Tài liệu Đề tài Một số vấn đề về xây dựng và thực hiện Kế hoạch kinh doanh máy tính và các thiết bị tin học của công ty FPT: Lời nói đầu
Chủ trương của Đảng và Nhà nước ta trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá bao gồm cả việc phát triển công nghệ tin học, một ngành mới mẻ ở Việt Nam nhưng không phải là ngành mới mẻ trên thế giới. Để rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển chúng ta đã có những khuyến khích đối với nền công nghệ non trẻ này. Là một công ty công nghệ tin học ra đời đầu tiên tại Việt Nam, Công ty Phát triển và đầu tư công nghệ (the coporation for Financing and Promoting Technology-FPT) đã nhận được sự cổ vũ từ Trung ương về mọi mặt. Công ty phát triển đầu tư công nghệ -FPT là một đơn vị hoạt động trong lĩnh vực tin học vào loaị lớn nhất nước ta hiện nay.Với chưa đầy 13 năm kinh nghiệm hoạt động nhưng công ty FPT đã kịp vươn ra nhiều quốc gia trên thế giới. Tuy tuổi đời còn non trẻ nhưng hiện nay công ty FPT với đội ngũ cán bộ đầy tài năng và nhiệt huyết đã trở thành một cánh tay đắc lực của Đảng và Nhà nước trong công cuộc cải tổ, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Công ty FP...
110 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1073 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Một số vấn đề về xây dựng và thực hiện Kế hoạch kinh doanh máy tính và các thiết bị tin học của công ty FPT, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Chủ trương của Đảng và Nhà nước ta trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá bao gồm cả việc phát triển công nghệ tin học, một ngành mới mẻ ở Việt Nam nhưng không phải là ngành mới mẻ trên thế giới. Để rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển chúng ta đã có những khuyến khích đối với nền công nghệ non trẻ này. Là một công ty công nghệ tin học ra đời đầu tiên tại Việt Nam, Công ty Phát triển và đầu tư công nghệ (the coporation for Financing and Promoting Technology-FPT) đã nhận được sự cổ vũ từ Trung ương về mọi mặt. Công ty phát triển đầu tư công nghệ -FPT là một đơn vị hoạt động trong lĩnh vực tin học vào loaị lớn nhất nước ta hiện nay.Với chưa đầy 13 năm kinh nghiệm hoạt động nhưng công ty FPT đã kịp vươn ra nhiều quốc gia trên thế giới. Tuy tuổi đời còn non trẻ nhưng hiện nay công ty FPT với đội ngũ cán bộ đầy tài năng và nhiệt huyết đã trở thành một cánh tay đắc lực của Đảng và Nhà nước trong công cuộc cải tổ, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Công ty FPT đã trở thành lá cờ đầu trong phong trào phổ cập tin học cho mọi tầng lớp nhân dân và sớm phát hiện, nuôi dưỡng khích lệ những mầm non tài năng cho đất nước. Hệ thống phân phối của công ty phát triển rộng rãi trên khắp cả nước với doanh thu ngày càng cao.
Xây dựng Kế hoạch kinh doanh là một vấn đề hết sức phức tạp, đòi hỏi phải tính đến các vấn đề thuận lợi và khó khăn bên trong và bên ngoài trên cơ sở chiến lược kinh doanh đã đề ra của công ty sao cho hoạt động kinh doanh của công ty đạt hiệu quả cao nhất. Trong nền kinh tế thị trường, để thích ứng với môi trường luôn thay đổi, công ty FPT muốn thành công cần phải có khả năng ứng phó với mọi tình huống. Điều này đòi hỏi nhà quản trị phải nắm được những xu thế đang thay đổi, tìm ra những yếu tố then chốt đảm bảo thành công, biết khai thác những ưu thế tương đối, hiểu được những điểm mạnh, điểm yếu của mình và của các đối thủ cạnh tranh, hiểu được mong muốn của khách hàng và khả năng đáp ứng của công ty, biết cách tiếp cận thị trường nhằm tìm ra các cơ hội kinh doanh, từ đó vạch ra kế hoạch kinh doanh đúng đắn.
Với mục tiêu nghiên cứu những vấn đề lý luận, phương pháp luận và phương pháp cụ thể để xây dựng kế hoạch kinh doanh trong doanh nghiệp thương mại, nghiên cứu cơ sở hình thành các chính sách, biện pháp về chỉ đạo, tổ chức thực hiện kế hoạch kinh doanh máy tính và các thiết bị tin học của công ty FPT; Bên cạnh đó, để phân tích thực trạng tình hình xây dựng và thực hiện kế hoạch kinh doanh của công ty FPT trong thời gian từ năm 1997 đến nay, nhận thức được mặt mạnh cũng như mặt yếu cần khắc phục trong vấn đề này, qua đó đề ra những giải pháp giúp công ty xây dựng được Kế hoạch kinh doanh đúng đắn, thực hiện Kế hoạch kinh doanh máy tính và các thiết bị tin học của công ty hiệu quả hơn; tôi đi sâu vào nghiên cứu đề tài:
"Một số vấn đề về xây dựng và thực hiện Kế hoạch kinh doanh máy tính và các thiết bị tin học của công ty FPT".
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là Kế hoạch kinh doanh cụ thể là kế hoạch lưu chuyển mặt hàng máy tính và các thiết bị tin học cuả công ty FPT và phạm vi nghiên cứu của đề tài là:
- Về mặt không gian: Tổng công ty Phát triển và Đầu tư công nghệ- FPT
- Về mặt thời gian: Từ năm 1997 đến nay
Trong đó tôi sử dụng tổng hợp nhiều phương pháp khác nhau như: phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử, phương pháp phân tích phương pháp tổng hợp, tiếp cận hệ thống, phương pháp thống kê, toán học, dự báo.
Chương I
Vai trò, nội dung của công tác xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch kinh doanh của
doanh nghiệp thương mại
I. Vai trò của kế hoạch kinh doanh trong hoạt động của doanh nghiệp thương mại
1. Tính tất yếu và bản chất của kế hoạch kinh doanh ở doanh nghiệp thương mại
Kế hoạch kinh doanh được coi là một văn bản trong đó phác thảo ra những gì sẽ làm trong thời gian tới: đó là những gì mua vào, sản xuất, bán ra và bán cho ai, cần nguồn nhân lực vật lực như thế nào để công ty tồn tại và phát triển.
Sự chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang xây dựng cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước đã và đang đặt ra nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn cần phải nghiên cứu và giải quyết. Một trong những vấn đề đó là lĩnh vực kế hoạch hóa. Trong những năm chuyển đổi vừa qua có không ít những ý kiến bàn luận về vai trò và sự tồn tại khách quan của công tác này. Những ý kiến không hoàn toàn thống nhất với nhau mà còn thậm chí trái ngược nhau. Một số ý kiến cho rằng: trong nền kinh tế thị trường, trong cơ chế quản lý mới này không có chỗ cho công tác kế hoạch hóa, tức là kế hoạch hóa không thể tồn tại trong kinh tế thị trường, công tác này chỉ thích hợp trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp. Một số ý kiến khác lại cho rằng: giờ đây khi thị trường trực tiếp điều tiết và chỉ dẫn cho các doanh nghiệp trong các hoạt động nhằm giải quyết những vấn đề kinh tế cơ bản, dù trong điều kiện nào công tác kế hoạch hóa nói chung và công tác kế hoạch hóa trong doanh nghiệp nói riêng vẫn tồn tại như một khâu, một bộ phận của hoạt động quản lý và là một trong những yếu tố cấu thành của cơ chế quản lý. Khi môi trường và điều kiện hoạt động thay đổi, cùng với các bộ phận khác của cơ chế quản lý mới, công tác kế hoạch hóa cũng cần được nghiên cứu và đổi mới.
Những bài học thực tiễn trong cơ chế cũ không phải ít, với cơ chế điều hành cứng nhắc từ trên xuống dưới thể hiện ở các chỉ tiêu pháp lệnh thông qua hệ thống kế hoạch pháp lệnh đã để lại một sự ăn mòn trong công tác xây dựng kế hoạch kinh doanh của các công ty mà cho đến nay vẫn còn chưa xoá nhòa được. Hậu quả của cơ chế cũ đã làm cho các doanh nghiệp không biết đến thị trường, đi ngược lại với các quy luật của thị trường như: quy luật cung cầu, quy luật giá cả…và do đó điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh thiếu linh hoạt, nhà sản xuất không biết đến nhu cầu của người tiêu dùng, sản xuất và kinh doanh không gắn liền với hiệu quả kinh tế. Trong giai đoạn này các doanh nghiệp chỉ quan tâm đến việc có hoàn thành kế hoạch được giao hay không. Trong khi đó cơ chế thị trường có sự cạnh tranh gay gắt giữa các đơn vị kinh tế thì hiệu quả kinh tế là mục tiêu hàng đầu, mục tiêu bao trùm lên tất cả các mục tiêu khác. Kế hoạch cho phép các doanh nghiệp biết đến hướng đi trong thời gian sắp tới, nó không chỉ quan tâm đến vấn đề tài chính mà còn phải xem xét đến các hoạt động khác của công ty: thị trường, khách hàng, sự biến động của môi trường kinh doanh…và những thay đổi có thể xảy ra, công ty có cách ứng phó như thế nào trước sự thay đổi đó. Ngoài ra kế hoạch còn là cơ sở để ngân hàng xem xét có nên cho công ty vay vốn để sản xuất kinh doanh hay không, vì qua bản kế hoạch kinh doanh công ty sẽ cho ngân hàng thấy được tương lai của công ty mở mang phát triển đến đâu. Trong trường hợp đó kế hoạch kinh doanh thực sự có ý nghĩa đối với các doanh nghiệp.
Thực tế hoạt động quản lý của doanh nghiệp trong những năm vừa qua đã đem lại những bài học kinh nghiệm quý giá rằng nếu coi thường các yêu cầu của công tác kế hoạch, của phương thức hạch toán kinh doanh, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ sẽ dẫn đến cách làm tuỳ tiện, thiếu kỷ cương, mạnh ai nấy làm, không thể kiểm soát hết được. Thực tế này đã dẫn đến một thực trạng thiếu ổn định trong công tác quản lý và kế hoạch hóa doanh nghiệp: khi thì quá dân chủ dẫn đến “dân chủ quá trớn” khi thì quá gò bó cứng nhắc, nguyên tắc làm cho các hoạt động kém linh hoạt.
Những bài học kinh nghiệm thực tế từ những nước có nền kinh tế thị trường phát triển cùng với những kết quả ban đầu trong những năm đổi mới đã phần nào khẳng định rằng: Sự tồn tại của công tác kế hoạch hóa trong cơ chế mới này là một tất yếu khách quan cần phải được tăng cường và đổi mới bởi lẽ: Xét về mặt bản chất thì kế hoạch hóa là một hoạt động chủ quan, có ý thức có tổ chức của con người nhằm xác định mục tiêu, phương án, bước đi, trình tự và cách thức tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh. Do đó kế hoạch hóa là yêu cầu của bản thân quá trình lao động của con người và gắn liền với quá trình đó. Thực chất của kế hoạch hóa là quá trình định hướng và điều khiển các định hướng đối với sự phát triển sản xuất theo quy luật tái sản xuất mở rộng ở mọi cấp độ của nền kinh tế.
Trong thực tế ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển họ đều rất quan tâm đến công tác kế hoạch ở cấp công ty. Họ đánh giá đúng vai trò, vị trí, xác định rõ chức năng và tổ chức nghiên cứu, thực thi nhiều giải pháp nhằm thực hiện hoàn chỉnh công tác này. Qua những thử nghiệm và đánh giá các nhà kinh tế học nhận định rằng: hoạt động kế hoạch hóa công ty là sự cần thiết nhằm thực hiện hai mục đích là tận dụng các cơ hội để tăng khả năng thành công trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và tránh các rủi ro, đe doạ của môi trường đến các doanh nghiệp. Và thực tế ngày nay trong các doanh nghiệp công tác kế hoạch hoá đã được quan tâm hàng đầu bởi lẽ hoạt động này giúp cho các đơn vị kinh tế hoạch định các mục tiêu hoạt động, dự báo các khả năng và nguồn lực của doanh nghiệp, xây dựng và đánh giá các phương án, hoạt động nhằm thực hiện các mục tiêu sản xuất kinh doanh đã dặt ra cho năm kế hoạch.
Ra đời từ sự phát triển của sản xuất và phân công lao động xã hội, doanh nghiệp thương mại trở thành một bộ phận trung gian độc lập giữa sản xuất và tiêu dùng, thực hiện chức năng phục vụ nhu cầu của sản xuất, tiêu dùng về các loại hàng hóa trong nền kinh tế quốc dân, phát hiện nhu cầu về hàng hóa và dịch vụ trên thị trường và tìm mọi cách để thỏa mãn các nhu cầu đó. Không ngừng nâng cao trình độ thỏa mãn nhu cầu của các khách hàng để nâng cao hiệu quả kinh doanh; giải quyết tốt các mối quan hệ nội bộ doanh nghiệp và quan hệ giữa doanh nghiệp với bên ngoài. Sự thành công trong kinh doanh chỉ đến với doanh nghiệp khi doanh nghiệp biết phối hợp tốt nhất các yếu tố bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. Kế hoạch kinh doanh là một công cụ, một yếu tố để tổ chức và quản trị các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sao cho có hiệu quả. Kế hoạch kinh doanh có chức năng chủ yếu là tính toán các nguồn tiềm năng, dự kiến khai thác các khả năng có thể huy động và phối hợp các nguồn tiềm năng ấy theo những định hướng chiến lược đã định để tạo ra một cơ cấu hợp lý thúc đẩy tăng trưởng nhanh và giữ cân bằng các yếu tố trên tổng thể.
* Khái niệm kế hoạch kinh doanh trong doanh nghiệp thương mại
Doanh nghiệp thương mại khi tiến hành kinh doanh thường phải lập nhiều kế hoạch hoạt động kinh doanh trong đó cơ bản nhất là kế hoạch lưu chuyển hàng hoá. Kế hoạch lưu chuyển hàng hoá của doanh nghiệp thương mại là bảng tính tổng hợp những chỉ tiêu bán ra, mua vào và dự trữ hàng hoá đáp ứng nhu cầu khách hàn, trên cơ sở khai thác tối đa khả năng có thể có của doanh nghiệp trong kỳ kế hoạch.
2. Các bộ phận cấu thành kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp
Với vai trò là công cụ quản trị quan trọng nhằm đạt được các mục tiêu đề ra của doanh nghiệp, kế hoạch ngày nay bao gồm 3 bộ phận cơ bản: kế hoạch hoá mục tiêu phát triển, kế hoạch hoá nguồn lực và cách đạt được mục tiêu, kế hoạch hoá chính sách xã hội và phân phối các kết quả đạt được.
2.2.1 Kế hoạch hoá mục tiêu của doanh nghiệp là việc doanh nghiệp đề ra các kết quả kinh doanh cần phấn đấu để đạt được trong thời gian kế hoạch.
- Các chỉ tiêu của kế hoạch mục tiêu: là các kết quả kinh doanh tổng hợp của doanh nghiệp như sản lượng, doanh thu lợi nhuận, các khoản nộp ngân sách Nhà nước đối với các doanh nghiệp Nhà nước.
- Yêu cầu đối với các chỉ tiêu nói trên được căn cứ vào mối quan hệ tác động giữa chúng, xuất phát từ tình hình thực tế các năm trước, tháng trước xuất phát từ nhu cầu thị trường qua kết quả nghiên cứu thị trường, từ kế hoạch của Nhà nước giao (đối với các doanh nghiệp Nhà nước).
- Quá trình xây dựng mục tiêu là tính toán và phân tích chỉ số tuyệt đối, tương đối của từng chỉ tiêu tổng quát và các bộ phận cấu thành chỉ tiêu (như tổng doanh thu, doanh thu sản phẩm, doanh thu từ các dịch vụ…) đồng thời phân tích tỉ trọng các bộ phận cấu thành nhằm rút ra các giải pháp, chính xác đúng đắn nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Xác định tỉ xuất lợi nhuận theo doanh thu, chi phí...nhằm so sánh hiệu quả sản xuất kinh doanh của đơn vị qua các năm.
2.2.2 Kế hoạch các nguồn lực và cách (chủ trương, biện pháp) để đạt được mục tiêu. Để đạt được mục tiêu đề ra, doanh nghiệp cần phải có các nguồn lực (con người, vốn, công nghệ, đất đai) làm giàu cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nguồn lực này không phải lúc nào doanh nghiệp cũng có sẵn mà phải huy động. Chính vì vậy mà ngay từ khi triển khai thực hiện kế hoạch doanh nghiệp cần phải có chính sách từng bước huy động các nguồn lực với chất lượng cần thiết cho việc thực hiện các mục tiêu đã đề ra.
- Các bộ phận của kế hoạch nguồn nhân lực là kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản, kế hoạch trang thiết bị cơ sở vật chất phục vụ sản xuất và quản lý, kế hoạch nguồn vốn, kế hoạch phát triển nguồn nhân lực (kế hoạch đào tạo, kế hoạch lao động tiền lương). Bên cạnh đó là việc hệ thống hoá các chính sách Marketing, chính sách tiêu thụ sản phẩm, chính sách phát triển các dịch vụ trong và sau khâu bán hàng…nhằm đẩy nhanh tốc độ hoàn thành kế hoạch.
- Yêu cầu của kế hoạch nguồn lực là phải xuất phát từ kế hoạch mục tiêu (có cả sự kết hợp các mục tiêu dài hạn), lấy kế hoạch làm cơ sở cho các quá trình tính toán, xây dựng kế hoạch.
Giữa kế hoạch mục tiêu và kế hoạch nguồn nhân lực cho sự phát triển có mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau. Kế hoạch mục tiêu là cơ sở cho kế hoạch nguồn nhân lực lại là điều kiện để có thể đạt được kế hoạch mục tiêu. Nếu các nguồn lực không cho phép thì các chỉ số của kế hoạch mục tiêu bắt buộc phải giảm bớt. Ngược lại nếu nguồn lực huy động được vượt qua sự cần thiết để hoàn thành kế hoạch có thể dẫn đến sự lãng phí nguồn lực, đặc biệt là yếu tố con người.
Xây dựng các chỉ tiêu kế hoạch trong kế hoạch nguồn nhân lực: là việc xác định các thông số kỹ thuật, kinh tế hay các thông số về nguồn lực cần đạt được trong thời gian tới, với tiến độ kịp thời, có lợi nhất cho việc thực hiện kế hoạch mục tiêu. Kế hoạch đầu tư cần có sự chi tiêu, cụ thể tránh sự chồng chéo, chậm trễ hay lãng phí.
2.2.3 Kế hoạch các chính sách xã hội và phân phối kết quả kinh doanh là việc hoàn thành các nghĩa vụ đối với Nhà nước (nếu là doanh nghiệp Nhà nước), việc thực hiện các hoạt động mang tính chất tích cực nâng cao phúc lợi cho người lao động trong đó chủ yếu là chính sách an toàn lao động, thưởng, trợ cấp, giúp đỡ người lao động lúc khó khăn…Việc thực hiện các chính sách này được thực hiện bằng cách trích lập các quỹ dành cho người lao động. Các quỹ này được tài trợ bởi kết quả tài chính mà doanh nghiệp đạt được. Các kết quả tài chính này có thể biến động của môi trường kinh doanh. Tuy nhiên cần có sự phân chia theo đúng tỷ lệ nhất định nhằm đạt được những mục tiêu nhất định. Đó có thể là những mục tiêu phát triển dài hạn đòi hỏi sự tích luỹ tài chính lâu dài, hay dùng để trả nợ vay dài hạn…
Yêu cầu của kế hoạch phân phối kết quả kinh doanh là phải sử lý thoả đáng các mối quan hệ giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động. Trong nội bộ doanh nghiệp, khi phân bổ vào các quỹ cũng cần có sự tương xứng thích đáng với vai trò và tầm quan trọng của mỗi quỹ. Việc sử lý thoả đáng các mối quan hệ bên ngoài và bên trong doanh nghiệp có tác dụng rất lớn đối với sự phát triển bền vững của doanh nghiệp.
3. Các loại kế hoạch kinh doanh ở doanh nghiệp và mối quan hệ giữa các loại kế hoạch kinh doanh đó
* Căn cứ vào tiêu thức thời gian, kế hoạch kinh doanh bao gồm:
- Kế hoạch chiến lược (thường được gọi là chiến lược) nhằm xác định các lĩnh vực mà công ty sẽ tham gia, đa dạng hóa hoặc cải thiện hoạt động trên các lĩnh vực hiện tại, xác định các mục tiêu và các giải pháp dài hạn cho các vấn đề chính, đầu tư nghiên cứu phát triển, con người…
- Kế hoạch trung hạn: thường là 2,3 năm nhằm phác thảo chương trình trung hạn để thực hiện kế hoạch hóa dài hạn, tức là để đảm bảo tính khả thi lĩnh vực mục tiêu, chính sách và giải pháp được hoạch định trong chiến lược đã chọn.
- Chương trình kế hoạch hàng năm : tuỳ theo cách tiếp cận của kế hoạch chiến lược và kế hoạch trung hạn; cách cụ thể hoá các nhiệm vụ sản xuất kinh doanh hàng năm có thể được xác định theo chương trình hoặc các phương án kế hoạch năm. Cho dù kế hoạch năm được xác định như thế nào thì bản chất của nó là sự cụ thể hóa nhiệm vụ sản xuất kinh doanh căn cứ vaò định hướng mục tiêu chiến lược và các kế hoạch trung hạn, căn cứ vào kết quả nghiên cứu điều tra các căn cứ, xây dựng kế hoạch phù hợp với điều kiện của kế hoạch năm.
- Kế hoạch tác nghiệp và các dự án: để triển khai các mục tiêu và hoạt động sản xuất kinh doanh các công ty cần hoạch định kế hoạch tác nghiệp và các phương án. Các kế hoạch tác nghiệp (có thể theo sản phẩm, theo lĩnh vực, theo bộ phận sản xuất hoặc theo tiến độ thời gian…) gắn liền với việc triển khai các phương án kế hoạch còn các dự án về cải tạo hiện đại hoá dây chuyền công nghệ, đào tạo nghiên cứu phát triển…lại gắn liền với việc thực thi các chương trình hoặc các chương trình đồng bộ có mục tiêu.
* Căn cứ vào mối quan hệ giữa các loại hoạt động kế hoạch hóa phạm vi doanh nghiệp có:
- Bộ phận kế hoạch mục tiêu: đây là bộ phận kế hoạch quan trọng nhất của doanh nghiệp, có nhiệm vụ hoạch định các mục tiêu về sản xuất, thị trường quy mô và cơ cấu các hoạt động sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó bộ phận kế hoạch mục tiêu cũng xác định các mục tiêu tài chính cơ bản nhằm xác định hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh gắn liền với từng phương án được hoạch định.
- Các kế hoạch điều kiện, hỗ trợ về vốn, vật tư, nhân lực, tiền lương…xác định chính sách giải pháp, phương hướng huy động khai thác các khả năng nguồn lực nhằm thực hiện có hiệu quả các phương án kế hoạch mục tiêu và gắn liền với kế hoạch mục tiêu. Việc xác định các kế hoạch này nhằm đảm bảo tính đồng thời trong mục tiêu, giải pháp và điều kiện thực hiện các kế hoạch quản lý. Độ dài thời gian và các yêu cầu của kế hoạch mục tiêu sẽ quyết định cá vấn đề tương lai của các kế hoạch điều kiện. Cuối cùng việc xây dựng và thực hiệc các kế hoạch điều kiện là nhằm đảm bảo và nâng cao tính khả thi của các phương án và các chương trình kế hoạch của các doanh nghiệp.
4. Vai trò của kế hoạch kinh doanh trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại
Trong phạm vi doanh nghiệp, kế hoạch là chức năng đầu tiên và quan trọng của quản lý doanh nghiệp. Theo Henry Foyol “Doanh nghiệp chỉ thu được kết quả khi nó được hướng dẫn bởi một chương trình hoạt động, một kế hoạch nhất định nhằm xác định rõ: Sản xuất cái gì? Sản xuất bằng cách nào? Bán cho ai? Với nguồn tài chính nào?”
Trước kia, trong cơ chế bao cấp, các chỉ tiêu kế hoạch được các cơ quan cấp trên giao xuống theo nhiệm vụ của từng ngành, do đó thường không sát với thực tế của doanh nghiệp, trong quá trình thực hiện phải có sự điều chỉnh mới có thể thực hiện được, làm cho vai trò của kế hoạch bị hạ thấp trong quản lý doanh nghiệp. Từ khi nền kinh tế nước chuyển sang “Cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN“ (Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI - năm 1986) mới thực sự tạo ra môi trường cho kế hoạch hoạt động, nghĩa là kế hoạch phải xuất phát từ nhu cầu thị trường, khả năng thực tế của doanh nghiệp và trong điều kiện pháp luật cho phép. Xuất phát từ nhũng cơ sở này, kế hoạch thực sự trở thành công cự quản lý quan trọng nhằm xác định nhiệm vụ và mối quan hệ giữa các bộ phận và các cá nhân trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ sản xuất kinh doanh.
Xét một cách cụ thể, vai trò là công cụ quản lý của kế hoạch được thể hiện trên các mặt cơ bản sau:
- Thứ nhất: Trong lĩnh vực kinh doanh, kế hoạch tạo ra thế chủ động (tức là tạo ra một sự định hướng). Chủ động khai thác mọi nguồn khả năng tiềm tàng về vốn, vật tư, máy móc thiết bị, lao động hiện có, chủ động trong việc mua sắm hàng hoá, trong việc đổi mới thiết bị và công nghệ, chủ động trong việc liên doanh và hợp tác kinh doanh với các đối tác khác, chủ động trong việc tìm thị trường tiêu thụ, thị trường nguyên vật liệu đầu vào…
- Thứ hai: Kế hoạch là công cụ đắc lực trong việc nỗ lực của các thành viên trong doanh nghiệp sẽ biết được “con thuyền” đến đích đã định. Nếu thiếu kế hoạch, doanh nghiệp như một con thuyền không có bánh lái chỉ biết đi lòng vòng.
- Thứ ba: Kế hoạch chỉ có thể giảm được sự chồng chéo và những hoạt động lãng phí. Kế hoạch không chỉ đơn thuần là các mục tiêu, là những hướng đi của doanh nghiệp mà nó còn thể hiện các cách để đạt mục tiêu đó. Kế hoạch chỉ ra trách nhiệm và nhiệm vụ của từng cá nhân, từng bộ phận trong việc thực hiện mục tiêu kinh doanh, do vậy hiện tượng chồng chéo, lãng phí được giảm đến mức thấp nhất góp phần đem lại hiệu quả kinh doanh cho doanh nghiệp.
- Thứ tư: Kế hoạch có thể làm giảm tính bất ổn định cho doanh nghiệp. Trong quá trình xây dựng kế hoạch các nhà quản lý buộc phải nhìn về phía trước, dự đoán những thay đổi của nội bộ doanh nghiệp cũng như của môi trường kinh doanh, cân nhắc những ảnh hưởng của chúng và đưa ra những ứng phó thích hợp.
- Thứ năm: Kế hoạch thiết lập nên những tiêu chuẩn tạo điều kiện cho công tác kiểm tra, kiểm soát trong doanh nghiệp. Nếu một doanh nghiệp mà không biết rõ phải đạt tới cái gì và đạt được bằng cách nào thì đương nhiên không thể xác định liệu nó đã thực hiện được mục tiêu hay chưa và cũng không có những biện pháp điều chỉnh kịp thời khi có những lệch lạc xảy ra. Vì vậy, không có kế hoạch thì cũng không có kiểm tra.
Tóm lại: Chức năng kế hoạch là chức năng đầu tiên, là xuất phát điểm của mọi quá trình quản lý trong doanh nghiệp trong doanh nghiệp. Thực tế đã chứng minh, trong cơ chế thị trường kinh doanh của doanh nghiệp mà không có kế hoạch hoặc chất lượng của kế hoạch không cao thì không bao giờ đạt hiệu quả cao. Việc vạch ra các kế hoạch hiệu quả là chiếc chìa khoá vàng đem lại sự thành công cho doanh nghiệp.
5. ý nghĩa của việc xây dựng và thực hiện kế hoạch hoá ở doanh nghiệp thương mại
Kinh doanh là quá trình đầu tư tiền của, sức lao động vào lĩnh vực nào đó để kiếm lời. Doanh nghiệp thương mại chỉ có thể tồn tại và phát triển được khi nó thực hiện hành vi kinh doanh thương mại, nó làm cầu nối giữa người sản xuất và người tiêu dùng cuối cùng, nó thực hiện chức năng phục vụ nhu cầu của sản xuất, tiêu dùng về các loại hàng hoá, dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân.
Kinh doanh là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với doanh nghiệp, nó quyết định việc mở rộng và phát triển của doanh nghiệp. Muốn kinh doanh tốt thì phải làm tốt công tác lập kế hoạch kinh doanh và thực hiện tốt kế hoạch đó, có thế doanh nghiệp mới hoàn thành tốt các chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước giao cho và biết được khả năng của bản thân:
- Kế hoạch kinh doanh bảo đảm cho doanh nghiệp chủ động ứng phó với những biến động của thị trường.
- Kế hoạch kinh doanh bảo đảm huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực.
- Kế hoạch kinh doanh là một công cụ chủ yếu để quản lý mọi mặt hoạt động sản xuất kinh doanh, là đòn bẩy quan trọng để khai thác mọi khả năng tiềm tàng nhằm mục tiêu sử dụng một cách hợp lý nhất toàn bộ giá trị tài sản của Nhà nước giao để phát triển sản xuất kinh doanh, nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, hiệu quả kinh tế xã hội và cải thiện từng bước đời sống cán bộ công nhân viên.
- Kế hoạch kinh doanh có ý nghĩa quan trọng góp phần vào việc làm cho quá trình kinh doanh diễn ra liên tục, có hiệu quả nhờ có kế hoạch thị trường mà doanh nghiệp chủ động mua bán, kí kết các hợp đồng kinh tế. Mặt khác nhờ lập kế hoạch kinh doanh mà doanh nghiệp mới biết đươc tình hình kinh doanh của mình so với kế hoạch đã được chưa để có hướng phấn đấu.
Lập kế hoạch kinh doanh giúp cho doanh nghiệp tổ chức tốt hoạt động thị trường và chiếm lĩnh thị trường, bằng việc sử dụng các phương thức thị trường, giá bán, giá mua hợp lý, tổ chức tốt công tác nghiên cứu thị trường, tìm hiểu nguồn hàng, tổ chức tốt hoạt động xúc tiến, quảng cáo, yểm trợ bán hàng cho doanh nghiệp có thể tạo ra các ưu thế trong cạnh tranh, mở rộng thị trường hiện tại và chiếm lĩnh các thị trường mới. Thông qua kế hoạch kinh doanh khuyến khích các nhà lãnh đạo thường xuyên suy nghĩ đến triển vọng của công ty, nó xây dựng các chỉ tiêu hoạt động để sau này làm căn cứ kiểm tra, đánh giá buộc công ty phải xác định rõ phương hướng mục tiêu kinh doanh, chiến lược kinh doanh cụ thể, nó bảo đảm cho công ty có khả năng đối phó với những biến động bất ngờ, nó thể hiện cụ thể hơn mối quan hệ qua lại giữa chức trách nhiệm vụ của tất cả những người có trách nhiệm trong công ty.
Trong thời kỳ bao cấp việc xây dựng kế hoạch mang tính pháp lệnh cứng nhắc, không linh hoạt, khó có khả năng thực thi hoặc không hiệu quả. Còn kế hoạch trong thời kỳ này là kế hoạch phát triển rất linh hoạt, mềm dẻo không mang tính cưỡng chế mà chủ yếu mang tính thuyết phục. Vì vậy kế hoạch kinh doanh thích ứng được với những biến động của môi trường kinh doanh. kế hoạch kinh doanh là công cụ quản lý có hiệu quả của doanh nghiệp, là công cụ đắc lực trong phối hợp nỗ lực của các thành viên trong công ty, có tác dụng làm giảm tính bất ổn trong doanh nghiệp, giảm sự chồng chéo và những hoạt động lãng phí, lập kế hoạch thiết lập nên các tiêu chuẩn tạo điều kiện cho công tác kiểm tra. Như vậy việc lập kế hoạch có khả năng thực thi luôn là chìa khóa vàng cho việc thực hiện một cách hiệu quả những mục tiêu mà doanh nghiệp hướng tới.
Tóm lại, kế hoạch kinh doanh có ý nghĩa quan trọng, nó ảnh hưởng đến thành công hay thất bại trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại, có lập kế hoạch kinh doanh thì doanh nghiệp mới có khả năng nắm bắt nhu cầu thị trường và chủ động đối phó với những diễn biến phức tạp để chuẩn bị kế hoạch kinh doanh hợp lý nhằm phục vụ nhu cầu khách hàng một cách hợp lý, đem lại lợi nhuận kinh tế cao. Vì vậy mỗi doanh nghiệp cần chú trọng hơn với công tác lập kế hoạch, có thể thành lập riêng một đội ngũ chuyên lập kế hoạch sao cho hợp lý và chính xác, tạo tiền đề vững chắc thực sự cho công tác kế hoạch hàng hoá dịch vụ.
II. Nội dung của công tác xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp thương mại
1. Nghiên cứu thị trường, tìm kiếm cơ hội hấp dẫn và xác định mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp
1.1. Nghiên cứu thị trường tìm kiếm cơ hội hấp dẫn
Công việc đầu tiên khi xây dựng một kế hoạch kinh doanh là nghiên cứu thị trường bởi vì doanh nghiệp thương mại là một tác nhân trên thị trường mà thị trường luôn biến động, đầy bí ẩn và thay đổi không ngừng. Mục đích của việc nghiên cứu thị trường là tìm ra những cơ hội hấp dẫn để từ đó có thể khai thác cơ hội đó một cách hiệu quả nhất.
Mỗi loại hàng hoá có một nguồn sản xuất, nguồn cung ứng khác nhau, có đặc tính lý hoá cơ học khác nhau và phục vụ nhu cầu tiêu dùng khác nhau. Do đó nó có tính chất đặc thù không giống nhau. Khi nghiên cứu thị trường doanh nghiệp sẽ nghiên cứu thị trường nguồn hàng (nguồn sản xuất, người cung ứng) và thị trường tiêu thụ sản phẩm. quá trình nghiên cứu thị trường đầu vào cũng như đầu ra của doanh nghiệp thương mại đều phải trải qua các bước như:
- Nghiên cứu khái quát thị trường: Tổng cung, tổng cầu hàng hoá, giá cả thị trường, chính sách của chính phủ...
- Nghiên cứu chi tiết thị trường: nhà cung ứng, khách hàng, đói thủ cạnh tranh, cơ cấu mặt hàng kinh doanh...
Để nghiên cứu thị trường doanh nghiệp có thể sử dụng phương pháp nghiên cứu tại bàn hoặc nghiên cứu hiện trường hoặc kết hợp cả hai phương pháp này.
Qua quá trình nghiên cứu thị trường doanh nghiệp tìm thấy các cơ hội kinh doanh của mình đó là sự xuất hiện nhu cầu bán của các nhà cung ứng, nhu cầu mua của khách hàng những hàng hoá mà doanh nghiệp định kinh doanh, từ đó doanh nghiệp tìm ra những cơ hội hấp dẫn, đó là nhu cầu cung ứng của nhà sản xuất và nhu cầu mua của khách hàng đã và sẽ xuất hiện trên thị trường phù hợp với mục tiêu, tiềm lực của doanh nghiệp. Do đó doanh nghiệp có thể khai thác để xây dựng cho mình một kế hoạch kinh doanh hoàn hảo và "vượt qua" các cơ hội hấp dẫn đó để thu lợi nhuận.
1.2. Xác định mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp
Việc xác định mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp có nhiều cách tiếp cận. Theo cách tiếp cận với thời gian, mục tiêu doanh nghiệp gồm:
+ Mục tiêu dài hạn (từ 3 năm trở lên)
+ Mục tiêu trung dài hạn (từ 1-3 năm)
+ Mục tiêu ngắn hạn (dưới 1 năm)
(Xem hình 1.2.1)
Theo cách tiếp cận có tính chất thứ bậc có các mục tiêu:
+ Mục tiêu bao trùm
+ Mục tiêu trung gian (chiến thuật)
+ Mục tiêu điều kiện
Theo cách tiếp cận với các nội dung của một quá trình kinh doanh, người ta có thể phân loại mục tiêu kinh doanh một cách cụ thể hơn
(Xem hình 1.2.2).
Các loại mục tiêu của doanh nghiệp
Các mục tiêu mang
tính chất tiền lệ
- Tăng lợi nhuận
- Tăng doanh thu
- Hạ chi phí
- Tăng khả năng chi trả
- Bảo tồn vốn kinh doanh
Các mục tiêu không mang
tính chất tiền lệ
- Tăng tỷ trọng thị phần
- Sự phát triển của DN
- Sức mạnh và uy lực DN
- Sự độc lập
- Phục vụ khách hàng
- Cải tiến chất lượng
Hình 1.2.1:Mục tiêu kinh doanh
(1) Lãnh đạo doanh nghiệp
- Chủ tịch
- Giám đốc
(2) Đặt mục tiêu (sẽ)
- D.số, L.nhuận,
C. phí
- Các tỷ xuất
- Chất lượng
- Khả năng thanh toán
(tiềm lực tài chính)
Chỉ huy các lĩnh vực
-Lĩnh vực Vật tư
-Lĩnh vực Sản xuất
-Lĩnh vực Nhân sự
-Lĩnh vực Tài chính kinh tế
-Lĩnh vực Tổ chức thị trường
-Lĩnh vực Hành chính, pháp chế
(6) Phân tích
- So sánh (sẽ và đã)
- Phân tích mạnh và yếu
- Phân tích Marketing
trong cơ hội
và rủi ro
(3) XD kế hoạch
- Bản cân đối kế hoạch
- Kế hoạch T.toán lời, lỗ
- Kế hoạch chi phí (loại chi phí, mức chi phí,nơi chi phí )
(5) Kiểm soát (đã)
- Bảng tổng kết thực
- Lời, lỗ thực
- Chi phí thực (loại chi phí, mức chi phí,nơi phát sinh )
(4) Thực hiện
- Những người thực hiện
- Các cộng sự
Dự thảo chiến lược
Quản trị nhân viên
Kiểm tra
Trước
Sau
Bố trí các phương tiện và kỹ thuật quản trị
Các mức độ ảnh hưởng
Hình 1.2.2: Quy trình quản trị một doanh nghiệp
1.2.1. Phân tích hệ thống mục tiêu
Khi hoạch định mục tiêu cho hoạt động kinh doanh, nhà quản trị phải phân tích các yếu tố ngoại lai tác động lẫn nhau. Có ba xu hướng tác động giũa các mục tiêu:
MT2
MT1
* Khuynh hướng đồng thuận: Tức là việc thực hiện một mục tiêu nào đó sẽ dẫn đến đạt cả mục tiêu khác. Loại mục tiêu này doanh nghiệp cần có lực để đạt được. Chẳng hạn để đạt được mục tiêu hạ thấp chi phí sẽ dẫn đến việc đạt mục tiêu lợi nhuận.
* Khuynh hướng đối nghịch: Tức là việc theo đuổi mục tiêu này có thể làm thất bại các mục tiêu khác. Chẳng hạn, nếu đặt mục tiêu hạ thấp chi phí sẽ ảnh hưởng đến mục tiêu tăng thu nhập cho người lao động.
* Khuynh hướng vô can: có những mục tiêu mà khi thực hiện nó không ảnh hưởng đến việc thực hiện các mục tiêu khác.
MT2
MT1
MT1
MT2
Tăng MT2 dẫn đến giảm MT1
Tăng MT2 không ảnh hưởng đến MT1
1.2.2. Hoạch định mục tiêu
Khi hoạch định mục tiêu của doanh nghiệp cần lưu ý:
- Phân tích các yếu tố khách quan tác động đến tình hình kinh doanh.
- Xác định số lượng mục tiêu phù hợp với thời kì kinh doanh, phân tích mối quan hệ giữa các mục tiêu.
- Đề ra các thứ bậc mục tiêu.
- Xác định đúng đắn các mục tiêu bao trùm, mục tiêu trung gian và mục tiêu điều kiện.
- Đề ra các thời hạn cụ thể cho từng mục tiêu đề có kế hoạch thực hiện.
- Căn cứ cụ thể vào các mục tiêu để dễ so sánh, phân tích tình hình thực hiện.
Các mục tiêu đã chọn
Nội dung các MT
Các T.số P.ánh
Thời gian T.hiện
Tính thứ bậc
...
...
...
...
2. Phương pháp xây dựng kế hoạch và tính toán các chỉ tiêu kế hoạch
2.1. Giới thiệu chung về phương pháp luận lập kế hoạch
- Xác định mục tiêu kinh doanh: Trước hết xác định mục tiêu tổng quát của hoạt động kinh doanh toàn doanh nghiệp, trong thời kỳ dài hạn đó là định hướng các mục tiêu chiến lược, trong ngắn hạn đó là các mục tiêu về tốc độ tăng trưởng sản xuất kinh doanh, lợi nhuận... Sau đó xác định mục tiêu cho các cấp dưới. Dù ở cấp độ nào mục tiêu cũng phải đáp ứng các vấn đề: cái đích cần đạt tới, trật tự ưu tiên, thời gian cần thiết để tiến hành, thời điểm cần thiết để kết thúc...mục tiêu tổng quát chỉ rõ phương hướng của kế hoạch và là căn cứ để xác định mục tiêu bộ phận. Mục tiêu bộ phận chính sẽ kiểm soát mục tiêu bộ phận phụ và cứ thế cho đến mục tiêu bộ phận thấp nhất.
Sơ đồ: Phương pháp xây dựng kế hoạch
Nhận thức cơ hội kinh doanh
Xác định mục tiêu kinh doanh
Soát xét các tiền đề căn cứ
Hoạch định các phương án
Đánh giá, so sánh các phương án dựa vào mục tiêu
Lập kế hoạch hỗ trợ
Lượng hóa phương án
thông qua
Lựa chọn phương án
- Soát xét các tiền đề căn cứ : Đây là bước quan trọng trong quá trình hoạch định kế hoạch, đó là việc hình thành, mở rộng và đạt được sự nhất trí để sử dụng các tiền đề cấp thiết cho việc lập kế hoạch. Các tiền đề đó liên quan trực tiếp đến kết quả phân tích, về môi trường, điều kiện kinh doanh và nội bộ doanh nghiệp. Các dự báo quan trọng có liên quan tới: loại thị trường, số lượng và cơ cấu sản phẩm, các triển khai kỹ thuật công nghệ, chính sách tài chính, môi trường chính trị, pháp luật, xã hội...Trên thực tế một nguyên tắc cơ bản trong xây dựng kế hoạch là cá nhân được giao nhiệm vụ xây dựng kế hoạch càng hiểu biết sâu trong việc sử dụng các tiền đề hợp lý thì việc xây dựng sẽ càng được phối hợp chặt chẽ hơn.
- Hoạch định phương án kinh doanh: Các mục tiêu thường được thực hiện bằng nhiều con đường khác nhau, ứng với mỗi con đường có thể xác định một phương án kinh doanh tương ứng. Tuy nhiên, yêu cầu cơ bản của bước này không phải là tìm ra mọi phương án mà là giảm bớt phương án cần lựa chọn để sao cho có phương án nhiều triển vọng nhất được đưa ra phân tích với các điểm mạnh yếu đã được xã định.
- Đánh giá các phương án dựa vào mục tiêu cần đạt được: Sau khi tìm được các phương án và điểm mạnh điểm yếu của chúng là việc định hướng các phương án dưới ánh sáng của các tiền đề, căn cứ và mục tiêu từ đó tiến hành đánh giá so sánh các phương án với nhau. Vì có vô số các biến số và ràng buộc cần xem xét nên việc đánh giá trở nên rất khó khăn.
- Lựa chọn phương án kinh doanh: Sau khi so sánh các phương án với nhau ta chọn ra phương án tối ưu nhất đối với doanh nghiệp. Đây là thời điểm phương án được chấp nhận. Trên thực tế doanh nghiệp có thể lựa chọn cho mình một phương án tối ưu và một số phương án dự phòng.
- Xây dựng phương án kế hoạch hỗ trợ: các kế hoạch hỗ trợ được xác định trên cơ sở phương án đã xác định trong dài hạn, đó là việc xác định các chính sách, biện pháp, chiến lược dài hạn. Còn trong ngắn hạn là việc xác định các kế hoạch, điều kiện về vốn, lao động, máy móc thiết bị, nguyên vật liệu...nhằm thực hiện có hiệu quả phương án kinh doanh.
- Lượng hoá phương án thông qua việc lập các ngân quĩ: kế hoạch sau khi đã được xây dựng xong và công bố sử dụng phải được lượng hoá bằng tiền. Ngân quĩ chung của doanh nghiệp biểu thị toàn bộ thu nhập và chi phí với lợi nhuận hoặc số dư tổng hợp. Nếu thực hiện tốt, ngân quĩ sẽ là phương tiện tốt nhất để kết hợp các bộ phận khác nhau và tiêu chuẩn quan trọng để đo lường sự thăng tiến của kế hoạch.
2.2. Các phương pháp xây dựng kế hoạch kinh doanh
* Phương pháp cân đối: Được thực hiên qua các bước sau
- Bước 1: Xác định nhu cầu về các yếu tố kinh doanh để thực hiện các mục tiêu kinh doanh dự kiến.
- Bước 2: Xác định khả năng bao gồm khả năng đã có và chắc chắn sẽ có của doanh nghiệp về các yếu tố kinh doanh.
- Bước 3: Cân đối giữa nhu cầu và khả năng về các yếu tố kinh doanh.
Cân đối được thực hiện là cân đối động và được thực hiện liên hoàn tức là tiến hành cân đối liên tiếp nhau để liên tục bổ sung, điều chỉnh phương án cho phù hợp với thay đổi của môi trường. Trong đó thực hiện cân đối từng yếu tố trước khi tiến hành cân đối tổng hợp.
* Phương pháp phân tích các nhân tố tác động:
Khi xây dựng kế hoạch kinh doanh các nhà hoạch định kế hoạch sẽ xem xét các yếu tố sau:
- Các yếu tố kinh tế như: tổng sản phẩm xã hội, mức cung tiền
- Sự phát triển về dân số và nhóm lứa tuổi
- Các yếu tố chính trị, pháp luật: luật canh tranh, luật môi trường
- Sự biến động của thị trường và thái độ khách hàng
- Sự thay đổi cấu trúc ngành nghề
- Các đặc điểm về nguồn lực của doanh nghiệp: phần thị trường, chu kỳ sống của sản phẩm, chất lượng lao động, tình hình doanh thu...
* Phương pháp lợi thế vượt trội: Phương pháp này gợi mở cho các nhà hoạch định kế hoạch xem xét các lợi thế vượt trội phải theo đuổi để mang lại hiệu quả cho doanh nghiệp
Lợi thế vượt trội:
- Trên lĩnh vực tiêu thụ trong việc khai thác các kênh tiêu thụ cùng với các đối tác khác
- Trong liên doanh liên kết để phát huy chuyên môn hoá
- Trong hợp tác nghiên cứu
- Nhờ năng lực và trình độ của quản trị gia trong việc giải quyết từng vấn đề phát sinh
* Phương pháp phân tích chu kỳ sống của sản phẩm
Mỗi sản phẩm khi xuất hiện trên thị trường đều có tính chất thời điểm và thời đoạn đén thời gian nào đó nó sẽ bị thị trường từ chối. Người hoạch định kế hoạch kinh doanh sẽ quyết định chỉ kinh doanh loại mặt hàng nào. Do đó việc phân tích chu kỳ sống của sản phẩm là một phương pháp kế hoạch quan trọng.
Các giai đoạn
Thâm nhập
Tăng trưởng
Chín muồi
Suy thoái
Đối thủ cạnh tranh
Rất ít
Nhiều
Nhiều
ít đi
Thị phần của DN
Rất cao
Cao
ít dần
ít
Vị trí trên thị trường
Dẫn đầu
Bị cạnh tranh
Bán ít dần
Bị chặn
Mức doanh thu
Tăng chậm
Tăng nhanh
Tăng chậm
Giảm
Kết quả
Hoà vốn
Lãi lớn
Lãi giảm
Lỗ
Sự co giãn giá cả
ít
Trung bình
Lớn
ít
Bảng chu kỳ sống của sản phẩm
* Phương pháp đường cong kinh nghiệm
Phương pháp này dựa vào kết quả nghiên cứu của nhóm tư vấn Boston. Thực chất là việc phân tích các đối thủ cạnh tranh trong vùng ngành nghề trên cơ sở mối quan hệ giữa việc giảm chi phí trên một đơn vị sản phẩm với việc tăng số lượng sản phẩm. Theo kết quả nghiên cứu nếu sản lượng tăng gấp đôi thì chi phí có thể hạ từ 20% đến 30% (không kể lạm phát).
* Phương pháp mô hình PISM
Đây là phương pháp áp dụng rộng rãi ở Hoa kỳ. Thực chất là việc phát hiện sự trao đổi các kết quả có tính chất chiến lược để từ đó xác định kế hoạch kinh doanh
P: Profit (lợi nhuận), I: Impact (tác động), S: Strategy (chiến lược), M: Market (thị trường).
Khi hoạch định kế hoạch, nhà quản trị phải phân tích sáu vấn đề sau- được coi là nhân tố kết quả chiến lược dưới đây:
- Sự hấp dẫn của thị trường: Mức tăng thị trường, tỷ lệ xuất khẩu,..
- Tình hình cạnh tranh: Tính thị phần tương đối của doanh nghiệp dùng để phân tích cho từng loại sản phẩm.
Thị phần của DN =
Phần thị trường tuyệt đối của DN
x 100
Tổng phần thị trường tuyệt đối của ba đối thủ cạnh tranh lớn nhất
- Hiệu quả của hoạt động đầu tư: Cường độ đầu tư, doanh thu trên mỗi hoạt động đầu tư.
- Sử dụng ngân sách doanh nghiệp: Quy mô doanh nghiệp, mức độ phân tán của doanh nghiệp.
- Phân tích sự thay đổi của các yếu tố: Phần thị trường, liên kết, giá cả, chất lượng sản phẩm và sự thay đổi sản lượng.
ROI =
Tổng D.thu
x
Lợi nhuận
x 100 =
Lợi nhuận
x 100
Tổng vốn K.doanh
Tổng D.thu
Tổng vốn K.doanh
2.3 Phương pháp tính toán các chỉ tiêu trong doanh nghiệp thương mại
2.3.1. Phương pháp thống kê - kinh nghiệm:
Thực chất của phương pháp này là trên cơ sở những số liệu báo cáo về hoạt động kinh doanh của 6 tháng hay 9 tháng (căn cứ vào thời điểm lên dự án kế hoạch) và ước thực hiện của kỳ còn lại để xác định ước thực hiện kế hoạch kinh doanh trong năm. Ước thực hiện và nhịp độ tăng giảm mức lưu chuyển cho năm sau.
Nhược điểm của phương pháp này là không phản ánh chính xác khối lượng lưu chuyển hàng hoá kỳ kế hoạch, không tính hết những thay đổi trong danh mục sản phẩm do các doanh nghiệp làm ra…
2.3.2. Phương pháp kế hoạch lưu chuyển hàng hoá:
Được coi là đúng đắn hơn cả, bởi vì cơ sở để làm kế hoạch lưu chuyển hàng hoá của doanh nghiệp thương mại là nhu cầu của khách hàng và khả năng khai thác nguồn hàng để thoả mãn nhu cầu đó.
Trên cơ sở nhu cầu khách hàng và khả năng đáp ứng, doanh nghiệp xác định tổng mức bán hàng theo công thức:
T = P + ( Ddk – Dck )
Trong đó:
T - tổng mức bán (doanh số bán)
P - lượng hàng hoá thu gom (mua vào)
Ddk - lượng hàng hoá đầu kì
Dck - dự trữ hàng hoá đầu kì
Sau khi xác định tổng doanh số bán, doanh nghiệp cần tính lượng hàng hoá lưu chuyển thẳng. Lượng hàng hoá này chính bằng lượng hàng hoá thu gom thẳng.
Dự trữ hàng hoá đầu kì D trong điều kiện kế hoạch lưu chuyển được xác định mức cụ thể:
D = m x t
Trong đó:
m - mức xuất bán bình quân ngày đêm, được tính băng cách lấy tổng mức bán trong kì chia cho số ngày trong kỳ
t - mức dự trữ hàng hoá (ngày)
Để tính được mức bán bình quân ngày đêm được chính xác hơn người ta dùng công thức sau:
m =
P + Ddk
365 + Dck
Trong đó:
P - là mức hàng hoá nhập kho kì kế hoạch
Dck - mức dự trữ hàng hoá cuối kì kế hoạch (ngày)
Biểu kế hoạch lưu chuyển hàng hoá của doanh nghiệp thương mại thường thể lập dưới hình thức khác nhau tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng loại doanh nghiệp.
3. Xác lập các điều kiện thực hiện chỉ tiêu kế hoạch
3.1 Nội dung của kế hoạch kinh doanh ở doanh nghiệp thương mại
Từ trước tới nay, trong bất kỳ doanh nghiệp nào để tồn tại và phát triển đều không thể thiếu được công tác kế hoạch. Kế hoạch giúp cho doanh nghiệp có thể xác định được mục tiêu đúng đắn, đưa ra những chính sách biện pháp thích hợp để đạt được mục tiêu đề ra. Công tác lập kế hoạch có thể nói là sự bắc cầu từ hiện tại tới tương lai. Kế hoạch là chức năng đầu tiên của công tác quản trị doanh nghiệp, nó vạch ra con đường phát triển của doanh nghiệp làm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Kế hoạch hóa là hoạt động chủ yếu của con người, theo mục tiêu định trước. Trên cơ sở đó những người lãnh đạo sẽ đề ra các chính sách, các biện pháp để thực hiện mục tiêu đề ra.
Riêng đối với doanh nghiệp thương mại tiến hành kinh doanh thường phải lập nhiều kế hoạch hoạt động sản xuất kinh doanh. Một kế hoạch hoạt động cơ bản mà doanh nghiệp thương mại cũng phải lập và thực hiện là kế hoạch lưu chuyển hàng hoá. Đây là kế hoạch hoạt động kinh doanh chủ yếu của doanh nghiệp thương mại. Kế hoạch này phản ánh chức năng nhiệm vụ quan trọng nhất, đặc trưng nhất của doanh nghiệp thương mại là lưu chuyển hàng hóa từ lĩnh vực sản xuất đến lĩnh vực tiêu dùng. Kế hoạch lưu chuyển hàng hoá của doanh nghiệp thương mại phản ánh toàn bộ khối lượng công việc nghiệp vụ chủ yếu của doanh nghiệp: mua vào, bán ra và dự trữ hàng hóa. Đây là mục tiêu vừa là điều kiện để doanh nghiệp thương mại đạt được mục đích trong hoạt động kinh doanh. Tập thể cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp phải tập trung mọi nỗ lực và nguồn lực để hoàn thành khối lượng công việc này. Hơn nữa các chỉ tiêu kế hoạch lưu chuyển hàng hoá còn là căn cứ quan trọng để xây dựng các kế hoạch khác. Các kế hoạch khác (kế hoạch vốn kinh doanh, kế hoạch chi phí lưu thông, kế hoạch lao động…) chỉ là các kế hoạch biện pháp lấy mục tiêu lưu chuyển hàng hóa và tính chính xác của các chỉ tiêu cuả kế hoạch lưu chuyển hàng hóa cũng bảo đảm tính chính xác của các kế hoạch biện pháp khác.
Nhiệm vụ chủ yếu của việc xây dựng kế hoạch kinh doanh trong doanh nghiệp thương mại là:
- Đáp ứng được kịp thời nhu cầu của khách hàng về số lượng, chất lượng, chủng loại và thời gian giao hàng, tạo điều kiện phân phối hợp lý hàng hóa vào các kênh tiêu thụ.
- Khai thác tốt các nguồn hàng để thoả mãn đầy đủ nhu cầu thị trường .
- Thiết lập hợp lý giữa các hình thức lưu chuyển thẳng và lưu chuyển qua kho.
- Hình thành đầy đủ và đồng bộ lực lượng dự trữ hàng hóa ở các doanh nghiệp thương mại.
- Tăng nhanh tốc độ chu chuyển của vốn lưu động.
- Những nhiệm vụ này được các cán bộ thương mại doanh nghiệp thực hiện trong quá trình lập kế hoạch kinh doanh hàng hóa bằng cách xác định đúng đắn các chỉ tiêu kế hoạch cũng như quá trình thực hiện chúng thông qua việc tổ chức hạch toán và kiểm tra hoạt động bán hàng.
3.1.1. Kế hoạch mua hàng hóa
Nhiệm vụ cơ bản chủ yếu nhất của doanh nghiệp thương mại là đảm bảo cung ứng cho sản xuất và tiêu dùng những loại hàng hóa cần thiết đủ về số lượng, tốt về chất lượng, kịp thời gian yêu cầu và thuận lợi cho khách hàng. Để thực hiện được nhiệm vụ cơ bản đó, các doanh nghiệp thương mại phải tổ chức tốt công tác tạo nguồn và mua hàng cho doanh nghiệp.
Nguồn hàng của doanh nghiệp là toàn bộ khối lượng và cơ cấu hàng hóa thích hợp với nhu cầu khách hàng đã có khả năng mua được trong thời kỳ kế hoạch.
Để có nguồn hàng tốt và ổn định, doanh nghiệp thương mại phải tổ chức công tác tạo nguồn hàng. Tổ chức tốt công tác tạo nguồn hàng là toàn bộ những hoạt động nghiệp vụ nhằm tạo ra nguồn hàng để đảm bảo cung ứng đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, đúng quy cách, cỡ loại, màu sắc…cho nhu cầu khách hàng.
* Nội dung của công tác tạo nguồn hàng là:
Nghiên cứu xác định nhu cầu của khách hàng về khối lượng hàng hoá, cơ cấu mặt hàng, quy cách, cỡ loại, thời gian, giá cả mà khách hàng có thể chấp nhận được.
Chủ động nghiên cứu và tìm hiểu khả năng của các đơn vị sản xuất trong nước và thị trường nước ngoài để đặt hàng ký kết hợp đồng mua bán.
Có biện pháp cần thiết để tạo điều kiện tổ chức thực hiện tốt việc mua, vận chuyển, giao nhận, đưa hàng đến doanh nghiệp phù hợp với yêu cầu thực tế cầu khách hàng (thị trường).
Như vậy mua hàng là điều kiện tiên quyết để thực hiện kế hoạch bán ra và dự trữ hàng hoá. Mua hàng đòi hỏi hàng hoá phải phù hợp với nhu cầu khách hàng, phải mua hàng kịp thời, đúng yêu cầu, giá cả hợp lý là yếu tố quan trọng để kinh doanh có lãi. Vì vậy trong kế hoạch mua hàng phải tính toán cân nhắc, lựa chọn các loại hàng hoá, nguồn hàng bạn hàng tin cậy để đảm bảo an toàn nguồn vốn kinh doanh và đáp ứng yêu cầu kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ kế hoạch, Trong cơ chế thị trường, doanh nghiệp thương mại có quyền tự mua tự bán, tự lựa chọn thị trường, đối tác và các hình thức, phương thức mua bán. Tuỳ điều kiện, phạm vi, yêu cầu kinh doanh của doanh nghiệp có thể lựa chọn các nguồn hàng sau đây:
- Nguồn hàng nhập khẩu
- Nguồn hàng sản xuất trong nước
- Nguồn hàng tự khai thác chế biến
- Nguồn hàng liên doanh liên kết
- Nguồn hàng khác
Chỉ tiêu mua hàng (mua vào) được xác định căn cứ vào chỉ tiêu bán ra, chỉ tiêu dụ trữ hàng hoá cuối kỳ và đầu ký, theo công thức sau:
Mn = Xkh + ddk - Dck
Trong đó:
Mn - Số lượng hàng hoá cần mua tính theo từng loại (tấn)
Xkh - Số lượng hàng hoá bán ra kỳ kế hoạch (tấn)
ddk - Dự trữ hàng hoá đầu kỳ kế hoạch (tấn)
Dck - Dự trữ hàng hoá cuối kỳ kế hoạch (tấn)
3.1.2. Kế hoạch bán hàng hoá
Kế hoạch bán hàng hoá có ý nghĩa quan trọng, nó ảnh hưởng đến thành công thất bại trong kinh doanh của doanh nghiệp. Có lập kế hoạch bán hàng thì doanh nghiệp mới có khả năng nắm bắt được nhu cầu thị trường và chủ động đối phó được với những diễn biến phức tạp để chuẩn bị kế hoạch sản xuất kinh doanh hợp lý nhằm phục vụ nhu cầu khách hàng một cách tốt nhất, đem lại lợi nhuận kinh doanh cao nhất có thể.
Bán hàng là nhiệm vụ trung tâm, quan trọng nhất của doanh nghiệp thương mại, làm mục tiêu của hoạt động kinh doanh. Vì vậy, mọi hoạt động của doanh nghiệp thương mại phải phục vụ cho việc bán hàng được nhiều, được nhanh, thu hút được ngày càng nhiều khách hàng, giảm được chi phí bán hàng để đạt hiệu quả kinh doanh cao nhất.
Hoạt động bán hàng được thực hiện theo chiến lược và kế hoạch kinh doanh đã đặt ra, hàng hoá của doanh nghiệp được khách hàng chấp nhận, uy tín của doanh nghiệp được củng cố trên thương trường. Bán hàng là khâu có quan hệ mật thiết với khách hàng, ảnh hưởng đến niềm tin, uy tín và sự tái nhu cầu của người tiêu dùng. Do vậy đó là vũ khí cạnh tranh mạnh mẽ của các doanh nghiệp với các đối thủ cạnh tranh. Kết quả bán hàng phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, phản ánh sự đúng đắn của mục tiêu chiến lược, kế hoạch kinh doanh. Thị trường luôn luôn biến động vì thế việc xây dựng một kế hoạch bán hàng luôn mang tính thời sự cấp bách, nó là mối quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp trong nền kinh tế quốc dân. Nội dung bán hàng ở doanh nghiệp thương mại:
- Nghiên cứu thị truờng, nghiên cứu tâm lý tập quán của người tiêu dùng
- Xác định kênh bán hàng và các hình thức bán hàng
- Phân phối hàng hoá và các kênh bán.
- Tiến hành quảng cáo và xúc tiến bán hàng
- Thực hiện các nghiệp vụ bán hàng ở các cửa hàng, quầy hàng
- Đánh giá kết quả và thu thập thông tin phản hồi để tiếp tục hoạt động mua bán
Như vậy hoạt động bán hàng ở doanh nghiệp thương mại được xem xét như quá trình kinh tế bao gồm các công việc có liên hệ mật thiết với nhau được tiến hành ở các bộ phận khác nhau trong doanh nghiệp.
Kế hoạch bán ra bao gồm nhiều chỉ tiêu khác nhau:
Theo hình thức bán hàng có các chỉ tiêu bán buôn, bán lẻ. Trong hình thức bán buôn theo các khâu vận động của của hàng hoá từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng lại chia ra bán buôn thẳng hàng hoá từ sản xuất đến nơi tiêu dùng và bán buôn tại kho, trạm, cửa hàng của doanh nghiệp. Trong hình thức bán lẻ chia ra bán lẻ ở cửa hàng cố định và bán lẻ ở của hàng lưu động.
Theo khách hàng chia ra: bán hàng ở đơn vị tiêu dùng trực tiếp (cơ quan hộ gia đình, doanh nghiệp); bán cho các đơn vị tổ chức, trung gian (công ty, doanh nghiệp thương mại khác); bán qua đại lý...Ngoài ra trong hệ thống kinh doanh thương mại theo ngành hàng còn có bán điều chuyển, bán uỷ thác và bán xuất khẩu.
Theo các khâu của kinh doanh có: bán hàng ở tổng công ty, công ty, kho, trạm, quầy hàng cố định và lưu động.
Chỉ tiêu bán ra gồm toàn bộ khối lượng và danh mục hàng hoá bán ra của các hình thức bán ở công ty, kho, trạm, cửa hàng, quầy hàng của doanh nghiệp thương mại dự kiến cho năm kế hoạch và tổng hợp lại.
Việc xác định chỉ tiêu bán ra có thể tổng hợp từ cơ sở tương đối chính xác. Nếu doanh nghiệp thương mại có danh mục hàng hoá lớn, quy mô lớn và phạm vi rộng, thì cần lưu ý đến việc lập kế hoạch từ dưới lên chậm, tổng hợp có thể bị bỏ sót hoặc trùng lặp.
Chỉ tiêu bán ra có thể được tính toán theo công thức sau:
Kkh = Xbc x (1 ± h)
Trong đó:
Kkh - Số lượng hàng hoá bán ra kỳ kế hoạch (tấn...)
Xbc - Số lượng hàng hoá bán ra kỳ báo cáo (tấn...)
h - Hệ số tăng giảm kỳ kế hoạch so với kỳ báo cáo (%)
3.1.3. Kế hoạch dự trữ hàng hoá
Dự trữ tồn tại ngay cả trong bản thân mọi vật và mọi thể sống nhằm đảm bảo sự sinh tồn và phát triển cả chúng. Còn lưu thông hàng hoá thì còn tồn tại dự trữ hàng hoá. Dự trữ hàng hoá ở doanh nghiệp thương mại được hình thành một cánh khách quan do yêu cầu:
- Bảo đảm cho bán hàng được diễn ra liên tục, như vậy dự trữ phải đạt đến một quy mô nhất định. Việc tích tụ hàng như vậy được coi là điều kiện cần thiết cho việc bán hàng.
- Dự trữ không chỉ để bán hàng liên tục mà còn đáp ứng yêu cầu mở rộng lưu thông không ngừng và trong trường hợp này quy mô dự trữ phải lớn hơn quy mô trung bình của lượng cầu, nếu không sẽ không thoả mãn được lượng cầu vượt quá quy mô trung bình đó.
- Dự trữ còn cần thiết để đảm bảo thời gian đổi mới bản thân dự trữ của doanh nghiệp. Bởi vì trong hoạt động kinh doanh, dự trữ không ngừng được chỉ ra và để đổi mới dự trữ đó cần phải có thời gian đặt hàng và chuyển sản phẩm đến.
- Các Mác đã khẳng định: “Chỉ nhờ hình thành một dự trữ như thế mới đảm bảo được tính chất thường xuyên liên tục của quá trình lưu thông và do đó cả quá trình tái sản xuất nữa trong đó có cả quá trình lưu thông”.
- Trong nền kinh tế thị trưòng, cuộc đấu tranh xâm nhập và mở rộng thị trường, mở rộng uy tín và ảnh hưởng của các doanh nghiệp có thể sử dụng các biện pháp khác nhau, trong đó dự trữ tồn tại như một phương tiện quan trọng để tăng khả năng cạnh tranh và tìm kiếm lợi nhuận trên thương trường.
- Dự trữ của doanh nghiệp thương mại do yêu cầu thực hiện các chính sách văn hoá xã hội.
Như vậy, dự trữ hàng hoá của doanh nghiệp thương mại hình thành do chính nhu cầu của sản xuất và lưu thông hàng hoá. Đó là lượng hàng tồn kho còn phù hợp nhu cầu nằm ở kho trạm của hàng doanh nghiệp. Nó được hình thành từ hàng hoá nhập về kho trạm cửa hàng của doanh nghiệp cho đến khi bán được hàng hoá đó cho khách hàng.
Như vậy một trong những điều kiện quan trọng để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại được diễn ra liên tục và đạt hiệu quả cao là kế hoạch dự trữ hàng hoá phù hợp. Doanh nghiệp tranh thủ cơ hội bán hàng, là danh điểm hàng hoá phù hợp với nhu cầu khách hàng được tính toán và bố trí ở địa bàn phù hợp để xuất bán chu kỳ kế hoạch tiếp theo.
Chỉ tiêu dự trữ hàng hoá:
+ Chỉ tiêu dự trữ đầu kỳ: Khi lập kế hoạch cho năm kế hoạch thì năm báo cáo kết thúc. Vì vậy phải tính chỉ tiêu dự trữ hàng hoá đến đầu kì kế hoạch
Ddk = Otd + Ưn – Ưx
Trong đó:
Ddk - Dự trữ hàng hoá đầu kì kế hoạch (tấn)
Otd - Tồn kho hàng hoá từ thời điểm kiểm kê (ví dụ 1/10/199…)
Ưn - Ước nhập hàng hoá từ thời điểm kiểm kê đến cuối năm
Ưx - Ước xuất hàng hoá từ thời điểm kiểm kê đến cuối năm
+ Chỉ tiêu dự trữ hàng hoá cuối kì kế hoạch: Xác định theo công thức
Dck = m x t
Trong đó:
Dck - Dự trữ hàng hoá đầu kì kế hoạch (tấn)
m - Mức bán bình quân một ngày đêm kỳ kế hoạch (tấn/ngày)
t - Thời gian dự trữ hàng hoá cần thiết (ngày)
3.2. Điều kiện thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch
Kế hoạch được lập có tiến độ và cân đối nhưng đó mới chỉ là khả năng. Vấn đề quan trọng là phải biến khả năng đó thành hiện thực. Điều kiện để biến kế hoạch này hiện thực hay điều kiện thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch này là:
Doanh nghiệp phải ký kết được các hợp đồng mua đúng khối lượng hàng hoá, thời gian giao, nhận, thanh toán mà doanh nghiệp cần. Doanh nghiệp phải có phương tiện chuyên chở hàng hoặc ký hợp đồng vận tải với đơn vị chuyên chở khác. Doanh nghiệp phải có kho hàng, bến bãi để tập kết, chứa đựng và dự trữ hàng hoá trong thời gian cần thiết và chế độ bảo quản phù hợp với tính chất cơ, lý, hoá của hàng hoá đặc biệt là những mặt hàng khó bảo quản. Doanh nghiệp phải bán được hàng hoá cho khách hàng theo như dự tính. Để việc thực hiện đạt hiệu quả cao, người quản lý phải đôn đốc, kiểm tra, giải quyết những mất cân đối, những khó khăn phát sinh khi thực hiện kế hoạch; phải theo dõi sát sao kịp thời tính hình thực hiện kế hoạch; phải sơ kết tình hình thực hiện, kịp thời phổ biến kinh nghiệm hay sửa chữa những khuyết điểm. Hơn nữa khi các chỉ tiêu đề ra không có tính khả thi cần phải điều chỉnh, đồng thời bổ sung vào kế hoạch những khả năng mới có thể đưa vào kinh doanh.
4. Lập kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp thương mại
4.1. Căn cứ lập kế hoạch kinh doanh
Để lập kế hoạch kinh doanh đúng đắn, khoa học và thực tế doanh nghiệp cần phải dựa vào những tiêu thức nhất định có liên quan đến toàn bộ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đó là việc xác định các căn cứ và dựa vào đó để tiến hành lập kế hoạch cho phù hợp. Doanh nghiệp cần dựa vào các căn cứ sau:
* Căn cứ vào các dự báo khả năng phát triển kinh doanh của doanh nghiệp kỳ kế hoạch: về thị trường và khách hàng có nhu cầu và khả năng về mặt hàng kinh doanh.
* Căn cứ vào chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp thương mại, của thị trường mục tiêu
* Căn cứ vào kết quả điều tra nắm bắt nhu cầu khách hàng, phát triển thị trường, và khả năng biến động của nguồn hàng.
* Căn cứ vào phân tích khả năng cung ứng hàng hoá của doanh nghiệp cạnh tranh và mặt hàng thay thế.
* Căn cứ vào các đơn hàng, hợp đồng mua bán hàng hoá đã được kí kết với khách hàng. Đây là văn bản có tính pháp quy cần phải tuân thủ một cánh nghiêm ngặt để đảm bảo thực hiện mục tiêu nhiệm vụ và uy tín của doanh nghiệp với khách hàng và bạn hàng.
* Đối thủ cạnh tranh cũng là yếu tố quan trọng để xây dựng kế hoạch bán ra của doanh nghiệp, doanh nghiệp phải thường xuyên so sánh sản phẩm, giá cả...với các đối thủ gần gũi để dành thế chủ động kinh doanh.
* Các căn cứ khác cũng được tính tới khi xây dựng kế hoạnh kinh doanh: dự kiến về tăng chi phí lưu thông, sự thay đổi về tính chất các kênh phân phối, khả năng thu hút thêm các khách hàng mới, khả năng mở rộng địa bàn tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp, những chích sách điều tiết vĩ mô của Nhà nước với các loại sản phẩm mà doanh nghiệp dự kiến nhập, xuất…
4.2 Trình tự lập kế hoạch kinh doanh
Kế hoạch kinh doanh do phòng kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp thương mại lập dưới sự chỉ đạo của giám đốc phụ trách kinh doanh. Kế hoạch kinh doanh được lập theo ba bước:
Bước 1:
Trước khi kết thúc kỳ báo cáo chuẩn bị lập kế hoạch cho kỳ sau. Trong bước này cần chuẩn bị tài liệu cần thiết cho lập kế hoạch:
- Tổ chức thu thập, nghiên cứu, đánh giá và lựa chọn các tài liệu đáng tin cậy
- Phân tích tài liệu, dự báo và lựa chọn các hướng dự báo có căn cứ khoa học nhất
- Phân tích môi trường kinh doanh và khả năng phát triển của đối thủ cạnh tranh kỳ kế hoạch cũng như xu hướng nhu cầu mặt hàng và mặt hàng thay thế
Bước 2: Cán bộ kế hoạch lập kế hoạch
- Trực tiếp tính toán các chỉ tiêu
- Cân đối các mặt hàng từ chi tiết đến tổng hợp
- Phát hiện và dự kiến các biện pháp khắc phục sự mất cân đối
Bước 3: Trình duyệt, quyết định kế hoạch chính thức
Kế hoạch kinh doanh lập ra phải được trình và bảo vệ trước ban lãnh đạo của doanh nghiệp hoặc hội đồng quản trị. Sau khi đã bổ sung thống nhất kế hoạch trở thành thống nhất của doanh nghiệp. Kế hoạch chính thức được bắt đầu từ khi ban lãnh đạo doanh nghiệp nhất trí và giao bằng văn bản cho các bộ phận các phòng ban thực hiện.
5. Tổ chức thực hiện và đánh giá thực hiện kế hoạch kinh doanh
Công tác kế hoạch nghiệp vụ kinh doanh ở các doanh nghiệp thương mại là toàn bộ các hoạt động diễn ra hàng ngày về lập và tổ chức thực hiện kế hoạch kinh doanh nhằm đáp ứng kịp thời mọi nhu cầu của thị trường với chi phí kinh doanh thấp nhất và đảm bảo kinh doanh có lãi.
Công tác bao gồm:
5.1. Nghiên cứu và nắm nhu cầu cụ thể của thị trường về các loại hàng hoá dịch vụ
Đối với tiêu dùng sản xuất cũng như tiêu dùng cá nhân, nhu cầu hàng hoá bao giờ cũng cụ thể, nghĩa là nhu cầu về chủng loại, quy cách phẩm chất hàng hoá cụ thể.
Việc nắm nhu cầu cụ thể của thị trường để từng bước đáp ứng những nhu cầu đó là khâu công tác quan trọng trọng hoạt động kinh doanh thương mại. Để đảm bảo kinh doanh có lãi đòi hỏi các doanh nghiệp thương mại phải xác định cho được thị trường cần loại hàng hoá gì? Số lượng bao nhiêu? Với giá bán ở mức nào?…Việc xác định nhu cầu này thường bằng phương pháp khác nhau như: phương pháp đơn hàng, phương pháp trưng cầu ý kiến khách hàng và phương pháp thống kê kinh nghiệm…
5.2. Xác định các nguồn hàng kinh doanh
Trên cơ sở nắm chắc nhu cầu thị trường, các doanh nghiệp thương mại phải xác định các nguồn hàng để thoả mãn những nhu cầu đó. Đối với các doanh nghiệp thương mại trong nền kinh tế thị trường, cần tính đến nguồn hàng chủ yếu:
Nguồn hàng tồn kho đầu kỳ ở các doanh nghiệp thương mại, xác định theo phương pháp ước tính.
Nguồn hàng thu gom không tập trung - nguồn hàng này được xác định trên cơ sở những số liệu cụ thể về hàng hoá thu gom, về danh mục mặt hàng, giá cả…
Nguồn hàng thu gom tập trung - nguồn hàng này được hình thành đối với các doanh nghiệp thực hiện đơn hàng Nhà nước. Nguồn tập trung thường được xác định theo phương pháp cân đối.
Nguồn hàng gia công - lượng hàng thu gom từ nguồn này phụ thuộtc vào giá trị sản phẩm làm gia từ các nguyên vật liệu của doanh nghiệp thương mại.
5.3. Xây dựng kế hoạch kinh doanh mặt hàng
Trong doanh nghiệp thương mại công việc này do cán bộ phòng kinh doanh đảm nhiệm. Kế hoạch được lập dựa trên lượng cung, cầu hàng hoá, tiềm lực, mục tiêu của doanh nghiệp...
5.4. Tổ chức thực hiện kế hoạch kinh doanh
Kế hoạch lập ra có tiến độ và cân đối, nhưng nó mới chỉ là khả năng. Vấn đề là biến nó thành hiện thực. Đây là giai đoạn vô cùng quan trọng và được tổ chức thực hiện như sau:
- Ký kết hợp đồng kinh tế mua bán hàng hoá
- Phổ biến thành nhiệm vụ đến cán bộ thực hiện
- Đôn đốc kiểm tra giải quyết những mất cân đối, khó khăn phát sinh khi thực hiện
- Phải theo dõi sát sao kịp thời tình hình thực hiện kế hoạch: sơ kết tình hình thực hiện, kịp thời phổ biến kinh nghiệm, sửa chữa những khuyết điểm
- Điều chỉnh kế hoạch: các chỉ tiêu đề ra không có tính khả thi thì cần phải điều chỉnh kịp thời đồng thời bổ sung vào kế hoạch những khả năng kinh doanh mới có.
III. Các nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến việc xây dựng và thực hiện kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp thương mại
Kế hoạch kinh doanh sẽ được kiểm nghiệm bởi thực tế. Đó là quá trình triển khai và thực hiện kế hoạch. Quá trình này có thể được thực hiện tốt, đạt hoặc vượt kế hoạch đặt ra. Nhưng cũng có thể các chỉ tiêu được thực hiện thấp hơn so với kế hoạch đề ra. Nếu như kế hoạch đã được coi là tương đối chính xác và sát với diễn biến thực tế thì rõ ràng trong quá trình thực hiện kế hoạch kinh doanh sẽ có nhiều nhân tố tác động đến làm thay đổi các chỉ tiêu. Các nhân tố này có thể là trong nội tại doanh nghiệp hoặc do môi trường kinh doanh bên ngoài (nhân tố chủ quan hoặc khách quan).
1. Nhân tố chủ quan
- Tiềm lực tài chính của doanh nghiệp: đây là yếu tố tổng hợp phản ánh sức mạnh của doanh nghiệp. Căn cứ vào khối lượng vốn (vốn chủ sở hữu, vốn huy động...) mà doanh nghiệp xây dựng một kế hoạch kinh doanh phù hợp, cùng với khả năng quản lý, phân phối (đầu tư) có hiệu quả nguồn vốn để thực hiên kế hoạch kinh doanh đó.
- Tiềm năng con người của doanh nghiệp: sự hoàn hảo của cấu trúc tổ chức, tính hiệu quả của hệ thống quản lý và công nghệ quản lý tác động trực tiếp đến việc xây dựng một kế hoạch kinh doanh hoàn hảo. Chủ thể thực hiện Kế hoạch kinh doanh chính là đội ngũ thực hiện công tác mua hàng, dự trữ, bán hàng. Như vậy nó đòi hỏi phải có mối liên kết hỗ trợ nhau trong quá trình thực hiện giữa các phòng ban, tổ chức, nhân viên cụ thể là phòng Kế hoạch kinh doanh, phòng Xuất nhập khẩu, phòng Quản lý dự trữ. Do mỗi phòng ban, cá nhân phụ trách cũng như chịu trách nhiệm khác nhau về công việc của mình nhưng họ đều phải hướng đến cái đích cuối cùng là mục tiêu của công ty đặt ra trong kế hoạch kinh doanh. Kế hoạch kinh doanh sẽ không thực hiện được nếu mối quan hệ này lỏng lẻo, ai làm việc nấy không có sự thống nhất, đoàn kết cùng hướng tới mục tiêu của công ty. Hơn nữa, chế độ thưởng phạt tác động không nhỏ đến quá trình thực hiện kế hoạch kinh doanh của công ty. Ngay từ khi triển khai thực hiện kế hoạch kinh doanh, nếu như công ty không đề ra chế độ thưởng phạt nghiêm minh cũng như không có hình thức khuyến khích họ thực hiện phần trách nhiệm của mình thì sẽ dẫn đến tình trạng các phòng ban, bộ phận, từng nhân viên không nghiêm túc, thờ ơ với công việc. Điều này dẫn đến việc kế hoạch kinh doanh không được thực hiện như đã đề ra.
Ngoài ra, các bộ phận thực hiện kế hoạch kinh doanh coi kế hoạch là chuẩn nên trong quá trình thực hiện luôn lấy kế hoạch để áp đặt có khi đi trái với diễn biến của môi trường kinh doanh, đây là một kiểu làm việc thiếu suy nghĩ, thiếu sáng tạo dẫn đến công việc kinh doanh không hiệu quả.
Cụ thể, công tác mua hàng, dự trữ và bán hàng bị ảnh hưởng bởi các nhân tố như:
Khả năng tài chính hiện thời, phương án ký kết hợp đồng với các đối tác, phương tiện vận chuyển hàng hoá. Kế hoạch kinh doanh của công ty không được thực hiện nếu đội ngũ cán bộ, nhân viên kém linh hoạt, không giành được thế chủ động trong việc ký kết hợp đồng mua, bán hàng hoá, khả năng về tài chính hạn hẹp không đủ mua hàng từ nguồn cung ứng đã lựa chọn, không đủ cho chi phí quảng cáo, khuyến mại, tiếp thị, các hoạt động mở rộng thị trường. Bên cạnh đó hệ thống phương tiện giao thông vận tải dùng trong lưu chuyển hàng hoá ít hay lạc hậu dẫn đến nhập hàng và phân phối không hợp lý, không đúng thời điểm cần thiết. Trình độ của nhân viên hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ trước, trong và sau khi bán cũng tác động đến việc thực hiện kế hoạch đề ra, họ phải chiếm được lòng tin của khách hàng. Nhân viên bán hàng phải có trình độ cao trong khâu giao tiếp, hiểu biết về kỹ thuật và luôn coi" khách hàng là thượng đế".
Các sản phẩm thuộc lĩnh vực kinh doanh của công ty đặc biệt là các sản phẩm có giá trị cao, công nghệ hiện đại đòi hỏi việc bảo quản phải đảm bảo các điều kiện qui định do vậy của nhân viên hoạt động trong khâu dự trữ hàng hoá phải có trình độ chuyên môn phù hợp và phải có đức tính cẩn thận. Bên cạnh đó, công đoạn dự trữ bảo quản hàng hoá đòi hỏi chất lượng kho bãi chứa đựng hàng hoá phù hợp tính chất hàng hoá.
2. Nhân tố khách quan
Môi trường kinh doanh mà mỗi một chủ thể tồn tại trong đó đều chịu sự chi phối và ảnh hưởng mạnh mẽ. Nếu một công ty nắm chắc được môi trường kinh doanh của mình sẽ chắc chằn hơn trong việc đảm bảo các mục tiêu đã đề ra trong chiến lược kinh doanh. Nhưng môi trường kinh doanh luôn là biến động, việc nắm bắt là rất khó khăn phức tạp đòi hỏi phải thường xuyên liên tục.
Các yếu tố thuộc môi trường kinh doanh ảnh hưởng đến kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp:
- Chính trị và luật pháp: để thành công trong việc xây dựng và thực hiện kế hoạch kinh doanh, doanh nghiệp phải phân tích, dự đoán về chính trị luật pháp cùng xu hướng vận động của nó bao gồm: sự ổn định về đường lối chính trị, đường lối ngoại giao, sự cân bằng các chính sách của Nhà nước, chiến lược phát triển kinh tế của Đảng và chính phủ, sự điều tiết và khuynh hướng can thiệp của chính phủ vào đời sống kinh tế các quyết định bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
- Các yếu tố kinh tế: bao gồm các nhân tố tác động đến sức mua của khách hàng và dạng tiêu dùng hàng hoá qui định phương án đưa ra kế hoạch kinh doanh phù hợp: Sự tăng trưởng kinh tế, sự thay đổi về cơ cấu sản xuất và phân phối, tiềm năng kinh tế và sự gia tăng đầu tư. Lạm phát, thất nghiệp, chính sách tiền tệ, tín dụng, sự phát triển ngoại thương.
- Kỹ thuật và công nghệ: cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế quốc dân, tiến bộ kỹ thuật và khả năng ứng dụng kỹ thuật trong hoạt động kinh doanh, chiến lược phát triển kỹ thuật công nghệ của nền kinh tế.
- Yếu tố văn hoá, xã hội: dân số và xu hướng vận động, sự di chuyển dân cư, thu nhập và phân bố thu nhập của các hộ gia đình, việc làm và vấn đề phát triển việc làm, đặc điểm tâm sinh lý.
- Môi trường tự nhiên và cơ sở hạ tầng: nguyên liệu, năng lượng, mức độ ô nhiễm cũng như đường xá, phương tiện giao thông, kho tàng, bến bãi, cửa hàng...
Ngoài ra còn có các yếu tố khách quan ở cấp độ vi mô như: người cung ứng, khách hàng đối thủ cạnh tranh, trung gian thương mại và công chúng cũng tác động đến việc xây dựng và thực hiện kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp thương mại.
Tóm lại, trong quá trình xây dựng và thực hiện kế hoạch kinh doanh, doanh nghiệp luôn phải đối đầu với các nhân tố gây tác động xấu đến kết quả. Điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải luôn nghiên cứu, phân tích và xác định được các nhân tố ảnh hưởng để từ đó có thể biến nó trở thành những ảnh hưởng tích cực, hạn chế các tác động xấu của nó. Một điều căn bản là kế hoạch là định hướng tốt nhưng việc thực hiện kế hoạch thì phải thực sự linh hoạt tuỳ vào từng thời điểm kinh doanh.
Chương II
Phân tích tình hình xây dựng Và thực hiện kế hoạch kinh doanh máy tính và các thiết bị tin học của
công ty phát triển và đầu tư công nghệ-FPT
I. Giới thiệu khái quát về công ty FPT
1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty
1.1. Từ khi thành lập đến khi đổi tên thành Công ty Phát triển và Đầu tư công nghệ (1988-1993)
Năm 1986, Đại hội VI của Đảng đã họp đề ra đường lối mới toàn diện mở ra bước ngoặt trong sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta. Nhiệm vụ trước mắt là phải nhanh chóng xoá bỏ quan liêu bao cấp, phải tìm cách tháo gỡ khó khăn, ổn định đời sống nhân dân, từng bước phát triển kinh tế văn hoá xã hội, thúc đẩy hoạt động nghiên cứu khoa học công nghệ. Cùng với sự hình thành của chiến lược Công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, ngày 13/9/1988 công ty FPT đã chính thức ra đời với tên khai sinh là Công ty Công nghệ chế biến thực phẩm (the Food Processing Technology company-viết tắt là FPT) trực thuộc Viện nghiên cứu Công nghệ Quốc gia.
Công ty được sinh ra không chỉ là kết quả của hướng đổi mới mà trực tiếp từ óc năng động, biết tìm tòi của những nhà khoa học lãnh đạo Viện khoa học Việt Nam và của những cán bộ trong nhóm Trao đổi nhiệt và chất. Ban đầu thành lập công ty chỉ có 12 người chia làm ba nhóm: nhóm Viện cơ học, nhóm Cơ điện lạnh và nhóm Tin học. Với đội ngũ năng động, nhiệt huyết công ty FPT đã dám vay vốn để thực hiện hợp đồng quan trọng bậc nhất của FPT trong những năm 1988-1990. Năm 1989, công ty đã ký hợp đồng máy tính lớn đầu tiên với viện hàn lâm khoa học Liên Xô. Nhờ hợp đồng này FPT đã tạo được sự đột biến lớn về tiềm lực kinh tế cũng như tạo tiền đề cho sự phát triển của công ty sau này. Cũng trong năm 1989, FPT mở văn phòng đại diện tại Moscow, xây dựng thị trường tin học trong nước, tin học hoá phòng vé Quốc tế của Việt Nam Airlines (giải pháp tin học đầu tiên của FPT).
Ngày 13/3/1990, chi nhánh FPT thành phố Hồ Chí Minh thành lập, đánh dấu một bước phát triển lớn của FPT. Giai đoạn ra đời của FPT-HCM cũng là giai đoạn FPT ngừng hoạt động trong lĩnh vực Công nghệ thực phẩm mà chuyển hướng sang kinh doanh với mũi nhọn chủ đạo là tin học. Ngày 27/10/1990 FPT đổi tên thành Công ty Phát triển và đầu tư công nghệ - FPT với tên giao dịch quốc tế: The Coporation for Finacing and Promoting Technology.
Năm 1991, FPT công bố giải pháp tin học hoá nghiệp vụ ngân hàng. Năm 1992 FPT trở thành đại lý độc quyền của Olivetti tại thị trường Việt Nam và công bố sản phẩm phần mềm kế toán doanh nghiệp (Balance). Đến năm 1993, công ty ứng dụng công nghệ Client-server vào chương trình quản lý ngân hàng. Ngày 29/9/1993, Chính phủ ra nghị định 65/CP sát nhập Viện nghiên cứu công nghệ quốc gia và Viện Năng lượng nguyên tử quốc gia thành Bộ Khoa học công nghệ môi trường, do vậy từ năm 1994 đến nay FPT là thành viên của Bộ khoa học Công nghệ môi trường.
1.2. Giai đoạn phát triển “thần tốc” (1994-1998)
Năm 1994, FPT trở thành đại lý phân phối chính thức của Compaq tại Việt Nam đồng thời xây dựng thành công hệ thống quản lý thu thuế cấp cục DINATAX. Cũng trong năm này FPT đã bước một bước đầu tiên trên con đường xuất khẩu phần mềm của mình: nhiều bộ phận khác nhau được thành lập như: Xí nghiệp giải pháp phần mềm, Trung tâm hệ thống thông tin, Trung tâm phân phối máy tính và thiết bị văn phòng, Trung tâm môi trường. Đến năm 1996, FPT trở thành công ty tin học số một tại Việt Nam và được Bộ KHCN&MT giao cho qui hoạch, lập dự án Khu công nghệ cao Hoà lạc và là đối tác huy động các nguồn vốn xây dựng khu công nghệ này. Ngoài ra, công ty còn là nhà phân phối chính thức các sản phẩm Microsoft, đồng thời cũng là đại lý đầu tiên cung cấp các dịch vụ Compaq, nhà sửa chữa màn hình vi tính Compaq duy nhất tại Việt Nam. Cùng trong năm này trụ sở chính của công ty chuyển về 37 Láng Hạ. ở đây, công ty triển khai thành công hệ thống mạng Internet quốc gia giai đoạn I và xây dựng mạng thông tin Trí tuệ Việt Nam, mạng diện rộng đầu tiên ở Việt Nam.
Năm 1997, Oracle chỉ định FPT làm đại lý phân phối chính thức cho sản phẩm của mình tại Việt Nam. Với nỗ lực của mình FPT trở thành nhà cung cấp dịch vụ Internet (ISP) và thông tin Internet (ICP) đầu tiên ở Việt Nam.
Năm1998, FPT nhận làm đại lý cho một hãng sản xuất máy in lớn nhất trên thế giới Hewlett Packard. Phải nói là trong năm này FPT đã gặt hái được nhiều danh hiệu cao quí: được nhà nước trao tặng Huân chương Lao động hạng II, được bạn đọc báo PCWORLD bình chọn là công ty tin học được khách hàng tín nhiệm nhất, thêm vào đó sản phẩm Smartbank (phần mềm dành cho các ngân hàng thương mại) đạt huy chương vàng tại triển lãm Computer World EXpo’98.
1.3. Giai đoạn từ 1999 đến nay
Xác định mục tiêu chiến lược cho giai đoạn phát triển tiếp theo của mình là "toàn cầu hoá", trong đó công nghệ phần mềm, với trọng tâm là phần mềm xuất khẩu đóng vai trò quan trọng, trong tháng 1/1999, FPT thành lập trung tâm phần mềm chiến lược số 1 FPT và trung tâm bảo đảm chất lượng FPT. Tháng 4/1999, bạn đọc tạp chí PC WORLD lần thứ 2 liên tiếp bình chọn FPT là công ty tin học được khách hàng tín nhiệm nhất và là một trong hai nhà cung cấp dịch vụ Internet có uy tín nhất Việt Nam.
Tại Computer World expo’99 FPT đạt 4 huy chương vàng:
- Huy chương vàng cho công ty có doanh số phần mềm hơn 1,5 tỷ VNĐ
- Huy chương vàng cho sản phẩm phần mềm có doanh số hơn 500 triệu VNĐ
- Hai Huy chương vàng cho hai sản phẩm phần mềm có nhiều người sử dụng (CD ROM từ Sài Gòn đến thành phố Hồ Chí Minh và phần mềm Trí tuệ Việt Nam).
Bên cạnh việc cộng tác với các hãng cung cấp thiết bị tin học lớn như: Samsung với màn hình Syncmaster, Novell Lotus, D-link, Motorola, Ericson, tháng 6/1999 FPT ký hợp đồng xuất khẩu phần mềm với thị trường Bắc Mỹ. Tháng 8/1999 công ty được Bộ Thương Mại khen thưởng vì thành tích xuất khẩu phần mềm năm 1998. Hai ngày16-17/9/1999 công ty mở trung tâm đào tạo lập trình viên quốc tế FPT APTECH COMPUTER EDUCATION tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Tháng 11/1999 công ty thành lập Trung tâm phát triển thương mại quốc tế và mở chi nhánh công ty tại ấn Độ vào tháng 12/1999. Ngày 11/12/1999 công ty ký thoả thuận hợp tác với khoa công nghệ đại học Quốc gia Hà Nội về đào tạo nguồn nhân lực cho xuất khẩu phần mềm. Đến ngày 25/12/1999 công ty khai trương trung tâm tài năng công nghệ trẻ FPT.
Đầu năm 2000, FPT đặt văn phòng đại diện của mình tại khu công nghệ SiliconValley Hoa Kỳ . Ngày 13/1/2000, công ty khai trương khu công nghệ phần mềm số 1 FPT. Ngày 17/2/2000, FPT được BVQI - tổ chức quốc tế chuyên đánh giá chất lượng của Anh công nhận và cấp chứng chỉ chất lượng quốc tế ISO 9001 cho tất cả các quá trình. Tiếp tục dồn nỗ lực vào mục tiêu xuất khẩu phần mềm của mình FPT đã ký nhiều hợp đồng gia công xuất khẩu phần mềm với các công ty của Mỹ; Ngày 9/3/2000, công ty phối hợp với báo lao động và VTV3 tổ chức cuộc thi Sản phẩm phần mềm tin học trí tuệ Việt Nam 2000; Ngày 22/3/2000 công ty ký hợp đồng Xuất khẩu phần mềm đầu tiên với thị trường châu Âu (tập đoàn Havey Nash của Anh đóng tại Bỉ) trị giá 500 ngàn USD; ngày 22/4/2000 công ty ký biên bản ghi nhớ về việc xây dựng và phát triển công nghệ phần mềm Việt Nam giữa công ty FPT-Khoa quản trị kinh doanh-công ty luật Haynes&Boone-University of Texas at Dallas-Khu công nghệ cao Hoà lạc - Đại học Bách Khoa Hà Nội. Ngày 12/6/2000 công ty được bộ Thương Mại tặng bằng khen về mặt hàng xuất khẩu đạt chất lượng quốc tế và được thưởng 40 triệu đồng. Đến tháng 9/2000 FPT được bạn đọc tạp chí PC World lần thứ 3 liên tiếp bình chọn là công ty tin học được khách hàng tín nhiệm nhất. Việt Nam ta có câu "đầu xuôi đôi lọt", sự khởi đầu tốt đẹp của FPT trong công nghệ phần mềm là dấu hiệu bứt phá trong nền công nghiệp công nghệ phần mềm. Theo dự thảo của Bộ khoa học công nghệ và môi trường, mục tiêu Việt Nam xây dựng một nền công nghiệp công nghệ phần mềm đạt doanh số 3 tỷ USD vào năm 2010 trong đó FPT luôn tự tin trong các mục tiêu chiến lược của mình và FPT luôn là con chim đầu đàn trong thung lũng phần mềm Việt Nam.
Hơn 12 năm phát triển, ngày nay FPT đã thực sự lớn mạnh, nhiều công ty hàng đầu thế giới hiện chiếm lĩnh vị trí nhất nhì trên thị trường Việt Nam đều có sự hợp tác và giúp đỡ rất lớn của FPT. Với những ý tưởng mạnh bạo trong kinh doanh và công nghệ FPT đã góp phần không nhỏ vào ngành công nghệ non trẻ của Việt Nam. Có được điều này là nhờ sự nhiệt huyết và năng động, sáng tạo của các thành viên trong công ty với mục tiêu được vạch ra từ những ngày đầu:
"FPT mong muốn trở thành một tổ chức kiểu mới, giàu mạnh bằng nỗ lực trong sáng tạo khoa học, kỹ thuật công nghệ, góp phần hưng thịnh quốc gia, đem lại cho mỗi thành viên điều kiện phát triển đầy đủ nhất về tài năng và một cuộc sống đầy đủ về vật chất, phong phú về tinh thần".
Hơn 12 năm trôi qua, nguyên tắc này vẫn còn giá trị và vẫn đang được phát huy. Nguyên văn của phương trâm trên đã được thành dòng chữ vàng trên bức tường đá đặt trước trụ sở cuả Tổng công ty FPT. Địa chỉ: 89 đường Láng Hạ, quận Đống Đa-thành phố Hà Nội.
Điện Thoại: 84 4 8560300, Fax: 84 4 8560316.
2. Chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của công ty
2.1. Chức năng và nhiệm vụ
Công ty FPT là một công ty kinh doanh các thiết bị tin học, viễn thông, chuyển giao công nghệ, thiết bị điện, thiết bị công nghiệp và môi trường. Các mặt hàng kinh doanh của công ty có hàm lượng công nghệ cao, luôn luôn thay đổi nên công ty thường xuyên nghiên cứu thị trường, nâng cao chất lượng kinh doanh nhằm chiếm lĩnh thị trường. Đồng thời quản lý công tác xây dựng kế hoạch kinh doanh, công tác tài chính kế toán, lưu chuyển hàng hoá, liên doanh liên kết và các hoạt động khác.
Chức năng của công ty thể hiện trong các lĩnh vực sau:
- Nghiên cứu, thiết kế, sản xuất, chuyển giao công nghệ tin học và ứng dụng vào các công nghệ khác; Xuất nhập khẩu các thiết bị, sản phẩm công nghệ tin học và công nghệ khác; Liên doanh liên kết với các đơn vị trong và ngoài nước; Tổ chức dịch vụ để phát triển và đầu tư công nghệ.
- Xuất nhập khẩu uỷ thác: Vật liệu xây dựng, hàng tiêu dùng, ô tô xe máy.
- Đại lý bán vé máy bay và dịch vụ vận chuyển
- Xuất nhập khẩu và kinh doanh máy điện thoại cầm tay, di động, máy nhắn tin và các thiết bị viễn thông khác.
- Nghiên cứu phát triển, sản xuất kinh doanh, tư vấn đầu tư chuyển giao công nghệ trong lĩnh vực môi trường.
- Sản xuất, chế tạo và lắp ráp tủ bảng điện
- Hoạt động đưa người Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài
- Cung cấp dịch vụ Internet công cộng (ISP); Dịch vụ tư vấn đầu tư nước ngoài.
- Chuyển giao và áp dụng công nghệ chống ăn mòn và gia công đường ống.
- Đào tạo nguồn nhân lực chuyên sâu cho công nghiệp phát triển phần mềm.
- Xuất nhập khẩu, chuyển giao công nghệ thiết bị y tế
- Xuất nhập khẩu, chuyển giao công nghệ và kinh doanh các thiết bị khoa học kỹ thuật và thiết bị giáo dục đào tạo.
Là một doanh nghiệp nhà nước, công ty phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đối với Nhà Nước (nộp thuế và thục hiện các nghĩa vụ tái sản khác). Công ty phải kinh doanh theo đúng ngành nghề đăng ký, đầu tư, phát triển và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
2.2. Cơ cấu tổ chức của công ty
* Sơ đồ tổ chức của công ty: (xem hình I)
* Cơ cấu nhân sự
Đội ngũ cán bộ của FPT tăng trưởng nhanh về số lượng và chất lượng. Ngày đầu thành lập với số người thực chất chưa đến 10 người nhưng đến năm 2000 số thành viên của FPT đã tăng lên thành 750 người. Như vậy, trong khoảng thời gian từ năm 1990-2000 nhân lực của FPT tăng trung bình khoảng 60%. Sự tăng trưởng về nhân lực cho thấy công ty đang ngày càng mở rộng qui mô phát triển.
Hình II: Nhân sự qua các năm
Đặc điểm tuyển nhân viên của FPT là công ty thường tuyển các sinh viên mới ra trường, có năng lực, lớp trước dìu lớp sau, đội ngũ trưởng thành qua công tác. Mặc dù là một công ty công nghệ lâu đời nhất ở Việt Nam nhưng FPT lại là công ty trẻ nhất với tuổi đời trung bình của các thành viên trong công ty là 28 tuổi.
II. Đặc điểm kinh doanh của công ty FPT
1. Lĩnh vực hoạt động
1.1. Dịch vụ cung cấp và lắp đặt thiết bị tin học
- Máy tính cá nhân và các phụ kiện của các hãng IBM, COMPAQ, OLIVETTI...
- Máy mini IBM: RS/6000, AS/400...
- Thiết bị mạng: 3COM, CISCO SYSTEM,...
- Hệ điều hành : Netware, NT, UNIX, OS/400...
- Cơ sở dữ liệu: ORCLE...
1.2. Dịch vụ phần mềm ứng dụng
- SIBA tự động hoá chi nhánh ngân hàng thương mại
- BALANCE (kế toán)
- Hotel: giải pháp khách sạn
- BCS: giải pháp truyền thông
- FPT Net: thư tín điện tử
- Phần mềm đặc trưng bộ ngành:
DYNATAX-thuế
Quản lý hoá đơn nước
Thanh toán tập trung cho ngân hàng thương mại.
1.3. Dịch vụ chuyển giao công nghệ và giải pháp
- Tìm kiếm công nghệ, giải pháp phù hợp với môi trường Việt Nam
- Ngân hàng bán lẻ (Siverlake cho Vietcom bank)
- Nhận dạng vân tay tự động (Sagemcho C27 Bộ nội vụ)
- Quản lý khách sạn (HIS cho Metropole hotel)
- Quản lý xuất nhập cảnh (Siemens cho A18 Bộ nội vụ)
- Hệ thống Internet Việt Nam (VDC)
1.4. Dịch vụ bảo hành và bảo trì
- Dịch vụ bảo trì tốt nhất (là nhà bảo hành của IBM, COMPAQ)
- Sửa chữa nâng cấp các thiết bị tin học
- Nhận bảo hành tại công trình
- Nhận bảo hành định kỳ
1.5. Dịch vụ đào tạo
- Chương trình nhập môn tin học
- Tin học cho học sinh phổ thông
- Kế toán và tự động hoá văn phòng
- Lập trình các loại ngôn ngữ
- Chương trình nâng cao: Thiết kế và phân tích hệ thống, mạng và quản trị mạng Novell Netware, NT UNIX
- Internet.
1.6. Dịch vụ tư vấn
- Xây dựng kế hoạch phát triển công nghệ thông tin cho các ngành
- Xây dựng các đề án tin học
- Hợp tác với nước ngoài trong các đề án tư vấn lớn.
- Tư vấn môi trường và giải pháp cho các vấn đề bảo vệ môi trường
- Tư vấn phát triển và quản lý dự án
- Hệ thống xử lý nước thải.
1.7. Dịch vụ mạng thông tin diện rộng Internet và Intranet
- Xây dựng cơ sở hạ tầng cho Internet và intranet
- Mạng trí tuệ Việt Nam: mạng thông tin diện rộng thu hút đông đảo người dùng và có nội dung phong phú nhất
- Nhà cung cấp dịch vụ Internet đầu tiên tại Việt Nam
1.8. Dịch vụ phi tin học
- Cung cấp thiết bị xây dựng, thiết bị công nghiệp công nghệ cao
- Cung cấp thiết bị y tế phong thí nghiệm, thiết bị môi trường.
2. Khách hàng của công ty
Hoạt động trong nhiều lĩnh vực với danh mục sản phẩm và dịch vụ phong phú,do vậy khách hàng của FPT cũng rất đa dạng.
2.1. Các Bộ, Ngành
- Bộ Nội vụ: C27, A27, V17, V18, A13, A29,...
- Bộ Quốc phòng:Cục tác chiến, Học viện quốc phòng, Học viện kỹ thuật quân sự, Viện kỹ thuật quân sự, Tổng cục an ninh, Tổng cục cảnh sát,...
-Bộ Tài chính: Tổng cục thuế, Kho bạc nhà nước , Tổng cục doanh nghiệp, Tổng cục đầu tư, Ban quản lý ứng dụng tin học, Dự án kiểm toán kế toán, Viện hải dương học,...
-Bộ giáo dục đào tạo
-Tổng cục hải quan, Tổng cục thống kê
-Cục hàng không.
2.2. Ngân hàng
-Quốc doanh: Nông nghiệp, Đầu tư, Công thương, Ngoại thương...
-Cổ phần: Hàng hải, Thương mại Xuất nhập khẩu, á châu...
-Nước ngoài: Indonesia, VID_Public bank, May bank, ANZ bank, ING bank, Indovina, Bank of Tokyo, Sumitomo bank, Standard_characterbank, ABN-amro bank...
2.3. Các công ty sản xuất và dịch vụ
-Công ty Phốt phát Lâm Thao, Phân đạm Hà Bắc
-VietsoPetro, Vietnam airlines, công ty nước Hà Nội
-Công ty Điện toán và truyền số liệu(VDC)
-Liên hiệp đường sắt Việt Nam
2.4. Các công ty liên doanh và nước ngoài
-V-TRACO Co, Metropo Sofitel Hotel, Mitsubishi, Unilever, Cargil, Kao, BP, Coca-cola, Caterpilar-VTRA, Ford, Jica, ABB, Convik Iternational, crow agents, Electronic,...
Thị trường mà công ty đang hoạt động rât đa dạng: các tỉnh thuộc ba miền Bắc, Trung, Nam nước ta và rất nhiều nước trên thế giới (đặc biệt là khu vực Đông Nam á) như Singapo, Đài loan, Hồng kông, ngoài ra con có các nước châu Mỹ, Canada, ấn độ..
3. Tiềm lực của công ty
3.1. Tiềm lực tài chính (năm2000)
-Vốn kinh doanh: 17.245.000.000 đồng
Trong đó:
Vốn ngân sách cấp: 167.000.000 đồng
Vốn công ty tự bổ sung: 417.000.000 đồng
Vốn tự huy động: 16.651.00.000 đồng
3.2. Tiềm năng con người
Công ty FPT có lực lượng lao động hùng hậu, có trình độ tay nghề cao, sáng tạo trong công việc, tuỳ theo thời điểm và nhu cầu ở từng dự án cụ thể mà mỗi đơn vị trong công ty tuyển dụng, ký hợp đồng theo hình thức đào tạo, thử việc hay dài hạn.
Trong quá trình hoạt động, công ty luôn chú ý đến đào tạo và phát triển con người. Năm 2000 FPT có 750 người trong đó có 31% là nữ và 69% là nam.
Công ty liên tục đầu tư cho công nghệ và chuyên môn, do vậy trình độ của các thành viên trong công ty giữ được ở mức khá cao: 10% trên đại học và 81% đại học.
Hàng năm công ty có tổ chức các hội thi tay nghề, tổ chức các lớp học nâng cao tay nghề nhằm tạo ra một đội ngũ vững vàng chuyên môn, có khả năng hoà nhập và đoàn kết tốt. Cùng với việc nâng cao trình độ cho người lao động, lãnh đạo tổng công ty còn có các chính sách hỗ trợ cho người lao động gặp khó khăn, chế độ thưởng phạt phân minh từ đó kích thích người lao động hăng say với công việc có ý thức trung thành và luôn hướng về công ty.
3.3. Tiềm lực vô hình
Trong lĩnh vực kinh doanh của mình, Công ty FPT có một uy tín lớn nhờ vào một đội ngũ cán bộ kỹ thuật nghề, máy móc công nghệ tiên tiến và đặc biệt là chất lượng các dự án mà công ty thực hiện luôn nhận được những đánh giá tốt từ phía đối tác. Công ty luôn có xu hướng mở rộng thị trường ra các nước trên thế giới để đạt được mục tiêu "Toàn cầu hoá" của mình. Công ty cũng đã trúng thầu nhiều dự án lớn khó khăn, phức tạp và đều kết thúc thành công. Một ưu thế mà bao công ty khác mong muốn mà không có đó là công ty FPT được sự ưu đãi mạnh mẽ từ phía Chính phủ, lĩnh vực hoạt động của công ty phù hợp với chủ trương chính sách hỗ trợ, đầu tư phát triển cho công nghệ đặc biệt là lĩnh vực tin học để Việt Nam không bỏ xa tốc độ phát triển như vũ bão của khoa học, công nghệ của thế giới.
3.4. Trang thiết bị
Công ty có hệ thống trang thiết bị tiên tiến, hầu hết các máy móc phương tiện phục vụ sản xuất kinh doanh đều được mua từ các nước có nền công nghiệp chế tạo tiên tiến như Mỹ, Nhật... Cùng với việc áp dụng những sáng tạo trong sản xuất của cán bộ công nhân viên, công ty còn liên kết với viện nghiên cứu trong và ngoài nước để áp dụng những công nghệ hiện đại nhất vào sản xuất kinh doanh nhằm đạt được hiệu quả cao trong kinh doanh.
Những thành công trên của công ty FPT ngoài nỗ lực phấn đấu của cán bộ công nhân viên còn nhờ vào sự lãnh đạo nhạy bén, biết nhìn xa trông rộng và đoàn kết nhất trí của ban lãnh đạo, ban lãnh đạo thường xuyên bám sát tình hình hoạt động của doanh nghiệp từ đó đưa ra những quyết sách phù hợp với thực tiễn.
4. Môi trường kinh doanh
4.1. Môi trường chính trị pháp luật
Công ty FPT hoạt động trong môi trường chính trị ổn định, vững vàng. Những chính sách, chế độ của Nhà nước đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh (SXKD) ngày càng được hoàn thiện, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển.
Do đang ở trong điều kiện nền kinh tế mở, bên cạnh những điều kiện thuận lợi công ty cũng nhiều gặp khó khăn, hệ thống pháp luật của Nhà nước chưa rõ ràng, một số chính sách chỉ là biện pháp giải quyết tạm thời không ổn định do đó, làm cho việc lập kế hoạch đầu tư sản xuất của doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn.
4.2. Môi trường công nghệ
Nền kinh tế của nước ta từ khi tiến hành chính sách mở cửa đã đạt được nhiều thành tựu, tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng hàng năm. Do vậy, nhu cầu cải thiện nâng cấp cơ sở hạ tầng về công nghệ thông tin quốc gia ngày càng được Đảng, Chính phủ chú trọng đầu tư, đây là điểm thuận lợi cho hoạt động của công ty. Lãi suất cho vay của các ngân hàng Nhà nước giảm tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong việc vay vốn để SXKD. Mặt khác, tình hình tỷ giá hối đoái lại không ổn định làm cho công ty gặp nhiều khó khăn trong việc nhập khẩu máy móc, thiết bị phục vụ cho SXKD.
4.3. Môi trường địa lý sinh thái
Do khí hậu thời tiết biến đổi thất thường, đặc biệt ở miền trung thường xuyên có bão lũ, đã ảnh hưởng nhiều đến tiến độ thi công của công ty.
4.4. Môi trường cạnh tranh
Cùng hoạt động trong lĩnh vực nghiên cứu, SXKD nhập khẩu máy móc thiết bị với công ty còn có rất nhiều các công ty có tiềm lực mạnh, ngoài ra còn có các công ty tư nhân, các công ty nước ngoài tham gia vào lĩnh vực này, điều này đòi hỏi nỗ lực của công ty trong việc chiếm lĩnh thị trường.
4.5 Môi trường nội bộ của công ty
Công ty có một môi trường, một không khí hoạt động kinh doanh hiệu quả, nghiêm túc. Từ cấp lãnh đạo cao nhất đến từng cá nhân cá cán bộ công nhân viên tạo thành một khối thống nhất, liên kết chặt chẽ. Mọi người trong công ty đều có tiếng nói riêng của mình khiến họ rất tự tin phát huy năng lực sáng tạo của mình, nhiệt tình hết mình vì công ty. Đay có thể nói là một môi trường rất lành mạnh để FPT phát triển mạnh mẽ, toàn diện.
III. Kết quả hoạt động kinh doanh của công ty
* Doanh thu
Có đông đảo khách hàng thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, doanh thu của công ty không ngừng tăng lên trong 12 năm qua. Khởi đầu với mức vốn gần như bằng 0 thậm chí đến năm 1993 vốn đăng ký của công ty chỉ có 600 triệu VNĐ. Nhưng đến năm 2000 doanh thu của công ty đã tăng lên con số 592 tỷ VNĐ (tương đương với 42 triệu USD). Tốc độ tăng trưởng của công ty trong 12 năm qua khoảng 70%, kể từ mức khởi đầu vốn của công ty đã tăng khoảng 85%/năm. Nộp ngân sách Nhà nước trong vòng 12 năm (giai đoạn từ 1988-2000) hơn 100 tỷ VNĐ, riêng năm 1997 công ty nộp cho ngân sách Nhà nước 18 tỷ VNĐ.
Tỷ lệ tăng doamh thu của riêng các sản phẩm tin học so với tổng doanh thu cũng tăng qua các năm. Năm 1993, doanh thu tin học chỉ đạt 5 triệu USD nhưng đến năm 2000 con số này đã đạt 32,7 triệu USD, thực tế đã chứng minh sự tăng trưởng vượt bậc này, FPT đã cung cấp, lắp đặt và hỗ trợ hoạt dông cho gần 1000 mạng máy tính ở Việt Nam, góp phần tích cực vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng cho ngành điện tử viễn thông Việt Nam. Chỉ tính riêng trong năm 1997, Trung tâm thông tin của FPT đã triển khai hệ thống thông tin cho khách hàng tại 377 điểm trong cả nước, ngoài ra khoảng 50% hệ thống thông tin của Đảng và Chính phủ là do FPT triển khai trên qui mô toàn quốc.
Hình III.1: Doanh thu (triệu USD)
Tính riêng năm 1998 hoạt động kinh doanh của công ty được tổng kết như sau:
Doanh số toàn FPT: 516,344 tỷ VNĐ tăng 39% so với năm 1997. Trong đó, FPT Hà Nội: 382,286 tỷ(chiếm 74,04%) tăng 46,48% so với năm 1997-260,981 tỷ và FPT HCM: 134,058 tỷ (chiếm 25,96%).
Hình III.2: Doanh số các bộ phận FPT - HN
* Một số đơn vị có chỉ tiêu kinh doanh tốt:
- Trung tâm hệ thống thông tin xuất sắc trong lĩnh vực hiệu quả kinh doanh
- Trung tâm đề án và chuyển giao công nghệ xuất sắc trong lĩnh vực sử dụng cán bộ
- Trung tâm điện thoại di động xuất sắc trong lĩnh vực bán hàng
- Trung tâm bảo hành xuất sắc trong lĩnh vực tiết kiệm
- Trung tâm Internet xuất sắc trong lĩnh vực thu hồi công nợ.
Hơn thế nữa còn có các tập thể được khen thưởng, được trao huân chương chiến công FPT:
- Tập thể xuất sắc nhất công ty FPT năm 1998: Nhóm thuế thuộc Xí nghiệp Giải pháp phần mềm
- Huân chương hạng hai cho hai tập thể đã có nhiều đóng góp trong công tác Tin học hoá ngành thuế: TT Tài chính Thuế thuộc Xí nghiệp giải pháp phần mềm và hệ thống thông tin.
- Huân chương hạng ba cho hai tập thể: phòng Kế hoạch kinh doanh và đội nhận hàng của FPT HCM.
Ngoài ra, còn có các tập thể tiên tiến: phòng Kế hoạch kinh doanh, phòng tài vụ, nhóm lễ tân phòng Hành chính tổng hợp, nhóm phần mềm của FIS, tổ thư ký.
Bằng nỗ lực và sáng tạo trong công nghệ, FPT đã trở thành một trong 4 nhà cung cấp dịch vụ Internet (ISP-Internet Sevice Provider) tại Việt Nam. Là một trong những công ty công nghệ tin học lâu đời nhất tại Việt Nam, quá trình phát triển của FPT cũng là quá trình đóng góp không ngừng vào việc nâng cao tình độ công nghệ tại Việt Nam, biến công nghệ thông tin non trẻ thành một trong những ngành phát triển nhanh nhất hiện nay.
IV. Một số vấn đề về xây dựng kế hoạch kinh doanh máy tính và các thiết bị tin học của công ty FPT
1. Mặt hàng máy tính và các thiết bị tin học của công ty (từ 1997 đến nay)
Cũng như các công ty tin học khác, FPT là một công ty kinh doanh thương mại và dịch vụ tin học. Hiện nay ở Việt Nam, chưa có công ty nào có khả năng sản xuất máy vi tính cũng như các thiết bị phụ kiện của nó, các công ty tin học chỉ làm nhiệm vụ phân phối lại các sản phẩm tin học của các công ty nước ngoài. Các máy vi tính trên thị trường Việt nam chủ yếu sản xuất từ các nước Đông Nam á như: Singapo, Đài Loan, Hàn Quốc, Malaixia...và một lượng được sản xuất từ Mỹ và châu Âu. Để nâng cao uy tín của mình trên thị trường, FPT chủ trương phân phối sản phẩm của các hãng sản xuất máy tính hàng đầu thế giới đặc biệt là các hãng của Mỹ với phương trâm:
" Mang đến cho khách hàng Giải pháp công nghệ hữu hiệu nhất".
1.1. Máy tính:
* IBM, COMPAQ, Samsung, Olivetti, Parkard Bell. Các đời máy tính và tốc độ truyền dữ liệu (từ 33MHz đến 850MHz):
- 486 SX 33MHz
- 486 DX66, 100MHz,...
- 586 DX133, DX166,DX266,...
- Pentium 133, 166, 200, 233MHz,...
- Pentium II, III (từ 200MHz á 850MHz)
* Máy tính xách tay (Notebook) từ đời 486 đến Pentium III
* Laptop: PC là loại máy tinh cá nhân mà chúng ta vẫn gặp hàng ngày chỉ dùng cho một người hoặc dùng làm trạm làm việc cho một số người
* Các dòng máy chủ:
- PC server: Là loại máy thông dụng nhất trên thị trường Việt Nam hiện nay dùng để quản trị mạng cục bộ (LAN-Local Area Network), chỉ có thể dùng quản trị dữ liệu cho một công ty.
- Main frame: Là loại máy quản trị mạng rộng (WAN- Wide Area Network)
dùng làm máy chủ cho hệ thống đòi hỏi các tốc độ xử lý cao, khả năng truyền dữ liệu lớn và có lưu lượng thông tin lớn.
- Midrange: Cũng là máy quản trị mạng rộng nhưng với qui mô nhỏ hẹp, dùng cho công ty lớn, tốc độ truyền dữ liệu cao, tốc độ xử lý dữ liệu lớn.
- Mini: Là loại máy dùng làm máy chủ cho một mạmg trung bình (MAN- Middle Area Network) dùng để quản trị mạng cho công ty lớn hay một số công ty có nhu cầu về thông tin dữ liệu không giới hạn trong nội bộ công ty.
1.2. Thiết bị:
- Các thiết bị về mạng: LAN, WAN, MAN...
- Các thiết bị ngoại vi: HP, Epson...như:
+ Máy in: máy in kim, máy in Laser, máy in phun
+ Máy vẽ (Plotter)
+ Máy quét (Scanner)
Chất lượng sản phẩm luôn được công ty coi trọng hàng đầu theo nguyên tắc: "Chỉ đưa ra thi trường những sản phẩm được ưa chuộng". Do vậy các sản phẩm của công ty đều có chất lượng cao và luôn thoả mãn nhu cầu thị trường ngay cả những khách hàng khó tính như các chuyên gia công nghệ. Thành công đó chính là nhờ sự bổ sung những mặt hàng mới được công ty thực hiện một cách thường xuyên. Sản phẩm công nghệ là sản phẩm của trí tuệ nên nó thay đổi một cách thường xuyên để ngày càng đạt được các tính năng siêu việt nhằm phục vụ tối đa cho cuộc sống của con người. Sự thay đổi này thường tập trung ở các hãng máy tính lớn trên thế giới như: IBM, Compaq, Samsung hay Oracle,... FPT luôn nỗ lực tìm kiếm và mang về cho thị trường máy tính Việt Nam các sản phẩm mới nhất với tính năng ngày càng cao. Mỗi nhãn hiệu sản phẩm mà công ty đưa ra đều thể hiện tính độc đáo về chất lượng kiểu dáng, kích cỡ riêng của sản phẩm đáp ứng thị hiếu của người tiêu dùng. Với việc đa dạng hóa sản phẩm công ty FPT đã không chỉ thoả mãn được nhiều thị hiếu phong phú của thị trường mà còn phủ kín được những khe hở của thị trường và ngăn chặn sự xâm nhập của đối thủ cạnh tranh. Mở rộng danh mục sản phẩm không có nghĩa là công ty không giữ những sản phẩm chủ đạo như sản phẩm của hãng Compaq chiếm 70% tổng sản phẩm bán ra, IBM (11%) và Samsung (9%). Các sản phẩm này luôn là những sản phẩm thu hút được nhiều khách hàng nhất, thường xuyên xuất hiện tiên phong và đảm bảo lợi nhuận lớn nhất, làm nên tên tuổi và hình ảnh của công ty và do đó là những sản phẩm quyết định đến thắng lợi của công ty.
Các thiết bị máy in, máy quét ảnh, máy vẽ, card nối mạng, nút tập trung, màn hình máy tính... gọi chung là các thiết bị hỗ trợ. thị trường của các thiết bị hỗ trợ đang mạnh lên, trong thời gian tới FPT sẽ đầu tư nhiều hơn vào mảng thị trường này. Với vị trí hàng đầu tại Việt Nam, cùng phong cách kinh doanh tôn trọng và đề cao chữ tín hàng đầu, ngày càng có nhiều công ty tầm cỡ thế giới tìm đến FPT khi bước chân vào thị trường Việt Nam.
2. Trình tự tổ chức công tác lập kế hoạch kinh doanh máy tính và các thiết bị tin học của công ty FPT
Công ty phát triển và đầu tư công nghệ FPT chuyên kinh doanh các mặt hàng máy tính và các thiết bị tin học do vậy mục đích đặt ra cho công ty là: đẩy mạnh công cuộc tin học hoá trong cả nước, phổ cập tin học cho các tầng lớp dân chúng, ưu tiên đặc biệt cho ngành giáo dục, tham gia phát triển các ứng dụng tin học phục vụ công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và phục vụ nhu cầu sử dụng tin học trong nhân dân.
Người chịu trách nhiệm trước Tổng giám đốc và giúp Tổng giám đốc điều hành bộ máy kinh doanh là trưởng phòng Kế hoạch kinh doanh - ông Hoàng Nam Tiến.
Phòng Kế hoạch kinh doanh chia làm nhiều bộ phận do ông Tiến phân công, sắp xếp, mỗi bộ phận chịu trách nhiệm thực hiện một dòng sản phẩm trong đó chủ yếu là máy tính và các thiết bị tin học của công ty, đứng đầu các bộ phận này gọi là các Cán bộ hỗ trợ sản phẩm hay Giám đốc sản phẩm. Ví dụ anh Lại Thái Bình chịu trách nhiệm lập kế hoạch mua, bán máy tính Compaq và các thiết bị phụ kiện kèm theo; anh Linh lập kế hoạch cho sản phẩm của Samsung; anh Trần Tuấn Việt lập kế hoạch cho các thiết bị phụ kiện của nhiều hãng. Căn cứ vào chiến lược của công ty, các giám đốc sản phẩm đặt hàng dựa vào nhu cầu thị trường và nhu cầu của các bộ phận, như FIS, FHO, FIT, ...Trong đó FIS được gọi là chuyên gia tất cả thầu sản phẩm tin học của Việt Nam. Các bộ phận này cùng FPT dự thầu các dòng sản phẩm ở ngân hàng, kho bạc và các công ty khác sau đó lập kế hoạch thầu và gửi yêu cầu lên bộ phận lập kế hoạch kinh doanh. Các hãng có chính sách ưu đãi khác nhau đối với từng dự án. Các chính sách giá ưu đãi, giảm giá cho khối lượng lớn, thanh toán nhanh. Để tạo điều kiện thuận lợi cho các bộ phận dự thầu, FPS - bộ phận hỗ trợ dự án có thể đứng ra mời thầu các công ty khác để trong trường hợp FPT không trúng hầu thì FPS vẫn hưởng tiền hoa hồng. Nghe qua có thể thấy cái tên "hỗ trợ dự án" có vẻ mâu thuẫn nhưng thực ra đây là chiến lược rất khôn ngoan của FPT. Dù FPT có trúng thầu dự án hay không thì FPT đều hưởng lợi nhuận đáng kể.
Việc lập kế hoạch kinh doanh diễn ra theo trình tự sau:
Bước 1: Thu thập thông tin
Các giám đốc sản phẩm nghiên cứu thị trường sản phẩm mình đảm nhiệm, thị trường mua của công ty FPT liên quan chặt chẽ đến thị trường tin học trên thế giới, nguồn hàng chính của công ty là nhập khẩu từ nước ngoài đặc biệt là từ các hãng của Mỹ. Qua đó họ thu thập phân tích và xử lý số liệu bên trong nội bộ công ty và bên ngoài thị trường.
Trong nội bộ doanh nghiệp, thu thập các thông tin từ các bản báo cáo, bản kê khai sản phẩm trong các kỳ trước. Từ bên ngoài thị trường, thu thập các thông tin về các nhà cung cấp, nhu cầu của thị trường về dòng sản phẩm này, khả năng tiêu thụ sản phẩm, các đối thủ cạnh tranh, tâm lý thị hiếu người tiêu dùng hay cả những vấn đề về môi trường kinh tế, chính trị, văn hoá có liên quan đến hoạt động kinh doanh sản phẩm này, trong đó đặc biệt quan trọng là môi trường kinh doanh của những nhà cung ứng đầu vào cho FPT. Để có được các thông tin trên, các giám đốc sản phẩm có thể thu thập qua sách báo, tạp chí chuyên ngành tin học, qua các phương tiện thông tin đại chúng, trao đổi với những nhà cung ứng, nhà phân phối, các khách hàng... Họ có thể khuyến khích những người phân phối bán lẻ và những người" đồng minh" khác thông báo cho mình những thông tin quan trọng. Ngoài ra, có thể mua thông tin từ các nhà cung cấp thông tin, cũng có thể xây dựng một đội ngũ chuyên trách về thu thập thông tin và phổ biến thông tin hàng ngày. Các thông tin thu thập được phải tạo điều kiện dễ dàng cho việc đưa ra các quyết định cơ bản.
Bước 2: Xây dựng mục tiêu
Căn cứ các thông tin đã phân tích và xử lý ở bước 1, các giám đốc sản phẩm phải xác định mục tiêu cần thực hiện trong kỳ kế hoạch. Các mục tiêu này phải phù hợp với chức năng và nhiệm cụ của công ty cũng như khả năng thực tế của công ty. Các mục tiêu có thể là: duy trì và mở rộng thị trường truyền thống các sản phẩm máy tính và máy tính cá nhân, xâm nhập thị trường mới, tăng số lượng máy tính xách tay, các thiết bị hỗ trợ, tối đa hoá doanh thu, tối đa hoá lợi nhuận hay cũng có thể là tiêu thụ hết hàng ứ đọng... Một mục tiêu kế hoạch đúng đắn sẽ đảm bảo tính cụ thể, định hướng, tính khả thi và tính hệ thống.
Bước 3: Lên kế hoạch
Sau khi xác định được các mục tiêu, họ bắt đầu đi vào lập kế hoạch mua, bán các sản phẩm của mình theo tháng, quí hoặc theo năm tuỳ thuộc vào mặt hàng và thời kỳ kinh doanh.
Bước 4: Đánh giá, kiểm tra kế hoạch
Trưởng phòng kế hoạch kinh doanh - ông Hoàng Nam Tiến tiến hành kiểm tra, đánh giá và điều chỉnh nếu cần thiết và bảo vệ kế hoạch kinh doanh này trước ban giám đốc tuân thủ các qui định của tiêu chuẩn ISO 9002. Sau đó giao nhiệm vụ đến từng cán bộ, công nhân viên thực thi các kế hoạch đề ra, bao gồm các bộ phận: hợp đồng, bộ phận thanh toán, bộ phận vận chuyển, bộ phận liên quan đến bảo hiểm,...
3. Nội dung kế hoạch kinh doanh máy tính và các thiết bị tin học của công ty
Thông thường vào ngày 15 hàng tháng các giám đốc sản phẩm lập kế hoạch kinh doanh cho tháng sau, trong trường hợp đặc biệt như mức tiêu thụ tăng đột biến làm cho lượng hàng trong kho giảm đến mức báo dộng thì ông Tiến- trưởng phòng kế hoạch kinh doanh lập tức yêu cầu giám đốc sản phẩm lập kế hoạch mua vào nếu có nguy cơ thiếu hụt, hoặc kế hoạch thúc đẩy hoạt động bán hàng nếu ứ đọng hàng. Do đó lượng máy tính và các thiết bị tin học sẽ nhập vào căn cứ vào nhu cầu tiêu thụ trong kỳ tới nên kế hoạch kinh doanh máy tính và các thiết
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 24391.DOC