Tài liệu Đề tài Nâng cao chất lượng cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp tại chi nhánh ngân hàng công thương tỉnh Phú Thọ: MỤC LỤC
CÁC TỪ VIẾT TẮT
NHTM: Ngân hàng thương mại
NHNN: Ngân hàng Nhà nước
NHCT: Ngân hàng Công thương
TSCĐ: Tài sản cố định
TSNH: Tài sản ngắn hạn
TSDH: Tài sản dài hạn
TSĐB: Tài sản đảm bảo
TG: Tiền gửi
TGTK: Tiền gửi tiết kiệm
TCKT: Tổ chức kinh tế
CV: Cho vay
DNQD: Doanh nghiệp quốc doanh
DNNQD: Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
DNNN: Doanh nghiệp nhà nước
XLRR: Xử lý rủi ro
TNHH: Trách nhiệm hữu hạn
TNHH NN: Trách nhiệm hữu hạn nhà nước
TNHH TN: Trách nhiệm hữu hạn tư nhân
CP: Cổ phần
CP NN: Cổ phần Nhà nước
DNTN: Doanh nghiệp tư nhân
Cho vay ngắn hạn: Cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp
Chi nhánh/ Ngân hàng: chi nhánh ngân hàng công thương tỉnh Phú Thọ
DANH SÁCH SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ, BẢNG BIỂU
1. Sơ đồ
Sơ đồ 1: Mô hình tổ chức bộ máy kinh doanh NHCT Phú Thọ
Sơ đồ 2: Cơ cấu tổ chức NHCT Phú Thọ
2. Biểu đồ
Biểu đồ 1: Cơ cấu dư nợ cho vay ngắn hạn theo thành phần kinh tế
Biểu đồ 2: So sánh cơ cấu tỷ trọng các thành phần trong khối DNQD
Biểu đồ 3: Cơ cấu dư...
102 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1149 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Nâng cao chất lượng cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp tại chi nhánh ngân hàng công thương tỉnh Phú Thọ, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
CÁC TỪ VIẾT TẮT
NHTM: Ngân hàng thương mại
NHNN: Ngân hàng Nhà nước
NHCT: Ngân hàng Công thương
TSCĐ: Tài sản cố định
TSNH: Tài sản ngắn hạn
TSDH: Tài sản dài hạn
TSĐB: Tài sản đảm bảo
TG: Tiền gửi
TGTK: Tiền gửi tiết kiệm
TCKT: Tổ chức kinh tế
CV: Cho vay
DNQD: Doanh nghiệp quốc doanh
DNNQD: Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
DNNN: Doanh nghiệp nhà nước
XLRR: Xử lý rủi ro
TNHH: Trách nhiệm hữu hạn
TNHH NN: Trách nhiệm hữu hạn nhà nước
TNHH TN: Trách nhiệm hữu hạn tư nhân
CP: Cổ phần
CP NN: Cổ phần Nhà nước
DNTN: Doanh nghiệp tư nhân
Cho vay ngắn hạn: Cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp
Chi nhánh/ Ngân hàng: chi nhánh ngân hàng công thương tỉnh Phú Thọ
DANH SÁCH SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ, BẢNG BIỂU
1. Sơ đồ
Sơ đồ 1: Mô hình tổ chức bộ máy kinh doanh NHCT Phú Thọ
Sơ đồ 2: Cơ cấu tổ chức NHCT Phú Thọ
2. Biểu đồ
Biểu đồ 1: Cơ cấu dư nợ cho vay ngắn hạn theo thành phần kinh tế
Biểu đồ 2: So sánh cơ cấu tỷ trọng các thành phần trong khối DNQD
Biểu đồ 3: Cơ cấu dư nợ ngắn hạn của các DNNQD theo thành phần
Biểu đồ 4: So sánh tốc độ gia tăng của nợ xấu ngắn hạn với tổng dư nợ cho vay
3. Bảng biểu
Bảng 1: Tình hình huy động vốn của NHCT Phú Thọ giai đoạn 2006-2008
Bảng 2: So sánh tăng trưởng vốn huy động giữa các năm
Bảng 3: Tình hình cho vay của NHCT Phú Thọ giai đoạn 2006-2008
Bảng 4: Trạng thái các khoản vay
Bảng 5: Kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng qua các năm
Bảng 6: Dư nợ ngắn hạn đối với DNQD và DNNQD
Bảng 7: Cơ cấu cho vay ngắn hạn đối với thành phần DNQD
Bảng 8: Cơ cấu cho vay ngắn hạn đối với các DNNQD
Bảng 9: So sánh cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp giữa các năm
Bảng 10: Vòng quay vốn ngắn hạn của ngân hàng
Bảng 11: Dư nợ ngắn hạn quá hạn đối với doanh nghiệp từ 2006 – 2008
Bảng 12: Nợ xấu cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp năm 2006-2008
Bảng 13: Mức sinh lời của đồng vốn cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp từ 2006 – 2008
Bảng 14: Tỷ lệ thu nhập tư cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp so với tổng thu nhập của ngân hàng từ 2006 – 2008.
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong các hoạt động của ngân hàng thương mại (NHTM), cho vay là hoạt động chủ yếu. Trong những năm gần đây, các ngân hàng thương mại đã mở rộng cho vay trung và dài hạn, song cho vay ngắn hạn vẫn luôn là hoạt động chủ đạo, đặc biệt là đối với thị trường ngân hàng – tài chính Việt Nam.
Trong cho vay ngắn hạn, việc mở rộng quy mô cho vay không thể tách rời việc nâng cao chất lượng cho vay. Do đó, nâng cao chất lượng cho vay là yêu cầu cấp thiết đối với sự tồn tại và phát triển của NHTM, là yêu cầu của nền kinh tế.
Tại chi nhánh ngân hàng công thương tỉnh Phú Thọ, do đặc trưng là ngân hàng phục vụ cho công nghiệp và thương mại nên cho vay ngắn hạn nói chung và cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp nói riêng là khoản mục cho vay có tỉ trọng lớn nhất. Từ những vấn đề trên, em đã chọn đề tài: “Nâng cao chất lượng cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp tại chi nhánh ngân hàng công thương tỉnh Phú Thọ” làm chuyên đề tốt nghiệp cho mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu:
Mục tiêu nghiên cứu của chuyên đề là làm rõ lí luận về chất lượng cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp của ngân hàng thương mại, bước đầu đưa lí luận kiểm nghiệm, áp dụng trong thực tiễn để hiểu sâu sắc hơn vấn đề nghiên cứu.
3. Phạm vi nghiên cứu:
Chuyên đề nghiên cứu hoạt động cho vay của NHTM về khía cạnh chất lượng và chỉ giới hạn ở hình thức cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp.
Chuyên đề chọn điểm nghiên cứu thực tiễn tại chi nhánh ngân hàng công thương tỉnh Phú Thọ, thời gian nghiên cứu là từ năm 2006 đến 2008.
4. Kết cấu của chuyên đề:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục bảng biểu, chuyên đề được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Chất lượng cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp tại NHTM
Chương 2: Thực trạng chất lượng cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp tại chi nhánh ngân hàng công thương tỉnh Phú Thọ.
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao chất lượng cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp tại chi nhánh ngân hàng công thương tỉnh Phú Thọ.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của thầy giáo ThS. Nguyễn Đức Hiển, cùng sự giúp đỡ của Ban Giám đốc và các cô chú, các anh chị trong phòng Khách hàng doanh nghiệp ngân hàng công thương tỉnh Phú Thọ đã giúp em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này. Trong bài viết, không tránh khỏi thiếu sót, em rất mong có được ý kiến đóng góp và chỉ bảo của các thấy cô để bài viết hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô!
CHƯƠNG I
CHẤT LƯỢNG CHO VAY NGẮN HẠN ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là tổ chức tiền gửi đóng vai trò quan trọng trong việc khơi nguồn vốn đến những người vay tiền có các cơ hội đầu tư sinh lời, đảm bảo cho nền kinh tế vận động nhịp nhàng hữu hiệu. Để hiểu được hoạt động của ngân hàng trước hết cần xem xét “Bản quyết toán tài sản của ngân hàng” –đó là bản kê các tài sản có và tài sản nợ của ngân hàng và đặc trưng của nó là:
“Tổng tài sản có =Tài sản nợ +Vốn”
Tài sản nợ bao gồm:
*Các khoản tiền gửi có thể phát séc: là loại tiền gửi có thể được thanh toán theo yêu cầu.
*Các khoản tiền gửi phi giao dịch: bao gồm tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi kỳ hạn, đây có thể nói là nguồn vốn quan trọng nhất của ngân hàng, những người sở hữu chúng không được quyền phát séc và cũng không được hưởng nhiều dịch vụ như tiền gửi phát séc, nhưng được hưởng mức lãi suất cao hơn.
*Các khoản tiền ngân hàng đi vay từ NHNN, từ dân cư, từ các doanh nghiệp, từ các tổ chức tín dụng khác, vay Chính phủ và vay nước ngoài…
Vốn của ngân hàng là của cải thực có của ngân hàng đó. Vốn hình thành ban đầu của ngân hàng chính là vốn do NSNN cấp (đối với NNTM thuộc sở hữu của Nhà nước); hoặc góp vốn cổ phần (đối với NHTM cổ phần)… Trong quá trình hoạt động, ngân hàng gia tăng vốn theo nhiều phương thức khác nhau như: phát hành cổ phiếu, lợi nhuận giữ lại, thặng dư vốn, dự phòng rủi ro.
Khi nói tới hoạt động sinh lời của NHTM là nói tới tài sản có của ngân hàng. Tài sản có là kết quả của việc sử dụng vốn của ngân hàng đó, nhờ chúng mà ngân hàng thu được tiền trả lãi, tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng. Các tài sản có bao gồm:
*Tiền dự trữ: bao gồm tiền gửi ở NHNN và tiền mặt mà ngân hàng cất giữ.
*Tiền mặt: bao gồm tiền mặt trong quá trình thu – đó là các tờ séc được phát hành bởi các ngân hàng A được gửi vào ngân hàng B nhưng chưa tới B, nó sẽ được coi như tài sản có của B; và tiền gửi ở các ngân hàng khác.
*Các chứng khoán: đối với các NHTM, các chứng khoán chỉ bao gồm những công cụ vay nợ, tuy nhiên chúng là nguồn thu nhập quan trọng của ngân hàng.
*Tiền cho vay: đây là loại tài sản có mang lại lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng và chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tài sản có của ngân hàng. Tiền cho vay là một món nợ đối với cá nhân hoặc doanh nghiệp hoặc tổ chức tín dụng khác. Tiền cho vay kém lỏng hơn và rủi ro vỡ nợ so với các loại tài sản có khác vì chúng không thể chuyển thành tiền mặt trước khi các khoản cho vay đến hạn, do vậy ngân hàng thu được lợi tức cao nhất nhờ vào chúng.
*Tài sản có khác: bao gồm các TSCĐ như nhà cửa, trang thiết bị của ngân hàng v.v
Như vậy, cho vay là hoạt động quan trọng nhất trong việc thu lợi nhuận cho ngân hàng. Tuy nhiên, hoạt động này không thuộc về độc quyền của ngân hàng, hiện nay, các ngân hàng cũng đang phải đối mặt với sự cạnh tranh của các tổ chức tài chính khách như các công ty chứng khoán, các công ty bảo hiểm… Trong thời gian vừa qua, cuộc khủng hoảng kinh tế Mỹ mà bắt nguồn từ sự sụp đổ của một số tổ chức tài chính lớn của Mỹ, câu hỏi được đặt ra cho mỗi chúng ta là phải hiểu thế nào về hoạt động và chất lượng cho vay của các NHTM.
1.1.1. Khái niệm cho vay
Theo quan điểm của Frederici S.Mishkin trong cuốn “Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính”, các ngân hàng thu lợi nhuận bằng cách bán tài sản nợ có một số đặc tính (một kết hợp riêng về tính lỏng, rủi ro và lợi tức) và dùng tiền mua được để mua những tài sản có một số đặc tính khác, và trong hoạt động cho vay, tài sản có này chính là tiền cho vay. Như vậy, các ngân hàng đã cung cấp dịch vụ chuyển một loại tài sản thành một loại tài sản khác cho công chúng, và cho vay là một trong những sản phẩm dịch vụ đó.
Theo các văn bản hiện hành liên quan tới hoạt động tín dụng của các NHTM, cho vay là một nghiệp vụ tín dụng, theo đó, ngân hàng cho vay giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất đình theo thỏa thuận với nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi.
Cho vay là hoạt động thông qua sự thỏa thuận giữa bên đi vay và bên cho vay dựa trên các phương án sản xuất kinh doanh hoặc dự án kinh doanh do bên đi vay trình cho bên cho vay, bên cạnh đó các khoản vay còn được đảm bảo bằng tài sản của bên đi vay. Các khoản vay này chứa đựng những rủi ro vì chúng xuất hiện trước khi diễn ra các hành vi thương mại của bên đi vay, vì thế chúng phải đảm bảo theo 3 nguyên tắc cơ bản sau:
Thứ nhất, tiền vay phải được hoàn trả đúng hạn cả vốn lẫn lãi.
Thứ hai, khoản vay phải được bên đi vay sử dụng đúng mục đích.
Thứ ba, các khoản vay phải được đảm bảo bởi các tài sản của bên đi vay.
Như vậy, có thể khái quát khái niệm cho vay như sau: cho vay là hoạt động cơ bản của NHTM, đó là một giao dịch về tiền giữa bên cho vay là ngân hàng và bên đi vay là các cá nhân và tổ chức, trong đó, bên cho vay chuyển giao tiền cho bên đi vay sử dụng cho một mục đích nào đó trong một thời hạn nhất định như đã thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
1.1.2. Phân loại cho vay
Cho vay có thể được phân loại dựa trên nhiều tiêu thức sao cho phù hợp với tính chất, đặc điểm của nhu cầu vay và việc quản lý cho vay của ngân hàng. Có một số cách chủ yếu để phân loại cho vay như sau:
1.1.2.1. Theo đối tượng khách hàng
Theo đối tượng khách hàng, cho vay được phân chia thành:
- Cho vay Chính phủ: Là hoạt động cho vay đối với Nhà nước để tài trợ cho nhu cầu chi tiêu thường xuyên. Cho vay Chính phủ thường thể hiện bằng việc Ngân hàng mua trái phiếu do Kho bạc phát hành.
- Cho vay các tổ chức kinh tế: Là hoạt động cho vay đối với các doanh nghiệp, công ty nhằm tài trợ cho các nhu cầu vốn để kinh doanh. Cho vay tổ chức kinh tế được thực hiện với nhiều phương thức khác nhau phù hợp với từng nhu cầu vốn cụ thể.
- Cho vay các tổ chức tài chính khác (ngân hàng, công ty tài chính, quỹ tín dụng…): Là hoạt động cho vay chủ yếu nhằm đáp ứng nhu cầu thanh khoản hoặc thanh toán liên ngân hàng.
- Cho vay cá nhân: Là hoạt động cho vay đối với khách hàng là các cá nhân – người tiêu dùng với các mục đích mua sắm tài sản, tiêu dùng hoặc kinh doanh.
1.1.2.2. Theo mục đích sử dụng vốn vay
Theo mục đích vốn vay được sử dụng, cho vay bao gồm:
- Cho vay kinh doanh: Là hoạt động cho vay mà vốn vay được sử dụng cho mục đích kinh doanh. Đối tượng khách hàng vay kinh doanh có thể là cá nhân, các hộ gia đình hoặc các tổ chức kinh tế, trong đó chủ yếu là các tổ chức kinh tế.
- Cho vay tiêu dùng: Là hoạt động cho vay mà vốn vay được sử dụng cho mục đích tiêu dùng. Đối tượng chủ yếu vay tiêu dùng là các cá nhân (vay để mua tài sản) và Chính phủ (vay cho nhu cầu chi tiêu thường xuyên).
1.1.2.3. Theo phương thức cho vay
Về phương thức, cho vay có thể bao gồm các loại chính như sau:
- Cho vay từng lần: Là phương thức cho vay đối với các khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, chỉ khi vào thời vụ kinh doanh hay mở rộng sản xuất mới xin vay. Mỗi lần vay vốn, ngân hàng và khách hàng lại thực hiện thủ tục vay vốn cần thiết và ký kết hợp đồng tín dụng.
- Cho vay theo hạn mức tín dụng: Là phương thức cho vay mà ngân hàng và khách hàng thoả thuận một hạn mức về số dư trong suốt kỳ hoặc số dư cuối kỳ. Đây là hình thức cho vay phù hợp đối với khách hàng vay mượn thường xuyên, vốn vay tham gia thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh doanh.
- Cho vay luân chuyển: Là phương thức cho vay mà ngân hàng thoả thuận tài trợ dựa trên kế hoạch lưu chuyển hàng hoá và ngân quỹ của khách hàng. Hình thức này phù hợp với các doanh nghiệp thương mại hoặc doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh có chu kỳ tiêu thụ sản phẩm ngắn.
- Cho vay trả góp: Là phương thức cho vay trong đó ngân hàng trả gốc thành nhiều lần trong thời hạn đã thoả thuận. Phương thức này thường được áp dụng đối với vay trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định.
- Cho vay thấu chi: Là phương thức cho vay mà ngân hàng thoả thuận bằng văn bản chấp thuận cho khách hàng chi vượt số tiền trên tài khoản tiền gửi thanh toán của mình trong một thời hạn nhất định (gọi là hạn mức thấu chi) và trong một khoảng thời gian xác định.
Ngoài ra, còn có nhiều phương thức cho vay khác như: cho vay theo dự án đầu tư, cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng, cho vay hợp vốn, cho vay qua việc phát hành thẻ tín dụng…
1.1.2.4. Theo thời hạn
Thời hạn cho vay là khoảng thời gian được tính từ khi khách hàng bắt đầu nhận vốn vay cho đến thời điểm trả hết nợ gốc và lãi vốn vay đã được thoả thuận trong hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng.
Ngân hàng và khách hàng thoả thuận thời hạn cho vay căn cứ vào nhu cầu vốn, chu kỳ sản xuất – kinh doanh của khách hàng, thời hạn thu hồi vốn của dự án/phương án đầu tư, khả năng trả nợ của khách hàng và nguồn vốn vay của ngân hàng.
Theo thời hạn, cho vay được phân loại thành:
- Cho vay không có thời hạn: Là hình thức cho vay mà việc vay – hoàn trả của khách hàng là thường xuyên, theo kế hoạch luân chuyển hàng hoá và kế hoạch doanh thu của khách hàng, không xác định cụ thể thời điểm trả nợ trên hợp đồng tín dụng.
- Cho vay có thời hạn: Là hình thức cho vay mà thời hạn thu hồi nợ được xác định cụ thẻ trong hợp đồng tín dụng. Cho vay có thời hạn được phân chia thành:
+ Cho vay ngắn hạn: Là hình thức cho vay mà thời hạn cho vay dưới 12 tháng
+ Cho vay trung hạn: Là hình thức cho vay mà thời hạn cho vay từ trên 12 tháng đến dưới 60 tháng.
+ Cho vay dài hạn: Là hình thức cho vay mà thời hạn cho vay từ 60 tháng trở lên.
Thông thường, hai hình thức cho vay trung hạn và dài hạn được ghép thành cho vay trung và dài hạn.
Trong phạm vi nghiên cứu của chuyên đề tốt nghiệp chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu là hình thức cho vay ngắn hạn.
1.1.2.5. Các căn cứ khác
- Theo mức độ tín nhiệm đối với khách hàng:
+ Cho vay có đảm bảo bằng tài sản: là việc cho vay mà ngân hàng yêu cầu người vay phải có tài sản hợp pháp đảm bảo cho khoản vay. Tài sản này chính là nguồn thu nợ cuối cùng của ngân hàng. Đó có thể là tài sản để thế chấp hoặc cầm cố.
+ Cho vay không có tài sản đảm bảo: là việc cho vay mà ngân hàng không yêu cầu người vay phải có tài sản làm vật đảm bảo. Đây chính là hình thức cho vay đảm bảo bằng uy tín, chủ yếu chỉ áp dụng cho các khách hàng có tình hình tài chính lành mạnh, làm ăn có lãi. Cũng có thể đó là các khoản cho vay theo chỉ thị của Chính phủ, các khoản cho vay đối với các tổ chức tài chính lớn, các công ty lớn trong thời hạn ngắn mà ngân hàng có thể giám sát việc sinh lợi và khả năng trả nợ của doanh nghiệp.
- Theo phương thức trả nợ, đồng tiền vay
Sự phân loại cho vay trên đây chỉ mang tính chất tương đối. Trong thực tế, bao hàm trong loại cho vay này có thể là các loại cho vay khác. Chẳng hạn, cho vay theo thời hạn ngắn (ngắn hạn) có thể theo phương thức cho vay từng lần, hoặc có thể là cho vay theo hạn mức.
1.2. Hoạt động cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp của NHTM
1.2.1. Khái niệm cho vay ngắn hạn
Xét về thời hạn, theo các văn bản liên quan tới hoạt động tín dụng của NHTM, cho vay ngắn hạn là ngân hàng cho khách hàng vay một khoản tiền với mục đích đã được thỏa thuận trong thời hạn không quá 12 tháng. Khác với cho vay ngắn hạn, cho vay trung hạn là các khoản cho vay từ trên 12 tháng đến 60 tháng và cho vay dài hạn là các khoản cho vay trên 60 tháng.
Xét về tính chất của cho vay ngắn hạn, không chỉ đơn thuần là các khoản cho vay của ngân hàng đối với khách hàng trong khoảng thời gian không quá 12 tháng. Đối ứng với việc ngân hàng cho vay đối với doanh nghiệp là việc doanh nghiệp huy động vốn để tài trợ cho tài sản của mình phục vụ hoạt động sản xuất – kinh doanh. Như vậy, để hiểu rõ về việc ngân hàng cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp và phân biệt được với cho vay trung – dài hạn, chúng ta sẽ xem xét về khái niệm “vốn ngắn hạn” và “vốn trung – dài hạn” của doanh nghiệp.
Trước hết, vốn của doanh nghiệp được biểu hiện là giá trị của toàn bộ tài sản do doanh nghiệp quản lý và sử dụng tại một thời điểm nhất định. Mỗi đồng vốn gắn liền với một chủ sở hữu nhất định. Tiền tệ là hình thái vốn ban đầu của doanh nghiệp, nhưng chưa hẳn có tiền là có vốn. Tiền chỉ là dạng tiềm năng của vốn, để biến tiền thành vốn thì tiền phải đưa vào sản xuất kinh doanh với mục đích sinh lời. Như vậy, vốn là lượng giá trị ứng trước của toàn bộ tài sản mà doanh nghiệp kiểm soát để phục vụ trong hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm thu được lợi ích kinh tế trong tương lai. Vốn trong họat động sản xất kinh doanh được tồn tại dưới hai hình thức là vốn ngắn hạn và vốn trung – dài hạn, hay còn gọi là vốn lưu động và vốn cố định.
“Vốn ngắn hạn” được biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp. Tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp chính là tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn theo chuẩn mực kế toán cũ trước đây. Tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp thường gồm hai bộ phận là tài sản ngắn hạn trong sản xuất và tài sản ngắn hạn trong lưu thông. Tài sản ngắn hạn trong quá trình sản suất là những vật tư dự trữ nguyên liệu, vật liệu, nhiên liệu… và sản phẩm dở dang trong quá trình sản xuất. Tài sản ngắn hạn trong lưu thông bao gồm sản phẩm hàng hóa chờ tiêu thụ, các loại vốn bằng tiền, vốn trong thanh toán, các khoản phí chờ kết chuyển, chi phí trả trước… Có thể phân biệt vốn ngắn hạn theo hai tiêu chí:
*Theo hình thái biểu hiện, vốn ngắn hạn được chia thành 3 loại:
- Vốn bằng tiền và vốn trong thanh toán:
+ Vốn bằng tiền gồm: tiền mặt tại quỹ, tiền gửi ngân hàng, tiền đang chuyển, kim loại quý…
+ Vốn trong thanh toán là các khoản nợ phải thu của khách hàng, các khoản tạm ứng, các khoản phải thu khác…
- Vốn vật tư hàng hóa (hàng tồn kho) bao gồm nguyên, nhiên vật liệu, phụ tùng thay thế, công cụ, dụng cụ lao động, sản phẩm dở dang và thành phẩm.
- Vốn về chi phí trả trước là những khoản chi phí lớn hơn thực tế đã phát sinh có liên quan đến nhiều chu kỳ kinh doanh nên được phân bổ vào giá trị thành sản phẩm của nhiều chu kỳ kinh doanh như: chi phí sửa chữa lớn TSCĐ, chi phí thuê tài sản, chi phí nghiên cứu thí nghiệm, cải tiến kỹ thuật, cho phí xây dựng, lắp đặt các công trình tạm thời, chi phí phục vụ cho xây dựng cơ bản…
*Theo vai trò của vốn lưu động đối với quá trình sản xuất kinh doanh, vốn ngắn hạn được chia thành 3 loại:
- Vốn ngắn hạn trong khâu dự trữ sản xuất bao gồm giá trị các khoản nguyên vật liệu chính, nguyên vật liệu phụ, nhiên liệu, phụ tùng thay thế, công cụ dụng cụ lao động nhỏ.
- Vốn ngắn hạn trong khâu sản xuất bao gồm giá trị sản phẩm dở dang và vốn về chi phí trả trước.
- Vốn ngắn hạn trong khâu lưu thông gồm các giá trị thành phẩm, vốn bằng tiền, các khoản đầu tư ngắn hạn (đầu tư chứng khoán ngắn hạn, cho vay ngắn hạn…), các khoản vốn trong thanh toán (các khoản phải thu, tạm ứng…).
“Vốn trung – dài hạn” của doanh nghiệp được biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản trung – dài hạn của doanh nghiệp. Giống như tài sản ngắn hạn, tài sản dài hạn chính là tài sản cố định và đầu tư trung – dài hạn của doanh nghiệp theo chuẩn mực kế toán cũ. Tài sản dài hạn của doanh nghiệp bao gồm các khoản đầu tư dài hạn, các khoản tạm ứng dài hạn, tài sản cố định hữu hình (nhà cửa, máy móc, trang bị, thiết bị…), tài sản cố định vô hình (công nghệ dây chuyền sản xuất, bản quyền chế tạo, thương hiệu của doanh nghiệp)… đó là những tài sản có thời gian sử dụng từ 1 năm trở lên.
Tuy nhiên, không phải lúc nào doanh nghiệp cũng chỉ dùng nguồn vốn ngắn hạn để tài trợ cho TSNH cũng như chỉ dùng nguồn dài hạn tài trợ cho TSDH. Xuất phát từ nhu cầu vốn của doanh nghiệp, các ngân hàng cho vay đối với doanh nghiệp –đây là một trong những kênh huy động vốn hữu hiệu của doanh nghiệp. Các NHTM cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp trong các trường hợp sau:
*NHTM cho vay ngắn hạn để tài trợ tài sản lưu động:
Ngân hàng thương mại thường chia các khoản cho vay của mình thành cho vay ngắn hạn và cho vay trung và dài hạn. Tùy thuộc vào nhu cầu và nguyện vọng vay của khác hàng mà sẽ chọn thời hạn phù hợp nhất với mình. Theo sự phân chia thời hạn thì những món vay dưới 1 năm được xếp vào món vay ngắn hạn, nó phù hợp với trường hợp tài trợ cho tài sản lưu động của doanh nghiệp. Các trường hợp cụ thể là:
- Nhằm tài trợ cho nhu cầu vốn tăng thêm cho sản xuất và kinh doanh, đối với doanh nghiệp sản xuất hàng hoá, doanh nghiệp kinh doanh thương mại, dịch vụ, vốn tăng thêm này chủ yếu để mua nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ, tăng dự trữ, đầu tư vào tài sản lưu động ròng.
- Nhằm tài trợ cho hoạt động xuất, nhập khẩu, tài trợ thanh toán quốc tế đối với các doanh nghiệp xuất, nhập khẩu.
Ngân hàng có thể tài trợ ngắn hạn cho nhà nhập khẩu thông qua nhiều hình thức khi nhà nhập khẩu không có đủ khả năng thanh toán. Cụ thể, ngân hàng cung cấp các nghiệp vụ sau:
+ Tín dụng cho người đặt hàng và hiệp định khung tài trợ nhập khẩu
+ Cho vay mở L/C
+ Tạm ứng cho nhà nhập khẩu
+ Chấp nhận của ngân hàng (Bank Acceptance)
+ Tín dụng chấp nhận hối phiếu dành cho nhà nhập khẩu (hối phiếu tự nhận nợ - promissory note).
Ngân hàng cũng tài trợ xuất khẩu trong nhiều trường hợp. Khi nhà xuất khẩu có khó khăn trong thanh toán mà chưa thu được tiền từ xuất khẩu, NHTM thực hiện các nghiệp vụ tín dụng đối với các doanh nghiệp xuất khẩu có quy mô lớn và chiếm thị trường rộng. Cụ thể, ngân hàng cung cấp các nghiệp vụ như sau:
+ Tài trợ trong khuôn khổ nhờ thu kèm chứng từ
Thực hiện nghiệp vụ này, nhà xuất khẩu ủy thác các chứng từ về hàng hóa, vận đơn, bảo hiểm và các chứng từ khác cho ngân hàng phục vụ mình nhờ thu hộ. Ngân hàng này sẽ chuyển tiếp chứng từ đến ngân hàng cần giao dịch với chỉ thị giao chứng từ sau khi đã thanh toán, hoặc chấp nhận thanh toán. Trong quá trình thanh toán sẽ có một yếu tố rất quan trọng, đó là yếu tố thời gian. Chính điều này nảy sinh nhu cầu vốn đối với nhà xuất khẩu. Ngân hàng bên xuất khẩu hoặc bên nhập khẩu đều có thể thực hiện tài trợ ngắn hạn cho nhà xuất khẩu.
+ Nghiệp vụ chiết khấu hối phiếu
Khi thoả thuận giữa các bên tham gia xuất nhập khẩu chấp nhận có hối phiếu kỳ hạn không hủy ngang, khi chưa đến hạn thanh toán nhà xuất khẩu có thể mang hối phiếu này đến ngân hàng phục vụ mình xin chiết khấu.
+ Tài trợ trong khuôn khổ chứng từ
Hình thức tín dụng của ngân hàng trên cơ sở chiết khấu bộ chứng từ trước khi đến hạn thanh toán.
+ Tạm ứng cho nhà xuất khẩu
Dựa trên cơ sở mối quan hệ giữa ngân hàng và nhà xuất khẩu, khách hàng có thể đề nghị được cung cấp tín dụng giữa chừng trong khuôn khổ “clean payment” (thanh toán trơn).
+ Bao toàn bộ thanh toán xuất khẩu – Factoring
Đây là hình thức tài trợ xuất khẩu ngắn hạn. Bản chất Factoring là nghiệp vụ chiết khấu các khoản phải thu của nhà xuất khẩu. NHTM lớn tiến hành lập các công ty chuyên môn để thực hiện các nghiệp vụ này.
- NHTM cho vay ngắn hạn đối với mục đích tiêu dùng của cá nhân, doanh nghiệp.
Hình thức tín dụng này trở thành một trong những loại hình tín dụng tăng trưởng nhanh nhất ở các nước có nền kinh tế phát triển. Loại nghiệp vụ này giúp nâng cao chất lượng cuộc sống cho các cá nhân và giúp các doanh nghiệp có các sản phẩm phục vụ quá trình sản xuất và kinh doanh của doanh nghiệp. Hình thức này cũng gồm nhiều loại. Ngân hàng có thể tài trợ cho khác hàng bằng tiền mặt, đúng như một khoản cho vay. Ngân hàng cũng có thể cho vay trả góp bằng cách thanh toán cho nhà cung cấp hàng hoá thay cho khách hàng, và khách hàng trả nợ ngân hàng theo phương thức trả góp nhiều lần.
*NHTM cho vay ngắn hạn để tài trợ tài sản cố định
Các NHTM thường cho các doanh nghiệp vay vốn ngắn hạn để tài trợ cho tài sản lưu động. Tuy nhiên trong một số trường hợp đặc biệt, đối tượng tài trợ của cho vay ngắn hạn là tài sản cố định (máy móc, thiết bị, nhà xưởng). Trong trường hợp này, không thể nói đến sự phù hợp giữa thời hạn của nguồn huy động và tài sản mà chỉ xét đến lí do tại sao khách hàng lại vay vốn ngắn hạn để tài trợ cho tài sản cố định. Những lí do mà khách hàng vay vốn là thiếu vốn tạm thời, duy trì cơ cấu vốn hợp lý, sử dụng đòn bẩy tài chính. Từ những lí do trên mà khách hàng có thể lựa chọn vay vốn ngắn hạn dể tài trợ cho tài sản cố định chứ không nhất thiết phải vay vốn trung và dài hạn.
Trong trường hợp doanh nghiệp tạm thời thiếu vốn đầu tư cho máy móc, thiết bị mà doanh nghiệp vẫn có khả năng hoàn trả trong ngắn hạn, thì vay ngắn hạn là giải pháp hiệu quả hơn so với vay vốn trung và dài hạn. Vay ngắn hạn sẽ giúp doanh nghiệp tận dụng được lợi ích của việc sử dụng nợ, nhanh chóng có được khoản tiền cần thiết mà lại chịu chi phí vốn thấp hơn so với cho vay trung và dài hạn.
Vay ngắn hạn còn có một ưu điểm lớn nữa là tính chất kịp thời với chi phí hợp lý, khi doanh nghiệp chưa đến kỳ thu nợ nhưng đang có nhu cầu sử dụng tiền. Vay ngắn hạn có thủ tục đơn giản hơn vay trung và dài hạn, tiết kiệm được thời gian cho doanh nghiệp trong khâu xét duyệt xin vay, khâu ký kết hợp đồng và quá trình giải ngân. Như vậy, xin vay ngắn hạn trong trường hợp này còn tiết kiệm được cả chi phí cơ hội, mà trong kinh doanh, tuy đây là chi phí không nhìn thấy, nhưng có thể quyết định đến thành công hay thất bại của doanh nghiệp.
Như vậy có thể nói cho vay ngắn hạn không chỉ là phương thức tài trợ chủ yếu đối với tài sản lưu động, mà còn là một giải pháp hiệu quả trong việc tài trợ tài sản cố định.
1.2.2. Các hình thức cho vay ngắn hạn chủ yếu
1.2.2.1. Cho vay thấu chi
Thấu chi là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay được chi trội (vượt) trên số tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong một khoảng thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi.
Để được thấu chi, khách hàng làm đơn xin ngân hàng hạn mức thấu chi và thời hạn thấu chi (có thể phải trả phí cam kết cho ngân hàng). Trong quá trình hoạt động, khách hàng có thể kí séc, lập uỷ nhiệm chi, mua thẻ… vượt quá số dư tiền gửi để chi trả (trong hạn mức thấu chi). Khi khách hàng có tiền nhập về tài khoản tiền gửi, ngân hàng sẽ thu nợ gốc và lãi.
Thấu chi dựa trên cơ sở thu và chi của khách hàng không phù hợp về thời gian và quy mô. Thời gian và số lượng thiếu có thể dự đoán dựa vào dự đoán ngân quĩ song không chính xác. Do vậy, hình thức cho vay này tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong quá trình thanh toán.
Thấu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản. phần lớn là không có bảo đảm, có thể cấp cho cả doanh nghiệp lẫn cá nhân vài ngày trong tháng vài tháng trong năm dùng để chi lương, chi các khoản phải nộp, mua hàng… Hình thức này nhìn chung chỉ sử dụng đối với các khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và kì thu nhập ngắn.
1.2.2.2. Cho vay trực tiếp từng lần
Cho vay trực tiếp từng lần là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân hàng đối với khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, không có điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi. Các khách hàng này sử dụng vốn chủ sở hữu và tín dụng thương mại là chủ yếu, chỉ khi có nhu cầu thời vụ, hay mở rộng sản xuất đặc biệt mới vay ngân hàng, tức là vốn từ ngân hàng chỉ tham gia vào một số giai đoạn nhất định của chu kì sản xuất kinh doanh.
Mỗi lần vay khách hàng phải làm đơn và trình ngân hàng phương án sử dụng vốn vay. Ngân hàng sẽ phân tích khách hàng và kí hợp đồng cho vay, xác định quy mô cho vay, thời hạn giải ngân, thời hạn trả nợ, lãi suất và các điều kiện bảo đảm nếu cần. Mỗi món vay được tách biệt nhau thành các hồ sơ khác nhau.
Số lượng cho vay = Nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh - Vốn chủ sở hữu tham gia – Các nguồn vốn khác tham gia
Theo từng kì hạn nợ trong hợp đồng, ngân hàng sẽ thu gốc và lãi. Trong quá trình khách hàng sử dụng tiền vay, ngân hàng sẽ kiểm soát mục đích và hiệu quả sử dụng, nếu thấy có dấu hiệu vi phạm hợp đồng, ngân hàng có thể thu hồi nợ trước hạn, hoặc chuyển nợ quá hạn. Lãi suất có thể cố định hoặc thả nổi theo thời điểm tính lãi.
Nghiệp vụ cho vay từng lần tương đối đơn giản. Ngân hàng có thể kiểm soát từng món vay tách biệt. Tiền cho vay dựa vào giá trị của tài sản đảm bảo.
1.2.2.3. Cho vay theo hạn mức
Đây là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng thoả thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kì hoặc cuối kì. Đó là số dư tính tại thời điểm tính.
Hạn mức tín dụng được cấp trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn của khách hàng. Ngân hàng ước lượng các hạn mức tín dụng đối với các doanh nghiệp căn cứ vào phương án sản xuất kinh doanh và nhu cầu vay vốn của khách hàng, tỉ lệ cho vay tối đa trên tổng giá trị tài sản đảm bảo, khả năng nguồn vốn của ngân hàng.
Trong kì, khách hàng có thể thực hiện vay trả nhiều lần, song dư nợ không được vượt quá hạn mức tín dụng. Một số trường hợp ngân hàng quy định hạn mức cuối kì. Dư nợ trong kì có thể lớn hơn hạn mức. Tuy nhiên đến cuối kì, khách hàng phải trả nợ để giảm bớt dư nợ cuối kì không được vượt quá hạn mức.
Mỗi lần vay khách hàng chỉ cần trình bày phương án sử dụng tiền vay, nộp các chứng từ chứng minh đã mua hàng hoá hoặc dịch vụ và nêu yêu cầu vay. Sau khi kỉêm tra tính chất hợp pháp và hợp lệ của chứng từ, ngân hàng sẽ phát tiền cho khách hàng.
Đây là hình thức cho vay thuận tiện cho những khách hàng vay mượn thường xuyên, vốn vay tham gia thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh doanh. Trong nghiệp vụ này ngân hàng không ấn định trước ngày trả nợ. Khi khách hàng có thu nhập, ngân hàng sẽ thu nợ, do đó tạo chủ động quản lí ngân quỹ cho khách hàng. Tuy nhiên do các lần vay không tách biệt thành các kì hạn nợ cụ thể nên ngân hàng khó kiểm soát được hiệu quả của từng lần vay. Ngân hàng chỉ có thể phát hiện ra vấn đề khi khách hàng nộp báo cáo tài chính, hoặc dư nợ lâu không giảm sút.
1.2.2.4. Cho vay luân chuyển
Cho vay luân chuyển là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hoá. Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn. Ngân hàng có thể cho vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng. Đầu năm hoặc quí, người vay phải làm đơn xin vay luân chuyển. Ngân hàng và khách hàng thoả thuận với nhau về phương thức vay, hạn mức tín dụng, các nguồn cung cấp hàng hoá và khả năng tiêu thụ. Hạn mức tín dụng có thể được thoả thuận trong 1 năm hoặc vài năm. Đây không phải là thời hạn hoàn trả mà là thời hạn ngân hàng xem xét lại mối quan hệ với khách hàng và quyết định cho vay nữa hay không tuỳ mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng cũng như tình hình tài chính của khách hàng.
Việc cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hoá nên cả ngân hàng lẫn doanh nghiệp đều phải nghiên cứu kế hoạch lưu chuyển hàng hoá để dự đoán dòng ngân quĩ trong thời gian tới.
Người vay cam kết các khoản vay sẽ được trả cho người bán và mọi khoản thu bán hàng đều dùng để trả vào tài khoản tiền vay trước khi được trích trích trả lại tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng.
Khi vay, khách hàng chỉ cần gửi đến ngân hàng các chứng từ hóa đơn nhập hàng và số tiền cần vay. Ngân hàng cho vay và trả tiền cho người bán. Giá trị những hàng hoá mua vào là đối tượng được ngân hàng tài trợ và thu nhập bán hàng đều là nguồn để chi trả cho ngân hàng. Ngân hàng sẽ cho vay theo tỷ lệ nhất định tuỳ theo khối lượng và chất lượng quan hệ nợ nần của người vay.
Cho vay luân chuyển thường được áp dụng đối với các doanh nghiệp thương nghiệp hoặc doanh nghiệp sản xuất có chu kì tiêu thụ ngắn ngày, có quan hệ vay trả thường xuyên với ngân hàng.
Cho vay luân chuyển rất thuận tiện cho các khách hàng. Thủ tục cho vay chỉ cần thực hiện 1 lần cho nhiều lần vay. Khách hàng được đáp ứng nhu cầu vốn kịp thời, vì vậy việc thanh toán cho người cung cấp sẽ nhanh gọn.
1.3. Chất lượng cho vay ngắn hạn
1.3.1. Quan niệm về chất lượng cho vay ngắn hạn
Quan điểm về chất lượng cho vay cũng như chất lượng cho vay ngắn hạn trước đây chỉ được giới hạn trong phạm vi an toàn cho vay, phản ánh tổn thất phát sinh từ những rủi ro cho vay. Chất lượng cho vay ngắn hạn được coi là cao khi các khoản vay ngắn hạn không có tổn thất hoặc có tổn thất nhưng chỉ trong giới hạn nhất định, và ngược lại khi tổn thất là lớn thì chất lượng cho vay ngắn hạn được coi là thấp. Chính vì thế, khi nói đến khía cạnh nâng cao chất lượng ngắn hạn cho vay thì người ta thường nghĩ ngay đến việc giảm những tổn thất trong quá trình cho vay ngắn hạn.
Tuy nhiên, những chủ thể tham gia vào trong một món vay phải gồm hai bên: một bên là bản thân ngân hàng –bên cấp vốn, bên còn lại là khách hàng vay vốn – bên sử dụng vốn, ngoài ra còn có cơ quan quản lý Nhà nước. Chính vì vậy, chất lượng cho vay phải được hiểu rộng hơn chứ không chỉ bó hẹp trong phạm vi xem xét tổn thất từ phía ngân hàng.
Một hoạt động cho vay được coi là có hiệu quả khi nó đáp ứng được các mục tiêu của cho vay. Mục tiêu của ngân hàng khi cho vay là: một mặt, tài trợ vốn cho khách hàng một cách có hiệu quả, giúp khách hàng có vốn để thành lập, duy trì và phát triển hoạt động kinh doanh; mặt khác, xét cho vay là hoạt động kinh doanh của ngân hàng, mục tiêu là thu hồi nợ và có lãi. Hoạt động cho vay có chất lượng phải đáp ứng được cả hai yêu cầu trên.
Đối với các chủ thể khác nhau thì quan niệm về chất lượng cho vay sẽ khác nhau. Đối với NHTM, chất lượng cho vay thể hiện qua quy mô cho vay, việc đảm bảo các nguyên tắc an toàn trong cho vay, việc mang lại thu nhập thông qua hoạt động cho vay… Còn đối với doanh nghiệp thì chất lượng cho vay lại thể hiện qua khả năng đáp ứng nhu cầu vốn kịp thời và đầy đủ, chi phí vốn hợp lý, hiệu quả mang lại từ việc sử dụng vốn vay. Đối với cơ quan quản lý Nhà nước thì chất lượng cho vay được thể hiện trên hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế, tính ổn định của thị trường tài chính và hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp.
Chất lượng cho vay là một khái niệm vừa mang tính cụ thể vừa mang tính trừu tượng. Chúng ta có thể sử dụng một số công thức và chỉ số để cụ thể để lượng hoá chất lượng cho vay, tuy nhiên đối với những mặt không thể lượng hoá được thì sẽ sử dụng các chỉ tiêu định tính.
1.3.2. Các chỉ tiêu cơ bản đánh giá chất lượng cho vay ngắn hạn
1.3.2.1. Nhóm các chỉ tiêu định tính
Đây là nhóm chỉ tiêu đánh giá chất lượng cho vay ngắn hạn trên cơ sở pháp lý; việc tuân thủ các quy chế, quy trình nghiệp vụ; việc thực hiện theo đúng cam kết trong hợp đồng cho vay.
- Trên cơ sở pháp lý, hoạt động cho vay ngắn hạn có chất lượng phải chấp hành pháp luật của Nhà nước, cao nhất là Luật các tổ chức tín dụng, các quy chế cho vay, các văn bản chỉ đạo của Chính phủ và ngân hàng Nhà nước và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan.
- Trên cơ sở quy chế cho vay của NHTM, hoạt động cho vay ngắn hạn có chất lượng luôn phải tuân thủ các quy chế, quy trình nghiệp vụ cho vay. Từ những đặc điểm riêng có của mình, hầu hết các ngân hàng đều nghiên cứu và đưa ra các quy chế cho vay phù hợp nhất. Cụ thể là các ngân hàng đưa ra các khái niệm, quy định, các quy trình và các hướng dẫn cụ thể dành cho các cán bộ ngân hàng. Các quy định trong quy trình cho vay được áp dụng cụ thể cho từng trường hợp xin vay ở mỗi NHTM là nhằm thực hiện việc cho vay có chất lượng. Do vậy việc tuân thủ những quy trình là tiền đề của chất lượng cho vay.
- Trên cơ sở hợp đồng cho vay, khi tiến hành hoạt động cho vay, ngân hàng và khách hàng sẽ lập nên một hợp đồng tín dụng. Trong hợp đồng tín dụng sẽ quy định chi tiết về các yếu tố quan trọng như thời hạn vay, mục đích sử dụng, số tiền vay, phương thức trả nợ, trả lãi... và được thể hiện ở dạng những cam kết. Một khoản vay được coi là có chất lượng khi nó được thực hiện đúng những cam kết đã kí trong hợp đồng tín dụng. Nếu một khoản vay mà ngay từ mục đích vay vốn khách hàng đã không tuân thủ theo đúng cam kết thì khoản vay đó không được coi là có chất lượng. Hoặc khoản vay mà không được hoàn trả đúng thời hạn, khách hàng khất lần nhiều lần thì cũng không đạt được chất lượng.
Các nhóm chỉ tiêu định tính trên đây đã có thể phản ánh một phần của chất lượng cho vay. Đây là những chỉ tiêu gần như bắt buộc phải có để một khoản cho vay được coi là có chất lượng. Tuy vậy, muốn xem xét cụ thể, cẩn thẩn và toàn diện thì cần phải xét đến các chỉ tiêu định lượng.
1.3.2.2. Nhóm các chỉ tiêu định lượng
Nhóm các chỉ tiêu định lượng phản ánh mặt lượng của khoản cho vay, thông qua việc phân tích các chỉ tiêu về lượng, tính toán và so sánh các tỷ lệ. Nhóm các chỉ tiêu định lượng bao gồm:
a. Chỉ tiêu về tăng trưởng dư nợ cho vay ngắn hạn
Mức tăng trưởng tuyệt đối dư nợ cho vay ngắn hạn = Dư nợ cho vay ngắn hạn năm nay – Dư nợ cho vay ngắn hạn năm trước
Mức tăng trưởng tương đối dư nợ cho vay ngắn hạn = Mức tăng trưởng tuyệt đối dư nợ cho vay ngắn hạn/ Dư nợ cho vay ngắn hạn năm trước
Chỉ tiêu về tăng trưởng dư nợ cho vay ngắn hạn tuyệt đối và tương đối phản ánh mức tăng trưởng trong hoạt động cho vay ngắn hạn của ngân hàng, thể hiện chất lượng hoạt động cho vay ngắn hạn xét về quy mô. Mức tăng trưởng dư nợ cho vay ngắn hạn cao và ổn định qua các năm thể hiện chất lượng cho vay tốt và ngược lại.
b. Chỉ tiêu vòng quay vốn cho vay ngắn hạn
Vòng quay vốn cho vay ngắn hạn = Doanh số thu nợ ngắn hạn / Dư nợ cho vay ngắn hạn bình quân
Chỉ tiêu vòng quay vốn cho vay ngắn hạn phản ánh thực trạng sử dụng vốn ngắn hạn của ngân hàng. Nó đề cập đến việc người vay có trả nợ thường xuyên, đúng kỳ hạn và nhanh chóng hay không. Nếu các chỉ tiêu khác không thay đổi, vòng quay vốn ngắn hạn càng lớn chứng tỏ những tài sản (các khoản vay) của ngân hàng có tính thanh khoản cao, khả năng sinh lợi tốt. Vòng quay vốn cho vay lớn với mức dư nợ bình quân không đổi, doanh số trả nợ lớn chứng tỏ chất lượng cho vay cao hơn so với vòng quay nhỏ, doanh số trả nợ thấp. Tuy nhiên vòng quay vốn không phản ánh được nhiều thông tin vì vòng quay vốn này có mối tương quan chặt chẽ với vòng quay vốn của doanh nghiệp. Nếu khách hàng là một doanh nghiệp thương mại và dịch vụ thì vòng quay vốn nhanh, do đó vòng quay vốn của NHTM cũng lớn. Nếu khách hàng là doanh nghiệp sản xuất thì vòng quay vốn của các doanh nghiệp này sẽ nhỏ, dẫn đến vòng quay vốn của NHTM cũng nhỏ hơn.
c. Chỉ tiêu về nợ ngắn hạn quá hạn
Tỷ lệ nợ ngắn hạn quá hạn= Tổng dư nợ ngắn hạn quá hạn / Tổng dư nợ cho vay ngắn hạn* 100%
Chỉ tiêu này phản ánh tỷ lệ nợ ngắn hạn quá hạn trong tổng dư nợ ngắn hạn. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ số dư nợ ngắn hạn quá hạn càng lớn (trong một tương quan với tổng dư nợ cho vay ngắn hạn). Một ngân hàng có tỷ lệ nợ ngắn hạn quá hạn cao thì chất lượng cho vay ngắn hạn thấp.
Muốn xem xét một cách toàn diện, chỉ tiêu của năm nay cần phải được so sánh với chỉ tiêu này của những năm trước đó. Khi xét trên mối quan hệ về thời gian, ta có thể thấy chính xác tình hình qua các năm, qua đó có thể thấy được chất lượng cho vay ngắn hạn qua các năm. Đồng thời cũng có thể đánh giá được hiệu quả của hoạt động cho vay ngắn hạn và các biện pháp giảm nợ ngắn hạn quá hạn, nâng cao chất lượng cho vay ngắn hạn.
d. Chỉ tiêu tỷ lệ nợ xấu ngắn hạn
Nợ xấu ngắn hạn hay còn gọi là nợ ngắn hạn khó đòi là các món nợ ngắn hạn thuộc nhóm 3, 4 và 5.
Tỉ lệ nợ xấu ngắn hạn = Tổng dư nợ ngắn hạn khó đòi / Tổng dư nợ cho vay ngắn hạn * 100%
Chỉ tiêu này càng cao chất lượng cho vay ngắn hạn càng thấp, đặc biệt là tỷ lệ nhóm 4 và nhóm 5 càng cao thì rủi ro mất vốn càng lớn. Đồng thời nó thể hiện chất lượng thẩm định phương án kinh doanh kém, quan hệ khách hàng không tốt, hoạt động thu hồi nợ còn yếu.
e. Chỉ tiêu mức sinh lời của đồng vốn cho vay ngắn hạn
Mức sinh lời của đồng vốn cho vay ngắn hạn = Thu nhập từ cho vay ngắn hạn / Dư nợ cho vay ngắn hạn bình quân * 100%
Thu nhập của các ngân hàng trong hệ thống các NHTM ở Việt Nam hiện nay chủ yếu là từ các khoản cho vay, mà trong các khoản cho vay thì các khoản cho vay ngắn hạn luôn chiếm một tỷ trọng lớn. Do vậy có thể nói rằng thu nhập từ việc cho vay ngắn hạn có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Chỉ tiêu này đánh giá hoạt động cho vay ngắn hạn ở khía cạnh là hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Chỉ tiêu này phản ánh mức lợi nhuận thu được trên một đồng vốn cho vay ngắn hạn. Mức sinh lợi cao cho thấy chứng tỏ hoạt động cho vay ngắn hạn của ngân hàng là có hiệu quả.
Có thể xem xét một chỉ tiêu là tỷ lệ thu nhập
Tỷ lệ thu nhập từ cho vay ngắn hạn= Thu nhập từ cho vay ngắn hạn/ Tổng thu nhập* 100%
Từ tỷ lệ này, có thể biết được thu nhập từ cho vay ngắn hạn đóng góp bao nhiêu phần trăm vào thu nhập của ngân hàng. Từ đó có thể xem xét vai trò của hoạt động cho vay ngắn hạn và chất lượng của hoạt động cho vay ngắn hạn đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
1.3.3. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng cho vay ngắn hạn của NHTM
Để hiểu được sự cần thiết của việc nâng cao chất lượng cho vay ngắn hạn của NHTM, trước hết cấn hiểu rõ vai trò của cho vay ngắn hạn của NHTM đối với doanh nghiệp.
Trong quá trình phát triển của nền kinh tế đã hình thành nên những mối quan hệ đi vay – cho vay giữa các cá nhân và tổ chức trong nền kinh tế. Cho vay ngắn hạn của ngân hàng đối với các cá nhân và tổ chức trong nền kinh tế đã đóng góp rất nhiều vào sự phát triển của một đất nước. Đây là nguồn vốn lớn của nền kinh tế. Nguồn vốn vay ngắn hạn đã góp phần ổn định, duy trì và mở rộng sản xuất đối với doanh nghiệp, nâng cao đời sống của các cá nhân, là cơ sở cho một nền kinh tế nói chung, đối với các doanh nghiệp và ngân hàng nói riêng. Khi nói đến ngân hàng cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp, điều quan trọng không phải là giá trị của các khoản vay mà phải là chất lượng của các khoản vay. Chất lượng các khoản vay phản ánh chất lượng hoạt động đầu tư sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và thể hiện tính ổn định và khả năng sinh lời của ngân hàng.
* Đối với nền kinh tế
NHTM là một trung gian tài chính quan trọng, là nơi tập trung, tích tụ và phân bố đầu tư có hiệu quả trong nền kinh tế. Cho vay là một hoạt động mang tính chất đầu tư cho nền kinh tế. Thị trường chứng khoán, các quỹ đầu tư, công ty bảo hiểm, công ty tài chính là các tổ chức tài chính chủ yếu cung cấp nguồn vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế. Và trách nhiệm chính cung cấp vốn ngắn hạn cho nền kinh tế thuộc về NHTM.
Quan hệ cho vay đã hình thành và phát triển trong nền kinh tế hàng hoá. Cùng với sự phát triển của nền sản xuất xã hội, cho vay ngày càng trở nên quan trọng, nó góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển và với nhu cầu vốn liên tục gia tăng của nền kinh tế đòi hỏi cho vay phải nâng cao chất lượng. Nâng cao chất lượng cho vay mà ở đây đề cập đến chất lượng cho vay ngắn hạn là cần thiết vì:
- Nâng cao chất lượng cho vay ngắn hạn để đưa hoạt động cho vay thích nghi đối với nền kinh tế thị trường, đáp ứng được nhu cầu gia tăng vốn không ngừng của nền kinh tế.
- Đảm bảo chất lượng cho vay ngắn hạn sẽ đảm bảo vòng quay vốn cho vay ở mức tính toán đảm bảo nguồn vốn sẵn sàng cho vay tại ngân hàng, tăng khả năng cho vay của ngân hàng đối với nền kinh tế.
- Nâng cao chất lượng cho vay ngắn hạn làm đồng vốn cho vay thực hiện được mục tiêu vay vốn của doanh nghiệp. Từ đó, thúc đẩy hoạt động đầu tư, tích cực chuyển tiết kiệm thành đầu tư, huy động tối đa vốn trong dân cư cho đầu tư phát triển. Do đó sẽ giúp làm giảm lượng tiền thừa trong lưu thông, góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định tiền tệ.
- Qua việc cho vay có hiệu quả vào các công trình thuộc nhiều ngành, lĩnh vực, nền kinh tế đã có những thành tựu phát triển nhất định. Nước ta ngày càng có uy tín trên trường quốc tế, cải thiện vị trí trong danh mục đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài.
- Nâng cao chất lượng cho vay ngắn hạn để tăng khả năng cạnh tranh giữa các ngân hàng. Các ngân hàng muốn tăng năng lực cạnh tranh thì ngay từ hoạt động cho vay, phải chú trọng nâng cao chất lượng. Đồng thời, xu hướng cạnh tranh ngày nay còn là việc áp dụng và tiếp cận dần công nghệ hiện đại của thế giới.
- Nâng cao chất lượng cho vay ngắn hạn còn thúc đẩy sự hợp tác giữa các ngân hàng trong nền kinh tế. Khi nhu cầu vốn trở nên quá lớn đối với khả năng tài trợ của một ngân hàng, nhiều ngân hàng có thể cùng cho vay. Sự hợp tác này vừa là cách hỗ trợ vốn tốt nhất cho doanh nghiệp, vừa là sự hợp tác để hạn chế rủi ro cho các ngân hàng. Thị trường tài chính do vậy có mối liên hệ chặt chẽ, thống nhất hơn.
* Đối với doanh nghiệp
- Cho vay ngắn hạn là nguồn bổ sung kịp thời cho các nhu cầu về vốn ngắn hạn của doanh nghiệp. Nguồn vốn này giúp các doanh nghiệp tiếp tục quá trình sản xuất kinh doanh, hoặc giúp doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn tạm thời về tài chính. Trong nhiều trường hợp, vay vốn ngân hàng còn là giải pháp tiết kiệm chi phí cho doanh nghiệp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp bắt kịp những cơ hội kinh doanh, tận dụng được thời cơ phát triển sản xuất.
- Cho vay ngắn hạn là động lực, yếu tố kích thích sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Các điều kiện trong cho vay ngắn hạn tạo áp lực buộc doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả. Khi doanh nghiệp vay vốn từ ngân hàng thì áp lực mà họ phải chịu là thời hạn trả tiền và khoản lãi sẽ phải trả, chính vì điều này nên các doanh nghiệp cố gắng quay vòng vốn nhanh và tìm kiếm cơ hội kinh doanh tốt nhất vì mục tiêu lợi nhuận.
* Đối với sự tồn tại và phát triển của NHTM
- Chất lượng cho vay ngắn hạn làm tăng khả năng hoạt động của NHTM do tạo được vòng quay vốn lớn, đảm bảo được nguồn vốn lớn luôn sẵn sàng đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng.
- Chất lượng cho vay ngắn hạn còn có tác động đến hoạt động tạo nguồn của ngân hàng. Chất lượng cho vay tốt, vốn của khách hàng được sử dụng hiệu quả sẽ tạo ra hình ảnh tốt, tăng uy tín của ngân hàng, thu hút thêm được nhiều khách hàng, huy động vốn hiệu quả hơn.
- Chất lượng cho vay ngắn hạn làm gia tăng khả năng sinh lợi của các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng, giảm được sự chậm chễ, giảm chi phí nghiệp vụ, chi phí quản lí, các chi phí thiệt hại do không thu hồi được vốn. Từ đó, cải thiện được tình hình tài chính, tăng thế cạnh tranh cho ngân hàng.
- Chất lượng cho vay tạo thuận lợi cho sự tồn tại lâu dài của ngân hàng, bởi vì chất lượng cho vay cho phép ngân hàng có những khách hàng trung thành và đáng tin cậy. Khi khách hàng có mối quan hệ tốt với ngân hàng, họ có xu hướng sử dụng nhiều hơn các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng. Họ không chỉ gửi tiền vào ngân hàng nhằm mục đích thanh toán mà có thể sử dụng dịch vụ khác như bao thanh toán, quản lí ngân quỹ… điều này tạo ra những khoản lợi không thể lượng hoá hết được. Thực tế đối với hầu hết các ngân hàng, doanh thu từ các khách hàng thường xuyên chiếm một tỉ lệ lớn trong tổng doanh thu của ngân hàng.
Cho vay ngắn hạn là một trong những nghiệp vụ quan trọng nhất và đem lại nguồn thu chủ yếu cho NHTM, đồng thời nó cũng có những ảnh hưởng không nhỏ đến các mặt hoạt động khác của ngân hàng. Việc cho vay của NHTM không chỉ có ảnh hưởng đến bản thân NHTM mà còn có ảnh hưởng đến các cá nhân và tổ chức khác trong xã hội. Những tác động này vô cùng lớn và có ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế. Do vậy việc nâng cao chất lượng tín dụng nói chung và nâng cao chất lượng cho vay ngắn hạn nói riêng không những giúp ngân hàng kinh doanh có lợi, đáp ứng được tốt nhu cầu vốn của các doanh nghiệp và cá nhân, mà còn giúp nền kinh tế phát triển thuận lợi.
Nâng cao chất lượng kinh doanh giúp ngân hàng tồn tại một cách vững vàng, củng cố các mối quan hệ với các đối tác, tăng khả năng hoạt động và đặc biệt là tăng khả năng cạnh tranh.
Như vậy, việc nâng cao chất lượng cho vay ngắn hạn là cần thiết, khách quan; trước hết vì sự tồn tại và phát triển của NHTM, đồng thời là vì sự phát triển của nền kinh tế.
1.3.4. Các điều kiện để một khoản vay ngắn hạn có chất lượng
Hoạt động cho vay ngắn hạn diễn ra giữa hai chủ thể là NHTM và khách hàng. Đồng thời việc cho vay nằm trong một môi trường lớn hơn, đó là những điều kiện của nền kinh tế. Do vậy, để có một khoản vay tốt cần phải có những điều kiện thuận lợi từ các bên có liên quan.
1.3.4.1. Các điều kiện về phía NHTM
- Năng lực thẩm định cho vay
Trong quy trình tín dụng của các ngân hàng, thẩm định cho vay là khâu quan trọng. Thẩm định là việc đánh giá, thẩm tra, dự đoán về độ chính xác, an toàn và hiệu quả của một hợp đồng tín dụng. Kết quả của quá trình thẩm định sẽ dùng để quyết định xem có thực hiện món vay hay không. Mặc dù không thể tránh được tất cả các sai sót, nhưng làm tốt khâu này sẽ tạo tiền đề cho việc thu hồi đủ cả vốn và lãi một cách đầy đủ, đúng hạn. Quá trình thẩm định không chỉ đòi hỏi việc tuân thủ nghiêm ngặt về hồ sơ và an toàn thông tin mà còn yêu cầu trình độ chuyên môn và sự phán đoán linh hoạt của cán bộ. Đối với cho vay ngắn hạn, do tính đặc thù là “thường xuyên” và “kịp thời” nên khâu thẩm định cũng đòi hỏi phải nhanh chóng để đáp ứng nhu cầu vốn của khách hàng, đồng thời phải đảm bảo chính xác và an toàn.
- Chất lượng cán bộ tín dụng
Trong tất cả các ngành và lĩnh vực của nền kinh tế, con người luôn đóng vai trò quan trọng nhất, chính vì thế, để nâng cao chất lượng cho vay ngắn hạn, con người là yếu tố trung tâm. Nền kinh tế ngày càng phát triển, các ngành và lĩnh vực do đó cũng ngày càng phức tạp và yếu tố chất xám ngày càng tăng. Ngành ngân hàng là một ngành đặc biệt trong nền kinh tế, nơi mà các công nghệ hiện đại nhất được ứng dụng. Tính phức tạp và tinh vi trong việc xử lý các nghiệp vụ đòi hỏi cán bộ ngân hàng phải có đủ trình độ chuyên môn, phẩm chất đạo đức. Trình độ cán bộ tín dụng ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng cho vay, trước hết là trong công tác thẩm định, phân tích tín dụng, quản lý tín dụng. Mặt khác, khách hàng của ngân hàng ngày càng phong phú, hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Do đó, cán bộ tín dụng cũng phải có trình độ, hiểu biết nhiều lĩnh vực để có thể đánh giá được khách hàng và dự án xin vay.
- Thông tin tín dụng
Vấn đề thông tin là một vấn đề nhạy cảm và có tính quyết định đến thành công hay thất bại của hoạt động kinh doanh. NHTM hoạt động trong một lĩnh vực rất nhạy cảm với những thay đổi của nền kinh tế và mang tính rủi ro cao. Do vậy, thông tin đối với ngân hàng là vô cùng quan trọng. Trong quá trình hoạt động của mình, ngân hàng không thể có được tất cả những thông tin cần thiết: về khách hàng, quan hệ tín dụng của khách hàng với những tổ chức tín dụng khác, tài sản đảm bảo, những mối quan hệ khác của khách hàng, tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng… Mọi thông tin đều có ảnh hưởng đến quyết định của cán bộ tín dụng trong quá trình thẩm định cho vay. Việc thiếu thông tin tạo ra những rủi ro lớn cho ngân hàng, tạo ra rủi ro lựa chọn đối nghịch. Do đó, ngân hàng nào càng nắm được nhiều thông tin chính xác sẽ càng có lợi thế trong cạnh tranh.
- Kiểm soát nội bộ
Trong quá trình hoạt động của ngân hàng, không thể tránh khỏi việc xẩy ra những rủi ro do yếu tố chủ quan hoặc khách quan. Nếu các cán bộ ngân hàng không nắm vững hay không tuân thủ chặt chẽ các nguyên tắc cho vay thì có thể sẽ dẫn đến tổn thất trong cho vay. Công tác kiểm soát nội bộ là cần thiết để điều chỉnh các cán bộ tín dụng thực hiện đúng pháp luật, cơ chế cho vay, đồng thời phát hiện nhanh chóng sai sót, lệch lạc trong hoạt động tín dụng, tìm được giải pháp khắc phục kịp thời.
1.3.4.2. Các điều kiện về phía doanh nghiệp
Khi việc cho vay chưa diễn ra thì vai trò của cán bộ tín dụng là vô cùng quan trọng. Tuy vậy, khi khoản cho vay đã diễn ra, doanh nghiệp đã vay được tiền từ ngân hàng và trực tiếp sử dụng vốn vay thì doanh nghiệp chính là người có ảnh hưởng quyết định đến chất lượng của món vay. Việc doanh nghiệp có đủ các điều kiện được vay hay không, sử dụng vốn vay như thế nào, khả năng trả nợ cho ngân hàng ra sao… đều quyết định đến chất lượng cho vay.
- Phương án xin vay
Phương án sản xuất kinh doanh tốt sẽ đem lại hiệu quả cho món vay. Một phương án tốt sẽ sử dụng tốt nguồn vốn vay, đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp, dòng tiền và kết quả kinh doanh sẽ đủ để trả đủ vốn và lãi của khoản vay.
- Tình hình tài chính của doanh nghiệp
Khi xem xét hồ sơ khách hàng, hầu hết chỉ những khách hàng có tình hình kinh doanh tốt, những chỉ tiêu tài chính có hiệu quả thì mới được xem xét để cho vay. Tình hình tài chính của doanh nghiệp được thể hiện trước hết qua bảng tổng kết tài sản: quy mô tài sản (tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, chứng khoán có giá, các khoản phải thu, dự trữ, tài sản cố định…), quy mô và cơ cấu nguồn vốn (các khoản nợ phải trả, vay ngân hàng, nợ quá hạn, các chủ nợ, giá trị của các khoản nợ, thứ tự ưu tiên thanh toán nợ..). Tiếp đến cần phải xem xét đến báo cáo kết quả kinh doanh và báo cáo lưu chuyển tiền tệ: luồng tiền, các tỷ lệ tài chính như: nhóm tỷ lệ thanh khoản, nhóm tỷ lệ sinh lời, nhóm tỷ lệ rủi ro và nhóm tỷ lệ về cơ cấu vốn, tài sản đảm bảo. Nếu tình hình tài chính của khách hàng tốt, đáp ứng được những yêu cầu của ngân hàng, khoản vay sẽ ít rủi ro hơn. Khi rủi ro được giảm thiểu thì chất lượng cho vay được nâng cao. Tuy nhiên, có một vài trường hợp đặc biệt, đối với các doanh nghiệp vừa hoạt động chưa quá 3 năm, vẫn có thể xem xét điều kiện cho vay, nớ lỏng hơn theo quy định.
- Năng lực điều hành, quản lý và đạo đức kinh doanh của chủ doanh nghiệp
Một trong những yêu cầu quan trọng khi xem xét cho vay khách hàng là việc cán bộ tín dụng gặp gỡ trực tiếp và đàm phán với chủ doanh nghiệp. Thông qua quá trình gặp gỡ và trao đổi này thì cán bộ tín dụng có thể hiểu thêm nhiều về đối tượng cho vay, về kinh nghiệm, về kiến thức, về ý thức và quyết tâm kinh doanh. Đây mặc dù là một yếu tố phi tài chính nhưng lại vô cùng quan trọng thuộc về doanh nghiệp và có ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng. Khi chủ doanh nghiệp có trình độ chuyên môn cao, năng lực lãnh đạo tốt thì ngay ở khâu đầu tiên là lập phương án kinh doanh cũng đã thể hiện khả năng thành công của phương án, khả năng sử dụng vốn vay từ ngân hàng một cách hiệu quả. Nếu ngược lại, nếu như chủ doanh nghiệp không có đủ trình độ quản lý và kinh nghiệm cần thiết thì khoản vay không phát huy được tác dụng, không đảm bảo được chất lượng cho vay và kết quả xấu nhất là ngân hàng mất vốn. Bên cạnh việc xem xét về trình độ chuyên môn của khách hàng, cán bộ tín dụng cũng phải đánh giá khách hàng trên khía cạnh đạo đức. Tính trung thực, mức độ thực hiện đúng các cam kết trong hợp đồng tín dụng là điều kiện tiên quyết để đảm bảo khoản vay có hiệu quả.
1.3.4.3. Các điều kiện khác
Mọi hoạt động của doanh nghiệp không thể tách rời khỏi những biến động của thị trường. Bất cứ sự thay đổi nào trên thị trường như tình hình lạm phát, tăng trưởng hay suy thoái, mức thuế, giá cả thị trường… đều có ảnh hưởng đến khách hàng của doanh nghiệp, doanh số bán hàng, tình hình tiêu thụ, từ đó ảnh hưởng đến doanh thu, chi phí, lợi nhuận… Khi nền kinh tế tăng trưởng thì mọi yếu tố của thị trường đều thuận lợi đối với việc đầu tư mới, nhu cầu tăng, mức giá tăng sẽ tạo điều kiện tốt cho việc kinh doanh của doanh nghiệp. Ngược lại khi nền kinh tế bị giảm phát hoặc mức lạm phát quá cao (lạm phát hai con số) thì chi phí sản xuất, chi phí nhân công tăng quá cao, khiến cho công việc kinh doanh của doanh nghiệp không thuận lợi. Do vậy, có thể nhận thấy rằng khi nền kinh tế tăng trưởng tốt thì dư nợ tín dụng của hệ thống ngân hàng thường cao hơn rất nhiều so với những thời điểm nền kinh tế không thuận lợi. Một nền kinh tế ổn định là điều kiện cần thiết để các doanh nghiệp có thể kinh doanh tốt, ngân hàng cũng có thể mở rộng cho vay và thu lợi nhuận cao, đảm bảo chất lượng cho vay.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG CHO VAY NGẮN HẠN ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG TỈNH PHÚ THỌ
2.1. Giới thiệu về ngân hàng công thương tỉnh Phú Thọ:
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển:
Chi nhánh NHCT Phú Thọ được thành lập từ năm 1988 (trước đây là Chi nhánh NHCT Vĩnh Phú). Khi mới thành lập, chi nhánh bộ máy của chi nhánh gồm 01 Hội sở chính và 02 chi nhánh trực thuộc đó là chi nhánh NHCT thị xã Phú Thọ và chi nhánh NHCT thị xã Vĩnh Yên, hoạt động kinh doanh vừa mới ra khỏi thời kỳ bao cấp, do đó còn phiến diện, các dịch vụ ngân hàng hạn hẹp, quy mô kinh doanh nhỏ bé, đối tượng phục vụ chủ yếu là các xí nghiệp quốc doanh; công nghệ ngân hàng còn ở trình độ sơ khai, thủ công là chủ yếu.
Trong thời gian hoạt động từ năm 1988 tới 1996, ngân hàng đã mở rộng mạng lưới hoạt động, từ 2 chi nhánh năm 1988 lên tới 5 chi nhánh năm 1996 với cơ cấu tổ chức ngày càng được chuyên môn hóa, hoạt động liên tục đạt hiệu quả cao. Bắt đầu từ năm 1997, sau khi tỉnh Vĩnh Phú tách ra thành 2 tỉnh là tỉnh Vĩnh Phúc và tỉnh Phú Thọ, NHCT Vĩnh Phú cũng được tách ra thành NHCT Vĩnh Phúc và NHCT Phú Thọ. Từ thời điểm này NHCT Phú Thọ hoạt động độc lập với 4 chi nhánh: Hội sở NHCT tỉnh đặt tại thành phố Việt Trì, chi nhánh NHCT thị xã Phú Thọ, chi nhánh NHCT Đền Hùng, chi nhánh Nam Việt Trì cùng với các phòng giao dịch, quỹ tiết kiệm đặt khắp nơi trên địa bàn tỉnh nhằm mở rộng mạng lưới hoạt động và thu hút khách hàng.
Năm 2005, theo chỉ thị của NHCT Việt Nam, NHCT tỉnh Phú Thọ đã thực hiện phân cấp lại, lúc này chi nhánh thị xã Phú Thọ, chi nhánh Đền Hùng và chi nhánh Nam Việt Trì hoạt động độc lập với Hội sở NHCT tỉnh, còn Hội sở NHCT tỉnh chính thức đổi thành NHCT Phú Thọ, tự hạch toán và chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của mình.
Năm 2006, theo chủ trương hiện đại hóa ngân hàng của NHCT Việt Nam, chi nhánh NHCT tỉnh Phú Thọ đã thực hiện việc nâng cấp các chi nhánh trực thuộc thành chi nhánh cấp 1 (chi nhánh NHCT Đền Hùng - tháng 1/2006, chi nhánh NHCT Nam Việt Trì - tháng 3/2006, chi nhánh NHCT thị xã Phú Thọ - tháng 7/2006).
Cho tới nay, chi nhánh NHCT Phú Thọ đã triển khai ứng dụng có hiệu quả rất nhiều dịch vụ ngân hàng theo hướng kinh doanh đa năng, điển hình là: dịch vụ thanh toán trong nước qua hệ thống máy vi tính với chương trình thanh toán hiện đại kết nối Internet, dịch vụ thanh toán kiều hối, dịch vụ thanh toán quốc tế qua mạng SWIFT, dịch vụ mua bán ngoại tệ, chăm sóc và tư vấn khách hàng...
Công nghệ của ngân hàng đã có sự đổi mới, ngày càng hiện đại, đáp ứng được yêu cầu kinh doanh trong điều kiện kinh tế ngày càng phát triển. Hiện nay, công nghệ tin học đã được ứng dụng vào tất cả các lĩnh vực hoạt động của chi nhánh như: thanh toán, hạch toán, kế toán, quản lý hoạt động cho vay, nhận tiền gửi của khách hàng, thông tin tín dụng và phòng ngừa rủi ro, quản lý nhân sự, tổ chức hành chính... Ngoài ra, hệ thống máy rút tiền tự đông ATM cũng được lắp đặt tại nhiều địa điểm, đặc biệt tại thành phố, thị xã, những nơi tập trung nhiều dân cư sinh sống.
Ngân hàng luôn quan tâm đào tạo, bồi dưỡng phẩm chất, nâng cao năng lực cho cán bộ, nhân viên làm việc tại chi nhánh để phát huy tối đa hiệu quả hoạt động của chi nhánh, giúp chi nhánh có thể tự tin vào sự phát triển mạnh mẽ của mình trong tương lai.
Là một chi nhánh của NHCT Việt Nam –NHTM cổ phần (NHCT Việt Nam vừa cổ phần hoá cuối tháng 12 năm 2008) –là một tổ chức tín dụng, chi nhánh NHCT Phú Thọ có các chức năng sau:
- Xây dựng chiến lược và kế hoạch phát triển kinh doanh của chi nhánh sao cho phù hợp với từng thời kỳ.
- Cấp tín dụng và cấp các dịch vụ ngân hàng khác đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng trong lĩnh vực công nghiệp, thương nghiệp và dịch vụ thuộc mọi thành phần kinh tế.
- Chịu sự quản lý và điều tiết của UBND tỉnh Phú Thọ và NHNN tỉnh Phú Thọ.
- Hoạt động theo luật các tổ chức tín dụng sửa đổi năm 2003.
- Được nhận tiền gửi của các tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác dưới các hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại tiền gửi khác bằng VND và ngoại tệ phù hợp với Luật ngân hàng hiện hành; phát hành các chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu; tiếp nhận vốn tài trợ, vốn uỷ thác đầu tư từ NHNN và các tổ chức quốc tế, quốc gia và các cá nhân khác có các chương trình phát triển kinh tế văn hoá-xã hội vay vốn NHNN, các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước.
2.1.2. Cơ cấu tổ chức và chức năng các phòng ban của chi nhánh NHCT Phú Thọ:
Sơ đồ 1: Mô hình tổ chức bộ máy kinh doanh NHCT Phú Thọ
NHCT tỉnh Phú Thọ
PDG
Gia Cẩm
PGD chợ Trung tâm
PDG
Nông Trang
Sơ đồ 2: Cơ cấu tổ chức NHCT Phú Thọ:
Phòng khách hàng doanh nghiệp
Phòng khách hàng cá nhân
Ban
Giám
đốc
Phòng quản lý rủi ro
Phòng kế toán giao dịch
Phòng thanh toán xuất nhập khẩu
Phòng tiền tệ kho quỹ
Phòng tổ chức hành chính
Phòng thông tin điện toán
Theo quyết định của Giám đốc NHCT Phú Thọ ngày 5/9/2006 quy định lại nhiệm vụ, chức năng của các phòng ban trong ngân hàng thì NHCT Phú Thọ bao gồm 8 phòng với các chức năng cụ thể của các phòng như sau:
* Phòng khách hàng doanh nghiệp:
Là phòng nghiệp vụ trực tiếp giao dịch với khách hàng là các doanh nghiệp lớn, khai thác vốn bằng VND và ngoại tệ, thực hiện các nghiệp vụ liên quan tới tín dụng, quản lý các sản phẩm tín dụng phù hợp với chế độ thể lệ hiện hành và hướng dẫn của NHCT Việt Nam; trực tiếp quảng cáo, tư vấn, tiếp thị và giới thiệu sản phẩm dịch vụ ngân hàng cho các doanh nghiệp.
Ngoài ra, phòng khách hàng doanh nghiệp còn có chức năng tham mưu cho Giám đốc chi nhánh dự kiến kế hoạch kinh doanh, tổng hợp, phân tích đánh giá tình hình hoạt động kinh doanh, thực hiện báo cáo hoạt động hàng năm của chi nhánh.
* Phòng khách hàng cá nhân:
Là phòng nghiệp vụ trực tiếp giao dịch với khách hàng là các cá nhân để khai thác vốn bằng VND, ngoại tệ; thực hiện các nghiệp vụ liên quan đến tín dụng, quản lý các sản phẩm tín dụng phù hợp với chế độ, thể lệ hiện hành và theo hướng dẫn của NHCT Việt Nam; trực tiếp quảng cáo, tiếp thị, tư vấn và giới thiệu các sản phẩm dịch vụ ngân hàng cho khách hàng cá nhân.
* Phòng quản lý rủi ro:
Phòng quản lý rủi ro thực hiện chức năng đánh giá, quản lý rủi ro trong toàn bộ các hoạt động kinh doanh của ngân hàng theo chỉ đạo của NHCT Việt Nam; tham mưu cho Giám đốc chi nhánh về công tác quản lý rủi ro của chi nhánh, bao gồm: rủi ro rín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro kinh doanh, rủi ro thanh toán... ; quản lý, giám sát thực hiện danh mục cho vay, đầu tư phải đảm bảo tuân thủ theo đúng các hạn mức tín dụng cấp cho từng khách hàng. Một nhiệm vụ nữa rất quan trọng của phòng quản lý rủi ro chính là thẩm định và tái thẩm định khác hàng về dự án kinh doanh đối với khách hàng vay vốn theo dự án đầu tư hay phương án kinh doanh đối với khách hàng vay vốn lưu động.
Phòng Quản lý rủi ro chịu trách nhiệm vè quản lý và xử lý các khoản nợ có vấn đề (bao gồm các khoản nợ: thay đổi thời hạn nợ, nợ xấu, nợ quá hạn); quản lý, khai thác và xử lý tài sản đảm bảo nợ vay theo quy định của nhà nước nhằm thu hồi các khoản nợ gốc và lãi vay; quản lý và theo dõi các khoản nợ đã được xử lý.
* Phòng kế toán giao dịch:
Là phòng nghiệp vụ thực hiện các giao dịch trực tiếp với khách hàng, các nghiệp vụ và các công việc liên quan đến công tác quản lý tài chính, chỉ tiêu nội bộ tại chi nhánh; cung cấp dịch vụ ngân hàng liên quan đến nghiệp vụ thanh toán, xử lý hạch toán giao dịch; quản lý và chịu trách nhiệm đối với hệ thống giao dịch trên máy, quản lý tiền mặt đến từng giao dịch viên theo đúng quy định của Nhà nước và NHCT Việt Nam. Ngoài ra, phòng kế toán giao dịch còn có chức năng tư vấn cho khách hàng về việc sử dụng các sản phẩm ngân hàng.
*Phòng thanh toán xuất nhập khẩu (phòng tài trợ thương mại):
Là phòng nghiệp vụ thực hiện các nghiệp vụ thanh toán xuất nhập khẩu và kinh doanh ngoại tệ tại chi nhánh theo quy định của NHCT Việt Nam, các nghiệp vụ cụ thể là:
- Thực hiện các nghiệp vụ thanh toán xuất nhập khẩu theo hạn mức được cấp;
- Thực hiện nghiệp vụ về mua bán ngoại tệ;
- Hỗ trợ phòng kế toán thực hiện chuyển tiền nước ngoài, nếu cần kiểm tra HĐ ngoại thương hoặc thủ tục của các khoản tiền khác.
*Phòng tiền tệ, kho quỹ:
Là phòng nghiệp vụ quản lý an toàn kho quỹ, quản lý tiền mặt theo quy định của NHNN và NHCT Việt Nam, ứng và thu tiền cho các quỹ tiết kiệm, các điểm giao dịch trong và ngoài quầy, thu chi tiềm mặt cho các doanh nghiệp có giao dịch lớn.
*Phòng tổ chức hành chính:
Là phòng nghiệp vụ thực hiện công tác tổ chức cán bộ và đào tạo tại chi nhánh theo đúng chủ trương chính sách của Nhà nước và quy định của NHCT Việt Nam; thực hiện công tác quản trị và văn phòng phục vụ hoạt động kinh doanh tại chi nhánh; thực hiện công tác bảo vệ anh ninh và an toàn cho chi nhánh.
2.1.3. Hoạt động kinh doanh của chi nhánh NHCT Phú Thọ trong một vài năm gần đây:
2.1.3.1. Huy động vốn
Trong hoàn cảnh kinh tế cả nước cũng như kinh tế địa phương ngày càng phát triển, lượng vốn cần thiết để đáp ứng nhu cầu đầu tư, sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, hộ gia đình và cá nhân ngày càng tăng nên NHCT Phú Thọ luôn quan tâm tới hoạt động huy động vốn và coi đây là nhiệm vụ quan trọng trong hoạt động kinh doanh tiền tệ.
Với phương châm hoạt động “Vì sự thành đạt của mọi người, mọi nhà, mọi doanh nghiệp”, NHCT Phú Thọ luôn cố gắng áp dụng nhiều hình thức huy động vốn đa dạng, sáng tạo như:
- Nhận tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn;
- Nhận tiền gửi tiết kiệm với nhiều kỳ hạn;
- Phát hành kỳ phiếu ngân hàng;
- Phát hành trái phiếu NHCT có kèm quà tặng;
- Phát hành thẻ ATM song song với việc lắp đặt hệ thống máy ATM...
Trên cơ sở các phương thức huy động vốn phong phú và đa dạng, NHCT Phú Thọ đã khá thành công với kết quả là lượng vốn huy động tăng ổn định qua các năm, hơn thế chỗ đứng của ngân hàng trong lòng dân cư ngày càng được củng cố.
Bảng 1: Tình hình huy động vốn của NHCT Phú Thọ giai đoạn 2006-2008:
Chỉ tiêu
31/12/2006
31/12/2007
31/12/2008
Số tiền (tỷ)
Tỷ trọng (%)
Số tiền (tỷ)
Tỷ trọng (%)
Số tiền (%)
Tỷ trọng (%)
Theo loại TG
681.500
100.00
736.904
100.00
927.830
100.00
VNĐ
436.024
63.98
520.829
70.69
649.827
70.04
Ngoại tệ
185.476
27.22
216.095
29.31
278.003
29.96
Theo cơ cấu TG
681.500
100.00
736.904
100.00
927.830
100.00
TG các TCKT
169.489
24.87
213.556
28.98
298.235
32.14
TGTK
485.624
71.26
507.236
68.83
616.880
66.49
PH công cụ nợ
26.387
3.87
16.112
2.19
12.715
1.37
Theo thời hạn
681.500
100.00
736.904
100.00
927.830
100.00
Ngắn hạn
427.000
62.66
395.939
53.73
594.553
64.08
Trung dài hạn
254.500
37.34
340.965
46.27
333.277
35.92
Tổng nguồn vốn huy động tại chỗ
681.500
100.00
736.904
100.00
927.830
100.00
LSHĐ bình quân
5.4
5.6
10.25
Nguồn: Báo cáo tài chính của ngân hàng từ năm 2006 đến 2008
Nhìn vào bảng 1 và bảng 2, ta thấy rằng nguồn vốn huy động tại chỗ của ngân hàng được tăng lên qua các năm cả về nguồn VND và nguồn ngoại tệ. Tuy nhiên, so với năm 2006, nguồn vốn huy động tại chỗ năm 2007 là 736.904 tỷ đồng, tăng gần 55.404 tỷ tương đương 8.13%, chủ yếu do nguồn tiền gửi của doanh nghiệp tăng 44.067 tỷ đồng, tương ứng với tăng 26%. Cuối năm 2007, một số doanh nghiệp có số dư tiền gửi tăng do chưa phải chuyển để thanh toán với các đơn vị chủ quản.
Bảng 2: So sánh tăng trưởng vốn huy động giữa các năm
Chỉ tiêu
Tăng trưởng vốn huy động năm 2007 so với 2006
Tăng trưởng vốn huy động năm 2008 so với 2007
Số tuyệt đối (tỷ)
Số tương đối (%)
Số tuyệt đối (tỷ)
Số tương đối (%)
Theo loại TG
55.404
8.13
190.926
25.91
VNĐ
84.805
19.45
128.998
24.76
Ngoại tệ
30.619
16.51
61.908
28.65
Theo cơ cấu TG
55.404
8.13
190.926
25.91
TG các TCKT
44.067
26.00
84.679
39.65
TGTK
21.612
4.45
109.644
21.62
PH công cụ nợ
-10.275
-38.94
-3.397
-21.08
Theo thời hạn
55.404
8.13
190.926
25.91
Ngắn hạn
-31.061
-7.27
198.614
50.16
Trung dài hạn
86.465
33.97
-7.688
-2.25
Tổng nguồn vốn huy động tại chỗ
55.404
8.13
190.926
25.91
Nguồn: Báo cáo tài chính của ngân hàng từ 2006 – 2008
Còn so với năm 2007, nguồn vốn huy động tại chỗ của ngân hàng năm 2008 là 927.83 tỷ đồng tăng hơn 90 tỷ tương đương với 25.91%. Cũng như năm 2007, nguồn vốn huy động tăng trưởng đồng đều giữa hai nguồn tiền gửi các TCKT và tiền gửi dân cư nhưng khác ở chỗ, nguồn vốn huy động tập trung chủ yếu vào tiền gửi ngắn hạn, chiếm 64.08% nguồn vốn huy động tại chỗ, tăng 50.16% so với 2007, lượng tiền gửi trung và dài hạn giảm đáng kể, chỉ chiếm 35.92% không nằm ngoài xu thế chung của toàn hệ thống NHTM ở Việt Nam. Mức tiền gửi bằng VND và ngoại tệ vẫn tăng trưởng ổn định qua các năm. Công tác huy động vốn từ các tổ chức đã được ngân hàng đặc biệt quan tâm, với nhiều hình thức khuyến mại, chăm sóc khách hàng... đã thu hút được một số khách hàng mới có số dư tiền gửi bình quân lớn. Tuy đây là nguồn vốn có lãi suất huy động thấp, tính ổn định không cao nhưng đã góp phần không nhỏ vào hiệu quả kinh doanh của ngân hàng. Nguồn vốn huy động tiền gửi dân cư giữ ở mức ổn định ở mức 68.7% tổng nguồn huy động do đó lãi suất huy động của bộ phận này có ảnh hưởng rất lớn đến lãi suất đầu vào của ngân hàng.
2.1.3.2. Tình hình sử dụng vốn:
Trong hoạt động sử dụng vốn thì hoạt động tín dụng chiếm tỷ trọng lớn, vì thế, ngân hàng luôn chú trong phát triển quan hệ với các khách hàng truyền thống, vay vốn với số lượng lớn, nhóm khách hàng này thường là các doanh nghiệp. Nhưng không vì thế mà ngân hàng thiếu đi sự quan tâm tới nhóm khách hàng cá nhân, hộ gia đình, một nguồn huy động chiếm tỷ trọng khá lớn cho ngân hàng. Với nhóm khách hàng này, ngân hàng khuyến khích họ vay vốn đầu tư phát triển kinh tế với sự đảm bảo bằng các loại tài sản hợp lý và phương án sử dụng vốn thích hợp để thực hiện xoá đói giảm nghèo, phát triển kinh tế địa phương.
Bảng 3: Tình hình cho vay của NHCT Phú Thọ giai đoạn 2006-2008:
Chỉ tiêu
31/12/2006
31/12/2007
31/12/2008
Số tiền (tỷ)
Tỷ trọng (%)
Số tiền (tỷ)
Tỷ trọng (%)
Số tiền (tỷ)
Tỷ trọng (%)
Theo loại tiền vay
824.170
100
939.073
100.00
1206.086
100
VND
608.155
73.79
689.704
73.45
849.542
82.85
USD
216.015
26.21
249.369
26.55
356.544
34.7
Theo loại cho vay
824.170
100
939.073
100.00
1206.086
100
CV ngắn hạn
552.111
66.99
644.029
68.58
953.127
79.03
CV trung, dài hạn
272.059
33.01
295.044
31.42
252.959
20.97
Theo thành phần kinh tế
824.170
100
939.073
100.00
1206.086
100
DNQD
244.531
29.67
278.588
29.67
427.919
35.48
DNNQD, Cá nhân
579.639
70.33
660.485
70.33
778.167
64.52
Theo điều kiện cho vay
824.170
100
939.073
100.00
1206.086
100
Không TSĐB
214.037
25.97
244.065
25.99
428.161
35.5
Có TSĐB
610.133
74.03
695.008
74.01
777.925
64.5
Tổng dư nợ
824.170
100
939.073
100.00
1206.086
100
Nguồn: Báo cáo tài chính của ngân hàng từ năm 2006 đến 2008
*Về quy mô hoạt động cho vay:
Tính tới 31/12/2007, tổng dư nợ cho vay nền kinh tế là 939.073 tỷ đồng, tăng 115 tỷ so với năm 2006 và bằng 106,7% kế hoạch được giao. Dư nợ cho vay của NHCT Phú Thọ chiếm thị phần 11,5%, tốc độ tăng trưởng 13,9%, còn ở mức tăng trưởng thấp so với tốc độ tăng trưởng tín dụng chung là 25,3% trên địa bàn. Cũng tại thời điểm này, tổng số khách hàng có quan hệ tín dụng với chi nhánh là 1331, tăng so với năm 2006 là 189 khách hàng; khách hàng doanh nghiệp là 137 giảm 4 đơn vị so với đầu năm, trong đó: DNNN có 3 đơn vị, công ty CP có 57 đơn vị, công ty TNNH có 64 đơn vị, hầu hết các khách hàng là doanh nghiệp vừa và nhỏ, tình hình tài chính lành mạnh.
Năm 2008, tổng dư nợ cho vay nền kinh tế đạt 1206.086 tỷ đồng, tăng gần 267 tỷ so với năm 2007, tốc độ tăng trưởng 28% và đạt 102,6% kế hoạch được giao. Đầu tư tín dụng của ngân hàng chiếm 11,09% thị phần. Hoạt động tín dụng của năm 2008 tập trung vào củng cố và nâng cao chất lượng tín dụng, chọn lọc khách hàng, tập trung cho vay ngắn hạn, hạn chế đầu tư trung và dài hạn. Cũng như năm 2007, ngân hàng bám sát các ngành, các doanh nghiệp là thế mạnh của kinh tế tỉnh, tăng cường cho vay các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, hộ sản xuất kinh doanh, cho vay tiêu dùng, đồng thời giữ vững dư nợ đối với các doanh nghiệp lớn sản xuất kinh doanh có hiệu quả, các khách hàng chiến lược. Tính tới 31/12/2008, ngân hàng có mối quan hệ tín dụng với 1117 khách hàng là tổ chức và cá nhân, hộ gia đình, giảm hơn 200 khách hàng so với năm 2007, trong đó có 137 khách hàng doanh nghiệp (2 DNNN, 61 công ty CP, 64 công ty TNHH, 2 doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, 8 doanh nghiệp loại hình khác). Có 980 khách hàng cá nhân vay tiêu dùng, hộ gia đình sản xuất kinh doanh. Tổng số khách hàng có quan hệ giao dịch với ngân hàng là 16000 tổ chức, cá nhân.
*Về cơ cấu tín dụng:
So với năm 2006, dư nợ cho vay ngắn hạn của năm 2007 là 644,029 tỷ, tăng gần 92 tỷ tương đương với tăng 17%; dư nợ cho vay trung dài hạn là 295.044 tỷ đồng, tăng 23 tỷ so với 2006 tương đương với 8,5%. Như vậy, tốc độ tăng cho vay ngắn hạn cao hơn cho vay trung dài hạn. Theo cơ cấu loại tiền cho vay: cho vay bằng VND đạt 690 tỷ tăng 82 tỷ so với 2006, đạt 109,5% kế hoạch được giao; dư nợ cho vay bằng ngoại tệ quy đổi đạt 249 tỷ, tăng 33 tỷ so với năm 2006, đạt 99,7% kế hoạch. Tuy nhiên, cho vay DNQD của ngân hàng đã vượt quá chỉ tiêu được giao là 23,8% mà lên tới 29,67% tổng dư nợ.
Đối với năm 2008, dư nợ cho vay ngắn hạn là 953,127 tỷ đồng, tăng 309 tỷ so với 2007 tương đương với tăng 48%; dư nợ cho vay trung dài hạn là 252,959 tỷ đồng giảm 42 tỷ đồng tương đương với giảm 17%. Như vậy năm 2008, dư nợ cho vay của ngân hàng tăng hoàn toàn là do tăng dư nợ cho vay ngắn hạn, qua đây có thể thấy rõ năm 2008 ngân hàng tập trung vào việc cho vay ngắn hạn, hạn chế cho vay trung và dài hạn, đảm bảo mục tiêu sinh lời và an toàn của ngân hàng. Theo cơ cấu loại tiền cho vay, cho vay bằng VND đạt 849,542 tỷ, tăng 160 tỷ so với 2007 tương đương với tăng 23%, đạt 118% kế hoạch được giao; dư nợ cho vay bằng ngoại tệ quy đổi là 356 tỷ, tăng 107 tỷ tương đương 48%, đạt 78,4% kế hoạch. Khác với năm 2007, tỷ lệ cho vay DNNN của ngân hàng là 35,5% tổng dư nợ, cao hơn tỷ lệ được giao là 15,5%. Cho vay không có TSĐB chiếm 35,5% tổng dư nợ, cao hơn tỷ lệ được giao là 9,5%, chủ yếu tập trung vào DNNN TW, đây là khách hàng được ngân hàng đánh giá là một trong những doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, đảm bảo khả năng trả nợ.
*Về chất lượng tín dụng:
Bảng 4: Trạng thái các khoản vay
Chỉ tiêu
31/12/2006
31/12/2007
31/12/2008
Số tiền (tỷ)
Tỷ trọng (%)
Số tiền (tỷ)
Tỷ trọng (%)
Số tiền (tỷ)
Tỷ trọng (%)
Nợ nhóm 1
671.210
81.44
843.058
89.78
1163.020
96.43
Nợ nhóm 2
124.368
15.09
77.023
8.20
10.600
0.88
Nợ nhóm 3
13.883
1.68
10.114
1.08
3.492
0.29
Nợ nhóm 4
14.134
1.71
0.140
0.01
20.296
1.68
Nợ nhóm 5
0.575
0.07
8.738
0.93
8.678
0.72
Tổng cộng
824.170
100.00
939.073
100.00
1206.086
100.00
Nguồn: Báo cáo tài chính của ngân hàng từ năm 2006 đến 2008
Tính đến 31/12/2007, nợ nhóm 2 của ngân hàng là 77,023 tỷ đồng, giảm 47,345 tỷ so với 2006 và bằng 88% kế hoạch; nợ xấu là 18,992 tỷ tăng 9,6 tỷ so với năm trước, chủ yếu là nhóm 3 với số tiền 10,114 tỷ và nhóm 5 là 8,738 tỷ. Nguyên nhân của việc giảm nợ nhóm 2 một phần là do ngân hàng đã bám sát các khoản vay, đôn đốc thu nợ gốc lãi đến hạn. Mặt khác do thay đổi trong quy định về phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro theo quyết định số 18 của NHNN, các khoản ngắn hạn được gia hạn nợ sẽ bị chuyển nhóm 3 (nợ xấu) không được phân loại nhóm 2 như trước đây nên làm cho nợ xấu của ngân hàng tăng thêm 9.6 tỷ so với năm trước.
Tính tới 31/12/2008, nợ nhóm 2 chỉ còn 10.6 tỷ đồng, giảm so với năm 2007 là 67 tỷ, trong đó: nợ nhóm 2 chuyển sang nợ nhóm 1 là 39 tỷ do thu hết nợ quá hạn, 34.5 tỷ được chuyển sang nhóm nợ rủi ro cao hơn là 34.4 tỷ. Nợ xấu là 33 tỷ tăng 14 tỷ so với năm 2007, trong đó: 3,492 tỷ nợ nhóm 3; 20.296 tỷ nợ nhóm 4; 8.678 tỷ nợ nhóm 5 và 17.3 tỷ nợ đã xử lý trong năm.
Như vậy, việc thực hiện thu nợ xấu của ngân hàng chưa đạt kế hoạch do NHCT Việt Nam giao, xuất phát từ nguyên nhân khách quan của nền kinh tế mang lại. Lãi suất tăng gần 2 lần so với 2007 đã làm cho các doanh nghiệp gặp khó khăn về tài chính, khả năng trả nợ ngân hàng bị suy giảm, nhiều doanh nghiệp chỉ còn khả năng trả lãi, không trả được nợ gốc dẫn đến nợ quá hạn, thậm chí nhiều doanh nghiệp đứng trước nguy cơ ngừng hoạt động có thể bị phá sản.
*Về thu hồi nợ ngoại bảng:
Ngay từ đầu năm 2008, ngân hàng đã có những biện pháp tích cực đôn đốc khách hàng có nợ đã XLRR trả nợ ngân hàng. Các đơn vị có thoả thuận, cam kết trả nợ đã cố gắng thực hiện theo cam kết. Kết quả là thu nợ đã được XLRR là 18,14 tỷ, đạt 87% kế hoạch năm; thu nợ được chính phủ cấp nguồn xử lý là 1,36 tỷ gấp 11,3 lần kế hoạch được giao.
Tuy nhiên, nợ ngoại bảng vẫn còn lớn, với dự báo tình hình kinh tế 2009 và thực trạng sản xuất kinh doanh của đơn vị thì khả năng giảm dư nợ XLRR của ngân hàng còn nhiều khó khăn.
2.1.3. Hoạt động tài trợ thương mại và kinh doanh mua bán ngoại tệ:
Hoạt động tài trợ thương mại của chi nhánh đã đáp ứng tốt nhu cầu bảo lãnh, nhu cầu mở và thanh toán L/C của khách hàng, đạt kết quả cao nhất trong những năm qua cả về doanh số hoạt động và hiệu quả; đã góp phần hỗ trợ đắc lực cho hoạt động kinh doanh chung của chi nhánh, nâng cao uy tín của NHCT Phú Thọ.
*Hoạt động bảo lãnh: Trong năm 2008, ngân hàng đã thực hiện phát hành 356 món bảo lãnh trong nước với tổng số tiền là trên 67 tỷ đồng, giảm 19 món nhưng tăng về mặt giá trị gần 11 tỷ đồng so với năm 2007; thanh toán bảo lãnh 338 món, trị giá 55 tỷ, tăng 7 món tương ứng với số tiền là hơn 12 tỷ so với năm trước. Đặc biệt là ngân hàng phát hành 1 món bảo lãnh nước ngoài trị giá 12000 USD.
*Hoạt động mở và thanh toán L/C: Năm 2008, ngân hàng đã phát hành 118 L/C nhập khẩu, trị giá 62.726 triệu USD, giảm về số lượng 42 L/C nhưng giá trị tăng 17.249 triệu USD so với năm trước tương đương với 38%. Đã thanh toán 163 món trả nước ngoài với 62.158 triệu USD, tăng 17.137 triệu USD, tương đương với tỷ lệ 37.06%. Số L/C chưa đến hạn thanh toán gồm 10 món trị giá 2.742 triệu USD.
Trong năm vừa qua, lượng L/C nhập giảm chủ yếu là do khách hàng thay đổi hình thức thanh toán từ L/C sang hình thức nhờ thu trả chậm (D/A) nhằm tiết kiệm chi phí dịch vụ và giảm lãi vay do lãi suất nước ngoài thấp hơn trong nước.
*Thanh toán nhờ thu:
-Nhờ thu đến: Nhận thông báo 109 bộ chứng từ thu, trị giá 5.451 triệu USD, tăng 93 bộ so với 2007; đã thanh toán trả nước ngoài 58 món tương ứng với số tiền 2.6 triệu USD, tăng so với 2007 là 42 món. Số bộ chứng từ nhờ thu trả chậm chưa tới hạn thanh toán là 46 bộ, trị giá 2.655 triệu USD.
-Nhờ thu đi: Chứng từ nhờ thu đi gồm 3 bộ đã được ngân hàng nước ngoài thanh toán 100% trị giá 63 ngàn USD, uy tín của ngân hàng trong hoạt động thanh toán XNK ngày càng được nâng lên.
*Kinh doanh ngoại tệ: Năm 2008, diễn biến tỷ giá ngoại tệ cũng như cung-cầu ngoại tệ USD trên thị trường hết sức phức tạp và khó dự báo. Đã có lúc cung USD dư thừa, ngân hàng hạn chế mua vào, quy định phí đổi USD ra VND, nhưng sau đó nhu cầu ngoại tệ thanh toán xuất khẩu tăng đột biến dẫn đến sự khan hiếm USD, tỷ giá tăng cao. Tuy nhiên công tác kinh doanh ngoại tệ vẫn đạt được kết quả đáng kể.
Kết quả là: thu từ hoạt động tài trợ thương mại và kinh doanh ngoại tệ là 4,873 tỷ tăng 1,576 tỷ so với 2007.
2.1.3.4. Các hoạt động khác:
Các hoạt động kế toán giao dịch, thủ quỹ tiền tệ và công tác kiểm tra kiểm soát nội bộ luôn được chú trọng và nâng cao thường xuyên nhằm mục đích hỗ trợ và nâng cao hiệu quả cho các hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
2.1.4. Kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng:
Bảng 5: Kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng qua các năm
2006
2007
2008
Chỉ tiêu
Số tiền (tỷ)
Tỷ trọng (%)
Số tiền (tỷ)
Tỷ trọng (%)
Số tiền (tỷ)
Tỷ trọng (%)
Tổng thu
148.4
100
163.3
100
221.7
100
Thu từ cho vay
141.4
95.28
154.06
94.34
212.585
95.89
Thu từ dịch vụ
2.7
1.82
5.54
3.39
4.615
2.08
Thu khác
4.3
2.90
3.7
2.27
4.5
2.03
Tổng chi
113.1
76.21
143
87.57
187.145
84.41
Lợi nhuận
35.3
23.79
20.3
12.43
34.555
15.59
Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của ngân hàng từ 2006 đến 2008
Cho vay là hoạt động chủ yếu của ngân hàng, do vậy, thu nhập từ hoạt động cho vay chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng thu nhập của ngân hàng. Một điều đáng chú ý ở đây là, lợi nhuận của ngân hàng giảm đáng kể vào năm 2007 và đã được cải thiện một chút vào năm 2008. Việc giảm lợi nhuận bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan. Nguyên nhân khách quan và cũng là nguyên nhân gây ảnh hưởng lớn đó chính là do diễn biến chung của nền kinh tế, khiến cho không chỉ các ngân hàng mà còn các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong hoạt động kinh doanh.
2.2. Thực trạng hoạt động cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp tại chi nhánh ngân hàng công thương tỉnh Phú Thọ
2.2.1. Cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp tại ngân hàng
Cho vay ngắn hạn luôn là hoạt động chủ yếu trong hoạt động cho vay và hoạt động tín dụng nói chung của ngân hàng. Dự nợ cho vay ngắn hạn luôn chiếm tỷ trọng cao trong tổng dư nợ cho vay, từ 66,99% năm 2006, tăng nhẹ lên 68,58% năm 2007 và tăng cao lên 79,09% vào năm 2008. Số lượng khách hàng doanh nghiệp ổn định qua các năm, chủ yếu là dựa trên mối quan hệ lâu dài và quen thuộc với ngân hàng, vì ngân hàng công thương tỉnh Phú Thọ là một trong những ngân hàng lâu đời và uy tín tại địa bàn tỉnh Phú Thọ.
Bảng 6: Dư nợ ngắn hạn đối với DNQD và DNNQD:
Chỉ tiêu
31/12/2006
31/12/2007
31/12/2008
Số tiền (tỷ)
Tỷ trọng (%)
Số tiền (tỷ)
Tỷ trọng (%)
Số tiền (tỷ)
Tỷ trọng (%)
DNQD
177.714
21.56
240.418
25.60
313.333
25.98
DNNQD
280.958
34.09
303.61
32.33
464.522
38.51
Dư nợ ngắn hạn đối với DN
458.672
55.65
544.028
57.93
777.855
64.49
Tổng dư nợ
824.170
100
939.073
100.00
1206.086
100.00
Nguồn: Báo cáo tài chính của ngân hàng từ năm 2006 đến 2008
So với năm 2006, dư nợ ngắn hạn năm 2007 của ngân hàng tăng gần 16.65% trong đó dư nợ ngắn hạn của khối doanh nghiệp tăng 18.61%, dư nợ ngắn hạn của năm 2008 tăng 72.63% trong đó dư nợ ngắn hạn của khối doanh nghiệp tăng 69.59%. Như vậy, quy mô dư nợ cho vay ngắn hạn nói chung và dư nợ ngắn hạn đối với khối doanh nghiệp của ngân hàng tăng trưởng cao qua các năm đặc biệt là từ 2007 sang 2008, nhưng sau giai đoạn tình hình tài chính tiền tệ gặp sóng gió năm 2008, xu hướng của các ngân hàng là đẩy mạnh dịch vụ bán lẻ, mà đối tượng chính là khách hàng cá nhân, vì thế ngân hàng công thương tỉnh Phú Thọ cũng có chiến lược nâng cao chất lượng và đẩy mạnh cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp kết hợp với mở rộng cho vay ngắn hạn đối với cá nhân.
Biểu đồ 1: Cơ cấu dư nợ cho vay ngắn hạn theo thành phần kinh tế
Nguồn: Báo cáo tài chính của ngân hàng từ năm 2006 đến 2008
Dư nợ ngắn hạn của doanh nghiệp chiếm tới 83,08% tổng dư nợ ngắn hạn năm 2006, tăng nhẹ 84,47% năm 2007 và giảm xuống còn 81,61% năm 2008. Có sự biến động này là do giai đoạn cuối năm 2006 đầu năm 2007, thời kỳ lên ngôi của thị trường tài chính Việt Nam nói chung và của thị trường chứng khoán Việt Nam nói riêng, là động lực cho sự tăng trưởng của các doanh nghiệp cả về số lượng và doanh thu. Các doanh nghiệp tăng cường vay vốn dài hạn để mở rộng quy mô tài sản và vay vốn ngắn hạn nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh. Tình hình này kéo dài cho tới 3 tháng cuối năm 2007, thị trường chứng khoán giảm nhanh, tạo ra tâm lý hoang mang cho các nhà đầu tư và doanh nghiệp, họ chuyển tư kênh huy động vốn từ thị trường chứng khoán sang huy động vốn từ ngân hàng. Tuy nhiên, sự sụt giảm của thị trường chứng khoán có tác động hai chiều tới khả năng huy động vốn của doanh nghiệp. Sự biến động của thị trường chứng khoán tác động tới cung cầu của thị trường, tới giá cả nguyên liệu, hàng hóa tiêu dùng và các dịch vụ, gây ảnh hưởng trong đầu vào và đầu ra của doanh nghiệp... các tác động này diễn ra trong ngắn hạn sẽ khiến cho các doanh nghiệp vay vốn thêm nhưng trong dài hạn, nó làm tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp gặp khó khăn, đặc biệt là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Vì thế, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh gặp khó khăn hơn trong việc vay vốn ngân hàng so với doanh nghiệp quốc doanh về điều kiện vay vốn, và đây chính là nguyên nhân chính dẫn tới việc tại thời điển 31/12/2007, dư nợ ngắn hạn của doanh nghiệp quốc doanh tăng lên 37.33% so với tổng dư nợ ngắn hạn của ngân hàng còn của doanh nghiệp ngoài quốc doanh lại giảm còn 47.14%.
2.2.2. Cho vay ngắn hạn đối với khối doanh nghiệp quốc doanh tại NHCT Phú Thọ:
Tham gia việc vay vốn ngắn hạn tại ngân hàng có 51 doanh nghiệp quốc doanh, trong đó: 1 DNNN TW hoạt động trên lĩnh vực công nghiệp, 1 DNNN địa phương hoạt động trên lĩnh vực xây dựng và dịch vụ (dịch vụ tư vấn xây dựng), 38 công ty cổ phần Nhà nước hoạt động trên các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp và xây dựng, 11 công ty trách nhiệm hữu hạn Nhà nước hoạt động trên lĩnh vực công nghiệp, thương mại –dịch vụ.
Bảng 7: Cơ cấu cho vay ngắn hạn đối với thành phần DNQD
Chỉ tiêu
31/12/2006
31/12/2007
31/12/2008
Số tiền (tỷ)
Tỷ trọng (%)
Số tiền (tỷ)
Tỷ trọng (%)
Số tiền (tỷ)
Tỷ trọng (%)
DNNN TW
142.135
30.99
178.273
32.77
251.23
32.30
Công nghiệp
142.135
30.99
178.273
32.77
251.23
32.30
DNNN ĐP
7.214
1.57
5.741
1.06
6.689
0.86
Xây dựng
6.845
1.49
5.441
1.00
6.089
0.78
Thương nghiệp, dịch vụ
0.369
0.08
0.3
0.06
0.6
0.08
CP NN
19.362
4.22
32.01
5.88
35.014
4.50
Công nghiệp
19.362
4.22
32.01
5.88
35.014
4.50
TNHH NN
9.003
1.96
24.394
4.48
20.4
2.62
Công nghiệp
2.639
0.58
7.546
1.39
5.816
0.75
Thương nghiệp, dịch vụ
6.364
1.39
16.848
3.10
14.584
1.87
Tổng dư nợ ngắn hạn đối với DNQD
177.71
38.75
240.42
44.19
313.33
40.28
Tổng dư nợ ngắn hạn đối với DN
458.67
100.00
544.028
100.00
777.855
100.00
Nguồn: Báo cáo tài chính của ngân hàng từ 2006-2008
Biểu đồ 2: So sánh cơ cấu tỷ trọng các thành phần trong khối DNQD
Tuy chiếm số lượng rất ít nhưng xét về quy mô vay vốn ngắn hạn thì DNNN TW luôn chiếm tỷ trọng cao trong tổng số dư nợ cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp, tập trung hoàn toàn vào ngành công nghiệp cụ thể là công nghiệp chế biến, chiếm xấp xỉ 1/3 dự nợ cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp. DNNN địa phương tham gia vay vốn ngắn hạn ít, vì doanh nghiệp hoạt động chủ yếu ở ngành xây dựng, nên sẽ tập trung vào vay vốn trung –dài hạn hơn là vay vốn ngắn hạn. Các công ty cổ phần Nhà nước tuy hoạt động trên ba lĩnh vực là công nghiệp, nông nghiệp và xây dựng, nhưng tham gia vay vốn tại ngân hàng chỉ để đầu tư cho hoạt động công nghiệp và xây dựng, vì vay vốn phục vụ cho hoạt động nông nghiệp sẽ có lợi hơn khi vay vốn tại ngân hàng Phát triển Nông nghiệp và Nông thôn, trong đó vay ngắn hạn chỉ để đầu tư cho ngành công nghiệp. Đối với công ty TNHH nhà nước, với số lượng không lớn, cùng với đều là thuộc loại doanh nghiệp vừa và nhỏ, nên quy mô vay vốn nhỏ, nên chỉ chiếm tỷ trọng thấp, khoảng dưới 5% mỗi năm.
Nhìn chung, diễn biến cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp quốc doanh tại ngân hàng luôn đi cùng xu thế cho vay ngắn hạn chung của ngân hàng, không có một biến động nào khác biệt.
2.2.3. Cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh:
Với số lượng tham gia vay vốn ngắn hạn nhiều hơn doanh nghiệp quốc doanh, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có tất cả 86 doanh nghiệp, trong đó: 2 công ty cổ phần, 49 công ty TNHH, 5 doanh nghiệp tư nhân, 2 doanh nghiệp có vốn vay nước ngoài và 3 hợp tác xã, tập trung vào hầu hết các ngành lĩnh vực kinh tế. Tuy nhiên, một điều đáng chú ý là các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài tham gia chủ yếu vay trung –dài hạn, nếu có các khoản vay ngắn hạn thì đều trả nợ trước thời điểm cuối năm, vì thế khi xem xét các khoản vay tại thời điểm 31/12 các năm thì chúng ta không thấy được tình hình vay vốn ngắn hạn tại ngân hàng của các doanh nghiệp này. Chúng ta chỉ xét các hoạt động gây ảnh hưởng tới cả năm, chứ không phải theo các tháng giữa năm.
Bảng 8: Cơ cấu cho vay ngắn hạn đối với các DNNQD
Chỉ tiêu
31/12/2006
31/12/2007
31/12/2008
Số tiền (tỷ)
Tỷ trọng (%)
Số tiền (tỷ)
Tỷ trọng (%)
Số tiền (tỷ)
Tỷ trọng (%)
TNHH TN
96.999
21.15
118.600
21.80
202.2
26.00
Công nghiệp
29.567
6.45
47.725
8.77
109.31
14.05
Xây dựng
19.560
4.26
20.722
3.81
32.618
4.19
Thương nghiệp, dịch vụ
47.872
10.44
50.151
9.22
60.296
7.75
CP
177.349
38.67
172.6
31.73
252
32.40
Công nghiệp
75.810
16.53
54.736
10.06
115.87
14.90
Xây dựng
41.095
8.96
58.930
10.83
49.341
6.34
Thương nghiệp, dịch vụ
60.444
13.18
58.955
10.84
86.782
11.16
DNTN
3.947
0.86
7.560
1.39
6.744
0.87
Công nghiệp
3.647
0.80
7.060
1.30
6.332
0.81
Thương nghiệp, dịch vụ
0.300
0.07
0.500
0.09
0.412
0.05
Hợp tác xã
2.663
0.58
4.831
0.89
3.558
0.46
Công nghiệp
1.463
0.32
4.171
0.77
3.058
0.39
Thương nghiệp, dịch vụ
0.800
0.17
0.660
0.12
0.500
0.06
Dư nợ ngắn hạn đối với DNNQD
280.958
61.25
303.600
55.81
464.500
59.72
Dư nợ ngắn hạn đối với DNNQD
458.670
100.00
544.028
100.00
777.855
100.00
Nguồn: Báo cáo tài chính của ngân hàng từ 2006 - 2008
Phía khách hàng doanh nghiệp quốc doanh có khối doanh nghiệp nhà nước trung ương chiếm ưu thế về dư nợ cho vay ngắn hạn thì phía khách hàng ngoài quốc doanh có khối công ty cổ phần chiếm ưu thế hơn cả. Năm 2006, năm đẩy mạnh cổ phần hóa, các công ty cổ phần đang trong thời kỳ thể hiện bản lĩnh trên thị trường, luôn tìm cách đẩy mạnh quy mô sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả hoạt động, vì thế nhu cầu vốn ngắn hạn tăng, chiếm 38.67% dư nợ ngắn hạn đối với doanh nghiệp, chủ yếu tập trung vào các ngành công nghiệp và thương nghiệp – dịch vụ. Tuy nhiên sang năm 2007, dư nợ ngắn hạn của ngành xây dựng đối với các công ty cổ phần lại tăng khiến cho tỷ trọng ngành công nghiệp, xây dựng, thương nghiệp –dịch vụ xấp xỉ ngang nhau là khoảng 10%. Nguyên nhân của sự gia tăng tỷ trọng vay ngắn hạn đối với ngành xây dựng là do cuối năm 2007, giá nguyên vật liệu có dấu hiệu tăng cao, dự đoán trước được tình hình giá có thể sẽ tăng cao hơn vào năm 2008, các công ty cổ phần hoạt động trong lĩnh vực xây dựng đã vay ngắn hạn ngân hàng để đầu tư mua nguyên vật liệu, tăng cường dự trữ.
Biểu đồ 3: Cơ cấu dư nợ ngắn hạn của các DNNQD theo thành phần
Đứng thứ hai về tỷ trọng vay ngắn hạn là các công ty TNHH tư nhân, giữ vững tỷ trọng dư nợ ngắn hạn ổn định ở 2 năm 2006 và 2007 là khoảng hơn 21%, sang năm 2008, tăng lên 26% trong tổng dư nợ ngắn hạn đối với doanh nghiệp. Các công ty TNHH hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực thương nghiệp –dịch vụ, kế tiếp là công nghiệp và sau cùng là xây dựng. Trong 2 năm 2006 và 2007, hoạt động thương mại, dịch vụ phát triển, hàng loạt các siêu thị, trung tâm thương mại được mở rộng, các công ty thương mại chuyên cung cấp các sản phẩm và dịch vụ về vật tư, y tế... ngày càng phát triển, nhu cầu về luân chuyển vốn lưu động cao, vì thế tỷ trọng vay vốn ngắn hạn phục vụ cho thương mại – dịch vụ tại ngân hàng của các công ty này chiếm khoảng 10.44% năm 2006 và 9.22% năm 2007. Tuy nhiên, sang năm 2008, vốn ngắn hạn lại được đầu tư nhiều hơn sang công nghiệp và chủ yếu là công nghiệp chế biến thực phẩm, dược phẩm... tỷ trọng dư nợ ngắn hạn đối với ngành công nghiệp của các công ty TNHH vào khoảng 14.9%, ngành thương nghiệp – dịch vụ chỉ còn 7.75% so với dư nợ ngắn hạn đối với doanh nghiệp.
Tuy không nhiều cả về số lượng lẫn quy mô dư nợ ngắn hạn, nhưng doanh nghiệp tư nhân và hợp tác xã là hai thành phần không thể thiếu đóng góp vào hiệu quả hoạt động tín dụng của ngân hàng. Năm 2006, dư nợ ngắn hạn của hai loại hình này còn thấp, chỉ khoảng 6.61 tỷ chiếm 1.44% dư nợ ngắn hạn đối với doanh nghiệp; sang năm 2007, tăng gần gấp đôi là 12.349 tỷ chiếm 2.28%; và năm 2008 là 10.302 tỷ chiếm 1.33%.
2.3. Chất lượng cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp
2.3.1. Các chỉ tiêu định tính
Để đánh giá chất lượng cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp tại ngân hàng công thương tỉnh Phú Thọ, không chỉ dựa trên các chỉ tiêu định lượng, mà còn phải dựa trên chỉ tiêu định tính. Hầu hết các ngân hàng tại Việt Nam đều chủ yếu thông qua các chỉ tiêu định lượng để đánh giá chất lượng tín dụng tại ngân hàng mình, vì dựa trên các chỉ tiêu định tính là việc làm không hề dễ dàng. Tuy nhiên, hệ thống ngân hàng công thương Việt Nam đã đưa ra một mẫu tương đối về việc đánh giá chất lượng tín dụng để các chi nhánh của mình có thể dựa vào đó để áp dụng – đó là bảng chấm điểm xếp hạng tín dụng, đánh giá các chỉ tiêu tài chính và phi tài chính của các khách hàng là doanh nghiệp tham gia vay vốn tại ngân hàng. Các chỉ tiêu phi tài chính của khách hàng được coi là phản ánh các chỉ tiêu định tính đánh giá chất lượng tín dụng của ngân hàng.
Xét về tính hợp pháp, hợp lệ thì 100% các khoản cho vay đối với khách hàng doanh nghiệp đều thỏa mãn điều kiện tuân thủ đúng quy tắc, quy định của pháp luật. Còn về mục đích sử dụng vốn vay của các doanh nghiệp, tuy không đảm bảo chắc chắn 100% các doanh nghiệp vay vốn đều đảm bảo đúng mục đích sử dụng đã được cam kết trong hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng, nhưng đối với khối khách hàng DNQD thì không phải là vấn đề đáng lo ngại. Các DNQD luôn đảm bảo uy tín đối với ngân hàng. Tuy nhiên, đối với khối DNNQD, các công ty TNHH tư nhân là đáng lo hơn cả. Điều này không có nghĩa là chất lượng tín dụng của họ kém, mà vẫn còn tồn tại phần nhỏ khoản vay không đúng hoàn toàn mục đích sử dụng vốn như đã cam kết, tức là họ sử dụng một phần vốn vay cho mục đích sử dụng khác. Hay vấn đề nằm chính trong các doanh nghiệp, về vị thế thương mại, về chất lượng sản phẩm và sự cạnh tranh trên thị trường v.v cũng gây tác động tới chất lượng tín dụng nói chung và chất lượng cho vay ngắn hạn nói riên đối với doanh nghiệp.
2.3.2. Chỉ tiêu định lượng:
2.3.2.1. Tăng trưởng dư nợ ngắn hạn đối với doanh nghiệp:
Tăng trưởng dư nợ ngắn hạn đối với doanh nghiệp tăng nhanh qua các năm, năm 2007, tăng 18.61% so với năm 2006 và năm 2008 tăng 42,98% so với năm 2007. Sở dĩ, năm 2008 có mức tăng trưởng vượt bậc như vậy là do ảnh hưởng của tình hình kinh tế chung, tác động tới nhu cầu vốn của doanh nghiệp, hơn nữa về phía ngân hàng, do muốn phòng ngừa rủi ro tín dụng, nên hạn chế cho vay trung –dài hạn, đẩy mạnh cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp.
Bảng 9: So sánh cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp giữa các năm
Chỉ tiêu
Chênh lệch 2007 so với 2006
Chênh lệch 2008 so với 2007
Số tuyệt đối (tỷ)
Tỷ lệ (%)
Số tuyệt đối (tỷ)
Tỷ lệ (%)
DNNN TW
36.138
25.43
72.957
40.92
DNNN ĐP
-1.473
-20.42
0.948
16.51
CP NN
12.648
65.32
3.004
9.38
TNHH NN
15.391
170.95
-3.994
-16.37
Dư nợ ngắn hạn đối với DNQD
62.71
35.29
72.91
30.33
TNHH TN
21.601
22.27
83.6
70.49
CP
-4.749
-2.68
79.4
46.00
DNTN
3.613
91.54
-0.816
-10.79
Hợp tác xã
2.168
81.41
-1.273
-26.35
Dư nợ ngắn hạn đối với DNNQD
22.642
8.06
160.9
53.00
Dư nợ ngắn hạn đối với DN
85.358
18.61
233.827
42.98
Nguồn: Báo cáo tài chính của ngân hàng năm 2006-2008
Tuy tổng dư nợ cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp nói chung và của từng khối doanh nghiệp nói riêng đều tăng mạnh qua các năm, nhưng xét riêng từng thành phần, năm 2007, dư nợ ngắn hạn của DNNN địa phương giảm 20.42% tương đương với 1.473 tỷ, con số này là không đáng kể so với dự nợ ngắn hạn đối với doanh nghiệp. Đối với khối DNNQD, dư nợ các công ty cổ phần năm 2007 giảm 4.749 tỷ tương đương với 2.68%; dư nợ cho vay ngắn hạn đối với các DNTN và hợp tác xã giảm, tuy nhiên so với tổng dư nợ cho vay ngắn hạn đối với khối doanh nghiệp là không đáng kể.
2.3.2.2. Vòng quay vốn ngắn hạn
Bảng 10: Vòng quay vốn ngắn hạn của ngân hàng
Chỉ tiêu
2006
2007
2008
doanh số cho vay ngắn hạn (1)
1222.900
1792.00
2296.00
dự nợ cho vay bình quân (2)
435.369
501.349
660.942
doanh số thu nợ (3) = (1) - (2)
787.531
1290.651
1635.058
vòng quay vốn = (3)/(2)
1.81
2.57
2.47
Nguồn: Báo cáo tài chính của ngân hàng năm 2006-2008
Với mức quay vòng vốn là 1.81 năm 2006, 2.57 năm 2007 và 2.47 năm 2008, chứng tỏ rằng ngân hàng đang cố gắng nâng cao khả năng quay vòng vốn cho vay ngắn hạn tuy nhiên, vẫn chưa tốt, khả năng qua vòng vốn còn thấp và thấp hơn mức trung bình của toàn hệ thống. Khả năng thu hồi nợ của ngân hàng chưa tốt, hay nói một cách khác, chất lượng các khoản vay chưa đạt ở mức độ cao.
2.3.2.3. Trạng thái các khoản vay ngắn hạn của doanh nghiệp tại ngân hàng
Đối với khối doanh nghiệp quốc doanh, trạng thái nợ 100% thuộc nhóm 1 – tức là nhóm đủ tiêu chuẩn, không có nợ quá hạn, nợ xấu. Như vậy, theo chỉ tiêu này, có thể kết luận rằng chất lượng nợ của khối doanh nghiệp quốc doanh tốt. Vì thế chúng ta chỉ xét tới cơ cấu trạng thái nợ của khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
a.Nợ quá hạn ngắn hạn đối với doanh nghiệp
Bảng 11: Dư nợ ngắn hạn quá hạn đối với doanh nghiệp từ 2006 – 2008:
Chỉ tiêu
31/12/2006
31/12/2007
31/12/2008
Trạng thái
Loại hình
Số tiền (tỷ)
Tỷ trọng (%)
Số tiền (tỷ)
Tỷ trọng (%)
Số tiền (tỷ)
Tỷ trọng (%)
Nhóm 2
46.900
5.69
41.851
4.46
9.188
0.76
TNHH TN
36.351
4.41
38.351
4.08
9.188
0. 76
Công nghiệp
12.692
1.54
38.351
4.08
9.188
0. 76
TMDV
23.659
2.87
0
0
0
0
CP
10.549
1.28
3.500
0.38
0
0
Công nghiệp
10.549
3.500
0.38
0
0
DNTN
0
0
0
0
0
0
Hợp tác xã
0
0
0
0
0
0
Tổng dư nợ
824.170
100
939.073
100
1206.086
100
Nguồn: Báo cáo tài chính của ngân hàng năm 2006 - 2008
Nợ quá hạn giảm nhanh qua các năm, từ 46.9 tỷ năm 2006 xuống 13.78 tỷ năm 2007 và còn hơn 9 tỷ năm 2008, tập trung chủ yếu vào các công ty TNHH tư nhân. Năm 2006, nợ ngắn hạn quá hạn của các công ty TNHH tư nhân là 36.351 tỷ, chiếm 4.41% dư nợ của DNNQD; tới năm 2007, nợ quá hạn của các công ty này tăng thêm 2 tỷ so với năm 2006, nhưng tốc độ tăng thấp hơn dư nợ ngắn hạn của DNNQD nên tỷ trọng chỉ chiếm 4.08% và sang năm 2008, nợ quá hạn rơi hoàn toàn vào các công ty TNHH tư nhân tại mức 0.76%.
Xét theo ngành nghề hoạt động kinh doanh, chủ yếu nợ quá hạn tập trung vào ngành công nghiệp. Chỉ có năm 2006, ngành thương nghiệp – dịch vụ có nợ quá hạn là hơn 23 tỷ chiếm 1.28%, còn năm 2007 và 2008, nợ quá hạn đều thuộc ngành công nghiệp.
b. Nợ xấu ngắn hạn
Bảng 12: Nợ xấu ngắn hạn đối với doanh nghiệp năm 2006-2008
Chỉ tiêu
31/12/2006
31/12/2007
31/12/2008
Trạng thái
Loại hình
Số tiền (tỷ)
Tỷ trọng (tỷ)
Số tiền (tỷ)
Tỷ trọng (%)
Số tiền (tỷ)
Tỷ trọng (%)
Nhóm 3
0
0.00
7.503
0.80
2.152
0.18
TNHH TN
0
0.00
7.503
0.80
2.152
0.18
Xây dựng
0
0.00
7.503
0.80
2.152
0.18
Nhóm 4
3.627
0.44
0
0.00
4.257
0.35
TNHH TN
2.69
0.33
0
0.00
2.006
0.17
Xây dựng
2.69
0.33
0
0.00
2.006
0.17
CP
0.937
0.11
0
0.00
2.251
0.18
Xây dựng
0.937
0.11
0
0.00
2.251
0.18
Nhóm 5
0
0.00
2.824
0.30
2.479
0.21
TNHH TN
0
0.00
2.824
0.30
2.479
0.21
Công nghiệp
0
0.00
2.824
0.30
1.676
0.14
Xây dựng
0
0.00
0
0.00
0.803
0.07
Dư nợ cho vay
824.170
100
939.073
100
1206.086
100
Nguồn: Báo cáo tài chính của ngân hàng năm 2006 - 2007
Nợ ngắn hạn thuộc nhóm nợ xấu chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng dư nợ của ngân hàng, luôn ở dưới 2%. Tuy nhiên, tỷ lệ nợ xấu ngắn hạn năm 2007, 2008 tăng hơn nhiều so với năm 2006, cụ thể, năm 2006 tỷ lệ này là 0.44% nhưng sang năm 2007 là 1.1% và 2008 là 0.76%. Nguyên nhân của sự gia tăng tỷ lệ nợ xấu ngắn hạn này là do một phần của nợ quá hạn bị đẩy xuống nhóm 3, theo quy định mới của NHCT Việt Nam. Đáng lưu ý là nợ nhóm 4 và năm tăng ở năm 2008, tập trung chủ yếu ở các công ty TNHH tư nhân, tại các ngành công nghiệp và xây dựng.
Biểu đồ 4: So sánh tốc độ gia tăng của nợ xấu ngắn hạn với tổng dư nợ cho vay
Tốc độ tăng của nợ xấu ngắn hạn năm 2007 tăng mạnh so với tốc độ tăng của tổng dư nợ cho vay, tuy nhiên, sang năm 2008, nợ xấu ngắn hạn đã giảm đáng kể và dư nợ ngắn hạn tăng khá cao. Nhưng nợ xấu ngắn hạn vẫn chiếm tỷ trọng cao trong tổng dư nợ cho vay. Ngân hàng cần xem xét giảm tỷ lệ nợ xấu ngắn hạn, nâng cao chất lượng các khoản vay.
2.3.2.4. Mức sinh lời của đồng vốn cho vay ngắn hạn
Bảng 13: Mức sinh lời của đồng vốn cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp từ 2006 – 2008:
Chỉ tiêu
2006
2007
2008
Thu nhập từ cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp (1)
90.84
108.139
161.81
Dư nợ cho vay ngắn hạn bình quân đối với doanh nghiệp (2)
435.369
501.349
660.942
Mức sinh lời của đồng vốn cho vay ngắn hạn (3) = (1)*100/(2)
20.89
21.56
24.5
Nguồn: Báo cáo tài chính của ngân hàng từ 2006 - 2008
Mức sinh lời của đồng vốn cho vay ngắn hạn tăng dần qua các năm, tuy không phải ở mức cao nhưng với sự gia tăng này, đặc biệt là sang năm 2008 chứng tỏ rằng, ngân hàng ngày càng mở rộng cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp.
Bảng 14: Tỷ lệ thu nhập tư cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp so với tổng thu nhập của ngân hàng từ 2006 – 2008:
Chỉ t
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 111205.doc