Đề tài Một số vấn đề về luật phá sản doanh nghiệp

Tài liệu Đề tài Một số vấn đề về luật phá sản doanh nghiệp: Bài Luận Đề Tài: Một số vấn đề về luật phá sản doanh nghiệp LỜI MỞ ĐẦU Trong nền kinh tế thị trường, do sự tác động của quy luật kinh tế trong đó có quy luật cạnh tranh nên đã làm nảy sinh các mối quan hệ mới mà bản thân kinh tế kế hoạch hoá không hàm chứa được. Đó là hiện tượng phá sản. Tuy nhiên phá sản là một vấn đề từ lý luận đến thực tiễn là một quá trình tìm hiểu và nghiên cứu bởi khi một doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản nó sẽ ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế và đặc biệt là quyền lợi của người lao động ít nhiều sẽ bị xáo trộn như tiền lương, các chế độ, việc làm và các vấn đề tiêu cực phát sinh và các khoản nợ của doanh nghiệp và hợp tác xã. Khi một doanh nghiệp, hợp tác xã bị lâm vào tình trạng phá sản đã làm nảy sinh nhiều mối quan hệ phức tạp cần được giải quyết. Chẳng những quan hệ nợ nần giữa các chủ nợ với doanh nghiệp mắc nợ, quan hệ giữa doanh nghiệp mắc nợ với người lao động do tình trạng mất khả năng thanh toán nợ gây ra. Vì vậy việc giải quyết kịp thời các vấ...

doc23 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1530 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Một số vấn đề về luật phá sản doanh nghiệp, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bài Luận Đề Tài: Một số vấn đề về luật phá sản doanh nghiệp LỜI MỞ ĐẦU Trong nền kinh tế thị trường, do sự tác động của quy luật kinh tế trong đó có quy luật cạnh tranh nên đã làm nảy sinh các mối quan hệ mới mà bản thân kinh tế kế hoạch hoá không hàm chứa được. Đó là hiện tượng phá sản. Tuy nhiên phá sản là một vấn đề từ lý luận đến thực tiễn là một quá trình tìm hiểu và nghiên cứu bởi khi một doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản nó sẽ ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế và đặc biệt là quyền lợi của người lao động ít nhiều sẽ bị xáo trộn như tiền lương, các chế độ, việc làm và các vấn đề tiêu cực phát sinh và các khoản nợ của doanh nghiệp và hợp tác xã. Khi một doanh nghiệp, hợp tác xã bị lâm vào tình trạng phá sản đã làm nảy sinh nhiều mối quan hệ phức tạp cần được giải quyết. Chẳng những quan hệ nợ nần giữa các chủ nợ với doanh nghiệp mắc nợ, quan hệ giữa doanh nghiệp mắc nợ với người lao động do tình trạng mất khả năng thanh toán nợ gây ra. Vì vậy việc giải quyết kịp thời các vấn đề đó có ý nghĩa rất quan trọng nhằm thiết lập một trật tự cần thiết để thúc đẩy sự phát triển kinh tế đồng thời đảm bảo quyền chủ thể của các mối quan hệ hay các bên liên quan. Đối với nước ta việc phá sản vẫn là một vấn đề mới mẻ. Cho nên thực tiễn giải quyết phá sản của nước ta trong thời gian qua còn gặp không ít khó khăn vướng mắc. Chính vì vậy mà việc nắm bắt, hiểu biết đầy đủ về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản của doanh nghiệp là sự cần thiết và cấp bách. Vì những lý do trên tôi quyết định chọn đề tài: “Một số vấn đề về luật phá sản doanh nghiệp” nhằm để tìm hiểu thêm một phần nào đó về luật phá sản của nước ta hiện nay. CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ PHÁ SẢN 1. PHÁ SẢN LÀ GÌ? Thuật ngữ "Phá sản" thường được sử dụng để chỉ những chủ thể bị lâm vào tình trạng hỗn loạn về tài chính và không còn khả năng thanh toán các khoản nợ. Có nhiều mức độ phá sản khác nhau, bao gồm từ tình trạng bị mất khả năng thanh toán tạm thời cho đến những trường hợp chấm dứt sự hoạt động của doanh nghiệp với tư cách một thực thể kinh doanh. 2. CÁC TÁC ĐỘNG CỦA PHÁ SẢN Xét tổng thể, các tác động của phá sản là tiêu cực dưới các mặt sau: 2.1.Về mặt kinh tế: Một doanh nghiệp bị phá sản trong điều kiện ngày nay có thể dẫn đến những tác động tiêu cực. Khi quy mô của doanh nghiệp phá sản càng lớn, tham gia vào quá trình phân công lao động của ngành nghề đó càng sâu và rộng, số lượng bạn hàng ngày càng đông, thì sự phá sản của nó có thể dẫn đến sự phá sản hàng loạt của các doanh nghiệp bạn hàng theo "hiệu ứng domino" - phá sản dây chuyền. 2.2.Về mặt xã hội: Phá sản doanh nghiệp để lại những hậu quả tiêu cực nhất định về mặt xã hội bởi nó làm tăng số lượng người thất nghiệp, làm cho sức ép về việc làm ngày càng lớn và có thể làm nảy sinh các tệ nạn xã hội, thậm chí các tội phạm. 2.3.Về mặt chính trị: Phá sản dây chuyền sẽ dẫn tới sự suy thoái và khủng hoảng nền kinh tế quốc gia, thậm chí khủng hoảng kinh tế khu vực và đây là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến những khủng hoảng sâu sắc về chính trị. Như vậy, xét ở ba mặt trên, phá sản được xem như là một hiện tượng xã hội tiêu cực cần được hạn chế và ngăn chặn đến mức tối đa. Để hạn chế các tác động tiêu cực, phá sản cần phải được coi là sự lựa chọn cuối cùng và duy nhất của chính phủ đối với doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Yêu cầu này cần phải được thể hiện một cách nhất quán trong pháp luật phá sản qua các nội dung như: tiêu chí xác định một doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, vấn đề hồi phục doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, thứ tự ưu tiên thanh toán các khoản nợ khi tuyên bố phá sản… 3. ĐẶC ĐIỂM CỦA PHÁ SẢN Phá sản là thủ tục thanh toán nợ đặc biệt. Thanh toán theo danh sách chủ nợ đến hạn và chưa đến hạn. Thanh toán nợ trên cơ sở giá trị tài sản cò lại của doanh nghiệp. Chấm dứt hoạt động của doanh nghiệp. Chế tài được áp dụng đối với người quản lý, điều hành doanh nghiệp (cấm thành lập, quản lý doanh nghiệp từ 1 – 3 năm) 4. PHÂN LOẠI PHÁ SẢN Thông thường có 3 cách phân loại chủ yếu sau: Phá sản trung thực và phá sản gian trá. Phá sản tự nguyện và phá sản bắt buộc. Phá sản doanh nghiệp và phá sản cá nhân. 4.1. Phá sản trung thực và phá sản gian trá: Phá sản trung thực: nguyên nhân phá sản doanh nghiệp là do năng lực cạnh tranh, quản lý, điều hành yếu kém dẫn đến kinh doanh thua lỗ, mất khả năng thanh toán nợ ngoài mong muốn của chủ doanh nghiệp. Phá sản gian trá: tình trạng mất khả năng thanh toán nợ là giả tạo do chủ doanh nghiệp tạo ra nhằm lợi dụng cơ chế phá sản để chiếm đoạt tài sản của chủ nợ. Ví dụ: Các doanh nghiệp gian lận trong việc ký kết hợp đồng, chuyển giao, tẩu tán tài sản, cố tình báo cáo sai sự thật hoặc đưa ra những thông tin không trung thực để qua đó tạo ra lý do phá sản. Trong trường hợp này pháp luật phá sản của hầu hết các nước trên thế giới đều coi đây là một hành vi cạnh tranh nguy hiểm và quy định hình thức xử lý nghiêm khắc về mặt hình sự. ð Việc phân loại có ý nghĩa khi xác định thái độ đối xử của Pháp luật đối với doanh nghiệp mắc nợ. 4.2. Phá sản tự nguyện và phá sản bắt buộc: Phá sản tự nguyện: do chủ doanh nghiệp mắc nợ tự đề nghị gửi đơn yêu cầu tuyên bố phá sản khi nhận thấy doanh nghiệp của mình hoàn toàn mất khả năng thanh toán, không có khả năng thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho các chủ nợ. Trường hợp này được pháp luật phá sản ở các nước khuyến khích. Phá sản bắt buộc: được thực hiện trên cơ sở yêu cầu của các chủ nợ, người lao động nằm ngoài ý muốn chủ quan của doanh nghiệp. 4.3. Phá sản doanh nghiệp và phá sản cá nhân: Pháp luật phá sản của một số nước như Liên bang Nga, Mỹ, Úc … điều chỉnh phá sản doanh nghiệp và phá sản cá nhân. Luật phá sản của Việt Nam chỉ áp dụng cho doanh nghiệp, hợp tác xã. Cá nhân lâm vào tình trạng phá sản thì giải quyết theo thủ tục đòi nợ dân sự. CHƯƠNG II: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ LUẬT PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP HIỆN NAY 1. THỦ TỤC PHÁ SẢN So với Luật phá sản 1993 luật phá sản 2004 đã có bổ sung nhiều quy định mới về thủ tục phá sản của Doanh nghiệp, Hợp tác xã về thủ tục phá sản. Theo Điều 5 LPS 2004:Thủ tục phá sản Thủ tục phá sản được áp dụng đối với doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản bao gồm: a) Nộp đơn yêu cầu và mở thủ tục phá sản. b) Phục hồi hoạt động kinh doanh. c) Thanh lý tài sản, các khoản nợ. d) Tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản. Như vậy ta có thể hiểu thủ tục phá sản là một thủ tục lớn bao gồm nhiều thủ tục cấu thành (thủ tục nhỏ) và giữa những thủ tục cấu thành đó có mối liên hệ với nhau theo những nguyên tắc khác nhau. Tính thứ tự, nối tiếp nhau không phải là yếu tố bắt buộc giữa các thủ tục cấu thành. Đây là bước phát triển về lý luận của pháp luật phá sản nước ta. Luật Phá sản doanh nghiệp 1993 tuy cũng có những quy định về phục hồi hoạt động kinh doanh, thanh lý tài sản của doanh nghiệp nhưng Luật chưa thừa nhận những nội dung đó là những thủ tục cấu thành độc lập, chưa nhìn nhận được tính đặc thù về mối quan hệ giữa các thủ tục đó. Trong Luật Phá sản doanh nghiệp 1993, phục hồi hoạt động kinh doanh gần như là một hoạt động bắt buộc trước hoạt động thanh lý. Chỉ sau khi phục hồi không thành công – thực hiện kế hoạch tổ chức lại hoạt động kinh doanh không đem lại kết quả, con nợ vi phạm cam kết hoặc Hội nghị chủ nợ không chấp nhận kế hoạch phục hồi hoặc con nợ không có kế hoạch thì lúc đó Tòa án mới có thể quyết định chuyển sang tuyên bố phá sản với con nợ và thanh lý tài sản của nó. Giải quyết mối quan hệ giữa hai thủ tục phục hồi và thanh lý như vậy là cứng nhắc và máy móc. Thực tế cho thấy trong nhiều trường hợp tại thời điểm thụ lý đơn yêu cầu giải quyết tuyên bố phá sản đã có nhiều con nợ ngừng hoạt động, hoàn toàn không còn khả năng phục hồi nhưng do Luật quy định, thẩm phán vẫn phải tuần tự thực hiện các quy định của thủ tục phục hồi. Điều này chỉ làm kéo dài thời gian vô ích, không có ý nghĩa gì cả. Điểm tiến bộ được khá nổi bật trong Luật phá sản 2004 chính là những quy định về mối quan hệ đặc thù giữa các thủ tục cấu thành trong thủ tục phá sản. Điều này cho phép Tòa án giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản một cách uyển chuyển tùy thuộc vào những tình huống cụ thể. Tòa án có thể quyết định tuyên bố phá sản với con nợ ngay mà không cần thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố phá sản (khoản 1 Điều 87 Luật phá sản 2004: Trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày hết thời hạn nộp tiền tạm ứng phí phá sản do Tòa án ấn định, chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản không còn tiền và tài sản khác để nộp tiền tạm ứng phí phá sản thì Toà án ra quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản). Hoặc sau khi thụ lý (khoản 2 Điều 87:  Sau khi thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản và nhận các tài liệu, giấy tờ do các bên có liên quan gửi đến, Toà án ra quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản, nếu doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản không còn tài sản hoặc còn nhưng không đủ để thanh toán phí phá sản.) hoặc khi đình chỉ thủ tục thanh lý tài sản (Điều 86: Thẩm phán ra quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản đồng thời với việc ra quyết định đình chỉ thủ tục thanh lý tài sản). Thủ tục phục hồi không còn là một thủ tục bắt buộc trước thủ tục thanh lý tài sản trong tiến trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản. Không những thế, khi mà nhiệm vụ của thủ tục này không thể thực hiện được hoặc thực hiện không thành công thì có thể chuyển đổi sang thủ tục thanh lý tài sản ngay (Điều 79, 80). 2. GIẢI QUYẾT VIỆC PHÁ SẢN THEO PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH (THỦ TỤC GIẢI QUYẾT YÊU CẦU TUYÊN BỐ PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP 2.1.Những đối tượng có quyền và nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp: * Đối tượng có quyền: Chủ nợ có bảo đảm một phần: là chủ nợ có khoản nợ được bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc của người thứ ba mà giá trị tài sản bảo đảm ít hơn khoản nợ đó. Chủ nợ không có bảo đảm: là chủ nợ có khoản nợ không bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc người thứ ba. Người lao động: Trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã không trả được lượng, các khoản nợ khác cho người lao động và nhận thấy doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản thì đại diện Công đoàn hoặc đại diện người lao động (nơi chứa có tổ chức Công đoàn) có quyền nộp đơn yêu cầu giải quyết việc tuyên bố phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã. Đối với công ty hợp danh: Theo điều 18 Luật phá sản (khi nhận thấy công ty hợp danh lâm vào tình trạng phá sản thì thành viên hợp danh có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với công ty hợp danh). Điều 18. Quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của thành viên hợp danh 1. Khi nhận thấy công ty hợp danh lâm vào tình trạng phá sản thì thành viên hợp danh có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với công ty hợp danh đó. 2. Đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, các giấy tờ, tài liệu gửi kèm theo đơn yêu cầu được thực hiện theo quy định tại Điều 15 của Luật này. Đối với Doanh nghiệp nhà nước: Theo điều 16 luật phá sản (khi nhận thấy doanh nghiệp nhà nước lâm vào tình trạng phá sản mà doanh nghiệp không thực hiện nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản thì đại diện chủ sở hữu của doanh nghiệp có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp). Điều 16. Quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước 1. Khi nhận thấy doanh nghiệp nhà nước lâm vào tình trạng phá sản mà doanh nghiệp không thực hiện nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản thì đại diện chủ sở hữu của doanh nghiệp có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp đó. 2. Đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, các giấy tờ, tài liệu gửi kèm theo đơn yêu cầu được thực hiện theo quy định tại Điều 15 của Luật này. Đối với công ty Cổ phần: Theo điều 17 Luật phá sản (khi nhận thấy công ty cổ phần lâm vào tình trạng phá sản thì cổ đông hoặc nhóm cổ đông có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản theo quy định của điều lệ công ty). Điều 17. Quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của các cổ đông công ty cổ phần 1. Khi nhận thấy công ty cổ phần lâm vào tình trạng phá sản thì cổ đông hoặc nhóm cổ đông có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản theo quy định của điều lệ công ty; nếu điều lệ công ty không quy định thì việc nộp đơn được thực hiện theo nghị quyết của đại hội cổ đông. Trường hợp điều lệ công ty không quy định mà không tiến hành được đại hội cổ đông thì cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu trên 20% số cổ phần phổ thông trong thời gian liên tục ít nhất 6 tháng có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với công ty cổ phần đó. 2. Đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, các giấy tờ, tài liệu gửi kèm theo đơn yêu cầu được thực hiện theo quy định tại Điều 15 của Luật này, trừ các giấy tờ, tài liệu quy định tại các điểm d, đ và e khoản 4 Điều 15 của Luật này. *Đối với nghĩa vụ: Theo điều 15 Luật phá sản (khi nhận thấy doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản thì chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã có nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã). Điều 15. Nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản: 1. Khi nhận thấy doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản thì chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã có nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã đó. 2. Đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản phải có các nội dung chính sau đây: a) Ngày, tháng, năm làm đơn; b) Tên, địa chỉ của doanh nghiệp, hợp tác xã; c) Căn cứ của việc yêu cầu mở thủ tục phá sản. 3. Đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản phải được gửi cho Toà án có thẩm quyền quy định tại Điều 7 của Luật này. 4. Phải nộp kèm theo đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản các giấy tờ, tài liệu sau đây: a) Báo cáo tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã, trong đó giải trình nguyên nhân và hoàn cảnh liên quan đến tình trạng mất khả năng thanh toán; nếu doanh nghiệp là công ty cổ phần mà pháp luật yêu cầu phải được kiểm toán thì báo cáo tài chính phải được tổ chức kiểm toán độc lập xác nhận; b) Báo cáo về các biện pháp mà doanh nghiệp, hợp tác xã đã thực hiện, nhưng vẫn không khắc phục được tình trạng mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn; c) Bảng kê chi tiết tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã và địa điểm nơi có tài sản nhìn thấy được; d) Danh sách các chủ nợ của doanh nghiệp, hợp tác xã trong đó ghi rõ tên, địa chỉ của các chủ nợ; ngân hàng mà chủ nợ có tài khoản; các khoản nợ đến hạn có bảo đảm và không có bảo đảm; các khoản nợ chưa đến hạn có bảo đảm và không có bảo đảm; đ) Danh sách những người mắc nợ của doanh nghiệp, hợp tác xã trong đó ghi rõ tên, địa chỉ của họ; ngân hàng mà họ có tài khoản; các khoản nợ đến hạn có bảo đảm và không có bảo đảm; các khoản nợ chưa đến hạn có bảo đảm và không có bảo đảm; e) Danh sách ghi rõ tên, địa chỉ của các thành viên, nếu doanh nghiệp mắc nợ là một công ty có các thành viên liên đới chịu trách nhiệm về những khoản nợ của doanh nghiệp; g) Những tài liệu khác mà Toà án yêu cầu doanh nghiệp, hợp tác xã phải cung cấp theo quy định của pháp luật. 5. Trong thời hạn ba tháng, kể từ khi nhận thấy doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản, nếu chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã không nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản thì phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật. 2.2. Cơ quan có thẩm quyền giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp và thủ tục tuyên bố phá sản: * Thẩm quyền của tòa án Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nhận đơn và giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp được thành lập và hoạt động theo Luật doanh nghiệp; Hợp tác xã theo Luật hợp tác xã đã đăng ký kinh doanh tại cơ quan đăng ký kinh doanh thành phố. Toà án nhân dân huyện, quận có thẩm quyền nhận đơn và giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với hợp tác xã đã đăng ký kinh doanh tại cơ quan đăng ký kinh doanh cấp huyện, quận đó. * Những người có quyền nộp đơn Chủ nợ - Người lao động trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã không trả được lương, các khoản nợ khác cho người lao động. - Chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước - Các cổ đông công ty cổ phần - Thành viên hợp danh công ty hợp danh. Những người có nghĩa vụ nộp đơn: - Doanh nghiệp, Hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản. ▪ Hồ sơ cần thiết: 1) Người nộp đơn là chủ nợ Đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản phải có các nội dung chính sau đây: a) Ngày, tháng, năm làm đơn; b) Tên, địa chỉ của ngời làm đơn; c) Tên, địa chỉ của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản; d) Các khoản nợ không có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần đến hạn mà không đợc doanh nghiệp, hợp tác xã thanh toán; đ) Quá trình đòi nợ; e) Căn cứ của việc yêu cầu mở thủ tục phá sản. 2)Người nộp đơn là người lao động 1. Đại diện cho người lao động được cử hợp pháp sau khi được quá nửa số người lao động trong doanh nghiệp, hợp tác xã tán thành bằng cách bỏ phiếu kín hoặc lấy chữ ký; đối với doanh nghiệp, hợp tác xã quy mô lớn, có nhiều đơn vị trực thuộc thì đại diện cho người lao động được cử hợp pháp phải đựơc quá nửa số người được cử làm đại diện từ các đơn vị trực thuộc tán thành. 2. Đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản phải có các nội dung chính sau đây: a) Ngày, tháng, năm làm đơn; b) Tên, địa chỉ của ngừơi làm đơn; c) Tên, địa chỉ của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản; d) Số tháng nợ tiền lương, tổng số tiền lương và các khoản nợ khác mà doanh nghiệp, hợp tác xã không trả được cho người lao động đ) Căn cứ của việc yêu cầu mở thủ tục phá sản. 3) Người nộp đơn là doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản 1. Khi nhận thấy doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản thì chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã có nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã đó. 2. Đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản phải có các nội dung chính sau đây: a) Ngày, tháng, năm làm đơn; b) Tên, địa chỉ của doanh nghiệp, hợp tác xã; c) Căn cứ của việc yêu cầu mở thủ tục phá sản. 3. Đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản phải được gửi cho Toà án có thẩm quyền quy định tại Điều 7 của Luật phá sản. 4. Phải nộp kèm theo đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản các giấy tờ, tài liệu sau đây: a) Báo cáo tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã, trong đó giải trình nguyên nhân và hoàn cảnh liên quan đến tình trạng mất khả năng thanh toán; nếu doanh nghiệp là công ty cổ phần mà pháp luật yêu cầu phải được kiểm toán thì báo cáo tài chính phải đựơc tổ chức kiểm toán độc lập xác nhận. b) Báo cáo về các biện pháp mà doanh nghiệp, hợp tác xã đã thực hiện, nhưng vẫn không khắc phục được tình trạng mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn; c) Bảng kê chi tiết tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã và địa điểm nơi có tài sản nhìn thấy được (mẫu 1). d) Danh sách các chủ nợ của doanh nghiệp, hợp tác xã trong đó ghi rõ tên, địa chỉ của các chủ nợ; ngân hàng mà chủ nợ có tài khoản; các khoản nợ đến hạn có bảo đảm và không có bảo đảm; các khoản nợ chưa đến hạn có bảo đảm và không có bảo đảm (mẫu 2). đ) Danh sách những ngươì mắc nợ của doanh nghiệp, hợp tác xã trong đó ghi rõ tên, địa chỉ của họ; ngân hàng mà họ có tài khoản; các khoản nợ đến hạn có bảo đảm và không có bảo đảm; các khoản nợ chưa đến hạn có bảo đảm và không có bảo đảm (mẫu 3). e) Danh sách ghi rõ tên, địa chỉ của các thành viên, nếu doanh nghiệp mắc nợ là một công ty có các thành viên liên đới chịu trách nhiệm về những khoản nợ của doanh nghiệp; g) Những tài liệu khác mà Toà án yêu cầu doanh nghiệp, hợp tác xã phải cung cấp theo quy định của pháp luật. 4) Người nộp đơn là chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước 1. Khi nhận thấy doanh nghiệp nhà nước lâm vào tình trạng phá sản mà doanh nghiệp không thực hiện nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản thì đại diện chủ sở hữu của doanh nghiệp có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp đó. 2. Đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, các giấy tờ, tài liệu gửi kèm theo đơn yêu cầu được thực. 5) Người nộp đơn là các cổ đông công ty cổ phần 1. Khi nhận thấy công ty cổ phần lâm vào tình trạng phá sản thì cổ đông hoặc nhóm cổ đông có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản theo quy định của điều lệ công ty; nếu điều lệ công ty không quy định thì việc nộp đơn được thực hiện theo nghị quyết của đại hội cổ đông. Trường hợp điều lệ công ty không quy định mà không tiến hành được đại hội cổ đông thì cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu trên 20% số cổ phần phổ thông trong thời gian liên tục ít nhất 6 tháng có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với công ty cổ phần đó. 2.Đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, các giấy tờ, tài liệu gửi kèm theo đơn yêu cầu được thực hiện như mục III, trừ các giấy tờ, tài liệu điểm d, đ và e . 6) Người nộp đơn là thành viên công ty hợp danh 1. Khi nhận thấy công ty hợp danh lâm vào tình trạng phá sản thì thành viên hợp danh có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với công ty hợp danh đó. 2. Đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, các giấy tờ, tài liệu gửi kèm theo đơn yêu cầu được thực hiện: ▪ Thời gian giải quyết: - Ra quyết định mở hoặc không mở thủ tục phá sản: 30 ngày kể từ ngày toà án thụ lý hồ sơ. - Niêm yết danh sách chủ nợ, người mắc nợ: 60 ngày kể từ ngày toà án ra quyết định mở thủ tục phá sản. - Khiếu nại và giải quyết khiếu nại danh sách chủ nợ: 15 ngày kể từ ngày niêm yết. - Hội nghị chủ nợ: 15 ngày kể từ ngày khoá sổ danh sách chủ nợ. ▪ Địa điểm tiếp nhận: - Tổ thụ lý, Văn phòng TAND ĐỊA PHƯƠNG 2.3.Hội nghị chủ nợ: Hội nghị chủ nợ là cơ quan quyền lực cao nhất của các chủ nợ do Tòa án triệu tập và chủ trì. Hội nghị này được lập ra nhằm giúp cho các chủ nợ và doanh nghiệp có cơ hội đàm phán với nhau để đi đến vấn đề thanh toán ổn thỏa: có 2 trường hợp - Phục hồi: nếu hội nghị chủ nợ lần thứ nhất thông qua nghị quyết đồng ý với giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh , kế hoạch thanh toán nợ cho các chủ nợ thì  doanh nghiệp sẽ được  hoạt động trong tối đa 3 năm có sự giám sát của chủ nợ. Thẩm phán sẽ ra quyết định  công nhận nghị quyết của hội nghị chủ nợ.Nghị quyết này có hiệu lực đối với tất cả các bên có liên quan. Sau 3 năm , nếu doanh nghiệp hoàn tất nợ đúng hạn thì doanh nghiệp đó tiếp tục hoạt động. - Thanh lý tài sản của doanh nghiệp: nếu nghị quyết của hội nghị chủ nợ không đồng ý cho doanh nghiệp cơ hội phục hồi hoặc hội nghị chủ nợ không thành thì Tòa sẽ quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản. Thứ tự thanh lý tài sản  như sau: + Các khoản phí , lệ phí , chi phí phá sản + Các khoản lương , trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật và hợp đồng + Các khoản nợ không có bảo đảm trả cho các chủ nợ trong danh sách chủ nợ + Phần còn lại là của chủ doanh nghiệp( thông thường là không còn). 2.4.Hoà giải và giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp Hòa giải là phương thức giải quyết tranh chấp với sự tham gia của bên thứ ba làm trung gian để hỗ trợ, thuyết phục các bên tranh chấp tìm kiếm các giải pháp nhằm loại trừ tranh chấp đã phát sinh. Việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản liên quan đến nhiều vấn đề của doanh nghiệp, từ giải quyết quan hệ vay - nợ giữa chủ nợ và doanh nghiệp, đến quan hệ lao động, đất đai, hợp đồng... và các tranh chấp khác liên quan đến con nợ. Song phá sản chưa được coi là một vụ án, và chưa được tiến hành như một thủ tục tố tụng đặc biệt. Mối quan hệ giữa Luật Phá sản doanh nghiệp với các luật liên quan như Luật Doanh nghiệp, Luật Thương mại, luật về thi hành án, Bộ luật Lao động, Luật Đất đai... chưa được làm rõ. Thậm chí giữa các luật còn có điểm thiếu thống nhất. Thí dụ: Luật Thương mại quy định thương nhân (bao gồm pháp nhân, cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác) có quyền tuyên bố phá sản, nhưng Luật Phá sản chỉ quy định việc phá sản doanh nghiệp. Hiện tại, pháp luật quy định tòa án chỉ thụ lý giải quyết phá sản khi doanh nghiệp bị mất khả năng thanh toán nợ đến hạn do 2 nguyên nhân: thua lỗ, hoặc rơi vào trường hợp bất khả kháng. Luật hiện hành quy định chỉ áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời sau khi tòa đã mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản. Nhưng việc tẩu tán tài sản có thể diễn ra ngay sau khi con nợ hoặc chủ nợ nộp đơn khởi kiện. 2.5.Tuyên bố phá sản doanh nghiệp và phân chia giá trị tài sản của doanh nghiệp Tài sản phá sản là tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản được xác định từ thời điểm tòa án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Tuy nhiên để bảo vệ quyền lợi của các chủ nợ trước những hành vi bất hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã đã thực hiện, thời điểm xác định tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xa lâm vào tình trạng phá sản có thể được đẩy lên ở thời điểm 3 tháng trước ngày tòa án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. 2.6.Thi hành quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp * Quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản: 1) Thẩm phán ra quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản đồng thời với việc ra quyết định đình chỉ thủ tục thanh lý tài sản. Đây là thủ tục phá sản bình thường. 2) Trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày hết thời hạn nộp tiền tạm ứng phí phá sản do Tòa án ấn định, chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản không còn tiền và tài sản khác để nộp tiền tạm ứng phí phá sản thì Toà án ra quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản. Đây là thủ tục phá sản đặc biệt. 3) Sau khi thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản và nhận các tài liệu, giấy tờ do các bên có liên quan gửi đến, Toà án ra quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản, nếu doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản không còn tài sản hoặc còn nhưng không đủ để thanh toán phí phá sản. Đây là thủ tục phá sản đặc biệt. Ở trường hợp 2 và 3 là dành cho những doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản đã hoàn toàn không còn tài sản hoặc còn tài sản nhưng không đủ nộp tiền tạm ứng phí phá sản hay không đủ để thanh toán phí phá sản. Những trường hợp này tòa án áp dụng thủ tục rút gọn để tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản nhằm chấm dứt sự tồn tại nhằm chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp, hợp tác xã về phương diện pháp lý cũng như kết thúc việc nợ nần trong vụ việc phá sản. CHƯƠNG III: MỘT SỐ ĐIỀU LUẬT 2004 CẦN SỬA ĐỔI Để Luật phá sản thực sự đi vào cuộc sống cần khắc phục những vấn đề  sau: 1. KHÁI NIỆM PHÁ SẢN VẪN CHƯA TRIỆT ĐỂ Điều 3 Luật phá sản 2004 không quy định rõ số nợ và thời gian quá hạn không thực hiện nghĩa vụ thanh toán của con nợ. Điều này có thể dẫn đến sự lạm dụng quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản từ phía các chủ nợ. Kinh nghiệm một số nước khi xây dựng khái niệm phá sản thường có quy định về số nợ cụ thể, về thời hạn trễ thanh toán nợ từ phía con nợ sau khi chủ nợ có yêu cầu đòi nợ. ð Luật nên quy định rõ số nợ và thời gian quá hạn không thực hiện nghĩa vụ thanh toán của con nợ. 2. VỀ CÁC LOẠI CHỦ NỢ Về nguyên tắc, Luật phá sản 2004 đã thể hiện tinh thần bảo vệ lợi ích của chủ nợ có đảm bảo triệt để hơn so với chủ nợ không có đảm bảo. Tuy nhiên một số quy định của Luật phá sản 2004 lại không phù hợp với tinh thần chủ đạo đó. Cụ thể, ngay từ khi có quyết định thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản thì quyền được thanh toán nợ đến hạn của chủ nợ có đảm bảo đã bị hạn chế, bị tạm đình chỉ cho đến khi có quyết định thanh lý tài sản (điều 27, điều 35), trừ khi trường hợp được tòa án cho phép. Trong khi đó các chủ nợ không có đảm bảo vẫn có thể được thanh toán các khoản nợ đến hạn của mình sau khi có quyết định thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Việc thanh toán các khoản nợ không có đảm bảo chỉ bị cấm sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản (điều 31). Chủ nợ có khả năng bù trừ nghĩa vụ với DN lâm vào tình trạng phá sản cũng có lợi thế hơn chủ nợ có bảo đảm. Theo điều 48 chủ nợ này có quyền thỏa thuận với DN lâm vào tình trạng phá sản để thực hiện việc bù trừ và không có bất kỳ sự hạn chế nào của Luật, không chịu sự giám sát của thẩm phán. Rõ ràng điều này là không hợp lý. ð Luật cần nêu rõ và bảo vệ quyền lợi của các loại “chủ nợ”, nhất là chủ nợ có đảm bảo. 3. CHỦ NỢ MỚI Ngoài chủ nợ có bảo đảm, chủ nợ không có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần, còn một loại chủ nợ nữa mà Luật không đề cập đến mặc dù sự hiện diện của loại chủ nợ này trong thủ tục phá sản là hoàn toàn hiện thực và chủ nợ này có quyền đặc trưng của mình. Đó là chủ nợ mới – chủ nợ xuất hiện trên cơ sở các hoạt động kinh doanh của DN sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản. Luật đề cập đến các khoản nợ mới (Điều 31) nhưng Luật lại không nói về chủ nợ mới. Luật thừa nhận sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản mọi hoạt động kinh doanh của DN vẫn tiến hành bình thường nhưng phải chịu giám sát, kiểm tra của Thẩm phán, Tổ quản lý tài sản (Điều 30). Điều này có nghĩa là DN có thể giao kết hợp đồng mới – xuất hiện những chủ nợ mới, các khoản nợ mới. Đây cũng là điểm không chặt chẽ của Luật 2004. Trong khi đó DN có quyết định mở thủ tục phá sản vẫn tồn tại, vẫn hoạt động kinh doanh, vẫn phải ký kết các giao dịch mới, có các chủ nợ mới và chỉ chấm dứt hoạt động kinh doanh khi có quyết định thanh lý tài sản (Điều 82). ð Luật cần nêu rõ khái niệm, vai trò và quyền lợi hợp pháp của những chủ nợ mới, nhằm bảo vệ quyền lợi của chủ nợ mới và góp phần gầy dựng lại sự nghiệp cho các DN lâm vào tình trạng phá sản. 4. TÍNH KHẢ THI KHÔNG CAO, RƯỜM RÀ THỦ TỤC Chỉ riêng việc báo cáo cho tòa đã phải làm tới 6 loại khác nhau. Ngoài ra, còn phải tốn tiền (tạm ứng chi phí phá sản), mất thời gian. Nếu làm trôi chảy đúng như quy định thì chỉ riêng giai đoạn từ lúc mở thủ tục phá sản đến khi mở thủ tục thanh lý tài sản đã mất ít nhất là 6 tháng trời. Nhưng từ khi có Luật Phá sản đến nay chưa có vụ nào “trơn tru” như vậy cả mà ít nhất cũng là hơn 1 năm trời. Điều đáng nói nữa là theo quy định chỉ có doanh nghiệp ngoài quốc doanh mới bị ràng buộc về nghĩa vụ yêu cầu mở thủ tục phá sản, còn đối với doanh nghiệp Nhà nước thì nghĩa vụ ấy lại được ưu tiên xem là quyền lợi. Quy định như vậy rõ ràng trong bối cảnh hiện nay càng hợp pháp hóa cho nhiều doanh nghiệp trốn tránh việc phá sản. ð Luật nên đi vào thực tế hơn, hiệu quả hơn (nâng cao giá trị thu hồi nợ của các chủ nợ, giảm bớt chi phí và rút ngắn thời gian xử lý một vụ kiện…). 5. VĂN BẢN HƯỚNG DẪN THỰC HIỆN LUẬT QUÁ CHẬM Các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật Phá sản còn chậm, nội dung hướng dẫn chưa phù hợp với thực tế hoặc quá khái quát, làm cho người nghiên cứu áp dụng pháp luật gặp nhiều khó khăn. KẾT LUẬN Pháp luật về phá sản luôn là một hệ thống mở và vận động để phù hợp với các yêu cầu của mỗi nền kinh tế ở các giai đoạn khác nhau. Tuy nhiên sự hình thành nhanh chóng các công ty đa quốc gia cùng với toàn cầu hoá trong điều kiện hiện nay đòi hỏi các nền kinh tế phải có cách nhìn nhận hiện tượng phá sản một cách thống nhất, và sư hợp tác chặt chẽ giữa các quốc gia để bảo đảm an ninh kinh tế chung trên cơ sở giảm thiểu các bất lợi bắt nguồn từ phá sản. Vì vậy chúng em tìm hiểu về Luật phá sản của doanh nghiệp là cũng để biết thêm về luật kinh doanh của nhà nước, nắm bắt được thêm kiến thức về luật nhà nước Việt Nam nhiều hơn để có thể áp dụng vào thực tế để không sai sót, không làm trái luật pháp đã quy định. Là nhân viên kế toán thì tôi cũng cần phải có nhiều kiến thức về luật pháp đề làm việc tránh sai sót gây ra hậu quả không tốt cho cơ quan của mình. Tài liệu tham khảo: 1. Luật kinh doanh _ Trường Đại học Công nghiệp TP. HCM 2. Luật phá sản năm 2004 3. Tìm hiểu luật phá sản năm 2004 4. Cùng các trang web khác

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docĐề Tài- Một số vấn đề về luật phá sản doanh nghiệp.doc
Tài liệu liên quan