Đề tài Mức sống của dân cư theo các vùng. Thực trạng và giải pháp

Tài liệu Đề tài Mức sống của dân cư theo các vùng. Thực trạng và giải pháp: Mục lục A. Lời mở đầu 2 B. Nội dung 3 Chương I. Cơ sở lý luận và các yếu tố ảnh hưởng đến mức sống 3 I. Cở sở lý luận về mức sống 3 1. Khái niệm về mức sống 3 2. Tính chất và đặc điểm mức sông dân cư 3 II. Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá mức sống 6 1. Những chỉ tiêu phản ánh đặc điểm và điều kiện lao động 6 2. Những chỉ tiêu phản ánh mức tiêu dùng của cải vật chất trong xã hội 6 3. Những chỉ tiêu phản ánh điều kiện sinh hoạt văn hóa, tinh thần và đảm bảo sức khỏe 7 4. Những chỉ tiêu tổng hợp phản ánh kết quả tác động giữa các yếu tố 7 III. Các yếu tố ảnh hưởng đến mức sống dân cư 7 1. Những yếu tố thuộc về kinh tế xã hội 7 2. Những yếu tố thuộc về địa lý tự nhiên và yếu tố dân cư, con người 8 3. Những yếu tố thuộc tâm lý, sức khỏe, giáo dục 9 4. Những yếu tố liên quan với điều kiện quốc tế 10 Chương II. Phân tích thực trạng mức sống dân cư ở các vùng 10 I. Thu nhập bình quân theo đầu người 10 II. Vấn đề lương thực và dinh dưỡng 11 III. Chăm sóc sức k...

doc29 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1154 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Mức sống của dân cư theo các vùng. Thực trạng và giải pháp, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục A. Lời mở đầu 2 B. Nội dung 3 Chương I. Cơ sở lý luận và các yếu tố ảnh hưởng đến mức sống 3 I. Cở sở lý luận về mức sống 3 1. Khái niệm về mức sống 3 2. Tính chất và đặc điểm mức sông dân cư 3 II. Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá mức sống 6 1. Những chỉ tiêu phản ánh đặc điểm và điều kiện lao động 6 2. Những chỉ tiêu phản ánh mức tiêu dùng của cải vật chất trong xã hội 6 3. Những chỉ tiêu phản ánh điều kiện sinh hoạt văn hóa, tinh thần và đảm bảo sức khỏe 7 4. Những chỉ tiêu tổng hợp phản ánh kết quả tác động giữa các yếu tố 7 III. Các yếu tố ảnh hưởng đến mức sống dân cư 7 1. Những yếu tố thuộc về kinh tế xã hội 7 2. Những yếu tố thuộc về địa lý tự nhiên và yếu tố dân cư, con người 8 3. Những yếu tố thuộc tâm lý, sức khỏe, giáo dục 9 4. Những yếu tố liên quan với điều kiện quốc tế 10 Chương II. Phân tích thực trạng mức sống dân cư ở các vùng 10 I. Thu nhập bình quân theo đầu người 10 II. Vấn đề lương thực và dinh dưỡng 11 III. Chăm sóc sức khỏe, y tế 13 IV. Vấn đề giáo dục 14 V. Một số vấn đề khác 16 Chương III. Những giải pháp nhằm nâng cao mức sống ở các vùng 19 I. Giải pháp về thu nhập 19 II. Giải pháp về lương thực thực phẩm 21 III. Giải pháp về y tế, sức khỏe 22 IV. Giải pháp về giáo dục, đào tạo. 24 V. Giải pháp về một số vấn đề khác. 26 C. Kết luận 27 D.Danh mục tài liệu tham khảo 28 A. Lời mở đầu Trong những năm gần đây, cùng với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội, đời sống của nhân dân ta đã được cải thiện rất nhiều mặt. Người dân có điều kiện để thỏa mãn được những nhu cầu của bản thân và gia đình, bên cạnh đó còn tạo ra sự ổn định đối với xã hội. Tuy nhiên, mức sống của nhân dân ta vẫn chưa cao so với khu vực trên thế giới. Đặc biệt ở nước ta vẫn có sự chênh lệch về mức sống giữa các nông thôn và thành thị, giữa các vùng kinh tế với nhau. Có những vùng thì mức sống của người dân rất cao, nhưng có những vùng mức sống của người dân rất thấp. Mức sống của một vùng phản ánh trình độ hay tiến trình phát triển của vùng đó. Tương tự như vậy thì mức sống của nhân dân một nước cũng phản ánh trình độ phát triển của quốc gia đó đối với khu vực và thế giới Từ việc nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề mức sống, và các yếu tố ảnh hưởng đến nâng cao mức sống của người dân trong cả nước. Em đã quyết định lựa chon đề tài “Mức sống của dân cư theo các vùng. Thực trạng và giải pháp”. Cùng với sự hướng dẫn của thầy Mai Quốc Chánh, đề tài của em bao gồm ba phần Phần I Cơ sở lý luận và các yếu tố ảnh hưởng đến mức sống dân cư Phần II Phân tích thực trạng mức sống của dân cư ở các vùng Phần III: Những giải pháp nhằm nâng cao mức sống dân cư ở các vùng Mục đích nghiên cứu của đề tài là nhằm hiểu thêm và đánh giá được mức sống của người dân trong cả nước và các vùng. Bên cạnh đó còn thấy được sự thành công của các chương trình quốc gia, mục tiêu, kế hoạch của Nhà nước liên quan đến mức sống của dân cư trong cả nước và ở các địa phương, trong đó đánh giá tình trạng đói nghèo và mức độ phân hóa giàu nghèo. Đối tượng nghiên cứu của đề tài là mức sống của người dân cả nước và trên các địa phương theo các vùng kinh tế. Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các hộ gia đình trên các địa phương. Phương pháp nghiên cứu gồm hai bước là thu thập thông tin và phân tích số liệu đã thu thập được để thấy rõ được tình hình mức sống của người dân cả nước và theo các vùng. Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng do trình độ còn hạn chế nên bài viết của em không tránh khỏi sai sót. Em mong được sự đóng góp ý kiến của thầy để bài viết của em được hoàn thiện hơn nữa. Em xin chân thành cảm ơn thầy! B. Nội dung Chương I: Cơ sở lý luận và các yếu tố ảnh hưởng đến mức sống I. Cơ sở lý luận về mức sống 1. Khái niệm về mức sống Có rất nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm mức sống Mức sống là một phạm trù kinh tế xã hội phức tạp và phong phú về mặt nội dung. Mức sống phản ánh quan hệ sản xuất, quan hệ xã hội giữa người với người trong quá trình sản xuất , phân phối, trao đổi và tiêu dùng sản phẩm xã hội. Mức sống được xác định bằng mức độ thỏa mãn nhu cầu vật chất tinh thần mọi thành viên trong xã hội hoặc các tầng lớp giai cấp xã hội khác nhau. Mức sống được hiểu chung nhất đó là tổng giá trị hàng hóa và các dịch vụ sinh hoạt mà với cơ cấu của sản xuất ra các tư liệu có khả năng thỏa mãn nhu cầu vật chất và văn hóa của người dân tại một thời điểm kinh tế xã hội của đất nước. Theo Các Mác: “Mức sống không chỉ là sự thỏa mãn những nhu cầu của đời sống vật chất mà cả các nhu cầu nhất định được sản sinh ra bởi chính những điều kiện mà con người đang sống và trưởng thành”. 2. Tính chất và đặc điểm mức sống dân cư Nhu cầu về vật chất và tinh thần càng phát triển và mức độ thỏa mãn nhu cầu đó càng cao bao nhiêu thì mức sống dân cư càng cao bấy nhiêu. Nhu cầu là sự cần thiết được đảm bảo bằng các điều kiẹn vật chất và tinh thần nào đó nhằm thỏa mãn những đòi hỏi để cho con người tồn tại và phát triển trong những điều kiện kinh tế và xã hội nhất định. Nhu cầu không tồn tại độc lập, chung chung, trừu tượng, bất biến. Nó được sản sinh, tồn tại và được thực hiện trong những phương thức sản xuất xã hội nhất định. Quy mô và tính chất của nhu cầu bị giới hạn bởi những quan hệ kinh tế nhất định. Nhu cầu hình thành và phát triển không phải do tâm lý và sinh lý con người hoặc những nguyên nhân tự nhiên hay sinh học nào khác quyết định. Yếu tố quyết định sự hình thành và phát triển của nhu cầu chính là điều kiện kinh tế xã hội, trong đó sản xuất đóng vai trò quan trọng, quyết định nhất đối với sự hình thành và phát triển của nhu cầu. Bởi vì sản xuất tạo ra những điều kiện vật chất và tinh thần cần thiết để thỏa mãn nhu cầu. Nhu cầu đến lượt nó lại tác động trở lại đối với sản xuất, định hướng cho sản xuất phát triển. Tăng nhanh nhu cầu là động lực thúc đẩy sản xuất phát triển. Nhu cầu của con người rất đa dạng và phong phú, không ngừng biến đổi và phát triển , thỏa mãn nhu cầu này là phương tiện phát triển, là điều kiện, là động lực, kích thích để nhu cầu mới nảy sinh. Có thể nói cùng với sự phát triển của sản xuất xã hội, nhu cầu của con người thường xuyên thay đổi. Mức sống và nhu cầu liên quan trực tiếp và gắn bó chặt chẽ với nhau. Thỏa mãn nhu cầu thực tế trong quá trình tồn tại và phát triển con người, thực chất là mức sống của họ. Nhu cầu của con người được thỏa mãn đến đâu lại phụ thuộc vào sự tiêu dùng của họ. Không có tiêu dùng, nhu cầu sẽ không được thực hiện và mức sống cũng không được thể hiện. Mức độ thỏa mãn nhu cầu được biểu hiện và được đánh giá thông qua mức độ tiêu dùng. Một khối lượng của cải vật chất và tinh thần được sử dụng cho tiêu dùng càng nhiều bao nhiêu thì nhu cầu càng được thỏa mãn, càng đầy đủ bấy nhiêu và mức sống dân cư càng cao bấy nhiêu. Do vậy trong thực tế khi xác định mức sống người ta thường không đo lường và tính toán nó bằng mức độ thỏa mãn nhu cầu, mà lại tính bằng số lượng và chất lượng sản phẩm và dịch vụ tiêu dùng trong năm. Cùng một chất lượng sản phẩm và dịch vụ tiêu dùng không đổi, khi số lượng sản phẩm và các dạng dịch vụ tiêu dùng bình quân trên đầu người càng cao bao nhiêu thì mức sống của dân cư nước đó càng cao bấy nhiêu so với nước khác. Khi nhu cầu vật chất và tinh thần cũng như sản phẩm và dịch vụ tiêu dùng cần thiết, bảo đảm thỏa mãn những nhu cầu đó tăng lên, thì mức sống dân cư cũng tăng theo. Do đó quá trình nâng cao mức sống có thể được đặc trưng bằng quá trình thay đổi cơ cấu nhu cầu, mở rộng và tăng quy mô, mức độ của các nhu cầu, bảo đảm các phương tiện và điều kiện để thỏa mãn đầy đủ và tối ưu các nhu cầu truyền thống, nhu cầu hiện tại và nhu cầu mới nảy sinh. Nghiên cứu mức sống cần đặt nó trong mối quan hệ tác động qua lại với sản xuất, nhu cầu và tiêu dùng cho phép chúng ta đánh giá đúng đắn, đầy đủ hơn về phạm trù này. Từ đó chúng ta có thể nói rằng: nâng cao mức sống không phải chỉ là quá trình tăng về quy mô tiêu dùng, mà phải được xem như là yếu tố để thúc đẩy nhanh quá trình tái sản xuất xã hội. Mức sống suy cho cùng được biểu hiện và đánh giá thông qua hiệu quả của quá trình tái sản xuất sức lao động và tái sản xuất cuộc sống con người. Mức sống cao hay thấp được phản ánh ở khả năng, mức độ và kết quả của quá trình tái sản xuất sức lao động và tái sản xuất cuộc sống con người. Quá trình tái sản xuất sức lao động và tái sản xuất cuộc sống con người là quá trình tiêu dùng các loại sản phẩm và dịch vụ khác nhau. Cùng một số lượng, chất lượng, cơ cấu sản phẩm và dịch vụ tiêu dùng như nhau, nếu mức độ sử dụng chúng khác nhau, cho ta kết quả khác trong tiêu dùng, khác nhau cả về số lượng, chất lượng sức lao động tái tạo ra. Sự khác nhau trong kết quả tiêu dùng càng lớn, nếu như chúng ta thay đổi cơ cấu sản phẩm và dịch vụ tiêu dùng, chẳng hạn như tăng tỷ trọng sản phẩm và dịch vụ tiêu dùng có lợi cho sức khỏe và cho các hoạt động có ích khác của con người, và giảm tỷ trọng dịch vụ và tiêu dùng có hại cho sức khỏe thì kết quả tiêu dùng sẽ tăng lên và mức sống của dân cư cũng tăng theo. Nói cách khác: với một lượng sản phẩm và dịch vụ tiêu dùng như nhau, nếu mức độ sử dụng có ích của các sản phẩm và dịch vụ càng cao bao nhiêu thì mức sống của dân cư càng cao bấy nhiêu. Nếu ký hiệu M là mức sống của dân cư, Q là sản phẩm và dịch vụ tiêu dùng bình quân đầu người trong năm, K là mức độ sử dụng có ích của các sản phẩm và dịch vụ tiêu dùng đó, thì mức sống của dân cư được biểu thị như sau: M = K.Q Mức độ sử dụng có ích của các sản phẩm và dịch vụ tiêu dùng phản ánh về mặt chất lượng của tiêu dùng trong quá trình tái sản xuất sức lao động và tái sản xuất cuộc sống con người. Chất lượng tiêu dùng là mức độ sử dụng có ích của các sản phẩm và dịch vụ tiêu dùng được đánh giá thông qua các chỉ tiêu như sau: - Giá trị sử dụng có ích của sức lao động, trong một thời điểm nào đó (sức sản xuất của lao động hay năng suất lao động) - Thời gian trung bình mà một người có thể tham gia hoạt động lao động có ích cho xã hội. - Tuổi thọ trung bình của dân cư. Khi phân tích, đánh giá mức sống dân cư không những chỉ so sánh xem bao nhiêu số lượng sản phẩm và dịch vụ tiêu dùng bình quân đầu người (mặt lượng của tiêu dùng), mà còn phải đánh giá cả mức độ sử dụng có ích (mặt chất lượng của tiêu dùng) của các loại sản phẩm và dịch vụ tiêu dùng đó nữa. Bởi vì chất lượng tiêu dùng phản ánh một mặt cơ bản của phạm trù mức sống dân cư. Nâng cao mức sống không phải chỉ là quá trình tăng về quy mô tiêu dùng, mà có thể thay đổi cả tổng cơ cấu tiêu dùng, thể hiện phân phối sản phẩm và các dạng dịch vụ tiêu dùng hợp lý, bảo đảm sử dụng có ích cho cuộc sống và cho hoạt động lao động của con người. Tiêu dùng: Khi nói đến phạm trù mức sống, không thể không gắn bó với phạm trù tiêu dùng. Bởi vì tiêu dùng và mức sống có liên quan chặt chẽ và gắn bó mật thiết với mức sống. Làm rõ sự khác nhau và trong mối liên quan giữa chúng có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong lý luận cũng như sự khác nhau trong thực tiễn. Bởi vì trong thực tế khi so sánh mức sống giữa thời kỳ này với thời kỳ khác, giữa nước này với nước khác, người ta không dùng chỉ tiêu mức sống mà dùng các chỉ tiêu đặc trưng cho sự tiêu dùng để đánh giá. Bởi vì mức độ thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân (tức là mức sống) thường xuyên thay đổi và khó có thể lượng hóa được. Phạm trù tiêu dùng bao gồm tất cả những gì có liên quan đến quá trình hoạt động có tính chất tiêu dùng của con người. Nó thể hiện bản chất của những quá trình kinh tế diễn ra trong một thời điểm nhất định của quá trình tái sản xuất xã hội mà thôi. Phạm trù mức sống lại bao gồm tất cả những gì có liên quan đến việc thỏa mãn nhu cầu vật chất, nhu cầu xã hội, nhu cầu văn hóa và tinh thần của dân cư. Do đó nó có thể liên quan tới tất cả các giai đoạn, các khâu của quá trình tái sản xuất xã hội. Trong phạm trù mức sống, không chỉ bao gồm những kết quả lao động hiện tại, mà còn chứa đựng cả những kết quả của lao động quá khứ, biểu hiện dưới hình thức tài sản Quốc gia. Ngòai ra phạm trù mức sống còn chứa đựng một yếu tố quan trọng khác mà phạm trù tiêu dùng không có đó là điều kiện lao động. Mức sống không chỉ là tiêu dùng. Ngoài tiêu dùng là thành phần cốt lõi nhất thì mức sống còn bao gồm nhiều yếu tố, thành phần khác nữa. II. Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá mức sống Mức sống là một phạm trù kinh tế xã hội rất tổng hợp. Để phản ánh tình hình mức sống không thể sử dụng một vài chỉ tiêu nào đó, mà phải sử dụng một hệ thống nhiều chỉ tiêu. Bởi vì mỗi một chỉ tiêu đặc trưng cho mức sống chỉ phản ánh nhất thời hoặc phản ánh một mặt nào đó của mức sống mà thôi. Do vậy khi đánh giá tình hình mức sống dân cư thông thường phải sử dụng tổng hợp các hệ thống các chỉ tiêu khác nhau. Ta có thể phân loại các chỉ tiêu đánh giá mức sống thành các nhóm sau: 1. Những chỉ tiêu phản ánh đặc điểm và điều kiện lao động như: - Mức độ đảm bảo việc làm cho người lao động - Độ dài thời gian làm việc bình quân trong ngày - Thời gian nghỉ ngơi - Cường độ lao động - Tỷ trọng công việc lao động được cơ giới hóa và tự động hóa trong tổng số lao động hao phí nói chung - Bảo hộ lao động và an toàn lao động - Tình hình bảo hiểm xã hội cho người lao động, vệ sinh an toàn lao động nơi làm việc, điều kiện lao động, nghỉ ngơi và tổ chức lao động - Sinh hoạt văn hóa, tinh thần nơi làm việc - Phương tiện giao thông, đi lại từ nơi cư trú đến nơi làm việc 2. Những chỉ tiêu phản ánh mức tiêu dùng của cải vật chất trong xã hội - Quy mô tài sản quốc gia, tổng thu nhập quốc dân, thu nhập bình quân đầu người - Thu nhập thực tế của từng nhóm dân cư và từng người - Mức tiêu dùng lương thực thực phẩm và những vật phẩm thiết yếu - Điều kiện nhà ở (diện tích bình quân, loại nhà, công trình hạ tầng cơ sở) - Đồ dùng lâu bền 3. Những chỉ tiêu phản ánh điều kiện sinh hoạt văn hóa, tinh thần và đảm bảo sức khỏe - Sự phát triển của hệ thống Giáo dục và Đào tạo - Trình độ học vấn của dân cư - Tình trạng chăm sóc sức khỏe nhân dân ( số bác sĩ, y tá, giường bệnh trên 1000 dân) - Sự phát triển của các công trình văn hóa công cộng (nhà hát, rạp chiếu bóng, nhà văn hóa, sân vận động, công viên vui chơi, giải trí…) - Hệ thống giáo thông công cộng - Tình hình vệ sinh môi trường và ô nhiễm môi trường 4. Những chỉ tiêu tổng hợp phản ánh kết quả tác động giữa các yếu tố - Tuổi thọ trung bình của dân số và của từng nhóm dân cư riêng biệt - Chỉ số phát triển con người HDI - Mức độ tham gia quản lý xã hội của dân cư - Độ dài thời gian làm việc bình quân theo quy định cuả pháp luật Liên Hợp Quốc sử dụng 12 chỉ tiêu để đánh giá mức sống bao gồm Ytế, lương thực , thưc phẩm, giáo dục, nhà ở, phương tiện giao thông đi lại, điều kiện lao động, việc làm cho người trong độ tuổi lao động, quỹ tích lũy tiêu dùng, quần áo, nghỉ ngơi, giải trí, mức độ tự do của con người, bảo hiểm xã hội. Tuy nhiên việc lựa chọn các chỉ tiêu đặc trưng cho mức sống như trên chỉ mang tính chất tương đối nhằm đánh giá mức sống dân cư vào một thời điểm nào đó. Nhưng khi so sánh giữa các thời kỳ khác nhau, giữa các nước khác nhau thì việc sử dụng chỉ tiêu trên gặp nhiều khó khăn. Thông thường người ta chỉ xem xét nó trên từng khía cạnh, từng phương diện hoặc căn cứ vào mục đích, yêu cầu cụ thể của việc nghiên cứu mà mặt dạnh mặt này hay mặt khác. III. Các yếu tố ảnh hưởng đến mức sống dân cư 1. Những yếu tố thuộc về kinh tế xã hội - Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Một đất nước có lực lượng sản xuất phát triển cao, quan hệ sản xuất phát triển thì nước đó sẽ có một mức sống cao và ngược lại. - Tiến bộ khoa học kỹ thuật và khả năng áp dụng những thành tựu khoa học đó với sản xuất và đời sống. Trong thời đại ngày này khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển vượt bậc, việc ứng dụng các thành tựu của khoa học kỹ thuật vào cuộc sống cũng phản ánh được trình độ của người dân. Nhờ áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất có thể thúc đẩy tình hình sản xuất phát triển, nâng cao năng suất lao động cá nhân đồng thời nâng cao năng suất lao động xã hội, từ đó thúc đẩy sản xuất và đời sống của người dân lên một tầm cao hơn. - Tổng thu nhập quốc dân và cơ cấu thu nhập quốc dân, tỷ lệ phân phối thu nhập quốc dân. - Số lượng cơ cấu chất lượng hàng hóa, dịch vụ sản xuất ra. Điều này không những phản ánh được năng lực sản xuất của nền kinh tế xã hội mà nó còn thể hiển được nhu cầu của người dân, rõ ràng khi số lượng hàng hóa tăng lên thì nó đã thể hiện được khả năng đáp ứng nhu cầu của người dân, hay thông qua đó cũng phản ánh được mức sống của người dân. - Tình hình kinh tế và truyền thống, tâm lý tiêu dùng trong gia đình. Khi đời sống tăng lên thì mức sống của người dân cũng được phản ánh qua sự tiêu dùng của họ, lúc này người dân có những nhu cầu cao hơn về sản phẩm . - Sự phát triển của cơ sở và mạng lưới phục vụ sinh hoạt tinh thần phù hợp với sự phân bố dân cư theo lãnh thổ. Cùng với việc năng lực sản xuất của nền kinh tế tăng lên thì mạng lưới phục vụ của nền kinh tế cũng được mở rộng. Con người không chỉ có một nhu cầu mà họ có rất nhiều nhu cầu, không chỉ có nhu cầu vật chất mà có cả nhu cầu tinh thần. Vì vậy sự phát triển của cơ sở và mạng lưới phục vụ sinh hoạt tinh thần cũng có ảnh hưởng lớn đến mức sống của ngừơi dân nhất là theo các vùng. Vùng nào có mạng lưới phục vụ tốt thể hiện rằng mức sống ở vùng đó cao hơn các vùng khác và ngược lại. - Nguồn vật chất tiêu dùng dài hạn hiện có. 2. Những yếu tố thuộc về địa lý tự nhiên và yếu tố dân cư, con người - Đặc điểm về khí hậu, thời tiết trong từng nước, từng vùng, khu vực. Ví dụ Miền Nam không có nhu cầu mua áo bông vì không có mùa đông, do đó số tiền này giành cho chi tiêu ăn uống - Tính thời vụ trong tiêu dùng do ảnh hưởng của thời tiết trong năm. - Phân bố dân cư , phân bố sản xuất, hệ thống giao thông sinh cảnh. Theo các vùng, nơi nào mà dân số tập trung đông đúc, sản xuất phát triển, hệ thống giao thông tốt thì nơi đó sẽ có nhiều điều kiện để nâng cao chất lượng cuộc sống. - Trình độ văn minh, đặc điểm thói quen, truyền thống, tôn giáo trong tiêu dùng . - Số lượng và cơ cấu dân cư theo tuổi và giới tính, nghề nghiệp trong vùng. - Điều kiện lịch sử, dân số ảnh hưởng đến quá trình phát triển tiêu dùng và mức sống dân cư. 3. Những yếu tố thuộc tâm lý, sức khỏe, giáo dục - Động thái hình thành và phát triển nhu cầu. Nhu cầu lớn đòi hỏi sản xuất phải phát triển để có thể đáp ứng được các nhu cầu, từ đó mà nâng cao mức sống của người dân. - Định hướng phát triển nhu cầu do tác động của truyền thống tiêu dùng gia đình, nông thôn, thành phố, tập thể xã hội - Ảnh hưởng của phương tiện thông tin đại chúng trong việc hình thành nhu cầu mới. - Mức độ thay đổi và phát triển của mốt sinh hoạt, sở thích, thói quen tiêu dùng của từng người - Trình độ giáo dục của người tiêu dùng - Tình hình sức khỏe, khả năng sinh lý của người tiêu dùng trong từng thời kỳ khác nhau trong quá trình tái sản xuất ra cuộc sống của mình 4. Những yếu tố liên quan với điều kiện quốc tế - Sự tham gia của đất nước trong quá trình phân công lao động quốc tế - Tình hình chiến tranh và hòa bình thế giới - Tình hình xuất nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng - Trình độ phát triển và khả năng trao đổi kinh nghiệm trong sản xuất đời sống và tiêu dùng Trên đây là một số điều kiện và yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến mức sống dân cư. Cùng với sự phát triển của sản xuất xã hội, các yếu tố và điều kiện ảnh hưởng đến mức sống cũng thường xuyên biến động. Do đó việc xác định các yếu tố ảnh hưởng cũng như tính toán mức động ảnh hưởng của chúng đến mức sống là một việc làm rất khó khăn và phức tạp. Chương II: Phân tích thực trạng mức sống dân cư ở các vùng Đánh giá mức sống của dân cư các vùng theo các khía cạnh sau: I. Thu nhập bình quân theo đầu người Thu nhập của hộ gia đình là toàn bộ số tiền và giá trị hiện vật mà hộ và các thành viên của hộ nhận được trong một thời gian nhất định, bao gồm: - Thu từ tiền công, tiền lương - Thu từ sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản (đã trừ chi phí sản xuất và thuế sản xuất) - Thu nhập từ sản xuất phi nông, lâm nghiệp, thủy sản (đã trừ chí phí sản xuất và thuế sản xuất) - Thu khác được tính vào thu nhập (không tính tiền rút tiền kiệm, bán tài sản, vay thuần túy, thu nợ và các khoản chuyển nhượng vốn nhận được) Thu nhập bình quân đầu người của hộ gia đình = Tổng thu nhập của hộ gia đình chia cho tổng số thành viên cùa hộ gia đình Biểu 1: Thu nhập bình quân đầu người một tháng theo giá thực tế phân theo vùng Vùng Năm 1996 (1000 đồng) Năm 1999 (1000 đồng) Năm 2004 (1000 đồng) Tốc độ tăng bình quân thời kỳ 1996-1999 (%) Tốc độ tăng bình quân thời kỳ 1999-2004 (%) Tốc độ tăng bình quân thời kỳ 1996-2004(%) Cả nước 226.7 295 484.4 30.13 64.20 113.67 Đồng bằng sông Hồng 223.3 280 488.2 25.39 74.36 118.63 Miền núi và trung du Bắc Bộ 173.8 210 322.8 20.83 53.71 85.73 Bắc Trung Bộ 174.1 212.4 317.1 22.00 49.29 82.14 Duyên hải Nam Trung Bộ 194.7 252.8 414.9 29.84 64.12 113.10 Tây Nguyên 265.6 344.7 390.2 29.78 13.20 46.91 Đông Nam Bộ 378.1 527.8 833 39.59 57.82 120.31 Đồng bằng sông Cửu Long 242.3 342.1 471.1 41.19 37.71 94.43 Nguồn: Niêm giám thống kê các năm và tính toán của tác giả Nhận xét: - Thu nhập bình quân đầu người một tháng của các hộ trong cả nước qua các năm đều có sự tăng lên. Nếu thời kỳ 1996-1999, thu nhập bình quân của hộ chỉ đạt 30.13 % thì đến giai đoạn 1999-2004 con số này đã tăng lên gấp đôi 64.2 %. Xét cả thời kỳ 1996-2004 tốc độ tăng thu nhập là 113.67 %. Điều này cho thấy phần nào được mức sống của người dân đã tăng lên. - Qua biểu trên chúng ta cũng nhận thấy rất rõ một số vùng có mức thu nhập bình quân khá cao như Đồng bằng sông Hồng, Duyên hải Nam Trung Bộ, Đông Nam Bộ và có mức tăng nhanh qua các năm. Như đồng bằng sông Hồng có mức tăng của thời kỳ 1996-2004 là 118.63%, Duyên hải Nam Trung Bộ là 113.10% và Đông Nam Bộ là 120.31%. Điều đó cho thấy người dân sống ở các vùng nói trên đã có một mức thu nhập cao. Bên cạnh đó thì cũng có các vùng có thu nhập bình quân đầu người còn thấp và mức tăng thu nhập chậm so với cả nước như vùng Miền núi và trung du Bắc Bộ (Đông Bắc và Tây Bắc), Bắc trung Bộ, đồng bằng sông Cửu Long.Những vùng này chỉ có mức tăng thu nhập vào khoảng từ 80-95% trong thời kỳ 1996-2004. Tây Nguyên là vùng có mức thu nhập bình quân thấp nhất trong cả nước và mức tăng tương đối thấp. Nếu thời kỳ 1996-1999 mức tăng chỉ có 29.78% thì đến thời kỳ 1999-2004 mức này lại còn thấp hơn, chỉ có 13.2%. Điều này cho thấy đời sống của dân cư vùng này có chiều hướng giảm xuống do thu nhập của họ không tăng mà lại giảm đi. Chúng ta có thể đưa ra một vài lý do để giải thích tình hình trên - Thứ nhất là do có sự khác biệt về địa lý giữa các vùng lãnh thổ, do ảnh hưởng của khí hậu thời tiết, phong tục tập quán dẫn đến tình trạng này. Đồng bằng sông Hồng, Đông Nam Bộ là những vùng có khí hậu tốt, điều kiện đất đai màu mỡ phù hợp cho sự canh tác. Vùng Tây Nguyên, Miền núi trung du Bắc Bộ là những vùng có khí hậu khắc nghiệt, đất đai chủ yếu là đất đồi rất khó để trồng trọt, phát triển nông nghiệp. - Thứ hai phải kể đến là ở các vùng đồng bằng sông Hồng, Đông Nam Bộ, Duyên hải Miền Trung là những vùng có điều kiện kinh tế xã hội phát triển, dân cư tập trung đông đúc. Đây còn là những vùng có điều kiện để phát triển lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, dễ dàng tiếp xúc được với khoa học công nghệ. - Thứ ba là các vùng kể trên có một hệ thống cở sở vật chất hạ tầng khá tốt, điều kiện để phát triển kinh tế khá cao không như những vùng núi cao, cơ sở hạ tầng thì thấp kém, giao thông đi lại thì khó khăn, khó có thể thông thương phát triển kinh tế. II. Vấn đề lương thực và dinh dưỡng Chi tiêu hộ gia đình là tổng số tiền và giá trị hiện vật mà hộ và các thành viên của hộ đã chi cho tiêu dùng trong một thời gian nhất định, bao gồm cả tự sản, tự tiêu về lương thực, thực phẩm, phi lương thực, thực phẩm và các khỏan chi tiêu khác (biếu, đóng góp…). Các khoản chi tiêu của hộ không bao gồm chi phí sản xuất, thuế sản xuất, gửi tiết kiệm, cho vay, trả nợ và các khoản chi tương tự. Chi tiêu bình quân đầu người của hộ gia đình là toàn bộ số tiền và giá trị hiện vật mà hộ gia đình và các thành viên của hộ đã chi cho tiêu dùng bình quân cho một người trong một thời gian nhất định. Chi tiêu bình quân đầu người một tháng của hộ gia đình được tính theo công thức sau: Chi tiêu bình quân của một người một tháng của hộ gia đình kỳ báo cáo = Tổng chi tiêu của hộ gia đình trong tháng báo cáo chia cho số thành viên của hộ trong kỳ báo cáo Biểu 2: Chi tiêu cho đời sống bình quân đầu người một tháng phân theo vùng ( theo giá thực tế) Vùng Năm 1999 (1000 đồng) Năm 2002 (1000 đồng) Năm 2004 (1000 đồng) Tốc độ tăng bình quân thời kỳ 1999-2002 (%) Tốc độ tăng bình quân thời kỳ 2002-2004 (%) Tốc độ tăng bình quân thời kỳ 1999-2004 (%) Cả nước 221.1 269.1 359.7 21.71 33.67 62.69 Đồng bằng sông Hồng 227 271.2 373.5 19.47 37.72 64.54 Miền núi và trung du Bắc Bộ 175.8 199.6 263.5 13.54 32.01 49.89 Bắc Trung Bộ 162.3 192.8 252.7 18.79 31.07 55.70 Duyên hải Nam Trung Bộ 197.5 247.6 330.8 25.37 33.60 67.49 Tây Nguyên 251.1 201.8 295.3 -19.63 46.33 17.60 Đông Nam Bộ 385.1 447.6 577 16.23 28.91 49.83 Đồng bằng sông Cửu Long 245.8 258.4 355.1 5.13 37.42 44.47 Nguồn: Niêm giám thống kê qua các năm và tính toán của tác giả Nhận xét: - Chi tiêu cho đời sống của người dân trong cả nước đã tăng lên tuy mức tăng không cao qua các năm. Thời kỳ 1999-2002 tốc độ này là 21.71% thì thời kỳ 2002-2004 tốc độ này chỉ là 33.67%. Thời kỳ sau so với thời kỳ trước chỉ cao hơn 11.96% . Cả thời kỳ 1999-2004 tốc độ tăng là 62.69%. Cho thấy cùng với thu nhập bình quân đầu người tăng lên thì chi tiêu cho lương thực thực phẩm có tăng nhưng không cao. - Vùng đồng bằng sông Hồng vẫn là vùng có chi tiêu cho lương thực thực thực phẩm cao trong cả nước. Tỷ lệ này là 64.54%. Ngoài ra các vùng như Duyên hải miền Trung cũng ở vị trí cao, sau đó đến Bắc Trung Bộ, và đến Đông Nam Bộ. Vùng Tây Nguyên có tỷ lệ chi tiêu cho lương thực thực phẩm thấp nhất cả nước. Thời kỳ 1999-2002 việc chi tiêu của dân cư vùng này cho lương thực thực phẩm còn âm (- 19.63%). Điều này cho ta thấy rằng thời kỳ này, chi tiêu của họ bị giảm sút cho lương thực thực phẩm. Cả thởi kỳ 1999-2004 thì chi tiêu của người dân cho việc ăn uống của mình chỉ có 17.6 % , một con số khá thấp so với các vùng khác. Tình hình trên có thể giải thích bằng mấy nguyên nhân sau: - Thứ nhất, đối với nhóm có chi tiêu cho lương thực thực phẩm cao đa số là nhóm vùng có thu nhập bình quân đầu người trên một tháng cao. Với các vùng có thu nhập thấp như Tây Nguyên thì đương nhiên là việc chi tiêu cho lương thực thực phẩm cũng không cao được. - Thứ hai, khi thu nhập tăng lên thì đối với các nhóm vùng có thu nhập cao thì việc chi tiêu cho lương thực – nhóm hàng hóa thiết yếu cũng không tăng cao. Đó cũng là một lý do để dẫn tới tình trạng mặc dù thu nhập tăng lên nhưng chi tiêu cho lương thực thực phẩm cũng không tăng tương xứng. III. Chăm sóc sức khỏe, y tế Cở sở y tế là nơi khám chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe, bao gồm bệnh viện, viện điều dưỡng và phục hồi chức năng, phòng khám đa khoa khu vực và trạm y tế xã, phường, thị trấn. Biểu 4: Tỷ lệ xã nông thôn có trạm y tế phân theo vùng Vùng Năm 1997 (%) Năm 1999 (%) Năm 2000 (%) Tốc độ tăng bình quân thời kỳ 1997-1999 (%) Tốc đô tăng bình quân thời kỳ 1999-2000 (%) Tốc độ tăng bình quân thời kỳ 1997-2000 (%) Cả nước 96.4 98.0 99.00 1.66 1.02 2.70 Đồng bằng sông Hồng 99.8 100.0 99.90 0.20 -0.10 0.10 Đông Bắc 94.9 96.9 99.90 2.11 3.10 5.27 Tây Bắc 97.8 99.4 100.00 1.64 0.60 2.25 Bắc Trung Bộ 95.1 97.5 97.90 2.52 0.41 2.94 Duyên hải Nam Trung Bộ 90.7 96.9 97.10 6.84 0.21 7.06 Tây Nguyên 98.7 95.7 96.90 -3.04 1.25 -1.82 Đông Nam Bộ 98.9 99.0 98.70 0.10 -0.30 -0.20 Đồng bằng sông Cửu Long 96.7 98.3 99.30 1.65 1.02 2.69 Nguồn: Niêm giám thống kê qua các năm và tính toán của tác giả Nhận xét: - Tỷ lệ số xã có trạm y tế đã tăng lên qua các năm, nhưng tốc độ tăng không cao. Thời kỳ từ 1997-2000, tỷ lệ số trạm y tế tăng từ 96.4 % cho đến 99.9 %, tức là tốc độ tăng là 2.7 %. - Nhìn qua bảng số liệu, chúng ta có thể nhận thấy hầu hết ở các xã nông thôn của tất cả các vùng trên cả nước đều có trạm y tế và tỷ lệ này rất cao trên 90 %. Điều này cho thấy công tác y tế ở các xã đã được quan tâm chú ý và nó cũng cho thấy được sự phát triển của mạng lưới y tế xã. Phần nào thể hiện mức sống của người dân đã tăng lên. - Những vùng dẫn đầu về số trạm y tế xã cao như đồng bằng sông Hồng , Đông Bắc, Tây Bắc luôn ở mức trên 99 %. Tây Nguyên, Bắc Trung Bộ, Duyên hải miền Trung có tỷ lệ này thấp hơn một chút chỉ khoảng 95-97 %. - Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể thấy được có những vùng có tỷ lệ này cao ở thời điểm này nhưng lại thấp ở thời điểm khác như đồng bằng sông Hồng, Đông Nam Bộ. Đặc biệt khu vực Tây Bắc là khu vực kém phát triển, cuộc sống có nhiều khó khăn nhưng đã có tỷ lệ số trạm y tế xã rất cao đạt 100 %. Có thể giải thích tình trạng trên là do có sự quan tâm của Đảng, Nhà nước ta trong các công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, đặc biệt là các vùng sâu xa, nông thôn, hải đảo. Hơn thế nữa, do điều kiện nền kinh tế nước ta phát triển, có nhiều chương trình hỗ trợ phát triển kinh tế đời sống xã hội đã giúp cải thiện tình hình chăm sóc sức khỏe ở nước ta. Biểu 5: Số bác sỹ phân theo các vùng Vùng Năm 1996 Năm 2000 Năm 2006 Tốc độ tăng bình quân thời kỳ 1996-2000 (%) Tốc độ tăng bình quân thời kỳ 2000-2006 (%) Tốc độ tăng bình quân thời kỳ 1996-2006 (%) Cả nước 25135 30938 41986 23.09 35.71 67.04 Đồng bằng sông Hồng 5436 7261 9866 33.57 35.88 81.49 Miền núi và trung du Bắc Bộ 4410 4915 6790 11.45 38.15 53.97 Bắc Trung Bộ 2873 3386 4655 17.86 37.48 62.03 Duyên hải miền Trung 2633 3352 3627 27.31 8.20 37.75 Tây Nguyên 1171 1587 2255 35.53 42.09 92.57 Đông Nam Bộ 4386 5281 7544 20.41 42.85 72.00 Đồng bằng sông Cửu Long 4226 5156 7249 22.01 40.59 71.53 Nguồn: Niêm giám thống kê qua các năm và tính toán của tác giả Nhận xét: Qua biểu trên chúng ta có thể nhận thấy một số vấn đề như sau: - Số bác sỹ trong cả nước ta đã tăng lên đáng kể, năm 1996 chúng ta chỉ mới có 25135 bác sỹ thì đến năm 2000 chúng ta đã có thêm khoảng gần 5000 người, và năm 2006 thì chúng ta lại có thêm hơn 11000 người nữa. Điều này cho thấy cùng với sự phát triển của kinh tế thì mức sống của người dân cũng được cải thiện thêm. Rõ ràng rằng, người dân ngày càng quan tâm đến sức khỏe của mình hơn khi cuộc sống của họ khấm khá hơn. - Đồng bằng sông Hồng là nơi có nhiều bác sỹ nhất trong cả nước. Tốc độ tăng bình quân thời kỳ 1996-2006 là 81.67 % một tỷ lệ khá cao. Tây Nguyên là vùng có số bác sỹ thấp nhất cả nước nhưng lại là vùng có tốc độ tăng bình quân cao nhất cả nước 92.57 %. Duyên hải miền Trung tuy có tốc độ tăng là thấp nhất cả nước nhưng số bác sỹ của vùng này không hề thấp. Các vùng khác có số bác sỹ và tốc độ tăng cũng ở mức cao. Lý do là do vùng Tây Nguyên thiếu cơ sở vật chất hạ tầng, là khu vực có nhiều dân tộc thiểu số sinh sống. Đời sống của họ còn thấp kém, mức thu nhập chưa cao so với các vùng khác. IV. Vấn đề giáo dục Biểu 6: Số lớp học mẫu giáo phân theo các vùng (Đơn vị tính: lớp) Vùng Năm 1996 Năm 2000 Năm 2006 Tốc độ tăng bình quân thời kỳ 1996-2000 (%) Tốc độ tăng bình quân thời kỳ 2000-2006 (%) Tốc độ tăng bình quân thời kỳ 1996-2006 (%) Cả nước 75222 84333 97456 12.11 15.56 29.56 Đồng bằng sông Hồng 17962 21394 21877 19.11 2.26 21.80 Miền núi và trung du Bắc Bộ 14327 15034 20229 4.93 34.56 41.19 Bắc Trung Bộ 16200 16816 14314 3.80 -14.88 -11.64 Duyên hải miền Trung 7865 8936 8047 13.62 -9.95 2.31 Tây Nguyên 5303 5017 7420 -5.39 47.90 39.92 Đông Nam Bộ 6266 7753 12191 23.73 57.24 94.56 Đồng bằng sông Cửu Long 7299 9383 13378 28.55 42.58 83.29 Nguồn: Niêm giám thống kê qua các năm và tính toán của tác giả Nhận xét: - Qua biểu trên chúng ta nhận thấy số lớp học mẫu giáo đã tăng lên tuy mức tăng không cao. Cả nước mới chỉ có 97456 lớp học mẫu giáo tính đến thời điểm năm 2006, tức là đã tăng lên 29.56 % tính từ năm 1996. - Vùng đồng bằng sông Hồng luôn dẫn đầu cả nước về số lớp mẫu giáo, tuy nhiên tốc độ tăng thời kỳ 1996-2006 chỉ đạt có 21.8 %. Trong khi đó các vùng như Đông Nam Bộ, đồng bằng sông Cửu Long thì có số lớp học mẫu giáo không cao bằng nhưng lại có tốc độ tăng cao từ 83 - 95 % trở lên. Điều này dễ dàng có thể hiêu được, do mật độ dân cư ở hai vùng này ngày càng tăng lên. Bên cạnh đó thì có những vùng như Duyên hải miền Trung, Bắc Trung Bộ lại có tốc độ tăng rất thấp, vùng Bắc Trung Bộ còn có tốc độ tăng âm. Biểu 7: Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp PTTH phân theo các vùng (Đơn vị tính: %) Vùng Năm học 1995-1996 Năm học 1999-2000 Năm học 2005-2006 Tốc độ tăng bình quân thời kỳ 1996-2000 (%) Tốc độ tăng bình quân thời kỳ 2000-2006 (%) Tốc độ tăng bình quân thời kỳ 1996-2006 (%) Cả nước 82.62 87.5 93.7 5.91 7.09 13.41 Đồng bằng sông Hồng 88.48 93.28 98.93 5.42 6.06 11.81 Miền núi và trung du Bắc Bộ 82.37 87.91 92.99 6.73 5.78 12.89 Bắc Trung Bộ 85.84 92.22 96.4 7.43 4.53 12.30 Duyên hải miền Trung 83.01 79.87 90.3 -3.78 13.06 8.78 Tây Nguyên 69.94 73.01 88.87 4.39 21.72 27.07 Đông Nam Bộ 78.68 85.98 93.09 9.28 8.27 18.31 Đồng bằng sông Cửu Long 74.61 79.01 85.6 5.90 8.34 14.73 Nguồn : Niêm giám thống kê qua các năm, và tính toán của tác giả Nhận xét: - Tỷ lệ đỗ tốt nghiệp phổ thông trung học (PTTH ) của cả nước là khá cao, năm học nào chúng ta cũng có thể thấy tỷ lệ học sinh tốt nghiệp tới 80- 90 %. Tốc độ tăng bình quân ít biến động. - Vùng nào cũng có tỷ lệ tốt nghiệp cao, ít biến động. Đồng bằng sông Hồng là vùng có tỷ lệ tốt nghiệp PTTH cao nhất cả nước, tỷ lệ này luôn ở mức 88- 98 %. Tây Nguyên và đồng bằng sông Cửu Long là nơi có tỷ lệ tốt nghiệp thấp hơn so với các vùng khác chỉ khoảng từ 80- 85 %. Do các vùng này có mức sống thấp hơn so với các vùng khác. V. Một số vấn đề khác Biểu 8: Số thuê bao điện thoại có đến ngày 31/12 hàng năm phân theo từng vùng Đơn vị tính: thuê bao Vùng Năm 1996 Năm 2000 Năm 2006 Tốc độ tăng bình quân thời kỳ 1996-2000 (%) Tốc đô tăng bình quân thời kỳ 2000-2006 (%) Tốc độ tăng bình quân thời kỳ 1996-2006 (%) Cả nước 1164547 3286343 27460000 182.20 735.58 2258.00 Đồng bằng sông Hồng 306453 787237 2989827 156.89 279.79 875.62 Đông Bắc 80611 182549 1144828 126.46 527.13 1320.19 Tây Bắc 10938 26322 161421 140.65 513.26 1375.78 Bắc Trung Bộ 68143 185107 864277 171.64 366.91 1168.33 Duyên hải Nam Trung Bộ 86105 217108 1296673 152.14 497.25 1405.92 Tây Nguyên 28162 110649 384360 292.90 247.37 1264.82 Đông Nam Bộ 386941 1009272 3820919 160.83 278.58 887.47 Đồng bằng sông Cửu Long 148082 417754 1723591 182.11 312.59 1063.94 Không phân theo địa phương 49112 350345 15074104 613.36 4202.65 30593.32 Nguồn: Niêm giám thống kê qua các năm và tính toán của tác giả Nhận xét: Biểu này cho chúng ta thấy rằng mức sống của người dân đã thay đổi như thế nào. Khi mức sống của người dân tăng lên thì nhu cầu liên lạc với bạn bè, người thân, các mối quan hệ xã hội cũng tăng lên. Và số thuê bao điện thoại cũng phản ánh một phần nào đó của mức sống . - Từ năm 1996 cả nước mới chỉ có hơn 1000000 thuê bao thì đến năm 2000 số thuê bao của nước ta đã tăng lên hơn 3000000 tức là tốc độ tăng đã đạt 182.2 %, một con số thật đáng kể. Đến năm 2006 thì nước ta đã có hơn 27000000 thuê bao nghĩa là tốc độ tăng thời kỳ 2000-2006 là 735.58 % một con số khổng lồ. Nếu nhìn vào tốc độ tăng số thuê bao điện thoại thời kỳ 1996-2006 với mức tăng 2258 % chúng ta có thể thấy được mức sống của người dân cả nước đang tăng lên. - Những vùng có số thuê bao tính đến năm 2006 cao cả nước đó là đồng bằng sông Hồng, Đông Bắc, Đông Nam Bộ, Duyên hải miền Trung, đồng bằng sông Cửu Long, lượng thuê bao của các vùng này luôn đạt trên 1000000 thuê bao. Trong đó, đồng bằng sông Hồng là nơi dẫn đầu cả nước về số lượng thuê bao. Tây Bắc và Tây Nguyên có số lượng thuê bao thấp nhất cả nước, chỉ đạt 100000 - >300000 thuê bao. - Tuy đồng bằng sông Hồng là vùng có số lượng thuê bao lớn nhất cả nước, nhưng tốc độ tăng số lượng thuê bao của vùng này không phải là cao nhất. Trong giai đoạn 1996-2006 các vùng khác đều có tốc độ tăng thuê bao lên rất cao đa phần trên 1000 % như Đông Bắc, Tây Bắc, Tây Nguyên, Bắc Trung Bộ, Duyên hải miền Trung, đồng bằng sông Cửu Long. Qua những con số trên chúng ta có thể nhận thấy mức sống của nhân dân cả nước ta đang ngày một tăng lên. Biểu 9: Tỷ lệ xã nông thôn có điện phân theo vùng Vùng Năm 1997 (%) Năm 1999 (%) Năm 2000 (%) Tốc độ tăng bình quân thời kỳ 1997-1999 (%) Tốc đô tăng bình quân thời kỳ 1999-2000 (%) Tốc độ tăng bình quân thời kỳ 1997-2000 (%) Cả nước 79.9 85.8 89.40 7.38 4.20 11.89 Đồng bằng sông Hồng 99.3 99.9 99.80 0.60 -0.10 0.50 Đông Bắc 72 78.1 84.00 8.47 7.55 16.67 Tây Bắc 49.3 54.6 59.80 10.75 9.52 21.30 Bắc Trung Bộ 82 88.4 91.20 7.80 3.17 11.22 Duyên hải Nam Trung Bộ 72 79.8 85.90 10.83 7.64 19.31 Tây Nguyên 46.3 64.5 72.40 39.31 12.25 56.37 Đông Nam Bộ 88.7 94.4 96.90 6.43 2.65 9.24 Đồng bằng sông Cửu Long 89.6 95.5 98.30 6.58 2.93 9.71 Nguồn: Niêm giám thống kê qua các năm và tính toán của tác giả Nhận xét: - Hầu hết các xã ở nông thôn của nước ta đều đã có điện. Từ năm 1997 nếu cả nước có khoảng 79.9 % xã có điện thì đến năm 2000 con số này đã tăng lên 89.4 % tức là tốc độ tăng thời kỳ này khoảng 11.89 %. - Đồng bằng sông Hồng vẫn là vùng dân đầu cả nước về số xã nông thôn có điện chiếu sáng luôn luôn ở mức 99% qua cả ba năm. Tiếp đó là Đông Nam Bộ, và đồng bằng sông Cửu Long cũng ở mức 80- 95 %. Tây bắc là vùng có tỷ lệ xã có điện thấp nhất cả nước năm 2000 chỉ đạt 59.8 % và tốc độ tăng giữa các thời kỳ cũng không cao, thời kỳ 1997 -2000 mới đạt 21.3 % . Điều đó cho thấy tình hình đời sống của nhân dân vùng Tây Bắc vẫn còn rất thấp. Đặc biệt, vùng Tây Nguyên lại là vùng có tỷ lệ xã có điện khá cao và tốc độ tăng thời kỳ 1997-2000 là cao nhất cả nước 56 %. Chương III: Những giải pháp nhằm nâng cao mức sống ở các vùng Căn cứ vào thực trạng mức sống dân cư của các vùng, chúng ta nhận thấy vẫn còn có sự chênh lệch về mức sống giữa các vùng khác nhau. Vùng như Đồng bằng sông Hồng, Đông Nam Bộ có mức sống rất cao, trong khi đó thì Tây Nguyên và Tây Bắc đời sống của người dân còn rất thấp. Với mục tiêu chung là nâng cao mức sống của người dân cả nước và mục tiêu riêng là nâng cao mức sống của người dân từng vùng và xóa bỏ ranh giới về chênh lệch mức sống giữa các vùng. Em xin đề xuất một số các giải pháp cụ thể nhằm nâng cao mức sống của dân cư: I. Giải pháp về thu nhập Ở nước ta hiện nay, dân số tăng nhanh là một yếu tố quan trọng dẫn đến thu nhập bình quân đầu người thấp. Sự chênh lệch về thu nhập bình quân đầu người giữa các vùng ngày càng lớn, trước hết do trình độ phát triển sản xuất nhưng một lý do rất quan trọng đó là dân số ở các vùng tăng rất nhanh. Càng nghèo thì người ta lại càng sinh nhiều con hơn. Hơn nữa thu nhập là một yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến đời sống của nhân dân, nhất là trong việc nâng cao mức sống của người dân. Thu nhập tăng lên tạo điều kiện cho người dân có thể đáp ứng được các nhu cầu của mình. Trong điều kiện nền kinh tế đang phát triển như nước ta hiện nay, nhu cầu của con người ngày càng đa dạng phong phú hơn, nó không chỉ dừng lại ở các nhu cầu vật chất mà còn mở rộng ra các nhu cầu về tinh thần. Với tình hình thu nhập hiện nay của cán bộ nhân viên trong khu vực doanh nghiệp nhà nước việc thỏa mãn các nhu cầu của họ là một việc hết sức khó khăn.Trong thời gian vừa qua, thì nhà nước ta đã có nhiều biện pháp để tăng thu nhập cho ngừơi dân như việc nâng mức lương tối thiểu lên 450.000 đồng một người một tháng, việc này sẽ giúp cho người dân có thể cải thiện đời sống hơn nữa. Để tăng thu nhập cho người dân nhằm nâng cao mức sống cần thực hiện các biện pháp cụ thể sau: 1. Thực hiện các chương trình xóa đói giảm nghèo, nâng cao mức sống của người dân. Bao gồm: * Chương trình tín dụng cho người đói nghèo Thiếu vốn để sản xuất, kinh doanh, dịch vụ là nguyên nhân trực tiếp của đói nghèo trong các hộ gia đình và chiếm tỷ lệ rất cao. Cần phải có sự hỗ trợ vốn trực tiếp của Nhà nước (cả trung ương và địa phương), các tổ chức quốc tế (cả chính phủ và phi chính phủ), của cộng đồng thông qua quỹ “ xóa đói giảm nghèo”. * Chương trình chuyển giao công nghệ - hướng dẫn cách sản xuất kinh doanh cho hộ đói nghèo Không có nghề, không biết làm ăn là nguyên nhân cơ bản trực tiếp dẫn đến đói nghèo của mỗi hộ. Phần lớn các hộ đói nghèo đều có trình độ văn hóa thấp, ít được đào tạo nghề nghiệp và hạn chế về vốn tư liệu sản xuất. Hầu hết họ thiếu kiến thức kinh doanh, sản xuất, dịch vụ và kiến thức chi tiêu trong gia đình. Vì vậy cần có chương trình hướng dẫn làm ăn cho họ, trước hết là các nội dung mà bản thân họ đang làm nhưng không biết làm và làm không có hiệu quả. Thiếu công cụ sản xuất là đặc thù của hộ đói nghèo vì vậy bên cạnh việc hướng dẫn cho người đói nghèo cách thức, kinh nghiệm làm ăn thì cũng cần hỗ trợ kỹ thuật – chuyển giao công nghệ cho họ. Trước hết cần hỗ trợ họ các kỹ thuật nhỏ, rẻ tiền, có khả năng tăng năng suất và giảm cường độ lao động, sau đó khi họ khá lên sẽ tiếp tục đầu tư hỗ trợ kỹ thuật tiên tiến hơn. Ngoài ra còn phải có hệ thống thông tin cho họ biết về nhu cầu sắp tới của thị trường và chuẩn bị sẵn lối thoát cho họ trong tình hình thị trường bị tràn ứ sản phẩm do quá nhiều người cùng đầu tư sản xuất kinh doanh cùng một sản phẩm hoặc do sự thay đổi đột ngột của thị trường. * Chính sách khuyến khích đầu tư vào vùng nghèo Ở vùng nghèo, tuyệt đại bộ phận có cơ sở hạ tầng thấp kém: y tế, văn hóa, giáo dục, giao thông, thủy lợi không phát triển hoặc không có. Vì vậy cần ưu tiên đầu tư cho vùng nghèo để có điều kiện vươn lên, bằng các chính sách khuyến khích các nhà đầu tư trong và ngoài nước, chính sách miễn thuế, chính sách thu hút cán bộ về vùng nghèo. * Chính sách sử dụng đất Ưu tiên giao khoán đất ở những vùng có điều kiện thuận lợi trong canh tác. Đối với các hộ nghèo còn đang nợ khoán sản lượng và nợ thủy lợi phí… không được thu hồi đất khoán của họ mà cần tạo cho họ có cơ hội để vươn lên sản xuất tốt, có thu nhập cao, từ đó làm nghĩa vụ công dân. Những hộ đói nghèo không có đất hoặc không có đủ đất để canh tác cần sử dụng quỹ dự phòng của xã để cho mượn hoặc thu hồi đất của cơ quan, đoàn thể đóng trên địa phương sử dụng đất không có hiệu quả hoặc hiệu quả sử dụng thấp, chuyển trả địa phương để giao khoán cho các hộ đói nghèo thiếu đất. Cũng có thể dùng phương thức vận động các hộ khá có nhiều ruộng, hoặc các hộ có ngành nghề khác ở nông thôn cho các hộ đói nghèo mượn. Cuối cùng có thể đưa họ đi đến vùng đất mới làm ăn khi họ có nhu cầu. 2. Chương trình cho vay vốn từ quỹ quốc gia giải quyết việc làm Chương trình này cho hộ gia đình vay theo dự án nhỏ để giải quyết việc làm với lãi suất ưu tiên. Đối tượng ưu tiên chủ yếu là các hộ gia đình vay để phát triển chăn nuôi, làm vườn, nghành nghề… để tạo việc làm, tăng thu nhập. Nhờ có vốn vay từ quỹ quốc gia giải quyết được việc làm, người dân có đủ điều kiện trang bị và áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới vào trong sản xuất kinh doanh. Từ đó nhân ra các hộ trung bình, đói nghèo học tập và nếu xã hội biết phát huy thành tựu đã tạo ra của họ thì chính họ là những người hướng dẫn hộ đói nghèo khác học tập và làm theo nhanh chóng xóa đói giảm nghèo. 3. Mở rộng các thị trường tiêu thụ sản phẩm Đây là một giải pháp rất cần thiết dành cho ngừoi lao động và các hộ gia đình đói nghèo. Đối với thị trường tiêu thụ sản phẩm cần mở rộng thị trường nội địa bằng các hình thức khuyến khích thị trấn, thị tứ, chợ. Khuyến khích các hình thức liên doanh liên kết. Phát triển các hợp đồng tiêu thụ sản phẩm theo giá cả thỏa thuận giữa Nhà nươc với các đơn vị kinh tế, từng nhóm hoặc từng hộ Nhà nước giúp hộ nông dân mở rộng thị trường tiêu thụ ra ngoài nước, nhằm tận dụng khả năng xuất khẩu các mặt hàng nông, lâm, thủy sản. 4. Phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ và khu vực không kết cấu ở thành thị Việc phát triển này sẽ tạo ra nhiều việc làm thu hút được một bộ phận không nhỏ người lao động. Để người nghèo tham gia vào khu vực không kết cấu sẽ giúp cho họ tự mình xóa nghèo và trở nên khá giả. II. Giải pháp về lương thực dinh dưỡng Lương thực, thực phẩm cũng phản ánh mức sống của người dân, nó thể hiện khả năng đáp ứng của nền sản xuất nông nghiệp cho nhu cầu về lương thực thực phẩm của người dân. Trong thời gian qua thì nước ta là một trong các nước dẫn đầu về xuất khẩu gạo trên thế giới, tuy nhiên nhiều vùng vẫn có tình trạng thiếu đói do nhiều nguyên nhân gây ra như mất mùa, lũ lụt, hạn hán… Thu nhập thấp còn biểu hiện thông qua chỉ tiêu lương thực bình quân đầu người giảm. Đói ăn là mối lo ngại của không chỉ trong quá khứ, hôm nay mà cả mai sau. Bên cạnh đó thì với quy mô dân số tăng nhanh, trong khi đất canh tác hạn chế, con người hàng năm tìm mọi cách để mở rộng diện tích đất canh tác của mình, bằng cách phá rừng. Hàng năm có khoảng 4- 5 triệu ha rừng bị đốn hạ, và trên 90% đất của vùng đó chuyển sang đất canh tác. Khoảng 14.5 triệu ha khác là đất hoang hóa do mất rừng, trong đó 3.3 triệu ha chuyển thành đất nông nghiệp lâu dài, số còn lại để cho rừng tự tái sinh. Diện tích rừng thay đổi làm thay đổi bầu khí quyển và thời tiết trên trái đất ảnh hưởng xấu đến sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và đời sống con người. Vì vậy cần có biện pháp để giảm dần và xóa các hộ đói nghèo trong vùng. 1. Hạn chế, ngăn chặn việc chuyển dịch diện tích đất nông ngiệp, nhất là đất trồng lúa sang làm đất thổ cư, đất công nghiệp. Biện pháp này giúp ngăn chặn việc đổi đất nông nghiệp sang các loại đất khác để giữ diện tích trồng lúa giúp nhân dân ta có thể tiếp tục canh tác sản xuất lương thực thực phẩm. 2. Tăng cường trách nhiệm của các cơ quan chức năng trong việc giúp nông dân phòng chống dịch bệnh Hàng năm ở các vùng nông thôn nước ta thường hay xảy ra các trận dịch sâu bọ, cào cào, châu chấu lớn phá hoại mùa màng, diện tích hoa màu. Dẫn tới thiệt hại to lớn cho người nông dân, gây ra nạn thiếu đói vì vậy đòi hỏi các cơ quan chức năng cần có biện pháp giúp đỡ ngừơi nông dân như tuyên truyền phổ biến các kiến thức về phòng tránh các loai sâu bệnh, khi có dịch xảy ra thì cố gắng dốc toàn lực để dập dịch, tránh lan tràn ra các vùng khác. 3. Tăng cường phổ biến các kiến thức tiến bộ về nông nghiệp, tập huấn các kỹ thuật sản xuất mới cho nông dân Để tăng năng suất lương thực thực, thực phẩm thì đây là một biện pháp rất quan trọng. Phần lớn các hộ đói nghèo đều có trình độ văn hóa thấp, ít được đào tạo nghề nghiệp và hạn chế về vốn tư liệu sản xuất. Hầu hết họ thiếu kiến thức kinh doanh, sản xuất, dịch vụ và kiến thức chi tiêu trong gia đình. Vì vậy cần có chương trình hướng dẫn làm ăn cho họ, trước hết là các nội dung mà bản thân họ đang làm nhưng không biết làm và làm không có hiệu quả. 4.Thường xuyên cung cấp các thông tin về thị truờng nông nghiệp, giá cả, định hướng 5. Nhà nước có các chính sách khuyến khích người dân đi khai hoang, phủ xanh đất trống đồi núi trọc, mở rộng diện tích canh tác Nhà nước ta đã có chủ chương trồng rừng, phủ xanh đất trống đồi núi trọc, và chủ trương này đã trở thành chương trình quốc gia. Rừng hiện nay đã có chủ chăm sóc bảo vệ, trồng mới, đó là các hộ ở từng địa phương, trong đó có cả hộ giàu và hộ đói nghèo nhờ vậy đã tạo cho họ có việc làm, tăng thu nhập, mở rộng diện tích đất canh tác góp phần xóa đói giảm nghèo. Chương trình này không những tạo ra công ăn việc làm, thu nhập mà nó còn có ý nghĩa rất lớn trong việc bảo vệ môi trường, thủy lợi. III. Giải pháp về y tế và sức khỏe Khi nền kinh tế ngày càng phát triển, cuộc sống của người dân đã có nhiều đổi thay, con người ngày càng chú ý đến sức khỏe của mình hơn. Ở nước ta hiện nay, dân số tăng nhanh, ngân sách quốc gia không đủ để đào tạo y bác sỹ đáp ứng việc khám và chữa bệnh của người dân. Khoảng cách cung ứng và tiêu thụ thuốc men giữa các vùng không thu hẹp mà ngày càng giãn ra, dịch vụ y tế vẫn còn nhiều yếu kém. Trong thời gian qua, tình hình quá tải của các bệnh viện lớn, của các tuyến cơ sở vẫn có chiều hứơng gia tăng. Hơn nữa các cơ sở y tế tại địa phương vẫn còn thiếu bác sỹ, cơ sở vật chất thiếu thốn vẫn chưa đáp ứng được các nhu cầu chăm sóc sức khỏe của người dân. Hiện nay bên cạnh các cơ sở của nhà nước thì đã có rất nhiều các cơ sở y tế tư nhân mọc lên. Tuy nhiên với một mức giá quá cao, nhất là đối với những người dân có thu nhập thấp thì họ khó có thể tiếp cận được với các tiến bộ của y học hiện đại. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến việc nâng cao mức sống của người dân trong từng vùng, gây khó khăn trong việc giảm bớt sự chênh lệch mức sống dân cư giữa các vùng. Để nâng cao thể lực, tăng tuổi thọ, giảm tỷ lệ mắc bệnh, nâng cao mức sống của người dân chúng ta cần thực hiện các giải pháp sau đây: 1. Tiếp tục hoàn thiện mạng lưới y tế địa phương, đặcbiệt là y tế cơ sở bao gồm: Đảm bảo nâng cấp đồng bộ trạm y tế xã về cơ sở nhà trạm, trang thiết bị và cán bộ y tế theo Quyết định số 58/QD-TTg, Nghị định 01/1998/NĐ-CP của Chính phủ và những kiến nghị mới về nhân lực của Bộ Y tế gần đây. Đảm bảo 100% số xã có y sĩ sản nhi hoặc nữ hộ sinh trung cấp, có dược tá phụ trách quầy thuốc, thực hiện chủ trương đưa bác sĩ về xã năm 2000 đạt 40% và năm 2010 đạt 80% số xã trong cả nước, 100% các thôn bản có nhân viên y tế cộng đồng đã được đào tạo, cung cấp đầy đủ và kịp thời các thuốc thiết yếu cho y tế cơ sở để đảm bảo tốt công tác KCB và phòng bệnh đã phân cấp theo tuyến có chất lượng. Đồng thời nâng cao chất lượng trung tâm y tế huyện, chủ yếu là các bệnh viện huyện có đủ năng lực giải quyết các bệnh thông thường đã được phân tuyến kỹ thuật nội ngoại, sản nhi có chất lượng, nhằm giảm chi phí cho người bệnh ở nông thôn và giải toả sự quá tải của tuyến trên. 2. Tiếp tục triển khai công tác chăm sóc sức khoẻ ban đầu có chất lượng cao với các chương trình y tế quốc gia có mục tiêu tại nông thôn như tiêm chủng mở rộng, sốt rét, bướu cổ, lao, chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em, sức khỏe sinh sản… Đẩy mạnh công tác vệ sinh phòng bệnh, vệ sinh môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm, chương trình nước sạch nông thôn, đến năm 2010 có 80% dân số dùng nước sạch. 3. Khuyến khích đầu tư và phát triển y học cổ truyền bằng các chính sách ưu đãi của Nhà nước trong việc nuôi trồng, chế biến và sử dụng đông y ở nông thôn. Cần có kế hoạch khôi phục lại vườn thuốc nam và chữa bệnh thông thường bằng thuốc nam, châm cứu xoa bóp tại các trạm y tế xã và thôn bản 4. Đẩy mạnh công tác giáo dục truyền thông, tuyên truyền để nâng cao nhận thức và hành động của người dân nông thôn, nâng cao trách nhiệm của các cấp Đảng, chính quyền, đoàn thể, các tổ chức xã hội và tự giác tham gia công tác chăm sóc sức khỏe, xây dựng nếp sống vệ sinh, bài trừ các thói quên có hại đến sức khỏe, chủ động nâng cao sức khỏe cho bản thân, gia đình và cộng đồng, thực hiện quyền bình đẳng giớ trong CSSK. 5. Mở rộng bảo hiểm y tế nông thôn ở nông thôn với nhiều hình thức và mức độ khác nhau, đồng thời hoàn thiện các chính sách của Nhà nước về bảo hiểm y tế cho nông dân nghèo. Vận động các cấp, các ngành, các tổ chức xã hội nhân đạo trong và ngoài nước chăm sóc sức khỏe người nghèo, người tàn tật với nhiều hình thức phong phú như: Cấp phát thẻ Bảo hiểm y tế, tổ chức các phòng khám và phát thuốc từ thiện, nhân đạo… 6. Hoàn chỉnh chính sách, tổ chức, cơ chế hoạt động của y tế tư nhân (cả y và dược) ở nông thôn để đảm bảo cho y tế tư nhân phát triển với vai trò chủ đạo của hệ thống y tế Nhà nước tại cơ sở, điều chỉnh lại tổ chức và quản lý y tế tư nhân. Đồng thời tăng cường kiểm tra, kiểm soát của Nhà nước đối với y tế tư nhân. 7. Chuyển hướng đầu tư tài chính công của Nhà nước với tỷ lệ cao hơn cho chăm sóc sức khỏe cộng đồng, y tế dự phòng và y tếnông thôn (huyện, xã và thôn bản) và các tỉnh có nguồn tài chính yếu, tiếp tục trợ giá vận chuyển thuốc, muối Iod và cấp thuốc cho nhân dân các dân tộc vùng núi, vùng kinh tế khó khăn, thiên tai lũ lụt. 8. Xây dựng và hoàn thiện các chính sách đối với cán bộ y tế cơ sở (xã, phường và thôn bản) như BHXH, BHYT và các phụ cấp khác, đặc biệt là ở những vùng nông thôn khó khăn để đảm bảo cho cán bộ y tế cơ sở có điều kiện yên tâm và mang hết năng lực của mình phục vụ sức khỏe nhân dân lâu dài tại cơ sở. 9. Có kế hoạch và xây dựng chế độ đào tạo để bổ sung về số lượng và nâng cao chất lượng chuyên môn, chính trị cho cán bộ y tế cơ sở đảm bảo cập nhật kiến thức về y tế công cộng, giúp cán bộ y tế cơ sở đủ trình độ để đáp ứng nhiệm vụ với chất lượng ngày càng cao. 10. Đẩy mạnh việc xây dựng kế hoạch chăm sóc sức khỏe nông dân theo đặc điểm sinh thái, kinh tế - xã hội và bệnh tật. Nâng cao hiệu quả xã hội hóa công tác y tế, đưa các chính sách của Đảng, Chính phủ và của ngành vào cuộc sống nhân dân ở nông thôn một cách thiết thực. IV. Giải pháp về giáo dục và đào tạo Chí phí cho giáo dục ở nước phát triển chiếm từ 5-7% tổng sản phẩm quốc dân, trong khi đó ở các nước phát triển chỉ chiếm 2-3%. Dân số tăng nhanh cộng với thu nhập thấp đã và đang có ảnh hưởng tiêu cực đến cả số lượng và chất lượng của giáo dục. Trình độ học vấn là nguyên nhân cơ bản dẫn đến trình độ chuyên môn nghề nghiệp thấp và thu nhập thấp. Thu nhập thấp tạo ra mức sống thấp. Mức sống thấp người dân không có điều kiện để chăm sóc sức khỏe, không được đi học để nâng cao trình độ. Trình độ chuyên môn thấp, sức khỏe yếu dẫn đến không tìm được việc làm có thu nhập cao và ổn định. Cứ như vậy tạo thành vòng luẩn quẩn rất khó gỡ từ thế hệ này sang thế hệ khác. Trình độ của giáo dục và đào tạo là một yếu tố đánh giá rất lớn đến mức sống của người dân. Thông qua giáo dục người dân mới có thể nâng cao mức sống, xóa đói giảm nghèo, tăng thu nhập. Giáo dục và đào tạo tốt thì sẽ xây dựng được một đội ngũ nhân tài cho đất nước .Trong thời gian qua thì Nhà nước ta đã có rất nhiều biện pháp để nâng cao chất lượng giáo dục, tạo điều kiện cho các trường đại học ở nước ngoài vào mở trường quốc tế tạo điều kiện cho người dân có thể tiếp xúc được với một môi trường nước ngoài năng động. Bên cạnh đó thì ở những vùng sâu xa của nước ta thì giáo dục còn gặp nhiều khó khăn, cần được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta hơn nữa. Có thể nói thì giáo dục đào tạo có ảnh hưởng lớn đến mức sống, em xin đề xuất một số giải pháp cụ thể sau: 1. Phát triển hơn nữa các hệ thống trường học ở các khu vực kém phát triển trong các vùng Khu vực kém phát triển trong các vùng như khu vực Tây Bắc, Tây Nguyên cần thiết phải có sự giúp đỡ của Nhà nước, các tổ chức chính phủ và phi chính phủ để mở rộng hệ thống trường học nhằm xóa mù chữ cho các dân tộc thiểu số. Nhờ được giáo dục học tập thì người dân các vùng này mới có thể tự mình nâng cao hiểu biết qua đó có thể dần dần nâng cao đời sống của mình lên. Bên cạnh đó việc được đến trường cũng sẽ làm giảm thiểu các tệ nạn xã hội như trộm cắp, buôn bán cần sa, ma túy. Đồng thời còn tạo cho họ một nền tảng đề có thể tiếp thu những tiến bộ khoa học kỹ thuật để có thể làm ăn, phát triển kinh tế hộ gia đình, xóa nghèo. 2. Nâng cao chất lương dạy và học trong từng cấp Việc nâng cao chất lượng dạy và học trong từng cấp có ý nghĩa rất quan trọng đối với mọi người dân trong xã hội, được học tập trong môi trường chất lượng cao sẽ giúp cho mọi người dân có điều kiện phát triển năng lực bản thân mình tốt hơn. Việc này không chỉ diễn ra ở các vùng có điều kiện kinh tế phát triển mà phải diễn ra trên các vùng khác, trên cả nước. 3. Đầu tư cho đào tạo đội ngũ nhân lực giáo dục Đây chính là những người sẽ trực tiếp tạo nên một thế hệ mới vì vậy việc đầu tư cho đội ngũ nhân lực giáo dục sẽ là một vấn đề hết sức đáng được quan tâm. 4. Nghiên cứu và đưa ra những chính sách hợp lý đối với cán bộ ngành giáo dục như vấn đế lương, trợ cấp Chúng ta cần có những chính sách về tiền lương, trợ cấp đối với cán bộ ngành giáo dục nhất là đối với các giáo viên vùng cao, vùng sâu, vùng xa, những nơi có điều kiện cơ sở vật chất khó khăn. V. Giải pháp về các vấn đề khác Ngoài các vấn đề như thu nhập, lương thực thực phẩm, y tế sức khỏe, giáo dục đào tạo thì còn có một số các yếu tố khác cũng ảnh hưởng đến nâng cao mức sống của nhân dân như điện, nước, nhà ở… Ông cha ta đã có câu “ An cư lạc nghiệp”, người dân muốn nâng cao đời sống thì trước hết phải ổn định về nhà cửa là điều trước nhất. Trong thời gian qua thì vấn đề nhà ở đang trở nên bức xúc nhất là đối với các khu vực đông dân cư, khu vực thành thị, khu công nghiệp. Không chỉ có nhà ở, mà còn có các vấn đề điện, nước cũng ảnh hưởng rất nhiều đến đời sống của người dân, thiếu điện, nước sạch ảnh hưởng lớn đến tình hình sức khỏe của người dân. Tỷ lệ người dân chưa được sử dụng nước sạch và các công trình vệ sinh vẫn còn chiếm rất cao. Vì vậy cần có chính sách hỗ trợ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho xã nghèo. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho các vùng nghèo tập trung vào các công trình sau: nước sinh hoạt, đường giao thông, điện thắp sáng và sản xuất, đê bao ngăn, cầu nhỏ qua sông suối, đập ngăn nước (thủy lợi) loại nhỏ, hệ thống tưới tiêu… Đầu tư phải trực tiếp cho các xã theo nguyên tắc Nhà nước hỗ trợ thiết bị, nguyên vật liệu, nhân dân đóng góp sức lao động theo phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” Muốn làm được điều này Nhà nước, trung ương và địa phương cần hỗ trợ và khuyến khích các hợp tác xã, cộng đồng làng xã và các nhóm dân cư xây dựng từng bước cơ sở hạ tầng nhỏ ở nông thôn. Đây là một giải pháp căn bản phải đi trước một bước trước khi thực hiện chương trình khác hỗ trợ cho hộ đói nghèo và vùng nghèo. C. Kết luận Mức sống là một phạm trù kinh tế xã hội phức tạp và phong phú về mặt nội dung. Mức sống phản ánh quan hệ sản xuất, quan hệ xã hội giữa người với người trong quá trình sản xuất , phân phối, trao đổi và tiêu dùng sản phẩm xã hội. Mức sống không chỉ là một sự thỏa mãn những nhu cầu của đời sống vật chất mà cả những nhu cầu tinh thần của các thành viên trong xã hội. Giữa dân số và mức sống có mối quan hệ qua lại tác động lẫn nhau. Nghiên cứu mối quan hệ giữa mức sống và dân số là một việc làm hết sức khó khăn bởi vì quá trình dân số luôn chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố kinh tế và xã hôi, luôn phụ thuộc lẫn nhau rất khó tách thành các biến độc lập riêng rẽ để nghiên cứu ảnh hưởng của từng nhân tố. Mặt khác mức sống của dân cư còn chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác trong đó có yếu tố dân số. Cần nhận thức được mối quan hệ này và có biện pháp để tác động tích cực vào mối quan hệ đó sẽ góp phần không nhỏ vào việc thúc đẩy sự phát triển của xã hội Ở nước ta hiện nay, mức sống của người dân vẫn thấp so với nhiều nước trên thế giới. Đặc biệt là có sự chênh lệch lớn về mức sống giữa các khu vực nông thôn và thành thị, giữa các vùng với nhau nhất là giữa các vùng kinh tế trọng điểm và các vùng sâu xa với nhau. Vì vậy cần có một kế hoạch để phát triển các vùng sâu xa hay phát triển các vùng lân cận ven vùng kinh tế trọng điểm. Ngoài ra cần thực hiện các chính sách kinh tế xã hội để giảm bớt sự chênh lệch về mức sống đồng thời đảm bảo cho nền kinh tế phát triển cân đối với văn hóa xã hội. Sau khi nghiên cứu đề tài này, em đã nhận thấy đây là một đề tài rất hay và cần có sự nghiên cứu sâu sắc hơn nữa. Tuy nhiên do kiến thức và kinh nghiệm thực tế còn hạn chế nên đề án khó tránh khỏi các sai sót. Mong được sự góp ý và chỉ bảo của thầy để bài viết của em được hoàn thiện hơn nữa D. Danh mục tài liệu tham khảo 1.GS.TS Tống Văn Đường, Giáo trình Dân số và Phát triển, NXB Nông Nghiệp, Hà Nội- 2004 2.Vũ Hiền, Vũ Đình Hòe, NXB Chính trị Quốc Gia, Hà Nội 1999 3.Lê Quang Hoành, Phát triển nông thôn trong thời kỳ đổi mới, Website của Tạp chí Chính sách Y tế 4.PGS.TS Phạm Đức Thành, PGS.TS Mai Quốc Chánh, Giáo trình Kinh tế Lao động, NXB Giáo dục, 1998 5.Niêm giám Thống kê các năm 1996, 1997, 1999, 2000, 2005, 2006, Tổng cục Thống Kê 6.Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 339, 351, Viện Kinh tế Việt Nam- Viện Khoa học Xã hội Việt Nam 7.Tạp chí Kinh tế và phát triển số 120 tháng 6/2007, Đại học Kinh tế Quốc Dân

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc75930.DOC
Tài liệu liên quan