Tài liệu Đề tài Một số vấn đề về quản lý quỹ bảo hiểm xã hội Việt Nam: Lời nói đầu
Từ hàng chục năm nay, chính sách Bảo hiểm xã hội đã góp phần quan trọng trong việc trợ cấp vật chất, hỗ trợ đời sống cho những đối tượng hưởng bảo hiểm xã hội và gia đình họ khi gặp phải rủi ro, biến cố trong cuộc sống như ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp hoặc chết dẫn đến giảm hoặc mất nguồn thu nhập.
Trong giai đoạn hiện nay, nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế và có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Bước sang cơ chế kinh tế mới với quan hệ lao động phong phú, đa dạng, chính sách BHXH trong cơ chế cũ không còn phù hợp nữa. Do đó việc nghiên cứu, tìm hiểu và xây dựng cơ sở lý luận nhằm đổi mới hoàn thiện chính sách BHXH cho phù hợp với tình hình mới là một yêu cầu cấp thiết.
Quỹ BHXH là một nội dung rất quan trọng trong chính sách BHXH. Quỹ BHXH là một quỹ tiêu dùng, đồng thời là một quỹ dự phòng nó vừa mang tính kinh tế vừa mang tính xã hội rất cao và là điều kiện hay cơ sở vật ...
40 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1149 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Một số vấn đề về quản lý quỹ bảo hiểm xã hội Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Từ hàng chục năm nay, chính sách Bảo hiểm xã hội đã góp phần quan trọng trong việc trợ cấp vật chất, hỗ trợ đời sống cho những đối tượng hưởng bảo hiểm xã hội và gia đình họ khi gặp phải rủi ro, biến cố trong cuộc sống như ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp hoặc chết dẫn đến giảm hoặc mất nguồn thu nhập.
Trong giai đoạn hiện nay, nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế và có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Bước sang cơ chế kinh tế mới với quan hệ lao động phong phú, đa dạng, chính sách BHXH trong cơ chế cũ không còn phù hợp nữa. Do đó việc nghiên cứu, tìm hiểu và xây dựng cơ sở lý luận nhằm đổi mới hoàn thiện chính sách BHXH cho phù hợp với tình hình mới là một yêu cầu cấp thiết.
Quỹ BHXH là một nội dung rất quan trọng trong chính sách BHXH. Quỹ BHXH là một quỹ tiêu dùng, đồng thời là một quỹ dự phòng nó vừa mang tính kinh tế vừa mang tính xã hội rất cao và là điều kiện hay cơ sở vật chất quan trọng đảm bảo cho toàn bộ hệ thống BHXH tồn tại và phát triển. Chính vì vậy, việc đảm bảo hệ thống tài chính cho quỹ BHXH là hết sức cần thiết và mang ý nghĩa sống còn đối với hoạt động của BHXH. Thông qua việc xem xét đánh giá cơ chế quản lý BHXH ở Việt nam .
Từ những lý do trên em đã chọn đề tàI : “Một số vấn đề về quản lý quỹ bảo hiểm xã hội Việt nam ” .
Kết cấu đề tài gồm ba chương:
Chương 1 : Lý luận chung về Bảo hiểm xã hội.
Chương 2 : Thực trạng quản lý quỹ Bảo hiểm XH Việt Nam.
Chương 3 : Một số đề xuất nhằm hoàn thiện công tác quản lý quỹ BHXH ở Việt Nam.
Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn nhiệt tình của cô giáo
Do thời gian có hạn, kiến thức về lý luận và thực tiễn còn hạn chế nên đề tài của em không tránh khỏi những khiếm khuyết .
Chương I
lý luận chung về BHXH
I. tổng quan về BHXH
Khái niệm của BHXH
* Khái niệm
Cho đến nay, hầu như chưa có một định nghĩa chính thống về BHXH.
Khái niệm BHXH đang được sử dụng ở Việt nam không bao gồm các hoạt động về bảo trợ xã hội. Các khái niệm này chỉ đề cập cụ thể tới các đối tượng tham gia vào hoạt động BHXH, các bên liên quan đến quá trình hình thành và phát triển quỹ BHXH, các trường hợp cần được bảo hiểm, các đối tượng hưởng BHXH và các chế độ BHXH được thực hiện. BHXH ở đây cũng chỉ rõ nghĩa vụ và lợi ích của người lao động khi tham gia vào quan hệ BHXH, trong đó bao gồm cả bảo đảm an toàn xã hội.
2. Bản chất của BHXH
2.1. Về phương diện cá nhân, BHXH là một nhu cầu khách quan của con người.
BHXH là một nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp, nó nhằm đảm bảo an toàn về kinh tế, giữ cho cuộc sống ổn định, an toàn, tránh được đói nghèo sa sút khi bị mất nguồn thu nhập trong cuộc sống.
2.2. Dưới góc độ kinh tế:
BHXH là một phạm trù kinh tế tổng hợp. Trong đó: đối với những người hưởng các chế độ BHXH, đó là sự đảm bảo thu nhập, bảo đảm cuộc sống khi họ ở trong điều kiện khó khăn do giảm hoặc mất khả năng lao động mà giảm hay mất thu nhập, thông qua việc tích luỹ dần của cá nhân trong quỹ BHXH và sự đóng góp của số đông những người có cùng khả năng gặp rủi ro như nhau.
Vì thế, có thể nói kinh tế là nền tảng của BHXH hay BHXH không vượt quá trạng thái kinh tế của mỗi nước.
2.3. Về phương diện chính trị:
BHXH là sự liên kết giữa những người lao động khác nhau trong xã hội cũng vì lợi ích chung của cộng đồng, trong đó có cá nhân tham gia BHXH. BHXH cũng phản ánh bản chất của một chế độ xã hội nhất định.
2.4. Về mặt xã hội:
BHXH được xem như là một loạt các hoạt động mang tính xã hội nhằm đảm bảo đời sống cho người dân và làm lành mạnh xã hội. BHXH mang tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc vì lợi ích của con người trong những hoàn cảnh gặp khó khăn, vì an toàn xã hội và có ý nghĩa xã hội lâu dài.
3. Vai trò của BHXH trong nền KTQD
3.1. Vai trò của BHXH:
Con người muốn tồn tại và phát triển luôn cần phải thoả mãn các nhu cầu tối thiểu về vật chất và tinh thần và để thoả mãn các nhu cầu đó con người phải lao động, sáng tạo sản xuất ra các sản phẩm. Mặt khác, con người ai cũng phải trải qua các giai đoạn phát triển của đời người đó là: sinh ra, lớn lên, trưởng thành và chết. Bởi vậy, muốn đảm bảo duy trì cuộc sống người lao động làm thế nào để tạo ra nguồn thu nhập thay thế hoặc bù đắp.
Ngành công nghiệp hình thành cùng với nền kinh tế hàng hoá phát triển đã làm xuất hiện quan hệ thuê mướn nhân công. Những người làm công phải hoàn toàn dựa vào tiền lương làm nguồn sống chủ yếu. Có việc thì mới có lương dù đó là đồng lương ít ỏi. Khi ốm đau, tai nạn, sinh đẻ ... thì phải nghỉ việc và không có lương, cuộc sống bị đe doạ. Người lao động đã ý thức được sự cần thiết phải có thu nhập đề phòng khi họ gặp rủi ro, tai nạn bất ngờ nên họ đấu tranh đòi giới chủ phải cam kết đảm bảo một số thu nhập nhất định để họ trang trải những nhu cầu thiết yếu khi ốm đau, thai sản ... Lúc đầu giới chủ cam kết đảm bảo cho người lao động những khoản thu nhập nhất định đó. Song nhiều khi rủi ro xảy ra liên tục buộc người chủ phải chi ra những khoản tiền lớn mà họ không muốn. Do vậy, giới chủ đã chi ít hơn nên xuất hiện mâu thuẫn và tranh chấp giữa chủ và thợ, mâu thuẫn này ngày càng gay gắt.
Để giải quyết mâu thuẫn này dần xuất hiện một bên thứ ba, đóng vai trò trung gian nhằm giải quyết mâu thuẫn và điều hoà lợi ích giữa chủ và thợ. Điều đó thay cho việc giới chủ và giới thợ phải trả trực tiếp một khoản tiền khi người lao động bị ốm đau, tai nạn ... Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện thì cơ chế này bộc lộ nhiều bất cập, tính pháp lý không cao. Do vậy, nhiều chủ sử dụng lao động đã không tự giác tham gia, tính chất rủi ro còn quá lớn không có sự đảm bảo về tài chính một cách vững chắc.
Trước tình hình đó, Nhà nước phải can thiệp điều chỉnh, sự can thiệp này một mặt làm tăng vai trò của Nhà nước, một mặt Nhà nước phải tăng chi tiêu ngân sách, đồng thời buộc giới chủ và thợ phải góp thêm một phần để đảm bảo cho chính mình. Từ đó, cả giới chủ và thợ đều được đảm bảo và họ thấy có lợi. Các nguồn đóng góp của giới chủ, thợ và sự hỗ trợ của Nhà nước hình thành nên một quỹ tiền tệ tập trung- quỹ BHXH.
BHXH cũng ngày càng phải hoàn thiện hơn để thích ứng với tình hình cụ thể.
Tuyên ngôn nhân quyền của Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 10/12/1948: “Tất cả mọi người, với tư cách là thành viên của xã hội đều có quyền được hưởng BHXH ...”
3.2. Tác dụng của BHXH.
a. BHXH nhằm giúp người lao động ổn định cuộc sống khi họ gặp rủi ro.
Mục đích lớn nhất của BHXH là bảo đảm cuộc sống ổn định cho người lao động và gia đình họ khi họ gặp rủi ro, giảm hoặc mất sức lao động ảnh hưởng đến thu nhập. Do đó, BHXH có tác dụng rất lớn đối với người lao động làm cho họ yên tâm với công việc.
b.Gắn bó lợi ích giữa người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước.
BHXH không chỉ bảo đảm ổn định cuộc sống cho người lao động và gia đình họ khi người lao động gặp rủi ro mà nó còn bảo vệ cho người sử dụng lao động, tạo điều kiện cho họ ổn định tài chính để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả.
c. Phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia.
Cũng giống như tất cả các loại hình bảo hiểm khác, BHXH cũng dựa trên nguyên tắc “lấy số đông bù số ít” và vì vậy người lao động bình đẳng trong nghĩa vụ đóng góp cũng như trong quyền lợi nhận được từ quỹ BHXH. Thực hiện chức năng phân phối lại, BHXH cũng đồng thời góp phần thực hiện công bằng xã hội.
d. BHXH tập trung được nguồn vốn lớn cho phát triển sản xuất.
Nguồn quỹ hình thành từ sự đóng góp của các bên tham gia cũng là nguồn vốn nhàn rỗi có thể dùng để đầu tư vào nền kinh tế quốc dân. Quỹ BHXH có thể có số dư và phần quỹ nhàn rỗi được đầu tư cho các chương trình kinh tế, xã hội, vừa đóng góp vào xây dựng đất nước vừa làm tăng trưởng quỹ. Trong điều kiện hiện nay hoạt động này có ý nghĩa rất quan trọng.
4. Một số nội dung cơ bản của BHXH.
a. Đối tượng của BHXH
Đối tượng tham gia BHXH là người lao động và người sử dụng lao động. Tuy vậy, tuỳ theo điều kiện phát triển kinh tế-xã hội của mỗi nước mà đối tượng này có thể là tất cả hoặc một bộ phận những người lao động nào đó.
Hầu hết các nước khi mới có chính sách BHXH, đều thực hiện BHXH đối với các viên chức Nhà nước, những người làm công hưởng lương. Việt nam cũng không vượt ra khỏi thực tế này, mặc dù biết rằng như vậy là không bình đẳng giữa tất cả những người lao động.
b. Các loại chế độ BHXH.
Theo công ước số 102 “Công ước về quy phạm tối thiểu về an toàn xã hội” quy định gồm có 9 chế độ BHXH như sau:
Chăm sóc y tế.
Trợ cấp ốm đau.
Trợ cấp thất nghiệp.
Trợ cấp tuổi già.
Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.
Trợ cấp gia đình.
Trợ cấp thai sản.
Trợ cấp tàn tật.
Trợ cấp mất người nuôi dưỡng.
c. Quản lý nhà nước và quản lý sự nghiệp của BHXH ở Việt nam .
Việc tổ chức thực hiện sự nghiệp BHXH do cơ quan BHXH Việt nam đảm nhiệm. BHXH Việt nam trực thuộc Chính phủ và có 3 cấp: cấp Trung ương; cấp tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương và cấp quận (huyện). BHXH Việt nam hoạt động dưới sự điều hành của Hội đồng quản lý BHXH Việt nam , chịu sự quản lý Nhà nước của Bộ LĐ- TBXH. Cơ quan BHXH Việt nam có nhiệm vụ tổ chức thu BHXH, quản lý BHXH và chi các chế độ trợ cấp BHXH theo quy định của Nhà nước.
II. quỹ bảo hiểm xã hội
1. Khái niệm và vai trò của quỹ BHXH đối với hệ thống BHXH.
* khái niệm
Trong đời sống kinh tế- xã hội người ta thường nói đến rất nhiều loại quỹ khác nhau. Tất cả các loại quỹ này đều có điểm chung đó là tập hợp các phương tiện tài chính hay vật chất khác cho những hoạt động nào đó theo những mục tiêu và định hướng trước. Quỹ lớn hay nhỏ biểu thị khả năng và điều kiện vật chất để thực hiện các hoạt động BHXH.
Theo những quan điểm nói trên về quỹ nói chung thì quỹ BHXH là tập hợp những đóng góp bằng tiền của những người tham gia BHXH hình thành một quỹ tiền tệ tập trung để chi trả cho những người được BHXH khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do bị giảm, mất khả năng lao động hoặc bị mất việc làm.
Như vậy, quỹ BHXH vừa là một quỹ tiêu dùng vừa là một quỹ dự phòng.
* vai trò của quỹ BHXH đối với hệ thống BHXH.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, người lao động luôn phải gánh chịu, đương đầu với vô vàn các rủi ro. Những rủi ro đó có thể làm cho người lao động mất khả năng lao động tạm thời hay vĩnh viễn, mất nguồn sống hay chết người, con cái mất nơi nương tựa, hoặc lúc về già không còn khả năng lao động để có thu nhập đảm bảo cuộc sống. Vì vậy, để có nguồn thu nhập duy trì, ổn định cuộc sống của bản thân và gia đình họ trong lúc gặp rủi ro hoặc tuổi già thì tất yếu phải lập quỹ dự trữ bảo hiểm thích hợp, đủ lớn để có thu nhập ổn định đảm bảo cuộc sống cho bản thân và gia đình trong tương lai.
Mặt khác do quy luật bảo toàn nòi giống, duy trì lức lượng lao động cho tương lai của xã hội, những người lao động nữ họ còn phải làm nghĩa vụ sinh con, nuôi con và chăm sóc khi con ốm đau ... cũng đòi hỏi phải có quỹ bảo hiẻm giúp đỡ... Việc tạo lập quỹ BHXH cho người lao động những lúc gặp rủi ro bất ngờ hoặc lúc tuổi già có thể được tiến hành bằng nhiều hình thức khác nhau. Do vậy, quỹ BHXH có vai trò hết sức quan trọng trong đời sống của người lao động.
Trong thực tế không ai muốn mất việc làm hoặc mất, giảm khả năng lao động để được hưởng trợ cấp từ quỹ BHXH, do đó nó phù hợp với nguyên tắc “lấy số đông bù số ít”. Nguyên tắc này thể hiện việc phân phối lại thu nhập giữa những người lao động có thu nhập khác nhau, giữa những người khoẻ mạnh đang làm việc và những người đang ốm đau phải nghỉ việc hay giữa những người đang hưởng trợ cấp BHXH khác nhau. Từ đó cũng thấy rằng khả năng, vai trò của quỹ BHXH trong việc phân phối lại thu nhập và công bằng xã hội, động viên người lao động hăng hái làm việc: Khi người lao động đang làm việc sẽ có thu nhập, còn khi mất khả năng lao động thì họ lại được hưởng trợ cấp từ quỹ BHXH. Như vậy, họ đã có “van an toàn” để đảm bảo cuộc sống cho họ, đó là chỗ dựa vững chắc khi họ không có khả năng lao động tạm thời hoặc vĩnh viễn và làm cho người lao động yên tâm gắn bó với công việc.
Bên cạnh đó quỹ BHXH đầu tư một phần vào các hoạt động kinh tế - xã hội, khoản này không những tạo thêm khả năng mở rộng quỹ BHXH mà còn góp phần phát triển kinh tế - xã hội.
Qũy BHXH hình thành và hoạt động đã tạo ra khả năng giải quyết hậu quả của rủi ro cho người tham gia, đảm bảo an toàn kinh tế cho người lao động và gia đình họ, giảm thiểu tối đa thiệt hại kinh tế cho người sử dụng lao động, tiết kiệm cho ngân sách Nhà nước. Quỹ sử dụng để trợ cấp cho người lao động và gia đình họ khi họ gặp phải rủi ro và một phần chi phí cho sự nghiệp quản lý BHXH.
2. Nguồn hình thành và các mục đích sử dụng của quỹ BHXH.
Quỹ BHXH là một yếu tố mang tính chất sống còn đối với sự nghiệp BHXH.
* nguồn hình thành
2. 1. Sự đóng góp của người lao động
Người tham gia BHXH phải đóng góp cho quỹ BHXH mới được hưởng trợ cấp BHXH. Thực chất ở đây người lao động đã dàn trải rủi ro theo thời gian.
2. 2. Sự đóng góp của người sử dụng lao động .
Người sử dụng lao động đóng góp cho quỹ BHXH để bảo hiểm cho người lao động mà mình thuê mướn. Sự đóng góp này thể hiện trách nhiệm của họ đối với người lao động.Và vì quá trình sản xuất kinh doanh của họ không bị ảnh hưởng khi người lao động có nhu cầu BHXH.
2. 3. Nhà nước đóng góp và hỗ trợ.
Sự tham gia của Nhà nước thể hiện trách nhiệm của Nhà nước đối với các thành viên trong xã hội.
2.4. Các nguồn thu khác.
Bao gồm các nguồn thu chủ yếu sau:
- Tiền lãi, tiền lời từ các hoạt động đầu tư nhằm bảo toàn và phát triển quỹ BHXH.
Các nguồn tài trợ và viện trợ khác ở trong nước, ngoài nước và cộng đồng quốc tế, kể cả các tổ chức phi Chính phủ và các cá nhân hảo tâm ...
- Giá trị các tài sản cố định của BHXH được đánh giá lại theo các quy định của Nhà nước.
- Các nguồn thu khác: Tiền phạt do nộp chậm BHXH so với thời gian quy định, tiền truy thu khi các đơn vị sử dụng lao động và người lao động đóng thiếu tiền BHXH hoặc nhận thừa so với chế độ được hưởng thụ.
Thông thường sự đóng góp của ba bên: Người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước tạo ra nguồn quỹ cơ bản nhất và chiếm tỷ trọng lớn nhất. Tùy theo điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi nước mà tỷ lệ đóng góp của mỗi bên được quy định khác nhau.
Nguyên tắc hoạt động của quỹ BHXH là cân đối thu- chi.
* mục đích sử dụng
quỹ BHXH được sử dụng chủ yếu cho hai mục đích sau .
chi trả và trợ cấp các chế độ BHXH.
Chi phí cho sự ngiệp quả lý.
3. Phân loại quỹ BHXH.
Để quản lý và sử dụng quỹ BHXH một cách có hiệu quả cần phải phân loại quỹ BHXH. Có nhiều cách phân loại quỹ BHXH theo các tiêu thức khác nhau, có thể phân loại như sau:
* Phân loại theo tính chất sử dụng.
- Quỹ ngắn hạn: Chi trả cho các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp nhẹ.
- Quỹ dài hạn: Chi trả trợ cấp hưu trí, tử tuất, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp nặng. Quỹ này chịu ảnh hưởng của tài chính tiền tệ.
* Phân loại theo các chế độ.
- Quỹ hưu trí, tử tuất.
- Quỹ TNLĐ và BNN.
- Quỹ thất nghiệp.
- Quỹ ốm đau, thai sản.
* Phân loại theo đối tượng.
- Quỹ cho công chức.
- Quỹ cho lực lượng vũ trang.
- Quỹ cho người lao động trong các doanh nghiệp.
- Quỹ cho các loại lao động khác.
4. Quản lý quỹ BHXH.
Chính sách BHXH không phải là hoạt động tinh thần mà nó phải giải quyết quan hệ xã hội cụ thể. Quản lý BHXH bao gồm hai phần khăng khít: * Quản lý Nhà nước về BHXH (mặt vĩ mô)
* Quản lý BHXH về mặt nghiệp vụ (về mặt thu chi tài chính, quản lý và sử dụng quỹ).
Đứng trước thực trạng về quản lý quỹ BHXH như vậy nên ngày 16/2/1995 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định 19/CP về việc thành lập BHXH Việt nam.
Chương II
thực trạng quỹ bảo hiểm xã hội ở việt nam
I. Quá trình hình thành và phát triển
Trải qua một giai đoạn dài hình thành và phát triẻn quĩ BHXH ở việt nam đã từng bước ngày càng phù hợp hơn với xu thế của xãhội.Ngay Điều lệ tạm thời về các chế độ bảo hiểm xã hội đối công nhân viên chức Nhà nước ban hành kèm theo Nghị định 218/CP ngày 27/11/1961 của Chính phủ, quản lý bảo hiểm xã hội được giao cho Tổng Công đoàn Việt Nam cả về quản lý quỹ và toàn bộ sự nghiệp bảo hiểm xã hội. Đây là thời kỳ hết sức khó khăn của đất nước, do đó trong thời kì này BHXH chỉ là hình thức trợ cấp đối với công nhân viên chức nhà nước và lưcl lượng vũ trang quân đội.Còn lực lượng khác chưa được hưởng các chính sách của BHXH .Và tiền chi trả chủ yếu do ngân sách nhà nước , sự đóng góp của các đối tượng được hưởng hầu như là không có.Nhưng chính nó lại làm tiền đề cho các giai đoạn sau ,theo quyết định số 62/CP ngày 10/04/1964 của chính phủ lí BHXH ddược phân cho hai ccấp phụ trách :(Đối với công nhân viên chức nhà nước)
+Tổng liên đoàn lao động Việt Nam quản lí và thực hiện ba chế độ ngắn hạn (Chế độ thai sản , ốm đau , TNLĐ và bệnh nghề nghiệp)
+Bộ lao động thương binh và xã hội quản lí ba chế độ dài hạn (Chế độ mất sức lao động , hưu trí , tử tuất )
Sự phân chia này kéo dài từ năm 1964 đến tận năm 1995.
Từ năm 1962 đến quý II năm 1964
Theo quy định Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam thu 4,7% tổng quỹ tiền lương của cán bộ công nhân viên chức làm việc trong khu vực Nhà nước (Riêng đối với công nhân viên chức và quân nhân phục vụ trong lực lượng vũ trang thì không thu bảo hiểm xã hội nhưng vẫn thuộc đối tượng hưởng chính sách bảo hiểm xã hội vì các đối tượng này được ngân sách đài thọ hoàn toàn).
Giai đoạn từ quý II năm 1964 đến năm 1986.
Để phù hợp với yêu cầu quản lý mới, theo Quyết định số 62/CP ngày 10/04/1964 của Hội Đồng Bộ Trưởng giao bớt nhiệm vụ quản lý một phần quỹ bảo hiểm xã hội cho Bộ Lao động Thương binh và Xã hội. Trong đó tỷ lệ thu phí bảo hiểm xã hội là 4,7% quỹ tiền lương chỉ để lại cho Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam số thu 3,7% tổng quỹ tiền lương để chi trả cho 3 chế độ ngắn hạn và chi sự nghiệp khác, còn 1% do Bộ Lao động Thương binh và Xã hội thu.
Giai đoạn từ năm 1987 đến tháng 9 năm 1995
Trong giai đoạn từ năm 1987 đến tháng 9/1995, thực hiện theo Quyết định số 181/HĐBT ngày 30/10/1986 của Hội Đồng Bộ Trưởng nâng mức đóng góp của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam quản lý từ 3,7% tổng quỹ lương lên 5% tổng quỹ lương.
Từ khi có Điều lệ bảo hiểm xã hội ban hành kèm theo Nghị định số12/CP ngày 26/01/1995 và Nghị định số 19/CP ngày 16/02/1995 của Chính phủ, hệ thống Bảo hiểm xã hội Việt Nam được thành lập để quản lý thống nhất quỹ và sự nghiệp bảo hiểm xã hội trên cơ sở thống nhất các tổ chức bảo hiểm xã hội hiện nay ở Trung ương và địa phương thuộc hệ thống Lao động Thương binh và Xã hội và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam để giúp Thủ Tướng Chính phủ chỉ đạo công tác quản lý quỹ bảo hiểm xã hội và thực hiện các chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội theo pháp luật của Nhà nước.
Theo qui định hiện hành thì quĩ được hình thành trên cơ sở 15% tổng quĩ lương của người sử dụng lao động, 5%tiền lương của người lao động, bên cạnh đó còn có sự đóng góp của nhà nước, nguồn khác(lãi do đầu tư từ quĩ nhàn rỗi, tổ chức từ thiện...). Từ khi có cơ chế mới này, nguồn thu của quỹ bảo hiểm xã hội đã không ngừng tăng lên và có thể đáp ứng được nhu cầu chi phí bảo hiểm xã hội. Tuy nhiên nguồn thu quỹ này tăng là do hiện nay những người phải đóng góp bảo hiểm xã hội lớn trong khi những đối tượng hưởng mới chưa nhiều, số đang hưởng thì vẫn do ngân sách Nhà nước đảm nhận. quỹ bảo hiểm xã hội mặc dù đã trở thành" xương sống" của hệ thống bảo hiểm xã hội, nhưng chưa thật sự vững chắc nếu không có sự điều chỉnh hợp lý của chính sách ngay từ bây giờ.
II. Đánh giá thực trạng thu chi bảo hiểm xã hội Việt Nam
Từ ngày BHXH Việt Nam ra đời đến nay, quỹ BHXH đã đạt được những kết quả rất đáng mừng, số thu BHXH năm sau luôn cao hơn năm trước, công tác thu chi BHXH đáp ứng được yêu cầu, nguyện vọng của người tham gia BHXH là chi đúng, chi đủ và kịp thời không còn tình trạng nợ đọng kéo dài như một số năm trước. Công tác đầu tư để duy trì và phát triển quỹ được thực hiện một cách có hiệu quả đảm bảo được các nguyên tắc đầu tư. Song bên cạnh quỹ BHXH vẫn còn một số điểm cần được khắc phục và giải quyết kịp thời để ngày một hoàn thiện, đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước trong thời đại mới. Sau đây ta đi xét cụ thể từng khâu trong qúa trình quản lý duy trì và tăng trưởng quỹ BHXH để thấy được thực trạng quỹ BHXH Việt Nam.
Đánh giá thực trạng thu bảo hiểm xã hội.
Bảo hiểm xã hội Việt Nam là cơ quan chỉ đạo công tác quản lý bảo hiểm xã hội và thực hiện chính sách, chế độ trợ cấp bảo hiểm xã hội theo Điều lệ bảo hiểm xã hội hiện hành.
Giám đốc bảo hiểm xã hội tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi là bảo hiểm xã hội tỉnh) có trách nhiệm tổ chức thực hiện và chỉ đạo bảo hiểm xã hội quận huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là bảo hiểm xã hội huyện) thu bảo hiểm xã hội của tất cả các đơn vị, tổ chức, cơ quan của trung ương và địa phương (kể cả các đơn vị trước đây thuộc công đoàn ngành nghề toàn quốc quản lý) có trụ sở và tài khoản đóng trên địa bàn của tỉnh.
Kết quả công tác thu bảo hiểm xã hội từ năm 1995 đến năm 2000 thể hiện ở bảng sau.
Bảng 1:Tình hình thực hiện thu BHXH (từ 6 tháng cuối năm 1995 - nay)
Chỉ tiêu
Đơn vị tính
6 tháng cuối 1995
Năm 1996
Năm 1997
Năm 1998
Năm 1999
Năm 2000
1.Số đơn vị tham gia BHXH
18.566
30.789
34.815
49.628
59.404
61.404
2.Tổngsố
lao động
Người
2.275.998
2.821.444
3.162.352
3.355.389
3.579.427
3.842.680
3.Quỹ lương căn cứ đóng BHXH
Tr.đ
3.482.003
10.256.442
13.316.980
15.511.077
17.625.617
22.022.812
4.Lương BQ tháng đóng BHXH
đồng
254.980
302.849
350.925
385.228
410.974
477.159
5.Số tiền phải thu BHXH trong năm
Tr.đ
840.229
2.569.733
3.683.825
3.992.604
4.326.702
5.564.078
6.Số tiền đã thu trong năm
Tr.đ
788.486
2.569.733
3.445.611
3.875.956
4.186.054
5.215.233
7. Tỷ lệ đã thu/phải thu
%
94
100
94
97
97
94
(Nguồn: Bảo hiểm xã hội Việt Nam)
Từ bảng trên ta thấy số thu của quỹ bảo hiểm xã hội tăng nhanh qua các năm. Tính đến 6 tháng cuối năm 1995 số tiền thu bảo hiểm xã hội mới thu được 788.486 triệu đồng, nhưng từ năm 1996 trở đi thì số thu này bắt đầu tăng lên qua các năm và cho tới năm 2000 thì số thu BHXH đã đạt 5.215.233 triệu đồng. Sự tăng lên của con số đó là do các nguyên nhân sau:
- Do đối tượng tham gia BHXH được mở rộng và nên số đơn vị tham gia BHXH tăng từ 18.566 người (6 tháng cuối năm 1995) lên 61.404 đơn vị (năm 2000). Và nhờ số đơn vị tham gia BHXH tăng nên số lao động tham gia BHXH cũng tăng theo. Cụ thể: 6 tháng cuối năm 1995 chỉ có 2.275.998 người, nhưng cho tới năm 2000 đã tăng lên là 3.842.680 người (tăng khoảng 1,5 lần).
- Công tác thu BHXH đạt hiệu quả cao tỷ lên đã thu/phải thu luôn luôn đạt tỷ lệ cao(trên 94%), đặc biệt năm 1996 tỷ lệ đó đạt 100%.
- Do mức tiền lương tối thiểu tăng, do vậy mà mức lương làm căn cứ đóng BHXH tăng theo làm cho số thu BHXH cũng tăng.
Như vậy, có thể nói từ sau khi được thành lập BHXH Việt Nam đã hoạt động rất có hiệu quả, góp phần ổn định đời sống cho người lao động trong hầu hết các thành phần kinh tế và giảm một phần gánh nặng từ Ngân sách Nhà nước.
2. Đánh giá thực trạng chi bảo hiểm xã hội
Quá trình chi trả bảo hiểm xã hội cho người lao động là một vấn đề quan trọng, vì hoạt động này tác động trực tiếp đến quyền lợi của người tham gia bảo hiểm xã hội, sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ nộp bảo hiểm xã hội theo quy định để hưởng bảo hiểm xã hội. Vì vậy, việc chi trả bảo hiểm xã hội phải tuân thủ theo nguyên tắc: Chi trả đủ, kịp thời, chính xác tới từng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội và an toàn tiền mặt. Nội dung chi trả bảo hiểm xã hội như sau:
- Trợ cấp ốm đau, chết.
- Trợ cấp thai sản,
- Trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp,
- Hưu trí,
- Tử tuất,
- Lệ phí chi
- Nộp Bảo hiểm Y tế theo quy định tại Điều lệ bảo hiểm xã hội.
- Chi quản lý bộ máy.
Hệ thống Bảo hiểm xã hội Việt Nam chính thức thực hiện chi trả 5 chế độ bảo hiểm xã hội cho các đối tượng hưởng chính sách từ quỹ bảo hiểm xã hội và nguồn ngân sách Nhà nước bảo trợ. Ngày 01/10/1995, Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã xây dựng, hình thành và từng bước hoàn thiện cơ chế xét hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội. Theo nguyên tắc tập trung chỉ giao cho bảo hiểm xã hội các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trực tiếp xem xét các chế độ các chế độ hưởng bảo hiểm xã hội, theo đúng các quy định của pháp luật. Việc chi trả bảo hiểm xã hội ở các tỉnh, các địa phương nhìn chung trong những năm qua đặc biệt từ năm 1995 trở lại đây, luôn đảm bảo đủ, kịp thời đến tay đối tượng. Trong chi trả chế độ trợ cấp ốm đau, thai sản đã ứng trước từ quỹ bảo hiểm xã hội trên 22 tỷ đồng để làm quỹ luân chuyển thanh toán các chế độ trên và thực hiện nguyên tắc chi trả theo chứng từ gốc hợp lệ, nên đã giảm đến mức thấp nhất các thất thoát do chi sai nguyên tắc chế độ. Ngoài ra một số cơ quan bảo hiểm xã hội địa phương đã triển khai mô hình thí điểm chi trả trực tiếp cho các đối tượng hưu trí, tuất, mất sức lao động. Thông qua mô hình này đã quản lý chặt chẽ số tăng, giảm đối tượng và phát hiện ra nhiều hiện tượng tiêu cực như khai man hồ sơ hoặc hưởng quá thời gian quy định, đã xử lý và thu hồi giảm chi cho ngân sách Nhà nước hàng tỷ đồng. Riêng các khoản chi trợ cấp ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp theo Điều 36 Điều lệ bảo hiểm xã hội được chi 5% quỹ tiền lương, nhưng do thực hiện cơ chế quản lý bảo hiểm xã hội chặt chẽ theo các quy định về chứng từ do Bộ Tài chính ban hành nên trong năm 1996 chỉ chi khoảng 1,3% so với quỹ lương tương ứng với 130 tỷ đồng. Như vậy đã giảm chi được khoản 3,7% quỹ tiền lương, tương ứng với khoảng 380 tỷ đồng. Do không chi hết cho các chế độ trên nên đã bổ sung vào quỹ hưu trí và tử tuất. Ta có bảng tình hình chi trả cho các đối tượng hưởng chế độ BHXH sau:
Bảng2: Các đối tượng hưởng chế độ BHXH hàng tháng.
Đơn vị: Người.
Năm
Hưu
MSLĐ
TNLĐ-BNN
Tử tuất
Hưu QĐ
Hưu VC
31/12/1996
+NSNN +QuỹBHXH
164.489
2492
1.006.340
10789
395.026
10.357
958
172.609
6.361
31/12/1997
+NSNN +QuỹBHXH
162.572
5817
996.235
24212
380.132
11.332
2210
164.419
11.290
31/12/1998
+NSNN +QuỹBHXH
160.485
9.205
40.258
38949
367.017
11.960
4.020
162.672
16.517
31/12/1999
+NSNN +QuỹBHXH
158.231
13.493
966.291
64.070
352.407
12.292
5.640
160.037
21.543
31/12/2000
+NSNN +QuỹBHXH
157.114
18.500
959.503
92.876
347.102
12.458
4.167
158.720
27.119
(Nguồn: Bảo hiểm xã hội Việt Nam)
Từ bảng 2 ta thấy cả những người về hưu trong quân đội cũng như những người về hưu viên chức thuộc diện chi trả của quỹ BHXH đều tăng lên qua các năm. Năm 1996 số người về hưu trong quân đội chỉ có 2492 người về hưu thì đến năm 1997 đã có 5817 người về hưu tăng gấp hơn 2 lần so với số người về hưu năm 1996. Đến năm 2000 số này đã tăng lên 18500 người, tăng hơn 7 lần so với năm 1996. Bên cạnh đó số người về hưu viên chức cũng tăng lên gấp hơn 8 lần từ năm 1996 đến năm 2000. Trong khi đó các đối tượng này thuộc diện chi trả từ Ngân sách Nhà nước thì lại giảm đi. Hơn nữa, các đối tượng hưởng chế độ khác như chế độ mất sức lao động, tử tuất thuộc diện chi trả của ngân sách Nhà nước cũng giảm đi và có xu hướng tiến tới bằng 0 do các đối tượng về hưu thì dần chuyển sang chế độ tử tuất, còn lại là thuộc chế độ chi trả của BHXH khi nghỉ sau ngày 01/01/1995. Do vậy, trong tương lai không xa quỹ BHXH sẽ phải chi trả hoàn toàn, và Ngân sách Nhà nước chỉ can thiệp vào khi có sự cố xảy ra nhằm ổn định đời sống cho người lao động trong các thành phần kinh tế khi họ tham gia BHXH. Từ sự thay đổi này dẫn đến sự thay đổi trong cơ chế thu chi giữa Ngân sách Nhà nước và quỹ BHXH được thể hiện qua bảng số liệu sau:
Bảng3: Số chi trả BHXH từ 3 tháng cuối năm 1995-2000
Đơn vị tính: Triệu đồng
Năm
Hưu trí
MSLĐ
TNLĐ-BNN
Tử tuất
MTP
ốm đau
Thai
sản
Tổng
cộng
1995
+NSNN
+QuỹBHXH
885.461
874.145
11.316
164.072
164.072
2.592
2.595
337
38.804
37.292
1512
935
935
7.958
7.958
20.647
20.647
1.120.469
1.079.039
41.770
1996
+NSNN
+QuỹBHXH
3.639.926
3.442.207
197.718
655.573
655.573
13.765
10.192
3.573
147.362
133.284
14.079
23.256
23.251
5
61.811
61.811
103.844
103.844
4.645.810
4.264.507
381.030
1997
+NSNN
+QuỹBHXH
4.417.564
4.071.355
364.209
763.393
763.393
18.977
12.812
6.165
141.006
125.882
15.124
25.177
20.507
4.670
90.682
90.682
124.980
124.980
5.599.779
4.993.949
605.830
1998
+NSNN
+QuỹBHXH
4.509.749
4.060.887
448.861
740.013
740.013
22.977
13.034
9.843
150.044
128.795
21.250
27.043
21.240
5.623
110.866
110.866
146.232
146.232
4.967.371
4.224.696
742.675
1999
+NSNN
+QuỹBHXH
4.614.114
3.982.515
631.599
710.859
710.859
24.296
12.985
11.311
150.722
126.098
24.623
27.062
21.280
5.782
95.798
95.798
158.004
158.004
5.780.854
4.853.737
927.117
2000
+NSNN
+ QuỹBHXH
5.895.168
4.983.593
911.575
850.549
850.549
28.077
15.308
12.769
196.861
164.248
32.613
43.650
34.150
9.500
98.775
98.775
240.005
240.005
7.343.680
6.047.848
1.295.832
(Nguồn: Bảo hiểm xã hội Việt Nam)
Qua bảng 3 ta thấy số tiền quỹ bảo hiểm xã hội chi trả cho các đối tượng hưởng chế độ bảo hiểm xã hội tăng lên hàng năm. Năm 1996 số tiền chi cho chế độ hưu trí là 197.718 triệu đồng, lớn nhất trong tổng chi BHXH, sau đó là chi cho chế độ trợ cấp ốm đau, số chi là 103.844 triệu đồng. Việc chi trả cho chế trợ cấp ốm đau chủ yếu chỉ có lao động thuộc doanh nghiệp là thực hiện, còn khối hành chính sự nghiệp và lực lượng vũ trang hầu như là không thanh toán mà BHXH phải chi trả 75%. Mà số chi của khối hành chính sự nghiệp và lực lượng chiếm tới 50 % tổng chi, do vậy nếu tính đầy đủ thì số chi cho chế độ này sẽ xấp xỉ 2 lần con số hiện tại. Vì số chi cho 2 chế độ trên là tương đối lớn nên tổng chi cho các chế độ từ quỹ BHXH là 381.030 triệu đồng. Tổng chi BHXH từ quỹ BHXH tăng lên rất nhanh ở các năm tiếp theo. Năm 1997 số chi cho chế độ hưu trí tăng lên gấp 2 lần năm 1996 và số chi cho các chế độ khác cũng tăng mà tổng chi năm 1997 là 605.830 triệu đồng tăng gần 2 lần so với năm 1996. Và tổng chi BHXH từ qũy BHXH tiếp tục tăng lên đều đều năm sau so với năm trước tăng khoảng 1,2 lần, riêng năm 2000 tăng 1,4 lần so với năm 1999. Sự tăng lên đột biến này là do mức lương tối thiểu làm căn cứ đóng BHXH tăng lên từ 180.000 đồng năm 1999 lên 210.000 đồng năm 2000. Cho tới năm 2000 số chi BHXH từ quỹ BHXH đã tăng lên là 1.295.832 triệu đồng tăng hơn 4 lần so với năm 1996. Sự tăng lên nhanh chóng này là do từ sau ngày 01/01/1995 số đối tượng hưởng chế độ từ quỹ BHXH bắt đầu tăng lên, đặc biệt là số đối tượng hưởng chế độ hưu trí. Trong khi số chi từ quỹ BHXH tăng lên thì số chi từ Ngân sách Nhà nước chi cho các chế độ lại có xu hướng ổn định thậm trí còn giảm đi. Nhìn vào bảng ta thấy số chi từ ngân sách Nhà nước từ năm 1996 đến năm 1999 chỉ ở khoảng hơn 4.000 tỷ đồng. Riêng có năm 1997 và 2000 là chi tăng lên so với năm trước đó, sự tăng lên này là do mức tiền lương tối thiểu làm căn cứ đóng BHXH tăng chứ không phải do đối tượng hưởng chế độ tăng. Hai đối tượng lớn hưởng chế độ trợ cấp từ ngân sách Nhà nước là đối tượng hưởng chế độ hưu trí và mất sức lao động thì bắt đầu giảm đi qua các năm do vậy mà số chi từ ngân sách Nhà nước giảm đi. Trong bảng số liệu ta thấy số chi cho 2 chế độ này tăng lên ở 2 năm 1997 và 2000. Về chế độ hưu trí năm 1997 số chi từ NSNN là 4.071,355 tỷ đồng tăng lên khoảng 1,2 lần so với năm 1996 (năm 1996 là 3.442,207 tỷ đồng), năm 2000 là 4.983,593 tỷ đồng tăng 1,25 so với năm 1999. Còn chế độ tử tuất cũng giảm đi , năm 1998 và năm 1999 đều giảm đi so với năm 1997. Số chi này chỉ tăng lên ở 2 năm có mức tiền lương tối thiểu tăng là năm 1997 và năm 2000. Do vậy, trong tương lai khi số người hưởng chế độ hưu trí giảm đi do số lượng đối tượng hưởng không tăng và một số thì chết chuyển sang chế độ tử tuất. Đến một lúc nào đó thì Nhà nước sẽ không phải chi trả cho chế độ này nữa và đối tượng hưởng chế độ mất sức lao động thì cũng đến khoảng năm 2010 là hết. Nên trong một số năm tới số chi từ ngân sách Nhà nước cho các chế độ sẽ không còn nữa, chỉ còn có số chi của quỹ BHXH. Do vậy, trong tương lai cho tới một thời điểm nào đó thì Ngân sách Nhà nước chi trả cho các đối tượng sẽ bằng 0 và ngược lại số chi từ qũy BHXH sẽ rất lớn. Bởi vậy mà BHXH cần sớm có phương án để duy trì và tăng trưởng quỹ đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của số lượng người lao động tham gia BHXH.
3. Đánh giá hiệu quả công tác thu - chi bảo hiểm xã hội
Trong hơn 6 năm hoạt động BHXH Việt Nam đã đạt được những thành tựu rất đáng tự hào. Đặc biệt là công tác thu chi BHXH, nghiệp vụ được coi là xương sống của ngành BHXH. BHXH Việt Nam đã thực hiện tốt công việc thu BHXH một cách xuất sắc. Tỷ lệ thu BHXH rất cao luôn lớn hơn 94% tổng số phải thu (số liệu bảng1), nên tỷ lệ tồn đọng là rất thấp. Công tác chi trả được kịp thời, đầy đủ, đúng đối tượng và an toàn tiền mặt, đáp ứng được yêu cầu của đối tượng tham gia BHXH. Ngoài ra, BHXH còn thực hiện chi trả cho các đối tượng hưởng chế độ từ ngân sách Nhà nước cấp. Số đối tượng và số tiền chi trả như sau:
- Năm 1995 (4 tháng cuối năm) chi trả 1.112,030 tỷ đồng cho 1.762,167 người, tỷ lệ giảm đối tượng so với năm 1994 là 1,6%.
- Năm 1996 chi trả 4.387,903 tỷ đồng cho 1.750.418 người, tỷ lệ giảm đối tượng so với năm 1995 là1,7%.
- Năm 1997 chi trả 5.163,903 tỷ đồng cho 1.716,257 người, tỷ lệ giảm đối tượng so với năm 1996 là 2%.
- Năm 1998 chi trả 5.128,245 tỷ đồng cho 1.683,500 người, tỷ lệ giảm đối tượng so với năm 1997 là 2%.
- Năm 1999 chi trả 5.015,620 tỷ đồng cho 1.650,709 người, tỷ lệ giảm đối tượng so với năm 1998 là 2%.
Với đối tượng giảm bình quân mỗi năm khoảng 2% thì đến năm 2040 hoặc 2045 BHXH sẽ không phải chi trả cho các đối tượng trên nữa,
Sau đây ta sẽ xem xét tình hình thu chi cho các đối tượng hưởng trợ cấp từ quỹ BHXH.
Bảng4: Tình hình thu chi BHXH do BHXH Việt Nam quản lý từ năm 1995 đến năm 2000
Chỉ tiêu
Đơn vị tính
Năm
1995
Năm 1996
Năm 1997
Năm 1998
Năm
1999
Năm
2000
1. Số người tham gia BHXH
1000 người
2276
2821
3162
3355
3579
3842
2.Số tiền BHXH thu được
Tỷ đồng
778
2569
3445
3875
4186
5215
3.Số tiền chi BHXH
Tỷ đồng
4636
4788
5756
5880
5955
7576
4.Ngân sách Nhà nước cấp
Tỷ đồng
4594
4405
5163
5128
5015
6248
5.Quỹ BHXH
Tỷ đồng
42
383
593
752
940
1328
6.Tỉ lệ chi so với thu của quỹ
%
5
15
17
19
22
25
7.Tỉ lệ quỹ BHXH chi so với NSNN cấp
%
1
9
11
15
19
21
(Nguồn: Bảo hiểm xã hội Việt Nam)
Qua bảng số liệu trên ta thấy: Đối với chi bảo hiểm xã hội trong 6 năm qua đạt loại khá, chủ yếu chi từ ngân sách Nhà nước như năm 1995 tổng số chi là 4636 tỷ đồng trong đó ngân sách Nhà nước cấp 4594 tỷ đồng còn quỹ bảo hiểm xã hội chỉ chi 42 tỷ đồng chiếm 5% so với số thu bảo hiểm xã hội trong năm. Năm 1996 số chi bảo hiểm xã hội đạt mức 4788 tỷ đồng, quỹ bảo hiểm xã hội chi 383 tỷ đồng chiếm 15 % so với tổng thu trong năm, số còn lại 44085 tỷ đồng do Nhà nước chi trả. Năm 1997 tổng số tiền chi bảo hiểm xã hội là 5756 tỷ đồng, trong đó quỹ bảo hiểm xã hội chi trả 593 tỷ đồng chiếm 17% tổng số thu bảo hiểm xã hội trong năm, còn 5163 tỷ đồng do ngân sách Nhà nước chi trả. Năm 1998, tổng số tiền chi bảo hiểm xã hội là 5880 tỷ đồng trong đó quỹ bảo hiểm xã hội chi 725 tỷ đồng chiếm 19% so với thu bảo hiểm xã hội trong năm. Năm 1999, tổng số chi BHXH là 5955 tỷ đồng, trong đó quỹ BHXH chỉ có 940 tỷ đạt 22% so với tổng số thu trong năm, Ngân sách Nhà nước vẫn phải cấp 5015 tỷ. Năm 2000 tổng số chi BHXH đã lên tới 7576 tỷ đồng, trong đó Ngân sách Nhà nước cấp 6248 tỷ đồng, quỹ BHXH chi là 1328 tỷ đồng chiếm 25%. Đây là tỷ lệ quỹ bảo hiểm xã hội chi trả cao nhất từ năm 1995 đến năm 2000. Như vậy, Ngân sách Nhà nước cấp cho các chế độ bảo hiểm xã hội có tăng lên từ năm 1995 đến 1998, nhưng nguyên nhân của sự tăng lên đó lại là do có sự tăng lên của mức tiền lương tối thiểu chứ khoong phải do đối tượng hưởng BHXH tăng lên. Trong khi đó, tỷ lệ quỹ bảo hiểm xã hội chi so với ngân sách Nhà nước cấp lại không ngừng tăng lên. Năm 1995 tỷ lệ này là 1%. Năm1996 tỷ lệ này tăng lên 9%, đến năm 2000 thì quỹ bảo hiểm xã hội chi so với ngân sách Nhà nước cấp đã tăng lên 21%. Điều này chứng tỏ rằng tỷ lệ chi bảo hiểm xã hội đang nghiêng dần về phía quỹ. Nguyên do là những đối tượng hưởng chế độ bảo hiểm xã hội từ ngân sách Nhà nước (những những người hưởng chế độ bảo hiểm xã hội trước 01/01/1995) đang giảm dần, còn những đối tượng hưởng chế độ bảo hiểm xã hội từ quỹ bảo hiểm xã hội đang tăng dần lên. Theo xu hướng này đến một lúc nào đó quỹ bảo hiểm xã hội sẽ phải chi trả toàn bộ cho các đối tượng hưởng chế độ bảo hiểm xã hội mà chỉ được sự hỗ trợ của ngân sách Nhà nước.
Để đạt được những thành tựu trên trong những năm vừa qua là do một số nguyên nhân sau:
- Sự cố gắng của cán bộ viên chức trong toàn ngành mà trước hết là các cán bộ trực tiếp làm công tác thu, chi bảo hiểm xã hội, sự chỉ đạo tích cực của các cấp uỷ Đảng, và chính quyền các cấp, sự kết hợp hỗ trợ của các cơ quan chức năng như: Cục thuế, Sở Tài chính, các cơ quan kiểm soát và thanh tra Nhà nước... trong việc vận động, kiểm tra, rà soát, nắm đầu mối thu nộp và chi trả bảo hiểm xã hội. Đôn đốc các đơn vị thuộc diện bắt buộc tham gia bảo hiểm xã hội theo quy định nhằm bảo vệ quyền lợi cho người lao động.
- Thực hiện nguyên tắc gắn thu nộp với thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội đối với người lao động. Nguyên tắc này đảm bảo sự công bằng " Có đóng góp thì mới hưởng, ai không đóng góp thì không hưởng", đó chính là biện pháp hữu hiệu nhất để đôn đốc chủ sử dụng lao động thực hiện tốt nghĩa vụ thu nộp bảo hiểm xã hội.
- Công tác cấp phát sổ bảo hiểm xã hội nghiêm túc, đảm bảo chặt chẽ, đã tạo được niềm tin cho người lao động và bước đầu nâng cao trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đóng góp bảo hiểm xã hội của người lao động, hạn chế việc khai giảm lao động và quỹ tiền lương của đơn vị sử dụng lao động, tạo điều kiện cho cơ quan bảo hiểm xã hội truy thu một số lượng lớn tiền đóng bảo hiểm xã hội còn nợ đọng từ những năm trước.
- Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã tổ chức, phổ biến hướng dẫn các chính sách bảo hiểm xã hội và phương thức nộp bảo hiểm xã hội cho chủ sử dụng lao động và người lao động, đặc biệt là đã tổ chức các buổi tập huấn nghiệp vụ thu, chi bảo hiểm xã hội nhằm nâng cao chất lượng hoạt động trong toàn hệ thống Bảo hiểm xã hội Việt Nam.
Từ thực tế việc thu chi quỹ BHXH trên, đặt ra vấn đề là phải cân đối thu chi quỹ BHXH để bảo tồn và tăng trưởng quỹ BHXH trong tương lai
III. Đánh giá công tác quản lý quỹ bảo hiểm xã hội
Trong thời gian qua Đảng và Nhà nước cùng các ngành các cấp quan tâm đã nghiên cứu lĩnh vực hoạt động bảo hiểm xã hội và kết quả là cho ra đời Nghị định 19/CP của Chính phủ ngày 16/02/1995. Nội dung của Nghị định này là thành lập Bảo hiểm xã hội Việt Nam trên cơ sở thống nhất các tổ chức bảo hiểm xã hội hiện nay từ Trung ương và điạ phương thuộc hệ thống Lao động Thương binh Xã hội và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam để giúp Thủ Tướng Chính phủ chỉ đạo công tác quản lý bảo hiểm xã hội và thực hiện các chế độ chính sách bảo hiểm xã hội theo pháp luật của Nhà nước.
Theo như quy định Bảo hiểm xã hội Việt Nam có tư cách pháp nhân hạch toán độc lập và được Nhà nước bảo hộ, có con dấu riêng, có tài khoản, có trụ sở đặt tại thành phố Hà nội. Quỹ bảo hiểm xã hội được quản lý thống nhất theo chế độ tài chính của Nhà nước. Cùng với việc đổi mới chính sách công tác quản lý quỹ cũng thay đổi cho phù hợp.
1. Tình hình duy trì và tăng trưởng quỹ bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm xã hội đã và đang được phát triển ở hầu khắp các nước trên thế giới, không chỉ bởi mục đích an sinh xã hội mà còn có vai trò quan trọng trong việc góp phần phát triển, ổn định nền tài chính - tiền tệ quốc gia. Sau 6 năm hoạt động, Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã tham gia đầu tư vào thị trường tài chính của Nhà nước trên 8000 tỷ đồng. Chuyển sang nền kinh tế thị trường, thị trường vốn ngày càng được mở rộng, phát triển mạnh mẽ cả về quy mô hình thức và chất lượng, đòi hỏi Bảo hiểm xã hội Việt Nam phải có những cố gắng vượt bậc để tham gia hoạt động đầu tư quỹ một cách có hiệu quả cao nhất nhằm bảo tồn và tăng trưởng quỹ bảo hiểm xã hội ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Hoạt động của bảo hiểm xã hội xét về khía cạnh nguồn lực tài chính thì được coi là một quỹ tiền tệ lớn của nền kinh tế, thường xuyên có khối lượng tiền vốn lớn tạm thời nhàn rỗi trong khoảng thời gian dài; lượng tiền này phải được đưa vào để đầu tư để bảo tồn và tăng trưởng quỹ bảo hiểm xã hội. Một trong những nhiệm vụ của Bảo hiểm xã hội Việt Nam được quy định trong Nghị định số 19/CP ngày 16/02/1995 của Chính phủ về việc thành lập Bảo hiểm xã hội Việt Nam là: " Xây dựng và tổ chức thực hiện các dự án và biện pháp để bảo tồn giá trị và tăng trưởng quỹ bảo hiểm xã hội theo quy định của Chính phủ ". Việc huy động mọi nguồn nội lực trong đó có tiền vốn cho phát triển kinh tế xã hội của đất nước đã và đang đặt ra yêu cầu bức xúc cho ngành bảo hiểm xã hội phải thực hiện đầu tư quỹ bảo hiểm xã hội sao cho có hiệu quả cao nhất, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội và đạt được các mục tiêu cải cách kinh tế, đặc biệt là đối với lĩnh vực tài chính tiền tệ Việt Nam.
Trong Quyết định số 20/QĐ - TTg ngày 26/01/1998 Thủ Tướng Chính phủ đã cho phép bảo hiểm xã hội Việt Nam thực hiện các biện pháp bảo tồn giá trị và tăng trưởng quỹ bảo hiểm xã hội theo nguyên tắc bảo đảm an toàn, hạn chế rủi ro đến mức thấp nhất, có hiệu quả kinh tế xã hội, với các nội dung kinh tế bao gồm:
- Mua trái phiếu, tín phiếu của kho bạc Nhà nước và các ngân hàng thương mại của Nhà nước.
- Cho vay đối với ngân sách Nhà nước, quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia, các ngân hàng thương mại của Nhà nước.
- Đầu tư vốn vào một số dự án và doanh nghiệp lớn của Nhà nước có nhu cầu về vốn được Thủ Tướng Chính phủ cho phép và bảo trợ.
Sau 6 năm hoạt động, tiền nhàn rỗi của quỹ bảo hiểm xã hội đã được đưa vào đầu tư như sau:
Bảng5: Tỷ lệ đầu tư tăng trưởng quỹ bảo hiểm xã hội.
Đơn vị: Tỷ đồng
Năm
Thu quỹ BHXH
Chi quỹ BHXH
Tỷ lệ
chi dùng
Tỷ lệ đầu tư tăng trưởng
1995
788
42
5,3%
94,7%
1996
2569
383
14,9%
84,1%
1997
3445
593
17,2%
82,8%
1998
3875
752
19,4%
80,6%
1999
4186
940
22,5%
77,5%
2000
5215
1328
25,5%
74,5%
(Nguồn: Bảo hiểm xã hội Việt Nam)
Bảng trên cho thấy tỷ trọng nguồn vốn nhàn rỗi có thể giảm dần nhưng do số thu tăng lên nhanh chóng nên số luỹ kế để thực hiện đầu tư đến hết năm 2000 đã lên tới 16.040 tỷ đồng. Điều đó cũng phản ánh quỹ bảo hiểm xã hội là một tiềm năng tài chính không nhỏ; tiềm năng này nếu không sử dụng triệt để hoặc sử dụng không hiệu quả là một sự lãng phí, là chưa phát huy hết nguồn nội lực về tiền vốn, đặt biệt trong điều kiện đất nước ta còn thiếu vốn trầm trọng. Xét về mặt kinh tế thì việc đem phần quỹ nhàn rỗi để đầu tư là hoàn toàn hợp lý. Nhiều nước, vốn đầu tư là nhu cầu rất cần thiết đối với nền kinh tế. Nếu việc đầu tư có hiệu quả thì cả nền kinh tế và quỹ bảo hiểm xã hội đều được lợi.
Trong 4 nguyên tắc về đầu tư là an toàn, có hiệu quả, tính dễ lưu chuyển và có lợi cho xã hội, thì nguyên tắc an toàn luôn được đặt lên hàng đầu. Điều này vô cùng quan trọng vì hậu quả của việc mất quỹ bảo hiểm xã hội là vô cùng nghiêm trọng. Ngược lại, nếu quá thận trọng mà không cho phép đầu tư hoặc không dám đầu tư thì cũng là một sai lầm. Cái lợi thế của quỹ bảo hiểm xã hội là nguồn vốn cần được khai thác triệt để.
2. Đánh giá hiệu quả quản lý quỹ BHXH Việt Nam
Trong 6 năm qua, kể từ khi quỹ BHXH Việt Nam được quản lý hạch toán độc lập với Ngân sách Nhà nước thì kết quả đạt được của quỹ rất đáng mừng. Quỹ BHXH năm sau luôn cao hơn năm trước và có một lượng tiền lớn nhàn rỗi để đầu tư vào nền kinh tế quốc dân.
- Tổng số thu BHXH tính đến cuối năm 2000 đạt 5.215.233 triệu đồng. Quỹ và cơ chế hoạt động của BHXH Việt Nam đã được hình thành, phù hợp với chính sách BHXH trong cơ chế thị trường, tạo điều kiện cho quỹ tự cân đối tài chính trong quá trình hoạt động. Quỹ BHXH với số thu ngày càng tăng, giảm sự cấp phát từ ngân sách Nhà nước nhằm thực hiện chính sách BHXH đúng mục đích và hiệu quả, tạo điều kiện cho cơ quan BHXH chủ động chi trả và đầu tư tăng trưởng quỹ.
- Ngành BHXH đã tổ chức chi trả lương hưu, các chế độ trợ cấp BHXH đầy đủ, kịp thời và an toàn với trên 23.643 tỷ đồng cho hàng triệu đối tượng. Công tác chi trả BHXH đảm bảo đúng chính sách, chế độ của Nhà nước, ít phiền hà, bảo đảm cho những người được nhận lương hưu và trợ cấp BHXH sớm, chấm dứt tình trạng nợ lương hưu dài ngày như một số năm trước đây. Đó là việc làm có tác dụng thiết thực, góp phần ổn định đời sống của những người thụ hưởng chính sách BHXH.
-Việc tổ chức quản lý quỹ cũng được thống nhất theo một hệ thống, đảm bảo tính chủ động trong việc thu BHXH và việc chi trả cho các chế độ. Có đổi mới và sáng tạo trong việc sử dụng công nghệ thông tin vào việc quản lý quỹ. Mặc dù thường xuyên phải tiếp xúc với một lượng tiền mặt lớn (bình quân gần 500 tỷ đồng/tháng), nhưng chưa có trường hợp nào làm mất hoặc chiếm dụng tiền của người hưởng BHXH. Đây là thành tích rất đáng trân trọng, cần được tiếp tục phát huy trong thời gian tới.
Bên cạnh những kết quả đạt được nói trên, hoạt động của BHXH Việt Nam trong 6 năm qua cũng còn một số mặt hạn chế, đó là:
- Chưa có biện pháp hữu hiệu để quản lý toàn bộ số lao động phải tham gia BHXH và nguồn thu theo qui định của pháp luật.Thời gian qua, tuy số đóng BHXH có tăng hàng năm, nhưng so với tổng số lao động phải tham giaBHXH theo qui định mới chỉ đạt 86%, riêng số lao động làm việc trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tham gia BHXH mới đạt 40%. Kết quả thu hàng năm mới đạt khoảng 90% so với tổng số phải thu. Điều đó chứng tỏ mạng lưới BHXH chưa vươn tới được toàn bộ số lao động trong xã hội.
Tình trạng nợ đọng tiền BHXH còn lớn, tính đến nay bình quân gần 500 tỷ đồng, chiếm 11-12% diện thu đã quản lý được. Nếu để kéo dài tình trạng này sẽ làm nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp và khó khăn; trước hết là thiếu nguồn chi trả cho người hưởng BHXH, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người lao động.
IV.Đánh giá hiệu quả hoạt động của quỹ BHXH Việt nam
1.Các thành tựu đạt được
BHXH Việt Nam được hình thành và phát triển từ năm 1962, tuy nhiên ban đầu mới chỉ thu hút được một bộ phận nhỏ người lao động bao gồm những người làm việc trong khu vực Nhà nước và lực lượng vũ trang. Với việc ban hành Nghị định 12/CP và tiếp đó là Nghị định 19/CP của Chính phủ năm 1995, hệ thống BHXH Việt Nam đã có nhiều bước chuyển biến rõ rệt. Đặc biệt là hiệu quả quản lý quỹ BHXH theo cơ chế hạch toán độc lập, có sự chỉ đạo của Nhà nước. Do vậy, trong 6 năm thực hiện cơ chế mới về BHXH theo tinh thần của Bộ luật Lao động quỹ BHXH đã đạt được những thành tích sau đây:
- Số đối tượng áp dụng BHXH được mở rộng đến những người làm công ăn lương trong các thành phần kinh tế theo nguyên tắc có đóng góp có hưởng thụ. Nhờ mở rộng được đối tượng tham gia BHXH và tăng mức phí BHXH (20% so với quỹ lương) nên các nguồn huy động quỹ BHXH không ngừng tăng lên và có thể đáp ứng nhu cầu chi phí BHXH.
- Thành lập được quỹ BHXH độc lập với ngân sách Nhà nước và hình thành từ 3 nguồn (đóng góp của người của người lao động, người sử dụng lao động, hỗ trợ của Nhà nước) đã tạo điều kiện xây dựng cơ chế tài chính mới đúng đắn, tăng nguồn tài chính, tạo điều kiện hình thành, duy trì và tăng trưởng quỹ. Đồng thời góp phần tiết kiệm các khoản chi cho ngân sách Nhà nước, khắc phục các hạn chế về tài chính chi cho BHXH trước đây và tác động tích cực vào các chính sách kinh tế xã hội khác.
- Công tác thu chi BHXH luôn đạt kết quả cao. Thu BHXH năm sau luôn cao hơn năm trước, đảm bảo được thu đúng, thu đủ và an toàn tiền mặt. Mặc dù khối lượng tiền mặt lớn nhưng chưa bao giờ xảy ra tình trạng thất thoát. Số tiền thu được đem đầu tư tạo được một khoản thu tương đối lớn cho BHXH và là nguồn đầu tư giúp các ngành kinh tế khác có vốn để phát triển, điều đó cũng có tác động ngược trở lại là giúp các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả thì công tác thu BHXH càng trở lên dễ dàng và có kết quả cao. Việc chi trả cho các đối tượng hưởng chế độ đầy đủ, kịp thời tránh tình trạng nợ đọng kéo dài như một số năm về trước, giúp người lao động ổn dịnh cuộc sống để họ an tâm tham gia lao động sản xuất.
- Khối lượng tiền mặt nhàn rỗi ở quỹ BHXH được đưa vào đầu tư phát triển các ngành kinh tế trọng yếu của đất nước tạo điều kiện cho nền kinh tế có thêm vốn để hoạt động và phát triển.
Bên cạnh những thành tự nói trên thì hoạt động quản lý quỹ BHXH vẫn còn những hạn chế cần khắc phục.
2.Những tồn tại cần khắc phục
- Để số thu quỹ BHXH ngày càng lớn thì việc mở rộng thêm đối tượng tham gia BHXH là hết sức cần thiết. Bởi vì, hiện nay số lượng người tham gia BHXH còn quá ít so với tổng số lao động trong nền kinh tế quốc dân.
-Tỷ lệ đóng góp vào quỹ BHXH hiện nay của người tham gia BHXH so với mức hưởng chưa được phù hợp. Theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) thì với mức đóng và mức hưởng như hiện nay thì đến năm 2019 quỹ BHXH bắt đầu bị thâm hụt.
- Số tiền nhàn rỗi ở quỹ BHXH hiện nay tất lớn, nhưng việc đầy tư chưa đạt hiệu quả cao mới chỉ đầu tư vào những nơi theo chỉ đạo của Nhà nước như: cho ngân hàng vay, mua công trái, trái phiếu mà những nơi này lãi suất rất thấp. Do vậy mà không phát huy hết nội lực của ngành.
- Hơn nữa, quỹ BHXH Việt Nam phải gánh chịu chi trả cho những đối tượng hưởng chế độ sau ngày 01/01/1995 mà số đối tượng này lại không đóng phí BHXH cho quỹ mà là cho ngân sách Nhà nước. Do vậy, Nhà nước nên xem xét chuyển giao số tiền nói trên cho quỹ BHXH, giúp quỹ có thêm nguồn để đáp ứng được nhu cầu chi trả ngày càng tăng.
- Vẫn chưa có một hành lang pháp lý có hiệu lực để buộc các chủ sử dụng lao động đóng BHXH cho người lao động một cách đầy đủ. Tình trạng nợ đọng tiền BHXH cũng như trốn tránh nghĩa vụ đóng BHXH vẫn còn nhưng
Chương III
Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện
quỹ bảo hiểm xã hội
I. những Thuận lợi và tồn tại của việc quản lý quỹ BHXH ở Việt Nam
1. Thuận lợi.
Mặc dù là cơ quan mới được thành lập, tuy còn rất nhiều khó khăn thiếu thốn. Nhưng toàn bộ hệ thống Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã nhanh chóng ổn định tổ chức bộ máy, nhân sự và triển khai ngay được các nhiệm vụ chuyên môn không gián đoạn, ách tắc trong việc giải quyết chế độ bảo hiểm xã hội đối với người lao động. Hệ thống Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã dần dần thực hiện cơ chế quản lý sự nghiệp bảo hiểm xã hội trong tình hình mới. Từng bước hình thành quỹ bảo hiểm xã hội tập trung, đổi mới cơ chế quản lý thu bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm xã hội Việt Nam duyệt hồ sơ chính sách bảo hiểm xã hội theo hướng tập trung lên Trung ương, mở rộng dần đối tượng người lao động tham gia bảo hiểm xã hội trong các thành phần kinh tế.
Mặc dù vừa ổn định bộ máy, vừa tiếp nhận triển khai nhiệm vụ thu bảo hiểm xã hội trong khi không được trích phí thu nhưng bảo hiểm xã hội tỉnh, thành phố đã có nhiều cố gắng, phấn đấu đạt được mức thu bảo hiểm xã hội cao là kết quả đáng ghi nhận. Đảm bảo nhiệm vụ chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội nhất là chi trả chế độ hưu trí tương đối tốt, kịp thời tận tay đối tượng, không gián đoạn vì phải tiếp nhận bàn giao, nhiều bảo hiểm xã hội tỉnh, thành phố đảm bảo chi trả các chế độ sớm hơn từ 5 đến 7 ngày so với trước đây.
Từng bước hình thành và hoàn thiện cơ chế xét hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội theo nguyên tắc tập trung 2 cấp: Tỉnh, thành phố Trung ương gắn việc thực hiện thu nộp bảo hiểm xã hội với việc xem xét giải quyết các chế độ bảo hiểm xã hội cho người lao động ở các cơ quan đơn vị. Từng bước đáp ứng điều kiện, phương tiện làm việc cho các tổ chức bảo hiểm xã hội hoàn thành tốt nhiệm vụ chuyên môn.
2. Những tồn tại
Công tác bàn giao nhiệm vụ thu bảo hiểm xã hội giữa các ngành tài chính, Liên đoàn Lao động địa phương, Công đoàn ngành chưa cụ thể như: không nắm đầy đủ số lượng đơn vị và số lượng người tham gia đóng bảo hiểm xã hội, số tiền bảo hiểm xã hội phải thu và đã thu. Việc tổ chức bộ máy thu ở nhiều tỉnh, thành phố chưa được bố trí hợp lý: thiếu cán bộ, yếu nghiệp vụ. Công tác quản lý còn nhiều thiếu sót nhất là việc nắm danh sách tiền người lao động đóng hàng tháng.
Do không đảm bảo kịp thời nguồn từ kho bạc Nhà nước vẫn còn hiện tượng để lại nguồn thu bảo hiểm xã hội chi các đối tượng hưởng chính sách bảo hiểm xã hội không báo cáo Bảo hiểm xã hội Việt Nam. Việc tổ chức chi trả ở nhiều địa phương còn chưa khẩn trương, để tồn đọng tiền mặt ở các đại lý nên dễ phát sinh tiêu cực. Vẫn còn tình trạng trả chưa đúng kỳ cho đối tượng bảo hiểm xã hội. Việc chi trả cho các đối tượng người có công theo Quyết định 425/TTg đang là vấn đề có nhiều vướng mắc, lúng túng cần có các biện pháp khắc phục dứt điểm về phương thức chi trả này. Trong quá trình xét hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội ở các tỉnh, thành phố vẫn còn có những sai phạm về thủ tục khi xét duyệt như Quyết định không số, không đóng dấu tẩy xoá... Hoặc giải quyết chính sách không chính xác, không đúng với quy định.
II. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý quỹ BHXH Việt Nam
1. Mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội.
Chủ trương của Đảng và Nhà nước được xác định tại Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII “ Mở rộng chế độ bảo hiểm xã hội đối với người lao động thuộc các thành phần kinh tế ...”, có thể nói chủ trương này như là một quốc sách bởi vì khi mọi người lao động đều được xã hội bảo vệ, đều được trợ cấp khi ốm đau, tai nạn, già yếu… thì họ rất hăng say lao động sản xuất để có thu nhập cho bản thân, cho gia đình và đóng góp cho xã hội.
Bên cạnh đó, mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội đến mọi người lao động để mở rộng nguồn thu bảo hiểm xã hội thông qua việc kết hợp giữa 2 hình thức bảo hiểm xã hội bắt buộc và bảo hiểm xã hội tự nguyện. Về hình thức bảo hiểm xã hội tự nguyện đã được Bộ Lao động Thương binh và Xã hội cùng Nghị định 12/CP khẳng định, song việc thực hiện còn gặp rất nhiều khó khăn, bởi vì đây là lĩnh vực đa dạng phức tạp, vừa mang tính chất thương mại, vừa mang tính chất xã hội nên tuỳ thuộc vào nhu cầu thị trường và các đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội, đối tượng này là nguồn thu rất lớn cho quỹ bảo hiểm xã hội mà lâu nay chúng ta đã và đang bỏ trống.
Nhất là khi sự phát triển của nền kinh tế nhiều thành phần cùng với sự tăng cường hợp tác quốc tế với các nước trên thế giới đã tạo nên một số lượng lớn lao động trong lĩnh vực làm công ăn lương, kéo theo sự tăng lên của các đối tượng tham gia và hưởng bảo hiểm xã hội. Theo báo cáo của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội thì những quy định pháp luật hiện hành về bảo hiểm xã hội mới đảm bảo cho lực lượng lao động gần 4 triệu người tham gia, còn hơn 30 triệu người lao động chưa có điều kiện tham gia bảo hiểm xã hội.
Hiện nay số người lao động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc mà Bảo hiểm xã hội Việt Nam hiện đang quản lý khoảng 5,1 triệu người (tính đến hết năm 2000) thì số lao động chưa tham gia bảo hiểm xã hội còn qúa lớn, đối tượng tham gia theo quy định chỉ chiếm một phần trong tổng số lao động, số lao động còn lại thuộc thành phần kinh tế khác
Đối với người tham gia bảo hiểm xã hội là doanh nghiệp, hiện nay số lượng doanh nghiệp có quy mô nhỏ và rất nhỏ ở nước ta chiếm tỷ trọng lớn. Vì thế nên quy định doanh nghiệp có từ 5 lao động trở lên tham gia bảo hiểm xã hội.
Đối với lao động tự do, lao động cá thể mà hiện nay chưa đủ điều kiện tham gia bảo hiểm xã hội theo luật thì cần áp dụng hình thức bảo hiểm xã hội tự nguyện cho những đối tượng này và nên quy định nhiều mức đóng góp bảo hiểm xã hội khác nhau cho phù hợp với từng loại đối tượng, không nên quy định mức đóng góp bình quân cho mọi đối tượng.
2. Bảo đảm sự hỗ trợ của Nhà nước đối với quỹ bảo hiểm xã hội.
Như đã biết quy định mức đóng bảo hiểm xã hội và mức hưởng bảo hiểm xã hội chưa phù hợp, chưa tính đến cân bằng thu chi cho quỹ bảo hiểm xã hội. Việc xác định chính xác mức thu bảo hiểm xã hội cho quỹ bảo hiểm xã hội và mức hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội là một việc rất khó khăn và phức tạp, nó đòi hỏi phải được xây dựng trên những cơ sở, những căn cứ khoa học rất chặt chẽ. Nó phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác nhau, mà các yếu tố ảnh hưởng đến việc xác định các mức này lại luôn biến động theo không gian và thời gian. Thu ít hưởng nhiều dẫn đến quỹ bảo hiểm xã hội bị thâm hụt, ngân sách nhà nước phải gánh chịu phần thâm hụt này.
Ngân sách nhà nước cần phải hỗ trợ ban đầu để đảm bảo cho các hoạt động bảo hiểm xã hội. Nhà nước phải mở các lớp đào tạo cán bộ, bồi dưỡng nghiệp vụ cho các cán bộ bảo hiểm xã hội. Việc tuyển chọn cán bộ phải được thực hiện nghiêm túc, có quy chế thi tuyển rõ ràng. Về mặt nghiên cứu khoa học, Nhà nước cần đầu tư kinh phí để nghiên cứu đặc biệt là đối tượng lao động nông nghiệp ở nông thôn đang là vấn đề cấp bách ở nước ta.
Ngoài ra Nhà nước phải có các biện pháp để điều chỉnh lãi suất hoặc trách nhiệm hỗ trợ quỹ bảo hiểm xã hội trong các trường hợp nâng lương, lạm phát mất giá đồng đều, các giải pháp đầu tư và bảo lãnh các hoạt động đầu tư của quỹ... Mặt khác, định kỳ quỹ bảo hiểm xã hội phải thực hiện tốt các chế độ báo cáo quyết toán cho hệ thống ngành dọc, hệ thống tài chính theo chế độ tài chính quy định; chịu sự kiểm tra kiểm soát, thanh tra theo chế độ tài chính của nhà nước và các cơ quan ngành dọc cấp trên.
3. Vấn đề đầu tư quỹ bảo hiểm xã hội.
Quỹ bảo hiểm xã hội là một tiềm năng tài chính,trong khi đó việc dùng quỹ bảo hiểm xã hội ở Việt nam để đầu tư còn nhiều hạn chế
Trên cơ sở thực trạng hoạt động đầu tư quỹ bảo hiểm xã hội ở Việt nam trong thời gian qua, nhằm đạt hiệu quả cao và đảm bảo an toàn, hoạt động đầt tư để bảo tồn và tăng trưởng quỹ bảo hiểm xã hội trong những năm tới nên hướng theo một số nội dung sau:
- Việc dùng quỹ bảo hiểm xã hội tạm thời nhàn rỗi để tham gia đầu tư tăng trưởng cần phải bảo đảm được nguyên tắc: An toàn, hạn chế rủi ro đến mức độ thấp nhất và bảo toàn được quỹ, góp phần thúc đẩy kinh tế xã hội. Không lấy mục tiêu lợi nhuận làm hàng đầu.
- Phải có quy hoạch và cân đối quỹ để tham gia đầu tư trong một khoản thời gian hợp lý, phù hợp với chính sách phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước trong từng thời kỳ. Xác định tỷ lệ đầu tư vào mỗi lĩnh vực hợp lý để đảm bảo nguyên tắc an toàn, tránh rủi ro.
- Đa dạng hoá các loại hình đầu tư và công cụ đầu tư, như tham gia đầu tư bằng nhiều hình thức và vào nhiều đối tượng đầu tư sẽ góp phần làm giảm bớt rủi ro. Trên hết là cần phải xem xét mức độ rủi ro khi dầu tư, nên , không nên , khuyến kích , hạn chế trong lĩnh vực nào.
- Chính sách đầu tư linh hoạt sẽ tạo điều kiện thuận lợi trong phân bổ quỹ đầu tư trong từng thời kỳ và cho phép đảm bảo được mức thu nhập tương đối , cũng như mức rủi ro chấp nhận đối với danh mục từng thời kỳ xác định; linh hoạt sẽ cho phép phát huy tính năng động hiệu quả trong đầu tư.
- Trước mắt để phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế đất nước, hoạt động đầu tư chú trọng vầo đối tượng trong lãnh thổ Việt nam. Chương trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, chương trình cổ phần hoá doanh nghiệp và các chương trình phát triển kinh tế xã hội khác của Chính phủ được xem là một trong những trọng tâm tham gia đầu tư của Bảo hiểm xã hội Việt Nam.
- Tỷ suất hay mức sinh lời dự kiến của danh mục đầu tư và mức sinh lời làm cơ sở so sánh phải được tính toán và phân định rõ ràng; có thể chọn tỷ lệ lạm phát là mức tối thiểu để so sánh mức bảo toàn vốn.
Để có một chiến lược phát triển hoạt động đầu tư bảo tồn và tăng trưởng quỹ bảo hiểm xã hội và đưa hoạt động này thực sự đi vào cuộc sống, góp phần tích cực vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, cần phải có sự quan tâm chỉ đạo của Nhà nước, sự giúp đỡ của các cơ quan hữu quan, đặc biệt là sự phối hợp với các tổ chức tài chính tiền tệ của Nhà nước…
4. Tổ chức thực hiện quản lý quỹ bảo hiểm xã hội.
Bảo hiểm xã hội là một tổ chức thống nhất, nhưng quỹ bảo hiểm xã hội phải được quản lý theo cơ chế phân loại quỹ cho đúng tính chất của nó như quỹ tự nguyên và bắt buộc. Làm như vậy là để chúng ta dễ quản lý, dễ hoạch định các biện pháp đầu tư tăng trưởng cũng như xác định mức thu, chi cho hợp lý từng chế độ. Công tác thu phải được hoàn chỉnh từng bước bằng việc theo dõi danh sách tham gia đóng bảo hiểm xã hội, biến động của đối tượng và mức đóng góp. Cần có các biện pháp đóng góp để khai thác nguồn thu, thu đủ và tập trung kịp thời số thu vào quỹ bảo hiểm xã hội, không để đọng ở các địa phương.
Quỹ bảo hiểm xã hội tự nguyện nếu xem xét về mặt tài chính thì đó là cơ chế tự cân đối thu chi. Hiện nay, bảo hiểm xã hội theo cơ chế tự nguyện còn rất khiêm tốn, nhưng về lâu dài cần có cơ chế chính sách phát triển mạnh loại hình này. Nên đa dạng hoá quỹ bảo hiểm xã hội với sự tham gia của nhiều quỹ bảo hiểm xã hội để tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, chống độc quyền nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của bảo hiểm xã hội theo nhu cầu của người lao động trong điều kiện có sự hỗ trợ của Nhà nước về vốn, ưu đãi về thuế và môi trường hoạt động bình đẳng.
Cần tiến hành khẩn trương công tác đăng ký, cấp sổ bảo hiểm xã hội cho mọi đối tượng tham gia. Sổ bảo hiểm xã hội là chứng từ để theo dõi chặt chẽ thu chi quỹ bảo hiểm xã hội và chế độ, mức hưởng của đối tượng tham gia.
Quỹ bảo hiểm xã hội được quản lý thống nhất và hạch toán độc lập như hiện nay ở Bảo hiểm xã hội Việt Nam là rất hợp lý, nhưng cũng cần đảm bảo quán triệt các nguyên tắc để đảm bảo thực thi, đặc biệt là những nguyên tắc quan trọng sau:
- Thu bảo hiểm xã hội phải đủ chi trả cho các đối tượng kể cả chi phí quản lý và các chi phí khác theo mức:
Tổng thu bảo hiểm xã hội+ Sinh lời do đầu tư = tổng chi bảo hiểm xã hội
- Cho phép có biện pháp chắc chắn để tăng trưởng với chính sách ưu tiên của Nhà nước.
- Nhà Nước luôn có sự kiểm soát và hỗ trợ nhưng vẫn tôn trọng hoạt động của quỹ và quyết định của Chính phủ không được tự ý huy động nguồn quỹ.
Để đảm bảo cân bằng thu chi, trước hết phải đảm bảo nguồn thu bằng cơ chế có hiệu quả thật sự đồng thời tính toán việc chi hợp lý dựa trên cơ sở hạch toán và dữ liệu thật cụ thể tỉ mỉ, không thể chung chung đại khái
5. Tăng cường việc kiểm tra, thanh tra, xử phạt những vi phạm về đóng bảo hiểm xã hội của các cơ quan doanh nghiệp.
Tự năm 1995 đến nay Sử lao động Thương binh và xã hội Hà Nội đã tổ chức thanh tra và phối hợp kiểm tra về chuyên đề BHXH ở 90 doanh nghiệp (70 doanh nghiệp nhà nước , 15 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài , 4 công ty cổ phần ,TNHHvà 1 đơn vị hành chính sự nghiệp ) là những DN nợ đọng BHXH kéo dài với số tiền lớn , ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người lao động .
Qua thanh tra phát hiện 32/90 doanh nghiệp còn để một lực lượng lao động đáng kể ngoài danh sách tham gia BHXH bắt buộc (1 Dn của Bộ Thương Mại để 81% lao động ngoìa danh sách thực hiẹn BHXH ), phát hiện 81/90 DN nợ BHXH từ tháng 9 trở lên với số tiền 46,3 tỷ đồng ( trong đó 1 công ty liên doanh có số nợ lớn nhất trên 1tỷ đồng ).
Nguyên nhân là do từ tất cả các phía tham gia : Từ phía người sử dụng lao động thì không muốn đóng BHXH cho người sử lao động họ thường khai giảm số lao đọng so với thực tế hoặc khai giảm tiền lương ,tiền công thực tế .Bên cạnh đó người sử dụng lao động, người lao động lẩn trốn không đóng bảo hiểm xã hội, hoặc có hành vi gian lận trong việc khai tăng về tuổi hưu, khai tăng số năm công tác ... để được hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội. Còn về phía tổ chức bảo hiểm xã hội cũng có một số tiêu cực như chi trả các đối tượng hưởng bảo hiểm xã hội không đúng quy định, thông đồng với người tham gia bảo hiểm xã hội để man trá vi phạm các qui định về quy chế và tổ chức hoạt động của quỹ bảo hiểm xã hội. Do đo cần phải có các biện pháp để xử lí các việc vi phạm trên :
-Nhà nước sớm ban hành Luật BHXH , cơ quan BHXH có đủ thẩm quyền thanh ,kiểm tra và xử phạt về việc đăng kí lao động ,quĩ tièn lương tham gia BHXH của các đơn vị sử dụng lao động đối với người lao động không đúng qui định .
-Chế tài xử phạt các đơn vị sử dụng lao động vi phạm lao động ,BHXH ngoài việc xử phạt 5.000.000 đến 20.000.000 đồng qui định trong pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính thì cơ quan BHXH thông báo cho các cơ quan chức năng phong toả tài khoản ,phát mại tài sản .Trường hợp nghiêm trọng có thể truy tố trước pháp luật .
-Phải có thời gian tham gia đóng BHXH dự bị tối thiểu 9 tháng đối với giải quyết chế độ ốm đau, 12 tháng đối với chế độ tahi sản ( tránh để các chủ sử dụng lao động lạm dụng ).
-Tuổi nghỉ hưu phải có qui định theo chế độ ổn định, hạn chế tối đa giảm tuổi nghỉ hưu như hiện nay.
-Nhà nước không lấy quĩ BHXH để xử lí việc giải quyết biên chế ,sắp xếp việc làm lao động dôi dư .
-Nhà nước phải có quĩ riêng ( từ NSNN) ngoài quĩ BHXH để xử lí những vấn đề có liên quan đến chính sách xã hội như :sinh đẻ có kế hoạch , sắp xếp việc làm , giảm tuổi nghỉ hưởng các chế độ BHXH...
6. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong cơ quan BHXH
Để việc quản lý bảo hiểm xã hội được thực hiện tốt và đạt kết quả cao thì việc đào tạo lại cán bộ nhân viên trong toàn hệ thống, trang bị phương tiện làm việc thích hợp với tính phức tạp về chuyên môn là không thể trì hoãn, chậm trễ. Sự nghiệp bảo hiểm xã hội đòi hỏi có một đội ngũ nhân viên thông thạo nghiệp vụ, nắm vững các quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội và pháp luật có liên quan, cởi mở tiếp xúc với những người được bảo hiểm, có quan hệ chặt trẽ với cơ sở sử dụng lao động, hợp tác tốt với các bộ phận trong cùng cơ quan và các cơ quan khác. Người lãnh đạo cơ quan bảo hiểm xã hội trung ương phải có chương trình kế hoạch đào tạo, huấn luyện và bồi dưỡng về các nguyên tắc quản lý và nghiệp vụ cho đội ngũ nhân viên, quy định nghiêm ngặt chế độ báo cáo thống kê, định kỳ tiếp xúc trực tiếp với các cơ quan bảo hiểm xã hội địa phương, mở các cuộc hội thảo về những vướng mắc trong việc thực hiện mục tiêu, trong tổ chức cơ quan và về nghiệp vụ thu chi tài chính để có quyết định xử lý kịp thời.
7. Xây dựng hệ thống thống kê cho bảo hiểm xã hội.
Để hệ thống bảo hiểm xã hội hoạt động một cách tự chủ có hiệu quả cần thiết phải xây dựng một hệ thống thống kê, hệ thống này có thể tập trung được các số liệu có liên quan đến toàn bộ sự tham gia của các thành viên như: số lượng đơn vị, người lao động tham gia bảo hiểm xã hội tổng quỹ lương phải đóng bảo hiểm xã hội, từ đó tính ra số tiền đóng bảo hiểm xã hội, số người hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng năm và số tiền dùng để chi trả cho những người được hưởng trợ cấp từ các chế độ này.
Ngoài ra từ số liệu thống kê và tài liệu phân tích thống kê chúng ta còn biết được số lượng người tham gia bảo hiểm xã hội theo từng độ tuổi, từng thành phần kinh tế, từng khu vực kinh tế, từ đó có hướng đề xuất phù hợp nhằm mở rộng hoạt động bảo hiểm xã hội trong tương lai.
Song song với việc xây dựng một hệ thống thống kê hoàn chỉnh cần nhanh chóng hoàn thành việc cấp thẻ, sổ bảo hiểm xã hội để theo dõi quá trình thu chi thuận tiện về lâu dài. Trong điều kiện hiện đại, nên thực hiện quản lý đối tượng theo mẫu hồ sơ đã được mã hoá và tiến hành lưu trữ hồ sơ bằng máy vi tính.
Kết luận
Chính sách BHXH là một bộ phận quan trọng của chính sách xã hội của một nước. Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường hiện nay BHXH đang trở thành nhu cầu cấp bách và đòi hỏi khách quan của người lao động. BHXH là phương tiện để bảo vệ che chở người lao động khỏi ảnh hưởng trực tiếp của những hạn chế trong cơ chế kinh tế mới và là một trong những nhân tố có ảnh hưởng lớn đến sự tăng trưởng kinh tế và ổn định chính trị xã hội. Cùng với việc đổi mới chính sách chế độ BHXH, cơ chế quản lý quỹ BHXH cũng được đổi mới căn bản. Nội dung quan trọng nhất của việc đổi mới cơ chế quản lý quỹ BHXH là việc hình thành quỹ BHXH tập trung thống nhất, độc lập với ngân sách Nhà nước. Quỹ được hình thành chủ yếu từ nguồn đóng góp của các bên tham gia BHXH để chi trả cho các chế độ BHXH theo Luật định. Chủ sử dụng lao động và người lao động phải tham gia đóng BHXH thì người lao động mới được hưởng, đóng nhiều hưởng nhiều, đóng ít hưởng ít, không đóng không hưởng. Phần quỹ tạm thời nhàn rỗi được đầu tư tăng trưởng. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện nội dung đổi mới về cơ chế quản lý quỹ BHXH cũng đã bộc lộ ra nhiều vấn đề cần nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện. Để BHXH thực sự trở thành một chính sách xã hội quan trọng góp phần hơn nữa vào công cuộc phát triển kinh tế xã hội bên cạnh những đổi mới chung về chính sách BHXH thì quỹ BHXH cũng phải không ngừng được nghiên cứu để tiếp tục hoàn thiện hơn nữa. Đề tài :“ Một số vấn đề về quản lý quỹ bảo hiểm xã hội Việt nam ” .đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện đổi mới hơn nữa cơ chế quản lý quỹ BHXH.
Trên đây là những kết quả nghiên cứu của đề tài. Hoàn thành được đề tài này ngoài sự nỗ lực của bản thân còn có sự đóng góp , giúp đỡ tích cực của các bạn và sự hướng dẫn tận tình của cô giáo Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn những người đã nhiệt tình giúp đỡ em hoàn thành đề tài này.
Tài liệu tham khảo
1.Giáo trình kinh tế bảo hiểm - trường ĐHKTQD Hà nội
2. Một số vấn đề về chính sách bảo hiểm xã hội ở nước ta hiện nay -1996
3. Tạp chí lao động và xã hội năm 1998, 1999, 2000, 2001
4. Quy hoạch tổng thể bảo hiểm xã hội của bảo hiểm xã hội Việt Nam
5. Đề tài khoa học: Vai trò của Nhà nước trong việc thực hiện các chính sách bảo hiểm xã hội.
6. Chính sách xã hội một số vấn đề lý luận và thực tiễn
7. Hệ thống các văn bản hiện hành về bảo hiểm xã hội XB 1995
8. Đề tài khoa học “Hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính BHXH Việt nam”
9. Tạp chí BHXH các số năm 2000, 2001.
Mục lục
Lời nói đầu 1
Chương I: Lý luận chung về BHXH 2
I. Tổng quan về BHXH 2
1. Khái niệm của BHXH 2
2. Bản chất của BHXH 2
3. Vai trò của BHXH trong KTQD 3
4. Một số nội dung cơ bản của BHXH 5
II. Quỹ BHXH 6
1. Khái niệm và vai trò của quỹ BHXH đối với hệ thống BHXH 6
2. Nguồn hình thành và các mục đích sử dụng của quỹ BHXH 8
3. Phân loại quỹ BHXH 9
4. Quản lý quỹ BHXH 10
Chương II: Thực trạng quỹ BHXH ở Việt Nam 11
I. Quá trình hình thành và phát triển 11
II. Đánh giá thực trạng thu chi BHXH Việt Nam 13
1. Đánh giá thực trạng thu BHXH 13
2. Đánh giá thực trạng chi BHXH 15
3. Đánh giá hiệu quả công tác thu - chi BHXH 19
III. Đánh giá công tác quản lý quỹ BHXH 22
1. Tình hình duy trì và tăng trưởng quỹ BHXH 22
2. Đánh giá hiệu quả quản lý quỹ BHXH Việt Nam 24
IV. Đánh giá hiệu qủa hoạt động của quỹ BHXH Việt Nam 26
1. Các thành tựu đạt được 26
2. Những tồn tại cần khắc phục 27
Chương III: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quỹ BHXH 28
I. Những thuận lợi và tồn tại của việc quản lý quỹ BHXH ở Việt Nam 28
1. Thuận lợi 28
2. Những tồn tại 29
II. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý quỹ BHXH Việt Nam 29
1. Mở rộng đối tượng tham gia BHXH 29
2. Bảo đảm sự hỗ trợ của Nhà nước đối với quỹ BHXH 31
3. Vấn đề đầu tư quỹ BHXH 31
4. Tổ chức thực hiện quản lý quỹ BHXH 33
5. Tăng cường việc kiểm tra, thanh tra, xử phạt những vi phạm về đóng BHXH của các cơ quan doanh nghiệp 34
6. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong cơ quan BHXH 35
7. Xây dựng hệ thống thống kê cho BHXH 36
Kết luận 37
Tài liệu tham khảo 38
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 63181.DOC