Tài liệu Đề tài Nâng cao chất lượng công tác phân tích tài chính của Công ty cổ phần thuốc thú y Trung ương I: LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nền kinh tế thị trường đầy năng động như hiện nay, các doanh nghiệp đều phải đối mặt với những khó khăn và nhiều thách thức lớn. Do đó, để tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp phải không ngừng đổi mới tư duy, tác phong công việc và đặc biệt là đổi mới khoa học công nghệ tiên tiến để nhanh chóng đáp ứng nhu cầu và xu thế thị trường. Bên cạnh đó, sự ra đời và phát triển của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cùng các công ty trong nước làm cho sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ngày càng gay gắt và khốc liệt hơn.
Qua thực tiễn nghiên cứu, em nhận thấy công tác phân tích tài chính tại các doanh nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng, không chỉ chứng minh và khẳng định thế mạnh của các doanh nghiệp mà còn góp phần đẩy mạnh sự phát triển của nền kinh tế. Hơn nữa, có rất nhiều đối tượng quan tâm đến tình hình thực trạng tài chính của các doanh nghiệp với rất nhiều mục đích khác nhau, chủ yếu là các nhà quản lý, nhà đầu tư và cá nhân, tổ c...
86 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1042 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Nâng cao chất lượng công tác phân tích tài chính của Công ty cổ phần thuốc thú y Trung ương I, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nền kinh tế thị trường đầy năng động như hiện nay, các doanh nghiệp đều phải đối mặt với những khó khăn và nhiều thách thức lớn. Do đó, để tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp phải không ngừng đổi mới tư duy, tác phong công việc và đặc biệt là đổi mới khoa học công nghệ tiên tiến để nhanh chóng đáp ứng nhu cầu và xu thế thị trường. Bên cạnh đó, sự ra đời và phát triển của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cùng các công ty trong nước làm cho sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ngày càng gay gắt và khốc liệt hơn.
Qua thực tiễn nghiên cứu, em nhận thấy công tác phân tích tài chính tại các doanh nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng, không chỉ chứng minh và khẳng định thế mạnh của các doanh nghiệp mà còn góp phần đẩy mạnh sự phát triển của nền kinh tế. Hơn nữa, có rất nhiều đối tượng quan tâm đến tình hình thực trạng tài chính của các doanh nghiệp với rất nhiều mục đích khác nhau, chủ yếu là các nhà quản lý, nhà đầu tư và cá nhân, tổ chức trực tiếp cho doanh nghiệp vay. Do đó sự chính xác, kịp thời và khoa học của công tác phân tích tài chính doanh nghiệp cùng những dự án khả thi sẽ giúp các nhà quản trị tài chính có chiến lược phát huy thế mạnh một cách hợp lý, sẽ tạo niềm tin vững chắc cho các nhà đầu tư yên tâm rót vốn đầu tư và đặc biệt là thu hút một nguồn vốn dồi dào từ những người cho vay.
Tuy nhiên công tác phân tích tài chính hiện nay chưa được các doanh nghiệp quan tâm một cách thích đáng, cách thức tổ chức phân tích và phương pháp phân tích còn nhiều vướng mắc. Là một sinh viên khoa Ngân hàng-Tài chính, nhận thức được tầm quan trọng của việc phân tích tài chính doanh nghiệp và những kiến thức được trang bị trong suốt quá trình học, em mạnh dạn lựa chọn đề tài “Nâng cao chất lượng công tác phân tích tài chính của Công ty cổ phần thuốc thú y Trung ương I” nhằm đưa ra một số biện pháp, kiến nghị để nâng cao hiệu quả của công tác phân tích tài chính trên cơ sở đánh giá tình hình tài chính của Công ty cổ phần thuốc thú y Trung ương I
2. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu tình hình công tác phân tích tài chính tại Công ty cổ phần thuốc thú y Trung ương I.
- Đề xuất một số biện pháp để nâng cao chất lượng phân tích tài chính tại Công ty cổ phần thuốc thú y Trung ương I.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của chuyên đề là hoạt động phân tích tài chính của Công ty cổ phần thuốc thú y Trung ương I. Chuyên đề đi sâu vào nghiên cứu cách thức tổ chức, phương pháp phân tích và các thông tin sử dụng trong quá trình phân tích tài chính tại công ty.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Chỉ nghiên cứu hoạt động phân tích tài chính của Công ty cổ phần thuốc thú y Trung ương I.
- Về thời gian: Giai đoạn 2006-2008.
- Về giác độ nghiên cứu: Nghiên cứu trên giác độ vi mô.
4. Kết cấu đề tài
Tên đề tài “Nâng cao chất lượng công tác phân tích tài chính của Công ty cổ phần thuốc thú y Trung ương I”
Ngoài lời mở đầu và phần kết luận, phần nội dung của đề tài được chia thành 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về công tác phân tích tài chính doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng công tác phân tích tài chính Công ty cổ phần thuốc thú y Trung ương I.
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng công tác phân tích tài chính tại Công ty cổ phần thuốc thú y Trung ương I.
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TÁC PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
1.1. Khái niệm phân tích tài chính doanh nghiệp
Phân tích tài chính doanh nghiệp là việc thu thập và xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác về quản lý nhằm đánh giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp, đánh giá rủi ro, mức độ và chất lượng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp đó, khả năng và tiềm lực của doanh nghiệp, giúp người sử dụng thông tin đưa ra các quyết định tài chính, quyết định quản lý phù hợp.
Quá trình vận động và chuyển hoá các nguồn lực tài chính trong quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ thuộc hoạt động tài chính của doanh nghiệp diễn ra như thế nào, kết quả kinh tế tài chính của sự vận động và chuyển hoá ra sao, có phù hợp với mục tiêu mong muốn của các đối tượng quan tâm đến tài chính doanh nghiệp là đối tượng nghiên cứu cụ thể của phân tích tài chính doanh nghiệp.
Vấn đề quan tâm hàng đầu của các nhà quản trị tài chính là bằng cách nào để duy trì sự tồn tại của doanh nghiệp trong nền kinh tế đầy thách thức như hiện nay. Đó chính là nguy cơ rủi ro phá sản của doanh nghiệp, được thể hiện chủ yếu và trực tiếp qua sự biến động của các nhóm chỉ số khả năng thanh toán, khả năng cân đối vốn cũng như khả năng sinh lãi của doanh nghiệp trong quá trình hoạt động kinh doanh. Qua đó, các nhà quản trị tài chính sẽ đánh giá một cách toàn diện về tình hình tài chính của doanh nghiệp và đưa ra những dự báo chuẩn xác về kết quả hoạt động trong tương lai để từ đó có biện pháp hỗ trợ, cải thiện tình hình tài chính doanh nghiệp tốt hơn. Có thể nói phân tích tài chính được coi là cơ sở cho những dự báo tài chính trong tương lai của doanh nghiệp.
1.2. Chức năng của phân tích tài chính
Ngày nay phân tích tài chính đã trở thành một nội dung được các nhà quản lý quan tâm và khai thác một cách triệt để nhằm phát huy tối đa tính hữu ích của công cụ này. Tùy theo từng loại hình doanh nghiệp và mục đích nghiên cứu mà phân tích tài chính có những chức năng mang tính chất đặc thù khác nhau. Tựu chung lại, phân tích tài chính có những chức năng cơ bản sau: Chức năng đảm bảo vốn cho quá trình hoạt động kinh doanh; chức năng đánh giá và giám sát nhằm đảm bảo kết quả kinh doanh đạt hiệu quả cao; chức năng điều chỉnh; chức năng dự báo.
Chức năng thứ nhất là đảm bảo vốn cho quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Có thể nói vốn là điều kiện không thể thiếu cho sự tồn tại và vận hành của bất cứ doanh nghiệp nào. Trong mọi loại hình doanh nghiệp, vốn phản ánh nguồn lực tài chính đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Hơn thế, vốn còn là nhân tố cực kỳ quan trọng giúp doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường. Như vậy, vốn không những là cơ sở để doanh nghiệp có thể nâng cao khả năng khả năng sản xuất, tăng cường mạng lưới phân phối mà còn có thể giúp doanh nghiệp vượt qua các đối thủ cạnh tranh hay hơn nữa là loại bỏ họ bằng những chính sách marketing khôn khéo, tăng cường quản cáo, giảm giá, khuyến mại,…Do đó, phân tích tài chính chính cần phải tính toán được nhu cầu vốn, cách thức lựa chọn và huy động vốn với những ước lượng chi phí cụ thể nhằm tối thiểu hoá chi phí mà vẫn đạt được mục tiêu đề ra. Đặc biệt, huy động vốn thành công còn phải kết hợp với việc sử dụng vốn hiệu quả, vì vậy phân tích tài chính còn phải vạch ra phương hướng quản lý vốn tối ưu.
Chức năng thứ hai là đánh giá, giám sát nhằm đảm bảo kết quả hoạt động kinh doanh đạt hiệu quả cao. Tài chính doanh nghiệp là hệ thống các luồng chuyển dịch giá trị, các luồng vận động của nguồn lực tài chính trong quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ hoặc vốn hoạt động của doanh nghiệp nhằm đạt được mục tiêu kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật. Các luồng đó vận động như thế nào, các nhân tố tác động đến sự chu chuyển cũng như những ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như thế nào, có phù hợp với mục tiêu kinh doanh đã đề ra hay không, có phù hợp với cơ chế chính sách hiện hành không,…là những vấn đề mà phân tích tài chính phải làm rõ. Chính những kết quả được cung cấp bởi phân tích tài chính sẽ là cơ sở để các nhà quản lý nhân thức được những thành tựu cũng như hạn chế của các quan hệ tài chính, từ đó có biện pháp xử lý kịp thời để duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp một cách liên tục.
Chức năng thứ ba là điều chỉnh. Sự thực là hệ thống các quan hệ tài chính của doanh nghiệp không phải luôn tồn tại dưới một hình thức truyền thống mà có thể biến hoá dưới nhiều hình thái khác nhau tại các thời điểm và các giai đoạn khác nhau của nền kinh tế. Các quan hệ tài chính này sẽ ổn định nếu doanh nghiệp biết duy trì sự kết hợp giữa các nhân tố của chúng một cách hài hoà. Do đó, muốn quản trị tài chính một cách hiệu quả cần phải hiểu rõ được nội dung, hình thức cũng như bản chất của các mối quan hệ tài chính phát sinh. Phân tích tài chính sẽ giúp các nhà quản lý doanh nghiệp và các đối tượng quan tâm khác nhận thức được vấn đề này.
Thứ tư là dự báo. Bên cạnh những chức năng trên, phân tích tài chính còn giúp doanh nghiệp dự báo được tình hình tài chính trong tương lai. Bất kì một doanh nghiệp nào trong quá trình hoạt động đều đặt ra những mục tiêu ngắn hạn và dài hạn trong tương lai, do đó, nhờ những dự báo tài chính trên, doanh nghiệp có thể điều chỉnh mục tiêu sao cho phù hợp nhất. Tuy nhiên, những dự báo tài chính này không phải là những dự báo chung chung mà phải được chi tiết hoá bằng những con số để doanh nghiệp có chiến lược điều chỉnh từng khoản cụ thể.
Với những chức năng trên, nhiệm vụ của bộ phận phân tích tài chính là phải cung cấp những thông tin chính xác và đầy đủ về tất cả các mặt tài chính của mình. Hơn nữa, phân tích tài chính doanh nghiệp để đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp nhằm đảm bảo và phân phối vốn cho sản xuất kinh doanh, hoặc để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn trong kinh doanh, tình hình thanh toán, tính toán và lượng hóa các nhân tố tác động đến tình hình tài chính của doanh nghiệp, từ đó đưa ra các biện pháp khắc phục và khai thác triệt để tiềm năng của doanh nghiệp nhằm đạt được kết quả kinh doanh cao nhất.
1.3. Vai trò của phân tích tài chính doanh nghiệp
Phân tích tài chính của doanh nghiệp mà tiêu biểu là phân tích báo cáo tài chính của doanh nghiệp là việc kiểm tra, đối chiếu và so sánh kết quả hiện tại với quá khứ trong một thời gian đủ dài nhằm đánh giá thực trạng, hiệu quả kinh doanh, tiềm năng hoặc những rủi ro trong tương lai. Các báo cáo tài chính được xem là nguồn thông tin chủ yếu của các nhà phân tích tài chính sử dụng tại các doanh nghiệp bởi lẽ các báo cáo tài chính là tài liệu tổng hợp tình hình tài sản, nguồn vốn của doanh nghiệp tại một thời điểm phân tích, kết quả kinh doanh của doanh nghiệp trong cả kỳ kinh doanh. Các báo cáo tài chính không chỉ rất hữu dụng với các nhà quản lý doanh nghiệp mà nó còn là đối tượng được rất nhiều chủ thể quan tâm. Đó chính là các nhà đầu tư, các ngân hàng hay các nhà tài trợ doanh nghiệp,…
1.3.1. Đối với các nhà quản lý doanh nghiệp
Các nhà quản lý doanh nghiệp là những người trực tiếp tham gia vào quá trình quản lý doanh nghiệp, là những người trực tiếp ra quyết định về chiến lược sản xuất kinh doanh, những chính sách tác động đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp nên trước hết bản thân họ phải là những người am hiểu sâu sắc về tài chính doanh nghiệp, do đó họ cần tổng hợp rất nhiều thông tin từ các nguồn khác nhau phục vụ cho quá trình phân tích của mình. Các nhà quản lý doanh nghiệp quan tâm đến việc tìm kiếm lợi nhuận và nâng cao khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Họ cũng chính là những người phải giải quyết những vấn đề quan trọng nhất của tài chính doanh nghiệp.
Phân tích tài chính doanh nghiệp nhằm giúp các nhà quản lý đưa ra những chiến lược đầu tư dài hạn cho doanh nghiệp. Từ việc phân tích tình hình, hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp, các nhà quản lý sẽ cân nhắc nên tập trung đầu tư vào loại tài sản nào cho phù hợp.
Bên cạnh đó, dựa vào việc phân tích diễn biến sử dụng vốn và hiệu quả sử dụng vốn, các nhà quản trị tài chính sẽ nhận định về tình cân đối vốn của doanh nghiệp, từ đó quyết định tăng giảm tỷ trọng các khoản mục nguồn vốn và nguồn cũng như cách thức huy động vốn một cách hợp lý nhất. Để đáp ứng nhu cầu vốn kinh doanh, doanh nghiệp có thể tiến hành vay ngắn hạn (có thể sử dụng tín dụng ngân hàng hay tín dụng thương mại), hay có thể phát hành cổ phiếu, trái phiếu, hoặc vay dài hạn trên thị trường tài chính,…Để đưa ra quyết định dùng hoàn toàn vốn chủ sở hữu, vay nợ hay sử dụng kết hợp nợ và vốn chủ sở hữu với tỷ lệ bao nhiêu, các nhà quản trị tài chính cần tính toán tổng chi phí đối với mỗi phương thức huy động nhằm huy động với một mức chi phí thấp nhất.
Phân tích tài chính cũng là công cụ để kiểm tra, kiểm soát hoạt động, quản lý trong doanh nghiệp. Do đó, các nhà quản lý sẽ sử dụng công cụ này để đưa ra các chiến lược tài chính ngắn hạn nhằm quản lý hoạt động tài chính hàng ngày của doanh nghiệp, chủ yếu là liên quan đến việc quản lý vốn lưu động của doanh nghiệp. Hơn nữa các hoạt động tài chính gắn liền sự vận động của dòng tiền nhập quỹ và xuất quỹ, vì thế các nhà quản trị tài chính cần xử lý để duy trì sự chênh lệch giữa chúng sao cho phù hợp nhất.
Như vậy, các nhà quản trị tài chính của doanh nghiệp là những người trực tiếp chịu trách nhiệm về việc chỉ đạo các hoạt động tài chính và căn cứ vào thực trạng tình hình tài chính để định hướng cho giám đốc doanh nghiệp trong việc đưa ra các quyết định đầu tư, tài trợ hay kế hoạch chi trả cổ tức và dự báo tài chính. Các quyết định của các nhà quản trị tài chính nhằm mục đích duy trì sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, tránh khả năng phá sản, tăng khả năng cạnh tranh mở rộng thị phần, tối thiểu hoá chi phí, tối đa hoá lợi nhuận và duy trì tốc độ tăng trưởng ổn định. Doanh nghiệp có hoạt động hiệu quả hay không là phụ thuộc nhiều vào sự đúng đắn của các quyết định của nhà quản lý. Muốn làm được điều đó, bản thân các nhà quản trị tài chính trong doanh nghiệp cần đảm bảo chất lượng công tác phân tích tài chính tốt nhất có thể.
1.3.2. Đối với các nhà đầu tư vào doanh nghiệp
Trước hết, các nhà đầu tư cần biết những thông tin về tình hình tài chính của doanh nghiệp để quyết định có nên đầu tư vào doanh nghiệp hay không. Họ có thể là những cổ đông, cá nhân, các doanh nghiệp hoặc các đơn vị khác, và vấn đề quan tâm chủ yếu của các nhà đầu tư là mức sinh lời của khoản vốn, thời gian hoàn vốn cũng như mức độ rủi ro khi đầu tư vào doanh nghiệp.
Với doanh nghiệp cổ phần hóa, trước khi đưa ra quyết định đầu tư, các nhà đầu tư quan tâm đến giá trị của doanh nghiệp mà chủ yếu là giá trị cổ phiếu của doanh nghiệp tại thời điểm đầu tư. Những nhà đầu tư là những người giao vốn cho các nhà quản lý doanh nghiệp sử dụng, vì thế rủi ro tiềm ẩn luôn là mối đe doạ nguồn vốn của họ. Đặc biệt, những rủi ro này được phản ánh trực tiếp qua sự biến động của giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán và sự sụt giá của chúng có thể là nguy cơ phá sản của doanh nghiệp. Do vậy, các nhà đầu tư luôn phải cân nhắc giữa lợi nhuận kỳ vọng và mức độ rủi ro phải gánh chịu. Các nhà đầu tư phải thông qua chuyên gia phân tích tài chính để nắm bắt được thông tin về tình hình hoạt động, tình hình kết quả kinh doanh cũng như lợi nhuận hàng năm của doanh nghiệp thông qua các bản báo cáo phân tích tài chính được cung cấp bởi các nhà quản lý, từ đó có thể dự đoán triển vọng phát triển của doanh nghiệp trong tương lai và có chiến lược phân bổ nguồn vốn của mình cho hiệu quả.
Phần thu nhập của cổ đông bao gồm phần cổ tức được chia và phần giá trị tăng thêm của cổ phiếu trên thị trường. Do đó, các cổ đông đặc biệt quan tâm đến chính sách phân phối lợi nhuận và cơ cấu tài trợ của doanh nghiệp. Nếu công tác phân tích tài chính hiệu quả dẫn đến một cơ cấu tài trợ hợp lý giữa nợ và vốn chủ sở hữu sẽ giúp doanh nghiệp vừa tăng vốn đầu tư lại tăng giá trị cổ phiếu của doanh nghiệp và thu nhập trên mỗi cổ phiếu. Mặt khác, các cổ đông chỉ chấp nhận giảm việc chi trả cổ tức để tăng lợi nhuận giữ lại phục vụ mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh nếu những kết quả phân tích tài chính của công ty khẳng định quyền lợi của họ không bị ảnh hưởng và sẽ đạt được một mức thu nhập cao hơn trong tương lai.
Như vậy, phân tích tài chính doanh nghiệp luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu và xuyên suốt của các nhà đầu tư.
1.3.3. Đối với những người cho doanh nghiệp vay vốn
Đây có thể là các ngân hàng thương mại, các nhà cung cấp tín dụng thương mại, những người cho doanh nghiệp vay vốn để phục vụ nhu cầu sản xuất kinh doanh. Trước khi đưa ra quyết định cho vay, họ phải nắm chắc được khả năng hoàn trả tiền vay và thu nhập (tức lãi tiền vay) là bao nhiêu, liệu nó có xứng đáng với khoản vốn mà họ đã bỏ ra hay không. Do đó, những người cho vay, họ quan tâm đến phân tích tài chính nhằm xác định khả năng trả nợ (tức khả năng thanh toán lãi vay) của khách hàng. Trong nội dung phân tích này, có sự khác biệt giữa khả năng thanh toán ngắn hạn và khả năng thanh toán dài hạn. Nếu là các khoản vay ngắn hạn, người cho vay đặc biệt quan tâm đến khả năng thanh toán ngay của doanh nghiệp, nói cách khác thì đó là khả năng đối phó của doanh nghiệp khi các khoản vay đến hạn phải thanh toán. Nếu là các khoản cho vay dài hạn, người cho vay phải tin khả năng hoàn trả và khả năng sinh lời của doanh nghiệp trong khi việc hoàn trả vốn và lãi lại phụ thuộc vào chính khả năng sinh lời này.
Nếu đứng ở vị trí các chủ ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác thì họ chủ yếu quan tâm đến khả năng thanh toán của doanh nghiệp mà điển hình là khả năng thanh toán tức thời, khả năng chuyển hoá các tài sản ngắn hạn nhanh chóng thành tiền. Hơn nữa, họ cũng quan tâm đến cơ cấu vốn của doanh nghiệp, đặc biệt là tỷ trọng của vốn chủ sở hữu trong tổng nguồn vốn, bởi lẽ nguồn vốn này chính là nguồn bảo hiểm cho khoản tiền mà họ cho doanh nghiệp vay. Nhưng nếu là các nhà cung ứng vật tư hàng hóa, dịch vụ cho doanh nghiệp, họ cần biết được khả năng thanh toán của doanh nghiệp hiện tại và trong thời gian sắp tới để quyết định xem có nên cho phép khách hàng mua chịu hay không.
Ngoài những đối tượng kể trên còn có những người lao động và các cơ quan quản lý Nhà nước cũng rất quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp. Bởi lẽ, kết quả hoạt động của doanh nghiệp tác động trực tiếp đến khoản thu nhập chính của người lao động, và các cơ quan quản lý Nhà nước cần thực hiện phân tích tài chính để đánh giá, kiểm tra và kiểm soát hoạt động sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính có thực hiện theo đúng chính sách, chế độ Nhà nước quy định hay không,…
1.4. Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp
Phân tích tài chính vốn là một quá trình phức tạp đòi hỏi người phân tích phải có kiến thức tổng hợp và có kế hoạch phân tích cụ thể, tỉ mỉ như: Lập quy trình phân tích tài chính, chỉ rõ những thông tin phục vụ cho quá trình phân tích, phải xác định rõ phương pháp phân tích và cuối cùng là phải thiết lập các nội dung sẽ phải làm rõ trong quá trình phân tích. Cụ thể, những công việc cần phải làm như sau:
1.4.1. Quy trình phân tích tài chính
Tổ chức phân tích tài chính doanh nghiệp là việc thiết lập trình tự các bước cần phải phải tiến hành cho công tác phân tích tài chính trong doanh nghiệp. Quá trình phân tích tài chính chỉ thực sự hiệu quả khi các nhà quản trị. Một quy trình phân tích thong thường bao gồm các bước chính sau:
Bước một là lập kế hoạch phân tích. Đây là bước đầu tiên nhưng lại đòi hỏi phải có thời gian chuẩn bị chu đáo bởi lẽ giai đoạn này tác động và ảnh hưởng lớn đến cả quá trình phân tích. Một quy trình phân tích nếu có giai đoạn đầu được chuẩn bị chu đáo và tỉ mỉ sẽ là bước khởi đầu tốt cho những giai đoạn về sau. Giai đoạn này bao gồm tất cả các công việc như: Xác định mục tiêu phân tích và xây dựng chương trình phân tích. Mục tiêu phân tích phải đáp ứng nhu cầu phân tích ở thời điểm phân tích nhưng cũng phải phù hợp với loại hình doanh nghiệp và đặc thù nền kinh tế hiện tại, không xác định những mục tiêu xa rời thực tế, phải gắn chặt với những yêu cầu cấp thiết của doanh nghiệp. Và kế hoạch phân tích cũng cần phải xác định rõ nội dung phân tích, phạm vi và thời gian phân tích cũng như những thông tin cần thiết cho quá trình phân tích.
Bước hai là tiến hành phân tích. Đây là quá trình triển khai, tiến hành thực hiện những công việc đã vạch ra trong bước đầu. Cụ thể, các công việc cần phải hoàn thành trong bước này như sau: tập hợp tài liệu, xử lý số liệu; tính toán các chỉ tiêu phân tích; xác định nguyên nhân và tính toán cụ thể mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến các chỉ tiêu phân tích; xác định và dự đoán các nhân tố kinh tế xã hội tác động đến tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; tổng hợp kết quả và rút ra nhận xét, kết luận về thực trạng tài chính của doanh nghiệp. Quá tình phân tích tài chính doanh nghiệp sử dụng moi nguồn thông tin có khả năng chứng minh, giải thích cho thực trạng tình hình tài chính nhằm đưa ra các dự báo tài chính chuẩn xác. Những nguồn thông tin đó bao gồm các thông tin nội bộ của doanh nghiệp và các nguồn thông tin bên ngoài khác, trong đó tập trung vào các thông tin trong bảng báo cáo tài chính. Tuy nhiên, khi có được các thông tin cung cấp từ các nguồn khác nhau, các nhà phân tích phải xử lý thông tin theo góc độ nghiên cứu của mình nhưng vẫn đảm bảo tuân thủ các mục tiêu đề ra.
Bước ba là đưa ra kết quả phân tích. Đây là bước cuối cùng của quá trình phân tích tài chính và điều quan trọng nhất là các nhà phân tích phải đưa ra các quyết định tài chính. Bước này bao gồm các công việc cụ thể như sau: Viết báo cáo về tình hình tài chính của doanh nghiệp; Nêu định hướng phát triển và các giải pháp khắc phục, cải thiện tình hình tài chính của doanh nghiệp.
1.4.2. Những thông tin phục vụ cho quá trình phân tích tài chính của doanh nghiệp.
Để có thể phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp một cách toàn diện và hiệu quả, các nhà quản trị tài chính phải sử dụng rất nhiều thông tin từ các nguồn cung cấp khác nhau. Những nguồn đó có thể là do chính bản thân doanh nghiệp cung cấp hoặc cũng có thể là do những nguồn bên ngoài doanh nghiệp như các chế độ kế toán hiện hành, chuẩn mực kế toán do Nhà nước ban hành và yêu cầu thực hiện,v.v…Những thông tin đó bao gồm:
1.4.2.1. Thông tin hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Như đã nói ở trên, phân tích tài chính doanh nghiệp cần sử dụng rất nhiều thông tin từ các nguồn khác nhau, bao gồm cả thông tin bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. Trong các nguồn thông tin nội bộ thì các báo cáo tài chính là nguồn thông tin đặc biệt cần thiết, bởi lẽ các báo cáo tài chính là sản phẩm của quá trình thu thập, xử lý, tổng hợp thành.
a) Thông tin phản ánh trong bảng báo cáo tài chính
Các báo cáo tài chính có nhiệm vụ cung cấp cho người sử dụng những thông tin hữu ích cho việc ra các quyết định kinh doanh, liên quan đến việc phân phối và sử dụng các nguồn lực của đơn vị cũng như trong việc tính toán các chỉ tiêu tài chính khác. Và công việc phân tích tài chính dựa vào các báo cáo tài chính đó được gọi là xử lý các báo cáo kế toán. Thông thường cơ cấu của một bảng báo cáo tài chính bao gồm bốn bảng nhỏ: Bảng cân đối kế toán, bảng báo cáo kết quả kinh doanh, bảng lưu chuyển tiền tệ van cuối cùng là bảng thuyết minh báo cáo tài chính. Nội dung của các bảng báo cáo này như sau:
Thứ nhất là bảng cân đối kế toán (CĐKT): Là một báo cáo tài chính mô tả tình trạng tài chính của một doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định. Đây là một báo cáo tài chính có ý nghĩa rất quan trọng đối với mọi đối tượng có quan hệ sở hữu, quan hệ kinh tế và quan hệ quản lý với doanh nghiệp bởi lẽ nó phản ánh tổng quát tình hình tài sản, nguồn vốn của doanh nghiệp tại thời điểm phân tích dưới hình thái tiền tệ, được xem như là một bức chụp nhanh vị thế tài chính của doanh nghiệp. Việc phân tích bảng CĐKT sẽ cho cái nhìn tổng quát về tình hình tăng giảm, cơ cấu và hiệu quả sử dụng vốn và tài sản của doanh nghiệp. Bảng CĐKT của doanh nghiệp bao gồm hai phần lớn: Phần tài sản và Phần nguồn vốn.
Bảng 1.1. Bảng cân đối kế toán
Tại ngày…tháng…năm
Đơn vị tính:…
TÀI SẢN
NGUỒN VỐN
A. TÀI SẢN NGẮN HẠN
A. NỢ PHẢI TRẢ
I. Tiền và các khoản tương tiền
I. Nợ ngắn hạn
II. Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn
II. Nợ dài hạn
III. Các khoản phải thu ngắn hạn
IV. Hàng tồn kho
V. Tài sản ngắn hạn khác
B. TÀI SẢN DÀI HẠN
B. VỐN CHỦ SỞ HỮU
I. Các khoản phải thu dài hạn
I. Vốn chủ sở hữu
II. Tài sản cố định
II. Nguồn kinh phí và quỹ khác
III. Bất động sản đầu tư
IV. Các khoản đầu tư tài chính dài hạn
V. Tài sản dài hạn khác
TỔNG CỘNG TÀI SẢN
TỔNG CỘNG NGUỒN VỐN
Nguồn QĐ số 15/2006/QĐ-BTC
Phần tài sản: Bao gồm tài sản ngắn hạn và tài sản dài hạn. Tài sản của phản ánh tiềm lực mà doanh nghiệp có quyền quản lý, sử dụng dài hạn nhằm thu được lợi nhuận trong tương lai (nếu đứng trên giác độ pháp lý), nhưng phần tài sản cũng cho phép đánh giá quy mô vốn, năng lực sản xuất của doanh nghiệp (nếu xét trên giác độ kinh tế).
Phần nguồn vốn: Bao gồm phần nợ doanh nghiệp phải trả(ngắn hạn và dài hạn) và phần vốn chủ sở hữu. Đứng trên giác độ pháp lý, phần nguồn vốn của doanh nghiệp khẳng định trách nhiệm pháp lý về vật chất của doanh nghiệp đối với những cá nhân, tổ chức cho doanh nghiệp vay hay các bên góp vốn với doanh nghiệp. Cụ thể hơn, phần nguồn vốn phản ánh doanh nghiệp phải có trách nhiệm đối với số vốn đã đăng kí kinh doanh và với các khoản nợ của mình. Đứng trên giác độ kinh tế, phần nguồn vốn phản ánh nguồn hình thành nên tài sản, kết cấu nguồn vốn và cũng phần nào khái quát được khả năng độc lập tài chính (qua cơ cấu vốn) và thực trạng tài chính của doanh nghiệp.
Tóm lại, bảng CĐKT đã giúp các chuyên gia phân tích tài chính có cái nhìn tổng quát về tình hình tài chính của doanh nghiệp, sự biến động của tài sản và nguồn vốn của doanh nghiệp, tình hình phân bổ và sử dụng nguồn vốn cũng như khả năng thanh toán của doanh nghiệp qua các khoản phải thu và phải trả.
Thứ hai là bảng báo cáo kết quả kinh doanh (BCKQKD). Một thông tin không kém phần quan trọng được sử dụng trong phân tích tài chính là thông tin phản ánh trong BCKQKD. Khác với bảng CĐKT, bảng BCKQKD cho biết sự dịch chuyển của tiền trong quá trình sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp và cho phép dự tính khả năng hoạt động của doanh nghiệp trong tương lai. BCKQKD giúp các nhà phân tích so sánh doanh thu với tiền thực nhập quỹ khi bán hàng hóa, dịch vụ hoặc so sánh tổng chi phí phát sinh với tổng số tiền xuất quỹ để vận hành doanh nghiệp.Trên cơ sở doanh thu và chi phí có thể xác định được kết quả sản xuất – kinh doanh là lãi hay là lỗ,…Như vậy, BCKQKD phản ánh kết quả hoạt động sản xuất – kinh doanh, phản ánh tình hình tài chính của doanh nghiệp trong một thời kì nhất định. Nó cung cấp những thông tin tổng hợp về tình hình van kết quả sử dụng các tiềm năng về vốn, lao động, kỹ thuật và trình độ quản lý sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp.
Nội dung của một bảng BCKQKD thường bao gồm các khoản mục như: Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ, các khoản giảm trừ doanh thu, doanh thu thuần về bán hàng và cung cấp dịch vụ, giá vốn hàng bán, lợi nhuận gộp về bán hàng và cung cấp dịch vụ , doanh thu hoạt động tài chính, chi phí hoạt động tài chính, chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp, lợi nhuận thuần từ hoạt động sản xuất kinh doanh, thu nhập khác, chi phí khác, lợi nhuận khác, tổng lợi nhuận kế toán trước thuế, chi phí thuế thu nhập hiện hành, chi phí thuế thu nhập hoãn lại, lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh nghiệp van thu nhập vốn cổ phần. Qua bảng BCKQKD nhà phân tích tài chính có thể tính toán các chỉ số lợi nhuận trên tổng doanh thu và vốn là bao nhiêu, từ đó tính được tốc độ tăng trưởng của kì này so với các kì trước,…
Thứ ba là bảng báo cáo lưu chuyển tiền tệ (BCLCTT). BCLCTT là một trong bốn báo cáo tài chính bắt buộc mà mỗi doanh nghiệp đều phải cung cấp cho người sử dụng thông tin của doanh nghiệp. Nếu bảng CĐKT cho biết tài sản hiện có và nguồn vốn của doanh nghiệp; BCKQKD cho biết thu nhập và chi phí phát sinh để tính kết quả lỗ lãi của một kì kinh doanh, thì bảng BCLCTT được lập và phản ánh luồng tiền vào ra, số dư tại thời điểm đầu kỳ và cuối kỳ kinh doanh, tình hình thu chi ngắn hạn của doanh nghiệp. Có thể nói, đây là bảng có giá trị và ý nghĩa đối với tất cả các đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp vì nó phản ánh khả năng quản lý dòng tiền, khả năng tạo tiền, tình hình thu chi bằng tiền và những rủi ro tiềm ẩn của doanh nghiệp. Thông thường mỗi bảng BCLCTT bao gồm ba phần: lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động sản xuất kinh doanh, lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động tài chính và lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động bất thường.
Cuối cùng là bảng thuyết minh báo cáo tài chính (TMBCTC). Bảng này được lập nhằm cung cấp các thông tin về tình hình sản xuất kinh doanh chưa có trong hệ thống báo cáo tài chính, đồng thời giải thích thêm một số chỉ tiêu mà trong các bản báo cáo tài chính chưa được trình bày nhằm giúp cho người đọc phân tích các chỉ tiêu trong báo cáo tài chính có một cái nhìn cụ thể và chi tiết hơn về sự thay đổi những khoản mục trong bảng CĐKT và BCKQKD.Nó phản ánh đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp, kỳ kế toán và đơn vị tiền tệ sử dụng khi trình bày báo cáo tài chính, những tuyên bố về chuẩn mực kế toán và chế độ kế toán mà kế toán doanh nghiệp sử dụng để hình thành nên các bản báo cáo tài chính, những vấn đề ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, các chính sách kế toán mà doanh nghiệp đang sử dụng,…Bảng này trình bày 7 chỉ tiêu để cụ thể hóa các chỉ tiêu trong bảng CĐKT. Những chỉ tiêu này bao gồm: Đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp (trụ sở và loại hình pháp lý của doanh nghiệp, Quốc gia đã chứng nhận tư cách pháp nhân của doanh nghiệp, các tính chất nghiệp vụ, ngành nghề kinh doanh và hoạt động chính của doanh nghiệp); chính sách kế toán áp dụng tại doanh nghiệp (doanh nghiệp đang sử dụng chế độ kế toán theo Quyết định nào của Bộ Tài chính và tình hình chấp hành các chuẩn mực kế toán của Nhà nước như thế nào); chi tiết một số chỉ tiêu trong báo cáo tài chính (sự thay đổi đột biến của các chỉ tiêu như tiền mặt, hàng tồn kho,…); giải thích và thuyết minh một số tình hình và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh (giải trình sự thay đổi của vốn chủ sở hữu, doanh thu, chi phí trả trước ngắn hạn và dài hạn,…); phương pháp lập một số chỉ tiêu đánh giá khái quát thực trạng tài chính và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp (doanh nghiệp sử dụng phương pháp nào để đánh giá tình hình tài chính của mình); đánh giá tổng quát các chỉ tiêu; các kiến nghị. Qua bảng TMBCTC, tình hình thanh toán các khoản phải thu và phải trả là một trong những chỉ tiêu phản ánh khá sát thực chất của hoạt động tài chính. Nếu phân tích tài chính lành mạnh, doanh nghiệp có thể điều chỉnh các khoản phải thu để giảm hẳn các khoản phải trả, tránh tình trạng tranh chấp, nợ kéo dài ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Sử dụng bản TMBCTC sẽ tăng tính khách quan và phù hợp của các kết quả phân tích.
b) Những thông tin hỗ trợ khác
Đó là những thông tin về chiến lược, sách lược kinh doanh của doanh nghiệp trong thời kì, những thông tin về tình hình và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp, tình hình tạo lập, phân phối và sử dụng vốn, tình hình và khả năng thanh toán. Những thông tin này được các nhà quản lý giải trình qua các nghiệp vụ hạch toán thống kê, hạch toán nghiệp vụ,v.v…
1.4.2.2. Thông tin kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất-kinh doanh của doanh nghiệp
Đây là các thông tin về tình hình kinh tế chính trị, môi trường kinh tế pháp luật, cơ hội đầu tư và cơ hội về kinh tế kỹ thuật,…có ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong năm. Sự suy thoái hay tăng trưởng của nền kinh tế có tác động mạnh mẽ đến cơ hội kinh doanh, đến sự biến động của giá cả các yếu tố đầu vào và thị trường tiêu thụ sản phẩm đầu ra, từ đó có tác động đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Để quản lý hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, Nhà nước tổ chức các cuộc thăm dò thị trường, triển vọng phát triển trong sản xuất kinh doanh và dịch vụ thương mại,… và chính những kết quả điều tra đã ảnh hưởng không nhỏ đến chiến lược kinh doanh trong thời kì của doanh nghiệp. Khi các tác động diễn ra theo chiều hướng thuận lợi, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được mở rộng, lợi nhuận tăng lên và do đó, kết quả kinh doanh trong năm là khả quan, và ngược lại, khi các biến động của nền kinh tế bất lợi đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sẽ gây hậu quả khó mà lường trước được. Chính vì vậy, muốn kết quả phân tích đảm bảo tính khách quan, các nhà phân tích phải kết hợp các thông tin bên trong và bên ngoài doanh nghiệp.
a) Ảnh hưởng của ngành kinh tế tác động đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Đây là các thông tin mà kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mang tính chất của nền kinh tế. Đặc điểm của ngành kinh tế liên quan đến nhịp độ phát triển của các chu kỳ kinh tế, đến tính chất của các sản phẩm doanh nghiệp sản xuất, liên quan đến quy trình công nghệ kỹ thuật mà doanh nghiệp ứng dụng trong quá trình kinh doanh, liên quan đến cơ cấu sản xuất của doanh nghiệp( ngành công nghiệp nặng hay công nghiệp nhẹ, chính những cơ cấu này lại liên quan đến vòng quay vốn, lợi nhuận hay khả năng sinh lời của doanh nghiệp).
b) Ảnh hưởng của chính sách tới hoạt động của doanh nghiệp
Nguồn thông tin này cũng rất phong phú và đa dạng. Chính sách của Đảng và Nhà nước có thể có tác động tích cực nhưng cũng có thể gây khó dễ cho hoạt động sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp. Có thể đơn cử như chính sách của Chính phủ về hoạt động tín dụng giữa ngân hàng và doanh nghiệp, nếu Chính phủ can thiệp tốt làm giảm lãi suất cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ thì sẽ hỗ trợ doanh nghiệp phát triển, cải thiện tình hình tài chính của doanh nghiệp. Như vậy, chính sách của Nhà nước cũng là một trong những yếu tố tác động đến tình hình tài chính của doanh nghiệp.
1.4.3. Phương pháp phân tích tài chính
Để tiến hành quá trình phân tích tài chính, các nhà phân tích phải sử dụng kết hợp rất nhiều phương pháp phân tích khác nhau, có thể là phương pháp so sánh, phương pháp đối chiếu, phương pháp đồ thị, phương pháp biểu đồ,…nhưng chủ yếu các nhà phân tích sử dụng một số biện pháp cơ bản như: Phương pháp so sánh, phương pháp tỷ số và phương pháp tài chính Dupont.
1.4.3.1. Phương pháp so sánh
Đây là phương pháp được sử dụng phổ biến trong phân tích tài chính để đánh giá kết quả, vị trí và xu hướng biến đổi của các chỉ tiêu tài chính của doanh nghiệp. Đây là công cụ dùng để phân tích nhằm phản ánh khuynh hướng, tốc độ nhanh chậm của các chỉ tiêu. Vì vậy, sự biến đổi cùng hướng hay ngược chiều với khuynh hướng tốt thì cần tìm hiểu nguyên nhân rõ ràng để có biện pháp xử lý sao cho phù hợp nhất.
Thứ nhất, khi so sánh phải tồn tại ít nhất hai chỉ tiêu để tiến hành so sánh. Các chỉ tiêu sử dụng phải đảm bảo so sánh được. Đồng thời, khi so sánh cần phải thống nhất về đơn vị đo lường, thời gian tính toán và phương pháp tính toán.
Thứ hai, khi so sánh phải xác định được gốc so sánh. Gốc được sử dụng để làm đại lượng so sánh có thể tại một thời điểm hoặc cũng có thể là kết quả tổng kết của một kì. Khi lấy gốc so sánh là trị số của chỉ tiêu tại một thời điểm trong quá khứ thì sẽ xác định được xu hướng và tốc độ phát triển của các chỉ tiêu cần phân tích. Tuy nhiên, năm sử dụng để lấy số liệu so sánh phải đảm bảo là năm hoàn toàn bình thường, không có biến động đặc biệt nào. Và khi so sánh tình hình kết quả đã đạt được so với kế hoạch đề ra thì gốc được chọn làm so sánh phải là trị số của chỉ tiêu tại kỳ kế hoạch. Khi cần xác định vị thế của doanh nghiệp trong ngành thì cần lấy gốc so sánh có thể là trị số trung bình ngành hoặc chính xác hơn nữa là trị số trung bình của một số doanh nghiệp cùng ngành.
Thứ ba, khi so sánh các chỉ tiêu tổng hợp, phức tạp cần thống nhất về nội dung và cơ cấu của các chỉ tiêu. Khi không so sánh được các trị số tuyệt đối hoặc kết quả so sánh tuyệt đối không có ý nghĩa kinh tế thì các nhà phân tích có thể chuyển sang so sánh các chỉ tiêu tương đối. Trong quá trình phân tích có thể sử dụng cả các trị số tuyệt đối, các chỉ số tương đối và các trị số bình quân. Trị số bình quân phản ánh mặt chung nhất của chỉ tiêu, nó san bằng mọi sự chênh lệch về trị số của chỉ tiêu. Ngay cả trị số bình quân cũng có thể tồn tại dưới hình thức trị số tuyệt đối và tương đối( như tỷ lệ %). Nếu chỉ phân tích dựa trên những trị số tương đối thì không thể phản ánh đúng các mặt bên trong của doanh nghiệp, vì vậy để kết quả phân tích khách quan và đầy đủ, các nhà phân tích nên sử dụng kết hợp chỉ tiêu tuyệt đối và chỉ tiêu tương đối.
Hơn nữa, khi áp dụng phương pháp so sánh này, người phân tích không chỉ dừng lại ở việc so sánh giữa các năm với nhau mà phải so sánh với cả các doanh nghiệp khác trong ngành, đặc biệt là đối thủ cạnh tranh để thấy rõ được điểm mạnh, điểm yếu, từ đó có chiến lược phát triển cho phù hợp.
1.4.3.2. Phương pháp tỷ số
Phương pháp tỷ số là phương pháp này sử dụng các tỷ số để phân tích và đây cũng là một phương pháp truyền thống được áp dụng trong phân tích tài chính doanh nghiệp. Đó là các chỉ số được thiết lập bởi chỉ tiêu này với các chỉ tiêu khác. Những nội dung cần tiến hành khi sử dụng phương pháp phân tích tỷ số tài chính hoàn chỉnh là: Xác định đúng công thức đo lường chỉ tiêu phân tích; Xác định đúng số liệu từ các báo cáo tài chính để lắp vào công thức tính; Giải thích ý nghĩa của tỷ số vừa tính toán; Đánh giá tỷ số vừa tính(cao, thấp hay phù hợp); Rút ra kết luận về tình hình tài chính của doanh nghiệp; Phân tích các nhân tố ảnh hưởng; Nêu các khuyến nghị và cuối cùng là viết báo cáo phân tích.
Sử dụng phương pháp này sẽ giúp các nhà phân tích khai thác có hiệu quả các số liệu và phân tích một cách có hệ thống hàng loạt tỷ số theo chuỗi thời gian liên tục hoặc theo từng giai đoạn. Phương pháp này sẽ cho hiệu quả phân tích cao nếu các điều kịên sử dụng ngày càng được bổ sung và hoàn thiện. Theo nguyên tắc, phương pháp này đòi hỏi cần xác định các ngưỡng, các tỷ số tham chiếu. Để đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp cần so sánh các tỷ số của doanh nghiệp với các tỷ số tham chiếu. Như vậy, phương pháp này luôn được sử dụng với các phương pháp phân tích tài chính khác. Khi phân tích, các nhà quản trị tài chính thường kết hợp phương pháp so sánh như so sánh theo thời gian(so sánh các tỷ số của kỳ phân tích và các kỳ trước đó), theo không gian(so sánh với tỷ số trung bình ngành, với tỷ số trung bình của các doanh nghiệp tương tự) để đánh giá tình hình thực trạng tài chính của doanh nghiệp cũng như vị thế tài chính của doanh nghiệp trong ngành kinh doanh.
1.4.3.3. Phương pháp tài chính Dupont
Nếu chỉ đánh giá riêng biệt bất cứ một loại chỉ tiêu tài chính nào đều không đủ để đánh giá một cách toàn diện hiệu quả tài chính và thành quả kinh doanh của doanh nghiệp. Phải có quá trình tổng hợp phân tích các chỉ tiêu và nắm vững ý nghĩa của các chỉ số tài chính thì mới đánh giá được một cách hợp lý và toàn diện tình hình tài chính của doanh nghiệp. Do đó, trên cơ sở đã nắm vững các phương pháp đánh giá cơ bản năng lực kinh doanh, năng lực thanh toán, khả năng sinh lợi,..của doanh nghiệp, nhà phân tích cần phải đánh giá tổng hợp hiệu quả tài chính. Có rất nhiều phương pháp được sử dụng để tổng hợp nhưng phương pháp chủ yếu nhất được các nhà phân tích quan tâm và ứng dụng là phương pháp tài chính Dupont. Đây là phương pháp phân tích các chỉ số tài chính dựa trên tỷ lệ so sánh với doanh thu được áp dụng rất hiệu quả tại công ty Dupont nên sau đó gọi là phương pháp tài chính Dupont, được nhiều nhà quản trị áp dụng trong phân tích mối quan hệ giữa lợi nhuận và các tỷ số khác dựa trên doanh thu. Bản chất của phương pháp này là tách một tỷ số tổng hợp phản ánh mức sinh lợi của doanh nghiệp như thu nhập trên vốn chủ sở hữu (ROE) và mức sinh lợi trên tổng tài sản (ROA) thành tích số của một chuỗi các tỷ số có liên quan phản ánh mối quan hệ nhân quả giữa các nhân tố với nhau. Nhờ cách phân tích này, các nhà quản trị tài chính sẽ phân tích được ảnh hưởng của các tỷ số đó đến tỷ số tổng hợp, sẽ nhận biết được nguyên nhân dẫn đến các biểu hiện tốt, xấu của doanh nghiệp. Từ đó các nhà quản lý nội bộ doanh nghiệp có thể có cái nhìn cụ thể và ra quyết định xem nên cải thiện tình hình tài chính của doanh nghiệp bằng cách nào.
Phương pháp này sử dụng các công thức như:
TNST TS
ROE = ×
TS VCSH
= ROA × EM (Hệ số nhân vốn)
TS 1
Trong đó: EM = =
VCSH VCSH
TS
1 1
= =
Tổng Nợ
1 - 1 – Hệ số nợ
TS
TNST DT
ROA = ×
DT TS
= PM × AU
Trong đó: PM là doanh lợi tiêu thụ phản ánh tỷ trọng lợi nhuận sau thuế trong doanh thu của doanh nghiệp.
AU là hiệu suất sử dụng tài sản của doanh nghiệp.
Đây là phương pháp mang nét đặc trưng riêng so với các phương pháp trên bởi chính ưu điểm của nó là giúp các nhà quản trị tài chính biết được nguyên nhân chính dẫn đến sự tăng giảm của ROE và ROA.
1.4.4. Nội dung phân tích
1.4.4.1. Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn của doanh nghiệp
Vốn của doanh nghiệp được chia thành hai loại: vốn cố định và vốn lưu động. Vốn nhiều hay ít, tăng hay giảm, phân phối cho từng khâu, từng giai đoạn có phù hợp hay không sẽ ảnh hưởng lớn đến kết quả kinh doanh và tình hình tài chính của doanh nghiệp. Phân tích sự biến động của nguồn vốn (diễn biến nguồn vốn) và tình hình sử dụng vốn của doanh nghiệp sẽ đánh giá được tình hình tăng giảm vốn, phân bổ vốn như thế nào và từ đó đánh giá việc sử dụng vốn của doanh nghiệp có hiệu quả hay không. Một công cụ hữu ích của các nhà quản lý tài chính là sử dụng là bảng tài trợ, từ đó sẽ có thể xác định được nguồn cung ứng vốn và mục đích sử dụng vốn.
Trong phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn, người ta thường hay xem xét sự thay đổi của các nguồn vốn và cách thức sử dụng vốn của một doanh nghiệp trong một thời kỳ theo số liệu giữa hai thời điểm lập bảng cân đối kế toán. Để lập được bảng này, trước hết phải liệt kê sự thay đổi của các khoản mục trên bảng cân đối kế toán từ đầu kỳ đến cuối kỳ. Mỗi sự thay đổi được phân biệt ở hai cột sử dụng vốn và nguồn vốn theo nguyên tắc: Sử dụng vốn (tăng tài sản hoặc giảm vốn) và nguồn vốn (giảm tài sản hoặc tăng vốn).
Khi phân tích diễn biến vốn và sử dụng vốn của doanh nghiệp, các nhà phân tích luôn quan tâm đến việc phân tích tình hình nguồn vốn để đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Để tiến hành sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp cần phải có tài sản bao gồm tài sản ngắn hạn và tài sản dài hạn được tài trợ tương ứng bởi các nguồn ngắn hạn và dài hạn. Nguồn vốn ngắn hạn là nguồn vốn mà doanh nghiệp sử dụng trong khoảng thời gian dưới một năm cho hoạt động sản xuất kinh doanh bao gồm nợ ngắn hạn, nợ quá hạn, nợ nhà cung cấp và nợ ngắn hạn phải trả khác. Nguồn vốn dài hạn là nguồn vốn mà doanh nghiệp sử dụng lâu dài cho việc kinh doanh của mình, bao gồm có nguồn vốn chủ sở hữu, nguồn vay nợ trung và dài hạn. Nguồn vốn dài hạn trước hết được đầu tư cho tài sản dài hạn, sau đó phần dư mới đầu tư cho tài sản ngắn hạn. Chênh lệch giữa nguồn vốn ngắn hạn và nợ ngắn hạn được gọi là nguồn vốn lưu động thường xuyên. Tăng tài sản dài hạn (như tăng tài sản cố định hữu hình, tài sản cố định vô hình,v.v…) kết hợp với giảm nguồn vốn dài hạn (như giảm vốn chủ sở hữu do kinh doanh lỗ, hoàn trả các khoản nợ trung và dài hạn) sẽ làm tăng vốn lưu động thường xuyên này. Ngược lại, khi tăng nguồn vốn dài hạn (như phát hành thêm cổ phiếu làm tăng vốn chủ sở hữu, tăng khoản vay nợ dài hạn,v.v…) cùng với giảm nguồn vốn dài hạn (như thanh lý tài sản cố định,v.v…) sẽ làm giảm nguồn vốn lưu động thường xuyên. Vốn lưu động thường xuyên phản ánh mức độ an toàn cho doanh nghiệp bởi lẽ nếu nguồn vốn lưu động thường xuên tăng lên, nó thể hiện phần lớn tài sản dài hạn được tài trợ bởi nguồn vốn dài hạn. Tuy nhiên, để đạt được điều đó, doanh nghiệp phải tăng nợ dài hạn, bởi nếu khối lượng nợ dài hạn tăng lên sẽ tăng nguồn chi phí tài chính, dẫn tới giảm kết quả kinh doanh. Nếu tăng vốn lưu động thường xuyên chỉ bằng cách tăng vốn chủ sở hữu thì tình hình tài chính của doanh nghiệp sẽ được cải thiện , nhưng doanh nghiệp sẽ phải chịu chi phí sử dụng vốn cao hơn nợ vay và có thể phải chia sẻ quyền kiểm soát doanh nghiệp. Do đó, mọi quyết định huy động vốn và sử dụng vốn phải cân nhắc kỹ lưỡng.
Có thể nói, việc lập bảng nguồn vốn và sử dụng vốn là cơ sở tiến hành phân tích tình hình tăng giảm nguồn vốn, việc sử dụng vốn, chỉ ra trọng điểm đầu tư vốn và những nguồn vốn và những nguồn chủ yếu được sử dụng để tài trợ cho nguồn vốn của doanh nghiệp. Từ đó có biện pháp khai thác tốt các nguồn vốn và nâng cao sử dụng vốn của doanh nghiệp.
1.4.4.2. Phân tích các tỷ số tài chính
Trong phân tích tài chính, phương pháp phân tích tỷ số tài chính thường được phân thành bốn nhóm chính: Nhóm tỷ số về khả năng thanh toán, nhóm tỷ số về khả năng cân đối vốn hoặc cơ cấu vốn, nhóm tỷ số về khả năng hoạt động và nhóm tỷ số về khả năng sinh lãi. Hầu hết, các nhà phân tích tài chính thường quan tâm đến sự lành mạnh của tình hình tài chính doanh nghiệp, khả năng chi trả các khoản nợ đến hạn hay không. Nhưng tùy vào mục tiêu phân tích và ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp mà các nhà phân tích sẽ đi sâu vào các nhóm tỷ số khác nhau. Ví dụ như đứng trên địa vị của người cho vay, họ chỉ quan tâm chủ yếu đến nhóm khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Hoặc nếu là các nhà đầu tư vốn vào doanh nghiệp, những cổ đông, thì họ quan tâm chủ yếu đến tỷ số khả năng sinh lãi của doanh nghiệp vì họ không trực tiếp quản lý doanh nghiệp mà giao vốn cho các nhà quản lý, do đó cái đích cuối cùng mà họ quan tâm là thu nhập thực mà họ thu được là bao nhiêu.
Các chỉ số tài chính cung cấp khá nhiều thông tin về tình hình tài chính doanh nghiệp nhưng nó sẽ càng chính xác hơn nếu nó được so sánh trong một thời kỳ tương đối dài. Bản thân các tỷ số chỉ là các con số nhưng nếu các nhà phân tích biết cách sử dụng nó hiệu quả thì sẽ là những con số “biết nói”, và để làm được điều đó, các nhà phân tích phải tìm hiểu được mối liên hệ giữa các nhóm tỷ số, có như thế thì kết quả phân tích mới khách quan và toàn diện được. Mỗi nhóm tỷ số phân tích có thể chứa đựng rất nhiều các chỉ số khác nhau nhưng việc chọn lựa chỉ số nào, số lượng bao nhiêu là tùy thuộc vào quy mô của hoạt động phân tich.
1.4.4.2.1. Nhóm tỷ số về khả năng thanh toán
Khả năng thanh toán là một thuật ngữ tài chính - kế toán dùng để so sánh giữa tài sản và nghĩa vụ trả nợ của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp được coi là có khả năng thanh toán cao khi lượng tài sản của doanh nghiệp lớn hơn số nợ mà doanh nghiệp phải trả. Do đó cũng có thể đo lường khả năng thanh toán bằng cách so sánh tài sản ngắn hạn và nợ ngắn hạn.
Việc phân tích khả năng thanh toán của doanh nghiệp không chỉ hữu ích đối với các chủ nợ mà còn hữu dụng đối với các nhà quản lý của doang nghiệp, bởi lẽ nhờ quá trình phân tích này mà các nhà quản trị tài chính biết được khả năng chi trả của doanh nghiệp, từ đó điều chỉnh cơ cấu nguồn vốn sao cho phù hợp với tình hình tài chính doanh nghiệp.
Các tỷ số khả năng thanh toán bao gồm:
- Khả năng thanh toán hiện hành
Tài sản ngắn hạn
Khả năng thanh toán hiện hành =
Nợ ngắn hạn
Tỷ số khả năng thanh toán hiện hành cho biết mức độ các khoản nợ của các chủ nợ ngắn hạn được trang trải bằng các tài sản có thể nhanh chóng chuyển đổi thành tiền trong một giai đoạn tương đương với thời hạn của các khoản nợ đó. Trong đó, tài sản ngắn hạn thông thường bao gồm tiền, các chứng khoán ngắn hạn dễ chuyển đổi thành tiền, các khoản phải thu và dự trữ. Còn nợ ngắn hạn bao gồm các khoản vay ngắn hạn ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác, các khoản phải trả nhà cung cấp, các khoản phải trả, phải nộp khác,…
Thông thường, tỷ số này bằng một là đạt trạng thái cân bằng, bởi lẽ khi đó, toàn bộ tài sản ngắn hạn tài trợ cho các khoản nợ ngắn hạn. Còn nếu tỷ số này quá cao thì lại là dấu hiệu không tốt vì doanh nghiệp đang đầu tư vào tài sản ngắn hạn nhiều hơn nhu cầu ngắn hạn. Do đó, các nhà quản lý phải phân bổ vốn một cách hợp lý, tránh lãng phí tài sản của mình.
- Khả năng thanh toán nhanh
Tài sản ngắn hạn - Dự trữ - Tài sản ngắn hạn khác Khả năng thanh toán nhanh =
Nợ ngắn hạn
Tài sản quay vòng vốn nhanh
=
Nợ ngắn hạn
Tỷ số này được tính bằng cách chia tài sản quay vòng nhanh cho nợ ngắn hạn. Trong đó, tài sản có khả năng quay vòng vốn nhanh là những tài sản có thể nhanh chóng chuyển đổi thành tiền, bao gồm tiền, chứng khoán ngắn hạn và các khoản phải thu. Tỷ số này phản ánh khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn không phị thuộc vào việc bán tài sản dự trữ (tồn kho). Nhìn chung, tỷ số này cao chưa phản ánh chính xác việc doanh nghiệp có thể nhanh chóng đáp ứng các khoản nợ ngắn hạn một cách hiệu quả hay chưa mà phải tùy thuộc vào điều kiện kinh doang của doanh nghiệp.
Khả năng thanh toán tức thời
Tiền và các tài sản tương đương tiền+các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn
Khả năng thanh toán tức thời =
Nợ ngắn hạn
Tỷ số này là chỉ tiêu phản ánh rõ nhất khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn bằng tiền của doanh nghiệp.
Ngoài ra, còn một tỷ số nữa mà các nhà phân tích cũng sử dụng, đó là tỷ số dự trữ trên vốn lưu động ròng. Tỷ số này cho biết dự trữ chiếm bao nhiêu phần trăm trong vốn lưu động ròng. Nếu tỷ số này quá cao so với các doanh nghiệp khác cùng ngành thì cũng không đánh giá được về tình hình thanh toán của doanh nghiệp vì nếu là doanh nghiệp kinh doanh mùa vụ, và quá trình phân tích đúng vào thời điểm doanh nghiệp đang tích trữ nguyên, nhiên vật liệu thì cũng không thể kết luận doanh nghiệp đang dự trữ quá mức.
1.4.4.2.2. Nhóm tỷ số về khả năng cân đối vốn hoặc cơ cấu vốn
Tỷ số này đo lường phần vốn góp của các chủ sở hữu doanh nghiệp so với phần tài trợ của các chủ nợ đối với doanh nghiệp và có ý nghĩa quan trọng trong phân tích tài chính. Thông thường các chủ nợ thích tỷ số này thấp nhưng các chủ sở hữu lại mong tỷ số này cao hơn để tăng lợi nhuận và toàn quyền quản lý doanh nghiệp. Song, nếu tỷ số này quá cao sẽ làm cho doanh nghiệp dễ bị rơi vào tình huống mất khả năng thanh toán. Nhóm chỉ số này chủ yếu bao gồm các chỉ tiêu nhỏ hơn như: Hệ số nợ, khả năng thanh toán lãi vay, khả năng độc lập về tài chính và tỷ lệ cơ cấu tài sản.
Nợ
Hệ số nợ =
TS
Nợ dài hạn
Thông số nợ dài hạn =
Nợ dài hạn + VCSH
Lợi nhuận trước thuế và lãi
Khả năng thanh toán lãi vay =
hay số lần có thể trả lãi Lãi vay
VCSH
Khả năng độc lập về tài chính =
Vốn trung và dài hạn
Tài sản ngắn hạn hoặc dài hạn
Tỷ lệ cơ cấu tài sản =
TS
Tổng Nợ
Thông số nợ trên vốn chủ =
VCSH
1.4.4.2.3. Nhóm tỷ số về khả năng hoạt động
Các chỉ số này đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản, nguồn vốn của doanh nghiệp. Chỉ tiêu doanh thu được sử dụng chủ yếu trong tính toán các chỉ số này để xem xét tình hình hoạt động của doanh nghiệp.Nhóm chỉ số này bao gồm các chỉ tiêu: Vòng quay tiền, vòng quay hàng tồn kho, kỳ thu tiền bình quân, hiệu suất sử dụng tài sản cố định, hiệu suất sử dụng tổng tài sản.
DT
Vòng quay tiền =
Tiền và chứng khoán dễ bán
DT
Vòng quay hàng tồn kho =
Hàng tồn kho
DT
Vòng quay các khoản phải thu =
Khoản phải thu
Khoản phải thu
Kỳ thu tiền bình quân =
DT
Phải trả người bán × Số ngày trong năm
Kỳ thanh toán bình quân =
Trị giá hàng mua tín dụng
DT
Hiệu suất sử dụng tài sản cố định =
TSCĐ
DT
Hiệu suất sử dụng tổng tài sản =
TS
1.4.4.2.4. Nhóm tỷ số về khả năng sinh lãi
Khả năng sinh lãi là kết quả tổng hợp chịu tác động của rất nhiều nhân tố khác. Nếu như các nhóm chỉ số trên chỉ phản ánh từng khía cạnh riêng biệt của doanh nghiệp. Mục đích chung của các doanh nghiệp kinh doanh là làm sao để một đồng vốn bỏ ra đầu tư cho lợi nhuận cao nhất có thể. Người ta thường sử dụng các chỉ tiêu sau: Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm, thu nhập trên vốn chủ sở hữu (ROE), doanh lợi tài sản (ROA).
TNST
Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm =
DT
Lợi nhuận gộp
Lợi nhuận gộp biên =
DT
TNST
ROA =
TS
TNST
ROE =
VCSH
Ngoài các chỉ số trên, đối với các công ty cổ phần còn sử dụng thêm một số chỉ số khác để đánh giá khả năng sinh lãi như thu nhập trên mỗi cổ phiếu (EPS) và giá trên thu nhập (P/E), giá trị sổ sách trên mỗi cổ phiếu, giá trị thị trường trên giá trị sổ sách (M/B).
TNST - Cổ tức ưu đãi
EPS =
Số lượng cổ phiếu lưu hành
Giá trị thị trường của cổ phiếu
P/E =
Thu nhập trên mỗi cổ phiếu
VCSH
Giá trị sổ sách trên mỗi cổ phiếu =
Tổng số cổ phiếu lưu hành
Giá trị thị trường mỗi cổ phiếu
Giá trị thị trường trên giá trị sổ sách =
Giá trị sổ sách mỗi cổ phiếu
1.4.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến phân tích tài chính doanh nghiệp
Phân tích tài chính vốn đã phức tạp lại chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố, bao gồm cả nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan. Những nhân tố đó là: Quy trình phân tích, phương pháp phân tích, thông tin sử dụng cho quá trình phân tích, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của người phân tích và cả tính chính xác của hệ thống trung bình ngành. Cụ thể như sau:
1.4.5.1. Nhân tố chủ quan
1.4.5.1.1. Quy trình tổ chức phân tích
Đây là nhân tố ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả phân tích tài chính của doanh nghiệp bởi lẽ nếu không xây dựng được một kế hoạch phân tích khoa học và trình tự sắp xếp các công việc không hợp lý sẽ dẫn đến vướng mắc khi tiến hành phân tích và chậm tiến độ hoàn thành công việc. Bất cứ một quy trình phân tích tài chính nào đều có ba giai đoạn, phải tiến hành đầy đủ và chu đáo từ khâu đầu tiên sẽ giúp cho doanh nghiệp có những kết quả chính xác hơn. Đặc biệt, ngày nay việc sử dụng công nghệ kỹ thuật hiện đại phục vụ cho công việc phân tích tài chính đã cho kết quả phân tích rất khả quan mà lại tiết kiệm được chi phí. Mặc dù vậy, nhà quản trị tài chính phải có trách nhiệm phân chia công việc cụ thể trong nhóm phân tích để mỗi cá nhân chuyên trách một phần khác nhau, đảm bảo hoàn thành quá trình phân tích đúng thời hạn .
1.4.5.1.2. Phương pháp phân tích
Phân tích tài chính có rất nhiều phương pháp có thể sử dụng nhưng chọn lựa phương pháp nào thì các nhà quản lý tài chính phải tính toán kỹ lưỡng sao cho phương pháp sử dụng là thích hợp nhất. Nếu như chỉ dùng một phương pháp phân tích thì kết quả phân tích không khách quan, do đó cần phải sử dụng kết hợp các phương pháp phân tích và đặc biệt là không được bỏ sót phương pháp tài chính Dupont. Tuy nhiên cũng phải biết giới hạn số lượng phương pháp áp dụng trong phân tích, không nên sử dụng quá nhiều phương pháp mà phải căn cứ vào mục tiêu phân tích để tìm ra những phương pháp phù hợp.
1.4.5.1.3. Thông tin sử dụng trong phân tích
Đây là yếu tố rất quan trọng vì nó trực tiếp ảnh hưởng đến chất lượng kết quả phân tích. Một khi thông tin sử dụng không chính xác thì những kết quả phân tích cũng chỉ là những kết quả không có thực và nó không phản ánh một cách trung thực tình hình tài chính của doanh nghiệp. Những nguồn thông tin bên trong doanh nghiệp cần phải đảm bảo luôn luôn đúng, còn những thông tin bên ngoài doanh nghiệp về ngành nghề, chu kì kinh tế có thể lấy những giá trị gần chính xác vì đó là những nguồn thông tin không dễ xác minh được.
1.4.5.1.4. Trình độ chuyên môn của người phân tích
Từ các nguồn thông tin khác nhau, các cán bộ phân tích thu thập tài liệu và tổng hợp lên các bảng, biểu và dùng khả năng chuyên môn của mình để phân tích, biến những con số trở nên “biết nói”. Không chỉ thế, từ tình hình tài chính của doanh nghiệp, các cán bộ phân tích còn phải vạch ra những điểm mạnh, yếu của doanh nghiệp để có định hướng khắc phục và cải thiện. Do tính chất phức tạp và khó khăn của công tác phân tích tài chính mà đòi hỏi các cán bộ phân tích phải có trình độ chuyên môn cao.
1.4.5.2. Nhân tố khách quan
Phân tích tài chính sẽ trở nên đầy đủ và có ý nghĩa hơn nếu sự tồn tại của hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành. Bởi lẽ, đây là cơ sở tham chiếu rất quan trọng khi phân tích. Khi so sánh các chỉ tiêu tài chính với các chỉ tiêu tương ứng của trung bình ngành sẽ cho người phân tích những kết luận tốt, xấu về doanh nghiệp. Cụ thể hơn, từ việc so sánh này mà các nhà quản trị tài chính biết được vị thế tài chính của doanh nghiệp mình trong ngành kinh doanh, từ đó có biện pháp nâng cao vị thế của mình, sẵn sàng vượt qua những đối thủ cạnh tranh khác.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH CÔNG TY CỔ PHẦN THUỐC THÚ Y TRUNG ƯƠNG I
2.1. Tổng quan về công ty
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển
Trước năm 1959, việc cung ứng vật tư và thuốc thú y là một bộ phận nằm trong Công ty thuốc trừ sâu và vật tư thú y.
Năm 1973 theo quyết định số 97 NN-TCQĐ ngày 23/03/1973 của Bộ Nông nghiệp tách bộ phận cung ứng vật tư thú y thành lập một công ty có tên gọi là Công ty vật tư thú y cấp I.
Năm 1983 theo quyết định số 156/TCCB-QĐ ngày 11/06/1983 của Bộ Nông nghiệp chuyển công ty thành đơn vị trực thuộc Bộ quản lý (cấp I).
Trong thời gian từ 1973-1992, về tên gọi có thay đổi cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển nhưng chức năng và nhiệm vụ chính của công ty là: cung ứng dịch vụ, sản xuất và nhập tất cả các loại thuốc thú y, dụng cụ thú y, các loại vật tư phục vụ ngành chăn nuôi, đáp ứng đủ vật tư cho công tác nghiên cứu khoa học chăn nuôi thú y, phục vụ công tác giảng dạy, đào tạo cán bộ của ngành và công tác phòng chống bệnh cho đàn gia súc, gia cầm trong phạm vi cả nước với vốn đầu tư ban đầu là 12.000.000 đồng.
Từ khi thành lập đến nay, công ty đã trải qua nhiều thử thách thăng trầm và có nhiều biến đổi, công ty đã xác định đúng trách nhiệm của mình và tự khẳng định được chỗ đứng của mình. Đặc biệt những năm 1989-1992 từ cơ chế bao cấp chuyển sang cơ chế hạch toán kinh doanh, công ty đã từng bước đổi mới, dần dần thích nghi với cơ chế thị trường nên mọi hoạt động sản xuất kinh doanh đều có hiệu quả. Trụ sở chính của công ty hiện nay đã rất khang trang. Kho chứa hàng hoá đảm bảo diện tích và đạt được tiêu chuẩn kỹ thuật. Bộ máy tổ chức ngày càng hoàn thiện, đội ngũ cán bộ trình độ nghiệp vụ chuyên môn ngày càng nâng cao. Số lượng cán bộ có trình độ đại học và có nhiều kinh nghiệm được bố trí vào các đơn vị công tác thích hợp để có đủ điều kiện hoàn thành công việc được giao.
Từ tháng 5/1993-12/1999 công ty hoạt động theo mô hình DNNN với chức năng nhiệm vụ chính là sản xuất và kinh doanh, nhập khẩu vacxin và thuốc thú y - một lĩnh vực mới mà sản phẩm mang tính kỹ thuật đòi hỏi công ty có nhiều nỗ lực, nhiều giải pháp và đầu tư cho sản xuất nhiều hơn mới có thể phát triển bền vững đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ và được thị trường người tiêu thụ chấp nhận. Giai đoạn đầu năm 1993, công ty chỉ có vài sản phẩm đưa ra thị trường nhưng đến cuối năm 1999, công ty đã có hơn 150 sản phẩm đưa ra lưu thông và được thị trường chấp nhận, trong đó có những sản phẩm là mũi nhọn chủ lực của công ty có hiệu lực điều trị bệnh và mang lại hiệu quả kinh tế cao. Trong số đó có 10 sản phẩm đạt giải Bông lúa vàng và hai sản phẩm đạt Huy chương vàng tại hội chợ quốc tế.
Thực hiện chủ trương của Chính Phủ về việc cổ phần hoá DNNN, bằng quyết định số 06/2000/QĐ BNN-TCCH ngày 26/01/2000 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã chuyển doanh nghiệp Công ty vật tư thuốc thú y Trung ương I thành Công ty cổ phần thuốc thú y Trung ương I hoạt động theo Luật doanh nghiệp và Điều lệ công ty cổ phần với vốn điều lệ ban đầu là 7 tỷ đồng.
Trong những năm qua, công ty đã đạt được những thành tích tiêu biểu như:
+ Huân chương Lao động hạng III do Chủ tịch nước tặng thưởng năm 1985.
+ Huân chương Lao động hạng II do Chủ tịch nước ban tặng năm 1996.
+ 8 cờ thi đua, bằng khen của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tặng về thành tích xuất sắc từ năm 1990-1999.
+ 18 năm liền từ năm 1988-2006 được UBND quận Đống Đa tặng danh hiệu và cờ thi đua quyết thắng trong công tác tự vệ và cờ 10 năm (1988-1997) đơn vị quyết thắng.
+ Từ năm 1990-2006 liên tục được công an Thành phố Hà Nội tặng cờ, bằng khen, giấy khen trong công tác bảo vệ.
+ Là tổ chức công đoàn cơ sở vững mạnh từ nhiều năm nay và năm 2006 do công đoàn quận Đống Đa khen thưởng.
+ Nhiều bằng khen, giấy khen cho hoạt động sản xuất kinh doanh và hoạt động khác của đơn vị.
2.1.2. Tổ chức hoạt động của Công ty cổ phần thuốc thú y Trung ương I
Là một công ty cổ phần hóa, Công ty cổ phần thuốc thú y Trung ương I có bộ máy tổ chức được sơ đồ hóa như sau:
Bảng 2.1. Cơ cấu tổ chức của Công ty cổ phần thuốc thú y Trung ương
HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ
VINAVIETCO
Giám đốc
Đại diện lãnh đạo về chất lượng
P.
Kế hoạch vật tư
P.
Đảm bảo chất lượng
P.
Thị trường
bán hàng
Phân xưởng sản xuất
P.
Kỹ thuật
P.
Kế toán tài chính
P.
Tổ chức hành chính
Ban kiểm soát
Nguồn: Công ty cổ phần thuốc thú y Trung ương I
Trong đó:
Hội đồng quản trị (HĐQT): Là cơ quan quản lý công ty có quyền hạn và trách nhiệm như sau:
+ Toàn quyền nhân danh công ty để quyết định mọi vấn đề liên quan đến mục đích, quyền lợi của công ty, trừ những vấn đề thuộc thẩm quyền của đại hội đồng cổ đông.
+ Có trách nhiệm giám sát Tổng giám đốc điều hành và những người quản lý khác. HĐQT có trách nhiệm cụ thể hoá các Nghị quyết của Đại hội cổ đông về tổ chức hoạt động của công ty.
+ Chịu trách nhiệm trước cổ đông về kết quả hoạt động của công ty bao gồm: Bảo toàn và phát triển vốn, đảm bảo việc làm và thu nhập cho người lao động, đảm bảo các chỉ tiêu tài chính đã được Đại hội cổ đông thông qua.
Quyền và nghĩa vụ của HĐQT là do luật pháp và điều lệ công ty, các quy chế nội bộ của công ty và nghị quyết Đại hội đông cổ đông quy định.
Ban kiểm soát: Là cơ quan trực thuộc Đại hội đồng cổ đông, do Đại hội đồng cổ đông bầu ra. Ban kiểm soát có nhiêm vụ kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp trong hoạt động điều hành sản xuất kinh doanh, báo cáo tài chính của công ty. Ban kiểm soát hoạt động độc lập với HĐQT và Giám đốc.
Giám đốc: Thực hiện các nghị quyết của Hội đồng quản trị và Đại hội cổ đông, kế hoạch kinh doanh, kế hoạch đầu tư của Công ty đã được HĐQT và Đại hội cổ đông thông qua. Giám đốc có quyền thay mặt công ty ký các hợp đồng kinh tế, khi được Chủ tịch HĐQT uỷ quyền tổ chức và điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh thường nhật của công ty phù hợp với quy chế HĐQT. Ngoài ra, Giám đốc cũng có quyền trực tiếp chỉ đạo các công tác quan trọng của công ty như công tác tổ chức cán bộ, lao động và tiền lương, công tác đầu tư xây dựng cơ bản, công tác tài chính kế toán và xuất nhập khẩu.
Phòng Tổ chức hành chính: Có nhiệm vụ tham mưu cho Giám đốc các vấn đề về:
+ Lĩnh vực tổ chức bộ máy, công tác cán bộ, thực hiện chế độ chính sách, công tác nội chính, hành chính quản trị và quản trị trong cơ quan.
+ Việc quản lý các loại vật tư, nguyên liệu, hàng hoá và sử dụng mặt bằng kho hàng, vật tư phục vụ cho sản xuất kinh doanh.
+ Các công việc liên quan đến bố trí và điều độ lao động, chịu trách nhiệm về việc cân đối lao động giữa các đơn vị phù hợp với chức năng và nhiệm vụ của từng đơn vị.
+ Xây dựng định mức văn phòng phẩm phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
+ Lập kế hoạch và tổ chức bảo dưỡng máy móc thiết bị.
+ Xây dựng kế hoạch đào tạo và bồi dưỡng công tác đào tạo cán bộ công nhân viên trong công ty, kiểm tra việc thực hiện ngày giờ và nội quy cũng như quy định của công ty, thực hiện công tác bảo hộ lao động và nâng bậc lương lao động,…
+ Giải quyết các vấn đề chính sách cho cán bộ công nhân viên.
Phòng cũng là bộ phận phải chịu trách nhiệm về những quyết định sai hoặc những quyết định vượt quyền làm ảnh hưởng đến công việc của đơn vị khác, chịu trách nhiệm khi không có ý kiến xử lý hoặc đề xuất những trường hợp người lao động vi phạm nội quy công ty…
Phòng Kế toán tài chính: Tham mưu cho Giám đốc về các vấn đề như:
+ Toàn bộ công tác tài chính kế toán, thống kê phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh.
+ Lập các chứng từ sổ sách, thu chi với khách hàng, nội bộ.
+ Theo dõi quá trình chu chuyển tiền tệ của công ty.
Phòng Kỹ thuật: Tham mưu cho Giám đốc và HĐQT về các lĩnh vực như:
+ Tiến độ kỹ thuật.
+ Quản lý chu trình kỹ thuật, chu trình công nghệ sản xuất.
+ Nghiên cứu các sản phẩm mới, chế thử, thử nghiệm, pha chế, phối chế.
+ Giải quyết các sự cố về kỹ thuật, công nghệ sản xuất và khắc phục các sản phẩm hỏng trong quá trình sản xuất.
+ Cải tiến, không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm mới.
Phòng Kế hoạch vật tư: Là bộ phận có trách nhiệm tham mưu cho Giám đốc về các vấn đề:
+ Xây dựng kế hoạch sản xuất.
+ Xây dựng kế hoạch cung ứng vật tư, nguyên liệu phục vụ sản xuất kinh doanh.
+ Xác định nguồn và tổ chức thực hiện mua vật tư, nguyên liệu khi đã được duyệt. Cụ thể, phòng phải căn cứ vào kế hoạch sản xuất, định mức vật tư, dự trù mua nguyên vật liệu, tham mưu cho Giám đốc kế hoạch cung ứng vật tư, ký kết các hợp đồng kinh tế mua bán nguyên vật liệu trực tiếp trong nước và ngoài nước, phối hợp với kế toán trưởng tham mưu cho Giám đốc giá mua, bán các loại nguyên liệu vật tư và hàng hoá, xây dựng kế hoạch sản xuất theo năm và theo tháng, phối hợp với các đơn vị liên quan để triển khai kế hoạch sản xuất đảm bảo đáp ứng nhu cầu hàng hoá và tổ chức sản xuất hợp lý nhất, chỉ đạo cán bộ nghiệp vụ đáp ứng đầy đủ kịp thời nguyên liệu vật tư cho sản xuất. Các hoá chất bao bì và vật tư khác trình lãnh đạo phê duyệt, trực tiếp thực hiện các nghiệp vụ trong quá trình mua vật tư, tổ chức giao nhận hàng hoá, vật tư tại kho công ty (trong nước và xuất khẩu).
Phòng Đảm bảo chất lượng: Là bộ phận có nhiệm vụ cụ thể như sau:
+ Tham mưu cho Giám đốc và sọan thảo các quy định về kiểm tra, hướng dẫn tiến hành kiểm tra, phân tích các thành phẩm và bán thành phẩm trong quá trình sản xuất. Hoàn thiện từng bước những quy định hệ thống quản lý chất lượng.
+ Phối hợp với các phòng ban triển khai hiệu quả các chính sách về chất lượng trong hiện tại và tương lai.
+ Kiểm tra và giám sát toàn bộ chất lượng sản phẩm từ khâu nhập vật tư nguyên liệu đến sản phẩm cuối cùng. Cụ thể, phòng cần bố trí hợp lý các thành viên trong các khâu kiểm tra của quá trình sản xuất từ khâu sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm.
+ Triển khai và quản lý kịp thời các thông tin về chất lượng sản phẩm.
+ Xây dựng kế hoạch lấy mẫu, kiểm tra và xử lý mẫu, định kỳ lấy mẫu và lưu mẫu đối chứng sau này.
+ Thường xuyên có ý kiến đánh giá sản phẩm theo quy định để phân loại sản phẩm.
+ Đề xuất những ý kiến trong việc quản lý nguyên liệu vật tư, sử dụng hoặc loại bỏ nguyên liệu,các sản phẩm và thành phẩm không đạt yêu cầu.
+ Đề xuất những ý kiến về chính sách chất lượng sản phẩm, những biện pháp quản lý vật tư, hạn chế những tổn thất không đáng có trong quá trình sản xuất, xây dựng các biện pháp kiểm tra vệ sinh thú y.
+ Thực hiện nghiêm túc các quy định trong sản xuất,…
Phòng Thị trường bán hàng: Có trách nhiệm tham mưu cho Giám đốc về các vấn đề như:
+ Tổ chức và thực hiện công tác thị trường.
+ Dịch vụ chăm sóc khách hàng.
+ Mô hình bán sản phẩm hàng hoá.
+ Đề xuất các biện pháp nhằm duy trì, mở rộng và phát triển thị trường cũng như cơ chế bán hàng hợp lý đáp ứng nhu cầu khách hàng.
Phân xưởng sản xuất: Tham mưu cho Giám đốc về những nội dung sau:
+ Sắp xếp lao động và mặt bằng sản xuất.
+ Thực hiện tốt nội quy và quy định về an toàn lao động, phòng cháy chữa cháy và vệ sinh công nghiệp.
+ Tổ chức bố trí lao động hợp lý và quản lý lao động theo đúng quy định.
+ Đề xuất cải tiến cơ sở vật chất, máy móc thiết bị để không ngừng nâng cao năng suất lao động.
2.1.3. Tình hình hoạt động của Công ty cổ phần thuốc thú y Trung ương I
2.1.3.1. Ngành nghề kinh doanh của công ty
Công ty chuyên sản xuất, gia công thuốc thú y; xuất, nhập khẩu và kinh doanh thuốc và vật tư thú y, nghiên cứu đưa tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất kinh doanh thuốc thú y và vật tư thuốc thú y, dịch vụ thương mại, đại lý mua bán, ký gửi hàng hoá, sản xuất, gia công thuốc thú y thủy sản và xuất nhập khẩu các mặt hàng khác mà công ty kinh doanh.
Công ty có những sản phẩm đạt chất lượng cao, đa dạng và phong phú về nhiều chủng loại. Từ thuốc để phòng trị bệnh, thuốc tẩy ký sinh trùng, thuốc bồi bổ sức khoẻ, kích thích tăng trọng đến thuốc điều tiết sinh sản, thuốc diệt ký sinh trùng và các thuốc diệt nấm mốc. Thế mạnh đặc biệt của công ty Cổ phần thuốc thú y TWI là những sản phẩm kháng sinh đặc biệt, những kháng sinh đặc trị về bệnh tiêu hoá, hô hấp đã được các bác sĩ thú y, các chủ trang trại và người chăn nuôi công nhận. Các sản phẩm của công ty bao gồm:
- Kháng sinh dung dịch tiêm: AMPISEP, FATRA, LINCOSEP,…
- Kháng sinh bột pha tiêm: AMPICILLIN, PENICILLIN, STREPTOMYCIN,…
- Kháng sinh bột trộn thức ăn hoặc pha nước uống: ANTICOCCID, SUL MIX, TIAMULIN 10%,…
- Thuốc ký sinh trùng (Dạng dung dịch tiêm, dạng bột, thuốc sát trùng tẩy uế, thuốc kháng viêm, giải độc): ANAGIN, METHYL SALICILAT, AZIDIN, ZUSAVET,…
- Thuốc VITAMIN, nâng cao sức đề kháng( Dạng dung dịch tiêm và dạng bột): BOGAMA, VITAMIN K 1%, VITAMIN C 5%,…
2.1.3.2. Kết quả kinh doanh qua các năm
Trong những năm qua, công ty đã hoàn thành mục tiêu kế hoạch doanh thu, lợi nhuận đưa ra. Và để đạt được kết quả đó, công ty đã chấp hành nghiêm túc các quy định chính sách pháp luật của Nhà nước, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ nộp thuế. Trong năm 2005, Cục thuế Thành phố Hà Nội đã tiến hành thanh tra thuế tại đơn vị và được đánh giá là một trong các doanh nghiệp của Hà Nội chấp hành tốt pháp luật và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ nộp ngân sách Nhà nước, không vi phạm các quy định của pháp luật hiện hành.
Ngoài ra, về công tác quản lý tài chính, công ty luôn chấp hành tốt các quy định quản lý của Nhà nước cũng như các quy định về đầu tư. Công tác kế toán tài chính đã hạch toán theo chuẩn mực kế toán nhà nước quy định. Trong danh mục nguồn vốn huy động cho hoạt động sản xuất kinh doanh, công ty chú trọng đến khoản vay ngắn hạn từ Ngân hàng, từ chính các cổ đông của công ty và sử dụng một lượng vốn không nhỏ để đầu tư mua sắm TSCĐ. Trong sản xuất kinh doanh, công ty luôn đề ra các biện pháp tiết kiệm chi phí sản xuất, luôn phấn đấu hạ thấp giá thành sản phẩm để không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Mặc dù trong thời gian qua, dịch bệnh gia cầm, gia súc xảy ra trên diện rộng, nhiều tháng liên tục các loại thuốc dùng cho gia cầm không tiêu thụ được nhưng nhìn chung, công ty vẫn hoạt động hiệu quả, tuy rằng với tốc độ chậm hơn.
Không chỉ thế, trong những năm qua và thời gian gần đây, công ty cũng chú trọng tiến trình đổi mới công nghệ, đã đầu tư hàng tỷ đồng mua sắm các thiết bị máy móc có công nghệ tiên tiến thay thế những máy móc đã lạc hậu và cũ nhằm tạo ra năng suất chất lượng hiệu quả trong sản xuất kinh doanh, sẵn sàng cho việc xây dựng nhà máy sản xuất thuốc thú y đạt tiêu chuẩn của Nhà nước yêu cầu. Mặt khác mỗi năm, công ty còn cử một số cán bộ đi học các lớp bồi dưỡng kiến thức về công nghệ, cập nhập những thông tin mới nhất về các công nghệ sử dụng trong ngành, từ đó xem xét các thiết bị, dây chuyền phù hợp với trình độ và kinh phí của công ty mình. Ngoài ra, trong quá trình tiến hành hoạt động sản xuất – kinh doanh, công ty luôn chú ý đến vấn đề về sinh môi trường, cam kết và đảm bảo không gây ảnh hưởng độc hại đến moi trường xung quanh khu vực nhà máy, và điều này đã được Nhà nước công nhận và khen ngợi.
Bên cạnh việc phát huy tối đa năng lực của người lao động, công ty đặc biệt chú trọng việc chấp hành quy định của Bộ luật lao động thông qua Hợp đồng lao động và thoả ước lao động tập thể. Số lao động làm việc tại công ty đều được đào tạo đầy đủ và cơ bản. Hiện nay công ty có nhiều chính sách trong việc quản lý và sử dụng lao động nhằm phát huy hết khả năng người lao động, động viên khuyến khích cũng như giữ gìn những người làm việc ở những khâu quan trọng và trọng yếu. Công ty cũng thường xuyên chăm lo, cải thiện điều kiện làm việc cho người lao động đảm bảo mức thu nhập bình quân như dự kiến. Về môi trường làm việc, công ty đã đầu tư nhiều triệu đồng mua sắm thiết bị và các điều kiện cải thiện môi trường làm việc, không chỉ đảm bảo những điều kiện tốt nhất có thể cho các thành viên trong công ty mà còn để mọi người yên tâm làm việc lâu dài tại công ty.
Biểu 2.1. Lợi nhuận sau thuế của công ty qua các năm
2,844
3,038
3,248
2,600
2,700
2,800
2,900
3,000
3,100
3,200
3,300
Tỷ VNĐ
Năm
2006
Năm
2007
Năm
2008
Lợi nhuận sau thuế
Nguồn Công ty cổ phần thuốc thú y TWI
Bảng 2.2. Tốc độ tăng trưởng doanh thu, chi phí, lợi nhuận qua các năm
Đơn vị: Tỷ VNĐ
Năm
Chỉ tiêu
2006
2007
2008
Giá trị
%thay đổi
Giá trị
%thay đổi
Giá trị
%thayđổi
Doanh thu thuần bán hàng và cung cấp dịch vụ
39,749
5,374
49,50
28,61
54,399
8,79
Giá vốn hàng bán
27,388
12,026
31,226
14,01
33,554
7,46
Chi phí bán hàng
3,040
- 11,111
6,889
126,61
9,569
38,90
Chi phí quản lý doanh nghiệp
3,590
2,865
5,947
65,65
4,581
-22,97
Lợi nhuận sau thuế
2,844
0,851
3,038
6,82
3,248
6,91
Nguồn Công ty cổ phần thuốc thú y Trung ương I
2.2. Thực trạng công tác phân tích tài chính của công ty
2.2.1. Tổ chức công tác phân tích
Hầu hết tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ nói chung và Công ty cổ phần thuốc thú y Trung ương I nói riêng, công tác phân tích tài chính của công ty chưa được quan tâm một cách thích đáng. Công tác phân tích chủ yếu còn khá sơ sài, được thực hiện không thường xuyên và chưa thực sự nhằm mục đích nâng cao chất lượng của phân tích tài chính. Công ty chưa chú tâm vào việc xây dựng một quy trình phân tích đầy đủ các bước cần thiết, chỉ dừng lại ở việc xác định những con số cần phân tích, sử dụng một số phương pháp phân tích truyền thống và đưa ra kết quả. Việc phân tích chỉ được tiến hành khi có yêu cầu của Ban kiểm soát hay của các cổ đông lớn trước khi có kế hoạch phát hành cổ phiếu. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này nhưng nguyên nhân chính có lẽ là sự thiếu quan tâm đúng mực của công ty, bản thân công ty chưa thấy được sự cần thiết của công tác phân tích tài chính tại công ty mình.
Trước tháng 8/2006, công việc phân tích tài chính do cán bộ trực thuộc Ban kiểm soát đảm nhận nhưng sau đó, do cán bộ này lên chức Chủ tịch HĐQT còn cán bộ ban kiểm soát mới được giao nhiệm vụ phân tích tài chính lại là chủ tịch Hội đồng thành viên của một công ty khác nên việc phân tích tài chính của công ty nhiều khi do Chủ tịch HĐQT thực hiện nhằm đánh giá kết quả hoạt động của công ty trong năm vừa qua và tổng kết tình hình tài chính cho để các cổ đông nắm bắt được. Đồng thời Giám đốc cũng sử dụng chính những kết quả phân tích này để định hướng chiến lược kinh doanh cho doanh nghiệp mình. Có thể nói, việc giao phó công tác phân tích tài chính cho Chủ tịch HĐQT kiêm nhiệm cũng có những mặt thuận lợi và hạn chế. Xét một cách khách quan, Chủ tịch HĐQT trực tiếp phân tích sẽ nắm giữ rất nhiều thông tin về tình hình kinh doanh của doanh nghiệp, sẽ đưa ra những chính sách sát với thực trạng tài chính của công ty mình và hoàn toàn có đủ cơ sở giải quyết những vướng mắc của các cổ đông trước Đại hội cổ đông .
Tuy nhiên, do tính phức tạp của quy trình phân tích tài chính và trách nhiệm của HĐQT là rất nặng nề nên việc giao cho Chủ tịch HĐQT kiêm nhiệm công việc này sẽ làm tăng áp lực công việc cần phải giải quyết và do không đủ chuyên nghiệp trong phân tích nên chất lượng công tác phân tích cũng sẽ không đảm bảo lúc nào cũng cho kết quả đúng và hiệu quả. Cán bộ phân tích không được đào tạo và rèn luyện chính quy về tài chính doanh nghiệp mà cụ thể là phân tích tài chính, không có những nghị quyết rõ ràng của cấp trên hướng dẫn thực hiện, do đó kết quả phân tích sẽ không phản ánh đầy đủ tình hình tài chính của doanh nghiệp mà chỉ nói lên những mặt cơ bản về thực trạng tài chính.
Như đã nói ở trên, việc xác định các bước phân tích cụ thể ngay từ đầu là một công việc rất quan trọng và nó có tác động trực tiếp đến kết quả phân tích. Nếu quá trình phân tích quá giản đơn sẽ không đưa ra những nhận xét mang tính toàn diện và không vạch ra được những vướng mắc rất nhỏ mà có ảnh hưởng lớn tới kết quả hoạt đông kinh doanh của doanh nghiệp. Hơn nữa, việc không lên kế hoạch phân tích cụ thể và chi tiết sẽ gây khó khăn cho việc phân bổ thời gian nghiên cứu, không thể linh hoạt, nhất là khi số lượng công việc của Chủ tịch HĐQT quá nhiều. Và điều này cũng ảnh hưởng đến tình trạng sức khỏe của cán bộ phân tích.
2.2.2. Thông tin sử dụng trong phân tích
Công ty sử dụng các thông tin trên các báo cáo tài chính hàng năm để phân tích tình hình tài chính mà chủ yếu là sử dụng các thông tin trên bảng CĐKT, bảng BCKQKD, bảng TMBCTC. Các thông tin trên bảng LCTT không được sử dụng, do đó những ý nghĩa của việc nghiên cứu bảng LCTT không được lĩnh hội. Công việc quản lý tiền mặt là một công việc rất khó khăn và rất quan trọng nên việc bỏ qua phân tích bảng LCTT là một sơ suất của Ban lãnh đạo công ty.
Những nguồn tài liệu khác công ty cũng sử dụng nhưng chỉ mang tính chất tham khảo, chứ không trực tiếp đưa vào quá trình phân tích. Do đó, kết quả phân tích không phản ánh mọi mặt của tình hình tài chính. Mặt khác, các thông tin cán bộ phân tích sử dụng được cung cấp trực tiếp bởi các Kế toán viên cung cấp từ phòng Kế toán tài chính, không qua một bộ phận trung gian nào kiểm tra, do đó, không khỏi tránh khỏi những thiếu sót trong nguồn thông tin cán bộ phân tích sử dụng.
Sau đây là hai bảng thông tin mà công ty chủ yếu sử dụng trong phân tích:
Bảng 2.3. Bảng báo cáo kết quả kinh doanh
Đơn vị: Tỷ VNĐ
Năm
Chỉ tiêu
2006
2007
2008
1. Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ
39,749
49,500
54,399
2. Các khoản giảm trừ doanh thu
2,481
1,568
2,256
3. Doanh thu thuần bán hàng và cung cấp dịch vụ
37,268
47,932
52,143
4. Giá vốn hàng bán
27,388
31,226
33,554
5. Lợi nhuận gộp về bán hàng và cung cấp dịch vụ
9,880
16,706
18,589
6. Doanh thu hoạt động tài chính
0,787
0,63
0,251
7. Chi phí tài chính
0,097
0,298
0,199
Trong đó: Chi phí lãi vay
0,097
0,298
0,199
8. Chi phí bán hàng
3,040
6,889
9,569
9. Chi phí quản lý doanh nghiệp
3,590
5,947
4,581
10.Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh
3,940
4,202
4,491
11. Lợi nhuận khác
0,010
0,018
0,019
12.Tổng lợi nhuận kế toán trước thuế
3,950
4,220
4,51
13.Chi phí thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành
1,106
1,182
1,262
14. Lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh nghiệp
2,844
3,038
3,248
Nguồn Công ty cổ phần thuốc thú y Trung ương I
Bảng 2.4. Bảng cân đối kế toán
Đơn vị: Tỷ VNĐ
Năm
Chỉ tiêu
2006
2007
2008
A. Tài sản ngắn hạn
17,411
35,251
60,354
I. Tiền và các khoản tương đương tiền
5,216
10,225
20,566
II. Các khoản đầu tư ngắn hạn
0
0
0
III. Các khoản phải thu ngắn hạn
3,222
2,624
2,225
1. Phải thu khách hàng
3,222
2,624
2,225
2. Trả trước cho người bán
0
0
0
3. Phải thu nội bộ
0
0
0
4. Phải thu theo tiến độ HĐXD
0
0
0
5. Các khoản phải thu khác
0
0
0
IV. Hàng tồn kho
8,427
17,868
29,019
V. Tài sản ngắn hạn khác
0,546
4,534
8,544
1. Tạm ứng
0,525
4,514
8,529
2. Chi phí trả trước
0
0
0
3. Thuế GTGT được khấu trừ
0
0
0
4. Thuế và các khoản phải thu Nhà nước
0
0
0
5. Tài sản ngắn hạn khác chờ xử lý
0,021
0,02
0,015
B. Tài sản dài hạn
7,329
9,905
12,652
I. Tài sản cố định
2,13
2,496
2,889
1. Tài sản cố định hữu hình
1,832
2,147
2,485
Nguyên giá
9,085
9,897
10,733
Giá trị hao mòn lũy kế
7,253
7,75
8,248
2. Tài sản cố định thuê tài chính
0
0
0
3. Tài sản cố định vô hình
0,298
0,349
0,405
Nguyên giá
0,309
0,361
0,418
Giá trị hao mòn lũy kế
0,011
0,012
0,013
II. Bất động sản đầu tư
0
0
0
III. Các khoản đầu tư tài chính dài hạn
0,601
0,766
0,932
IV. Chi phí xây dựng cơ bản dở dang
4,598
6,643
8,831
TỔNG CỘNG TÀI SẢN
24,74
45,156
73,006
NGUỒN VỐN
Năm 2006
Năm 2007
Năm 2008
A. Nợ phải trả
7,959
6,899
5,289
I. Nợ ngắn hạn
7,959
6,899
5,289
1. Vay và nợ ngắn hạn
3,558
5,618
5,01
2. Phải trả người bán
0,793
(0,632)
(0,2)
3. Người mua trả tiền trước
0
0
0
4. Thuế và các khoản phải trả Nhà nước
0,592
1,989
0,722
5. Phải trả công nhân viên
0,522
0,929
0,655
6. Chi phí phải trả
0
0
0
7. Phải trả nội bộ
0
0
0
8. Phải trả theo tiến độ HĐXD
0
0
0
9. Các khoản phải trả, phải nộp khác
2,494
(1,005)
(0,898)
10. Dự phòng phải trả ngắn hạn
0
0
0
II. Nợ dài hạn
0
0
0
B. Vốn chủ sở hữu
16,781
38,256
67,717
I. Vốn chủ sở hữu
16,434
38,02
67,353
1. Vốn đầu tư của chủ sở hữu
13,131
31,637
58,454
2. Thặng dư vốn cổ phần
0
0
0
3. Vốn khác của chủ sở hữu
0
0
0
4. Cổ phiếu ngân quỹ
0
0
0
5. Chênh lệch đánh giá lại tài sản
0
0
0
6. Chênh lệch tỷ giá hối đoái
0
0
0
7. Quỹ phát triển sản xuất kinh doanh
1,823
2,344
2,79
8. Quỹ dự phòng tài chính
0,7
0,654
0,655
9. Quỹ khác thuộc vốn chủ sở hữu
0
0
0
10. Lãi chưa phân phối
0,99
3,385
5,454
II. Nguồn kinh phí và các quỹ khác
0,137
0,237
0,364
1. Quỹ khen thưởng, phúc lợi
0,137
0,237
0,364
2. Nguồn kinh phí
0
0
0
3. Nguồn kinh phí đã hình thành TSCĐ
0
0
0
TỔNG CỘNG NGUỒN VỐN
24,74
45,156
73,006
Nguồn Công ty cổ phần thuốc thú y Trung ương I
2.2.3. Phương pháp phân tích tài chính của công ty
Công ty sử dụng hai phương pháp phân tích truyền thống là phương pháp so sánh và phương pháp tỷ số. Đây cũng là hai phương pháp thông dụng được các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường hay sử dụng trong phân tích. Tuy nhiên, việc sử dụng và kết hợp hai phương pháp này tại công ty vẫn chưa được hài hoà và nhuần nhuyễn nên chất lượng kết quả phân tích chưa cao. Công ty tiến hành so sánh số liệu giữa các kỳ với nhau, giữa năm này với năm trước để chỉ ra xu thế biến động của các chỉ tiêu, từ đó tính toán phần trăm hoàn thành kế hoạch đề ra. Đồng thời, với những chỉ tiêu có sự tăng giảm đột biến, bất thường, công ty tiến hành xem xét tìm hiểu nguyên nhân và khắc phục kịp thời những sai sót nếu quá nghiêm trọng.
Phương pháp tỷ số mà công ty sử dụng chủ yếu tập trung vào bốn nhóm chỉ số chính. Đó là nhóm chỉ số phản ánh khả năng thanh toán, khả năng cân đối vốn và cơ cấu vốn, khả năng hoạt động và khả năng sinh lãi. Trong đó, được tập trung chú ý hơn cả là nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lãi. Tuy nhiên, quá trình phân tích các nhóm chỉ tiêu trên của công ty cũng chưa thực sự cụ thể và hiệu quả vì số lượng chỉ số trong mỗi nhóm chỉ tiêu chỉ dừng lại ở những chỉ tiêu cơ bản nhất chứ chưa mở rộng thêm một vài chỉ tiêu khác.
Qua việc kết hợp hai phương pháp trên đã giúp công ty đánh giá được khả năng thanh toán, tình hình lỗ lãi cũng như kết quả kinh doanh của mình trong kỳ nghiên cứu. Tuy nhiên, công ty vẫn chưa chỉ rõ được đầy đủ nguyên nhân dẫn đến sự biến động của các chỉ tiêu, bởi lẽ ngay trong bảng CĐKT, các chỉ tiêu có mối liên hệ mật thiết đến nhau và sự biến đổi của một chỉ tiêu có thể dẫn đến sự thay đổi của nhiều chỉ tiêu khác. Đặc biệt, có rất nhiều doanh nghiệp không sử dụng phương pháp phân tích tài chính Dupont, tuy rằng đây là một phương pháp không đơn giản, nó yêu cầu người phân tích phải có trình độ chuyên môn cao về phân tích tài chính nhưng lại rất hữu ích cho các nhà phân tích. Công ty có sử dụng phương pháp này nhưng không khai thác được tác dụng của nó mà chỉ dừng lại ở mức độ tham khảo.
2.2.4. Nội dung quá trình phân tích tài chính của công ty
Để đánh giá tình hình tài chính của mình, công ty đã tiến hành phân tích dựa trên số liệu của một số bảng trong báo cáo tài chính trên cơ sở kết hợp hai phương pháp là phương pháp so sánh và phương pháp tỷ số. Qua đó công ty cũng đánh giá được cơ cấu vốn cũng như tình hình thay đổi tỷ trọng của các chỉ tiêu quan trọng trên báo cáo tài chính.
2.2.4.1. Phân tích bảng cân đối kế toán(CĐKT)
Khi phân tích bảng CĐKT, công ty tiến hành so sánh các chỉ tiêu chính của bảng để nghiên cứu sự biến đổi của chúng cũng như nguyên nhân của sự thay đổi đó.
Mối quan tâm hàng đầu của công ty khi nghiên cứu phần tài sản chính là các khoản mục: Tiền và các khoản tương đương tiền, hàng tồn kho, tài sản dài hạn mà chủ yếu là TSCĐ. Tuy nhiên, sự nghiên cứu chọn lọc này cũng có những mặt tích cực và hạn chế của nó. Nếu phân tích tất cả các chỉ tiêu của phần tài sản sẽ phải bỏ ra rất nhiều thời gian nghiên cứu trong khi khối lượng công việc của Chủ tịch HĐQT tương đối lớn, do đó, công ty không thể phân tích tất cả các chỉ tiêu của phân tài sản. Nhưng không phân tích sự thay đổi của toàn bộ các chỉ tiêu thì cũng khó có thể đưa ra kết luận chính xác về sự biến động của tài sản trong doanh nghiệp.
Trong vòng 3 năm, khoản mục tiền và các khoản tương đương tiền của công ty có xu hướng tăng trong khi khoản mục khoản phải thu có xu hướng giảm rõ rệt cho thấy công ty có chính sách thu hồi các khoản phải thu rất hiệu quả. Để có được kết quả này, công ty đã bỏ ra một lượng chi phí lớn để thực hiện chính sách chiết khấu thanh toán, từ đó khuyến khích khách hàng thanh toán nợ sớm, nhanh chóng thu hồi các khoản phải thu, kịp thời phục vụ cho quá trình sản xuất.
Khoản mục hàng tồn kho của công ty có xu hướng tăng theo thời gian cho thấy chính sách quản lý hàng tồn kho chưa thực sự hiệu quả. Mặc dù hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty có tính chất mùa vụ nhưng đó thường vào giai đoạn giữa năm, do đó tình trạng lưu trữ hàng tồn kho quá nhiều tại thời điểm cuối mỗi năm sẽ khiến cho hàng hóa ứ đọng trong khi chi phí lưu kho, bảo quản số nguyên vật liệu thuốc ngày càng tăng lên. Nguyên nhân chính của tình trạng này là do chính sách marketing chưa phát huy hết hiệu quả của nó và việc dự báo kế hoạch vật tư cho chu kì sản xuất kinh doanh không chuẩn xác.
Số lượng tài sản ngắn hạn khác chờ xử lý của công ty giảm dần trong 3 năm cho thấy công ty cũng đã chú trọng đến chiến lược quản lý tài sản lưu động, không để tình trạng dư thừa quá nhiều số tài sản chưa xử lý được.
Với đặc thù là công ty sản xuất, hàng năm công ty chi một khoản tiền lớn cho việc mở rộng sản xuất kinh doanh bằng cách mua thêm các thiết bị máy móc mới, thay thế những máy móc đã lỗi thời và hoạt động không hiệu quả. Do đó, khoản mục TSCĐ của công ty không ngừng tăng lên qua các năm. Tổng giá trị tài sản của công ty tăng lên rõ rệt, năm 2007 tăng 82,52 % so với năm 2006 và năm 2008 tăng 61,67% so với năm 2007. Trong đó, TSCĐ năm 2007 tăng 17,18% và năm 2008 tăng 15,75%.
Bảng 2.5. Tốc độ tăng trưởng tài sản
Đơn vị: %
Năm
Khoản mục
2006
2007
2008
Tài sản ngắn hạn
16,86
102,46
71,21
Tiền và các khoản tương đương tiền
32,42
96,03
101,13
Phải thu khách hàng
47,06
-18,56
-15,21
Hàng tồn kho
164,22
112,03
62,41
Tài sản dài hạn
16,85
35,15
27,73
Tài sản cố định
19,24
17,18
15,75
Tổng tài sản
98,56
82,52
61,67
Nguồn Công ty cổ phần thuốc thú y Trung ương I
Trong phần nguồn vốn, công ty không tiến hành phân tích tất cả các chỉ tiêu trong bảng CĐKT mà chỉ đi sâu vào một số chỉ tiêu chính nhằm xây dựng một cơ cấu vốn hợp lý và tối ưu nhất. Khoản mục “Nợ phải trả” giảm dần theo thời gian vừa là dấu hiệu tốt và không tốt đối với công ty. Dấu hiệu tốt chính là khả năng huy động vốn từ chính nguồn vốn chủ sở hữu là khá tốt, cho nên công ty không cần sử dụng quá nhiều các khoản nợ để trang trải cho hoạt động sản xuất kinh doanh, từ đó giảm bớt nghĩa vụ phải trả các khoản nợ cho công ty, nhất là trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế như hiện nay. Nhưng dấu hiệu không tốt là công ty chưa biết phát huy thế mạnh của việc sử dụng các đòn bẩy tài chính, tức là phát huy ưu điểm của việc sử dụng nợ.
Trong các khoản vay nợ phục vụ cho quá trình kinh doanh, công ty không sử dụng các khoản vay nợ dài hạn mà chỉ sử dụng các khoản vay ngắn hạn trong khi lãi suất vay dài hạn tương đối thấp. Do đó, trong thời gian tới, nếu công ty biết tận dụng ưu thế của các khoản vay dài hạn thì sẽ góp phần giảm số thuế thu nhập mà công ty phải thực hiện nghĩa vụ đóng góp cho Nhà nước.
Khoản mục “Phải trả người bán” không ngừng giảm qua các năm cho thấy khả năng thanh toán của công ty cũng được cải thiện một cách đáng kể, công ty không chiếm dụng quá nhiều các khoản vốn của người bán. Qua đó, công ty sẽ tạo lòng tin cho nhà cung cấp, đảm bảo nguồn nguyên liệu được cung cấp kịp thời. Không chỉ thế, khoản mục mục “Phải trả công nhân viên” cũng giảm dần cho thấy công ty đang thực hiện tốt chính sách trả lương cho người lao động, đó chính là đòn bẩy kinh tế khuyến khích người lao động tích cực cống hiến tài năng cho doanh nghiệp.
Vốn chủ sở hữu tăng dần tuy với tốc độ tăng giảm dần nhưng điều đó cũng dễ giải thích bởi lẽ nền kinh tế đang bị khủng hoảng trên toàn cầu, dẫn đến ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình tài chính của tất cả các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Do đó, việc công ty tiếp tục tăng nguồn vốn chủ sở hữu phục vụ cho sản xuất kinh doanh cho thấy tiềm năng về tài chính cũng như khả năng độc lập về tài chính của công ty tương đối tốt.
Công ty cũng không ngừng chăm lo cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Hàng năm, công ty luôn trích một phần lợi nhuận thành lập các quỹ phát triển sản xuất kinh doanh và quỹ dự phòng tài chính để đầu tư cho quá trình nghiên cứu, ứng dụng các phương pháp mới trong kinh doanh và dự phòng rủi ro về mặt tài chính có thể xảy ra.
Có thể mô tả sự thay đổi của các chỉ tiêu trên như sau:
Bảng 2.6. Tốc độ tăng trưởng nguồn vốn
Đơn vị: %
Năm
Khoản mục
2006
2007
2008
Nợ phải trả
34,49
-7,07
-23,34
1. Nợ ngắn hạn
34,49
-7,07
-23,34
2. Phải trả người bán
-4,11
-179,70
-68,35
3. Thuế và các khoản phải trả Nhà nước
-623,89
235,98
-63,70
4. Phải trả công nhân viên
16
77,97
-29,49
Vốn chủ sở hữu
39,73
131,35
77,15
1. Vốn đầu tư của chủ sở hữu
78,24
140,93
84,76
2. Quỹ phát triển sản xuất kinh doanh
32,24
28,58
19,03
3. Quỹ dự phòng tài chính
-5,76
-6,57
0,15
4. Lãi chưa phân phối
50,09
241,92
61,12
5. Quỹ khen thưởng, phúc lợi
86,43
72,99
53,59
Tổng nguồn vốn
98,56
82,52
61,67
Nguồn Công ty cổ phần thuốc thú y Trung ương I
2.2.4.2. Phân tích bảng báo cáo kết quả kinh doanh(BCKQKD)
Trong khi phân tích BCKQKD, công ty chú ý đến phân tích sự biến động của doanh thu, giá vốn hàng bán, chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp và lợi nhuận sau thuế. Mục đích của việc phân tích doanh thu là công ty có thể theo dõi công đoạn tiêu thụ sản phẩm của mình và qua đó xem xét chính sách bán hàng của công ty có hiệu quả hay không. Hơn thế nữa, việc phân tích sự biến động của giá vốn hàng bán sẽ giúp công ty phân tích được sự biến động của các khoản chi phí trực tiếp, từ đó có biện pháp quản lý chi phí một cách tối ưu nhất. Tương tự như vậy, việc phân tích chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp sẽ phục vụ cho việc đưa ra một kế hoạch hoạt động có thể giảm thiểu chi phí tời mức tối đa cho doanh nghiệp. Và cuối cùng, việc phân tich khoản mục “lợi nhuận sau thuế” sẽ giúp cho công ty đánh giá được kết quả hoạt động của mình trong cả kỳ kinh doanh và tính toán tốc độ tăng trưởng lợi nhuận của doanh nghiệp.
Doanh thu thuần bán hàng và cung cấp dịch vụ của công ty tăng với tốc độ chậm dần do chính sách bán hàng chưa thực sự hiệu quả. Công ty chưa có nhiều chính sách thu hút khách hàng mua nhiều sản phẩm của công ty như chính sách bán hàng trả chậm…Tuy nhiên, do công ty chủ yếu xây dựng mục tiêu kinh doanh trong ngắn hạn nên công ty cũng gặp khó khăn trong việc thực hiện chính sách bán hàng trả chậm, vì nhằm mục đích thu hồi vốn nhanh.
Giá vốn hàng bán và chi phí bán hàng, chi phí quản lý đều giảm theo các năm là một kết quả khả quan cho công ty, bởi lẽ mục tiêu cắt giảm chi phí tới mức tối đa của công ty đã phát huy hiệu quả. Từ đó sẽ giúp công ty tiết kiệm chi phí, tránh lãng phí nguồn vốn của mình trong quá trình kinh doanh.
2.2.4.3. Phân tích các tỷ số tài chính
Công ty tiến hành phân tích các nhóm tỷ số như: Nhóm tỷ số về khả năng thanh toán, nhóm tỷ số về khả năng hoạt động, nhóm tỷ số về khả năng cân đối vốn và nhóm tỷ số về khả năng sinh lãi.
Công ty sử dụng các tỷ số tài chính về khả năng thanh toán để so sánh chỉ tiêu này qua các năm để có cái nhìn sâu sắc, chính xác về thực trạng tài chính của công ty hơn là chỉ nhìn vào các con số tuyệt đối trên bảng báo cáo tài chính. Các tỷ số công ty thường dùng trong phân tích khả năng thanh toán là tỷ số về khả năng thanh toán hiện hành, tỷ số về khả năng thanh toán nhanh và nhóm tỷ số về khả năng thanh toán tức thời.
Bảng 2.7. Khả năng thanh toán của công ty
Đơn vị: lần
Năm
Khả năng thanh toán
2006
2007
2008
1. Khả năng thanh toán hiện hành
2,19
5,11
11,41
2. Khả năng thanh toán nhanh
1,06
1,86
4,31
3. Khả năng thanh toán tức thời
0,66
1,48
3,89
Nguồn Công ty cổ phần thuốc thú y Trung ương I
Khả năng thanh toán của công ty tăng dần theo các năm, trong đó, đáng chú ý nhất là khả năng thanh toán hiện hành. Khả năng thanh toán hiện hành tăng đột biến trong năm 2008 do khoản mục tiền và hàng tồn kho tăng với tốc độ nhanh hơn tốc độ tăng của các khoản nợ ngắn hạn. Điều này do công ty nắm giữ quá nhiều tiền mặt và nguyên vật liệu trong kho dẫn tới tình trạng ứ đọng vốn,vì vậy công ty nên thay đổi chính sách quản lý tiền mặt và hà tồn kho cho hợp lý trong thời gian tới, có thể dùng tiền đầu tư mua sắm thiết bị hay mở rộng sản xuất và ước tính chính xác số nguyên vật liệu trong kho, từ đó có kế hoạch dự trữ nguyên, nhiên vật liệu cho phù hợp.
Công ty phân tích các nhóm chỉ số về khả năng cân đối vốn nhằm đánh giá cơ cấu tài chính của công ty, qua đó xem xét mức độ công ty sử dụng các nguồn tài trợ như thế nào để tối đa hoá giá trị doanh nghiệp cũng như tối thiểu hoá chi phí. Một khả năng cân đối vốn sẽ tạo cho doanh nghiệp có một cơ cấu vốn tối ưu đồng thời tạo nên sự cân bằng giữa tác động của rủi ro và lợi tức. Dựa trên tầm quan trọng của việc nghiên cứu cơ cấu vốn, công ty tiến hành phân tích hệ số nợ, tỷ lệ cơ cấu tài sản.
Bảng 2.8. Khả năng cân đối vốn của công ty
Đơn vị: %
Khả năng cân đối vốn
Năm 2006
Năm 2007
Năm 2008
1. Hệ số nợ
32,17
15,28
7,24
2. Tỷ lệ cơ cấu tài sản
70,38
78,06
82,67
Nguồn Công ty cổ phần thuốc thú y Trung ương I
Công ty sử dụng chủ yếu nguồn vốn chủ sở hữu để phục vụ quá trình sản xuất kinh doanh nên tỷ trọng nợ của công ty không lớn. Điều này cũng chứng tỏ khả năng độc lập về tài chính của công ty trong thời gian qua tương đối tốt.
Để phân tích khả năng hoạt động, công ty tập trung nghiên cứu các chỉ số như: chỉ số vòng quay tiền, vòng quay khoản phải thu, vòng quay hàng tồn kho, hiệu suất sử dụng tài sản cố định và hiệu suất sử dụng tài sản cố định.
Bảng 2.9. Khả năng hoạt động của công ty
Năm
Khả năng hoạt động
2006
2007
2008
1. Vòng quay tiền
7,62
4,84
2,65
2. Vòng quay khoản phải thu
12,34
18,86
24,45
3. Vòng quay hàng tồn kho
4,72
2,77
1,87
4. Hiệu suất sử dụng tài sản cố định
18,66
19,83
18,83
5. Hiệu suất sử dụng tài sản
1,40
1,09
0,73
Nguồn Công ty cổ phần thuốc thú y Trung ương I
Chỉ số vòng quay hàng tồn kho của công ty giảm dần do công ty dự trữ quá nhiều trong kho và tốc độ tăng của hàng tồn kho nhanh hơn tốc độ tăng của doanh thu. Và tương tự như vậy, chỉ số vòng quay khoản phải thu tăng dần theo thời gian do các khoản phải thu của công ty giảm dần trong khi doanh thu bán hàng lại không ngừng tăng lên, đây có thể là dấu hiệu tốt đối với công ty trong thời gian tới. Hiệu suất sử dụng tổng tài sản của công ty giảm dần cho thấy tốc độ tăng của tài sản lớn hơn rất nhiều so với doanh thu, cho thấy hiệu quả trong việc sử dụng tài sản để tạo ra doanh thu của công ty trong thời gian qua là chưa tốt, do đó, công ty cần thay đổi chính sách quản lý và sử dụng tài sản cho phù hợp hơn.
Cuối cùng, công ty sử dụng các chỉ số ROE, ROA để phân tích khả năng sinh lãi của mình. Tỷ số sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE) cho biết kết quả của việc sử dụng tài sản để tạo ra lợi nhuận cho vốn chủ sở hữu, tức là lợi nhuận tạo ra cho các cổ đông. Hiệu suất sử dụng tổng tài sản cho biết khả năng sinh lợi từ việc sử dụng tổng tài sản của công ty, tỷ số này càng cao càng chứng tỏ doanh nghiệp sử dụng tài sản có hiệu quả.
Bảng 2.10. Khả năng sinh lợi của công ty
Đơn vị: %
Năm
Khả năng sinh lợi
2006
2007
2008
1. ROE
16,95
7,94
4,80
2. ROA
11,50
6,73
4,45
Nguồn Công ty cổ phần thuốc thú y Trung ương I
Cả hai chỉ số ROE và chỉ số ROA của công ty đều giảm cho thấy khả năng tạo ra lợi nhuận sau thuế của một đồng vốn đầu tư của chủ sở hữu hay một đồng tài sản đều giảm xuống. Trong năm 2006, một đồng vốn đầu tư của chủ sở hữu tạo ra 16,95 đồng lợi nhuận nhưng năm 2007 chỉ tạo ra 7,94 đồng lợi nhuận và năm 2008 là 4,8 đồng lợi nhuận. Nguyên nhân của sự sụt giảm hai chỉ số này là tốc độ tăng của tài sản và vốn chủ sở hữu của công ty lớn hơn rất nhiều so với tốc độ tăng của lợi nhuận sau thuế.
Đó là tất cả nội dung của công tác phân tích tài chính tại công ty và qua đây chúng ta cũng có thể thấy rằng hoạt động phân tích tài chính của công ty chưa thực sự đầy đủ và chưa nhận được sự quan tâm thích đáng do đó công tác phân tích chưa đạt được hiệu quả cao.
2.3. Đánh giá công tác phân tích tài chính tại công ty
Trước năm 2006, công ty không chú ý đến công tác phân tích tài chính nhưng từ năm 2006, công ty phát hành cổ phiếu giao dịch trong nội bộ công ty và công việc phân tích tài chính đã được công ty quan tâm, giao cho cán bộ phân tích tài chính thực hiện và đã giúp các nhà quản lý trong việc hoạch định chính sách tài chính ngắn và dài hạn. Điều này được thể hiện thông qua các kết quả đạt được.
2.3.1. Kết quả
Những kết quả mà công tác phân tích tài chính của công ty đã đạt được là:
Những đánh giá tổng kết của quá trình phân tích đã giúp Giám đốc có thể đánh giá tình hình tài chính của công ty một cách cơ bản nhất. Qua việc phân tích các bảng cơ bản của báo cáo tài chính, các nhà quản lý có thể có cái nhìn khái quát về thực trạng tài chính của công ty tại thời điểm cần nghiên cứu. Đặc biệt nghiên cứu khả năng thanh toán, khả năng sinh lời của doanh nghiệp trong một chu kỳ kinh doanh và dự đoán được tốc độ tăng trưởng của đơn vị mình trong tương lai cũng như vị thế tài chính của công ty trong ngành. Hơn thế nữa, việc nghiên cứu khả năng hoạt động và cân đối vốn sẽ giúp công ty có thể thấy được cơ cấu vốn hiện tại có hợp lý không, có thực hiện đúng mục tiêu công ty đã đề ra trước đó hay không hoặc quá trình sử dụng vốn có thực sự hiệu quả hay không để có định hướng khắc phục kịp thời, tránh tình trạng không những không đạt được kế hoạch yêu cầu mà còn suy giảm nghiêm trọng. Cũng dựa trên những kết quả phân tích, các nhà quản trị tài chính có thể xác định được những tồn tại, những khó khăn hiện tại của nhiều lĩnh vực khác trong doanh nghiệp để có biện pháp xử lý kịp thời, đảm bảo cho tiến độ phát triển của doanh nghiệp.
Hoạt động phân tích tài chính sẽ giúp công ty thấy được những thế mạnh và yếu điểm của mình. Không phải bất cứ công ty nào từ khi thành lập cũng mang trong mình những tiềm năng sẵn có mà phải thông qua cả một quá trình phát triển, hoạt động sản xuất – kinh doanh hiệu quả trong ngành và được các cơ quan cấp trên cũng như người tiêu dùng bình chọn. Đồng thời qua quá trình phân tích, công ty cũng sớm nhận ra điểm yếu của mình trước khi đối thủ cạnh tranh phát hiện, do đó, không có thông tin xấu nào từ bên ngoài ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của công ty. Có thể nói, nhờ có công cụ phân tích tài chính mà các nhà quản lý lập kế hoạch kinh doanh, chiến lược kinh doanh phát huy tối đa tiềm lực, lợi thế của đơn vị mình, tăng cường mở rộng thị phần và sức cạnh tranh, khẳng định giá trị thương hiệu của mình trong nền kinh tế.
Nhờ có hoạt động phân tích tài chính mà các cổ đông của công ty, những người giao vốn cho công ty kinh doanh luôn mang trong mình những trăn trở không biết công ty có sử dụng hiệu quả đồng vốn của mình hay không, có thể yên tâm phần nào, có thể biết được thực trạng tài chính của công ty, nắm bắt được những khó khăn mà công ty đang phải đối mặt. Từ đó, họ có thể đóng góp những biện pháp, những đề xuất khả thi tại các Đại hội cổ đông.
Những kết quả trên tuy chưa thực sự xuất sắc nhưng so với các công ty: Công ty cổ phần thú y Xanh, Công ty TNHH Thuốc thú y thủy sản Minh Dũng, Công ty TNHH Thương mại và dịch vụ Thuốc thú y thủy sản Mebipha,… thì chất lượng công tác tài chính của công ty được đánh giá là hơn hẳn đa số các công ty khác cùng ngành. Có thể nói, nếu được hoàn thiện hơn nữa thì công tác phân tích tài chính của công ty sẽ còn cho những kết quả đáng khen ngợi hơn nữa.
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân
Mặc dù công tác phân tích tài chính của đã đem lại cho các nhà quản trị tài chính của công ty cũng như tất cả những đối tượng khác quan tâm đến tình hình tài chính của công ty nhưng cũng không thể tránh khỏi những hạn chế, sai sót. Những thiếu sót đó vừa mang tính đặc thù của hoạt động phân tích tài chính trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ nói chung lại vừa mang những nét riêng, gắn liền với đặc điểm của công ty.
2.3.2.1. Hạn chế
Hoạt động phân tích tài chính của công ty bộc lộ những hạn chế sau:
- Về quy trình tổ chức phân tích: Công ty chưa xác định một kế hoạch phân tích cụ thể,rõ ràng, chưa lập được một chương trình phân tích đầy đủ các bước cùng những công việc phải làm sau khi được cung cấp báo cáo tài chính. Hơn nữa, công việc phân tích tài chính không tiến hành một cách thường xuyên nên sự
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A6133.DOC