,3
2,65
5.Duyên hải Trung Bộ
-ĐBTĐ Trung Bộ
3.363,3
2.239,0
3.832,3
2.539,8
4.346,5
2.880,5
4.927,2
3.249,2
2,55
2,5
6.Tây Nguyên
-ĐBTĐ Nam Bộ
1.140,7
4.696,0
1.344,3
5.262,9
1.593,3
5.834,9
1.882,6
6.422,6
3,45
2,0
7. Đông Nam Bộ
6.305,7
7.149,8
8.023,8
8.930,3
2,25
8. ĐB Sông Cửu Long
8.673,0
10.310,8
11.757,1
13.388,1
2,65
Nguyên nhân :Sự phát triển của dân số 15 năm trước đã tác động đến số lượng và chất lượng nguồn nhân lực hiện nay và thực trạng hiện nay đã tác động cho 15 năm sau.Số người trong độ tuổi lao động đến năm 2010 đã được sinh ra, đang được nuôi dạy trên đất nước ta hiện nay...
Dân số cả nước năm 1997 là 76.709 nghìn người, ước tính năm 2000 là 80,5-81 triệu người.Tỷ lệ phát triển dân số kể từ năm 1990 đến nay đã giảm đáng kể từ 2,4%(1992) xuống còn 1,68%(1997) đến năm 2000 là 1,75.Vượt chỉ tiêu Đại hội VIII đề ra.Tỷ lệ sinh giảm nhanh,từ 31,3% năm 1988 xuống còn khoảng 22,8%(1996).Tổn tỷ suất sinh(số con trung bình của nữ trong độ tuổi sinh đẻ)giảm từ3,88(1988),2,7 (1997) đến năm 2000 là 2,55.Tỷ lệ áp dụng các biện pháp tránh thai tăng khá nhanh từ 53% năm 1988 lên 68,3 năm 1996. Điều đó tạo tiền đề cho việc tiếp tục giảm tỷ lệ sinh và theo đó là tốc độ tăng dân số trong những năm tới.Tuy nhiên, điều đáng lưu ý là tỷ lêj sinh ở các vùng nghèo và các nhóm dân cư có thu nhập thấp còn khá cao,tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên còn nhiều,gây ra các tác động tiêu cực về chất lượng dân số do phần lớn số trẻ em đó không có điều kiện nuôi dưỡng,chăm sóc và giáo dục tốt và sự nghèo đói ngày càng trầm trọng hơn.
Do đó,cùng với đầu tư lớn hơn cho công tác dân số-kế hoạch hóa gia đình giảm sinh ổn định tiến tới ngừng tăng dân số,cần tập trung đầu tư và nâng cao chất lượng dân số.Khu vực nông thôn và các vùng miền núi Bắc Bộ,Bắc Trung Bộ,Duyên hải Nam Trung Bộ,Tây Nguyên và đồng bằng Sông Cửu Long, đặc biệt là đối tượng dân cư nghèo và có hoàn cảnh khó khăn ở vùng sâu vùng xa nhằm xóa đói giảm ngheo,tạo ra những chuyển biến tích cực giảm nhanh tỷ lệ sinh chung,nâng cao chất lượng dân số và nguồn nhân lực.
Nhịp độ tăng dân số bình quân hằng năm khác biệt giữa các vùng cao nhất là Tây Nguyên (3,99%),Tây Bắc (3,3%),đồng bằng sôngCửu Long(3,08%)...Riêng hai địa bàn trọng điểm Bắc và Nam bộ và Tây Nguyên do có tăng cơ học nên tốc độ tăng còn nhiều.
Giảm nhanh tỷ lệ sinh đã làm cho cơ cấu dân số được cải thiện.Tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động tăng còn tỷ lệ trẻ em không ngừng giảm.Tuy nhiên quá trình giảm sinh khác nhau ở các vùng sẽ dẫn đến xu thế đòi hỏi sự đầu tư khác nhau cho phát triển xã hội ở các vùng..
2.1.2.Cơ cấu nguồn nhân lực.
Cơ cấu nguồn nhân lực phản ánh qua cơ cấu dân cư,lao động trong các nghành,cơ cấu lao động đã qua đào tạo trong các lĩnh vực và các khu vực kinh tế,cơ cấu trình độ lao động,cơ cấu độ tuổi trong lực lượng lao động,cơ cấu nguồn lao động dự trữ trong các trường đai học cao đẳng,trung học chuyên nghiệp và dạy nghề..
Tình hình chuyển dịch cơ cấu lao động
Đơn vị : %
Ngành
Kế hoạch 2001-2005
Thực hiện
Ước thực hiện
2001
2002
2003
2004
2005
Nông lâm ngư nghiệp
56-57
60,54
60,67
59,04
59,29
57,44
Công nghiệp và dịch vụ
20-21
14,41
14,13
16,41
17,69
18,79
Thương mại và dịch vụ
22-23
25,05
24,20
24,55
24,02
23,78
Theo số liệu thống kê ở trên,cơ cấu dân cư và lao động ở nước ta đã có sự chuyển biến tích cực.Tỷ trọng lao động trong ngành nông-lâm-ngư nghiệp có xu hướng giảm dần,lao động trong công nghiệp xây dựng và dịch vụ tăng,mặc dù tốc độ còn chậm.Nếu như trước đây,lao động trong sản xuất nông nghiệp chiếm tới 73%,trong khi đó lao động trong sản xuất công nghiệp và dịch vụ mới chỉ có 27%,thì hiện nay cơ cấu lao động đã có chuyển biến như bảng trên.Tuy nhiên,so với chỉ tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế mà Đại hội Đảng lần thứ IX đề ra(nông -lâm-ngư nghiệp:20-21%;công nghiệp và xây dựng:38-39%;các ngành dịch vụ:41-42%)thì tốc độ chuyển dịch cơ cấu lao động còn quá chậm,dẫn đến khoảng cách khá xa giữa cơ cấu lao động và cơ cấu kinh tế.Nhưng điều đáng lưu ý hơn là cơ cấu lao động đã được đào tạo giữa các ngành,các khu vực sản xuất,các vùng,các dạng lao động và giữa các trình độ rất bất hợp lý.Nông thôn chiếm gần 75% dân số và lao động nhưng chỉ chiếm 47,38 lực lượng lao động được đào tạo cả nước, đặc biệt trong gần 60% lao động làm việc ở lĩnh vực nông,lâm,ngư nghiệp,số được đào tạo mới chỉ chiếm 7%.Đây thực sự là trở ngại lớn nhất khi tiến hành công nghiệp hóa,hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn.
-Cơ cấu trình độ lực lượng động, đến cuối năm 2003 tỷ lệ lao động qua đào tào dậy nghề trong lực lượng lao động là 17,5%.Cụ thể có khoảng 4,9 triệu lao động có trình độ sơ cấp hoặc có chính chỉ dạy nghề,1,47 triệu lao động có trình độ trung học chuyên nghiệp,khoảng 1,3 triệu lao động có trình độ cao đẳng, đại học,hơn 10 ngàn thạc sỹ.Riêng tiến sỹ,phó giáo sư và giáo sư đến tháng 5-2002 có khoảng 13.500 người.Nghĩa là,tỷ lệ đại học-trung học chuyên nghiệp-công nhân kỹ thuật là 1-1,75-2,3.Tỷ lệ này nói lên sự mất cân đối nghiêm trọng trong cơ cấu trình độ lao động.Chúng ta thiếu cả cán bộ trên đại học, đại học,trung học chuyên nghiệp và công nhân kỹ thuật lành nghề,nhưng thiếu hụt nghiêm trọng hơn cả là chuyên gia đầu nghành và công nhân lành nghề-kỹ thuật viên.Chẳng hạn,trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, đặc biệt ở các trường đại học và viện nghiên cứu có nhu cầu lớn về lực lượng cán bộ có trình độ trên đại học nhưng tỷ lệ số người có trình độ trên đai học trên tổng số cán bộ giảng dạy hiện mới đạt 12,7%(cần đạt 30%).Hay trong khu vực kinh tế tậo thể và tư nhân hiện sử dụng 85%lao động xã hội,nhưng số cán bộ có trình độ trung học chuyên nghiêpk chỉ chiếm 9%...Vì thế tăng nhanh quy mô đào tạo,nhất là đào tạo dạy nghề,phải là giải pháp hàng đầu,cấp bách để tạo ra nguồn lao động có số lượng và chất lượng phục vụ đất nước.
-Cơ cấu độ tuổi của lực lượng lao động,nói chung lực lượng lao động nước ta được xếp vào loại trẻ,54% số người trong độ tuổi lao động là thanh niên(16-35 tuổi),hàng năm có thêm 1,2 triệu người bước vào độ tuổi lao động.Lực lượng lao động trẻ có thuận lợi về sức khỏe,tính năng động sáng tạo,có trình độ văn hóa khá,khả năng tiếp thu khoa hoc-công nghệ tiên tiến nhanh.Tuy nhiên, đội ngũ lao động trình độ cao lại đang bị già hóa rất nhanh và đang có sự hẫng hụt lớn giữa các thế hệ.Số công nhân kỹ thuật bậc cao đa phần xấp xĩ tuổi 50;trong số trên 10.000 cán bộ khoa học bậc cao thì tuổi bình quân của tiến sĩ là 52,8;giáo sư ở độ tuổi 51-70 chiếm 90%,dưới 50 tuổi chỉ có 4%,phó giáo sư độ tuổi 52-70 chiếm 82%,dưới 50 chỉ có 18%.
2.1.3.Chất lượng nguồn nhân lực.
Chất lượng nguồn nhân lực giữ vai trò quyết định sức mạnh của nguồn nhân lực,bao gồm các yếu tố như:sức khỏe,mức sống,trình độ giáo dục đào tạo về văn hóa và chuyên môn nghề nghiệp,trình độ học vấn,năng lực sáng tạo,khả năng thích ứng,kỹ năng lao động,văn hóa lao động, đạo đức,tâm lý,tư tưởng,tình cảm,tính cách,lối sống...song khái quát lại,gồm:thể lực,trí lực và những phẩm chất đạo đức tinh thần của con người.
a)Về thể lực.
Từ đầu thập niên 90 của thế kỷ XX,tầm vóc và thể lực của con người Việt Nam đang được cải thiện về chiều cao và cân nặng,tỷ lệ suy dinh dưỡng và tuổi thọ.Chiều cao trung bình của thanh niên Việt Nam đã tăng từ 1,56m năm 1994 lên 1,58m năm 2000.Tuổi thọ trung bình tăng từ 65 tuổi năm 1989 lên 68,5 tuổi năm 2000.Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi đã giảm từ 44,9% năm 1995 xuống còn 33,1% năm 2000 và 30,1% năm 2002,nhưng tỷ lệ như thế này là vẫn còn rất cao.Thể lực của người Việt Nam vẫn còn kém hơn nhiều so với một số nước trong khu vực và so với yêu cầu nguồn lực con người cần có ở nước ta.Hiện tai nước ta nằm trong số các nước có mức sống thấp nhất thế giới(GDP tính theo đầu người là 410USD năm2001).Theo số liệu thống kê năm 2002 của Chương trình phát triển Liên hiệp quốc(UNDP),thu nhập quốc dân bình quân đầu người của nước ta đứng thứ 165/208 nước và vùng lãnh thổ.Theo phân loại của Ngân hàng thế giới,các nước có thu nhập thấp là dưới 745USD/người năm 2001.Trên thế giới,dân số của các nước thu nhập thấp như vậy có tổng 2,5 ty người,bình quân thu nhập đầu người năm 2001 của những nước này là 430 USD.Vậy là chỉ số này của Việt Nam còn thấp hơn mức trung bình của các nước có thu nhập thấp và thấp hưn 12 lần thu nhập bình quân đầu người của thế giới(5150). Đến cuối năm 2003,Việt Nam vẫn còn 29% dân số sống dưới mức thu nhập 1USD/ngày và 50% dân số sống dưới thu nhập 2USD/ngày,12% hộ nghèo và chỉ có 55% dân số nông thôn có nước sạch.
Mức thu nhập thấp như vậy mà tốc độ tăng dân số vẫn còn cao,trình độ hiểu biết về dinh dưỡng và sức khỏe của nhân dân lại thấp,nên đã ảnh hưởng trực tiếp đến việc nâng cao chất lượng sống,trong đó có vấn đề giáo dục,chăm sóc và bảo vệ sức khỏe. Điều kiện lao động trong nhiều cơ sở các ngành sản xuất cũng như ở các cơ quan hành chính sự nghiệp của nước ta còn kém,thậm chí có nơi còn rất khắc nghiệt,môi trường lao động bị ô nhiễm nghiêm trọng,các yếu tố nguy hiểm và độc hại vượt quá ngưỡng giới hạn cho phép nhiều lần, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp có chiều hướng tăng nhất là ở khu vực kinh tế tư nhân và hợp tác xã..Tất cả những điều này cho thấy chất lượng dân số nói chung và người lao động nói riêng về mặt thể lực sức khỏe cũng như điều kiện lao động,không bảo đảm,cần phải được cải thiệ căn bản.Nói cách khác,thu nhập thấp, đời sống khó khăn,dinh dưỡng thiếu,thể lực hạn chế, đó là trạng thái chung của nguồn nhân lực nước ta hiện nay về phương diện mức sống và sức khỏe.
b)Về trí lực.
Chất lượng nguồn nhân lực được phản ánh chủ yếu qua sức mạnh trí tuệ, đây là yếu tố quan trọng nhất quyết định chất lượng của nguồn lao động, đặc biệt trong điều kiện trí tuệ hóa lao động hiện nay.Trình độ trí tuệ biểu hiện ở năng lực sáng tạo,khả năng thích nghi và kỹ năng lao động nghề nghiệp của người lao động thông qua các chỉ số:trình độ văn hóa dân trí,học vấn trung bình của một người dân;số lao động đã qua đào tạo,trình độ và chất lượng đào tạo;mức độ lành nghề(kỹ năng,kỹ xảo..)của lao động; trình độ tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh;năng suất,chất lượng;hiệu quả của lao động..
Theo số liệu của UNDP,chỉ số phát triển con người HDI của Việt Nam có xu hướng gia tăng từ xếp thứ 116/174 nước(1993) lên xếp thứ 109/177 nước(2000),nhưng năm 2003 lại tụt xuống thứ 112/177 nước.Nước ta là một trong mười nước có chỉ số xếp hạng HDI cao hơn xếp hạng GDP/người trên 20 bậc, điều này chứng tỏ nước ta đã cố gắng;gắn tăng trưởng kinh tế với xã hội,quan tâm đến yếu tố sức khỏe,y tế,giáo dục..Mặt khác,cho đến nay đại bộ phận lao động nước ta chưa qua đào tạo đầy đủ, đến cuối năm 2003 số người được đào tạo mới chỉ chiếm 17,5% tổng số lao động cả nước và hiện vẫn còn có3,74% lao động không biết chữ.Trong cơ cấu lao động ở các cơ sở sản xuất của nước ta, đội ngũ công nhân và lao động giản đơn chiếm 82%,đội ngũ các nhà kỹ thuật,quản lý,phát minh và đổi mới công nghệ chỉ chiếm 18%,trong khi tỷ lệ tương ứng ở các nước phát triển là 28% và 72%.
Như vậy chưa nói đến chất lượng đào tạo và sự phù hợp giữa kiến thức đào tạo trước đây với việc làm hiện nay ra sao,mà chỉ riêng chỉ số trên đã cho thấy tỷ lệ lao động được đào tạo ở nước ta là quá thấp,vì thế chất lượng lao động nói chung rất hạn chế. Đáng chú ý là số lao động được đào tạo đã thấp mà hiện tại vẫn còn 2,2% trong tổng số lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật chưa có việc làm.Thêm vào đó,chỉ khoảng 70% số người có trình độ đại học,cao đẳng và trung học chuyên nghiệp làm việc đúng ngành nghề đào tạo.Chẳng hạn,trong số học sinh tốt nghiệp các nghành nông,lâm,ngư nghiệp ở các trường trung học chuyên nghiệp chỉ trên 40% làm việc đúng ngành nghề,còn trong số sinh viên tốt nghiệp đại học ở các khoa này thì chỉ khoảng 20% đúng ngành đào tạo.Trong số lao động chuyển ngành nghề so với ngành nghề được đào tạo,chỉ có 42,5% được đào tạo lại,số còn lại 57,5% làm trái nghề,coi như chưa đào tạo.Ở khu vực hành chính sự nghiệp và bộ máy sản xuất kinh doanh khu vực nhà nước hiện có khoảng 30% cán bộ,nhân viên không đủ trình độ chuyên môn hay làm không đúng nghề,họ làm việc chủ yếu bằng kinh nghiệm...Tình hình này làm cho chất lượng lao động càng hạn chế.
Hiện tại có 10% công chức chưa tốt nghiệp phổ thông;60,51% công chức tốt nghiệp đại hoc,cao đẳng;4,41% công chức có trình độ trên đại học;4,28% có trình độ lý luận chính trị cao cấp;28,26% có trình độ lý luận chính trị trung cấp;37,07% có trình độ tiếng Anh(A,B,C);14,47% đã qua đào tạo hành chính nhà nước;4,34% đã qua đào tạo quản lý kinh tế;227,19% được đào tạo về tin học. Đội ngũ trí thức lực lượng nòng cốt chưa nhiều nhưng những năm gần đây phát triển khá nhanh.Lao động có trình độ cao đẳng trở lên tăng từ 800.000 năm 1995 lên 1,3 triệu người năm 2000;số tiến sĩ chuyên ngành và tiến sĩ khoa học tăng từ 9.300 năm 1995 lên 13.500 người năm 2000.Còn theo thống kê của Hội đồng chức danh nhà nước năm 2002 thì đến cuối năm 2002,cả nước có hơn 1000 giáo sư và khoảng 4000 phó giáo sư.trong đó có một số chuyên gia đầu ngành về khoa học,kỹ thuật và công nghệ đạt trình độ quốc tế.Còn theo thống kê của Bộ nội vụ thì tính đến tháng 11-2004,cả nước đã có khoảng 5479 giáo sư,phó giáo sư được công nhận,trong đó số lượng giáo sư,phó giáo sư đang làm việc là 3075,chiếm 56,1%.Tuy nhiên so với một số nước trong khu vực và so với yêu cầu cấp bách của phát triển kinh tế trong điều kiện hiện nay thì con số đó còn quá nhỏ nhoi.
Một số chỉ tiêu về giáo dục các nước ASEAN
Chỉ tiêu
Thời gian
Vietnam
Brunay
Indonexia
Malayxia
Philipin
Thailan
Singapo
Đaihọc và sau trung học
5,1
-
-
5
-
-
22
Trung học
8,8
-
-
48
-
-
30
Tiểu học và thấp hơn
85,1
-
-
47
-
-
47
Tỷ lệ người biết chữ từ 15 tuổi trở lên (%)
1992
89
-
84
80
90
94
-
Số năm đi học tính cho người từ 25 tuổi trở lên
(năm)
1992
4,9
5,0
4,1
5,6
7,6
3,9
4,0
Số cán bộ khoa học kỹ thuật trên 1000người
1986-1991
-
21,7
12,1
-
-
1,2
22,9
Tỷ lệ chi cho giáo dục trong GNP
(%)
1991
1,6
-
2,5
6,9
2,9
3,8
3,4
GNP bình quân đầu người cho giáo dục
1991
4
-
21,9
510,6
21,46
62,7
480,8
Tình hình trên cho thấy bên cạnh các chỉ tiêu đáng mừng như tỷ lệ người biết chữ từ 15 tuổi trở lên đạt được 89% năm 1992,tăng 6% so với năm 1989,thực trạng trình độ nguồn nhân lực Việt Nam còn nhiều vấn đề còn lo ngại;số người mù chữ từ 15 tuổi trở lên còn 4,7 triệu năm 1992;trong toàn bộ dân số ở độ tuổi lao động,chỉ có 5,1% là có trình độ đại học và sau trung học,8,8% có trình độ trung học;trong tổng số lực lượng lao động,số lao động kỹ thuật chỉ chiếm có 12%;năm 1995,trong số 40,2 triệu người chỉ có 4,7 triệu người là lao động có kỹ thuật.Một mặt,Việt Nam có cố gắng nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo,chất lượng nguồn nhân lực như:số học sinh cao đẳng và đại học tăng từ 129.600 người năm 1990 lên 279.900 người năm1995.tức là tăng gần 2,3 lần trong 5 năm;tốt nghiệp đại học từ 20.500 năm 1990 tăng lên 58.500 năm 1995;số học sinh trung học chuyên nghiệp từ 135.400 năm 1990 lên 197.500 năm 1995,số tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp từ 39.900 năm 1990 lên 56.300 năm 1995.Chưa kể đến tỷ lệ chi cho giáo dục đào tạo trong GDP đã tăng nhanh từ 1,6% năm 1991 lên 2,75% năm 1993,Gần 6% năm 1994.Nhưng để đạt được mức độ chung như nước khác ngay trong khối ASEAN,rõ ràng chúng ta còn phải đầu tư nhiều thời gian,công sức và tiền của cho công tác giáo dục đào tạo để biến những tiềm năng nguồn nhân lực Việt Nam thành hiện thực.
c)Phẩm chất đạo đức tinh thần của người Việt Nam.
Xem xét chất lượng nguồn nhân lực không thể không nói đến đạo đức,tư tưởng,văn hóa,tâm lý,tính cách...của con người. Đây là phẩm chất đạo đức-tinh thần có vai trò hết sức quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng nguồn nhân lực,thúc đẩy tính tích cực và làm gia tăng hiệu quả hoạt động của con người.Những phẩm chất đạo đức-tinh thần trên không chỉ do tồn tại xã hội đương thời chi phối mà còn chịu ảnh hưởng dai dẳng của xã hội trước,nhất là khi đã trở thành truyền thống.Con người là sản phẩm của lịch sử,nên dù có ý thức hay không đều mang trong mình một di sản truyền thống nhất định.Mà truyền thống thì bao gồm cả yếu tố giá trị,tích cực lẫn những yếu tố phản giá trị,tiêu cực.Vì vậy,trong tư tưởng, đạo đức,văn hóa tâm lý,tính cách của con người Việt Nam hôm nay,bên cạnh những giá trị truyền thống tốt đẹp,có cả những di sản không tốt từ truyền thống cần được khắc phục trong quá trình phát triển.Nổi cộm là những tư tưởng và tâm lý tiểu nông, đó là:coi trong địa vị,ngôi thứ,chủ nghĩa hình thức,gia trưởng;nặng về tình nghĩa hơn lý lẽ;thiên về tình cảm,kinh nghiệm,thiếu lý trí,thực nghiệm khoa học; dễ thỏa hiệp,bảo thủ,dung hòa;hay nể nang,tùy tiện,sống theo lệ hơn là theo luật;lối sống mang nặng tâm lý cộng đồng làng xã,lấy các quan hệ họ hàng,làng xóm làm chuẩn mực cư xử...Tất cả những điều đó đã làm cho con người trở nên thiển cận, đố kỵ,bản vị,cục bộ,bè phái.Trong truyền thống,người Việt Nam thường không đề cao trí tuệ(mặc dù trọng sự học)mà ca tụng sự khôn khéo:" ăn cỗ đi trước,lội nước theo sau",thủ thế,giữ mình..Những đặc điểm trên đây chẳng những hoàn toàn xa lạ,không thích hợp với con người lao động công nghiệp,mà còn tạo ra"sức ì"ghê gớm,là lực cản quá trình phát triển kinh tế.Vì vậy,việc cải tạo,khắc phục và xóa bỏ những di sản tiêu cực của truyền thống thực sự là một cuộc đấu tranh rất khó khăn,phức tạp và lâu dài như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói:"Thói quen và truyền thống lạc hậu cũng là kẻ địch to,nó ngấm ngầm cản trở cách mạng tiến bộ.Chúng ta lại không thể trấn áp nó,mà phải cải tạo nó một cách rất cẩn thận,rất khó chịu,rất lâu dài".
2.1.4. Đánh giá chung chất lượng nguồn nhân lực nước ta hiện nay.
Dân số nước ta đông,tốc độ tăng dân số khá lớn,tạo ra lực lượng lao động dồi dào và trẻ,nhu cầu về việc làm ngày càng tăng,giá lao động lại rẻ, đây đang là lợi thế so sánh quan trọng của nguồn nhân lực của nước ta.Mặt khác,con người Việt Nam có truyền thống yêu nước,cần cù,chịu khó,có tư chất thông minh và sáng tạo,có khả năng thích ứng nhanh với hoàn cảnh.
Không chỉ trong quá khứ mà cả ngày nay,không chỉ tầng lớp trên xã hội mà cả người dân bình thường cũng có truyền thống hiếu học,trọng học dù điều kiện khó khăn cũng đều cố gắng cho con cái của mình được học hành, đỗ đạt cao để trở thành trí thức,có địa vị xã hội.Mặt khác,do ảnh hưởng của văn minh Trung Hoa,Nhất là của Nho giáo ở nước ta vẫn tồn tại khá phổ biến là tâm lý trọng chức tước,thích làm quan và coi quan tước là một bậc thang đánh giá sự tiến bộ của một cá nhân. Điều đó thúc đẩy nâng cao dân trí,nâng cao trình độ học vấn của dân tộc,phản ánh trách nhiệm cao của cha mẹ với con cái,với thế hệ trẻ.
Do đặc điểm của sản xuất nông nghiệp truyền thống mang nặng tính tự cung tự cấp,thêm vào đó cơ chế tập trung bao cấp quan niệm hiện vật tồn tai trong một khoảng thời gian khá dài ở Việt Nam một tập tính không quen hạch toán kinh tế,ngại trao đổi,buôn bán.Từ khi thực hiện nền kinh tế hàng hóa thị trường,tập tính không phù hợp này phần nào được dỡ bỏ và cải biến,người Việt Nam đã bắt đầu làm quen với nền kinh tế thị trường,song nói chung sự yếu kém về năng lực hạch toán,quản lý kinh tế vẫn còn là hạn chế lớn của người Việt Nam hiện nay.
Qua một số đánh giá trên cho thấy dân số nước ta tuy đông nhưng chất lượng sống thấp,lực lượng lao động dồi dào nhưng chất lượng hạn chế,nhất là về trình độ chuyên môn nghiệp vụ,kỹ năng lao động,thể lực và văn hóa lao động công nghiệp, đặc biệt là tư tưởng và tâm lý của người sản xuất nhỏ vẩn còn tồn tại phổ biến của người lao động.Thêm vào đó,việc khai thác và sử dụng số lao động đã qua đào tạo ,có trình độn lại bât hợp lý và kém hiệu quả; đồng thời có sự mất cân đối lớn về cơ cấu trình độ đào tạo và phân bổ lao động giữa các ngành.
Dự báo nguồn nhân lực đến năm 2020
Chỉ tiêu
2000
2005
2010
2020
Dân số
(người)
82.000.000
89.000.000
95.037.000
106.530.000
Nguồn lao động xã hội
(người)
44.000.000
47.161.800
51.750.000
70.000.000
Lao động đang làm việc
37.000.000
39.151.100
41.303.800
47.000.000
Lao động qua đào tạo kỹ thuật nghiệp vụ(người)
9.600.000
22%
14.148.540
30%
20.700.000
40%
42.000.000
60%
Cơ cấu lao động Đại học/Cao đẳng-Trung học chuyên nghiệp và dạy nghề
1-2-5,0
1-2-6,5
1-2,5-9
1-3-12
Đai học và cao đẳng
1.200.000
1.489.320
1.656.000
2.625.000
Trung học chuyên ngiệp
2.400.000
2.978.580
4.140.000
7.875.000
Công nhân kỹ thuật
6.000.000
9.680.580
14.904.000
31.500.000
Công nhân kỹ thuật
(có bằng)
1.800.000
30%
3.380.203
35%
4.961.600
40%
15.750.000
50%
Vấn đề đặt ra là trong quá trình phát triển đất nước,phát triển nguồn nhân lực phải bám sát những yêu cầu phát triển đất nước. Điều này đòi hỏi cần phải cải thiện môi trường kinh tế xã hội,nâng cao chất lượng sống của con người,tiến hành hàng loạt giải pháp thích ứng, đồng bộ,hướng vào việc khai thác,sử dụng và phát triển có hiệu quả nguồn nhân lực.
2.2.Thực trạng các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực.
2.2.1.Tuyển dụng
Hiện nay,nước ta vẫn chưa thật có các giải pháp tuyển dụng nhân viên hợp lý và đặc biệt nhất là khu vực nhà nước.Còn phổ biến hiện tượng sinh viên,học sinh được đào tạo ra làm việc trái nghề của mình cho thấy được rằng việc tuyển mộ chưa hợp lý,tạo ra việc lãng phí tiền của cũng như không đáp ứng được yêu cầu công việc một cách tốt nhất.Ở nước ta chỉ khoảng 70% số người có trình độ đại học,cao đẳng và trung học chuyên nghiệp làm việc đúng ngành nghề đào tạo.Chẳng hạn,trong số học sinh tốt nghiệp các nghành nông,lâm,ngư nghiệp ở các trường trung học chuyên nghiệp chỉ trên 40% làm việc đúng ngành nghề,còn trong số sinh viên tốt nghiệp đại học ở các khoa này thì chỉ khoảng 20% đúng ngành đào tạo.Trong số lao động chuyển ngành nghề so với ngành nghề được đào tạo,chỉ có 42,5% được đào tạo lại,số còn lại 57,5% làm trái nghề,coi như chưa đào tạo.Ở khu vực hành chính sự nghiệp và bộ máy sản xuất kinh doanh khu vực nhà nước hiện có khoảng 30% cán bộ,nhân viên không đủ trình độ chuyên môn hay làm không đúng nghề,họ làm việc chủ yếu bằng kinh nghiệm...Tình hình này làm cho chất lượng lao động càng hạn chế.Do đó cần đưa ra được các giải pháp nhằm giảm thiểu tình trạng này,sắp xếp đúng người đúng việc thỏa mãn nhu cầu con người cho xã hội.
2.2.2.Đào tạo
Theo số liệu điều tra xã hội học của Tổng liên đoàn lao động,trong tổng số 5.303 công nhân thì có tới 4,13% công nhân ở trình độ tiểu học(cấp I cũ),34,54% công nhân ở trình độ trung học cơ sở( cấp II cũ),43,37% công nhân ở trình độ trung học phổ thông(cấp III cũ),13,29% công nhân có trình độ trung cấp,và số có trình độ đại học và trên đại học chiếm một tỷ lệ thấp là 4,34% và 0,08%.
Qua số liệu nghiên cứu trên có thể đưa ra một số nhận xét chung:
Trình độ học vấn của công nhân còn thấp,hiện vẫn còn khoảng 20% chưa phổ cập cấp II và 53% chưa phổ cập cấp III,đây là một yêu cầu cấp bách đặt ra cho xã hội,đặc biệt là các nhà hoạt động chính sách.
Công nhân không biết ngoại ngữ chiếm tỷ lệ rất cao,khoảng từ 86%(Tiếng Anh) đến 98% các thứ tiếng khác.
Số công nhân có bậc thợ cao từ bậc 5 trở lên còn ít hơn nhiều so với số công nhân bậc thợ thấp(từ bậc 1 đến bậc3);tỷ lệ này là 25.10% so với 31,25%.Đáng chú ý là tỷ lệ công nhân không nghề,lao động phổ thông còn lớn:24,63%.Ở độ tuổi từ 35 trở xuống,số thợ bậc cao càng ít,chỉ chiếm khoảng 12%
Đối với các ngành nghề khác nhau,các lĩnh vực có vị trí địa lý và cơ cấu kinh tế-xã hội khác nhau có cơ cấu công nhân có trình độ văn hóa,nghề nghiệp cũng khác nhau.Song dù ở đâu thì trình độ văn hóa và nghề nghiệp của họ cũng còn thấp chưa đáp ứng được so với yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước.
Qua đấy thấy được rằng việc đào tạo đội ngũ công nhân chưa sâu,công tác giáo dục chưa thành nếp sống chung của toàn xã hội.Chỉ khi xã hội hóa được giáo dục thì mới có thể nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nhanh và mạnh mẽ phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội.
2.2.3.Đãi ngộ
Hiện nay các chính sách của Nhà nước nhằm thu hút nguồn nhân lực đưa lao động đã qua đào tạo về phục vụ các khu vực nông thôn,miền núi đã có nhiều hiệu quả việc mở rộng cửa ,trải thảm đỏ cho sinh viên ra trường có điều kiện công tác ngay ở khu vực nông thôn đã khuyến khích khá lớn lượng sinh viên mới ra trường tham gia.Với các chính sách hữu hiệu để thu hút lao động đã qua đào tạo đến làm việc ở các vùng nông thôn miền núi.Trong những năm qua nhà nước ta đã có những chính sách nhằm khuyến khích sinh viên mới ra trường đến công tác và lập nghiệp ở các vùng nông thôn:như được hưởng 100% lương trong thời gian tập sự,tăng các loại phụ cấp để thu nhập của họ gấp hai lần lương cơ bản,tăng thời gian nghỉ phép lên gấp đôi và một số cơ chế ưu đãi khác.
Nhà nước còn đưa ra các chính sách thu hút nguôn lao động trí thức nước ngoài ,Việt kiều về tham gia kinh doanh tại Việt Nam với các ưu đãi,các cơ chế thông thoáng tạo điều kiện làm ăn kinh doanh và đóng góp chất xám cho xã hội,Hiện nay theo ước tính có khoảng 400.000 người Việt Nam có trình độ đại học trở lên sinh sống ở nước ngoài(chiếm 15% trên tổng số trên 2,5 triệu Việt kiều)trong số đó nhiều người là giáo sư,tiến sĩ,chuyên gia giỏi,giữ những vị trí quan trọng trong khoa học và công nghệ các nước.Do đó cần có chính sách đãi ngộ hợp lý đáp ứng được các yêu cầu thuận tiện cho công dân Việt Nam ở nước ngoài có thể về nước làm ăn,sinh sống đây cũng là nguồn lực quan trọng cho phát triển đất nước.
2.2.4.Đánh giá
Tốc độ tăng nguồn lao động còn ở mức cao, đến năm 2000 bình quân mỗi năm tăng nguồn lao động khoảng 2,95%. Thời kỳ 2001 đến 2010, số lao động cần giải quyết việc làm mới vào khoảng 11-12 triệu người, hầu hết là lao động trẻ, trong khi nguồn lực đầu tư cả trong nước và quốc tế cho phát triển sản xuất tất hạn chế. Theo tính toán, sau năm 2000 trên tổng thể nước ta vẫn dư thừa lao động. Mặt khác, tỷ lệ thất nghiệp thành thị hiện nay còn rất lớn và đang có xu hướng tăng lên. năm 1999 tỷ lệ đó là 6,85%, tăng thêm 0,84% so với năm 1997; đặc biệt là Hà Nội, tỷ lệ đó là 9,09% so tổng lực lượng lao động. Trong nông thôn, tình trạng thiếu việc làm rất nghiêm trọng và cũng đong có xu hướng tăng lên. tỷ lệ sử dụng thời gian lao động trong nộng thôn của lưc lượng lao động trong độ tuổi, năm 1998 là 71,13%, so với 1997 giảm 2,01% (1997 là 731,14%). Trong khi đó lại thiếu nghiêm trọng lao động kỹ thuật cao. Nhiều lĩnh vực như: lắp ráp ô tô, đóng tàu, dầu khí.v.v phải thuê lao động nước ngoài. đó là một mâu thuẫn gay gắt hiện nay.
Với chủ trương tiếp tục công cuộc đổi mới, tập trung phát triển các ngành, các lĩnh vực, các sản phẩm có lợi thế. Nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế, nước ta phải đối mặt với một thách tức lớn về chất lượng nguồn nhân lực. Tỷ lệ lao động qua đào tạo rất thấp (nảm 1998 tỷ lệ này là 17n,8%). Chưa có chính sách phân luồng trong giáo dục và đào tạo, cơ cấu đào tạo bất hợp lý, tỷ lệ giữa đại học, cao đẳng, trung học và công nhân kỹ là 1-1,6-3, 6. Trong khi các nước khác là 1-4-10; giáo dục, đào tạo nặng về bằng cấp, thi cử, xu hướng thương mại hoá trong đào tạo khá phổ biến; đào tạo không gắn với sản xuất và thị trường sức lao động (không gắn với sử dụng); lao động trong nông nghiệp nông thôn hầu như không được đào tạo. Có thể nói, điểm yếu cơ bản nhất của giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực của nước ta thời gian qua là chưa tạo ra được một đội ngũ lao động có năng lực và có tính năng động xã hội cao, đáp ứng yêu cầu của sản xuất, của thị trường sức lao động.
Nguồn nhân lực Việt Nam hơn bao giờ hết cần được đào tạo để phát triển nội lực với giá trị mới và vượt qua được những thách thức mới của thị trường lao động trong nền kinh tế tri thưc tương lai.
CHƯƠNG III: NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC
3.1.Phương hướng và những quan điểm chỉ đạo.
-Phương hướng chung.
Biến đổi cơ cấu nguồn nhân lực phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội.Về cơ cấu lao động,cần khắc phục tình trạng bất hợp lý trong cơ cấu lao động giữa các ngành,các khu vực sản xuất trong thời gian qua,từng bước chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tăng lao đồn cho sản xuất công nghiệp,giảm lao động nông nghiệp, Đại hội Đảng lần thứ IX nêu lên mục tiêu:tăng lao động cho công nghiệp,xây dựng và dịch vụ lên 50% vào năm 2010,giảm lao động nông,lâm,ngư nghiệp cả về số tuyệt đối và tỷ trọng từ 61,3%(năm 2000) xuống còn 50%(năm 2010).Bên cạnh đó cần nhanh chóng khắc phục tình trạng thừa thầy thiếu thợ như hiện nay theo hướng gắn việc hình thành các khu công nghiệp,các khu công nghệ cao với các trường dạy nghề.Phát triển nhanh và phân bổ hợp lý các trường dạy nghề trên cả nước,mở rộng các loại hình đào tạo nghề đa dạng,linh hoạt năng động.Phấn đấu đạt số học sinh công nhân kĩ thuật tăng 11-12%/năm trong giai đoạn 2000-2005.
Nâng cao toàn diện chất lượng nguồn nhân lực.
Về tầm vóc,thể lực:Phấn đấu đến năm 2010,giảm tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng xuống còn khoảng 20% và tăng tuổi thọ trung bình lên 71 tuổi.Ngoài ra cần tạo điều kiện thuận lợi và tổ chức tốt việc nghỉ ngơi vui chơi giải trí cho nhân dân,từ việc đi tham quan nghỉ mát,thưởng thức nghệ thuật đến tổ chức các lễ hội truyền thống..Như vậy cùng với việc cải thiện đời sống vật chất,nhu cầu tinh thần của con người cũng không ngừng được nâng lên.Việc thỏa mãn những nhu cầu đó vừa góp phần vào việc đẩy nhanh quá trình tái sản xuất sản phẩm sức lao động,vừa nâng cao thể lực của con người.
Về trí lực:Nâng cao trí lực là nhiệm vụ cơ bản và xuyên suốt quá trình xây dựng nguồn nhân lực.Trí lực là yếu tố quan trọng nhất,quyết định chất lượng người lao động trong điều kiện kinh tế tri thức đang phát triển mạnh mẽ.Để nâng cao năng lực chuyên môn,trình độ tay nghề và kỹ năng nghề nghiệp của người lao động,trong những năm tới phải quan tâm hơn nữa đến các lĩnh vực sau : đảm bảo cho trẻ em trong độ tuổi đi học cấp I đều được đến trường;phấn đấu phổ cập trung học cơ sở trong cả nước;tiếp tực việc thực hiện xóa mừ chữ,khắc phục tình trạng tái mù chữ và nâng cao trình độ học vấn cho người lao động thông qua hệ thống giáo dục thường xuyên;phấn đấu đến năm 2010,nâng tỷ lệ lao động được đào tạo lên 40%.Hiện nay con số người lao động không được đào tạo nghề ở nước ta còn đông.Trong nền kinh tế thị trường và mở cửa,người lao động không biết nghề thì bản thân họ rất khó tìm việc,vì ngày nay người ta quan tâm chủ yếu đến chất lượng lao động chứ không tập trung vào khai thác số lượng lao động như trước đây.Vì vậy,phát triển đào tạo nghề phải gắn với các chương trình kinh tế-xã hội của đất nước,với nhu cầu phát triển kinh tế của các ngành,các vùng kinh tế.Thực hiện xã hội hóa đào tạo nghề nhằm thu hút mọi nguồn lực trong và ngoài nước cho việc đào tạo nghề,tạo thuận lợi cho người lao động có cơ hội học nghề để tìm kiếm việc làm.
Về phẩm chất đạo đức-tinh thần của con người Việt Nam:Phẩm chất đạo đức-tinh thần ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng nguồn nhân lực.Vì vậy,nâng cao chất lượng nguồn nhân lực không chỉ chú ý đến thể lực và trí lực mà phải coi trọng cả phẩm chất đạo đức-tinh thần của con người.Để có được những con ngươì có phong cách sống và kỹ năng lao động nghề nghiệp tốt.Mỗi dân tộc đều có những giá trị truyền thống của mình gắn với con người và đất nước.Giá trị truyền thống là nền tảng mà trên đó các thế hệ nối tiếp nhau phải thừa kế và phát triển.Không dựa trên nền tảng giá trị truyền thống thì không thể tiếp thu có hiệu quả những thành tựu văn minh nhân loại.
-Những quan điểm chỉ đạo.
Nhận thức đúng vị trí và đặc điểm con người trong thời đại ngày nay,thấy được nguồn lực con người là nguồn lực quan trọng nhất trong tất cả các nguồn lực hiện có để phát triển kinh tế-xã hội,trên cơ sở đó xây dựng thành công chiến lược con người.
Xây dựng,phát triển nguồn nhân lực nhằm phát huy tốt nhất vai trò quyết định của nguồn nhân lực đối với sự thành công của nền kinh tế,đồng thời không ngừng gia tăng giá trị con người.
Xây dựng phát triển con người theo yều cầu đất nước trong nền kinh tế thị trường,cách mạng khoa học công nghệ và hội nhập quốc tế.
Gắn phát triển nguồn nhân lực với khai thác,sử dụng lao động;lấy hiệu quả kinh tế-xã hội làm tiêu chuẩn và thước đo để xác định phương hướng khai thác và phát triển nguồn nhân lực.
Xây dựng nguồn nhân lực bằng nhiều cách,nhiều con đường,biện pháp mang tính tổng hợp và đồng bộ;kết hợp giữa cá thể hóa với xã hội hóa;truyền thống với hiện đại,dân tộc với quốc tế.
-Nhiệm vụ và mục tiêu kế hoạch dài hạn phát triển nguồn nhân lực đến năm 2020.
Đến năm 2020 phấn đấu về cơ bản đưa nước ta trở thành nước công nghiệp và đạt chỉ tiêu 50-60% lao động qua đào tạo nghề nghiệp.
Phát triển đào tạo đại học,trung học chuyên nghiệp,đẩy mạnh đào tạo công nhân lành nghề,bảo đảm có được có nhiều nhân tài đất nước
Phấn đấu sớm có một số cơ sở giáo dực từ phổ thông đến đại học đạt tiêu chuẩn quốc tế.
3.2.Các nhóm giải pháp cơ bản.
3.2.1.Đào tạo.
-Nhận thức đúng vị trí của giáo dục đào tạo.Điều đầu tiên cần chú ý là phải lam cho toàn Đảng ,toàn dân nhận thức sâu sắc rằng giáo dục và đào tạo là nền tảng của chiến lược con người;rằng mọi chiến lược phát triển kinh tế xã hội sẽ không thể thành công nếu không thực hiện tốt chiến lược phát triển đào tạo.Quan niệm tích cực này càng trở nên cấp thiết trong điều kiện hiện nay,khi tỷ lệ lao động cơ bắp ngày một giảm,còn lao động trí tuệ ngày một gia tăng;khi lợi thế lao động đông và giá nhân công nhân công rẻ nhanh chóng mất tác dụng do thành tựu của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại mang lại.Giáo dục và đào tạo đóng vai trò quyết định trong việc gây dựng nguồn nhân lực-nguồn lực qúy giá nhất trong các nguồn lực.Nguồn lực quý giá đó lại do chính chúng ta gây dựng nên chứ không thể chuyển giao từ bên ngoài như chuyển giao công nghệ,không thể thu hút từ các nước phát triển như thu hút đầu tư.Bởi thế,giờ đây phảo thật coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu,giáo dục và đào tạo phải được đi trước một bước,thậm chí đi trước nhiều bước.Ngoài ra,theo một ý nghĩa sâu rộng hơn,giáo dục và đào tạo còn có tác dụng thúc đẩy hiểu biết sâu sắc hơn về thế giới xung quanh chúng ta,về bản sắc từng dân tộc,cũng như sự tương đồng khác biệt giữa các nền văn hóa văn minh,các giai cấp,các quốc gia-dân tộc,...nghĩa là giáo dục có vai trò mở rộng tầm nhìn,nâng cao trình độ tri thức cho người lao động,để họ có thể tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại trong khi vẫn bảo tồn được văn hóa dân tộc.
-Tiếp tục đổi mới hệ thống giáo dục.Cùng với việc nhận thức đúng vai trò,vị trí của giáo dục và đào tạo,tiếp tục đổi mới hệ thống giáo dục và đào tạo ở tất cả các bậc đại học từ nội dung đến phương pháp,để sản phẩm đào tạo ra có chất lượng cao,đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động trong nước và quốc tế.Việc thiết kế hệ thống kiến thức giáo dục và đào tạo cần thực hiện theo phương châm cơ bản,hiện đại,thiết thực,bám sát yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước và xu thế tiến bộ của thời đại.Nội dung của giáo dục phải bao gồm không chỉ những kiến thức thuần túy về khoa học,kỹ thuật công nghệ,chuyên môn nghề nghiệp,mà còn cả những kiến thức về văn hóa nhân văn-về tính nhân văn,những giá trị nhân văn sâu sắc của con người Việt Nam.Phải giáo dục cho thế hệ trẻ Việt Nam òng quyết tâm,ý chí vươn lên không cam chịu đói nghèo lạc hậu ngay từ khi còn nhỏ,đang học tập ở bậc tiểu học.Đồng thời phải giáo dục đạo đức,thể chất,giáo dục văn hóa lao động công nghiệp,ý thức tiết kiệm,tinh thần lao động,trách nhiệm công dân,ý thức dân tộc,trang bị cho người học vốn hiểu biết về môi trường sinh thái,về văn hóa pháp luật và văn hóa dân chủ,chuẩn bị cho họ thói quen sống và làm việc trong một xã hội công dân có kỷ cương,pháp luật nghiêm minh.
Như vậy muốn cho con người-sản phẩm của giáo dục và đào tạo có đủ những năng lực và phẩm chất cần thiết,thích ứng được không chỉ với điều kiện hiện nay mà cả trong tương lai,thì nội dung giáo dục và đào tạo phải được định hướng đầy đủ theo các mục tiêu:kinh tế,xã hội,kỹ thuật,nhân văn,chính trị và phát triển.Những định hướng giá trị cơ bản cần được giáo dục cho con người Việt Nam hiện nay là:yêu nước,trung thành tuyệt đối với lợi ích quốc gia dân tộc,có tinh thần cố kết cộng đồng,có niềm tin vững chắc,có quyết tâm cao thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội;có phẩm chất đạo đức tốt;có bản chất nhân văn nhân đạo,nhân ái;có thể lực cường tráng;có trình độ khoa học công nghệ;con người công dân;con người vừa đậm đà bản sắc dân tộc,vừa có cá tính và bản sắc bản lĩnh riêng.
-Phương pháp giáo dục và đào tạo cũng cần đổi mới thật sự.Phương pháp gồm nhiều con đường,cách thức,biện pháp,nhưng phương pháp chung có hiệu quả cao và đang trở thành xu hướng có tính phổ biến là biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo.Phương pháp này có tác dụng kích thích,phát huy tính chủ động tích cực,thúc đẩy sự phát triển trí tuệ và khai thác khả năng sáng tạo của người học,giúp họ hình thành năng lực và phương pháp tư duy khoa học.Không có năng lực và phương pháp tư duy khoa học,thì không thể có sự phát trí tuệ thật sự và do đó,nhân cách sẽ thiếu hụt một thành tố quan trọng,làm cho người ta dễ dao động và không có sức mạnh tự thân.Giờ đây hiệu quả của giáo dục đào tạo không chỉ tính bằng sự phát triển của năng lực sáng tạo,phương pháp tư duy khoa học,khả năng thích nghi và khả năng biến tri thức thành kỹ năng người lao động.Đây là điểm cần thiết của người học,là nền tảng và phương tiện quan trọng giúp họ đạt hiệu quả cao không chỉ trong hoạt động thực tiễn mà cả trong quá trình tiếp tục tự đào tạo,cập nhật thường xuyên kiến thức sau này,nếu không muốn tụt hậu,vì trong thời đai thông tin bùng nổ,tri thức hiện nay,cứ mỗi 7 năm lượng tri thức lại tăng gấp đôi..Do vậy,nếu như về mặt không gian,giáo dục và đào tạo phải được mở rộng ra toàn xã hội,thì về mặt thời gian,giáo dục và đào tạo phải được kéo dài suốt đời người để người lao động kịp thích nghi,thích ứng với yêu cầu phát triển xã hội.
-Thực hiện giáo dục đào tạo trên những nguyên tắc mới:xã hội hóa,dân chủ hóa và nhân văn hóa.
Xã hội hóa giáo dục và đào tạo là huy động toàn xã hội làm giáo dục,động viên các tầng lớp nhân dân góp sức xây dựng nền giáo dục quốc dân dưới sự quản lý của nhà nước.Đây là một tư tưởng chiến lược coi sức mạnh toàn xã hội là điều kiện tiên quyết để phát triển có hiệu quả sự nghiệp giáo dục và đào tạo một cách lâu dài,chứ hoàn toàn không phải là một giải pháp tình thế,có tính chất sách lược.Xã hội hóa cần được hiểu là giáo dục chio mọi người,toàn dân được giáo dục suốt đời;là mọi người cho giáo dục,vì giáo dục;mỗi người phải tự học,tự đào tạo qua thực tiễn.
Dân chủ hóa giáo dục là động lực quan trọng thúc đẩy tinh năng động,năng lực sáng tạo,tính tích cực của chủ thể và khách thể giáo dục,do đó chất lượng giáo dục được nâng cao.Ngày nay người ta coi sự bình đẳng về cơ hội học nghề là một trong những mục tiêu trọng yếu của dân chủ hóa giáo dục.Nghĩa là,Nhà nước đảm bảo sao cho mỗi người đều có cơ hội học tập thích đáng để có được một nghề nghiệp xứng đáng.Một xã hội càng có nhiều người như vậy thì sức mạnh xã hội sẽ càng được nhân lên.
Nhân văn hóa giáo dục nhằm hướng đến việc hình thành và phát triển toàn diện nhân cách cho học sinh.Đòi hỏi quá trình giáo dục đenm đến cho học sinh không những kiến thức khoa học,trình độ học vấn mà còn hàng loạt phẩm chất càn thiết ở con người.Đó là niềm tin trên cơ sở hiểu biết,là tinh thần phê phán,tôn trọng sự thật và chân lý,thái độ trọng thực tiễn và hiệu quả,là những quan điểm đúng đắn về lẽ sống,các chuẩn mực đạo đức,các giá trị thẩm mỹ thể chất,về cội nguồn văn hóa dân tộc,phương pháp tư duy lịch sử,sự kết hợp truyền thống và hiện đại và về những định hướng giá trị trong con người Việt Nam cần vươn tới.Chẳng những thế mà Nhật Bản và các nước công nghiệp mới châu Á rất chú trọng đến tính nhân văn trong giáo dục của họ.
-Mở rộng quy mô đi đôi với nâng cao chất lượng và hiệu quả của giáo dục đào tạo.
Mở rộng quy mô với việc tăng số lượng người học thông qua đa dạng hóa các hình thức và các loại hình đào tạo để các tầng lớp dân cư có điều kiện nâng cao dân trí,nhanh chóng giải quyết chất lượng nguồn lao động.Do đó,cùng với các trường trung học chuyên nghiệp,các trường và trung tâm đào tạo công nhân kỹ thuật để nhanh chóng đáp ứng nhu cầu lao động kỹ thuật của các thành phần kinh tế ở địa phương mình.Mặt khác,mở thêm các trường đào tạo của ngành,các công ty,doanh nghiệp lớn có thể thành lập cơ sở đào tạo công nhân kỹ thuật riêng hoặc ký hợp đồng đào tạo trực tiếp với các trường theo yêu cầu riêng của doanh nghiệp;tăng cường đào tạo nghề mới hoặc đào tạo lại công nhân kỹ thuật bằng các khóa dài ngày hay ngắn ngày dưới hình thức kèm cặp tại chỗ ở nơi sản xuất(nhà máy,xí nghiệp,công xưởng...)với phương châm "cần gì học nấy".Cách đào tạo này có hiệu quả nhiều mặt,không chỉ tạo thị trường sử dụng sản phẩm đào tạo,nối liền đào tạo với sử dụng,mà còn hình thành quan hệ ràng buộc về mặt trách nhiệm,nghĩa vụ của cơ sở sử dụng lao động với các cơ sở đào tạo về vốn,về điều kiện thực hiện kỹ năng.Đồng thời,tăng cường dạy nghề tại nông thôn dưới hình thức các lớp ngắn hạn nhằm tạo việc làm mới,nâng cao năng suất lao động.
Nâng cao chất lượng trên cơ sở tiếp thu những tiến bộ khoa học,công nghệ hiện đại cả về nội dung kiến thức,phương pháp giáo dục đào tạo. Vấn đề này phụ thuộc nhiều về yếu tố,từ nội dung chương trình đến người thầy,phương pháp,điều kiện phương tiện vật chất,...trong đó khâu thanh tra giữ vai trò đặc biệt quan trọng.Vì vậy,cần thường xuyên kiểm tra,đánh giá xác minh,dư luận xã hội về chất lượng đào tạo,nhất là các trường đại học dân lập,đại học mở,các hệ đào tạo không chính quy để lập lại trật tự kỷ cương trong giáo dục và đào tạo,nâng cao chất lượng sản phẩm đào tạo.
Nâng cao hiệu quả giáo dục đào tạo bằng cách gắn đào tạo với sử dụng.Cần khắc phục tình trạng bất cập giữa đào tạo với thị trường lao động dẫn đến hiện tượng sản phẩm đào tạo ra vừa thừa lại vừa thiếu như hiện nay.Sự bất cập này chẳng những không đáp ứng được yêu cầu về số lượng chất lượng lao động,làm giảm hiệu quả giáo dục đào tạo,mà còn gây nên sự lãng phí đáng tiếc nhất là khi nguồn vốn đầu tư cho giáo dục và đào tạo còn qúa ít ỏi.Do vậy, phải trên cơ sở nghiêm túc rà soát lại mà đưa ra một kế hoạch và quy hoạch đào tạo hợp lý theo lĩnh vực và theo bậc đào tạo,kể cả đào tạo lại,đặc biệt là phải có chiến lược giáo dục và đào tạo hữu hiệu.Chiến lược này phải gắn với nhu cầu thị trường lao động,phải mang trong mình chức năng dự báo,đón đầu được các kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội.
- Phát hiện và đào tạo nhân tài có hiệu quả.Một trong những nhiệm vụ quan trọng của giáo dục đào tạo là phát hiện,bồi dưỡng và nâng đỡ các tài năng để tạo ra đội ngũ chuyên gia giỏi,các nhân tài trong các lĩnh vực.Thiếu đội ngũ này không thể nói đến văn minh,hiện đại và do đó,xã hội không thể phát triển.Họ thực sự là tài sản quý hiếm của mỗi quốc gia và ngày càng trở nên quý giá trong thời đại ngày nay khi sức mạnh của mỗi dân tộc được đo bằng sức mạnh của nguồn lực trí tuệ.Đành rằng không có một chương trình"đào tao-bồi dưỡng-nâng đỡ"nào tự nó làm nảy sinh nhân tài cũng khác nhau.Vì thế,cần có môi trường hoạt động thuận lợi thúc đẩy sự xuất hiện nhân tài.Môi trường đó phải là sự tự do tư tưởng,kích thích tư duy sáng tạo,dồi dào về thông tin,có đủ phương tiện cần thiết cho hoạt động sáng tạo và được trọng dụng,đãi ngộ thỏa đáng về vật chất và tinh thần.
-Phát triển số lượng và nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên.Xây dựng đội ngũ giáo viên đủ về số lượng,bảo đảm chất lượng,có trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp,tập trung tâm lực vào sự nghiệp giáo dục và đào tạo.
Nâng cao mức sống và điều kiện làm việc cho giáo viên đảm bảo cho người thầy có thể lao động hết mình vì sự nghiệp trồng người.Từ vài năm trở lại đây đã có sự điều chỉnh thang bậc lương hành chính sự nghiệp cho giáo viên lên mức cao nhất.Tuy nhiên so với các thang bậc khác thì cũng không chênh lệch là mấy,chưa nói đến so sánh thu nhập của giáo viên với thu nhập của các nghề nghiệp có lợi thế khác trong xã hội còn thấp rất nhiều.Do đó chế độ tiền lương hiện hành vẫn chưa trở thành động lực mạnh để các giáo viên chuyên tâm với nghề nghiệp.
Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên,sử dụng hợp lý và khai thác có hiệu quả tài năng của họ.Nhà nước cần có những sự quan tâm đặc biệt đến đội ngũ này thông qua các chính sách,chế độ cụ thể,thiết thực về tiền lương,nhà ở,hưởng thụ các dịch vụ xã hội,các phần thưởng các danh hiệu cao quý..
-Đầu tư thỏa đáng cho giáo dục và đào tạo.Vấn đề nóng bỏng nhất và quan trọng nhất lúc này là huy động các nguồn lực đầu tư cho giáo dục và đào tạo;nhân lực,vật lực và tài lực.Kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy đầu tư cho giáo dục và đào tạo chính là đầu tư cơ bản,đầu tư cho sản xuất,đầu tư cho sự phát triển nhanh,bền vững và hiệu quả nhất(ở Mỹ,đầu tư cho giáo dục 1USD lãi 4USD,ở Nhật đầu tư 1USD lãi 10 USD).Đầu tư cho giáo dục đào tạo không chỉ là đầu tư cho con người như một phương tiện phát triển xã hội,mà còn là đầu tư cho chính mục tiêu phát triển con người của xã hội.Vì vậy,Nhà nước cần điều chỉnh ngân sách cho giáo dục đào tạo ít ra cũng nên bằng mức đầu tư của các nước phát triển ở khu vực Châu Á- trên 20%.Nói một cách tổng quát,phải xã hội hóa đầu tư cho giáo dục và đào tạo,trong đó ngân sách nhà nước giữ vai trò chủ đạo,vì giáo dục và đào tạo,trong đó ngân sách Nhà nước giữ vai trò chủ đạo,vì giáo dục và đào tạo đem lại lợi ích chung cho toàn xã hội-"lợi ích lan tỏa".Chỉ như vậy,sự nghiệp giáo dục và đào tạo mới có thể được cải thiện một bước,đáp ứng yêu cầu cung cấp lao động chất lượng cao cho xã hội.
3.2.2.Đãi ngộ.
a)Tạo việc làm cho người lao động.
-Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần và thúc đẩy nó phát triển là điều kiện tiên quyết để giải quyết việc làm.Để cho chính sách kinh tế nhiều thành phần thực sự đi vào cuộc sống.Nhà nước cần tạo ra một môi trường sản xuất kinh doanh thuận lợi cho tất cả các thành phần kinh tế,lấy hiệu quả kinh tế xã hội làm tiêu chuẩn để xem xét,lựa chọn các chính sách phù hợp,hạn chế đến mức tối thiểu sự phân biệt đối xử của các cơ quan quản lý(trong việc đề ra những quy định có tính chất trói buộc hơn là hỗ trợ,thúc đẩy) đối với khu vực kinh tế tư nhân.
-Đặc biệt quan tâm tạo việc làm trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn.Công tác quy hoạch và kế hoạch hóa dài hạn về lao động và việc làm trong nông nghiệp,nông thôn cần tiếp tục đặt ra một cách nghiêm túc và thiết thực,có sự điều tra đánh giá chuẩn việc làm và trợ giúp việc làm quốc gia trong lĩnh vực nông nghiệp,nông thôn phải được cụ thể hóa phù hợp hơn với điều kiện kinh tế xã hội,sinh thái từng vùng.Khuyến khích các hình thức tổ chức sản xuất quy mô lớn theo kiểu trang trại và tạo lập môi trường kinh tế,xã hội và luật pháp thuận lợi cho nó phát triển.Bởi đây là mô hình sản xuất đem lại hiệu quả kinh tế-xã hội lớn như tạo ra khả năng huy động vốn,khai thác tiềm năng sản xuất,tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động và tăng thêm nông sản hàng hóa cho xã hội.Bên cạnh đó chú trọng đầu tư xây dựng,phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế,kỹ thuật và xã hội ở nông thôn,vì nó là tiền đề tất yếu để phát triển sản xuất,nhờ đó tạo việc làm và nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho cư dân nông thôn
-Chú trọng tạo việc làm cho lao động đã qua đào tạo,nhất là đối với lao động trí tuệ.Ở nước ta lực lượng lao động trí tuệ còn quá nhỏ bé so với yêu cầu(mới chỉ chiếm 17,5% lao động xã hội),nhưng hiện tại vẫn còn 2,2% trong tổng số lao động có chuyên môn kỹ thuật chưa có việc làm.Vì lẽ đó,để thúc đẩy khoa học-công nghệ phát triển,tạo ra nhiều việc làm cho đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ,Nhà nước cần có cơ chế chính sách buộc các doanh nghiệp làm việc có hiệu quả bằng cách ứng dụng khoa học,cho phép các doanh nghiệp dùng vốn để làm khoa học.Các công ty lớn ở các nước đều dùng một phần vốn lớn để làm khoa học,thường khoảng 3-5% doanh thu cho nghiên cứu và triển khai,riêng các công ty công nghệ cao dùng 8-12% doanh thu,có công ty dùng tới 17-21% doanh thu cho nghiên cứu triển khai.Mặt khác cần có các chính sách ưu tiên cho vay vốn để đổi mới công nghệ,khuyến khích miễn giảm thuế cho các doanh nghiệp ứng dụng các tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất,đổi mới sản phẩm.Đồng thời,đánh thuế cao đối với các doanh nghiệp sử dụng công nghệ lạc hậu,tiêu tốn nhiêu nguyên nhiên liệu,gây ô nhiễm môi trường..
-Tăng vốn đầu tư tạo việc làm,phát triển thị trường lao động và mở rộng xuất khẩu lao động.Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư,giai đoạn 2005-2010 để phát triển sản xuất,giải quyết việc làm cho nguồn lao động hiện có,cần lượng vốn đầu tư ít nhất khoảng 50 tỷ USD.Để có được lượng vốn lớn như vậy phải tạo vốn từ nhiều kênh,nhưng trước hết Nhà nước cần có chính sách hấp dẫn,tin cậy để thu hút nguồn vốn trong nhân dân dưới nhiều hình thức;đồng thời phải tăng cường tiết kiệm tiêu dùng,nâng dần tỷ lệ tích lũy từ nội bộ nền kinh tế để tập trung cho sản xuất.Lý luận kinh tế cũng như thực tiễn của nhiều nước đều khẳng định nguồn vốn trong nước mới thực sự giữ vai trò quyết định.Cùng với điều đó,nên tiếp tục đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và tranh thủ viện trợ quốc tế hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và tranh thủ viện trợ quốc tế nhằm góp phần giải quyết việc làm và thông qua đó đào tạo nghề nghiệp,nâng cao trình độ chuyên môn người lao động.
-Mở rộng các hệ thống các trung tâm dạy nghề và xúc tiến việc làm,kết hợp với việc thông tin rộng rãi dưới nhiều hình thức về nhu cầu việc làm,khả năng cung ứng lao động được đào tạo cũng như các yêu cầu khả năng sử dụng lao động.Đồng thời cần tạo ra sự liên kết thông tìn giữa người sử dụng và nơi đào tạo,tạo điều kiện thuận lợi để những thông tin về nhu cầu lao động đến với các trường đại học,các cơ sở các trung tâm đào tạo.Sụ phát triển của thị trường lao động có tác dụng gắn kết nhanh giữa cung và cầu lao động,nhờ đó mà hạn chế lãng phí lao động,góp phần khai thác triệt để và có hiệu quả lực lượng lao động xã hội.
-Ngoài ra,tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu lao động dưới nhiều hình thức trên cơ sở kết hợp lợi ích đất nứơc với lợi ích người lao động,đặt nó trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội nói chung.Xuất khẩu lao động không chỉ là giải pháp quan trọng mà nhằm giải quyết việc làm,tăng nguồn thu nhập cho cá nhân và đất nước,mà nó còn là con đường để đào tạo nguồn lao động.Để phát triển thị trường xuất khẩu lao động,phải tăng cường tìm kiếm,mở rộng thị trường nước ngoài,nghiên cứu thị trường quốc tế để đào tạo chuẩn bị nhân lực cho xuất khẩu lao động;đồng thời Nhà nước cho phép các tổ chức kinh tế,cá nhân được tham gia xuất khẩu lao động,dưới sự quản lý thống nhất của nhà nước.
b)Tổ chức lao động xã hội hợp lý,khai thác tốt năng lực người lao động.
-Chính sách tuyển dụng và sử dụng lao động phải gắn với cơ chế thị trường,có sự quản lý hướng dẫn của Nhà nước.Đểb tăng khai thác,sử dụng lao động hợp lý có hiệu quả,phù hợp với cơ chế chung của nền kinh tế,chính sách tuyển dụng và sử dụng lao động ở nước ta hiện nay phải thực sự gắn cơ chế thị trường có sự quản lý hướng dẫn của Nhà nước.Trước hết,vấn đề tuyển dụng lao động phải xuất phát từ nhu cầu thị trường lao động,với sự tác động của các quy luật trong nền kinh tế thị trường.Phải thực hiện chế độ thi tuyển một cách nghiêm túc,khoa học,khách quan với nội dung và mức độ yêu cầu khác nhau tùy theo từng loại lao động.Bằng cấp chứng chỉ mới là bằng chứng,là điều kiện để dự tuyển chứ không phải là tất cả,muốn đánh giá chính xác phải kiểm tra,sát hạch thi tuyển để xác định thực chất mà có quyết định tuyển dụng,bố trí và xếp lương hợp lý.
Cần đa dạng hóa các loại hình tuyển dụng và sử dụng lao động,tuyển chính thức vào biên chế,tuyển theo hợp đồng dài hoặc ngắn hạn và tuyển dụng theo việc cụ thể.
Ngoài ra cần thực hiện cơ chế quản lý lao động thống nhất trên toàn nền kinh tế quốc dân.Phải có chính sách tuyển dụng và sử dụng lao động chung cho mọi thành phần kinh tes,mọi doanh nghiệp,không phân biệt hình thức sở hữu tư liệu sản xuất nhằm bảo đảm quyền dân chủ,bình đẳng trước pháp luật của các doanh nghịêp trên lĩnh vực này.
Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý,sử dụng và trả lương ở khu vực kinh tế nhà nước để từng bước nâng cao hiệu quả của khu vực kinh tế này,đồng thời có những đòn bẩy để giữ chân người tài,mặt khác,tích cực tạo môi trường thuận lợi để phát huy hết mọi khả năng,tạo ra xu hướng,việc khó tìm người tài,người tài tìm việc khó có hiệu quả cao..Kết quả là mọi người làm việc phù hợp với khả năng và sở trường của mình,như vậy trên phạm vi toàn xã hội lao động tiến dần đến chỗ toàn dụng.
-Có chính sách hữu hiệu để thu hút lao động đã qua đào tạo đến làm việc ở các vùng nông thôn miền núi.Trong những năm qua nhà nước ta đã có những chính sách nhằm khuyến khích sinh viên mới ra trường đến công tác và lập nghiệp ở các vùng nông thôn:như được hưởng 100% lương trong thời gian tập sự,tăng các loại phụ cấp để thu nhập của họ gấp hai lần lương cơ bản,tăng thời gian nghỉ phép lên gấp đôi và một số cơ chế ưu đãi khác.Tuy nhiên các chính sách này vẫn chưa đủ mạnh để khắc phục được sự chênh lệch khá xa hiện nay không chỉ về thu nhập mà về cả chất lượng cuộc sống giữa trí thức nông thôn và trí thức thành phố.
-Thực hiện chính sách"cầu hiền" khai thác triệt để lao động trí tuệ.
Tạo môi trường tinh thần -xã hội thuận lợi,phù hợp với yêu cầu của hoạt động sáng tạo.Môi trường đó trước hết theo Lenin,"Phải đảm bảo phạm vi hết sức rộng rãi cho sáng kiến cá nhân,cho khuynh hướng cá nhân,cho tư tưởng và sức tưởng tượng..."
Đầu tư đúng mức,tập trung và có trọng điểm,khắc phục ngay tinh trạng đầu tư dàn trải và quá thấp hiện nay(trên dưới 1% tổng chi ngân sách Nhà nước),thực hiện triệt để việc tăng tỷ lệ ngân sách nhà nước chi cho khoa học và công nghệ không dưới 2% tổng chi ngân sách.
Mặt khác,đã đến lúc Nhà nước phải có chính sách"cầu hiền" theo phương châm "bến hiền thuyền đậu" để khắc phục hữu hiệu tình trạng "teo chất xám","bạc chất xám" đang diễn ra,đồng thời khai thác và sử dụng triệt để đội ngũ lao động trí tuệ hiện có thu hút được trí thức Việt kiều và trí thức nước ngoài vào làm ăn với ta.Bảo đảm chế độ đãi ngộ thỏa đáng về vật chất tinh thần và môi trường,điều kiện,phương tiện làm việc thuận lợi có ý nghĩa quan trọng hàng đầu.
-Bảo đảm sự phù hợp,chính xác trong tuyển dụng,đánh giá,sắp xếp,đề bạt cán bộ.Tình hình trên đòi hỏi Nhà nước sớm có cơ chế,chính sách thích hợp trong việc phát hiện,lựa chọn những người có tài để tạo nguồn xây dựng đội ngũ cán bộ(lãnh đạo,quản lý)như một loại của cải quốc gia quy hiếm.Đồng thời,bố trí cán bộ hợp lý,bảo đảm đúng người,đúng việc với tinh thần lấy tiêu chuẩn làm căn cứ lựa chọn,đề bạt;lấy hiệu quả công việc làm cơ sở đánh giá,đãi ngộ.Muốn vậy,phải tiêu chuẩn hóa chức danh cán bộ,đây là cơ sở không chỉ cho công tác bố trí,đề bạt mà còn cho việc đào tạo,bồi dưỡng cán bộ.Trong lựa chọn cán bộ,để đảm bảo chất lượng kinh nghiệm cho thấy phải liên tục lựa chọn sàng lọc,trong đó lấy thực tài qua công việc làm trọng,không nên chỉ dựa vào bằng cấp,hàm vị,đức phải thể hiện qua cần kiệm liêm chính,ở sự trung thành với lợi ích quốc gia-dân tộc;đồng thời,phải tạo ra môi trường rộng mở cho sự phát triển thi thố tài năng.
KẾT LUẬN
Hội nhập là một tất yếu khách quan. Một doanh nghiệp có thể vươn lên phát triển vững mạnh bằng thời cơ lớn mà hội nhập mang đến nhưng cũng còn chứa trong đó lại là những thách thức, rủi ro không nhỏ.
Thời cơ lớn nhất có thể nói đó chính là sự bùng nổ của khoa học công nghệ mà đỉnh cao là kinh tế tri thức (công nghệ thông tin, tự động hóa, công nghệ sinh học…). Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực có thể chớp lấy thành quả công nghệ, nâng cao chất lượng, kỹ năng cũng như khả năng thay đổi trước môi trường.Nhưng môi trường kinh doanh với sự biến đổi không ngừng, tổng hợp các yếu tố kinh tế, khoa học, công nghệ, văn hoá xã hội, chính trị luật pháp …thách thức với những khó khăn, phức tạp có khi không dự tính trước được cho hoạt động đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. Một doanh nghiệp với các nhà quản trị giỏi và đội ngũ nhân lực hùng hậu, năng động, sáng tạo sẽ tạo ra lực nội sinh mạnh mẽ, đề ra được những chiến lược nhân sự, kinh doanh linh hoạt, hiệu quả và nó có thể thay đổi phương cách kinh doanh, quản lý của doanh nghiệp lên tầm cao của thời đại.
Tổ chức nói chung và doanh nghiệp Nhà nước nói riêng ở Việt Nam còn kém về mọi mặt, mang mặt bằng chung của một nước đang phát triển. Câu hỏi đặt ra có cách mạng nhận thức và năng lực đổi mới mỗi con người trong đội ngũ nhân lực được triệt để hay không, biến đội ngũ nhân lực thành “nhân lực tri thức” sẵn sàng cho hội nhập buộc nhà quản tị và những ai quan tâm đến vấn đề này suy xét và trở lời bằng hành động .
Vấn đề Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực không những là vấn đề cấp bách mà còn mang tính chất chiến lược lâu dài. Trong thời gian ngắn, đề tài đã tập trung làm rõ một số vấn đề sau:
Đi sâu phân tích thực trạng nguồn nhân lực hiện nay từ các mặt trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn, chỉ ra những bất cập hiện nay giữa nguồn nhân lực với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội trong những năm vừa qua. Trên cơ sở dự báo yêu cầu chất lượng nguồn nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước về trước mắt, đề tài kiến nghị một số giải pháp nhằm tăng cường công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong thời gian từ nay đến năm 2020
Tuy nhiên đây là một vấn đề lớn, nội dung phong phú, có liên quan đến nhiều vấn đề về kinh tế, xã hội đòi hỏi sự nỗ lực, tập trung của mỗi ngành, mỗi cấp, một số vấn đề mà đề tài nêu ra sẽ tiếp thu, bổ sung và hoàn thiện hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình kinh tế phát triển-GS.TS.Vũ Thị Ngọc Phùng-NXB Lao động-xã hội-Hà Nội-2005.
Quản trị nguồn nhân lực-Trần Kim Dung-NXB Giáo dục 2001.
Giáo trình chính sách kinh tế- xã hội-PGS.TS Đoàn Thị Thu Hà(chủ biên)-NXB Khoa học-kỹ thuật.
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH-HĐH-PTS.Mai Quốc Chánh(chủ biên)-NXB Chính trị quốc gia-Hà Nội 1999.
Nguồn lực con người trong quá trình CNH-HĐH ở Việt Nam-TS Trần Văn Khái-NXB Lý luận chính trị-Hà Nội 2005.
Lao động,việc làm và nguồn nhân lực ở Việt Nam 15 năm đổi mới(Nolwen Henaff-Jenan yves Martin)NXB Thế giới 2001.
Viện nghiên cứu giáo dục "Những vấn đề chiến lược phát triển giáo dục trong thời kỳ CNH-HĐH đất nước-Bối cảnh-Xu hướng và động lực phát triển''.
Giáo trình Khoa học quản lý Tập II-TS.Đoàn Thị Thu Hà-TS.Nguyễn Thị Ngọc Huyền-NXB Khoa học kỹ thuật 2002.
Văn kiện đại hội Đảng cộng sản toàn quốc lần thứ IX -ĐCSVN-NXB Chính trị quốc gia 2001.
Phát triển con người,từ quan điểm đến chiến lược và hành động-Trung tâm KHXH-NV Quốc gia-NXB Chính trị quốc gia 1999.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 75378.DOC