Tài liệu Đề tài Nâng cao chất lượng công tác giám sát, đánh giá dự án đầu tư tại Vụ Thẩm định và Giám sát đầu tư - Bộ Kế hoạch và Đầu tư: LỜI NÓI ĐẦU
Nền kinh tế Việt Nam đang ngày càng vươn lên phát triển mạnh mẽ. Cùng với việc trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại quốc tế (gọi tắt là WTO – World Trade Organization), con đường phát triển của nước ta đã mở rộng trước mắt, với nhiều cơ hội cũng như thách thức mới. Cơ hội khi Việt Nam có thể giao lưu kinh tế với các bạn nước ngoài, tăng cường sự ảnh hưởng của mình trên các diễn đàn quốc tế và đặc biệt quan trọng khi nước ta có thể thu hút vốn lớn từ bên ngoài để xây dựng cơ sở vật chất cho đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội trên thì thách thức đặt ra cũng rất lớn. Việc thu hút vốn một mặt tạo cơ sở vật chất cho nước ta, nhưng mặt khác đặt ra điều kiện mới khi nước ta phải đảm bảo việc sử dụng vốn một cách có hiệu quả, không chỉ vốn nội lực mà còn có cả vốn vay nước ngoài, bởi sử dụng hiệu quả vốn làm tiết kiệm thời gian cũng như tiền của, tạo điều kiện cho kinh tế phát triển. Hơn nữa, nâng cao uy tín của nước ta, thu hút hơn nữa các nhà đầu tư nư...
68 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1224 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Nâng cao chất lượng công tác giám sát, đánh giá dự án đầu tư tại Vụ Thẩm định và Giám sát đầu tư - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Nền kinh tế Việt Nam đang ngày càng vươn lên phát triển mạnh mẽ. Cùng với việc trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại quốc tế (gọi tắt là WTO – World Trade Organization), con đường phát triển của nước ta đã mở rộng trước mắt, với nhiều cơ hội cũng như thách thức mới. Cơ hội khi Việt Nam có thể giao lưu kinh tế với các bạn nước ngoài, tăng cường sự ảnh hưởng của mình trên các diễn đàn quốc tế và đặc biệt quan trọng khi nước ta có thể thu hút vốn lớn từ bên ngoài để xây dựng cơ sở vật chất cho đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội trên thì thách thức đặt ra cũng rất lớn. Việc thu hút vốn một mặt tạo cơ sở vật chất cho nước ta, nhưng mặt khác đặt ra điều kiện mới khi nước ta phải đảm bảo việc sử dụng vốn một cách có hiệu quả, không chỉ vốn nội lực mà còn có cả vốn vay nước ngoài, bởi sử dụng hiệu quả vốn làm tiết kiệm thời gian cũng như tiền của, tạo điều kiện cho kinh tế phát triển. Hơn nữa, nâng cao uy tín của nước ta, thu hút hơn nữa các nhà đầu tư nước ngoài. Thách thức trên bắt buộc Việt Nam cần có những biện pháp thích hợp nhằm kiểm soát, giám sát việc thực hiện các dự án đầu tư. Công tác giám sát, đánh giá dự án đầu tư sẽ là công cụ trợ giúp đắc lực cho nhà nước trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Chuyên đề này nhằm tập trung viết về chất lượng giám sát, đánh giá đầu tư của nước ta trong thời gian gần đây, qua đó đưa ra một số kiến nghị nhằm góp phần cải thiện chất lượng công tác này. Chuyên đề có tên “Nâng cao chất lượng công tác giám sát, đánh giá dự án đầu tư tại Vụ Thẩm định và Giám sát đầu tư - Bộ Kế hoạch và Đầu tư” gồm 2 chương:
- Chương I: Thực trạng công tác giám sát, đánh giá dự án đầu tư tại Vụ Thẩm định và Giám sát đầu tư - Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
- Chương II: Kiến nghị, giải pháp nâng cao chất lượng công tác giám sát, đánh giá dự án đầu tư tại Vụ Thẩm định và Giám sát đầu tư - Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Việc hoàn thành được chuyên đề này, ngoài sự nỗ lực của bản thân có sự hướng dẫn tận tình chu đáo của thầy giáo Tiến sỹ Từ Quang Phương - Chủ nhiệm Bộ môn Kinh tế đầu tư - Trường đại học Kinh tế quốc dân. Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới thầy Phương cùng sự giúp đỡ của Vụ Thẩm định và Giám sát đầu tư - Bộ Kế hoạch đầu tư là đơn vị nhận em vào thực tập trong thời gian qua. Chuyên đề là kết quả của việc tổng hợp, phân tích các số liệu và kiến thức có được trong suốt quá trình thực tập tại Vụ Thẩm định và Giám sát đầu tư và 4 năm đại học tại Trường Đại học Kinh tế quốc dân, ngoài ra có sự tham khảo một số sách chuyên đề.
Chương I: Thực trạng công tác Giám sát và Đánh giá đầu tư tại Vụ Thẩm định và Giám sát đầu tư - Bộ Kế hoạch và Đầu tư
I.Một vài nét về Vụ Thẩm định và Giám sát đầu tư
1.Chức năng - Nhiệm vụ - Cơ cấu tổ chức
Vụ Thẩm định và Giám sát đầu tư được thành lập từ năm 1974, tuy nhiên lúc đó vụ có tên là Văn phòng Thẩm tra nhiệm vụ thiết kế và báo cáo kinh tế - kỹ thuật - Uỷ ban kế hoạch Nhà nước. Tới năm 1984-1985, Vụ có tên là Vụ xây dựng cơ bản - Uỷ ban kế hoạch Nhà nước. Đến năm 1992, Vụ chuyển thành Văn phòng thẩm định - Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Cho đến năm 1995 và tới bây giờ, Vụ có tên chính thức là Vụ thẩm định và Giám sát đầu tư thuộc Bộ Kế hoạch và đầu tư.
1.1.Chức năng - Nhiệm vụ
Chủ trì tổ chức thực hiện công tác thẩm định, thẩm tra các quy hoạch phát triển ngành, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội vùng lãnh thổ, các dự án đầu tư trong nước, đầu tư trực tiếp nước ngoài, đầu tư ra nước ngoài do Thủ tướng Chính phủ quyết định hoặc cho phép đầu tư và các dự án đầu tư thuộc thẩm quyền cấp phép của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Tham gia với các Vụ liên quan trong Bộ xem xét để Bộ có ý kiến đối với các dự án đầu tư, các dự án quy hoạch thuộc thẩm quyền quyết định của các bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp.
Làm nhiệm vụ Thường trực của Hội đồng thẩm định Nhà nước về các dự án đầu tư ; tổ chức thẩm định các dự án đầu tư quan trọng quốc gia theo quy chế làm việc của Hội đồng.
Làm đầu mối tổ chức thực hiện công tác giám sát tổng thể đầu tư trong phạm vi toàn quốc ; giám sát, đánh giá các dự án đầu tư trong nước do Thủ tướng Chính phủ quyết định đầu tư, cho phép đầu tư hoặc Thủ tướng giao ; phối hợp với các đơn vị trong Bộ thực hiện đánh giá tổng thể đầu tư của nền kinh tế quốc dân.
Tham gia nghiên cứu, soạn thảo các văn bản quy phạm pháp luật về đầu tư ; chủ trì soạn thảo các văn bản quy phạm cụ thể trong lĩnh vực thẩm định và giám sát đầu tư ; hướng dẫn nghiệp vụ thẩm định, giám sát đầu tư cho các bộ, ngành và địa phương.
Tổng kết, đánh giá, báo cáo về công tác thẩm định, giám sát các dự án đầu tư ; cung cấp thông tin cần thiết cho mạng thông tin của Bộ.
Phối hợp với Văn phòng Bộ quản lý và sử dụng lệ phí thẩm định theo quy định của Nhà nước.
Thực hiện các nhiệm vụ khác do Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư giao
1.2.Cơ cấu tổ chức
Tính đến đầu năm 2006, tổng số cán bộ có 21 người, trong đó gồm 4 lãnh đạo (1 vụ trưởng, 3 vụ phó), 17 chuyên viên (có 2 công chức dự bị). Vụ Thẩm định và Giám sát đầu tư có cơ chế hoạt động khá đặc biệt: 1 chuyên viên có thể làm việc cùng 1 lúc với cả 3 vụ phó.
2.Một số nhiệm vụ chính của Vụ Thẩm định và Giám sát đầu tư về Đánh giá và Giám sát đầu tư
Hướng dẫn, theo dõi và tổng hợp báo cáo Thủ tướng Chính phủ về công tác giám sát, đánh giá đầu tư trong toàn quốc
Tổ chức thực hiện đánh giá tổng thể đầu tư trong phạm vi toàn quốc theo từng thời kỳ kế hoạch hoặc theo yêu cầu của Chính phủ và tổng hợp báo cáo đánh giá tổng thể đầu tư hàng năm của các Bộ, ngành và địa phương để báo cáo Thủ tướng Chính phủ
Chủ trì và phối hợp với Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước, Bộ quản lý ngành và địa phương liên quan thực hiện giám sát, đánh giá các dự án quan trọng quốc gia, các dự án nhóm A Thủ tướng Chính phủ cho phép đầu tư trên phạm vi toàn quốc.
Tuỳ theo từng dự án cụ thể, Bộ Kế hoạch và Đầu tư yêu cầu các Bộ, ngành, địa phương liên quan cử các cán bộ, chuyên gia tham gia giám sát, đánh giá dự án dưới hình thức thành lập các Tổ công tác liên ngành.
Báo cáo Thủ tướng Chính phủ về việc thực hiện giám sát, đánh giá các dự án nhóm A do Bộ tổ chức hoặc chủ trì tổ chức thực hiện.
Kiến nghị với Thủ tướng Chính phủ hoặc với các Bộ, ngành, địa phương liên quan (theo thẩm quyền) về các giải pháp nhằm khắc phục những vướng mắc trong hoạt động đầu tư của các ngành, các địa phương hoặc đối với các dự án nhóm A để đảm bảo tiến độ và hiệu quả đầu tư.
Xem xét, có ý kiến hoặc giải quyết các vấn đề thuộc chức năng, nhiệm vụ của Bộ khi có yêu cầu của các Bộ, ngành khác, địa phương và chủ đầu tư.
3.Phương thức thực hiện giám sát, đánh giá đầu tư tại Vụ Thẩm định và Giám sát đầu tư
Vụ Thẩm định và Giám sát đầu tư là đơn vị được Bộ Kế hoạch và Đầu tư phân công làm đầu mối thực hiện các nhiệm vụ về giám sát, đánh giá đầu tư của Bộ, phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương và chủ đầu tư, cung cấp thông tin, hướng dẫn nghiệp vụ và xử lý các vấn đề về giám sát, đánh giá đầu tư. Phương thức thực hiện giám sát, đánh giá đầu tư của Vụ như sau
Tổ chức theo dõi, tổng hợp, phân tích tình hình đầu tư:
Thực hiện nhiệm vụ theo dõi, phân tích, đánh giá tình hình thực hiện đầu tư và quản lý hoạt động đầu tư trên cơ sở các thông tin, báo cáo định kỳ theo hệ thống và chế độ quy định.
Tổ chức mạng thông tin liên thông để thu thập và cập nhật thông tin, phối hợp theo dõi và đánh giá tình hình đầu tư
Kiểm tra, xem xét thường xuyên:
Thực hiện giám sát, đánh giá đầu tư bằng việc kiểm tra, xem xét thường xuyên hoạt động đầu tư thuộc phạm vi trách nhiệm của mình
Yêu cầu chủ đầu tư báo cáo hoặc tiến hành giám sát tại chỗ về vấn đề cần tìm hiểu trong trường hợp phát hiện có dấu hiệu vi phạm các quy định về quản lý đầu tư, những khó khăn vướng mắc trong quá trình thực hiện dự án hoặc có những vấn đề chưa rõ trong Báo cáo giám sát, đánh giá đầu tư của chủ đầu tư
Tổ chức đánh giá hoạt động đầu tư:
Thực hiện nhiệm vụ đánh giá tổng thể đầu tư hoặc đánh giá dự án (đánh giá đầu tư) vào thời điểm cần thiết theo yêu cầu của cơ quan cấp trên hoặc của người quyết định đầu tư.
Nhiệm vụ, nội dung và thời điểm đánh giá tổng thể đầu tư hoặc đánh giá dự án đầu tư do cơ quan cấp trên hoặc người có thẩm quyền quyết định đầu tư xem xét quyết định.
II.Thực trạng công tác giám sát và đánh giá đầu tư tại Vụ Thẩm định và Giám sát đầu tư - Bộ Kế hoạch và Đầu tư
A-Chế độ báo cáo và nội dung giám sát, đánh giá đầu tư tại Vụ
1.Nội dung giám sát, đánh giá đầu tư tại Vụ Thẩm định và Giám sát đầu tư
1.1. Đánh giá tổng thể đầu tư
Đánh giá tổng thể đầu tư bao gồm:
Đánh giá tổng thể đầu tư của nền kinh tế, ngành và địa phương, vùng lãnh thổ
Vụ có nhiệm vụ tổng hợp, phân tích, đánh giá tình hình và kết quả đầu tư của nền kinh tế, ngành, địa phương theo các chỉ tiêu phản ánh quy mô, tốc độ, cơ cấu, tiến độ và hiệu quả đầu tư. Qua đó xác định các yếu tố, nguyên nhân ảnh hưởng tới tình hình và kết quả đầu tư ; đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư trong kỳ hoặc giai đoạn kế hoạch sau ; Đánh giá tính khả thi của các quy hoạch, kế hoạch được duyệt.
Việc đánh giá tổng thể đầu tư toàn bộ nền kinh tế được thực hiện hàng năm, 5 năm hoặc theo yêu cầu của Chính phủ.
Đánh giá tổng thể về quản lý đầu tư
Đánh giá tổng thể về quản lý đầu tư nhằm đánh giá tình hình thực hiện các quy định về quản lý đầu tư ở các Bộ, ngành và địa phương, phát hiện những sai phạm, những vướng mắc để kịp thời chấn chỉnh hoạt động đầu tư ở các Bộ, ngành, địa phương và xử lý kịp thời về mặt cơ chế, chính sách cho thích hợp với tình hình thực tế
1.2.Giám sát, đánh giá dự án đầu tư
Giám sát, đánh giá dự án đầu tư theo các giai đoạn gồm
Giám sát chuẩn bị đầu tư:
Vụ tiến hành việc giám sát chuẩn bị đầu tư nhằm
kiểm tra sự đảm bảo các quy định về pháp lý trong việc chuẩn bị đầu tư ; kiểm tra nội dung quyết định đầu tư theo quy định nêu tại Điều 30 Nghị định 52/CP ; đánh giá sự phù hợp của quyết định đầu tư với quy hoạch, kế hoạch, chương trình đầu tư của ngành ; địa phương ; thẩm quyền và trình tự ra quyết định đầu tư đối với dự án
Đánh giá tổng thể về tính khả thi của quyết định đầu tư theo những yếu tố chủ yếu của dự án
Đánh giá về năng lực của Chủ đầu tư
Giám sát, đánh giá quá trình thực hiện dự án đầu tư
Theo dõi, kiểm tra thường xuyên quá trình tựhc hiện dự án
Kiểm tra việc áp dụng và chấp hành các chính sách, chế độ quy định của Nhà nước, của ngành và địa phương áp dụng đối với dự án
Đánh giá năng lực của Ban quản lý dự án theo phương thức thực hiện đầu tư đã lựa chọn
Đánh giá mức độ hoàn thành các chỉ tiêu chủ yếu (khối lượng, tiến độ, chất lượng, giải ngân) ảnh hưởng về môi trường và xã hội trong quá trình thực hiện đầu tư.
Trên cơ sở theo dõi, kiểm tra, đánh giá quá trình thực hiện dự án phát hiện những vấn đề phát sinh, các sai phạm hoặc bất hợp lý, những khó khăn, vướng mắc về cơ chế, chính sách cần giải quyết.
Đề xuất các giải pháp, kiến nghị người có thẩm quyền quyết định đầu tư hoặc cơ quan liên quan xem xét, giải quyết để đảm bảo tiến độ đầu tư.
Đánh giá sau thực hiện dự án đầu tư
Đánh giá kết thúc quá trình đầu tư
Nhằm tổng hợp, đánh giá toàn bộ quá trình thực hiện đầu tư một cách toàn diện từ khâu chuẩn bị đến khâu hoàn thành dự án đưa vào khai thác sử dụng.
Đánh giá quá trình khai thác, vận hành dự án
Nhằm đánh giá hiệu quả đầu tư, phân tích tác động đối với dự án về các mặt chính sách, sử dụng đất đai …và đề xuất các biện pháp để đảm bảo khai thác, vận hành dự án có hiệu quả.
2.Báo cáo về giám sát đánh giá đầu tư
2.1.Chế độ báo cáo
Vụ Thẩm định và Giám sát đầu tư có nhiệm vụ trình Bộ Kế hoạch và Đầu tư để báo cáo Thủ tướng Chính phủ về đánh giá tổng thể đầu tư hàng năm và từng thời kỳ kế hoạch theo yêu cầu của Chính phủ ; tổng hợp báo cáo về giám sát tổng thể đầu tư 6 tháng một lần ; báo cáo tổng hợp, giám sát, đánh giá dự án nhóm A trong phạm vi toàn quốc một quý một lần
2.2.Thời hạn báo cáo định kỳ
Báo cáo Thủ tướng Chính phủ về đánh giá tổng thể đầu tư hàng năm trong tháng 2 năm sau
Báo cáo quý về giám sát đánh giá dự án đầu tư nhóm A trong tháng đầu của quý sau.
B- Công tác tổ chức thực hiện giám sát, đánh giá dự án đầu tư tại Vụ Thẩm định và Giám sát đầu tư giai đoạn 2003-2006
1.Quy định về giám sát, đánh giá dự án đầu tư của nước ta
Công tác giám sát và đánh giá đầu tư từ lâu đã được Chính phủ coi là công việc vô cùng quan trọng. Cùng với việc thẩm định dự án đầu tư, giám sát và đánh giá đầu tư luôn được tiến hành thường xuyên, định kỳ đối với các dự án đầu tư, đặc biệt là các dự án đầu tư quan trọng cấp quốc gia, các chương trình mục tiêu quốc gia và các dự án nhóm A. Tuy nhiên, trong một quá trình dài Chính phủ Việt Nam chưa có những văn bản quy định cụ thể về trách nhiệm cũng như nhiệm vụ đối với các cơ quan quản lý nhà nước trong việc giám sát, đánh giá dự án. Do vậy, tình hình trên đã gây ra những phiền phức cũng như những hậu quả không đáng có do việc quản lý dự án chất lượng kém như: dự án chất lượng kém, chậm tiến độ, thời gian thi công kéo dài, các thiệt hại gây hậu quả nghiêm trọng tới tài sản xã hội chủ nghĩa không quy được trách nhiệm …
Chính phủ đã chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương đẩy nhanh tiến độ và nâng cao chất lượng xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật ; cải tiến mạnh mẽ phương thức xây dựng nhằm đảm bảo ban hành đầy đủ các văn bản quy định chi tiết thi hành Luật, pháp lệnh đã được Quốc hội, Uỷ ban thường vụ quốc hội thông qua năm 2005.
Liên quan đến hoạt động đầu tư, trong năm 2006 Chính phủ đã ban hành các Nghị định số 108/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 hướng dẫn thi hành Luật đầu tư năm 2005 ; Nghị định số 111/2006/NĐ-CP ngày 29/9/2006 hướng dẫn thi hành Luật Đấu thầu và lựa chọn nhà thầu xây dựng theo Luật xây dựng ; Nghị định số 101/2006/NĐ-CP ngày 21/9/2006 Quy định việc đăng ký lại, chuyển đổi và đăng ký đổi Giấy chứng nhận đầu tư của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo quy định của Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư ; Nghị định số 131/2006/NĐ-CP ngày 9/11/2006 ban hành Quy chế quản lý và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức, Nghị định số 112/2006/NĐ-CP ngày 29/9/2006 về sửa đổi bổ sung một số đièu của Nghị định số 16/2005/NĐ-CP về quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình. Liên Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Bộ Tài Chính đã ban hành Thông tư liên tịch số 04/2006/TTLT-KHĐT-UBTƯMTTQVN-TC ngày 04/12/2006 hướng dẫn thực hiện Quyết định số 80/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Quy chế giám sát đầu tư của cộng đồng.
Năm 2007, Bộ Kế hoạch và Đầu tư được giao nhiệm vụ xây dựng Luật về quản lý đầu tư các dự án sử dụng vốn Nhà nước không nhằm mục đích kinh doanh (Luật Đầu tư công) nhằm từng bước hoàn thiện cơ sở pháp lý về quản lý đầu tư sử dụng vốn Nhà nước. Ngoài ra, trong phạm vi chức năng quản lý Nhà nước của mình, các Bộ, ngành, địa phương qua công tác rà soát đánh giá các văn bản pháp quy, đã tiếp tục bổ sung, hoàn chỉnh hoặc ban hành những văn bản pháp quy mới để tăng cường quản lý đầu tư và xây dựng có hiệu quả hơn. Điển hình như: Bộ Công nghiệp có Chỉ thị số 06/CT-BCN ngày 28/03/2006 về tăng cường công tác quản lý đầu tư và xây dựng nhằm chống thất thoát, lãng phí và các tiêu cực trong thực hiện đầu tư ; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành Thông tư số 18/2006/TT-BNN ngày 20/3/2006 hướng dẫn một số nội dung quản lý các dự án đầu tư xây dựng công trình do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thông quản lý ; Uỷ ban nhân dân Thành phố Hải Phòng ban hành Chỉ thị số 21/2006/CT-UBND ngày 14/9/2006 về việc tăng cường biện pháp chỉ đạo và xử lý các khoản nợ đọng xây dựng cơ bản đối với ngân sách cấp huyện và xã ; Uỷ ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh có Chỉ thị số 12/2006/CT-UBND ngày 10/4/2006 yêu cầu các đơn vị kiểm tra các dự án đầu tư (sử dụng vốn Nhà nước) để kịp thời phát hiện, ngăn chặn những sai phạm, thiếu sót, lãng phí, nhằm chấn chỉnh, khắc phục những yếu kém trong công tác quản lý, xử lý nghiêm những sai phạm theo quy định, Chỉ thị số 34/2006/CT-UBND ngày 27/10/2006 về tổ chức công tác giám sát đàu tư cộng đồng ; Ủy ban nhân dân tỉnh Khánh Hoà ban hành Chỉ thị số 28/2006/CT-UBND ngày 29/9/2006 về việc triển khai thực hiện công tác giám sát, đánh giá đầu tư trên địa bàn tỉnh ; Uỷ ban nhân dân tỉnh An Giang, Đồng Tháp và một số địa phương khác có các Quyết định quy định trình tự thủ tục trong quản lý đầu tư xây dựng trên địa bàn tỉnh và tăng cường công tác giám sát, đánh giá đầu tư.
Các Luật và các văn bản quy phạm pháp luật về đầu tư đã có tác dụng rõ rệt trong việc huy động nguồn lực đầu tư, cải thiện môi trường đầu tư, phân cấp phát huy tính chủ động của địa phương, từng bước đưa việc giám sát, đánh giá đầu tư qua đó đưa quản lý đầu tư vào nề nếp, tháo gỡ nhiều khó khăn cho các đơn vị thực hiện quản lý đầu tư.
2.Tổ chức thực hiện công tác giám sát và đánh giá dự án đầu tư giai đoạn 2003-2006
Số liệu tổng hợp giai đoạn 2003-2006 gửi tới Bộ Kế hoạch và đầu tư từ các Bộ chủ quản, các ngành, địa phương và các Tổng Công ty đều đặn và chính xác hơn qua các năm. Số đơn vị nộp báo cáo giám sát đánh giá tổng thể đầu tư có số liệu cụ thể ngày càng tăng. Điều này chứng tỏ các đơn vị ngày càng chú trọng hơn, nghiêm túc hơn trong công tác giám sát và đánh giá đầu tư.
2.1.Báo cáo giám sát, đánh giá chung các dự án đầu tư từ các đơn vị
Theo báo cáo giám sát đánh giá tổng thể đầu tư từ các cơ quan, đơn vị gửi về Bộ kế hoạch và đầu tư, tổng số các đơn vị gửi về qua các năm có tăng lên. Năm 2003, số đơn vị gửi báo cáo giám sát đánh giá tổng thể đầu tư mới chỉ là 55 đơn vị (thấp nhất giai đoạn (2003-2006). Đến năm 2004, con số này tăng lên 95 đơn vị (cao nhất trong giai đoạn 4 năm 2003-2006) và trong 2 năm 2005-2006, số đơn vị gửi báo cáo về dao động từ 93(2005) xuống 90(2006). Như vậy, số đơn vị gửi báo cáo tăng lên mạnh nhất giai đoạn 2003-2004 từ 55 đơn vị lên đột biến 95 đơn vị (tăng 72,7%).
*Nguyên nhân: giải thích cho việc tăng đột biến là do:
+Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã ban hành Thông tư số 03/2003/TT-BKH ngày 19 tháng 5 năm 2003 hướng dẫn công tác giám sát, đánh giá đầu tư cho các đơn vị quản lý Nhà nước về đầu tư cũng như các chủ đầu tư có dự án đầu tư đang triển khai.
+Quốc hội đã ra Nghị quyết và Thủ tướng có Chỉ thị quy định về công tác giám sát đánh giá đầu tư. Do vậy, quy định trách nhiệm và nhiệm vụ của các cơ quan quản lý và chủ đầu tư tăng lên, bắt buộc những đơn vị này phải có trách nhiệm báo cáo tình hình thực hiện dự án đầu tư lên Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
+Ban hành Thông tư trên cùng với việc phân cấp ngày càng mạnh mẽ cho các địa phương.
Do vậy, công tác giám sát đánh giá dự án ngày càng được cải thiện. Giai đoạn 2004-2006, các đơn vị gửi báo cáo đều đặn hơn và không năm nào số đơn vị gửi báo cáo giám sát đánh giá tổng thể đầu tư dưới con số 90 đơn vị. Điều này cho thấy, các văn bản pháp luật của Chính phủ có tính khả thi cao, các đơn vị ngày càng tuân thủ nhiệm vụ quản lý đầu tư của mình.
Bảng 1: Tổng hợp đơn vị nộp báo cáo giám sát đánh giá tổng thể đầu tư
Năm
Số đơn vị nộp báo cáo giámsát đánh giá tổngthể đầu tư
2003
2004
2005
2006
55
95
93
90
%
43%
69.90%
68.90%
68.70%
Nguồn: Vụ Thẩm định và Giám sát đầu tư-Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Tuy nhiên, tính đến năm 2006 số đơn vị gửi báo cáo vẫn chỉ dao động dưới mức 70%, chưa năm nào vượt qua mức này (năm cao nhất là 2004 đạt 69,9%). Đây là mức vẫn còn thấp so với yêu cầu. Tỷ lệ nộp báo cáo thấp này gây cản trở tới việc tổng hợp thông tin, số liệu để báo cáo Thủ tướng Chính phủ, qua đó giúp Thủ tướng thấy rõ được tình hình thực hiện quản lý đầu tư để có các biện pháp chấn chỉnh kịp thời. Như vậy, tình hình chấp hành chế độ báo cáo của các Bộ, ngành, địa phương và các Tổng Công ty mặc dù có sự cố gắng và cải thiện nhiều qua từng năm nhưng nhìn chung vẫn chưa nghiêm túc, thiếu sự cố gắng.
2.2.Tình hình tổ chức thực hiện công tác giám sát, đánh giá dự án đầu tư giai đoạn 2003-2006
2.2.1.Thực trạng công tác giám sát, đánh giá dự án đầu tư chung của cả nước giai đoạn 2003-2006
Giai đoạn 2003-2006, công tác giám sát, đánh giá dự án đầu tư của cả nước có những điểm chính sau:
+Năm 2003, số dự án thực hiện đầu tư của cả nước thấp nhất, đạt 5432 dự án. Năm 2004 tăng 278% lên 20515 dự án. Các năm tiếp theo số dự án tiếp tục tăng với tốc độ năm 2005 là 19% và năm 2006 là 12%. Các dự án thực hiện đầu tư đều tăng trong từng năm cho thấy tình hình đầu tư của nước ta có sự phát triển, đặc biệt phát triển mạnh mẽ từ năm 2004 trở đi. Như vậy, xét chung cho cả dự án đầu tư trong nước lẫn dự án đầu tư từ nước ngoài, các nhà đầu tư đã ngày một tin tưởng vào chính sách ưu đãi đầu tư của Việt Nam nên ngày càng thực hiện nhiều dự án đầu tư hơn. Qua đó cho thấy chính sách đầu tư cũng như môi trường đầu tư của Việt Nam đã có sự cải thiện đáng kể (từ năm 2004 trở đi), có tiềm năng thu hút đầu tư mạnh mẽ.
+Số dự án đầu tư kết thúc đưa vào hoạt động trong năm 2005 chiếm tỷ lệ cao nhất trong tổng số dự án thực hiện đầu tư với tỷ lệ 40,76%. Các năm còn lại đều dao động quanh mức trên dưới 36%. Tỷ lệ này còn quá thấp, chưa vượt qua mức 50% cho thấy công tác giải ngân còn chậm. Đây cũng là vấn đề tồn tại của thực trạng đầu tư nước ta trong nhiều năm liền. Việc giải ngân chậm làm cho dự án đầu tư đưa vào hoạt động bị trì hoãn, một mặt không tạo thêm tài sản cho nền kinh tế quốc dân, mặt khác dự án lâu ngày không được sử dụng hoạt động sẽ bị hao mòn vô ích (không phải hao mòn do sử dụng trong hoạt động sản xuất), hư hỏng gỉ sét trong khi vẫn phải mất diện tích lớn cho những công trình này khiến nhiều dự án khác không có đất để triển khai, làm giảm sức cạnh tranh của môi trường đầu tư nước ta. Giải ngân chậm cũng là nguyên nhân làm Việt Nam trong nhiều năm liền không được nhà đầu tư nước ngoài tin tưởng đầu tư.
+Tỷ lệ số dự án được giám sát đánh giá tăng trong giai đoạn 2003-2004, 2005-2006 và giảm giai đoạn 2004-2005. Năm 2004 tỷ lệ số dự án này cao nhất (60,53%) là năm công tác giám sát, đánh giá dự án thực hiện tốt nhất trong cả nước. Năm 2005, việc thực hiện nhiệm vụ này giảm sút mạnh, chỉ còn 45,78%. Năm này công tác thực hiện kém nghiêm túc nhất trong toàn giai đoạn 2003-2006. Sang năm 2006, công tác này được chấn chỉnh, do đó số dự án được giám sát, đánh giá đã tăng lên.
+Số dự án vi phạm đầu tư tăng lên với tốc độ rất nhanh, cùng với sự tăng lên của số dự án thực hiện đầu tư. Năm 2003 mới chỉ có 1,4% số dự án thực hiện đầu tư vi phạm thủ tục đầu tư. Các năm sau, số dự án vi phạm tăng cả về tuyệt đối lẫn tương đối. Từ năm 2005, tốc độ tăng số dự án vi phạm thủ tục đầu tư có chiều hướng giảm đi mặc dù vẫn tăng do có sự chỉ đạo sát sao của Thủ tướng Chính phủ trong công tác giám sát và đánh giá dự án đầu tư. Trong số các nguyên nhân gây ra vi phạm thủ tục đầu tư, các nguyên nhân như không phù hợp với quy hoạch được duyệt, không đúng thẩm quyền và ký hợp đồng không đúng quy định trong năm 2003 không có hiện tượng này xảy ra, tuy nhiên sang các năm sau đều phát sinh. Nguyên nhân chậm tiến độ vẫn là nguyên nhân cơ bản chính. Tỷ lệ chậm tiến độ chỉ giảm giai đoạn 2003-2004 (về mặt tương đối) mặc dù vẫn tăng (về mặt tuyệt đối).Các năm khác tỷ lệ này đều tăng (cả về tuyệt đối lẫn tương đối)
+Dự án phải điều chỉnh trong cả nước có xu hướng tăng về số lượng, trong đó điều chỉnh về vốn đầu tư tăng mạnh nhất. Đáng chú ý và đáng mừng là số dự án hoạt động không hiệu quả chiếm tỷ lệ rất ít (trên tổng số các dự án thực hiện đầu tư).
Bảng 2: Tổng hợp báo cáo giám sát, đánh giá đầu tư giai đoạn 2003-2006
Năm
Số dự án thực hiện đầu tư
Số dự án kết thúc đưa vào hoạt động đầu tư trong năm
Số dự ánđã thực hiệnGS,ĐG đầu tưtrong năm
Số dự áncó vi phạm về thủ tục đầu tư
Số dự án phải điều chỉnh
Số dự ánphải ngừngthực hiệnvì các lý dokhác nhau
Số dự ánđưa vào hoạt độngnhưng khôngcó hiệu quả
Tổng
Tổng
Không phùhợp với quy hoạch
Không đúngthẩm quyền
Không thực hiệnđầy đủ trình tựthẩm tra, thẩmđịnh dự án
Đấu thầukhông đúngquy định
Bỏ giáthầu khôngphù hợp
Phê duyệtkhông kịp thời
Ký hợp đồng không đúng quy định
Chậm tiến độ
Chất lượng xây dựng thấp
Có lãng phí
Tổng
Nội dung đầu tư
Tiến độ đầu tư
Vốn đầu tư
2003
5432
2057
2840
39
0
0
4
1
4
18
0
144
18
26
451
102
127
326
66
1
37.90%
52.30%
1.40%
0.00%
0.00%
0.10%
0.00%
0.10%
0.60%
0.00%
5.10%
0.60%
0.90%
15.90%
3.60%
4.50%
11.50%
2.30%
0.00%
2004
20515
7344
12418
779
8
1
119
9
6
12
72
954
11
6
1347
341
454
892
267
3
35.80%
60.53%
3.80%
0.04%
0.00%
0.58%
0.04%
0.03%
0.06%
0.35%
4.65%
0.05%
0.03%
6.57%
1.66%
2.21%
4.35%
1.30%
0.01%
2005
24364
9931
11155
2534
16
5
31
4
4
68
14
2346
55
28
2838
1019
1628
2126
217
1
40.76%
45.78%
10.40%
0.07%
0.02%
0.13%
0.02%
0.02%
0.28%
0.06%
9.63%
0.23%
0.11%
11.65%
4.18%
6.68%
8.73%
0.89%
0.00%
2006
27340
9754
14044
3660
26
5
7
41
15
27
6
3595
14
8
4576
1023
2991
2992
481
6
35.68%
51.37%
13.39%
0.10%
0.02%
0.03%
0.15%
0.05%
0.10%
0.02%
13.15%
0.05%
0.03%
16.74%
3.74%
10.94%
10.94%
1.76%
0.02%
Nguồn: Vụ Thẩm định và Giám sát đầu tư - Bộ Kế hoạch và đầu tư
2.2.2.Thực trạng công tác giám sát, đánh giá dự án đầu tư của các Bộ -Cơ quan ngang bộ, Cơ quan Chính phủ, các địa phương và các Tổng Công ty 91
a) Giám sát, đánh giá chung các dự án đầu tư của của các Bộ -Cơ quan ngang Bộ, Cơ quan Chính phủ, các địa phương và các Tổng Công ty 91
*Thực hiện chế độ báo cáo về giám sát, đánh giá đầu tư
Công tác giám sát đánh giá dự án đầu tư được triển khai trên toàn đất nước. Không chỉ thực hiện đối với các Thành phố lớn như Hà Nội, Tp.Hồ Chí Minh, Đà Nẵng mà còn sát sao đến tận các tỉnh vùng sâu địa đầu Tổ quốc như Hà Giang, Lào Cai … Các Bộ, Cơ quan ngang Bộ, Cơ quan Chính phủ cũng như các Tổng Công ty đã chấp hành việc thực hiện chế độ báo cáo về giám sát, đánh giá đầu tư để đảm bảo kịp thời tổng hợp báo cáo Thủ tướng Chính phủ về tình hình quản lý đầu tư của cả nước trong từng năm, từ đó có kế hoạch định hướng đầu tư cho những năm tiếp theo. Báo cáo gửi về Bộ Kế hoạch đầu tư bao gồm cả báo cáo có số liệu cụ thể lẫn báo cáo không có số liệu cụ thể. Ta có bảng số liệu sau đây:
Bảng 3: Báo cáo giám sát, đánh giá đầu tư giai đoạn 2003-2006
Năm
Cơ quan
2003
2004
2005
2006
Tỉnh, Thành phố
27(61)
47(64)
53(64)
54(64)
44.26%
73.44%
82.81%
84.38%
Tổng Công ty 91
10(20)
17(19)
14(19)
8(19)
50%
89%
73.68%
42.11%
Bộ, Cơ quan ngang Bộ
10(29)
24(36)
20(36)
20(36)
34.48%
67%
55.56%
55.56%
Cơ quan Chính phủ
8(15)
7(17)
6(17)
4(17)
53.33%
41.18%
35.29%
23.53%
Nguồn: Vụ Thẩm định và Giám sát đầu tư - Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Qua bảng 2 trên đây cho thấy:
+Các tỉnh, thành phố: tỷ lệ nộp báo cáo giám sát đánh giá tổng thể đầu tư đạt cao nhất năm 2006 (84%) và thấp nhất là vào năm 2003 (chỉ đạt 44%). Số liệu trên chỉ ra các địa phương nộp báo cáo tăng cả về số lượng tuyệt đối lẫn tương đối. Chỉ trong giai đoạn 2003-2006, số địa phương nộp báo cáo tăng gấp đôi, từ 27 tỉnh, thành phố lên 54 địa phương. Như vậy, số lượng địa phương nộp tăng theo chiều hướng tích cực, tăng đều qua các năm và có xu hướng năm sau cao hơn năm trước. Giai đoạn về sau 2005-2006 số địa phương nộp báo cáo tăng chậm. Theo giải thích trên đây, việc những năm sau năm 2003 các tỉnh thành phố nộp báo cáo tăng lên là do Thủ tướng, Chính phủ đã ban hành nhiều quy chế, thông tư quy định trách nhiệm, nhiệm vụ ngày càng tăng cho các địa phương. Hơn nữa, việc phân cấp quản lý ngày càng mạnh, các địa phương ngày càng được giao nhiệm vụ trọng trách nặng nề hơn, quản lý nhiều dự án lớn với mức vốn lớn nên công tác giám sát đánh giá được Chính phủ quản lý chặt chẽ, tránh gây ra các hậu quả thiệt hại cho tài sản của Nhà nước, của công dân.
+Bộ và Cơ quan ngang Bộ: Số lượng các báo cáo giám sát, đánh giá tổng thể đầu tư do các Bộ và Cơ quan chủ quản gửi về có gia tăng về số lượng cũng như chất lượng báo cáo, cho thấy các Bộ đã có ý thức chấp hành nghiêm túc các Nghị quyết của Quốc hội và Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ. Bảng số liệu trên cho thấy, các Bộ tiến hành gửi báo cáo giám sát, đánh giá đầu tư ngày càng đều đặn hơn. Trong 2 năm liên tiếp 2005-2006, số đơn vị gửi báo cáo không thay đổi, duy trì được tỷ lệ 20 đơn vị. Năm 2003 số đơn vị nộp báo cáo chỉ có 34% trên tổng số Bộ và Cơ quan ngang Bộ. Đến cuối năm 2006 và tính đến đầu tháng 4/2007, con số này lên mức 56%, tăng 1,5 lần so với năm 2003. Tuy nhiên cần phải thấy rằng, mặc dù có tăng lên nhưng số đơn vị nộp vẫn chiếm tỷ lệ thấp, chưa đạt yêu cầu. Đặc biệt, năm 2004 có 24 Bộ, Cơ quan ngang Bộ nộp xong tới những năm sau giảm xuống chỉ còn 20. Đây là điều cần xem xét vì số Bộ, Cơ quan ngang Bộ của năm 2004 đều bằng với năm 2005, 2006 nhưng số đơn vị nộp lại cao hơn. Như vậy, xét về tổng thể giai đoạn 4 năm thì các Bộ, Cơ quan ngang Bộ có xu hướng thực hiện chế độ báo cáo giám sát đánh giá nghiêm túc hơn. Trong giai đoạn tới, Thủ tướng Chính phủ cần phải có các quy định cũng như chỉ thị cụ thể yêu cầu các Bộ, Cơ quan ngang Bộ chấp hành nghiêm chỉnh hơn nữa chế độ báo cáo giám sát đánh giá đầu tư, bởi đây là những cơ quan Nhà nước quản lý các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế, nếu không thực hiện nghiêm túc thì khó có thể quản lý được tình hình thực hiện đầu tư trong các ngành kinh tế của đất nước.
+Tổng Công ty 91: Năm 2003, số Tổng Công ty 91 nộp báo cáo giám sát đánh giá tổng thể đầu tư chỉ khiêm tốn ở con số 10/20 đơn vị (50%). Trong đó, các Tổng Công ty lớn như Tổng Công ty than, Tổng Công ty điện (nay là Tập đoàn điện lực Việt Nam), Tổng Công ty ximăng, Tổng Công ty công nghiệp đóng tàu không có báo cáo giám sát đánh giá. Đây là những Tổng Công ty mũi nhọn của Việt Nam, có tác dụng định hướng phát triển nền kinh tế và chiếm tỷ trọng các dự án thực hiện đầu tư rất lớn. Do vậy, số liệu báo cáo tổng hợp trình lên Thủ tướng là số liệu không đầy đủ, không phản ánh đúng thực tế hoạt động đầu tư trong năm. Giai đoạn sau, tình hình nộp báo cáo giám sát, đánh giá tổng thể đầu tư của các Tổng Công ty này có sự cải thiện rõ rệt. Các năm 2004, 2005 Tổng Công ty điện đều có báo cáo nộp Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Năm 2004, có 17/19 Tổng Công ty nộp báo cáo (chiếm 89%), tăng đột biến so với năm 2003. Năm 2005 giảm chỉ còn 14/19 Tổng Công ty và giảm mạnh nhất là vào năm 2006 chỉ có 8/19 đơn vị (chỉ chiếm 42%). Như vậy, sau khi tăng mạnh vào năm 2004, năm 2006 số Tổng Công ty 91 thực hiện chế độ báo cáo lại xuống thấp hơn (mặc dù số lượng Tổng Công ty 91 không hề giảm), do đó có thể thấy tình trạng nộp báo cáo của những đơn vị này thực hiện không nghiêm túc, cần được chấn chỉnh hơn nữa.
+Cơ quan Chính phủ: Các Cơ quan Chính phủ có số đơn vị nộp báo cáo ngày càng giảm qua các năm. Cao nhất số báo cáo các Cơ quan Chính phủ gửi về là năm 2003 với 8/15 đơn vị gửi (53,33%), trong đó Tổng Cục thống kê là đơn vị chấp hành nghiêm chỉnh nhất (4 năm từ 2003-2006 đều có báo cáo giám sát đánh giá tổng thể đầu tư có số liệu cụ thể). 3 năm về sau, số đơn vị gửi báo cáo về giảm dần, trong khi số Cơ quan Chính phủ lại tăng lên (từ 15 năm 2003 lên 17). Như vậy, số lượng Cơ quan Chính phủ gửi báo cáo giảm về cả số lượng tuyệt đối lẫn tương đối. Mặt khác, các báo cáo gửi về giảm trong hoàn cảnh số đơn vị tăng lên cho thấy việc chấp hành chế độ báo cáo ở các Cơ quan Chính phủ chưa nghiêm túc.
*Tình hình cụ thể công tác giám sát, đánh giá đầu tư ở các Bộ - Cơ quan ngang Bộ, Cơ quan Chính phủ, Tỉnh - Thành phố và các Tổng Công ty 91
Ta có bảng số liệu sau đây:
Bảng 4: Tổng hợp số liệu các dự án đầu tư giai đoạn 2003-2006
STT
Năm
Cơ quan
Số dự án thực hiện đầu tư
Số dự ánquyết địnhđầu tư
Số dự án kết thúc đưa vào hoạt động đầu tư trong năm
Số dự ánđã thực hiệnGS,ĐG đầu tưtrong năm
Tổng
Nhóm A
Nhóm B
Nhóm C
1
2003
TỈnh,Thành phố
3018
9
284
2725
2024
1279
1011
0.30%
9.41%
90.29%
67.06%
42.38%
33.50%
Tổng công ty 91
1700
22
275
1403
389
627
1386
1.29%
16.18%
82.53%
22.88%
36.88%
81.53%
Bộ,Cơ quan ngang Bộ
511
16
199
296
58
79
248
3.13%
38.94%
57.93%
11.35%
15.46%
48.53%
Cơ quan CP
203
2
41
160
116
72
195
0.99%
20.20%
78.82%
57.14%
35.47%
96.06%
2
2004
TỈnh,Thành phố
7942
56
1172
6631
3920
2532
3555
0.71%
0.71%
0.71%
0.71%
0.71%
0.71%
Tổng công ty 91
6316
91
581
5644
1767
1243
5918
1.4%
9.2%
89.4%
28.0%
19.7%
93.7%
Bộ,Cơ quan ngang Bộ
6008
125
799
5083
1926
3508
2755
2.08%
13.30%
84.60%
32.06%
58.39%
45.86%
Cơ quan CP
249
3
84
162
83
61
190
1.20%
33.73%
65.06%
33.33%
24.50%
76.31%
3
2005
TỈnh,Thành phố
12165
73
1971
9966
4693
4462
5331
0.60%
16.20%
81.92%
38.58%
36.68%
43.82%
Tổng công ty 91
4727
71
610
3891
1558
2293
4450
1.50%
12.90%
82.31%
32.96%
48.51%
94.14%
Bộ,Cơ quan ngang Bộ
7357
279
1907
5160
1507
3136
1322
3.79%
25.92%
70.14%
20.48%
42.63%
17.97%
Cơ quan CP
115
3
58
54
38
40
52
2.61%
50.43%
46.96%
33.04%
34.78%
45.22%
4
2006
TỈnh,Thành phố
17371
88
2065
15218
5957
6583
10538
0.51%
11.89%
87.61%
34.29%
37.90%
60.66%
Tổng công ty 91
2245
11
432
1802
974
1242
1920
0.49%
19.24%
80.27%
43.39%
55.32%
85.52%
Bộ,Cơ quan ngang Bộ
7606
202
1366
6038
2993
1901
1542
2.66%
17.96%
79.38%
39.35%
24.99%
20.27%
Cơ quan CP
118
1
33
84
39
28
44
0.85%
27.97%
71.19%
33.05%
23.73%
37.29%
Nguồn: Vụ Thẩm định và Giám sát đầu tư - Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Báo cáo của các địa phương, các Bộ-Cơ quan ngang Bộ, Cơ quan Chính phủ cũng như các Tổng Công ty gửi về nhìn chung có số liệu cụ thể về tình hình quản lý dự án đầu tư nhóm A, B, C, cho thấy
- Về các dự án nhóm A, B, C:
*Ở các tỉnh, thành phố: Số dự án nhóm A thực hiện trong kỳ của các địa phương trong 4 năm đạt tỷ lệ thấp. Năm 2003 chỉ có 9 dự án nhóm A được thực hiện, chiếm 0.3% trong tổng số dự án thực hiện trong kỳ. Liên tục trong 4 năm, dự án nhóm A chỉ tăng lên với tốc độ chậm, lên 0.71% vào năm 2004. Tuy nhiên, từ năm 2004 trở lại đây số dự án nhóm A thực hiện trong kỳ có xu hướng giảm. Nhìn chung, dự án nhóm A có xu hướng tăng nhưng không nhiều, chưa có năm nào tăng vượt quá tỷ lệ 1%. Số dự án nhóm A chiếm tỷ trọng rất ít trong tổng số các dự án thực hiện trong kỳ chứng tỏ các dự án thực hiện đầu tư có vốn lớn chiếm ít, các dự án nhóm B, C ít vốn hơn chiếm tỷ trọng lớn. Tổng số các dự án nhóm C chiếm nhiều nhất. Trong 4 năm, dự án nhóm C chiếm ưu thế hơn hẳn các dự án nhóm A, B mặc dù tỷ trọng các dự án nhóm C có xu hướng giảm qua các năm. Năm 2003, số dự án nhóm C là 2725, đạt tỷ lệ 90.29% cao nhất trong 4 năm. Các năm 2004, 2005 và 2006 dao động trên dưới 85% và chưa trở lại mức cao nhất năm 2003. Trong khi các dự án nhóm C giảm thì các dự án nhóm B lại có xu hướng tăng, mạnh nhất vào năm 2005 đạt 1971 dự án (chiếm tỷ lệ 16.2%).
*Ở các Bộ, Cơ quan Ngang Bộ: Tỷ trọng các dự án nhóm C cũng chiếm ưu thế trong số các dự án thực hiện đầu tư theo số liệu báo cáo từ các Bộ, cơ quan ngang bộ. Số liệu cho thấy, dự án nhóm A ở các Bộ có mức độ dao động về tỷ lệ phần trăm không lớn, dao động từ 2,08%(mức thấp nhất năm 2004) tới 3,79% (mức cao nhất năm 2005) nhưng về số lượng tuyệt đối thì dao động mạnh qua các năm, thấp nhất chỉ có 16 dự án nhóm A trong năm 2003 (mặc dù chiếm tới 3,13% tổng số dự án thực hiện đầu tư năm này) lên 125 dự án vào năm 2004 và cao nhất là 279 dự án năm 2005. Như vậy, số lượng các dự án nhóm A có xu hướng tăng xét về tổng thể giai đoạn 4 năm.
*Ở các Tổng Công ty 91, số lượng dự án nhóm A rất ít, chỉ đạt cao nhất về số lượng là 91 dự án vào năm 2004. Trong đó, Tổng Công ty điện là đơn vị liên tục 2 năm 2004-2005 có số dự án nhóm A cao nhất lần lượt là 51 và 61. Đây đồng thời cũng là đơn vị có số dự án thực hiện đầu tư lớn nhất trong số các Tổng Công ty 91, năm 2004 đạt số lượng dự án nhóm A cao nhất là 3559 dự án.
Như vậy, với số liệu trong bảng 2 có thể thấy, xu hướng các dự án lớn và vừa (nhóm A và nhóm B) có xu hướng tăng theo thời gian, mặc dù với tốc độ chậm nhưng phản ánh các dự án có vốn đầu tư lớn đang tăng dần, thể hiện nền kinh tế các địa phương đang ngày càng phát triển, ngày càng tạo ra nhiều tài sản cho nền kinh tế quốc dân.
-Về số dự án thực hiện đầu tư trong kỳ:
*Ở các Tỉnh, Thành phố: Theo các báo cáo trình Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tổng số các dự án thực hiện đầu tư trong kỳ ở các địa phương tăng qua các năm. Nếu như năm 2003, số dự án đầu tư thực hiện chỉ là 3018 dự án thì đến năm 2006 đã tăng lên gấp gần 6 lần là 17371 dự án. Như vậy, số các dự án được thực hiện đầu tư tại các địa phương tăng lên rất nhanh trong 4 năm, cho thấy tình hình triển khai các dự án đầu tư được các địa phương tích cực giúp đỡ, cấp giấy phép thực hiện nhanh chóng. Các địa phương đã rất tích cực hỗ trợ chủ đầu tư thực hiện dự án thông qua cơ chế ngày càng thông thoáng, thời gian cấp phép thực hiện đầu tư ngày một rút ngắn. Đồng thời, số dự án thực hiện đầu tư tăng lên cũng phản ánh sự phát triển của nền kinh tế đất nước ngày càng tăng mạnh mẽ trong giai đoạn 2003-2006.
*Ở Tổng Công ty 91: Số dự án thực hiện đầu tư của các Tổng Công ty 91 thấp nhất vào năm 2003, chỉ có 1700 dự án. Tăng mạnh nhất năm 2004 khi có tới 6316 dự án thực hiện đầu tư (tăng 370% so với năm 2003). Sở dĩ giai đoạn này có sự tăng đột biến vì số lượng các dự án đầu tư của các Tổng Công ty tăng mạnh do nhu cầu mở rộng sản xuất của các đơn vị này.
*Đối với các Bộ và Cơ quan ngang Bộ, số dự án đầu tư thực hiện có xu hướng tăng rất nhanh và mạnh. Năm 2003 mới chỉ có 511 dự án (thấp nhất trong vòng 4 năm) thì sang năm 2004 đã tăng 11 lần lên 6008 dự án và cao nhất hiện nay là năm 2006 (7606 dự án). Điều này được lý giải cũng là do nhu cầu mở rộng sản xuất của các doanh nghiệp, các đơn vị khi nền kinh tế đang trong thời kỳ mở cửa hội nhập với khu vực và thế giới. Mặt khác, do các dự án thực hiện đầu tư ở các địa phương tăng nên việc các dự án của Bộ và Cơ quan ngang Bộ thực hiện đầu tư tăng là việc dễ hiểu (do các Bộ quản lý dọc chuyên ngành của mình còn các địa phương thực hiện việc giám sát các dự án xây dựng ở địa phương mình).
Nhìn chung, các Bộ ngành, địa phương, Tổng Công ty 91 đều có xu hướng tăng số lượng các dự án thực hiện đầu tư trong giai đoạn 2003-2006.
*Các Cơ quan Chính phủ: Có số lượng các dự án thực hiện đầu tư ít nhất trong số các đơn vị. Số dự án chỉ dao động thấp nhất 115 năm 2004 và cao nhất chỉ là 249 dự án. Tuy nhiên, do số lượng báo cáo gửi về của các Cơ quan Chính phủ thấp nên con số trên có thể chưa chính xác.
- Về số dự án kết thúc đưa vào hoạt động trong năm:
*Ở các Tỉnh, Thành phố:có xu hướng giảm ở các địa phương. Cao nhất là năm 2003 khi số dự án đưa vào hoạt động 42,38% trên tổng số dự án thực hiện đầu tư. Các năm sau đều giảm, thấp nhất vào năm 2004 chỉ có 2532 dự án (chiếm 31,88%). Số dự án kết thúc đưa vào hoạt động chỉ đạt tỷ lệ thấp như vậy (chưa năm nào vượt quá 50%) chứng tỏ tình trạng giải ngân chậm. Theo báo cáo từ các địa phương, các tỉnh như Bà Rịa Vũng Tàu, Bắc Cạn, Đồng Tháp, Sơn La, Sóc Trăng, Tiền Giang, Hà Giang nhiều năm liền đều không thể giải ngân được, do vậy, dự án đầu tư kết thúc xong không thể đưa ngay vào hoạt động, làm mất tính cạnh tranh của dự án, gây thiệt hại không chỉ cho chủ đầu tư mà còn cho cả các tỉnh trên. Điều này phần nào cho thấy các tỉnh trên có tốc độ phát triển kinh tế kém hơn so với các tỉnh lân cận khác. Nhìn vào bảng số liệu trong bảng 2 cho thấy mặc dù thấp về tương đối (tỷ lệ phần trăm giữa số dự án đưa vào hoạt động trong kỳ so với số dự án đầu tư thực hiện) nhưng số dự án dự kiến (gồm cả nhóm A, B và C) kết thúc đưa vào hoạt động đầu tư trong kỳ trong các năm về mặt tuyệt đối có tăng lên. Năm 2003 con số này là 1279 dự án, đến năm 2004 đã tăng gấp đôi lên 2532 và lần lượt các năm 2005 và 2006 là 4462 và 6583 dự án kết thúc đầu tư đưa vào hoạt động trong năm. Các địa phương cũng đã có nhiều cố gắng tập trung các nguồn lực về nhân lực, về tài chính và cải tiến các quy định quản lý, nhằm đẩy nhanh tiến độ đầu tư, huy động nhanh và có hiệu quả các nguồn lực cho phát triển, rút ngắn thời gian đầu tư, nhanh chóng đưa dự án vào sử dụng. Điển hình như Uỷ ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, bằng việc chỉ đạo sát sao, kiểm tra chặt chẽ tình hình thực hiện đầu tư thực tế, trong quý 4 năm 2006 đã cắt giảm vốn kế hoạch của 15 dự án, công trình đầu tư với kinh phí trên 67 tỷ đồng để điều tiết, bổ sung cho các dự án có khả năng sử dụng hết vốn nhằm đẩy nhanh tiến độ thi công, sớm hoàn thành công trình đưa vào sử dụng. Tình trạng giải ngân chậm diễn ra trong ngành giáo dục gây không ít khó khăn. Nguồn vốn công trái giáo dục nhìn chung giải ngân chậm, kế hoạch năm 2005 phải hoàn thành mục tiêu kiên cố hoá trường học, nhưng đến hết tháng 8 năm 2005 chương trình này mới giải ngân được 68,4% so với tổng vốn Trung ương đã chuyển cho các địa phương. Các tỉnh giải ngân chậm trong nhiều năm là Bắc Kạn, Cao Bằng, Lào Cai, Sơn La, Lai Châu, Thanh Hoá, Đắc Lắc, Bình Định, Lâm Đồng. Theo kế hoạch của Chính phủ, chương trình kiên cố hoá trường lớp học phải kết thúc cuối năm 2005, tuy nhiên cho đến cuối năm 2006 thì vẫn còn gần 28% số phòng học cần xây dựng nhưng vẫn chưa được triển khai.
*Ở các Tổng Công ty 91: Số lượng các dự án kết thúc đưa vào hoạt động trong năm ở các Tổng Công ty 91 thấp nhất vào năm 2003 chỉ có 627 dự án (chiếm 36,88% trên tổng các dự án thực hiện đầu tư) và cao nhất vào năm 2005 là 2293 dự án. Giai đoạn 2003-2004 tăng mạnh nhất 98% (năm 2004 so với năm 2003).
*Ở các Bộ, Cơ quan ngang Bộ, số dự án kết thúc đưa vào hoạt động trong kỳ thay đổi thất thường, năm 2006 chỉ có 1901 dự án. Con số này thấp hơn rất nhiều so với năm 2005 là 3136, tương tự năm 2004 cao nhất là 3508 dự án. Điều này cho thấy số dự án kết thúc đưa vào hoạt động ngay trong kỳ ở các Bộ có xu hướng giảm.
Tựu chung lại, việc huy động dự án vào sử dụng ngay trong kỳ ở cả địa phương, Bộ Cơ quan ngang bộ và Tổng Công ty đều thấp, tính trung bình thời gian thực hiện dự án dài, nhiều khi có các dự án kéo dài hơn chục năm. Tài sản không phát huy được tác dụng cho nền kinh tế gây thiệt hại lớn.
*Tại các Cơ quan Chính phủ, dự án đưa vào hoạt động đầu tư trong năm có xu hướng giảm qua các năm, cao nhất là 72 dự án năm 2003 (35,47%) và xuống thấp nhất là năm 2006 chỉ còn 28 (chiếm 23,73%) trên tổng số 118 dự án thực hiện đầu tư trong năm này.
-Về số dự án đã thực hiện giám sát, đánh giá đầu tư trong năm:
*Ở các Tỉnh, Thành phố: Qua bảng số liệu trên cho thấy, trong tổng số các dự án thực hiện đầu tư, số dự án đã thực hiện giám sát, đánh giá đầu tư trong năm ở các địa phương chiếm tỷ lệ không cao lắm. Thấp nhất là vào năm 2003 khi số dự án thực hiện giám sát đánh giá đầu tư chỉ đạt 1011 dự án (chiếm 33%). Tuy nhiên, con số này tăng dần qua các năm. Năm 2006 đạt cao nhất, thể hiện ở số dự án thực hiện giám sát đầu tư tăng gần gấp đôi so với năm 2005, đạt 10538 dự án (chiếm 61%). Điều này cho thấy công tác thực hiện giám sát đánh giá đầu tư ngày càng được cải thiện, rõ nét hơn trong các năm về sau. Năm 2004 tăng gấp hơn 3 lần năm 2003, năm 2005 tăng 1,5 lần năm 2004. Như vậy, về mặt tuyệt đối tăng rất nhanh (về mặt tương đối trong 2 năm 2004, 2005 tăng không nhiều do số dự án thực hiện đầu tư cũng tăng theo). Do đó, công tác giám sát đánh giá được các địa phương chú trọng hơn giai đoạn trước. Đồng thời, đây cũng là kết quả của việc Chính phủ đã có chủ trương đúng đắn, nhanh chóng ban hành các Nghị định, quy định về công tác giám sát đánh giá kịp thời trong giai đoạn hiện nay khi các dự án đầu tư trong và ngoài nước ngày càng tăng lên.
*Ở các Tổng Công ty 91: Tuy nhiên có thể thấy, công tác giám sát, đánh giá dự án đầu tư thực hiện ở các Tổng Công ty lại rất tốt. Chưa có năm nào ở các đơn vị này số dự án đã thực hiện giám sát, đánh giá đầu tư trong năm đạt tỷ lệ dưới 81%, chỉ thấp nhất năm 2003 là 1386 dự án (81,5%). Các năm sau, số dự án thực hiện đầu tư ở các Tổng Công ty giảm nên số lượng dự án thực hiện giám sát đánh giá trong năm cũng giảm theo. Qua đây cho thấy các đơn vị này có ý thức rõ rệt về kết quả đầu tư do hiện nay xu hướng cổ phần hoá các doanh nghiệp tăng mạnh, các Tổng Công ty 91 phải tăng cường năng lực cạnh tranh trước sức ép to lớn của các tập đoàn hùng mạnh thế giới chuẩn bị thâm nhập thị trường Việt Nam khi Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới WTO.
*Ở các Cơ quan Chính phủ Các dự án đã thực hiện giám sát, đánh giá đầu tư trong năm tại các Cơ quan Chính phủ đạt tỷ lệ rất cao vào năm 2003 khi đạt mức 195 trên tổng số 203 dự án thực hiện đầu tư (96,06%), tuy nhiên sang năm 2004 giảm 2,5% còn 190 dự án (chiếm 76,3% do số dự án thực hiện đầu tư tăng lên 249 dự án trong năm này). Các dự án thực hiện giám sát, đánh giá giảm cả về mặt tuyệt đối lẫn tương đối.
b)Phân tích các nguyên nhân gây vi phạm thủ tục đầu tư
Báo cáo giám sát đánh giá tổng thể đầu tư gửi về Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho thấy, các dự án thực hiện đầu tư đều vướng mắc phải các vi phạm về quy định đầu tư hiện nay do Nhà nước ban hành. Số lượng các dự án có vi phạm về thủ tục đầu tư, dự án phải điều chỉnh, dự án phải ngừng thực hiện vì các lý do khác nhau đều có trong các báo cáo của các Tỉnh, Thành phố cũng như các Bộ -Cơ quan ngang Bộ, Cơ quan Chính phủ và các Tổng Công ty 91.
Bảng 5: Tổng hợp dự án đầu tư vi phạm thủ tục đầu tư
STT
Năm
Cơ quan
Số dự áncó vi phạm về thủ tục đầu tư
Số dự án phải điều chỉnh
Số dự ánphải ngừngthực hiệnvì các lý dokhác nhau
Số dự ánđưa vào hoạt độngnhưng khôngcó hiệu quả
Tổng
Không phùhợp với quy hoạch
Không đúngthẩm quyền
Không thực hiệnđầy đủ trình tựthẩm tra, thẩmđịnh dự án
Đấu thầukhông đúngquy định
Bỏ giáthầu khôngphù hợp
Phê duyệtkhông kịp thời
Ký hợp đồng không đúng quy định
Chậm tiến độ
Chất lượng xây dựng thấp
Có lãng phí
Tổng
Nội dung đầu tư
Tiến độ đầu tư
Vốn đầu tư
1
2003
TỈnh,Thành phố
27
0
0
3
1
2
18
0
84
16
26
347
59
54
263
31
0
0.89%
0.00%
0.00%
0.10%
0.03%
0.07%
0.60%
0.00%
2.78%
0.53%
0.86%
11.50%
1.95%
1.79%
8.71%
1.03%
0.00%
Tổng công ty 91
43
0
0
0
0
0
0
0
43
0
0
83
26
47
32
22
1
2.53%
0.00%
0.00%
0.00%
0.00%
0.00%
0.00%
0.00%
2.53%
0.00%
0.00%
4.88%
1.53%
2.76%
1.88%
1.29%
0.06%
Bộ,Cơ quan ngang Bộ
2
0
0
0
0
1
0
0
1
2
0
8
11
5
21
0
0
0.39%
0.00%
0.00%
0.00%
0.00%
0.20%
0.00%
0.00%
0.20%
0.39%
0.00%
1.57%
2.15%
0.98%
4.11%
0.00%
0.00%
Cơ quan CP
10
0
0
1
0
1
0
0
16
0
0
13
6
21
10
13
0
4.93%
0.00%
0.00%
0.49%
0.00%
0.49%
0.00%
0.00%
7.88%
0.00%
0.00%
6.40%
2.96%
10.34%
4.93%
6.40%
0.00%
2
2004
TỈnh,Thành phố
319
7
1
66
5
4
12
72
435
11
6
811
232
189
499
201
2
0.71%
0.71%
0.71%
0.71%
0.71%
0.71%
0.71%
0.71%
0.71%
0.71%
0.71%
0.71%
0.71%
0.71%
0.71%
0.71%
0.71%
Tổng công ty 91
115
0
0
53
2
0
0
0
149
0
0
168
40
75
106
30
1
1.8%
0.0%
0.0%
0.8%
0.0%
0.0%
0.0%
0.0%
2.4%
0.0%
0.0%
2.7%
0.6%
1.2%
1.7%
0.5%
0.0%
Bộ,Cơ quan ngang Bộ
341
1
0
0
22
2
0
0
358
0
0
347
56
184
274
35
0
5.68%
0.02%
0.00%
0.00%
0.37%
0.03%
0.00%
0.00%
5.96%
0.00%
0.00%
5.78%
0.93%
3.06%
4.56%
0.58%
0.00%
Cơ quan CP
4
0
0
0
0
0
0
0
12
0
0
21
13
6
13
1
0
1.61%
0.00%
0.00%
0.00%
0.00%
0.00%
0.00%
0.00%
4.82%
0.00%
0.00%
8.43%
5.22%
2.41%
5.22%
0.40%
0.00%
3
2005
TỈnh,Thành phố
1821
15
3
31
2
0
56
14
1573
54
28
2313
866
1312
1630
97
0
14.97%
0.12%
0.02%
0.25%
0.02%
0.00%
0.46%
0.12%
12.93%
0.44%
0.23%
19.01%
7.12%
10.79%
13.40%
0.80%
0.00%
Tổng công ty 91
337
1
0
0
0
0
0
0
381
1
0
123
42
66
100
85
0
7.13%
0.02%
0.00%
0.00%
0.00%
0.00%
0.00%
0.00%
8.06%
0.02%
0.00%
2.60%
0.89%
1.40%
2.12%
1.80%
0.00%
Bộ,Cơ quan ngang Bộ
364
0
2
0
2
3
11
0
354
0
0
374
95
230
373
34
1
4.95%
0.00%
0.03%
0.00%
0.03%
0.04%
0.15%
0.00%
4.81%
0.00%
0.00%
5.08%
1.29%
3.13%
5.07%
0.46%
0.01%
Cơ quan CP
12
0
0
0
0
1
1
0
38
0
0
28
16
20
23
1
0
10.43%
0.00%
0.00%
0.00%
0.00%
0.87%
0.87%
0.00%
33.04%
0.00%
0.00%
24.35%
13.91%
17.39%
20.00%
0.87%
0.00%
4
2006
TỈnh,Thành phố
3173
26
5
7
41
14
6
6
3069
14
7
4119
863
2773
2604
18.27%
0.15%
0.03%
0.04%
0.24%
0.08%
0.03%
0.03%
17.67%
0.08%
0.04%
23.71%
4.97%
15.96%
14.99%
0.00%
0.00%
Tổng công ty 91
52
0
0
0
0
1
11
0
74
0
0
73
48
59
70
6
2
2.32%
0.00%
0.00%
0.00%
0.00%
0.04%
0.49%
0.00%
3.30%
0.00%
0.00%
3.25%
2.14%
2.63%
3.12%
0.27%
0.09%
Bộ,Cơ quan ngang Bộ
421
0
0
0
0
0
0
0
438
0
1
365
103
144
308
12
4
5.54%
0.00%
0.00%
0.00%
0.00%
0.00%
0.00%
0.00%
5.76%
0.00%
0.01%
4.80%
1.35%
1.89%
4.05%
0.16%
0.05%
Cơ quan CP
14
0
0
0
0
0
10
0
14
0
0
19
9
15
10
1
0
11.86%
0.00%
0.00%
0.00%
0.00%
0.00%
8.47%
0.00%
11.86%
0.00%
0.00%
16.10%
7.63%
12.71%
8.47%
0.85%
0.00%
Nguồn: Vụ Thẩm định và Giám sát đầu tư - Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Theo bảng trên có thể rút ra các nhận xét sau:
+Thứ nhất: Các dự án đầu tư có mức độ vi phạm các quy định đầu tư ngày càng tăng. Số các dự án vi phạm về thủ tục đầu tư tăng mạnh, năm sau cao hơn năm trước. Năm 2003 có tỷ lệ các dự án đầu tư vi phạm thủ tục đầu tư ít nhất, chỉ 27 dự án (chiếm 0,89%). Tuy nhiên, đến năm 2004 tăng mạnh gần 5 lần con số sai phạm này. Năm 2006 đạt tỷ lệ cao nhất là 18% trên tổng số các dự án thực hiện đầu tư. Điều này lý giải là do số dự án thực hiện đầu tư qua các năm cũng tăng lên, công tác quản lý đầu tư ở các địa phương vẫn còn yếu về nhiều mặt nên việc kiểm soát các dự án đầu tư ở địa phương cũng gặp nhiều khó khăn. Số các địa phương có vi phạm về thủ tục đầu tư ngày càng gia tăng. Năm 2003, mới chỉ có 3 tỉnh Tuyên Quang, Phú Thọ và Hà Nam vi phạm. Đến năm 2004, con số này đã là 13 tỉnh. Theo số liệu thông báo, tới giai đoạn hiện nay Thành phố Hồ Chí Minh là địa phương có số dự án vi phạm thủ tục đầu tư lớn nhất (năm 2005 là 990, đến năm 2006 đã tăng lên 247% lên 2445 dự án). Đây là địa bàn đông dân, đất rộng và có tiềm năng kinh tế lớn của nước ta. Nhiều dự án trong và ngoài nước đã chọn Thành phố Hồ Chí Minh là địa điểm đầu tư. Do vậy, vấn đề giám sát, đánh giá dự án ở thành phố này rất quan trọng. Nếu không thực hiện tốt sẽ ảnh hưởng lớn tới nền kinh tế nước ta. Mức độ vi phạm về quản lý đầu tư cao nhất trong các đơn vị gửi báo cáo thuộc về các Cơ quan Chính phủ. Năm 2006 vi phạm cao nhất với tỷ lệ 11,86% trên số dự án thực hiện đầu tư tại đơn vị này. Đáng chú ý ở các Bộ -Cơ quan ngang Bộ tỷ lệ gia tăng dự án vi phạm rất nhanh. Năm 2003 mới chỉ có 2 dự án vi phạm thủ tục đầu tư (0,39%), sang năm 2004 đã tăng lên 341 dự án, tăng 170% so với năm trước. Các năm sau số lượng vi phạm liên tục tăng. Liên tục trong nhiều năm vi phạm về chậm tiến độ luôn chiếm ưu thế và duy trì ở mức độ cao.Năm 2003 vi phạm về chất lượng xây dựng thấp lớn nhất là 2 dự án, chậm tiến độ mới chỉ đạt 1 dự án. Năm 2004, các dự án chất lượng xây dựng thấp đã được khắc phục song chậm tiến độ lại tăng mạnh, từ năm 2004 là 341 dự án đến cuối năm 2006 đã lên 468 dự án.
+Thứ hai: Trong số các dự án vi phạm quy chế quản lý đầu tư, có nhiều nguyên nhân gây ra việc vi phạm này.
Nguyên nhân chậm tiến độ: tình trạng chậm tiến độ là nguyên nhân gây ảnh hưởng rất lớn. Số dự án chậm tiến độ năm 2003 là 84 (2,78%), năm 2004 là 435 (5,48%), năm 2005 là 1573 (12,93%) và năm 2006 là 3069 (18%). Tại các Tổng Công ty 91, tình trạng này cũng là vấn đề chính yếu. Tổng Công ty Bưu Chính Viễn thông trong 4 năm liên tiếp đều có dự án chậm tiến độ với số lượng tương đối cao. Tương tự như vậy, chậm tiến độ cũng xảy ra tại Tổng Công ty hàng không. Đặc biệt, Tổng Công ty điện có số dự án chậm tiến độ cao nhất năm 2005 là 312 dự án.Trong số các nguyên nhân gây ra vi phạm về thủ tục đầu tư tại các Tổng Công ty, chậm tiến độ chiếm tỷ lệ cao nhất, số liệu trong bảng cho thấy tình trạng này xảy ra nhiều nhất vào năm 2005 với 381 dự án (trong đó tập đoàn điện lực đã chiếm tới 312 dự án). Như vậy, tình trạng chậm tiến độ ngày càng gia tăng. Tỉnh Hà Nam nhiều năm liền đều xảy ra tình trạng này. Nhưng tiêu biểu nhất là Thành phố Hồ Chí Minh có số dự án chậm tiến độ diễn ra ngày càng nhiều. Tính tới cuối năm 2006, số dự án chậm tiến độ ở địa phương này đã lên tới 2431 dự án (trong khi số liệu báo cáo năm 2003 không có dự án nào). Điều này cho thấy tình trạng chậm tiến độ ngày một tràn lan ở Thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, qua đây cũng cần phải xem lại các báo cáo giám sát đánh giá đầu tư của thành phố này có thể chưa chính xác, mang tính hình thức cao mà không cụ thể. Nguyên nhân của việc chậm tiến độ do nhiều lý do: đền bù giải toả khó khăn, tư vấn yếu kém hoặc quá tải, một số đơn vị thi công không đủ năng lực ; chủ đầu tư năng lực tổ chức thực hiện yếu ; cơ quan thẩm định, phê duyệt dự án, thiết kế kỹ thuật, đấu thầu kéo dài ; bố trí vốn không đủ, thanh quyết toán chậm, trong đó đền bù giải toả khó khăn, chuẩn bị thủ tục đấu thầu và xét thầu kéo dài và sự yếu kém của chủ đầu tư là nguyên nhân cơ bản và phổ biến nhất…Đây là vấn đề nan giải, bởi chậm tiến độ gây ra lãng phí, giảm hoặc không còn hiệu quả của dự án đầu tư. Chậm tiến độ đều xảy ra ở mức độ lớn ở các đơn vị nộp báo cáo. Ví dụ như Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thông triển khai 21 dự án lớn dung nguồn vốn trái phiếu Chính phủ, nhưng cho đến tháng 4/2006 vẫn còn một số dự án vẫn đang chuẩn bị đầu tư, một số dự án chưa có thiết kế kỹ thuật và tổng dự toán theo quy định. Ở các địa phương lớn như Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng do là các trung tâm công nghiệp lớn của cả nước nên số dự án đầu tư vào các tỉnh này nhiều. Công tác giải phóng mặt bằng ở những nơi này diễn ra rất chậm chạp, chi phí cho công tác này nhiều khi chiếm tới 70% vốn đầu tư dự án. Ngoài ra, các dự án giao thông triển khai trên các địa bàn các tỉnh Thái Nguyên, Bắc Kạn, Cao Bằng, Sơn La, Tuyên Quang, Quảng Ninh, Hà Nội cũng gặp rất nhiều trở ngại.
Các nguyên nhân khác: dự án không phù hợp với quy hoạch, không đúng thẩm quyền, không thực hiện đầy đủ trình tự thẩm tra thẩm định, phê duyệt không kịp thời, đấu thầu không đúng quy định, phê duyệt không kịp thời …góp phần làm gia tăng các vi phạm về thủ tục đầu tư.
+Thứ ba: về số dự án phải điều chỉnh. Tại các tỉnh, thành phố số dự án này ngày càng tăng. Cao nhất là vào năm 2006 có tới 4119 dự án (chiếm 23,71%) số dự án thực hiện đầu tư phải điều chỉnh
Điều chỉnh về vốn đầu tư: Đây là một bức xúc rất lớn trong công tác đầu tư hiện nay. Vốn đầu tư của rất nhiều dự án đầu tư ở địa phương phải điều chỉnh lại nhiều lần, đặc biệt là nguồn vốn ngân sách nhà nước đầu tư xây dựng các công trình công cộng. Các cơ quan Chính phủ có số dự án phải điều chỉnh ít song ở các đơn vị này có ít dự án thực hiện đầu tư giai đoạn 2003-2006 nên tính theo tỷ lệ phần trăm thì lại là đơn vị có nhiều dự án điều chỉnh nhất. Năm 2003, số dự án này chiếm 6,4% trong tổng số dự án thực hiện đầu tư tại Cơ quan chính phủ (là năm ít nhất) thì đến năm 2005 đã lên tới 24,35%. Xét chung cho cả giai đoạn 4 năm 2003-2006 thì các Cơ quan Chính phủ năm nào cũng chiếm vị trí số 1 về tỷ lệ dự án phải điều chỉnh.
Điều chỉnh nội dung đầu tư và tiến độ đầu tư: Trong đó, điều chỉnh về tiến độ đầu tư có tốc độ tăng nhanh hơn điều chỉnh về nội dung đầu tư. Điều này cho thấy nội dung đầu tư của các dự án ngày càng phù hợp với chủ trương đầu tư của địa phương, của Bộ ngành, các Tổng Công ty cũng như các Cơ quan Chính phủ nhưng tiến độ đầu tư điều chỉnh nhiều làm gia tăng các khó khăn cho khả năng cạnh tranh của dự án. Nguyên nhân của việc phải điều chỉnh dự án đã được nêu nhiều lần, chủ yếu là do năng lực của chủ đầu tư, tư vấn hạn chế ; công tác khảo sát chưa đầy đủ hoặc số liệu khảo sát chưa chính xác, chất lượng thấp nên trong quá trình thực hiện phát sinh các yếu tố bắt buộc phải điều chỉnh.
+Thứ tư: Về số các dự án đưa vào hoạt động không có hiệu quả.Số liệu các địa phương gửi về cho thấy số các dự án đưa vào hoạt động không có hiệu quả rất ít. Chỉ có năm 2004 có 2 dự án hoạt động không có hiệu quả, các năm còn lại số liệu báo cáo không có dự án nào. Nếu theo báo cáo của địa phương thì đây là một tín hiệu đáng mừng. Tuy nhiên, hiện nay có rất nhiều dự án hoạt động dưới công suất, thậm chí bỏ phí không sử dụng ? Do vậy, các báo cáo của các địa phương cần phải được xem xét lại vì vấn đề dự án hoạt động không hiệu quả được báo đài và nhân dân phản ánh rất nhiều. Tương tự như vậy đối với các báo cáo của các Tổng Công ty 91 và các Bộ, Cơ quan ngang Bộ, Cơ quan Chính phủ đều có tỷ lệ các dự án hoạt động không hiệu quả rất thấp, cao nhất chỉ có 4 dự án hoạt động không hiệu quả trong năm 2006 của Bộ Xây dựng. Tuy vậy, giống như các địa phương, do số lượng báo cáo gửi về không đầy đủ, đặc biệt đối với Cơ quan Chính phủ là đơn vị thực hiện kém nhất chế độ báo cáo giám sát đánh giá đầu tư nên con số trên đây chưa hẳn đã chính xác.
2.2.3.Giám sát, đánh giá dự án đầu tư các dự án đầu tư nhóm A
*Thực hiện chế độ báo cáo giám sát đánh giá đầu tư:
Bảng 6: Báo cáo giám sát đánh giá tổng thể dự án đầu tư nhóm A 2003-2006
STT
Năm
Báo cáogiám sátđánh giá tổng thểđầu tư
Số dự ánthực hiệnđầu tư
Số dự ánquyết địnhđầu tư
Số dự án kết thúc đưa vào hoạt động đầu tư trong năm
1
2004
93(136)
275
42
20
%
68.38%
15.27%
7.27%
2
2005
93(135)
426
57
31
%
68.89%
13.28%
7.28%
3
2006
90(131)
302
35
27
%
68.7%
11.59%
8.94%
Nguồn: Vụ Thẩm định và Giám sát đầu tư - Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Theo bảng số liệu báo cáo giám sát đánh giá đầu tư các đơn vị trên đây cho thấy
- Số đơn vị gửi báo cáo giám sát đánh giá tổng thể đầu tư không dao động mạnh qua các năm (không có số liệu của năm 2003). Tuy nhiên, đây vẫn là số liệu chưa đầy đủ, không chính xác (bởi vẫn có đơn vị gửi báo cáo không có số liệu cụ thể). Mặt khác, số đơn vị gửi về vẫn chưa đạt yêu cầu về số lượng. Do đó, tình hình chấp hành thực hiện chế độ báo cáo giám sát đánh giá dự án đầu tư nhóm A vẫn chưa nghiêm túc. Dự án nhóm A là dự án quan trọng của đất nước nên việc thực hiện giám sát, đánh giá cần phải được chấp hành nghiêm túc.
- Tổng số dự án kết thúc đưa vào hoạt động trong năm của các dự án nhóm A rất thấp, chưa năm nào vượt quá 9%. Tốc độ tăng của các dự án nhóm A kết thúc đưa vào hoạt động dự án rất thấp, hầu như không đáng kể. Đáng chú ý nhất là các Cơ quan Chính phủ vẫn là đơn vị kém nhất có ít dự án kết thúc đưa vào hoạt động trong năm tính chung cho giai đoạn 2004-2006 (ngoại trừ đài truyền hình Việt Nam có 10 dự án trong năm 2006). Như vậy, trong khi số dự án thực hiện đầu tư thì lớn (cao nhất năm 2005 với 426 dự án) thì số dự án kết thúc đưa vào hoạt động trong năm quá ít cho thấy dự án nhóm A vẫn chưa được xem xét một cách nghiêm túc về tầm quan trọng của nó (năm 2006 có 27/426). Những dự án thuộc nhóm A có vốn đầu tư lớn, ảnh hưởng mạnh mẽ tới tốc độ phát triển của nền kinh tế nên nếu kết thúc không đưa vào hoạt động ngay sẽ gây ra tình trạng lãng phí rất lớn.
*Tình hình cụ thể công tác giám sát đánh giá các dự án nhóm A
STT
Năm
Báo cáogiám sátđánh giá tổng thểđầu tư
Số dự án đã thực hiện GS, ĐG đầu tư trong năm
Số dự án có vi phạm về thủ tục đầu tư
_Không phù hợp với quy hoạch
_Không đúng thẩm quyền
_Không thực hiện đầy đủ trình tự thẩm tra, thẩm định dự án
_Đấu thầu không đúng quy định
_Bỏ giá thầu không phù hợp
_Phê duyệt không kịp thời
_Ký hợp đồng không đúng quy định
_Chậm tiến độ
_Chất lượng xây dựng thấp
_Có lãng phí
_Số dự án phải điều chỉnh
_Nội dung đầu tư
_Tiến độ đầu tư
_Vốn đầu tư
Số dự án phải ngừng thực hiện vì các lý do khác nhau
Số dự án đưa vào hoạt động nhưng không có hiệu quả
1
2004
93(136)
185
41
0
0
0
0
0
0
0
56
0
0
48
7
25
18
4
0
68.38%
67.27%
22.16%
0.00%
0.00%
0.00%
0.00%
0.00%
0.00%
0.00%
30.27%
0.00%
0.00%
25.95%
3.78%
13.51%
9.73%
2.16%
0.00%
2
2005
93(135)
160
45
0
0
0
0
0
2
0
51
0
0
38
9
28
13
1
0
68.89%
37.56%
10.56%
0.00%
0.00%
0.00%
0.00%
0.00%
0.47%
0.00%
11.97%
0.00%
0.00%
8.92%
2.11%
6.57%
3.05%
0.23%
0.00%
3
2006
90(131)
78
25
0
0
0
0
0
1
0
25
0
0
59
17
37
26
1
1
68.7%
25.83%
8.28%
0.00%
0.00%
0.00%
0.00%
0.00%
0.33%
0.00%
8.28%
0.00%
0.00%
19.54%
5.63%
12.25%
8.61%
0.33%
0.33%
Bảng 7: Tổng hợp báo cáo giám sát, đánh giá dự án nhóm A
Nguồn: Vụ Thẩm định và Giám sát đầu tư - Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Qua bảng số liệu ta thấy:
- Thứ nhất: Số dự án đã thực hiện giám sát, đánh giá đầu tư có xu hướng ngày càng giảm. Cao nhất năm 2003 số dự án này đạt tỷ lệ 67,27% trên tổng số các dự án thực hiện đầu tư. Năm 2006 đã giảm xuống thấp nhất chỉ còn 25,83%. Việc giảm này cả về mặt tuyệt đối (số lượng) lẫn tương đối (tỷ lệ phần trăm) ảnh hưởng tới việc phân tích những ưu điểm và tồn tại của từng dự án, qua đó khó có thể đưa ra các kiến nghị cũng nhưn những biện pháp để khắc phục nhược điểm, đảm bảo việc thực hiện dự án theo các quy định hiện hành
- Thứ hai: Số dự án chậm tiến độ có chiều hướng giảm, năm 2006 chỉ còn 8,28%. Tuy nhiên, do các đơn vị báo cáo chưa đầy đủ nên thực tế có thể cao hơn (nhiều dự án chưa báo cáo). Tiến độ đầu tư chậm so với yêu cầu ngoài việc sẽ làm hạn chế tốc độ tăng trưởng kinh tế bởi đây là những dự án có vốn đầu tư lớn, ảnh hưởng lớn tới nền kinh tế, mặt khác còn không đảm bảo huy động năng lực sản xuất theo đúng kế hoạch, tăng thêm chi phí cho ban quản lý dự án, lãi vay trong thời gian xây dựng, đặc biệt là chi phí chuyên gia nước ngoài trong các dự án ODA, lãng phí là rất lớn và hiệu quả đầu tư rất thấp.
- Thứ ba: Các dự án phải điều chỉnh về tiến độ đầu tư và vốn đầu tư vẫn chiếm ưu thế trong số các dự án phải điều chỉnh. Mặc dù năm 2005 dự án điều chỉnh tiến độ đầu tư có giảm (28 dự án chiếm 6,57%) nhưng lại có chiều hướng tăng trong năm 2006 (lên 12,25%) cho thấy tiến độ đầu tư phải điều chỉnh là do công tác chuẩn bị đầu tư còn kém, chất lượng hồ sơ dư án thấp, tư vấn đầu tư, thiết kế chưa tốt. Tuy nhiên, có một số nguyên nhân khách quan khiến các dự án nhóm A phải điều chỉnh tiến độ là do tình hình kinh tế-xã hội của nước ta trong giai đoạn này có nhiều biến đổi. Việc thay đổi tỷ giá, thay đổi chính sách ảnh hưởng nhiều tới tiến độ đầu tư. Vốn đầu tư phải điều chỉnh một phần cũng do nước ta lạm phát trong những năm gần đây tăng mạnh. Tuy vậy, phần nhiều việc điều chỉnh dự án là do các yếu tố như chuẩn bị số liệu, chuẩn bị yêu cầu, nhiệm vụ khi lập nghiên cứu khả thi, khi thiết kế kỹ thuật – thi công còn thiếu khảo sát cụ thể theo yêu cầu, chất lượng khảo sát, lập dự án còn thấp.
2.3.Tổ chức nhân sự thực hiện giám sát, đánh giá dự án đầu tư tại Vụ Thẩm định và Giám sát đầu tư - Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Giai đoạn 2003-2006, số chuyên viên nộp báo cáo chỉ có trong năm 2004. Các năm khác không có báo cáo của các chuyên viên. Như vậy, việc tổ chức nhân sự thực hiện chế độ báo cáo giám sát đánh giá đầu tư ở Vụ Thẩm định và Giám sát đầu tư thực sự chưa nghiêm túc. Theo số liệu chỉ có trong năm 2004, năm này Vụ có 13 chuyên viên thì chỉ có 11 chuyên viên nộp báo cáo. Tuy nhiên các số liệu báo cáo về không đầy đủ, còn sơ sài, mang tính hình thức là chính.
Tính đến thời điểm cuối năm 2006, đơn vị có 18 người, gồm 4 đồng chí lãnh đạo Vụ (1 vụ trưởng và 3 vụ phó), 14 chuyên viên (1 cán bộ được nghỉ chế độ từ tháng 2/2007)
Trong năm, có 2 cán bộ tham gia các khoá học dài hạn về lý luận chính trị và quản lý nhà nước (theo hình thức tại chức) ; 2 cán bộ học khoá đào tạo ngắn hạn tiền công chức (3 tháng), 3 cán bộ tham gia các đoàn thanh tra liên ngành (từ 2-4 tháng) và một số cán bộ tham dự các lớp bồi dưỡng nghiệp vu ngắn hạn.
Số lượng chuyên viên trực tiếp xử lý công việc là 14 người trong đó có 2 đồng chí mới tuyển dụng. So với năm 2005, lực lượng cán bộ giảm đáng kể, đặc biệt là số cán bộ có kinh nghiệm đã giảm nhiều. Tính bình quân theo quỹ thời gian làm việc thực tế chỉ có 3 cán bộ và 12 chuyên viên làm việc thực tế. Như vậy, số chuyên viên quá ít so với số lượng các dự án mà họ phải phụ trách, gây quá tải. Đây là nguyên nhân gây ra việc hạn chế chất lượng của các báo cáo.
3. Hoạt động giám sát, đánh giá dự án đầu tư dưới góc độ quản lý Nhà nước về đầu tư
3.1.Công tác quy hoạch
Đến nay, hầu hết các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã tiến hành rà soát, điều chỉnh, bổ sung và lập mới quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 và nhiều quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội huyện, thị và các quy hoạch cụ thể đã được lập và được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Nhiều quy hoạch ngành và lĩnh vực tiếp tục được rà soát, điều chỉnh và bổ sung, tiêu biểu là quy hoạch các ngành công nghiệp, quy hoạch nông nghiệp, phát triển hệ thống giao thông đường bộ, đường cao tốc, cảng biển, sân bay, đường sắt ; mạng lưới cung cấp điện, quy hoạch thuỷ lợi, thương mại, du lịch ; quy hoạch phát triển khu công nghiệp ; quy hoạch phát triển các khu kinh tế (kể cả khu kinh tế cửa khẩu) ; quy hoạch xây dựng nhiều đô thị mới, quy hoạch các vùng cây trồng, nuôi trồng thuỷ sản. Việc rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch phát triển trong từng ngành, từng lĩnh vực, từng địa phương quán triệt tư tưởng đáp ứng yêu cầu đổi mới toàn diện của công tác kế hoạch hoá và thực thi chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
Công tác quy hoạch với sự tập trung chỉ đạo của Chính phủ đã bước đầu nâng cao được chất lượng, quy hoạch ngày càng phù hợp hơn với thực tế, coi trọng mối quan hệ liên ngành, liên vùng, khai thác tốt hơn tiềm năng, thế mạnh của từng ngành, từng vùng ; từng bước khắc phục tình trạng quy hoạch được duyệt nhưng không được triển khai thực hiện (quy hoạch treo), đầu tư không theo quy hoạch. Các quy hoạch đã cập nhật được nhiều yếu tố mới, nhất là trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, tạo được định hướng cho xây dựng kế hoạch đầu tư, trở thành công cụ điều hành và quản lý đầu tư của các ngành, các cấp.
Tuy nhiên, công tác quy hoạch vẫn còn một số tồn tại. Tiến độ quy hoạch còn chậm, chưa theo kịp sự phát triển của địa phương, chưa tạo điều kiện làm cơ sở cho các dự án đầu tư (như Bắc Giang, Đồng Tháp …). Đối với không ít dự án quy hoạch, định hướng dài hạn tuy đã được xác định nhưng các căn cứ chưa đủ và chưa vững chắc, nhất là về dự báo (đặc biệt là dự báo tác động của các yếu tố bên ngoài như thị trường thế giới, tiến bộ khoa học công nghệ, sự cạnh tranh của các quốc gia và doanh nghiệp …).Tầm nhìn của một số dự án quy hoạch hạn chế. Công tác quản lý nhà nước về quy hoạch tuy có tiến bộ, song phân công,phân cấp vẫn chưa rõ ràng ; thiếu sự chỉ đạo và hướng dẫn thống nhất về các vấn đề liên quan đến công tác trong phạm vi cả nước, thiếu kiểm tra, giám sát thực hiện quy hoạch chưa được chuẩn bị tốt: chưa có chiến lược dài hạn đối với toàn quốc, ngành, lĩnh vực chủ yếu ; quy hoạch tổng thể các vùng kinh tế chưa được điều chỉnh kịp thời.
3.2.Chống dàn trải trong đầu tư phát triển sử dụng vốn Nhà nước
Năm 2005, tổng vốn đầu tư của khối địa phương tăng 32% so với năm 2004, nhưng số dự án bố trí chỉ tăng 8% hạn chế tối đa những công trình khởi công mới, đây là một cố gắng trong việc bố trí phân bổ vốn của các địa phương.
Theo số liệu báo cáo từ 85 đơn vị, số các dự án quyết định đầu tư trong kỳ là 8250 (khoảng 33,2% tổng số dự án đang thực hiện đầu tư), số dự án dự kiến kết thúc đầu tư trong năm 2005 là 10185 (khoảng 41%) trong đó các dự án sử dụng vốn ngân sách nhà nước là 5155 dự án. Quy mô vốn đầu tư bố trí cho một dự án cao hơn năm 2004, bình quân 1 dự án do Trung ương quản lý là 6,8 tỷ đồng (năm 2004 là 6,04 tỷ đồng), trong đó các dự án nhóm A là 91,4 tỷ đồng/dự án ; nhóm B là 7,25 tỷ đồng/dự án (năm 2004 là 1,1 tỷ đồng) ; ở các địa phương bố trí vốn bình quân 1 dự án cũng cao hơn so với năm 2004, bình quân chung là 3,15 tỷ đồng/dự án (năm 2004 là 2,34 tỷ đồng), trong đó: dự án nhóm A là 88,9 tỷ đồng/dự án (năm 2004 là 65,73 tỷ đồng) ; dự án nhóm B là 6,51 tỷ đồng/dự án (năm 2004 là 5,65 tỷ đồng) ; dự án nhóm C là 1,86 tỷ đồng/dự án (năm 2004 là 1,41 tỷ đồng).
Số liệu báo cáo từ 90 đơn vị, số dự án được quyết định đầu tư trong năm 2006 là 9963 dự án (khoảng 36,4% tổng số các dự án đang thực hiện đầu tư) ; số dự án dự kiến kết thúc đầu tư, đưa vào hoạt động trong năm 2006 là 9754 dự án (khoảng 35,7%). Như vậy, tình hình bố trí kế hoạch đầu tư đã tập trung hơn năm 2005. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn một số địa phương chưa bố trí đủ vốn cho các công trình, dự án triển khai xây dựng nên tình trạng dàn trải, nợ đọng vẫn tồn tại ở các địa phương như tỉnh KonTum, Sơn La, Hải Dương …
Việc chấp hành các thủ tục đầu tư và xây dựng ngày càng được thực hiện tốt hơn, năm sau tốt hơn năm trước, hầu hết các dự án bố trí đều có quyết định đầu tư và các thủ tục đầu tư khác theo quy định của luật pháp về quản lý đầu tư và xây dựng.
3.3.Chống thất thoát, lãng phí trong đầu tư
Ta có bảng số liệu sau đây về tình hình thất thoát, lãng phí trong đầu tư giai đoạn 2003-2006 như sau
Bảng 8 : Tổng hợp số dự án thất thoát lãng phí giai đoạn 2003-2006
Năm
Số dự án có thất thoát, lãng phí
2003
2004
2005
2006
26
6
28
8
Nguồn : Vụ Thẩm định và Giám sát đầu tư - Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Qua bảng trên thấy được:
- Số dự án thất thoát lãng phí lớn nhất trong năm 2005 (do năm này số dự án thực hiện đầu tư cũng tăng mạnh) và thấp nhất trong năm 2004.
- Dự án thất thoát lãng phí có xu hướng được kiểm soát chặt chẽ hơn từ sau năm 2005 (khi đột biến tăng cao vào năm này), là do:
Các Bộ, ngành, địa phương đã rà soát, soạn thảo bổ sung một số cơ chế phù hợp như Quyết định, Chỉ thị, Thông tư nhằm ngăn chặn tình trạng thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng theo thẩm quyền và trách nhiệm quản lý Nhà nước của đơn vị mình.
Chế định trách nhiệm và xử lý trách nhiệm cá nhân trong từng khâu của quá trình đầu tư đã được bổ sung và quy định rõ rang hơn trong các văn bản pháp quy về đầu tư và xây dựng. Những sai phạm trong quản lý đầu tư và xây dựng được đánh giá công bằng, khách quan qua công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát. Cơ chế trách nhiệm cá nhân được quy định trong các điều khoản của pháp luật và xử lý nghiêm minh, triêt để tuỳ theo mức độ, bằng biện pháp hành chính, hình sự và bồi hoàn thiệt hại vật chất.
Trong thời gian qua, việc thành lập và hoàn thiện hệ thống thanh tra đầu tư đã được tiến hành nhanh chóng, kịp thời trên phạm vi cả nước nhằm tạo nên một mạng lưới đồng bộ, hoạt động bước đầu có hiệu quả. Mặc dù mới được thành lập, lực lượng cán bộ kinh nghiệm chuyên môn còn thiếu và yếu nhưng đã nhanh chóng khắc phục khó khăn, tích cực triển khai hoạt động, nhất là việc thực hiện thanh tra, kiểm tra đầu tư và xây dựng.
Tuy nhiên, qua thanh tra và kiểm tra các dự án đầu tư, tình trạng thất thoát, lãng phí trong đầu tư và xây dựng vẫn còn rất bức xúc. Nhiều vụ việc tiêu cực trong lĩnh vực quản lý đầu tư và xây dựng đã được thanh tra, kiểm tra và có những kết luận cụ thể. Một số vụ việc tiêu cực trong ngành dầu khí, giao thông vận tải về quản lý đầu tư xây dựng cơ bản và kinh doanh dịch vụ đã làm thiệt hại cho nhà nước hàng nghìn tỷ đồng ; những vụ việc “rút ruột công trình” một số công trình xây dựng, không đảm bảo chất lượng ở nhiều nơi trong cả nước được phát hiện ngày càng nhiều.
3.4.Xử lý nợ khối lượng đầu tư xây dựng cơ bản bằng nguồn vốn ngân sách
Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ đã chỉ đạo các biện pháp cụ thể và kiên quyết việc xử lý nợ xây dựng cơ bản theo hướng: ngay từ năm 2005, dành một phần quan trọng vốn đầu tư để thanh toán nợ tồn đọng và kiên quyết hạn chế việc phát sinh nợ mới do triển khai gối đầu các công trình mới.
Chấp hành và quán triệt tinh thần chỉ đạo trên, các địa phương đã có cố gắng dành một phần vốn của kế hoạch năm 2005 và tiếp tục bố trí vốn năm 2006 để thanh toán một phần nợ xây dựng cơ bản của các năm trước. Số vốn đã cân đối để thanh toán nợ khối lượng xây dựng cơ bản từ năm 2003 trở về trước là 3828 tỷ đồng ; chiếm gần 9% so với tổng vốn Trung ương giao cho 64 tỉnh, thành phố để thanh toán nợ khối lượng xây dựng cơ bản từ 2004 trở về trước và trả nợ vay kho bạc. Một số địa phương có khối lượng nợ đọng xây dựng cơ bản lớn, đến nay đã cố gắng giải quyết như: Yên Bái, UBND tỉnh An Giang bố trí 100 tỷ đồng năm 2006 để thanh toán một phần nợ xây dựng cơ bản.
3.5.Rà soát, đánh giá hệ thống các văn bản pháp luật về đầu tư
Chính phủ đã tiến hành chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương tiến hành khẩn trương việc tổng rà soát các văn bản pháp quy liên quan đến lĩnh vực quản lý đầu tư và xây dựng, gồm có:
Tổng rà soát các văn bản pháp quy, Quốc hội đã thông qua Luật đầu tư 2005, Luật Đấu thầu, Luật Doanh nghiệp …đang hoàn thiện và sớm trình Chính phủ ban hành các Nghị định hướng dẫn thực hiện các Luật vừa được Quốc hội ban hành nêu trên, đặc biệt là Nghị định về quản lý đầu tư các dự án sử dụng vốn nhà nước.
Rà soát văn bản pháp quy liên quan tới cải cách hành chính, tăng cường công tác phân cấp quản lý theo tinh thần Nghị quyết 08/2004/NQ-CP ngày 30/6/2004 của Chính phủ
Chính phủ đã ban hành Quyết định về quy chế giám sát đầu tư của cộng đồng quy định rõ về quyền, trách nhiệm của cộng đồng và tổ chức hoạt động giám sát của cộng đồng trong việc quản lý dự án đầu tư, nhất là huy động các đoàn thể quần chúng và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Ngoài ra, một số Bộ, ngành và địa phương qua công tác rà soát đánh giá các văn bản pháp quy đã tiếp tục bổ sung, hoàn chỉnh hoặc ban hành những văn bản pháp quy mới để tăng cường quản lý đầu tư và xây dựng có hiệu quả hơn. Điển hình như, UBND tỉnh Nghệ An trong năm qua đã ban hành 9 văn bản trong quản lý đầu tư và xây dựng, trong đó có 5 văn bản về khuyến khích đầu tư, 4 văn bản về chấn chỉnh quản lý đầu tư và xây dựng. Tỉnh Thừa Thiên Huế đã có Quyết định số 4552/2004/QĐ-UB về việc quy định tạm thời phân công, phân cấp giải quyết một số vấn đề trong quản lý đầu tư và xây dựng
Tuy nhiên, vấn đề nổi bật hiện nay là sự chồng chéo giữa các văn bản pháp quy, trong đó có Nghị định 26/2005/NĐ-CP ngày 07/02/2005 (NĐ 16/CP) về quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình. Nghị định 16/CP hướng dẫn thi hành Luật Xây dựng đã đề cập đến nhiều nội dung quản lý xây dựng các công trình từ khâu lập dự án đến khâu hoàn thành đưa công trình vào sử dụng.
Nghị định 16/CP còn bộc lộ những bất cập, nhưng chưa được sửa đổi bổ sung kịp thời, gây khó khăn vướng mắc trong thực tế làm cho công tác giải ngân bị chậm, nhất là trong việc yêu cầu thẩm định thiết kế cơ sở, như quy định về nội dung thiết kế cơ sở áp dụng chung cho tất cả các dự án, cho nên không phù hợp với các loại dự án ODA, dự án của các thành phần kinh tế khác (không dung vốn ngân sách nhà nước). Thủ tục thẩm định còn rườm rà, chưa làm rõ thẩm quyền quyết định cuối cùng dự án thuộc về cơ quan thẩm định thiết kế cơ sở hay cơ quan có thẩm quyền quyết định đầu tư dự án. Trong thời gian tới, khi ban hành các Nghị định mới hướng dẫn thực hiện Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu, những chồng chéo và bất cập nêu trên cần phải được cơ bản khắc phục.
4. Đánh giá công tác giám sát, đánh giá dự án đầu tư giai đoạn 2003-2006 của Vụ Thẩm định và Giám sát đầu tư - Bộ Kế hoạch và Đầu tư
4.1.Kết quả đạt được
Đã triển khai thực hiện công tác giám sát đánh giá đầu tư các dự án nhóm A theo quy định tại Nghị định 07/CP và Thông tư hướng dẫn của Bộ ; đôn đốc các Bộ, ngành, địa phương các chủ đầu tư dự án nhóm A thực hiện báo cáo, tổ chức thực hiện giám sát các dự án …Bước đầu đã hình thành quy trình thực hiện giám sát, đánh giá dự án và giám sát tổng thể đầu tư, giám sát chuyên đề một số loại dự án.
Thực hiện một số các báo cáo chuyên đề như giám sát các dự án giao thông đường bộ. đường Hồ Chí Minh ; tham gia với các Bộ quản lý ngành thực hiện một số chương trình giám sát đầu tư chuyên đề khác như các dự án thuỷ lợi, các dự án giáo dục, lâm nghiệp …
Thực hiện giám sát một số dự án nhóm A kết hợp với việc xem xét điều chỉnh dự án. Trên cơ sở báo cáo của các Bộ, ngành, địa phương và các an quản lý, Vụ đã theo dõi, xem xét tình hình thực hiện nhiều dự án nhóm A để báo cáo Thủ tướng Chính phủ chấp thuận cho phép điều chỉnh dự án. Đã phối hợp với các Bộ, ngành liên quan cùng chủ đầu tư và ban quản lý dự án thực hiện giám sát đầu tư nhiều chương trình dự án thuộc các ngành và các địa phương như: giao thông, thuỷ lợi, nông nghiệp, kết cấu hạ tầng và dịch vụ đô thị, y tế, giáo dục. Đã thực hiện giám sát nhiều dự án quan trọng như: dự án giao thông (đường Hồ Chí Minh, các dự án Nam Sông Hậu ; cầu Cần Thơ, cải tạo nâng cấp các đường tỉnh lộ 18 tỉnh phía bắc), nhiều dự án quan trọng trong lĩnh vực y tế, giáo dục (dự án Y tế nông thông, dự án sản xuất văcxin sởi, dự án phát triển giáo viên tiểu học …), các dự án phát triển và kinh doanh cơ sở kỹ thuật hạ tầng khu công nghiệp, khu đô thị, các công trình công nghiệp, công trình văn hoá xã hội quan trọng khác (các dự án cụ thể đã được nêu trong báo cáo của từng chuyên viên).Qua giám sát đầu tư đã nêu ý kiến về những tồn tại, thiếu sót trong công tác quản lý dự án, đánh giá các vấn đề phát sinh và đề xuất các biện pháp khắ phục khó khăn, trở ngại đẩy mạnh tiến độ thực hiện đầu tư. Nhiều trong số các dự án đã thực hiện giám sát nói trên đã có báo cáo Thủ tướng Chính phủ phản ánh kịp thời tình hình kiến nghị các giải pháp xử lý cụ thể để đảm bảo điều kiện thực hiện tốt dự án.
Thực hiện giám sát tổng thể tình hình đầu tư trong cả nước và thực hiện giám sát một số dự án nhóm A, trong đó có những dự án quan trọng quốc gia. Báo cáo định kỳ giám sát tổng thể đầu tư được quan tâm chỉ đạo thực hiện theo quy định.
Việc thực hiện giám sát đầu tư đã đạt được kết quả bước đầu, cả giám sát tổng thể cũng như giám sát dự án. Kết quả giám sát tổng thể đã góp phần phản ánh, cung cấp thêm thông tin tình hình quản lý đầu tư của các bộ, ngành, địa phương làm cơ sở để tìm kiếm giải pháp chấn chỉnh kịp thời. Kết quả giám sát đầu tư đã được phản ánh trong các báo cáo quan trọng của Bộ trình Chính phủ và Quốc hội. Nhiều dự án nhóm A sau khi thực hiện giám sát, đánh giá đã phát hiện những vấn đề cần xử lý, đề xuất các biện pháp tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy tiến độ nhằm đảm bảo hiệu quả đầu tư. ngoài ra, Vụ đã tham gia cùng với các đơn vị trong Bộ, các bộ, ngành liên quant ham gia các hoạt động giám sát, thanh tra một số dự án theo yêu cầu của Chính phủ.
4.2.Những tồn tại, hạn chế
Mặc dù có nhiều cố gắng song công tác giám sát và đánh giá dự án đầu tư chỉ mới bắt đầu được tiến hành thực hiện một cách chính thức (bao gồm cả báo cáo đánh giá tổng thể lẫn báo cáo dự án đầu tư) từ năm 2004. Do vậy, Vụ Thẩm định và Giám sát đầu tư vẫn còn thiếu sót trong công tác giám sát đánh giá:
Công tác giám sát, đánh giá đầu tư còn nhiều hạn chế ; Sự quản lý, theo dõi của lãnh đạo Vụ chưa thường xuyên, chưa kiểm tra đôn đốc tích cực thúc đẩy công việc nên số lượng dự án và các chuyên đề giám sát thực hiện được ít.
Tổ chức thông tin trong Vụ chưa tốt, chưa hoàn thành được công việc xây dựng cơ sở dữ liệu phục vụ công tác thẩm định và giám sát đầu tư, tổ chức kiểm tra điều hành công việc trong Vụ
Tuy xác định nhiệm vụ giám sát, đánh giá đầu tư là công tác trọng tâm, nhưng chưa tập trung vào việc thực hiện công tác này nên kết quả còn hạn chế: nội dung báo cáo giám sát tổng thể chưa sâu, chưa cụ thể ; chưa chủ động trong việc tổ chức giám sát các dự án nhóm A (chưa xây dựng được kế hoạch và cơ sở dữ liệu về các dự án cần theo dõi, giám sát) ; số lượng dự án Nhóm A được giám sát còn ít.
Việc triển khai công tác giám sát, đánh giá đầu tư còn lung túng, kết quả thực hiện chưa nhiều ; còn có một số trường hợp thực hiện công việc chậm chưa đáp ứng yêu cầu.
Số lượng các đơn vị tiến hành nộp báo cáo còn chưa đầy đủ và thiếu nghiêm túc. Ngoài ra, chất lượng báo cáo nộp còn thiếu chính xác, chất lượng thấp không phản ánh đầy đủ.
Số đơn vị báo cáo đầy đủ nội dung theo quy định còn ít, Báo cáo giám sát đánh giá đầu tư của một số Bộ, địa phương có chất lượng và nội dung cụ thể không nhiều. Nội dung báo cáo sơ sài, thiếu số liệu và phân tích đánh giá tình hình, thiếu đề xuất các biện pháp, nên hiệu quả thực tế của công tác giám sát, đánh giá đầu tư chưa đạt được yêu cầu đề ra. Chất lượng các báo cáo chưa đạt yêu cầu là do công tác giám sát, đánh giá đầu tư triển khai tại các đơn vị nêu trên chưa được quán triệt đầy đủ ; báo cáo của các chủ đầu tư dự án mang tính hình thức, thiếu các thông tin chi tiết, nên báo cáo tổng hợp của các Bộ, ngành cũng không có số liệu cụ thể. Tình hình trên đã hạn chế việc phân tích đánh giá tình hình đầu tư chung trong cả nước và không đạt được mục tiêu giám sát, đánh giá đầu tư ; công tác giám sát, đánh giá chưa đạt được kết quả mong đợi, cần có giải pháp đột phá và tiếp tục được chấn chỉnh mạnh mẽ hơn.
Việc tham gia xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách về quản lý đầu tư đã có nhiều cố gắng nhưng vẫn còn lúng túng trong việc tổ chức thực hiện, tranh thủ ý kiến của lãnh đạo và chuyên gia ; chưa tập trung nghiên cứu và thúc đẩy tiến độ.
Có một số nguyên nhân của tình trạng trên, cụ thể là:
Về khách quan:
+ Thực tế, khối lượng công việc thẩm định, thẩm tra dự án không giảm, các cán bộ, chuyên viên phải thực hiện theo yêu cầu thời gian thẩm định, do đó quỹ thời gian dành cho công tác giám sát, đánh giá đầu tư bị hạn chế nên chưa thực hiện tốt nhiệm vụ này. Đồng thời, quy trình làm việc chung trong Bộ liên quan đến công tác giám sát đầu tư chưa được hoàn thiện và ban hành chính thức, do đó sự phân công phối hợp chưa rõ ràng giữa các đơn vị trong Bộ
+Phối hợp giữa các Bộ, ngành chưa tốt, nhiều yêu cầu triển khai công tác giám sát chưa được sự quan tâm của các bộ, ngành và chủ đầu tư ; còn sự chồng chéo và chưa thống nhất trong hoạt động này giữa các bộ, nên hiệu quả giám sát chưa cao. Thiếu chế tài đủ mạnh để các bộ, ngành và địa phương thực hiện đầy đủ và nghiêm túc công tác giám sát, đánh giá đầu tư
+ Báo cáo của các bộ, ngành, địa phương chưa đáp ứng yêu cầu về thời gian và nội dung báo cáo.
+ Năng lực và kinh nghiệm của Vụ còn hạn chế.
Về chủ quan:
+ Chỉ đạo, lãnh đạo chưa cân đối giữa nhiệm vụ thẩm định và giám sát đánh giá đầu tư
+ Chuyên viên chưa thực hiện đúng kế hoạch công tác về giám sát đầu tư ; một số cán bộ, chuyên viên thiếu theo dõi liên tục, chưa theo dõi sát tiến độ thực hiện đầu tư, chưa nghiên cứu kỹ các báo cáo của chủ đầu tư hay của ngành.
+ Chưa tổ chức tổng kết, rút kinh nghiệm về công tác giám sát, đánh giá đầu tư để bổ túc nghiệp vụ cho các cán bộ, khắc phục kịp thời các thiếu sót, đẩy mạnh công tác này.
Chương II: Kiến nghị, giải pháp nâng cao chất lượng công tác giám sát, đánh giá đầu tư tại Vụ Thẩm định và Giám sát đầu tư - Bộ Kế hoạch và Đầu tư
I. Bối cảnh công tác giám sát, đánh giá đầu tư của Vụ Thẩm định và Giám sát đầu tư trong những năm sắp tới
Trong những năm sắp tới, hoạt động chính của Vụ có những điểm khác và mới mẻ hơn sau đây: - Đại hội Đảng lần thứ 10 đã có chủ trương, đường lối, chính sách đổi mới phát triển kinh tế và về cơ chế quản lý kinh tế. Đây là những điều kiện thuận lợi nhưng đồng thời cũng là những yêu cầu mới cần được nhận thức đầy đủ và vận dụng trong công việc cụ thể của Vụ.
- Các luật mới liên quan đến hoạt động đầu tư (Luật Doanh nghiệp, Luật đầu tư, Luật đấu thầu) có những thay đổi nhất định trong quản lý đầu tư ảnh hưởng trực tiếp đến công tác thẩm định và giám sát đầu tư (thực hiện triệt để phân cấp quản lý đầu tư, tăng cường công tác hướng dẫn, kiểm tra, giám sát). Đồng thời năm 2007 Chính phủ và Quốc hội sẽ tiếp tục chỉ đạo đẩy mạnh thực hiện công tác giám sát đàu tư ; nhiệm vụ giám sát, đánh giá đầu tư nặng nề hơn.
- Trình độ chuyên môn và kinh nghiệm công tác đã được nâng cao một ước song lực lượng cán bộ của Vụ giảm nhiều chưa được bổ sung theo yêu cầu nhiệm vụ.
- Việc phân cấp thẩm định ngày càng mạnh mẽ cho các bộ, ngành liên quan, cũng như các địa phương.
- Hoạt động của Vụ có nhiều điểm mới, thay đổi đáng kể so với năm 2006 trở về trước. Từ năm 2007, Vụ Thẩm định và Giám sát đầu tư sẽ chỉ tiến hành nhận hồ sơ và thẩm định các dự án sau:
Dự án quan trọng cấp quốc gia
Các chương trình mục tiêu quốc gia
Các dự án đầu tư ra nước ngoài
Các dự án thuộc chiến lược quy hoạch dài hạn
Ngoài ra Vụ vẫn tiến hành nhiệm vụ giám sát đầu tư của mình. Các dự án ODA, dự án đầu tư trong nước nhóm A được phân cấp cho các Bộ, ngành, địa phương. Vụ chỉ tiến hành giám sát và quản lý hoạt động đầu tư có tính định hướng, không trực tiếp can thiệp vào các dự án này.
- Ngoài ra, Vụ hoạt động dựa trên tinh thần có nhiều Nghị định và Luật mới được Quốc hội và Chính phủ ban hành như:
Nghị định 16 và Nghị định 12 NĐ-CP về quản lý dự án đầu tư xây dựng
Nghị định 131 về quản lý hỗ trợ chính thức ODA (mới có hiệu lực từ tháng 12/2006)
Nghị định 108 về hướng dẫn luật đầu tư
Nghị định 111 về quản lý đấu thầu.
II.Kiến nghị và giải pháp nâng cao chất lượng công tác giám sát đánh giá dự án tại Vụ Thẩm định và Giám sát đầu tư - Bộ Kế hoạch và Đầu tư
1. Định hướng chung trong cả nước về công tác giám sát, đánh giá dự án đầu tư
a. Định hướng chung đầu tư trong cả nước thời kỳ 2006-2010
-Tiếp tục tập trung đầu tư nhằm chuyển đổi mạnh cơ cấu sản xuất theo hướng hiệu quả, phát huy được lợi thế từng ngành, từng vùng, từng sản phẩm ; tăng cường trang thiết bị có công nghệ tiên tiến, hiện đại hoá từng phần các ngành sản xuất công nghiệp, trước hết tập trung các ngành và sản phẩm công nghiệp có lợi thế cạnh tranh.
- Tăng cường đầu tư phát triển nguồn nhân lực: hoàn thiện, nâng cấp và tăng cường đầu tư thiết bị dạy và học hệ thống giáo dục phổ thông ; từng bước hiện đại hoá hệ thống giáo dục đại học, cao đẳng. Tăng cường đầu tư chiều sâu và hiện đại hoá các cơ sở nghiên cứu khoa học, công nghệ.
- Chú trọng đầu tư cho hậ tầng các ngành kinh tế, xã hội, tập trung lĩnh vực giao thông, viễn thông, phát triển nguồn năng lượng, hệ thống thuỷ lợi đầu mối, phát triển cơ sở hạ tầng nông thông, gắn đầu tư mở rộng sản xuất nông nghiệp đồng bộ hoá với phát triển công nghiệp chế biến. Đầu tư phát triển hạ tầng du lịch gắn với tôn tạo di tích cách mạng, di tích lịch sử, văn hoá ; đầu tư bảo vệ môi trường sinh thái, giảm nhẹ thiên tai, phát triển hạ tầng đô thị.
- Tổ chức thực hiện có hiệu quả, theo đúng tiến độ các dự án, công trình quan trọng quốc gia đã được Quốc hội thông qua chủ trương đầu tư và các dự án đã được phê duyệt, các chương trình mục tiêu quốc gia. Việc thực hiện các dự án, công trình, chương trình quan trọng phải nhằm thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đã đề ra trong kế hoạch 5 năm 2006-2010 ; tập trung vào các mục tiêu tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giảm nghèo, tạo việc làm, phát triển giáo dục, đào tạo, dạy nghề, phòng chống dịch bệnh và chăm sóc sức khoẻ nhân dân.
b. Định hướng chung cả nước về công tác giám sát, đánh giá đầu tư
Trong tình hình hiện nay, khi đất nước ta đã trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới WTO, vấn đề cạnh tranh đặt ra bức xúc hơn lúc nào hết. Để có thể vững chắc gia nhập vào nền kinh tế thế giới, một mặt cần thúc đẩy phát triển kinh tế, mặt khác để những cố gắng trên thực sự trở thành thành quả kinh tế của đất nước Việt Nam, việc giám sát các dự án đầu tư rất quan trọng. Qua công tác giám sát có thể tiến hành đánh giá để từ đó rút ra bài học kinh nghiệm về sau.
Mặc dù kinh nghiệm về giám sát, đánh giá dự án đầu tư của nước ta còn nhiều hạn chế song hiện nay nước ta đã từng bước thiết lập cơ chế giám sát đánh giá như Nghị định 131 về quản lý các dự án ODA, thông tư 03/2003 hướng dẫn công tác giám sát, đánh giá đầu tư. Mục tiêu trong quá trình phân cấp quản lý hiện nay là ngày càng cho các đơn vị đầu tư tự chủ, Nhà nước chỉ tiến hành quản lý ở tầm vĩ mô. Đây là định hướng rất chiến lược trong giai đoạn hiện nay khi nền kinh tế mở cửa. Nó cho thấy rõ khả năng được độc lập tự chủ đầu tư của các thành phần kinh tế trong khuôn khổ luật pháp Nhà nước định ra, đồng thời việc phân cấp quản lý cũng ràng buộc chặt chẽ trách nhiệm của các đơn vị thực hiện giám sát, đánh giá đầu tư. Định hướng của nước ta trong giai đoạn tới đối với công tác giám sát, đánh giá đầu tư có những điểm nổi bật sau đây:
Công tác giám sát, đánh giá đầu tư phải nhằm mục tiêu đảm bảo các dự án đầu tư được giám sát một cách chặt chẽ, đảm bảo đầu tư phải phù hợp quy hoạch và mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của từng thời kỳ.
Công tác giám sát, đánh giá đầu tư phải đảm bảo giúp các cơ quan quản lý Nhà nước phân tích, đánh giá các hoạt động đầu tư để từ đó rút kinh nghiệm, đề xuất được các giải pháp, chính sách cũng như biện pháp thích hợp trong từng thời kỳ để nâng cao hiệu quả đầu tư.
Công tác giám sát, đánh giá đầu tư một mặt giúp các ngành, các địa phương và chủ đầu tư chuẩn bị và thực hiện dự án đầu tư theo đúng quy định, có hiệu quả, mặt khác giúp đỡ giải quyết những vấn đề khó khăn, vướng mắc và hạn chế những sai lầm, lãng phí, thất thoát trong đầu tư.
Nhà nước quản lý toàn diện đầu tư bằng cách tạo ra khung khổ pháp lý, định ra các tiêu chuẩn, tiêu chí đầu tư và tổ chức hướng dẫn thực hiện, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát toàn bộ các khâu của quá trình đầu tư. Ban hành các quy định pháp lý và tổ chức thực hiện tốt các chế tài đối với các vi phạm của các tổ chức, cá nhân trong quản lý đầu tư xây dựng, bao gồm cả việc xử lý hình sự, nhằm ngăn chặn và khắc phục tình trạng tiêu cực, thất thoát lãng phí, tham nhũng … trong đầu tư xây dựng cơ bản.
c.Nhiệm vụ chủ yếu của công tác giám sát, đánh giá đầu tư tại Vụ Thẩm định và Giám sát đầu tư trong thời kỳ tới
Xây dựng kế hoạch hoạt động theo từng lĩnh vực công tác, trong đó xác định rõ phạm vi và trách nhiệm trong từng công việc cụ thể để tổ chức thực hiện đầy đủ nội dung và trách nhiệm của từng cán bộ, chuyên viên ; Hoàn thành đúng tiến độ xây dựng các đề án công tác được Bộ giao, đặc biệt là việc xây dựng Luật đầu tư công ; Tham gia đào tạo hệ thống cán bộ thẩm định và giám sát đầu tư theo kế hoạch của Bộ.
Hoàn thiện quy trình mẫu thực công tác thẩm tra, thẩm định, giám sát đầu tư theo yêu cầu quy định (có tiêu chí, tiêu chuẩn, mẫu hoá các loại văn bản, báo cáo)
Thực hiện đúng quy trình, tăng cường công tác quản lý tiến độ (chỉ đạo theo dõi, kiểm tra, đôn đốc), chủ động phối hợp chặt chẽ với các đơn vị trong và ngoài cơ quan để đẩy nhanh tiến độ thẩm định dự án, quy hoạch.
Tăng cường hợp tác, phối hợp với các cơ quan đơn vị trong và ngoài cơ quan, trao đổi, rút kinh nghiệm trong các lĩnh vực nghiệp vụ để rút ngắn thời gian và nâng cao chất lượng công tác.
Tích cực chủ động triển khai công tác giám sát đầu tư trên tất cả các mặt:
Tiếp tục hoàn thiện Cơ sở dữ liệu về các dự án đầu tư cần theo dõi, giám sát (thiết lập phần mềm quản lý và thu thập thông tin) ; xây dựng mạng thông tin về công tác giám sát, đánh giá đầu tư.
Phân công trách nhiệm rõ ràng cho cán bộ, chuyên viên về theo dõi, giám sát các cán bộ, chuyên viên về theo dõi, giám sát các dự án đầu tư
Lập kế hoạch và tổ chức thực hiện công tác giám sát đầu tư thường xuyên (giám sát các dự án nhóm A) và chế độ báo cáo định kỳ theo quy định ; đưa công tác giám sát đầu tư đi vào nền nếp.
Tổ chức nghiên cứu, trao đổi kinh nghiệm với các Bộ, ngành, địa phương về giám sát, đánh giá đầu tư ; Phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng cán bộ về công tác giám sát đầu tư.
Đề xuất trình lãnh đạo Bộ và triển khai đề án giám sát tổng thể đầu tư toàn quốc và một vài ngành điểm
2.Tăng cường phân cấp trong quản lý đầu tư
Cần tiếp tục đẩy mạnh tăng cường phân cấp trong quản lý hoạt động đầu tư cho các cấp, các ngành sao cho phù hợp với yêu cầu về cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, đơn giản hoá các thủ tục đầu tư. Công tác giám sát, đánh giá đầu tư không thể chỉ một bộ phận cơ quan Nhà nước thực hiện (do không đủ khả năng cũng như không đủ thời gian) mà cần phải chia sẻ cho các cấp, các ngành. Đi đôi với việc phân cấp trong quản lý đầu tư, cần xác định rõ trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân, ban hành chế tài đủ mạnh nhằm nâng cao trách nhiệm của các chủ thể tham gia vào quá trình hoạt động đầu tư.
3.Nhóm kiến nghị giải pháp về hệ thống thực hiện giám sát, đánh giá đầu tư
3.1.Tổ chức hệ thống giám sát, đánh giá chặt chẽ từ cấp Trung ương xuống địa phương
Vụ Thẩm định và Giám sát đầu tư là đơn vị làm đầu mối thực hiện các nhiệm vụ về giám sát, đánh giá đầu tư của Bộ, phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương và chủ đầu tư, cung cấp các thông tin, hướng dẫn nghiệp vụ và xử lý các vấn đề về giám sát, đánh giá đầu tư.
Các Bộ, ngành chỉ định đơn vị (Vụ hoặc Ban kế hoạch) chịu trách nhiệm thường xuyên về giám sát, đánh giá đầu tư của Bộ, ngành ; hướng dẫn thực hiện giám sát, đánh giá đầu tư đối với các đơn vị trực thuộc, các dự án được Bộ, ngành phân cấp hoặc uỷ quyền cho cấp dưới.
Các Tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương do Sở Kế hoạch và Đầu tư chịu trách nhiệm thường xuyên thực hiện các nhiệm vụ về giám sát, đánh giá đầu tư của tỉnh, thành phố ; hướng dẫn thực hiện giám sát, đánh giá đầu tư đối với các cấp, đơn vị trực thuộc, các dự án được Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố phân cấp hoặc uỷ quyền cho cấp dưới.
Doanh nghiệp, Chủ đầu tư, Ban quản lý dự án chỉ định bộ phận chịu trách nhiệm thường xuyên thực hiện các nhiệm vụ về giám sát, đánh giá đầu tư đối với các dự án thuộc phạm vi quản lý của mình.
* Giám sát của cộng đồng
Bên cạnh việc giám sát thường xuyên, trực tiếp của các cơ quan quản lý nhà nước, chủ các chương trình, các dự án đầu tư (kể cả dự án của tư nhân) sau khi quyết định đầu tư phải công bố công khai nội dung quyết định đầu tư, chương trình kế hoạch đầu tư (tên dự án, quy mô xây dựng, phạm vi chiếm đất, vốn đầu tư, nguồn vốn, chủ đầu tư, tiến độ thực hiện …) tại địa điểm thực hiện đầu tư, trụ sở Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân địa phương nơi có dự án, đồng thời thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng.
Chủ đầu tư có trách nhiệm báo cáo với Hội đồng nhân dân địa phương các cấp về các nội dung cơ bản của dự án để Hội đồng nhân dân và nhân dan địa phương giám sát. Dự án của các ngành, cơ quan trung ương phải thông báo cho Hội đồng nhân dân cấp tỉnh nơi có dự án ; Dự án của các ngành và cơ quan cấp tỉnh phải thông báo cho Hội đồng nhân dân cấp huyện nơi có dự án ; Dự án của các ngành và cơ quan cấp huyện phải thông báo cho Hội đồng nhân dân cấp xã nơi có dự án để Hội đồng nhân dân các cấp tổ chức giám sát. Dự án do xã làm chủ đầu tư phải công khai trong cộng đồng nhân dân xã đó.
Nhà nước phải khuyến khích cộng đồng dân cư tham gia giám sát việc thực hiện dự án theo quyết định đầu tư và các quy định của Nhà nước, góp phần làm cho việc thực hiện dự án đúng quy định, tiết kiệm, có hiệu quả.
Giám sát của cộng đồng dân cư thông qua các tổ chức xã hội, đoàn thể quần chúng và Hội đồng nhân dân các cấp, Hội đồng nhân dân các cấp, các tổ chức xã hội có thể gửi ý kiến về dự án đến cơ quan được giao là đầu mối tổ chức thực hiện giám sát, đánh giá đầu tư các cấp. Dự án do cấp nào quản lý thì ý kiến giám sát cộng đồng được gửi về cơ quan đầu mối giám sát đầu tư cấp ấy.
Mặt khác, các cơ quan tiếp nhận ý kiến phải có trách nhiệm xem xét, kiến nghị xử lý những vấn đề phát sinh và thông báo các kết luận tới nơi gửi ý kiến đóng góp.
3.2.Ban hành các quy định về giám sát, đánh giá đầu tư
a) Quy định về chế độ báo cáo giám sát, đánh giá đầu tư
Để có báo cáo giám sát đánh giá đầu tư có chất lượng, phản ánh đúng tình hình thực tế thì Nhà nước cần có quy định chung về chế độ báo cáo giám sát, đánh giá đầu tư, cụ thể là:
Các Bộ, ngành, địa phương định kỳ báo cáo Thủ tướng Chính phủ về giám sát, đánh giá tổng thể đầu tư 6 tháng một lần, đồng thời gửi đến Bộ Kế hoạch đầu tư để tổng hợp. Các đơn vị trực thuộc Bộ, ngành, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện chế độ báo cáo thường xuyên theo quy định của các Bộ, ngành và địa phương.
Chủ đầu tư thực hiện báo cáo quý, 6 tháng và năm cho cơ quan đầu mối thực hiện giám sát, đánh giá đầu tư của Bộ, ngành, tỉnh chủ quản của mình ; chủ đầu tư dự án của các Bộ, ngành đồng thời gửi báo cáo cho cơ quan đầu mối thực hiện giám sát, đánh giá đầu tư của địa phương nơi thực hiện dự án.
Riêng chủ đầu tư dự án nhóm A ngoài việc lập và gửi báo cáo giám sát, đánh giá đầu tư dự án đến cơ quan đầu mối thực hiện giám sát, đánh giá đầu tư của các Bộ, ngành và địa phương, đồng thời gửi đến Bộ Kế hoạch và Đầu tư báo cáo quý, 6 tháng, năm để tổng hợp báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
Đối với các dự án hoàn thành đưa vào hoạt động, chủ đầu tư phải lập báo cáo đánh giá kết thúc quá trình đầu tư không chậm hơn 6 tháng kể từ khi hoàn thành đưa dự án vào khai thác, sử dụng theo nội dung quy định và gửi đến các cơ quan thực hiện giám sát, đánh giá đầu tư của các Bộ, ngành và địa phương trực thuộc và Bộ Kế hoạch và Đầu tư (đối với dự án nhóm A).
Các chủ đầu tư chịu trách nhiệm báo cáo đánh giá quá trình khai thác, vận hành dự án theo nội dung quy dịnh gửi đến các cơ quan thực hiện giám sát, đánh giá đầu tư của các Bộ, ngành và địa phương trực thuộc và đồng thời gửi đến Bộ Kế hoạch và Đầu tư (đối với dự án nhóm A).
Ban quản lý dự án thực hiện báo cáo giám sát, đánh giá đầu tư dự án do mình quản lý theo quy định của chủ đầu tư.
b) Quy định về văn bản quy phạm pháp luật có liên quan tới hoạt động giám sát, đánh giá đầu tư
Kiến nghị đề ra về nhiều mặt, chủ yếu để tạo một khung cơ bản cho hoạt động giám sát, đánh giá đầu tư:
Về tổ chức thực hiện: Những cơ quan không gửi Báo cáo giám sát đánh giá hoặc gửi Báo cáo giám sát đánh giá nhưng không đầy đủ, thiếu khách quan trong các năm qua phải kiểm điểm, báo cáo Thủ tướng chính phủ về nguyên nhân cũng như trách nhiệm của các đơn vị, cá nhân liên quan ; Có giải pháp chấn chỉnh bộ máy và quy trình thực hiện công tác giám sát, đánh giá đầu tư trong phạm vi quản lý của mình ; thực hiện nghiêm túc chế độ báo cáo định kỳ và nội dung báo cáo theo quy định.
Về chế tài thực hiện: Bổ sung chế tài đủ mạnh để các đơn vị giám sát, đánh giá đầu tư phải chấp hành nghiêm túc theo hương:
Chống “khép kín” trong công tác giám sát, đánh giá đầu tư
Gắn công tác giám sát, đánh giá đầu tư với công tác thanh qyết tán vốn đầu tư dự án, điều chỉnh dự án đầu tư.
Bổ sung các quy định về hình thức kỷ luật và trách nhiệm của các cá nhân đơn vị liên quan về thực hiện chế độ báo cáo và chất lượng báo cáo.
Về công tác quy hoạch: Sớm ban hành Nghị định hướng dẫn về quy hoạch ; các Bộ, ngành, địa phương tổ chức rà soát, sửa đổi, bổ sung và điều chỉnh các quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội vùng kinh tế, vùng kinh tế trọng điểm, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, thành phố ; quy hoạch phát triển một số ngành quan trọng, một số sản phẩm chủ yếu. Quy hoạch phải đảm bảo đi trước một bước trước khi tiến hành đầu tư, nếu không sẽ gây ra tình trạng xây dựng tràn lan, không đúng quy hoạch gây thất thoát lãng phí.
Về ban hành mới, sửa đổi bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan: Rà soát các văn bản pháp quy hiện hành, loại bỏ các văn bản trái pháp luật hoặc nội dung không còn phù hợp ; sửa đổi, bổ sung Nghị định 16/CP về dự án đầu tư xây dựng công trình ; ban hành các văn bản mới theo tinh thần Nghị quyết của Quốc hội và Chính phủ, nhằm đảm bảo tính đồng bộ của các văn bản pháp quy và hài hoà thủ tục với các quy định của các nhà tài trợ nước ngoài (Luật và Nghị định về quản lý sử dụng vốn ngân sách nhà nước, vốn ODA …).
Nâng cao chất lượng công tác quản lý đầu tư, xây dựng ở tất cả các khâu trong quá trình đầu tư xây dựng: Tăng cường công tác kiểm tra giám sát và đánh giá đầu tư. Các Bộ, ngành, địa phương thực hiện giám sát ngay từ khâu quy hoạch, lập dự án, thẩm định, bố trí vốn đầu tư, đảm bảo tuân thủ theo quy hoạch, kế hoạch được duyệt ; Khẩn trương triển khai công tác giám sát cộng đồng đối với đầu tư bằng nguồn vốn nhà nước ; Thực hiện đầy đủ công tác giám sát, đánh giá tổng thể đầu tư theo yêu cầu của Quốc hội, Chính phủ, xây dựng chương trình cụ thể triển khai công tác đánh giá đầu tư của ngành và địa phương (cả tổng thể và theo từng dự án đầu tư).Chủ động đề xuất các giải pháp cụ thể hữu hiệu phù hợp với đặc thù của đơn vị mình, nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư khắc phục những tồn tại về thất thoát, lãng phí, chậm tiến độ trong đầu tư, xây dựng.
Để khắc phục từng b
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- DT11.docx