Đề tài Một số vấn đề lý luận chung về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và sự cần thiết phải chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế

Tài liệu Đề tài Một số vấn đề lý luận chung về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và sự cần thiết phải chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế: Chương I Một số vấn đề Lý luận chung về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và sự cần thiết phải chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế I. Một số vấn đề lý luận chung về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế 1. Cơ cấu kinh tế và cơ cấu ngành kinh tế 1.1. Cơ cấu kinh tế Trong các tài liệu kinh tế có nhiều cách tiếp cận khác nhau về khái niệm cơ cấu kinh tế. Các cách tiếp cận này thường bắt đầu từ khái niệm "cơ cấu". Là một phạm trù triết học, khái niệm cơ cấu được sử dụng để biểu thị cấu trúc bên trong, tỷ lệ và mối quan hệ của các bộ phận hợp thành của một hệ thống. Cơ cấu được hiểu như là tập hợp các mối quan hệ liên kết hữu cơ, các yếu tố khác nhau của một hệ thống nhất định. Cơ cấu là thuộc tính của hệ thống, do đó khi nghiên cứu cơ cấu phải đứng trên quan điểm hệ thống. Đứng trên quan điểm duy vật biện chứng và lý thuyết hệ thống có thể hiểu: cơ cấu kinh tế là một tổng thể hợp thành bởi nhiều yếu tố kinh tế của nền kinh tế quốc dân, giữa chúng có những mối liên hệ hữu cơ, những tương tác...

doc95 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1088 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Một số vấn đề lý luận chung về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và sự cần thiết phải chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương I Một số vấn đề Lý luận chung về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và sự cần thiết phải chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế I. Một số vấn đề lý luận chung về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế 1. Cơ cấu kinh tế và cơ cấu ngành kinh tế 1.1. Cơ cấu kinh tế Trong các tài liệu kinh tế có nhiều cách tiếp cận khác nhau về khái niệm cơ cấu kinh tế. Các cách tiếp cận này thường bắt đầu từ khái niệm "cơ cấu". Là một phạm trù triết học, khái niệm cơ cấu được sử dụng để biểu thị cấu trúc bên trong, tỷ lệ và mối quan hệ của các bộ phận hợp thành của một hệ thống. Cơ cấu được hiểu như là tập hợp các mối quan hệ liên kết hữu cơ, các yếu tố khác nhau của một hệ thống nhất định. Cơ cấu là thuộc tính của hệ thống, do đó khi nghiên cứu cơ cấu phải đứng trên quan điểm hệ thống. Đứng trên quan điểm duy vật biện chứng và lý thuyết hệ thống có thể hiểu: cơ cấu kinh tế là một tổng thể hợp thành bởi nhiều yếu tố kinh tế của nền kinh tế quốc dân, giữa chúng có những mối liên hệ hữu cơ, những tương tác qua lại cả về số lượng và chất lượng, trong những không gian và điều kiện kinh tế xã hội cụ thể, chúng vận động hướng vào những mục tiêu nhất định. Cơ cấu kinh tế bao gồm cơ cấu giữa các lĩnh vực sản xuất, trao đổi tiêu dùng; giữa các ngành kinh tế công nghiệp, nông nghiệp, thương mại... Mỗi vùng, mỗi ngành lại có cơ cấu kinh tế riêng của mình tuỳ thuộc vào điều kiện tự nhiên, địa lý, kinh tế xã hội cụ thể. Một cách tiếp cận khác thì cho rằng:cơ cấu kinh tế hiểu một cách đầy đủ là một tổng thể hệ thống kinh tế bao gồm nhiều yếu tố có quan hệ chặt chẽ với nhau trong những không gian và thời gian nhất định, trong những điều kiện kinh tế xã hội nhất định, cả về số lượng và chất lượng phù hợp với các mục tiêu được xác định của nền kinh tế. Trong cơ cấu kinh tế có sự thống nhất biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Theo Mác, cơ cấu kinh tế của xã hội là toàn bộ những quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất vật chất. Vì vậy có thể hiêủ: Cơ cấu kinh tế là tổng thể các quan hệ chủ yếu về chất lượng và số lượng tương đỗi ổn định của các yếu tố kinh tế hoặc các bộ phận của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong những điều kiện kinh tế xã hội nhất định. Từ việc tiếp cận cơ cấu kinh tế theo cách trên, có thể thấy cơ cấu kinh tế có những đặc trưng sau: - Cơ cấu kinh tế mang tính khách quan, luôn luôn phản ánh và chịu sự tác động của các quy luật khách quan. Vai trò của các yếu tố chủ quan là thông qua nhận thức ngày càng sâu sắc những quy luật đó phân tích đánh giá những xu hướng phát triển khác nhau, thậm chí mâu thuẫn nhau để tìm ra phương án thay đổi cơ cấu cho phù hợp với những điều kiện cụ thể của đất nước, cũng như của từng địa phương, từng vùng, từng ngành trong quá trình phát triển kinh tế. Đối với một quốc gia hay một ngành, một địa phương cơ cấu kinh tế được nhận thức và phản ánh dưỡi chiến lược phát triển kinh tế xã hội, ở các chương trình dự án, kế hoạch phát triển của nhà nước, của ngành hay của địa phương. - Cơ cấu kinh tế mang tính lịch sử xã hội, thực tế cho thấy nền kinh tế chỉ phát triển được khi đã xác định được một mối quan hệ cân đối giưã các bộ phận của quá trình tái sản xuất xã hội và phân công lao động xã hội. Cơ cấu kinh tế luôn gắn liền với sự biến đổi không ngừng của bản thân các yếu tố, các bộ phận trong nền kinh tế và mối quan hệ giữa chúng khì nào giải quyết tốt mới diễn ra trôi chảy và đạt hiệu quả cao. - Cơ cấu kinh tế luôn vận động và phát triển ngày càng hợp lý hơn, hoàn thiện và hoàn thiện và đạt hiệu quả hơn. Đó là sự vận động và phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội ngày càng ở trình độ cao hơn, phạm vi ngày mở rộng hơn. Khi tiến bộ khoa học và kỹ thuật công nghệ tác động làm cho lực lượng sản xuất và cấu trúc của nó có sự biến đổi về chất, khi đó sẽ tạo điều kiện cho con người ý thức để thực hiện có hiệu quả chiến lược phát triển đồng bộ, hợp lý trong quá trình tái sản xuất xã hội ở từng giai đoạn lịch sử cụ thể. - Cơ cấu kinh tế vận động theo hướng ngày càng tăng cường mở rộng sự hợp tác, phân công lao động trong nước và quốc tế. Trong nền kinh tế thị trường, sự vận động khách quan của cơ cấu kinh tế theo hướng mở rộng sự hợp tác và phân công lao động diễn ra không chỉ trong phạm vi mỗi ngành, mỗi ngành, mỗi vùng, mỗi quỗc gia mà còn mở rộng ra các nước trong khu vực và trên thế giới. Do đó, mỗi quốc gia muốn phát triển nhành cần xác định được cơ cấu kinh tế trên cơ sở xác định được lợi thế của mình gắn với thị trường trong nước và quốc tế, nhằm tạo ra cơ cấu kinh tế hợp lý, thúc đẩy nhanh quá trình quốc tế hoá nền kinh tế quốc dân. Dựa trên sự nhìn nhận dưới các khía cạnh khác nhau của quá trình phân công lao động xã hội và tái sản xuất xã hội mà chúng ta có thể phân chia cơ cấu kinh tế theo các loại khác nhau. Mỗi loại cơ cấu đều thể hiện tính chất cũng như đặc trưng chủ yếu riêng có của nó, ở đây chúng ta có thể phân loại cơ cấu kinh tế như sau: - Xét trên sự phân công lao động theo ngành kinh tế ta có cơ cấu ngành kinh tế - Xét sự phân công lao động theo vùng kinh tế ta có cơ cấu vùng kinh tế. - Xét về quan hệ sở hữu ta có cơ cấu thành phần kinh tế - Xét về trình độ kỹ thuật ta có cơ cấu kinh tế kỹ thuật - Cơ cấu tái sản xuất ...... Trong đó ba loại cơ cấu: cơ cấu ngành, cơ cấu vùng kinh tế, cơ cấu thành phần kinh tế là những nội dung quan trọng nhất, phản ánh tập trung nhất trình độ phát triển của phân công lao động xã hội. Với phạm vi nghiên cứu của đề tài em xin đi sâu vào cơ cấu kinh tế ngành. 1.2. Cơ cấu ngành kinh tế Colin Clark, nhà kinh tế học người Anh, đã đưa ra phương pháp phân loại nền kinh tê theo ba ngành, ngành thứ nhất sản xuất những sản phẩm dựa trên sự khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên, bao gồm nông nghiệp và công nghiệp khai thác. Ngành thứ hai có chức năng gia công và chế biến sản phẩm có nguồn gốc từ ngành thứ nhất, đó là ngành công nghiệp chế biến. Hai ngành này đều là những ngành sản xuất của cải vật chất hữu hình. Còn ngành thứ ba là ngành sản xuất các sản phẩm vô hình. Cách phân loại của Clark có ảnh hưởng tương đối rộng rãi và đã được sử dụng phổ biến ở nhiều nước. Tuy vậy cũng còn nhiều cách phân loại khác nhau. Để thống nhất cách phân loại ngành. Liên Hợp Quốc đã ban hành "Hướng dẫn phân loại ngành theo tiêu chuẩn quỗc tế đối với hoạt động kinh tế" theo tiêu chuẩn này có thể gộp các ngành phân loaị thành ba khu vực. Khác với cách phân loại của Clark, theo tính chất công việc Liên Hợp Quốc xếp công nghiệp khai thác vào khu vực I- là khu vực công nghiệp. Như vậy, khu vực I là nông nghiệp và khu vực III là dịch vụ. Trong quá trình hoạt động sản xuất, các ngành có mối quan hệ tác động qua lại, thúc đẩy lẫn nhau cùng phát triển. Quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp là mối quan hệ truyền thống, xuyên suốt mọi giai đoạn phát triển xã hội. Nông nghiệp yêu cầu cần có sự tác động của công nghiệp đối với tất cả các yếu tố đầu vào, cũng như tiêu thụ sản phẩm đầu ra. Công nghiệp cung cấp cho nông nghiệp phân bón hoá học, thuốc trừ sâu, các công cụ sản xuất, máy móc thiết bị phục vụ cho việc cơ giới hoá sản xuất. Sản phẩm nông nghiệp qua chế biến sẽ được nâng cao chất lượng và hiệu quả: Làm cho sản phẩm trở nên đa dạng về mẫu mã, phong phú về khẩu vị, vận chuyển và dự trữ được thuận lợi. Ngược lại, nông nghiệp cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, thực phẩm cho công nhân lao động, cho mở rộng hoạt động sản xuất công nghiệp và nó còn là thị trường lớn tiêu thụ sản phẩm công nghiệp. Công nghiệp và nông nghiệp được gọi là các ngành sản xuất vật chất, thực hiện chức năng sản xuất trong quá trình tái sản xuất. Để những sản phẩm của hai ngành này đi vào tiêu dùng cho sản xuất hoặc tiêu dùng cho đời sống phải trải qua phân phối và trao đổi. Những chức năng này do hoạt động dịch vụ đảm nhận. Các hoạt động dịch vụ như thương mại, vận tải, thông tin, ngân hàng, bảo hiểm... đảm bảo cho quá trình tái sản xuất được liên tục. Không có sản phẩm hàng hoá thì không có cơ sở cho các hoạt động dịch vụ tồn tại. Sản xuất hàng hoá càng phát triển, đời sống nhân dân càng nâng cao thì nhu cầu dịch vụ càng lớn. Như vậy, sự tác động qua lại giữa các ngành tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế. Mối quan hệ giữa các ngành không chỉ biểu hiện về mặt định tính mà còn được tính toán thông qua tỉ lệ giữa các ngành, thường được gọi là cơ cấu ngành. Như vậy, cơ cấu ngành là mối quan hệ tỉ lệ giữa các ngành trong toàn bộ nền kinh tế, mối quan hệ này bao gồm cả số lượng và chất lượng, chúng thường xuyên biến động và hướng vào những mục tiêu nhất định. Cơ cấu ngành là bộ phận rất quan trọng trong cơ cấu kinh tế, sự biến động của nó có ý nghiã quyết định đến sự biến động của nền kinh tế. 2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành. 2.1. Khái niệm về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành là sự thay đổi một cách có mục tiêu số lượng ngành kinh tế quốc dân và mối quan hệ của các ngành đó với nhau trên cơ sở phân tích đầy đủ căn cứ lý luận và thực tiễn, cùng với việc áp dụng đồng bộ các giải pháp cần thiết để chuyển dịch cơ cấu ngành từ trạng thái này sang trạng thái kia hợp lý và có hiệu quả hơn. Chuyển dịch cơ cấu ngành được coi là một nội dung cơ bản lâu dài trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nếu xác định phương hướng và các giải pháp chuyển dịch đúng sẽ đảm bảo hiệu quả kinh tế xã hội cao trong sự phát triển, ngược lại sẽ phải trả giá đắt cho sự phát triển về sau. Trong thời đại ngày nay, trước sự thay đổi nhanh chóng của nhu cầu thị trường và tiến bộ khoa học công nghệ, ở tất cả các nước đều đặt ra vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu ngành kinh tế nói riêng. Riêng đối với các nước đang phát triển, chuyển dịch cơ cấu ngành luôn gắn với công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Yêu cầu đặt ra là phải xác định được một cơ cấu ngành kinh tế hợp lý, vùng trọng điểm, mũi nhọn cho phù hợp với mỗi giai đoạn của công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của nền kinh tế thành công hay thất bại đều phụ thuộc vào khâu quyết định chủ trương chuyển dịch và khâu tổ chức thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ đã xác định. ở đây, vai trò của Nhà nước là quyết định là quyết định trong việc hoạch định các chủ trương và chính sách kinh tế vĩ mô, còn các doanh nghiệp lại có vai trò trong việc thực hiện các phương hướng và nhiệm vụ chuyển dịch. 2.2. Các lý thuyết chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Đã có rất nhiều học thuyết của các nhà kinh tế trên thế giới đã đề cập đến vấn đề chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Sau đây, đề tài chỉ xin đề cập tới một số lý thuyết; Học thuyết của C.Max Vấn đề chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế được C.Max đề cập chủ yếu trong nội dung của hai học thuyết đó là học thuyết về phân công lao động xã hội và học thuyết về tái sản xuất xã hội. C.Max cho rằng quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế đạt hiệu quả khi có sưj chín muồi của các tiên đề sau: - Theo Max, trong xã hội hình thành hai cực rõ ràng, khu vực nông thôn và khu vực thành thị. Khu vực nông thôn chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, khu vực thành thị gồm các hoạt động của các ngành công nghiệp, thương mại và các ngành dịch vụ khác. Hai khu vực này có mối quan hệ khăng khít với nhau, trong quá trình sản xuất và giao lưu buôn bán hai khu vực có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, cùng hỗ trợ nhau phát triển. - Số lượng dân cư và mật độ dân cư. Các phương hướng chuyển dịch đưa ra nhằm khắc phục tình trạng di dân từ khu vực nông thôn thành thị ngày càng gia tăng nhưng đảm bảo sự phát triển của nền kinh tế và mối quan hệ phát triển giữa hai khu vực. - Năng suất lao động trong nông nghiệp được nâng cao đủ để cung cấp những sản phẩm thiết yếu cho cả những người lao động trong nông nghiệp cũng như người lao động thuộc các ngành nghề sản xuất khác. Trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển kinh tế, nông nghiệp truyền thống chi phối các hoạt động kinh tế nhưng sự phát triển của nông nghiệp truyền thống này chưa đủ sức mạnh để thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển, trong xã hội chưa có sự chuyển biến lớn. Nhưng đến giai đoạn phát triển tiếp theo của nền kinh tế có sự chuyển dịch từ nền nông nghiệp truyền thống sang nền kinh tế công nghiệp- nông nghiệp- dịch vụ. Sự phát triển của ngành công nghiệp thúc đẩy sự phát triển của ngành nông nghiệp cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Sự phát triển của ngành nông nghiệp và công nghiệp tất yếu dẫn đến sự phát triển của ngành dịch vụ. Do nông nghiệp phát triển cho nên mưc sống của người dân ở khuvực nông thôn luôn được cải thiện theo hướng đi lên. Vì vậy, tình trạng di dân từ nông thôn ra thành thị ngày càng có xu hướng giảm. Sự phát triển của ngành công nghiệp và ngành dịch vụ không ngừng ảnh hưởng tới việc nâng cao năng suất lao động trong nông nghiệp, do vậy sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là động lực thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế quốc dân. Lý thuyết về các giai đoan phát triển của Rostow Rostow cho rằng quá trình phát triển kinh tế của bất cứ quốc gia nào cũng trải qua năm giai đoạn phát triển: - Xã hội truyền thống: Giai đoạn này sản xuất nông nghiệp giữ vai trò chủ yếu, sản xuất bằng công cụ thủ công, kỹ thuật chưa phát triển. Tuy vậy nền kinh tế không bị chững lại mà vẫn có sự tăng trưởng liên tục do áp dụng kỹ thuật vào nông nghiệp, đặc biệt là thuỷ lợi. - Giai đoạn chuẩn bị cất cánh: Công nghiệp bắt đầu được hình thành thời kỳ nông nghiệp- công nghiệp có tác động thúc đẩy nền kinh tế phát triển. - Giai đoạn cất cánh: Công nghiệp ra đời và phát triển, đây là thời kỳ công- nông nghiệp, nó cũng chính là giai đoạn trung tâm của sự phát triển. - Giai đoạn tăng trưởng: Thời kỳ công nghiệp phát triển mạnh, giai đoạn mà tỷ lệ đầu tư trên thu nhập quốc dân cao và xuất hiện nhiều cực tăng trưởng mới. - Giai đoạn mức tiêu dùng cao: Là giai đoạn kinh tế phát triển cao, sản xuất nông nghiệp hàng hoá, thị trường linh hoạt và có hiện tượng giảm nhịp độ tăng trưởng. Như vậy, quan điểm của Rostow cho rằng, nền kinh tế phát triển theo xu hướng chuyển dịch từ thời kỳ nông nghiệp truyền thống sang thời kỳ nông - công nghiệp, thời kỳ công - nông nghiệp và dịch vụ, thời kỳ công nghiệp phát triển mạnh. Lý thuyết nhị nguyên (hai khu vực phát triển) của Athus Lewis. Athus Lewis chia nền kinh tế thành hai khu vực cùng song song và tồn tại, đó là khu vực nông nghiệp và khu vực công nghiệp. Lý thuyết này đề cập đến mối quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp trong việc giải quyết lao động dư thừa ở nông thôn. Giai đoạn đầu của quá trình phát triển kinh tế, nông nghiệp phát triển chi phối các hoạt động kinh tế nhưng sau đó do sự dư thừa lao động cho nên năng suất lao động trong nông nghiệp có chiều hướng giảm. Bên cạnh đó do công nghiệp mới được hình thành cho nên cần nhiều lao động dẫn đến sự di chuyển lao động từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp. Khoa học và kỹ thuật kết hợp với lao động thúc đẩy sự phát triển của công nghiệp, công nghiệp phát triển tạo tiền đề cho nông nghiệp phát triển. Nền kinh tế có sự chuyển dịch từ thời kỳ nông nghiệp thuần tuý sang thời kỳ công - nông nghiệp phát triển. Lý thuyết cân đối liên ngành Theo lý thuyết này, tất cả các ngành kinh tế có liên quan chặt chẽ đến nhau trong chu trình "đầu ra của ngành này là đầu vào của ngành kia". Do vậy, muốn phát triển nền kinh tế phải phát triển cân đối các ngành. Lý thuyết cơ cấu ngành không cân đối hay "cực tăng trưởng" Lý thuyết này cho rằng nên duy trì một cơ cấu không cân đối vì nó phát huy được các nguồn lực, khai thác được các ngành có khả năng làm đầu tàu cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế và có sức lan toả rộng khắp cho các ngành khác. Mặt khác, nó khắc phục được tình trạng khan hiếm nguồn lực khi chỉ phải tập trung nguồn lực cho một số ngành nhất định. 2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế chịu tác động thường xuyên của nhiều yếu tố khác nhau. Những yếu tố này được phân chia thành ba nhóm yếu tố cơ bản: Nhóm các yếu tố tự nhiên, nhóm các yếu tố xã hội, nhóm các yêú tố chính trị. Việc nghiên cứu tác động của các nhóm yếu tố này đến quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế nhằm xác định đúng hướng chuyển dịch thích hợp cho các ngành kinh tế trong quá trình tăng trưởng và phát triển. * Nhóm các yếu tố tự nhiên Bao gồm vị trí địa lý, khí hậu, đất đai, dân số và tài nguyên. Nhóm yếu tố này quyết định lợi thế nguồn lực tự nhiên của từng địa phương, chúng có mối quan hệ đan xen vào nhau, ảnh hưởng trực tiếp thường xuyên đến quá trình phát triển kinh tế của địa phương. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trước hết phải làm rõ các yếu tố này để từ đó nhìn nhận được các vấn đề thuận lợi cũng như khó khăn trong suốt quá trình chuyển dịch. - Vị trí địa lý: Tác động trực tiếp tới quá trình phát triển của tỉnh. Nếu một tỉnh là đầu mối giao lưu kinh tế của vùng, đất nước như đầu mối giao thông, cảng biển chính, cửa khẩu quan trọng...sẽ có điều kiện phát triển hơn các tỉnh khác không có được những lợi thế đó. Bởi vì, vị trí địa lý tạo khả năng giao lưu mạnh giữa các tỉnh nằm trong cùng một vùng với nhau, sự giao lưu này thể hiện ở chỗ trao đổi hàng hoá, sản phẩm sản xuất, các nguồn lực như lao động, vốn tài nguyên, khoa học kỹ thuật, trình độ quản lý...giữa các tỉnh với nhau, các vùng với nhau. - Tài nguyên thiên nhiên: Bao gồm khí hậu, tài nguyên đất đai, khoáng sản, tài nguyên biển, tài nguyên rừng. Tài nguyên thiên nhiên đóng vai trò là nguồn nguyên liệu cho sản xuất công nghiệp, là yếu tố quan trọng tác động tới nông nghiệp.Ví dụ như khí hậu và đất đai là hai yếu tố quan trọng nhất tác động đến sản xuất nông nghiệp. Tái nguyên khoáng sản, tài nguyên rừng, tài nguyên biển là những yếu tố quan trọng tạo nên sự phát triển mạnh các ngành công nghiệp sử dụng tài nguyên đó như: công nghiệp chế biến lâm, thuỷ hải sản, công nghiệp luyện thép... * Nhóm các yếu tố xã hội Đây là nhóm các yếu tố làm nên thị trường, thể hiện tầm quan trọng của các nhu cầu xã hội, ảnh hưởng trực tiếp đến xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. - Nhân tố thị trường: Là nhân tố quan trọng tạo sự phát triển của các ngành kinh tế, nhân tố này thể hiện ở nhu cầu và tính cạnh tranh của thị trường, hai yếu tố này luôn luôn thay đổi theo thời gian. Chính nhu cầu, cơ cấu nhu cầu và xu thế vận động của nó cũng như tính cạnh tranh của thị trường đặt ra những mục tiêu phát triển của các ngành kinh tế, là cơ sở đảm bảo tính thực thi và hiệu quả của các phương án hình thành cơ cấu ngành kinh tế. - Nhân tố khoa học- công nghệ: Tác động mạnh tới quá trình hình thành và phát triển của cơ cấu ngảnh kinh tế. Chính sự phát triển của khoa học công nghệ đã hình thành nên các ngành nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ, không chỉ dừng lại ở đó,khoa học công nghệ là điều kiện thúc đẩy sự phát triển các ngành kinh tế theo chiều sâu, các hình thức đa dạng hoá và chuyên môn hoá trong sản xuất. - Nhân tố sức lao động: Là một trong những nhân tô tác động tới quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế nói riêng và cơ cấu kinh tế nói chung. Hiện nay, do đặc điểm của các nước cũng như của Thanh Hoá là: dân số trẻ, đông, nguồn lao động dồi dào và sản xuất chủ yếu là nông nghiệp mang tính thời vụ, Do đó, giai đoạn đầu của quá trình phát triển kinh tế Việt Nam nói chung và Thanh Hoá nói riêng phải tranh thủ lợi thế về lao động, giá nhân công rẻ để phát triển các ngành có khả năng thu hút nhiều lao động như: ngành dệt may, da giầy... tạo tiền đề cho sự phát triển trong thời kỳ tới. - Cơ sở hạ tầng: đây là nhân tố thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế nếu như có được một cơ sở hạ tầng vững chắc, thuận tiện, có khả năng thu hút được vốn đầu tư tư bên ngoài. Nhưng sẽ là ngược lại, nó sẽ kìm hãm sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế nếu như tỉnh không có được một cơ sở hạ tầng như vậy. * Nhóm các yếu tố chính trị Các yếu tố này chủ yếu như định hướng mục tiêu phát triển của đất nước, các chính sách quản lý kinh tế- xã hội của đất nước, các chính sách, giải pháp thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tê của tỉnh. Các nhân tố này ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh. Các định hướng mục tiêu phát triển cũng như các chính sách quản lý vĩ mô nền kinh tế quốc dân của Nhà nước có vai trò quan trọng đến việc hình thành cơ cấu ngành kinh tế. Nếu như các mục tiêu phát triển và các chính sách quản lý đề cao vai trò của thị trường trong quá trình phát triển kinh tế thì sự hình thành cơ cấu kinh tế như mong muốn sẽ quá chậm, nhất là các ngành, các tổ chức kinh tế hoạt động trong lĩnh vực cung cấp hàng hoá công cộng. Ngược lại, nếu định hướng mục tiêu, chính sách quản lý vĩ mô không sát với thực tế khách quan, hoặc sự điều tiết của Nhà nước quá sâu vào các hoạt động kinh tế sẽ dẫn tới việc hình thành cơ cấu ngành kinh tế kém hiệu quả, kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế. Các chính sách và giải pháp thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của tỉnh cũng ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh. Mỗi tỉnh cần phải xây dựng cho riêng mình những chính sách giải pháp phù hợp nhất, tạo điều kiện cho quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế đạt được mục tiêu đề ra của tỉnh cũng như góp phần đạt được mục tiêu phát triển của tổng thể nền kinh tế quốc dân. Như vậy cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh một mặt phải căn cứ vào định hướng mục tiêu phát triển và chính sách quản lý vĩ mô của Nhà nước, mặt khác phải tuỷ thuộc vào điều kiện cụ thể của tỉnh, các chính sách, giải pháp phát triển kinh tế của tỉnh mà chuyển dịch theo xu hướng phù hợp với mục tiêu chung cuả đất nước. 2.4. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế * Nguyên tắc chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là một quá trình kế thừa lịch sử và hướng tới sự phát triển tối ưu trong tương lai. Để đạt được mục tiêu đó quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế phải tuân thủ theo các nguyên tắc: - Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế phải bảo đảm phù hợp với mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nướ. - Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế phải đảm bảo phù hợp với mục tiêu phát triển của mô hình đã lựa chọn. Mô hình kinh tế của chúng ta là mô hình kinh tế thị trường xã hội văn minh. Mô hình này chỉ đạt tới khi nền kinh tế tạo ra được thu nhập quốc dân và tích luỹ lớn trên cơ sở sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp có được thu nhập thuần lớn và lợi nhuận cao. Chỉ trên cơ sở đó mới có khả năng tăng trưởng và phát triển kinh tế, mới có khả năng đáp ứng các yêu cầu về xã hội và sự phát triển văn minh con người. - Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế phải đảm bảo nền kinh tế hoạt động với hiệu quả cao nhất. Để giải quyết tốt vấn đề này,điều quan trọng là cần phải giải quyết tôt ba vấn đề cơ bản của nền kinh tế đó là sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào? sản xuất cho ai? - Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế phải đảm bảo phát triển quy mô sản xuất hợp lý và từng bước áp dụng phương pháp công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân. Phát triển sản xuất kinh doanh với quy mô hợp lý sẽ đem lại hiệu quả kinh tế cao. Tính hợp lý của quy mô sản xuất kinh doanh thể hiện ở việc kết hợp chặt chẽ giữa quy mô lớn, quy mô vừa và quy mô nhỏ. Trong đó lấy quy mô vừa và nhỏ làm chính. Lựa chọn quy mô theo hướng đó sẽ cho phép khai thác tối đa khả năng của các thành phần kinh tế trong từng ngành kinh tế nhất định. Nhưng vấn đề cốt yếu là cần phải lựa chọn một cách hợp lý quy mô nào thuộc khu vực nào quản lý, có như vậy sự phát triển của nền kinh tế mới trở nên đồng bộ và nhịp nhàng. - Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế phải đi đôi với việc khai thác và phát huy sức mạnh tổng hợp cuả các thành phần kinh tế trong từng ngành kinh tế nhất định. Kinh tế nhà nước có vai trò gương mẫu trong việc thực hiện các chính sách của Chính phủ, giúp Chính phủ trong quá trình thi hành chức năng quản lý vĩ mô đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Kinh tế nhà nước có nhiệm vụ đảm bảo những nhu cầu của các cân đối lớn nhất của nền kinh tế. Nhu cầu đẩy nhanh tiến bộ về khoa học công nghệ, nhu cầu về xã hội, phục vụ công cộng an ninh, quốc phòng, bảo vệ môi trường sinh thái, nhu cầu phát triển các vùng trọng điểm, ngành mũi nhọn, khu kinh tế đặc biệt, những lĩnh vực, hàng hoá độc quyền. Kinh tế tập thể, tư nhân, tư bản, tư bản nhà nước, kinh tế hộ gia đình bảo đảm các hàng hoá, dịch vụ theo nhu cầu tiêu dùng rộng rãi nhất của nhân dânnhư: ăn, ở, đi lại, vui chơi, giải trí... và những yêu cầu mà nền kinh tế nhà nước không đáp ứng được hay kinh tế nhà nước thực hiện kém hiệu qủa hơn. Kinh tế nhà nước cần có sự hợp tác của các thành phần kinh tế khác để thực hiện nhiệm vụ của mình. - Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế phải đảm bảo khai thác triệt để khả năng và thế mạnh của các vùng kinh tế trong nước. Muốn khai thác triệt để và có hiệu quả khả năng và thế mạnh của từng vùng kinh tế, chúng ta phải bố trí đúng đắn cơ cấu các ngành sản xuất và các ngành thương mại, dịch vụ. Nhà nước cần có chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế cho từng vùng, từng địa phương. - Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế phải đảm bảo mục tiêu ổn định chính trị, xã hội, quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường sinh thái và kinh tế. - Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế phải phù hợp với sự phát triển các khả năng cung ứng của nền kinh tế và các quan hệ hợp tác quốc tế đa phương, đa dạng hướng về xuất khẩu. Nguyên tắc này nhằm làm rõ các yêu cầu cần thiết của nền kinh tế làm cơ sở cho việc xác định tổng cầu của nền kinh tế mà cơ cấu kinh tế mới phải thoã mãn. Nhưng mức độ thoả mãn tổng cầu đến đâu, khả năng chuyển dịch cơ cấu đến đầu lại phụ thuộc vào sự phát triển các khả năng cung ứng của nền kinh tế và sự phát triển các quan hệ hợp tác quốc tế của chúng ta. Như vậy trình độ phát triển và tăng trưởng kinh tế, hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế và quan hệ tỷ lệ giữa các ngành kinh tế, các thành phần kinh tế, các vùng kinh tế là véc tơ tổng hợp của hai véc tơ thành phần: véc tơ tổng cầu của nền kinh tế và véc tơ tổng cung của nền kinh tế. * Hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Cơ cấu ngành kinh tế có thể xét thấy trên nhiều góc độ. Với việc xem xét các yếu tố đầu vào là cơ cấu lao động, cơ câu kỹ thuật. Thông thường cơ cấu đầu ra tính theo giá trị sản xuất được sử dụng để phản ánh cơ cấu ngành. Sự chuyển dịch cơ cấu này mang tính quy luật, đó là khi thu nhập đầu người tăng lên thì tỷ trọng nông nghiệp trong tổng sản phẩm sẽ giảm xuống, còn tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ sẽ tăng lên. Khi đạt đến trình độ nhất định, tỷ trọng của dịch vụ sẽ tăng nhanh hơn tỷ trọng của công nghiệp. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành đã được hai nhà kinh tế học là E. Engel và A. Fisher nghiên cứu khi đề cập đến sự thay đổi về nhu cầu chi tiêu và sự thay đổi cơ cấu lao động. Ngay từ cuối thế kỷ 19, E.Engel đã nhận thấy rằng, khi thu nhập của các gia đình tăng lên thì tỷ lệ chi tiêu cho lương thực, thực phẩm giảm đi nên tất yếu dẫn đến tỷ trọng nông nghiệp trong toàn bộ nền kinh tế sẽ giảm đi khi thu nhập tăng lên. Quy luật E.Engel được nghiên cứu cho sự tiêu dùng lương thực, thực phẩm, nhưng có ý nghĩa quan trọng trong việc định hướng nghiên cứu tiêu dùng cho các loại sản phẩm khác. Các nhà kinh tế gọi lương thực, thực phẩm là sản phẩm thiết yếu, hàng công nghiệp là sản phẩm tiêu dùng lâu bền và việc cung cấp dịch vụ là hàng tiêu dùng cao cấp. Thực tế phát triển của các nước đã chỉ ra xu hướng chung là khi thu nhập tăng lên thì tỷ lệ chi tiêu cho hàng tiêu dùng lâu bền tăng phù hợp với tỗc độ tăng thu nhập, còn chi tiêu cho hàng tiêu dùng cao cấp có tốc độ tăng nhanh hơn. Cùng với quy luật tiêu thụ sản phẩm E.Engel, quy luật tăng năng suất lao động của A.Fisher cũng làm rõ xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế qua việc phân bố lao động. Trong quá trình phát triển, việc tăng cường sử dụng máy móc và các phương thức canh tác mới đã tạo điều kiện nâng cao năng suất lao động. Kết quả là, để đảm bảo lương thực, thực phẩm cho xã hội sẽ không cần đến lực lượng lao động như cũ, có nghĩa là tỷ lệ lao động trong nông nghiệp sẽ giảm. Ngược lại tỷ lệ lao động được thu hút vào công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng do tính co dãn về nhu cầu sản phẩm của hai khu vực và khả năng hạn chế hơn trong việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật để thay thế lao động, đặc biệt là hoạt động dịch vụ. 2.5. Các chỉ tiêu đánh giá sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Chỉ tiêu cơ cấu gía trị sản lượng. Ti= (GDPi/ ∑GDP)*100% Trong đó: Ti: là tỷ trọng giá trị sản lượng nghành i trong toàn ngành kinh tế của tỉnh. GDPi: giá trị sản lượng ngành i ∑GDP: tổng giá trị sản lượng của toàn ngành kinh tế của tỉnh. Chỉ tiêu này được sử dụng để đánh giá sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo sản lượng đầu ra. * Chỉ tiêu cơ cấu lao động. TLĐi = (LDi/∑LD)*100% Trong đó: TLĐi: tỉ trọng lao động của ngành i trong toàn ngành kinh tế của tỉnh. LDi: Số lao động của ngành i ∑LD: tổng số lao động trong toàn ngành kinh tế quốc dân. Chỉ tiêu này dùng để đánh giá sự chuyển dịch cơ cấu theo lao động. * Chỉ tiêu cơ cấu vốn đầu tư. TVi = (Vi/∑Vi)* 100% Trong đó: TVi: tỷ trọng vốn đầu tư vào ngành i. Vi: Vốn đầu tư vào ngành i ∑Vi: tổng vốn đầu tư vào toàn ngành kinh tế tỉnh. Chỉ tiêu này cho biết vốn đầu tư vào mỗi ngành chiếm bao nhiêu % trong tổng số vốn đầu tư ban đầu. Cả 3 chỉ tiêu trên nếu có xu hướng đều tăng đối với ngành i là ngành công nghiệp và dịch vụ thì đó là chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng tích cực. II.Sự cần thiết phải chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh Thanh Hoá. 1. Những đặc điểm, điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của tỉnh Thanh Hoá ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. 1.1. Điều kiện tự nhiên. Tỉnh Thanh Hoá có diện tích tự nhiên 11.168,3 km², chiếm 3,3% tổng diện tích tự nhiên cả nước. Dân số toàn tỉnh 3,54 triệu người, chiếm tỷ lệ 4,54% tổng dân số cả nước, có các dân tộc Kinh, Mường, Thái, Tày, H'Mông, Dao, Thổ. Mật độ dân số 310 người/km². Về tổ chức hành chính, toàn tỉnh có 27 huyện, thị, thành phố bao gồm: 24 huuyện, 1 thành phố cấp 3 là thành phố Thanh Hoá, 2 thị xã Bỉm Sơn và Sầm Sơn. Vị trí địa lý. Thanh Hoá nằm trong khu vực ảnh hưởng của những tác động từ khu vực trọng điểm Bắc Bộ và những tác động từ vùng trọng điểm Trung Bộ và Nam Bộ. Phía Tây của tỉnh giáp phần Đông - Bắc Lào, đây là vùng đất hoang sơ chưa được khai thác. Đặc biệt phía Đông là dải bờ biển dai 102 km có nhiều tiềm năng để phát triển kinh tế biển. Đặc biệt có cảng nước sâu Nghi Sơn cho phép tàu trên 10 vạn tấn vào. Địa hình Địa hình Thanh Hoá tương đối phức tạp, thấp dần từ Đông sang Tây, chia thành 3 khu vực rõ rệt: - Vùng núi, trung du: Gắn liền với hệ núi cao Tây Bắc và hệ núi Trường Sơn phía Nam. Diện tích tự nhiên trên 800.000 ha (chiếm 2/3 của tỉnh).Độ cao trung bình vùng núi từ 600-700 m, độ dốc >25°, vùng trung du là 150-200m, 15- 20° - Vùng đồng bằng: Được bồi tụ bởi hệ thống sông Mã, sông Chu, sông Yên. Có độ cao trung bình từ 5-15m, xen kẽ các đồi núi đá vôi độc lập. Một số nơi có địa hình trũng độ cao 0 -1m. -Vùng ven biển: Chạy dọc theo bờ biển, có nhiều vùng sình lầy. Vùng vát ven biển phía trong các bãi cát có độ cao trung bình từ 3- 6m, ở phía Nam có dạng sống trâu do các dãy đồi kéo dài ra biển. Đặc điểm địa hình Thanh Hoá rất đa dạng và phong phú cho phép phát triển nông, lâm ngư nghiệp toàn diện, dễ dàng chuyền dịch cơ cấu trong nội bộ từng ngành. Tài nguyên khí hậu Thanh Hoá nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới gió mùa, có mùa đông lạnh và một thời kỳ khô nóng gió Tây vào mùa hạ gây bất lợi cho sản xuất và đời sống. Nhiệt độ trung bình năm vào khoảng 23-24°c ở vùng đồng bằng và giảm dần khi lên vùng núi. Lượng mưa phân bố không đều trên các vùng lãnh thổ, trung bình từ 1600- 2000mm, số ngày mưa từ 130- 150 ngày, các tháng có nhiều mưa lũ là từ tháng 8-10, tập trung đến 60-80% lượng mưa cả năm nên dễ dàng gây ra lũ lụt. Đặc điểm khí hậu thời tiết Thanh Hoá: lượng mưa lớn, nhiệt độ cao, ánh sáng dồi dào là điều kiện cho phát triển sản xuất như nông lâm ngư nghiệp. Song cũng cần chú ý các hiện tượng bất lợi như lụt, bão, nắng nóng... Tài nguyên đất Diện tích tự nhiên 1.116.833 ha của Thanh Hoá gồm 10 nhóm đất chính với 28 loại đất khác nhau, các nhóm đất có diện tích tương đối lớn gồm: -Nhóm đất đỏ vàng: diện tích 647.768 ha, chiếm 58% diện tích tự nhiên toàn tỉnh, thích hợp cho phát triển cây công nghiệ dài ngày, cây ăn quả và cây lâm nghiệp. - Nhóm đất phù sa bồi tụ: phân bố chủ yếu ở các huyện vùng đồng bằng. Diện tích 144.729 ha, thích hợp cho trồng lúa, màu, cây công nghiệp ngắn ngày. - Nhóm đất mặn và đất cát: phân bố tập trung ở các vùng ven biển Ngoài ra còn có các loại nhóm đất khác như đất đỏ vàng trên núi, đất bạc màu, đất xói mòn... Hiện taị đã sử dụng vào sản xuất nông nghiệp đạt 22%, diện tích có rừng đạt 30% đất tự nhiên toàn tỉnh. Ngoài ra còn có các loại bãi bồi đã ổn định diện tích, bãi bồi đang lấn biển... Tóm lại, tài nguyên đất của Thanh Hoá đất đa dạng thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp toàn diện, đa dạng hoá sinh học cả nông lâm ngư nghiệp. Tài nguyên rừng Đến nay rừng Thanh Hoắ có 405.715 ha trong đó rừng tự nhiên chiếm 322.003 ha, rừng trồng chiếm 830710 ha. Rừng thanh Hoá chủ yếu là rừng lá rộng, có hệ thực vật phong phú đa dạng về họ loài, như lát, pưmu, luồng nứa, vầu... Động vật rừng có các loài như voi, bò tót, nai, hoẵng... các loài bò sát như trăn, rắn, rùa, tê tê... Nhìn chung rừng giàu và trung bình hiện nay còn phân bố trên các dãy núi cao ở biên giới Việt Lào ở độ cao trên 700-1200m. Các vùng rừng ở độ cao dưới 700m gần trục đường giao thông và khu dân cư thường là rừng nghèo vì bị khai thác quá mức. Đáng chú ý là vùng tre nứa phân bố ở các huyện miền núi thấp là nguồn nguyên liệu giấy, bao bì, các tông...cần được khai thác sử dụng. Trữ lượng rừng còn khá lớn, song điều kiện khai thác ngày càng khó khăn, kết hợp với chủ trương đóng cửa rừng của Nhà nước nên khả năng khai thác trong những năm tới sẽ bị hạn chế, chủ yếu là rừng trồng (khoảng 100.000m³ gỗ tròn/năm). Tài nguyên nước Thanh Hoá có hệ thống sông suối dày đặc với 4 hệ thống sông chính là sông Mã, sông Bạng, sông Yên và sông Hoạt với tổng lượng nước trữ trung bình hàng năm là 19,52 tỷ m³. Riêng hệ thống sông Mã, trữ lượng điện năng lý thuyết đạt tới 12 tỷkw/h. Tuy nhiên hiện nay việc khai thác nguồn nước mặt đang gặp phải nhiều khó khăn do nguồn nước mặt bị hạn chế, đôi khi chính nó còn gây ra tác hại như úng, lụt. Nguồn nước ngầm qua một số thăm dò của các huyện thị xã như thành phố Thanh Hoá, thị xã Bỉm Sơn...cho thấy chất lượng và trữ lượng nước ngầm đảm bảo sử dụng tôt cho sản xuất công nghiệp và sinh hoạt. Đánh giá chung nguồn nước ở Thanh Hoá là dồi dào, bao gồm cả tiềm năng nước mặt và nước ngầm, có thể sử dụng tốt cho phát triển công nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải và sinh hoạt của nhân dân. Tài nguyên biển Thanh Hoá có 102 km bờ biển hình cánh cung, chạy dài tứ Cửa Đáy (tỉnh Ninh Bình) đến Đông Hồi (Tĩnh Gia) và vùng lãnh hải rộng lớn, diện tích 1,7 vạn km². Dọc bờ biển có 7 cửa lạch lớn nhỏ tạo điều kiện cho giao thông thuỷ, tàu thuyền đánh cá ra vào, tụ điểm giao lưu kinh tế, trung tâm nghề cá của tỉnh, ở những cửalạch là những bãi bồi bùn, cát rộng hàng chục ngàn ha để nuôi trồng hải sản, cói, cây chắn sóng.... Đáy biển gần bờ có độ dốc thoải và bằng phẳng, có điều kiện thiên nhiên thuận lợi với các loại đặc sản hải sản quý hiếm. Theo số liệu điều tra và qua thực tế từ năm 1986 đến nay có thể đánh giá về nguồn lợi thuỷ sản như sau: nguồn lợi cá nổi từ 50.000 -60.000 tấn, chủ yếu là cá nục, ngừ, thu, chim... khả năng khai thác hàng năm 20.000-25.000 tấn, nguồn lợi cá đáy có trữ lượng 30.000-40.000 tấn, hàng năm khai thác được từ 15.000- 20.000 tấn, tập trung chủ yếu ở vùng ngoài khơi, tôm 30000 tấn, mực 10.000 tấn... Diện tích nước mặn khoảng 10.000 ha phân bố chủ yếu ở vùng đảo Mê, Biện Sơn có thể nuôi cá song, cá cam, trai ngọc, tôm hùm... Tài nguyên khoáng sản Khoáng sản Thanh Hoá rất đa dạng, có tởi 42 loại, nhiều loại có trữ lượng lớn so với cả nước như đá vôi làm xi măng, đá ốp lát, sét, crôm... Là tỉnh giàu về nguyên liệu sản xuất vật liệu xây dựng và nguyên liệu làm gốm sứ, thuỷ tinh, như đá vôi làm xi măng370 triệu tấn, sét làm xi măng 80 triệu tấn, đá ốp lát 2-3 tỷ m³, cao lanh 1 triệu m³... Khoáng sản kim loại: bao gồm cả kim loại đen và kim loại màu, quý. Kim loại đen có quặng sắt mangan, quặng ti tan trữ lượng khoảng 80 nghìn tấn. Quặng crôm trữ lượng 21,898 triệu tấn và là duy nhất của cả nước. Kim loại màu có các loại như thiếc, đồng, vàng sa khoáng, vàng gốc trữ lượng trên 10 tấn nhưng chưa được khảo sát tìm kiếm đúng mức. Khoáng sản dùng làm nguyên liệu cho phân bón, trợ dung, hoá chất và các nguyên liệu khác như: phốtphorit trữ lượng 1 triệu tấn, chất lượng trung bình. Secpentin, trữ lượng 15 triệu tấn, chất lượng khá tốt. Đôlômit trữ lượng 4,7 triệu tấn. Khoáng sản than: trữ lượng than đá thấp, chỉ phát triển được những mỏ nhỏ, chất lượng thấp, non. Trữ lượng than bùn lớn, có trên 2 triệu tấn phân bố rãi rác trong tỉnh, tương lai là nguyên liệu chính sản xuất phân bón vi sinh. Tài nguyên du lịch. Khá phong phú và đa dạng, có thể đáp ứng nhu cầu cho khách du lịch trên nhiều mặt: thiên nhiên kỳ thú, nhiều danh lam thắng cảnh có từ miền núi đến đồng bằng, ven biển và hải đảo. Đó là những bảo tàng thiên nhiên ít nơi có được như vườn quốc gia Bến En, sân chim Tiến Nông, Sầm Sơn... Về lịch sử, đây là miền đất có nền văn hoá Đông Sơn, có nhiều danh nhân văn hoá đã để lại nhiều dấu ấn và di tích. Có di tích đã được Chính Phủ phê duyệt cho trùng tu tôn tạo ở quy mô cấp quốc gia như khu di tích Lam kinh, Hàm rồng- Nam Ngạn... Sự gắn bó giữa thiên nhiên kỳ thú với các địa danh và di tích lịch sử, các vùng kinh tế và các khu công nghiệp tập trung đang hình thành là động lực thúc đẩy ngành công nghiệp không có khói của Thanh Hoá phát triển. 1.2. Kinh tế xã hội Nguồn nhân lực. Dân số: theo kết quả điều tra dân số cả nước (1/4/99) dân số Thanh Hoá có tới 3,467 triệu người, dân số trung bình năm 2001 là 3,592 triệu người.Trong đó nam chiếm 48,6% nữ chiếm 51,14%, thành thị chiếm 9,27%, nông thôn chiếm 90,13%; miền núi chiếm 28,5% miền xuôi chiếm 71,5%. Phân bố dân cư không đồng đều giữa các vùng, đồng bằng và đô thị mật độ dân số cao. Lao động: năm 200 dân số trong độ tuổi lao đông có 1,948 triệu người, chiếm tỷ lệ 54,6% tổng dân số toàn tỉnh, trình độ văn hoá và chuyên môn kỹ thuật của người lao động thấp. Theo kết quả điều tra lao động việc làm năm 2000 tổng số lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân của tỉnh có 1,503 triện người thì tỷ lệ lao động chưa biết chữ và chưa tốt nghiệp tiểu học là 13,26%, tốt nghiệp tiểu học và trung học cơ sở là 70,11%, tốt nghiệp phổ thông trung học chỉ có 16,63%. Theo kết quả điều tra năm 2000 lực lượng lao động có trình độ chuyên môn của tỉnh mới đạt 19,18% trong đó: - Đại học, cao đẳng và trung họ chuyên nghiệp: 9% - Công nhân kỹ thuật có nghề: 10,18% Nguồn lao động trẻ dồi dào, lao động dưới 30 tuổi chiếm tỷ lệ cao. Là tỉnh có đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật có trình độ khá, tuy nhiên trong cơ chế thị trường tỉnh vẫn thiếu các nhà doanh nghiệp giỏi kể cả trong và ngoài quốc doanh. Hơn nữa chấtlượng lao động không đồng đều giữa các vùng miền trong tỉnh, vì vậy cần có chính sách đào tạo và đào tạo lại nguồn lao động để có thể tiếp cận và thích nghi với cơ chế thị trường, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hoá của tỉnh. Trình độ phát triển kinh tế Cùng với nhịp độ phát triển chung cả nước, từ nam 1990 đến nay Thanh Hoá đã có những thay đổi đáng kể trên các lĩnh vưc phát triển kinh tế. Nhìn nhận chung cho thấy: Giai đoạn 1986-1990 tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm, sản xuất không ổn định, có năm giảm sút. Giai đoạn 1991-1995 có tốc độ tăng trưởng khá, tăng trưởng GDP bình quân năm đạt 7%. Từ năm 1996 đến nay mặc dù gặp không ít khó khăn nhưng tốc độ tăng trưởng bình quân vẫn đạt mức 7,3%. Các ngành dịch vụ tăng nhanh hơn các ngành sản xuất vật chất. Kinh tế quốc doanh tăng chủ yếu ở các doanh nghiệp có quy mô lớn. Quốc doanh địa phương phát triển không vững chắc, nhiều cơ sở sản xuất không ổn định. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh quy mô nhỏ bé, cơ sở vật chất nghèo nàn, sản phẩm làm ra chất lượng thấp kém, không đủ khả năng cạnh tranh trên thị trường truy được khuyến khích nhưng còn chậm. Đây là vấn đề chủ yếu sự tăng trưởng kinh tế cao của Thanh Hoá. Kết cấu hạ tầng Mạng lưới giao thông: Thanh Hoá là tỉnh có hệ thống giao thông tương đối đa dạng, bao gồm: giao thông đường bộ, đường sắt, đường thuỷ. - Đường bộ: toàn tỉnh có 7725 km đường bộ bao gồm đường quốc lộ và đường tỉnh lộ, đường lên liên xã, mật độ đường bộ là 69km/100 km² và2,21 km/1000 dân. Mật độ phân bố không đồng đều, chưa đáp ứng được nhu cầu cho phát triển. - Đường thuỷ: mạng lưới giao thông đường thuỷ rất thuận tiện cho việc vận chuyển giao lưu hàng hoá. Toàn tỉnh có 4 hệ thống sông với chiều dài 1.768km, 6 cửa lạch lớn nhỏ và 102 km đường bờ biển. Hiện tại Thanh Hoá chưa có cảng lớn chỉ có 1 cảng sông 300.000 tấn/năm. Ngoài ra Thanh Hoá còn có 82 km đường sắt và quốc lộ 1A dài 98 km xuyên suốt chiều dài của tỉnh là điều kiện thuận lợi cho giao thông buôn bán. Mạng lưới điện: đã phát triển khá, trên địa bàn có 1 trạm 220kv Ba Chè với công suất 125MVA, 4trạm 110 kv đang vận hành với tổng công suất 160 MVA, 105km đường dây 110kv. Ngoài ra còn có đường dây 550 kv đi qua. Nhìn chung thuận lợi về nguồn điện, điện áp và đường dây. Tuy nhiên mạng lưới điện hạ thế cũ, hư hỏng nhiềutỷ lệ thất thoát lớn, chưa đáp ứng được nhu cầu điện cho sản xuất và đời sống nhân dân trong tỉnh. Thông tin liên lạc: đang từng bước hiện đại hoá phục vụ cho phát triển kinh tế và nâng cao đời sống. Hệ thống bưu chính viễn thông những năm gần đây được đổi mới nhanh chóng, bổ sung nhiều trang thiết bị hiện đại. Do vậy, các dịch vụ thông tin, liên lạc đảm bảo thuận tiện, kịp thời và thông suốt. Nhìn chung kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội trong những năm vừa qua đã được tỉnh quan tâm đầu tư, cải tạo nâng cấp, song vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển và nâng cao đời sống của dân. So với các tỉnh thành trong cả nước thì còn thấp kém, phân bố không đều. Đây là vấn đề cần được quan tâm giải quyết và tập trung đầu tư trong thời gian tới. 1.3. Tiềm năng và hạn chế Những lợi thế so sánh - Thanh Hoá có vị trí địa lý tương đối thuận lợi, là cửa ngõ nối liền Bắc Bộ với Trung Bộ và Nam Bộ, có quốc lộ 1A đi qua.... là điều kiện thuận lợi để phát triển sản xuất, mở rộng giao lưu kinh tế. - Là tỉnh có 4 vùng sinh thái rõ rệt: vùng ven biển, vùng đồng bằng, vùng trung du và miền núi sẽ tạo cơ sở cho sự phong phú, đa dạng về sản phẩm, tạo thế bổ sung lẫn nhau giữa các vùng miền trong tỉnh, phát triển thương mại, dịch vụ ít nhất là trong phạm vi nội tỉnh. - Tài nguyên thiên nhiên phong phú đa dạng. Khả năng mở rộng diện tích sản xuất nông- lâm- ngư nghiệp còn lớn. Giàu nguyên liệu sản xuất vật liệu xây dựng, nguyên liệu giấy, sợi, lương thực, thực phẩm. - Thanh Hoá là 1 tỉnh đông dân, có nguồn lao động dồi dào, trình độ dân trí đã được nâng lên, đội ngũ cán bộ khoa học quản lý đông đảo, có hệ thống giáo dục toàn diện toàn tỉnh từ mần non đến đại học, nếu được phát huy sử dụng tốt sẽ là nguồn động lực cho sự phát triển. - Thanh Hoá là một trong số ít tỉnh trong cả nước đạt sản lượng lương thực trên 1 triệu tấn/năm. Căn bản tự túc lương thực bước đầu có lương thực hàng hoá là điều kiện thuận lợi để tiến hành chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát huy hiệu quả trong kinh tế thị trường. Những khó khăn và thách thức - Tài nguyên thiên nhiên phong phú đa dạng, song mức độ còn thấp. Nền kinh tế của tỉnh còn nặng tính "thuần nông". Trong khi tỷ trọng nông nghiệp trong GDP của cả nước năm 2000 là 24,3% thì Thanh Hoá là 39,9%, dân số nông thôn theo số liệu điều tra dân số ngày 1/4/1999 cả nước chiếm 76,5% còn Thanh Hoá là 90,8%. - Điểm xuất phát kinh tế thấp, thể hiện ở mức bình quân GDPđầu người đến năm 2000 mới đạt 292 USD trong khi bình quân chung của cả nước là 390USD. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá còn chậm, chưa có tích luỹ đáng kể từ nội bộ kinh tế. Tổng thu mới đáp ứng được trên 50% chi, còn lại trung ương hỗ trợ. - Là tỉnh có dân số đông, tốc độ tăng tự nhiên còn cao đang là áp lực lớn trong khi nền kinh tế phát triển chậm. Đội ngũ lao động có tay nghề cao còn quá ít, lao động thiều và không có việc làm ngày càng cao, đời sống nhân dân tuy có bước cải thiện song số hộ nghèo, đói vẫn còn cao trong tỉnh. - Kết cấu hạ tầng xã hội thấp kém, đặc biệt là vùng miền núi phức tạp, chia cắt mạnh, hệ thống điện đường trường trạm còn gặp nhiều khó khăn, đến nay vẫn còn 2 huyện miền núi chưa có điện quốc gia. - Nằm tiếp giáp với vùng trọng điểm Bắc bộ là thách thức lớn đối với Thanh Hoá về khả năng cạnh tranh, gọi vốn đầu tư, tìm kiếm thị trường. Yếu tố thông tin kinh tế còn hạn chế so với các trung tâm kinh tế lớn như Hà Nội, Hải Phòng... 2. Thực trạng cơ cấu kinh tế của tỉnh Thanh Hoá đòi hỏi phải chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Trong những năm qua, Thanh Hoá đã có những giải pháp chính sách phát triển trương đối phù hợp với tình hình kinh tế của tỉnh, tuy nhiên quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế diễn ra còn chậm. Sự chuyển dịch trong nông nghiệp, công nghiệp không đáng kể, dịch vụ có sự phát triển nhưng nói chung chưa phù hợp với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Cơ cấu ngành kinh tế hiện nay của Thanh Hoá vẫn là nông- công nghiệp- dịch vụ. Trong những năm tới Thanh Hoá phải hết sức nỗ lực để thực hiện công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá tỉnh. Ngành công nghiệp là ngành giữ vị trí quan trọng nhưng nó lại chưa thực sự phát triển, có thể nói là kém. Tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp hiện nay mới chỉ chiếm 29,8% trong tổng GDP của toàn tỉnh. Cơ cấu công nghiệp đã hình thành các ngành như: công nghiệp khai thác, công nghiệp chế biến, công nghiệp điện nước... đã có sự phát triển nhưng tốc độ còn rất thấp so với các tỉnh khác và so với tốc độ phát triển của cả nước. Vốn đầu tư cho công nghiệp vẫn còn nhiều bất cập so với nhu cầu phát triển, khả năng quản lý yếu kém và thu hồi vốn đầu tư trong công nghiệp là khó khăn. Ngành nông nghiệp là ngành có vai trò chủ đạo trong kinh tế của Thanh Hoá, tuy tỷ trọng nông nghiệp trong tổng thu nhập quốc dân của tỉnh là lớn, hiện nay nó chiếm 37% trong tổng GDP của tỉnh, nhưng năng suất lao động thấp, xu hướng chuyển đổi giống cây trồng chậm, chưa rộng rãi, cơ cấu nội bộ ngành chưa hợp lý. Trong nông nghiệp ngư nghiệp mặc dù có tiềm năng lớn nhưng chưa được đầu tư phát triển mạnh, sản xuất ngư nghiệp chủ yếu dựa vào khai thác thuỷ sản chiếm 65%, nuôi trồng thuỷ sản chưa phát triển mạnh chỉ chiếm có 23%. Ngành dịch vụ có sự phát triển, chiếm tỷ trọng 33,2% năm 2002 trong tổng sản phẩm quốc dân trong tỉnh. Nhưng chủ yếu vẫn là buôn bán thương mại (trao đổi hàng hoá dịch vụ), các dịch vụ sản xuất thực hiện vai trò thúc đẩy các ngành khác chưa phát triển, các dịch vụ thương mại khác đều chưa phát triển mạnh, du lịch đã hình thành các khu nghỉ dưỡng nhưng chưa thật sự thu hút được nhiều khách tham quan. Trước những thực trạng đó đặt ra yêu cầu là thúc đẩy hơn nữa quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế tỉnh Thanh Hoá theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì mới có thể phát triển được, thoát khỏi vòng nghèo nàn lạc hậu, tránh nguy cơ tụt hậu về kinh tế so với các tỉnh khác và so với cả nước, và đặc biệt là đối với tiềm năng phong phú, Thanh Hoá cũng cần phải xác định cho mình một cơ cấu ngành hợp lý để khai thác tối đa và hiệu quả các tiềm năng, tài nguyên thiên nhiên của tỉnh. III. Kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của một số địa phương. Chuyển dịch cơ cấu ngành theo hướng tích cực có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp phát triển kinh tế của một quốc gia nói chung và của từng địa phương nói riêng. Từ những năm đổi mới nền kinh tế, Đảng và Nhà nước ta đã đề cao vấn đề này. Trong những năm qua từng địa phương cùng với cả nước ra sức thực hiện, từng địa phương đã đạt được kết quả nhất định, nhưng bên cạnh đó vẫn còn những yếu kém cùng song song và tồn tại đây là một điều không thể tránh khỏi đối với một quốc gia nào, hay địa phương nào. Để từ đó rút ra được kinh nghiệm cho mình và cho các tỉnh bạn. Với số lượng tài liệu có hạn, đề tài xin nêu ra một số kinh nghiệm từ việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành của 2 tỉnh đó là tỉnh Nghệ An và tỉnh Hà Nam, đây là 2 tỉnh mà có điều kiện tự nhiên gần với tỉnh Thanh Hoá nhất. 1. Tỉnh Nghệ An. Đây là tỉnh nằm tiếp giáp với Thanh Hoá về phía Nam, cũng là tỉnh đất rộng người đông, xuất phát điểm của nền kinh tế thấp. Trong những năm qua mặc dù gặp nhiều khó khăn trong công tác quản lý vĩ mô, phân bổ đầu tư cũng như thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài và đặc biệt là lũ lụt miền trung... nhưng với sự nỗ lực phấn đấu của các cấp lãnh đạo cùng toàn thể nhân dân trong tỉnh, quá trình phát triển kinh tế tỉnh Nghệ An có xu hướng đi lên tuy nhiên vẫn còn ở một mức độ nhất định. Cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh đã có sự thay đổi đúng hướng: tỷ trọng nông nghiệp giảm từ 49,15 năm 1995 xuống còn 44,27% năm 2000, tương ứng với nó là sự gia tăng tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ tăng từ50,9% năm 1995 (công nghiệp 14,23%, dịch vụ 36,69%) lên 55,7% năm 2000 (công nghiệp 18,6%, dịch vụ 37,11%). Các ngành và các lĩnh vực chủ yếu đều tăng trưởng và có sự chuyển dịch cơ cấu nội ngành theo hướng tích cực. Kinh tế nông nghiệp và phát triển nông thôn có nhiều chuyển biến khá. Giá trị sản xuất nông nghiệp tăng bình quân hàng năm là5,3%. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp đã có bước chuyển dịch đúng hướng: nông nghiệp đạt 82%, ngư nghiệp 7%, lâm nghiệp 11%. Bước đầu hình thành sản xuất hàng hoá theo hướng tập trung. Công nghiệp đạt tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm giai đoạn 1996-2000 là 13,3%, trong đó công nghiệp tăng 13,1%, xây dựng tăng13,6%. Tỷ trọng công nghiệp trong GDP đạt 18,6% vào năm 2000. Thời gian qua công nghiệp phát triển đúng hướng, tỉnh đã chú trọng phát triển mạnh một số ngành công nghiệp có lợi thế so sánh. Dịch vụ Nghệ An có nhịp độ tăng trưởng hàng năm là 7,1% (cả nước là 7%), kinh tế hàng hoá phát triển, thị trường được mở rộng. Năng lực kinh doanh khá, đáp ứng cơ bản và kịp thời dịch vụ cho sản xuất và đời sống của nhân dân trong tỉnh. Các mối quan hệ thương mại, dịch vụ trong và ngoài nước có sự khởi sắc. 2. Tỉnh Hà Nam Hà Nam là một tỉnh thuộc đồng bằng Bác Bộ, cách thủ đô Hà Nội gần 60 km về phía Nam. Trong những năm qua cùng với nhịp độ tăng trưởng cả nước, Hà Nam tuy mới được thành lập nhưng cũng đã có nhiều sự chuyển biến tích cực rõ rệt trong nền kinh tế. Cùng với đó là sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế đã có sự tiến bộ đáng kể. Tỷ trọng ngành nông nghiệp giảm tương đối trong giai đoạn 1995- 2000 từ 52,645 xuống còn 40,3%. Tuy nhiên với tỷ trọng này thì nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng khá cao, gây cản trở cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tỷ trọng ngành công nghiệp mới chỉ chiếm 24,3% vào năm 2000. Nổi bật lên trong công nghiệp là sự tăng nhanh của công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm, công nghiệp vật liệu xây dựng. Tỷ trọng ngành dịch vụ chiếm 35,4%. Tuy nhiên sự thay đổi của ngành này trong giai đoạn vừa qua là không đáng kể nhưng không có nghĩa là ngành này không tăng trưởng mà nó còn tăng trưởng mạnh qua các năm nhất là các hoạt động thương mại và các dịch vụ vận tải, bưu chính viễn thông, khách sạn nhà hàng... Trong những năm qua các tỉnh đều có sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế một cách hiệu quả, đạt được kết quả như vậy là do các tỉnh đã xác định được các hướng đi cho các ngành kinh tế: - Đối với nông nghiệp: phát triển nông nghiệp trong khả năng cho phép đảm bảo an toàn lương thực và tạo cơ sở cho ngành công nghiệp chế biến, phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa. - Đối với công nghiệp: đầu tư vào những ngành nghề có hiệu quả kinh tế cao, tạo giá trị lớn, có thị trường tiêu thụ và đặc biệt là thị trường xuất khẩu. Ưu tiên những ngành nghề khai thác được tiềm năng tài nguyên, tạo nguyên liệu và sản phẩm phong phú, giải quyết được nhiều việc làm cho dân. - Đối với dịch vụ: phát triển mạnh ngành thương mại, đẩy nhanh hoạt động xuất khẩu của tỉnh, phát triển du lịch trên cơ sở khai thác đồng thời phát triển các loại hình dịch vụ khác như tài chính ngân hàng, thông tin viễn thông, giao thông vận tải... - Cải tạo và nâng cấp hệ thống kết cấu hạ tầng: điện khí hoá nông thôn, thực hiện kiên cố hoá kênh mương, nâng cấp hệ thống đường giao thông nông thôn.... Với hướng đi cho các ngành như vậy nên trong thời gian qua cơ cấu ngành kinh tế của các tỉnh đã có những chuyển biến tích cực và tiến bộ. Bên cạnh đó vẫn còn nhiều tồn tại khó khăn cần khắc phục. Chương II Thực trạng về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế củatỉnh Thanh Hoá trong thời kỳ 1996 đến 2002 I.Tình hình phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Thanh Hoá. 1. Tăng trưởng kinh tế. Sau năm 1991, nền kinh tế của cả nước đã đi vào ổn định và có tăng trưởng khá, từng bước hoà nhập và phát triển theo cơ chế thị trường có sự định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong những năm đầu của mở cửa, Thanh Hoá đã đạt được tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 6,7%, giải quyết cơ bản vấn đề lương thực, thu ngân sách đã đạt 500 tỷ đồng, thu hút được các dự án đăng kỹ đầu tư nước ngoài: 500 triệu USD. Phát huy được những thành tựu đạt được, nền kinh tế của tỉnh tiếp tục tăng trưởng: 1996-2000 đạt 7,3%/năm. Song do xuất phát điểm thấp, GDP bình quân đầu người của Thanh Hoá mới chỉ bằng 70-75% mức trung bình cả nước, nên nếu duy trì tốc độ tăng trưởng như trên sẽ tụt hậu so với cả nước. Do vậy đến năm 2002 tốc độ tăng trưởng GDP của tỉnh đạt 9,25%, nó báo hiệu theo chiều hướng tốt cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. 2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Cũng như nhiều tỉnh ở phía Bắc, lịch sử phát triển kinh tế của Thanh Hoá đã để lại một cơ cấu kinh tế không mấy thuận lợi cho sự phát triển nhanh với một cơ cấu kinh tế hiện nay: 37 % GDP là từ nông nghiệp, công nghiệp với sự giới hạn về số lượng xí nghiệp và quy mô chỉ chiếm 29,8% GDP, còn dịch vụ chiếm 33,2% so với tổng sản phẩm (GDP) của tỉnh. Trong những năm qua, tốc độ tăng trưởng bình quân về nông nghiệp và công nghiệp của tỉnh Thanh Hoá đã từng bước đuổi kịp mức trung bình của cả nước, nhưng chưa đạt tốc độ cao và đồng bộ. Do vậy nó hạn chế đến sự phát triển nhanh của ngành dịch vụ. Cơ cấu kinh tế của tỉnh đã có bước chuyển dịch theo xu hướng chung của cả nước là giảm tỷ trọng GDP nông lâm ngư, tăng tỷ trọng GDP công nghiệp, xây dựng và dịch vụ song tốc độ chuyển đổi còn chậm, cơ cấu chưa thật hợp lý. 3. Đầu tư phát triển. Tổng vốn đầu tư trên địa bàn tỉnh thời kỳ 1996-2000 là 14.620 tỉ đồng. Đến năm 2002 tổng đầu tư trên địa bàn là 35.000 tỷ đồng. Cơ cấu huy động vốn đầu tư có những thay đổi đáng kể, tỷ lệ huy động đầu tư ngoài ngân sách ngày một tăng. Cùng với sự thay đổi của cơ cấu huy động vốn là sự thay đổi của cơ cấu vốn đầu tư. Trước kia, khi mới bắt đầu tiến hành công cuộc đổi mới đầu tư chủ yếu tập trung cho các công trình sản xuất chiếm 75%; tập trung cho cơ sơ hạ tầng chiếm 74% tổng vốn đầu tư; thời kỳ 1996-2000 tập trung cho sản xuất công nghiệp chiếm tỉ lệ 61%, đầu tư một tỷ lệ thoả đáng cho cơ sở hạ tầng.Cơ cấu đầu tư chuyển dịch theo hướng tích cực, tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, tạo thêm năng lực sản xuất mới đáp ứng ngày càng tốt hơn đời sống của nhân dân. Sự thay đổi cơ cấu vốn đầu tư đã bước đầu góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đưa kinh tế của tỉnh Thanh Hóa dần dần hoà nhập với xu thế chung của cả nước và các tỉnh . Công tác đầu tư nhìn chung đúng hướng, nhiều công trình đã phát huy được hiệu quả, thu hồi được vốnvà đã có đóng góp cho ngân sách. Tuy vậy bên cạnh đó còn những tồn tại yếu kém: tổng vốn đầu tư chưa đạt với mục tiêu đề ra, tiến độ thi công các công trình còn chậm nên hiệu quả chưa cao, một số công trình hiệu qủa thấp. 4. Hoạt động xuất nhập khẩu. Giá trị kim ngạch xuất khẩu năm 2000 đạt 34,5 triệu USD, năm 2002 ước tính là 57,5 triệu USD. Những năm gần đây tỉnh có xuất khẩu được một số mặt hàng nhưng nhìn chung hoạt động xuất khẩu vẫn là trì trệ kéo dài chỉ đạt 18% so với mục tiêu đề ra, mặt hàng xuất khẩu không vững chắc, thị trường còn nhỏ. Thương nhân tham gia xuất khẩu còn ít. Đầu tư cho các cơ sở sản xuất kinh doanh và chế biến hàng xuất khẩu chưa được như ý đúng mức, các thành phần kinh tế tham gia xuất khẩu chưa nhiều. Mặt hàng xuất khẩu còn nghèo nàn, nặng về thu gom, chưa có mặt hàng chủ lực, phần lớn là nông sản chưa qua chế biến. Thời gian trước đây, giá trị nhập khẩu liên tục tăng, các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là ô tô, sắt thép, xe máy, phân đạm, máy thu thanh, dầu thực vật..., trong tổng kim ngạch nhập khẩu tỉnh đã giành 82,5% để nhập khẩu tư liệu sản xuất. Đến giai đoạn 1996-2000 tổng kim ngạch nhập khẩu của tỉnh có tăng lên đôi chút, bình quân năm trong giai đoạn này đạt 25,76 triệu USD/năm. Trong những năm qua kinh tế Thanh Hoá tuy đã có sự chuyển dịch theo cơ chế thị trường, song mức độ trao đổi hàng hoá của kinh tế Thanh Hoá đối với thị trường còn thấp (kể cả trong nước) đặc biệt là thị trường quốc tế. 5. Thu chi ngân sách. Thu ngân sách trên địa bàn tỉnh tăng đều qua các năm: năm 1990 tổng thu 113 tỷ đồng, năm 1995 là 512,8 tỷ đồng, năm 2000 đạt 565 tỷ đồng, năm 2002 ước tính là 651,2 tỷ đồng. Nguồn thu chủ yếu là từ kinh tế quốc doanh chiếm tới 60%-70%, trong đó doanh nghiệp nhà nước trung ương thu gấp 3 đến 4 lần doanh nghiệp nhà nước địa phương. Nguồn thu từ thuế công thương nghiệp từ 8-10%, còn nguồn thu từ thuế sử dụng đất nông nghiệp chiếm khoảng 11%-13%. Các ngành công nghiệp, dịch vụ có tỉ lệ nộp ngân sách và tỉ lệ động viên tài chính trong GDP lớn, còn các ngành khác thì thấp hơn. Trong những năm gần đây, lĩnh vực thu khá như là khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, thuế công thương nghiệp ngoài quốc doanh, thu cấp quyền sử dụng đất, thu phí và lệ phí. Tổng chi ngân sách trên địa bàn hàng năm trong thời kỳ 1996-2000 là trên 1000 tỷ đồng, bằng 1,4 lần tổng thu ngân sách: thu không đủ chi. Cũng trong thời kỳ này do tỉnh đầu tư nhiều cho xây dựng cơ sở hạ tầng, một số công trình hoàn thành chậm, các chính sách về thu có những thay đổi... nên thu ngân sách thấp, có năm còn giảm., không tăng cùng chiều với phát triển kinh tế. Trong đó nhu cầu chi ngân sách địa phương ngày một tăng, phải vào ngân sách trung ương trợ cấp ngày càng lớn. 6. Đời sống kinh tế và xã hội Đời sống nhân dân trong tỉnh Thanh Hoá nhìn chung ngày càng ổn định và từng bước được cải thiện do sản xuất phát triển, giá cả thị trường ổn định; các mặt văn hoá xã hội ngày càng được phát triển phục vụ đời sống tinh thần văn hoá ngày càng được nâng cao. Năm 1994 tỷ lệ hộ đói nghèo chiếm tỷ lệ 23,6% đến cuối năm 2000 tỷ lệ hộ đói nghèo còn 14%. Mức sống dân cư trong tỉnh theo thu nhập bình quân đầu người hiện tại vẫn ở dưới mức trung bình của cả nước. Thu nhập bình quân của các tầng lớp dân cư giữa các khu vực thành thị và nông thôn, giữa vùng đồng bằng và miền núi có khoảng chênh lệch khá lớn. Tỷ lệ hộ đói nghèo chủ yếu ở nông thôn và ở miền núi. II. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh Thanh Hoá từ năm 1996 đến năm 2002. 1.Thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế nói chung. Để đánh giá đúng thực trạng cơ cấu ngành kinh tế và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, đề tài sẽ đi phân tích thực trạng cơ cấu ngành và sự chuyển dịch của nó trên các mặt sau: 1.1. Cơ cấu ngành kinh tế theo GDP. Trong những năm qua, các ngành kinh tế của tỉnh Thanh Hoá đã có sự chuyển dịch đúng hướng: Nâng cao tỷ trọng và tốc độ phát triển công nghiệp (công nghiệp và xây dựng) và dịch vụ, giảm tỷ trọng của nông nghiệp. Nhưng giá trị sản lượng nông nghiệp vẫn tăng lên. Số liệu ở bảng 1 phần nào thể hiện xu thế biến đổi tích cực của cơ cấu ngành kinh tế ở Thanh Hoá. Bảng 1: Cơ cấu ngành kinh tế của Thanh Hoá trong thời kỳ 1996-2002 Đơn vị: % 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 Tổng số 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 1. Nông nghiệp 44 43,2 41,9 42,9 39,9 36,8 37,0 2. Công nghiệp 21,9 22,5 24,5 22,7 26,4 30,5 29,8 3. Dịch vụ 34,1 34,3 34,6 34,4 33,7 32,7 33,2 Nguồn: Cục thống kê Thanh Hoá Sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế được thể hiện trên cơ sở có sự tăng trưởng khá và đều của toàn bộ nền kinh tế quốc dân và của cả ba ngành. Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy ngành nông nghiệp liên tục giảm tỷ trọng từ 44% năm 1996 xuống còn 37% vào năm 2002. Tỷ trọng ngành công nghiệp trong GDP tăng từ 21,9% lên đến 29,8%. Ngành dịch vụ liên tục tăng từ năm 1996 đến năm 1999 nhưng từ năm 2000 đến nay lại bị giảm sút xuống còn có 33,2%, tuy nhiên không có nghĩa là giá trị của ngành dịch vụ giảm mà nó vẫn tăng lên so với các năm trước đây. Song đây cũng là một điều trở ngại đối với tỉnh. Có được sự chuyển dịch cơ cấu ngành theo hướng tích cực nói trên là do trong những năm qua, thực hiện đường lối chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ đổi mới. Thanh Hoá đã vận dụng triệt để và có tính sáng tạo vào tình hình thực tế của địa phương. Bảng 2: Tốc độ tăng trưởng của các ngành kinh tế trong thời kỳ 1996-2002 Đơn vị: % 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 Tổng số 5,1 10,5 6 5,1 9,7 8 9,25 Nông nghiệp -3 12 0,8 6,4 2,3 5 4,9 Công nghiệp 14,2 10,1 13,4 3,9 27,4 14,41 16,5 Dịch vụ 10,1 8,9 7,3 4,5 5,4 7 7,5 Nguồn: - Niên giám thống kê 1996- 2000, 2001 tỉnh Thanh Hoá - Định hướng phát triển kinh tế xã hội tỉnh năm 2003 Vào năm 1997, là năm xảy ra khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực, do vậy nền kinh tế của các nước trong khu vực đều bị giảm sút. Nhưng vào năm này Việt Nam chưa chịu ảnh hưởng nhiều của cuộc khủng hoảng này, do vậy tốc độ phát triển vẫn tăng. Đặc biệt là nông nghiệp, vào năm này tốc độ phát triển của ngành nông nghiệp đạt tới 12%. Đến năm 1998, 1999 hậu quả của cuộc khủng hoảng mới phát huy. Theo đó, tốc độ tăng trưởng của Thanh Hoá cùng với tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế của cả nước bị giảm sút mạnh, tốc độ tăng trưởng của các ngành lần lượt là 6%,5,1%. Năm 2002 là năm có tốc độ tăng trưởng cao nhất từ trước tới nay, đạt tốc độ là 9,25%. Đây là một sự khởi sắc mới cho Thanh Hoá. Tốc độ tăng trưởng bình quân của các nhóm ngành lớn của tỉnh đều có sự khác nhau, tăng trởng mạnh nhất thuộc về nhóm ngành công nghiệp, sau đó đến dịch vụ và thấp nhất là nông nghiệp. Tốc độ tăng trưởng của ngành công nghiệp cao nhất đạt được 27,4% năm 2000, đây là tốc độ cao nhất trong tất cả các ngành và từ trước đến nay trong ngành công nghiệp Tốc độ tăng GDP của ngành nông nghiệp nói chung là thấp và không đều. Từ chỗ -3% năm 1996 lên 12% năm 1997 và chỉ còn có 2,3% năm 2000. Từ những nhận định trên ta thấy rằng tuy ở điểm xuất phát thấp nhưng cơ cấu ngành kinh tế đã và đang dịch chuyển đúng hướng với quy luật phát triển kinh tê của các nước trên thế giới cũng như các tỉnh bạn khi bước vào thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá.. Tuy nhiên so với trung bình cả nước thì Thanh Hoá vẫn đang là tỉnh kém phát triển, các ngành chưa phát triển mạnh, chưa đuổi kịp mức trung bình cả nước. Điều này được thể hiện ở trong bảng 3 sau đây: Bảng 3: Cơ cấu ngành của Thanh Hoá và cả nước. Tổng số Nông nghiệp Công nghiệp Dịch vụ Thanh Hoá Năm 1995 Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 100,0 100,0 100,0 100,0 46,0 39,9 36,8 37,0 20,1 26,4 30,5 29,8 33,9 33,7 32,7 33,2 Cả nước Năm 1995 Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 100,0 100,0 100,0 100,0 29,04 24,3 23,3 29,8 36,6 37,75 41,88 39,1 38,95 Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư Thanh Hoá 1.2. Cơ cấu vốn đầu tư theo ngành. Qua thời gian đổi mới vừa qua, Thanh Hoá đã đạt được nhiều thành tựu trong phát triển kinh tế, đạt được sự ổn định và tốc độ tăng trưởng khá, trong đó góp phần quan trọng của quá trình đa dạng hoá, đa phương hoá và phát triển kinh tế đối ngoại, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài và các nguồn phát triển chính thức. Tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá trong thời gian qua đã có sự tăng trưởng, mặc dù còn chậm và chưa đạt yêu cầu của kế hoạch đề ra. Giai đoạn 1996- 2000, tổng vốn đầu tư trên địa bàn tỉnh đạt 14.622,6 tỷ đồng, bình quân năm đạt 2924,4 tỷ đồng. Riêng năm 2002 ước đạt 3500 tỷ đồng. Cơ cấu nguồn vốn đầu tư , bằng những chính sách huy động tổng lực, hầu hết các nguồn vốn đầu tư ở Thanh Hoá từ tất cả các thành phần kinh tế đều tăng hàng năm. Cơ cấu huy động cho đầu tư phát triển ngày càng đa dạng và có những thay đổi về tỷ lệ qua các năm. Tỷ lệ huy động ngoài ngân sách ngày một tăng. Do nguồn vốn ngân sách có hạn nên những năm gần đây, Tỉnh đã có chủ trương khuyến khích các tầng lớp dân cư, kể cả trong và ngoài nước bỏ vốn đầu tư để phát triển sản xuất kinh doanh và xây dựng cơ sở hạ tầng.Trong huy động và cân đối các nguồn vốn đầu tư trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá trong những năm qua, nguồn vốn trong nước giữ vai trò quyết định. Năm năm 1996-2000 nguồn vốn trong nước chiếm 62,39%, vốn đầu tư nước ngoài chiếm 37,61%, đặc biệt là trong năm 2002 vốn đầu tư trong nước đạt tới 93,2%. Vốn đầu tư phát triển xã hội toàn tỉnh huy động được của dân là 1.170.000 triệu đồng, chiếm tới 48% trong tổng toàn bộ số vốn đầu tư của toàn tỉnh. Vốn tự có của các doanh nghiệp nhà nước là rất ít, chỉ chiếm1,3%. Vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài tăng liên tục trong các năm từ 1996 đến năm 1999, nhưng những năm gần đây do sự biến động của thị trường thế giới và bên cạnh đó là tỉnh đã huy động được khối lượng lớn từ nhân dân, vì vậy nguồn này giảm mạnh từ chỗ 1.565.000 triệu đồng năm 1999 xuống còn 235.000 triệu đồng năm 2001.Đây cũng là một xu hướng tốt, bởi vì không phải phụ thuộc nhiều vào nguồn vốn từ bên ngoài. Về cơ cấu đầu tư, cơ cấu đầu tư xã hội chịu sự chi phối mạnh mẽ của cơ cấu thành phần kinh tế và cơ cấu ngành kinh tế, đồng thời cũng tích cực góp phần vào chuyển dịch cơ cấu ngành và định hướng lại nền kinh tế của tỉnh. Cơ cấu đầu tư đã tạo ra được một số ngành sản xuất mới. Cơ cấu đầu tư được định hướng theo cơ cấu ngành và có vai trò quyết định trong chuyển dịch cơ câú ngành trong những năm qua.Dựa vào điều kiện tự nhiên và điểm xuất phát thấp của nền kinh tế. Thanh Hoá đã có chiến lược đầu tư đúng đắn trong từng giai đoạn cho phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh: +Thời kỳ 1986-1990, đầu tư tập trung chủ yếu cho các công trình sản xuất, chiếm tới 75% tổng vốn đầu tư. + Thời kỳ 1991-1995, tập trung đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng chiếm tỷ lệ 74% tổng vốn đầu tư. + Thời kỳ 1996-2000, đầu tư tập trung cho sản xuất công nghiệp chiếm tỷ lệ 61% tổng vốn đầu tư. Điều này lý giải rằng tại sao ngành công nghiệp có tốc độ tăng trưởng cao vọt vào năm 2000 là 27,4%. + Trong hai năm trở lại đây, cơ cấu đầu tư tương đối được cân đối, năm 2002 vốn đầu tư cho khu vực sản xuất chiếm 52%, vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng là 48%. Với phạm vi nghiên cứu, đề tài xin được đề cập đến khía cạnh vồn đầu tư cho khu vực sản xuất hay vốn đầu tư theo các ngành. Sau đây là bảng số liệu về vốn đầu tư cho các ngành trong những năm qua. Bảng 3: Vốn đầu tư cho các ngành của tỉnh Thanh Hoá giai đoạn 1996-2002 Đơn vị: Triệu đồng Tổng số Nông nghiệp Công nghiệp Dịch vụ 1996 1.182.512 100,0 121.841 10,3 755.649 63,9 305.022 25,8 1997 1.478.305 100,0 213.230 14,3 827.536 55,9 437.539 29,8 1998 2.306.585 100,0 238.046 10,3 1.654.531 71,7 414.008 18,0 1999 2.408.367 100,0 265.433 11,0 1.774.556 73,7 368.378 15,3 2000 2.631.365 100,0 189.393 7,2 2.072.540 78,7 369.432 14,1 2001 2.400,000 100,0 265.000 11,1 1.830.000 76,2 305.000 12,7 2002 1.820.000 100,0 385.000 21,2 1.270.000 69,8 165.000 9,1 Nguồn: - Sở Kế hoạch và Đầu tư Thanh Hoá - Các con số bên góc phải, ở dưới của các ô là tỷ trọng vốn đầu tư của các ngành. Qua bảng số liệu ta thấy từ năm 1996 đến năm 2002 tỷ trọng vốn đầu tư của các ngành có sự tăng gỉam khác nhau. Trong cơ cấu vốn đầu tư cho các ngành thì ngành công nghiệp chiếm tỷ trọng cao nhất. Trong những năm qua, vốn đầu tư dành cho ngành này luôn chiếm trên 60%. Riêng có năm 1997, tỷ trọng đầu tư cho công nghiệp giảm sút do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực. Đây là một xu hướng tích cực, phù hợp với cả nước. Ngành dịch vụ chỉ có năm 1997 là có tỷ trọng vốn đầu tư tăng so với các năm trước, còn các năm sau đó đều bị giảm sút. Nguyên nhân chủ yếu là do trong những năm qua, Thanh Hoá chưa chú trọng cho phát triển ngành dịch vụ. Vốn đầu tư dành cho ngành nông nghiệp chiếm tỷ trọng cao nhất vào năm 2002. Có thể nhận thấy rằng, không phải Thanh Hoá chỉ chú trọng đầu tư cho công nghiệp mà xem nhẹ nông nghiệp. Năm 2002, vốn đầu tư cho sản xuất công nghiệp trong tổng vốn đầu tư cho khu vực sản xuất chiếm tới 69,8%; nông nghiệp là 21,2% và dịch vụ chiếm 9%.Tuy tỷ trọng vốn đầu tư của từng ngành đều có sự tăng giảm, song số tuyệt đối của vốn đầu tư dành cho các ngành đều tăng lên qua các năm. Từ chỗ chỉ có 1.182.512 triệu đồng năm 1996 đã tăng lên đến 2.631.635 triệu đồng năm 2000. Tuy nhiên trong những năm gần đây nhất do tổng vốn đầu tư toàn xã hội trên địa bàn có sự giảm sút cho nên vốn đầu tư cho các ngành cũng bị giảm sút theo. Để có được sự tăng trưởng của các ngành, Thanh Hoá tập trung nhiều cho lĩnh vực công nghiệp, nhất là công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và chế biến sản phẩm để nâng dần cơ cấu hai ngành công nghiệp và dịch vụ. Từ đó làm cho GDP của các ngành tăng lên và GDP của tỉnh cũng tăng lên. Trong khi tỷ trọng đầu tư dành cho nông nghiệp có xu hướng giảm xuống so với các ngành khác thì GDP của nông nghiệp vẫn tăng qua các năm, chứng tỏ việc đầu tư cho nông nghiệp đã có hướng đi đúng. Từ chỗ chỉ đạt trên 80 vạn tấn lương thực trong những năm 80 thì đến nay, Thanh Hoá đã tự cung tự cấp được lương thực trong toàn tỉnh với sản lượng 1,4 triệu tấn và còn dành một phần cho xuất khẩu và đảm bảo an ninh lương thực. Sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế được thực hiện với sự phát triển các ngành theo hướng đa dạng hoá, dần hình thành ngành trọng điểm và mũi nhọn, nhờ vậy tỉnh xác định được trọng điểm đầu tư cho từng ngành và xác định được các mặt hàng chiến lược. Bên cạnh đó, Thanh Hoá cũng chủ trương và tiến hành phát triển đa dạng, đa phương hoá, khuyến khích tất cả các thành phần kinh tế tham gia vào đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, dưới nhiều hình thức khác nhau, đặc biệt là ngành nông nghiệp. Việc xác định chiến lược đầu tư đúng hướng trong từng thời kỳ nhằm tạo ra cơ sở vật chất hạ tầng kỹ thuật ban đầu cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nó không chỉ tập trung phát triển công nghiệp mà xem nhẹ nông nghiệp. Nếu như vậy sẽ làm hạn chế sự phát triển ổn định và bền vững của nền kinh tế. Thanh Hoá vốn dĩ là một tỉnh có nền nông nghiệp lạc hậu, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi Thanh Hoá phải ưu tiên phát triển nông nghiệp. Nông nghiệp là nguồn nội lực có tính bền vững, nó cũng chính là cầu nối quan trọng cho phát triển công nghiệp dài hạn, phát triển nông nghiệp sẽ đảm bảo an toàn lương thực, tạo việc làm, nâng cao thu nhập.... 1.3. Cơ cấu lao động theo ngành Quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế cũng chính là quá trình phân công lại lao động và xã hội. Chuyển dịch cơ cấu lao động theo xu hướng chuyển từ ngành có năng suất lao động và hiệu quả thấp sang ngành có năng suất lao động và hiệu quả cao. Vì vậy, phân tích cơ cấu về lao động sẽ cho chúng ta thấy rõ hơn thực trạng và xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Qua biểu và kết quả tổng hợp điều tra dân số của tỉnh cho thấy, dân số tỉnh Thanh Hoá đến năm 2001 là 3,592triệu người, trong đó số nữ chiếm 51,14%, dân số thành thị chiếm 9,27%, nông thôn 90,73%. Bảng 5: Cơ cấu lao động phân theo ngành kinh tế từ năm 2002 ở Thanh Hoá 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 Dân số(1000 người) 3.377 3.426 3.467 3.519 3.567 3.592 3629 Lao động làm việc trong các ngành (1000 người) Chia ra: Nông nghiệp (%) Công nghiệp (%) Xây dựng (%) Dịch vụ (%) 1394,7 81,53 7,69 1,62 9,16 1409,9 80,8 7,79 1,55 9,87 1445,4 82,22 6,57 1,56 9,65 1746,2 81,6 6,84 1,53 10,02 1503,1 81,35 7,05 1,56 10,04 1523,2 80,25 7,11 1,97 10.67 1643,4 79,85 6,98 2,01 10,63 Nguồn: Cục thống kê Thanh Hoá Qua bảng trên ta thấy dân số Thanh Hoá là dân số trẻ, tỷ lệ tăng tự nhiên vẫn còn cao do đó lực lượng lao động khá dồi dào. Lực lượng lao động trong khu vực sản xuất vật chất chiếm đại đa số, lao động dịch vụ còn thấp so với tổng số lao động đang làm việc trong các ngành, mới chỉ chiếm 10,63%. Có thể nhận thấy, số lao động trong ngành công nghiệp và xây dựng có xu hướng giảm từ 9,31% năm 1996, đến nay còn 8,99%. Điều này nói lên công nghiệp và xây dựng của Thanh Hoá trong những năm qua dù có phát triển nhưng tốc độ còn chậm. Đáng lý ra ngành công nghiệp và dịch vụ phải là hai ngành thu hút nhiều lao động chuyển từ ngành nông nghiệp sang. Tỷ trọng làm việc trong ngành nông nghiệp có xu hướng giảm, nhưng mức giảm qua các năm còn rất chậm, từ 81,53% năm 1996 xuống 79,85% năm 2002, qua 7 năm mà chỉ giảm đúng có 1,68% có nghĩa là một năm chỉ giảm được có 0,24%.Trong khi đó tỷ trọng lao động làm việc trong các ngành dịch vụ đã phát triển theo chiều hướng thuận lợi, phù hợp với quy luật phát triển của nền kinh tế theo công nghiệp hoá, hiện đại hoá, từ 9,16% năm 1996 lên 10,63% năm 2002. Song cũng phải thấy rằng tỷ trọng lao động trong các ngành dịch vụ vẫn còn thấp so với các nước phát triển, chưa đáp ứng được yêu cầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Về chất lượng lao động: năm 1996 số lao động có chuyên môn kỹ thuật của tỉnh so với nguồn lao động mới chỉ đạt 13,01% trong đó đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp chiếm tỷ lệ 7,3%, công nhân kỹ thuật chiếm tới 5,71%. Đến năm 2002 lực lượng lao động có chuyên môn kỹ thuật đã tăng lên là 19,6% trong đó đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp chiếm tỷ lệ 9,2%, công nhân kỹ thuật có 10,4%. Tuy nhiên với cơ cấu lao động như vậy, Thanh Hoá vẫn phải tiếp tục thu hút lao động làm việc trong các ngành nghề thủ công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, giảm bớt lao động nông nghiệp nông thôn. 2. Thực trạng chuyển dịch nội bộ của các ngành: công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ. Cùng với sự chyển dịch cơ cấu của ba nhóm ngành lớn, sự chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ ngành cũng có sự tích cực và đúng hướng, do đó góp phần chuyển dịch cơ cấu ngành toàn bộ nền kinh tế theo hướng tích cực ở Thanh Hoá. Để thấy rõ được sự tác động này, ta đi xét từng ngành: 2.1. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp. Ngành nông nghiệp bao gồm các phân ngành trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp và ngư nghiệp. Ngành nông nghiệp đóng vai trò chủ đạo đối với kinh tế Thanh Hoá. Trong những năm vừa qua, các phân ngành của ngành nông nghiệp chuyển dịch được thể hiện ở bảng 6 sau: Bảng 6: Cơ cấu giá trị sản xuất ngành nông nghiệp Thanh Hoá thời kỳ 1996-2002 Đơn vị: % Nông nghiệp 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 Tổng số 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 Trồng trọt 62,3 66,2 67,1 67,7 66,7 67,7 57,03 Chăn nuôi 19,2 16,7 16,9 15,9 16,2 15,0 15,7 Lâm nghiệp 10,5 8,6 7,2 7,5 7,6 7,4 7,3 Ngư nghiệp 8,0 8,5 8,8 8,9 9,5 9,9 9,95 Nguồn: Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn Thanh Hoá Trong thời kỳ này tỷ trọng giá trị sản xuất của ngành thay đổi như sau: ngành trồng trọt giá trị sản xuất vẫn tăng lên nhưng tăng với tốc độ chậm, từ năm 1996 đến năm 2001 chỉ tăng có 5,4%, có nghĩa là hàng năm chỉ tăng khoảng 1%. Năm 2002, tỷ trọng ngành trồng trọt giảm xuống còn có 57,03%. Chăn nuôi phát triển tương đối ổn định nhưng còn chậm, trong những năm có chiều hưóng giảm từ 19,2% xuống còn có 15,7%. Lâm nghiệp giảm do những năm gần đây không chỉ có Thanh Hoá nói riêng mà cả nước nói chung đều hạn chế khai thác rừng, săn bắt thú rừng... Ngành ngư nghiệp tăng lên một cách rõ rệt nhất, không những vậy mà ngành ngư nghiệp còn tăng đều, từ 8% năm 1996 tăng lên đến 9,95% năm 2002. Quá trình chuyển dịch đó thể hiện xu hướng chuyển đổi giống cây trồng vật nuôi của Thanh Hoá, chủ trương đóng cửa rừng và đẩy mạnh khoanh nuôi, tu bổ và trồng mới trong lâm nghiệp một cách tích cực, đã và đang đẩy mạnh hoạt động đánh bắt và nuôi trồng trong ngư nghiệp. Trên đây chỉ là những đánh giá chung nhất của ngành nông nghiệp Thanh Hoá, nội dung cơ bản của ngành thể hiện cụ thể ở các phân ngành đó. Để đi sâu hơn nữa vào các phân ngành của ngành nông nghiệp, đề tài xin được đề cập đến một số phân ngành của ngành nông nghiệp như sau: > Trồng trọt Là một phân ngành kinh tế quan trọng của tỉnh Thanh Hoá nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung. Trồng trọt trên địa bàn Thanh Hoá gồm các loại cây trồng như: cây lương thực, cây công nghiệp, câydược liệu, cây ăn quả, cây rau đậu và gia vị và các loại cây khác. Xu hướng chuyển dịch của trồng trọt trong thời kỳ này là liên tục tăng về giá trị sản xuất. Bảng7: Cơ cấu nông nghiệp theo giá trị sản xuất phân theo ngành kinh tế trồng trọt Đơn vị tính: % Trồng trọt 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 Tổng số 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 Cây lương thực 77,0 75,4 73,8 72,7 72,5 73,3 72,7 Cây công nghiệp 10,2 12,0 13,2 17,0 16,8 16,0 18,0 Cây ăn quả 2,5 2,4 2,8 2,6 4,0 3,8 3,5 Rau đậu và gia vị 6,3 6,4 6,4 4,9 4,8 3,0 3,3 Loại cây khác 4,0 3,8 4,0 2,8 1,9 3,9 2,5 Nguồn: Cục thống kê Thanh Hoá Cơ cấu nội bộ ngành trồng trọt đã có sự chuyển đổi mạnh theo hướng tăng cây công nghiệp và cây ăn quả, giảm tương đối tỷ trọng cây lương thực. Thực trạng chuyển dịch này phù hợp với xu hướng chuyển dịch trồng trọt theo hướng tích cực. Trong trồng trọt của nông nghiệp Thanh Hoá, cây lương thực mà đặc biệt là cây lúa đóng vai trò quan trọng trong công tác đảm bảo đủ nguồn lương thực cho toàn tỉnh. Bảng 8: Sản lượng lúa Đơn vị: nghìn Tấn 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 Lúa chiêm xuân 458,1 560,1 533,0 557,6 632,0 660,8 676,0 Lúa thu mùa 250,1 421,5 439.7 504,2 463,8 529,6 575,3 Tổng số 708,2 981,6 972,7 1061,8 1095,8 1190,4 1251,3 Nguồn: Phòng nông nghiệp Sản lượng lúa trong thời kỳ chỉ có năm 1998 là bị giảm sút, còn lại các năm đều tăng.Lúa chiêm xuân và lúa thu mùa cũng có sự tăng giảm như vậy. Riêng lúa thu mùa trong năm 2000 bị giảm sút, năm 1998 vẫn tăng. Một số loại cây lương thực khác như: ngô , khoai..cũng tăng đều, sản lượng ngô năm 2002 đạt 140017 tấn, với diện tích gieo trồng 49453 ha. Trong những năm qua, về lương thực đã đảm bảo được nhu cầu cho tiêu dùng của nhân dân trong tỉnh, có dự trữ và đã có hàng hoá. Năm 2002 sản lượng lương thực có hạt đạt 1,34 triệu tấn. Tốc độ tăng bình quân hàng năm về sản lượng lương thực cao hơn nhiều so với tốc độ tăng dân số trung bình trong tỉnh (4,7% so với 1,25%), vì vậy bình quân lương thực đầu người tăng đều qua các năm: năm 2000 đạt 343 kg và năm 2002l à 370kg lương thực có hạt. Về phát triển cây công nghiệp do được quan tâm đầu tư nên diện tích tăng khá. Các cây công nghiệp hàng năm như đay, cói, mía, lạc đậu tương, thuốc lá, vừng... Năm 1996 diện tích gieo trồng cây công nghiệp cả ngắn và dài ngày toàn tỉnh là 31.959 ha, đến năm 2002 đã tăng lên tới hơn 76.0000 ha. Trong các cây công nghiệp hàng năm, tăng khá nhất là cây mía. Năm 1996 toàn tỉnh chỉ có 11.078 ha mía, năm 1999 là năm có diện tích mía cao nhất 29.698 ha, năm 2002 diện tích này đã bị giảm sút xuống còn 28.7238 ha do những năm gần đây đường Trung Quốc vào nhiều ở Việt Nam mà giá của chúng lại rẻ, cho nên lượng đường trong nước giảm xuống làm cho diện tích mía dần bị thu hẹp. Sản lượng mía từ chỗ 1653742 tấn năm 1999 đến năm 2002 giảm xuống còn 1.557.088 tấn. Hiện nay tỉnh đã hình thành các vùng chuyên canh trồng mía nguyên liệu cung cấp cho 3 nhà máy chế biến đường tổng công suất 14.000 tấn/ngày, trở thành tỉnh có năng lực sản xuất mía đường lớn nhất cả nước. Cây công nghiệp hàng năm đứng sau cây mía là cây lạc, cói năm 2002 diện tích gieo trồng và sản lượng lần lượt là: 16171ha, 3827ha và 24681 tấn, 27482 tấn. Các cây này cũng được tỉnh quan tâm đầu tư nhằm phục vụ cho công nghiệp chế biến các mặt hàng xuất khẩu. Các cây công nghiệp lâu năm, đến năm 2002: cây chè ổn định diện tích được125 ha, cà phê 3405 ha, cây cao su là 7706 ha. Cây cao su là cây ngày càng được chú trọng phát triển phục vụ cho công nghiệp, làm cho sản lượng cao su tăng từ chỗ khối lượng không đáng kể lên tới 4000 tấn vào năm 2002. Nhìn chung chỉ có cây mía tăng khá do có tác động mạnh của công nghiệp chế biến, nhưng cũng gặp khó khăn do trình độ thâm canh và năng suất mía thấp, công nghiệp sau đường chưa phát triển, giá thành đường cao, khó cạnh tranh được với hàng nhập lậu. Các cây công nghiệp khác phát triển chậm do không có cơ sở chế biến, thị tường tiêu thụ không ổn định, chưa được quan tâm phát triển đúng mức. > Chăn nuôi Đối với ngành này trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá trong thời kỳ vừa qua đã xác định phát triển những con vật như: trâu, bò, lợn, ngựa, dê và gia cầm. Bảng 9: Số lượng đàn gia súc tỉnh Thanh Hoá trong thời kỳ 1996- 2002 Đơn vị: Nghìn con Gia súc 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 Trâu 219 217,6 215,9 214,9 216,5 215,3 211,8 Bò 213,9 218,8 221,5 225,2 233,6 230,7 228,7 Lợn 977,3 998,4 1009,3 1037,7 1088,1 1166,7 1290 Ngựa 1,8 0,2 0,2 0,1 0,26 0,15 0,13 Dê 34.0 26,9 28,3 19,3 28,9 29,4 30,2 Nguồn: Cục thống kê tỉnh Thanh Hoá Trong những con vật chủ yếu thì lợn chiếm số lượng lớn nhất với 977,3 nghìn con năm 1996 tăng liên tục trong suốt thời kỳ và lên tới 1290 nghìn con năm 2002. .Sau đó là trâu bò, tổng số lượng trâu bò năm 1996 là 432,9 nghìn con tăng lên 440,5 nghìn con. Điều đáng chú ý là ở đây các con vật này được chăn nuôi chủ yếu là để lấy thịt cung cấp cho nhu cầu tiêu dùng và một số thì làm sức kéo phục vụ cho sản xuất. Sản lượng thịt hơi xuất chuồng cũng tăng đều qua các năm, năm 2002 đạt 55737 tấn trong đó chủ yếu là thịt lợn hơi chiếm đến 92% sản lượng. Những năm gần đây do khoa học kỹ thuật phát triển và đã được áp dụng rộng rãi cho nên thức ăn gia súc, gia cầm tổng hợp được sản xuất và phục vụ người tiều dùng, vì vậy năng suất vật nuôi hàng năm liên tục tăng. Ngoài ra, ngựa, dê chiếm tỷ trọng thấp. Ngựa chủ yếu dùng để lấy sức kéo, dê dùng để lấy thịt. Bảng 10: Số lượng gia cầm của tỉnh Thanh Hoá thời kỳ 1996-2002 Đơn vị: nghìn con 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 Gia cầm 6500,0 7544,1 7868,4 8084,6 10814,4 13132,0 14523,4 Nguồn: Cục thống kê Thanh Hoá Đàn gia cầm trong thời kỳ cũng có chiều hướng tăng liên tục qua các năm. Từ 6500 nghìn con năm 1996 lên 14523,4 nghìn con năm 2002. Các con vật chủ yếu được xác định trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá là: Gà, vịt, ngan, ngỗng...chúng chủ yếu cho thịt, trứng phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong tỉnh. Những năm qua xu hướng chăn nuôi các loại gà công nghiệp, gà lai tam hoàng tăng lên liên tục. Do đó sản lượng thịt, trứng cũng liên tục tăng lên. Trong những năm qua cùng với việc đầu tư nâng cao chất lượng đàn gia súc là việc duy trì và mở rộng và khuyến khích phát triển các trang trại chăn nuôi ở các huyện, bước đầu đã xuất hiện một số mô hình chăn nuôi theo hướng sản xuất hàng hoá gắn với công nghiệp chế biến và thị trường Công tác thú y, kiểm dịch động vật được chỉ đạo kịp thời, vì vậy không có dịch bệnh xảy ra. Dự án về cải tạo tầm vóc đàn bò, phát triển nuôi bò sữa và lợn hướng nạc đang được triển khai thực hiện. > Ngành lâm nghiệp Ngành lâm nghiệp có đóng góp đáng kể cho nền kinh tế của tỉnh: đảm bảo phần lớn cho nhu cầu về vật liệu xây dựng, hàng tiêu dùng từ thông thường đến cao cấp cho các gia đình trong tỉnh và xuất khẩu. Giá trị lâm nghiệp xuất khẩu bình quân hàng năm khoảng 450 nghìn USD, bằng 5% tổng giá trị xuất khẩu toàn tỉnh. Ngành đã góp phần giải quyết việc làm cho hàng vạn lao động, chủ yếu là các huyện miền núi. Bảng 11 : Cơ cấu giá trị sản xuất ngành lâm nghiệp của tỉnh Thanh Hoá thời kỳ 1996-2002 Đơn vị: % 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 Tổng số 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 Trồng và nuôi rừng 19,4 18,8 17,8 16,4 35,5 41,7 46,8 Khai thác gỗ và lâm sản 79,5 78,1 78,5 81,3 61,9 55,5 48,7 Lâm nghiệp khác 1,2 3,1 3,7 2,3 2,6 2,8 4,5 Nguồn: Phòng Nông nghiệp Trong nội bộ ngành Nông nghiệp thì ngành Lâm nghiệp có khó khăn trong phát triển để chiếm vị trí xứng đáng trong cơ cấu GDP chung của toàn ngành. Các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước trong những năm gần đây đã tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển lâm nghiệp. Chương trình 327 chủ trương giao đất lâm nghiệp, giao rừng đến các hộ gia đình và hiện đang thực hiện dự án 5 triệu ha rừng của cả nước đến năm 2010. Lâm nghiệp Thanh Hoá đã có bước phát triển mới, chuyển hẳn từ Lâm nghiệp Nhà nước sang phát triển theo hướng lâm nghiệp xã hội, trồng rừng nhân dân. Do vậy gía trị trồng rừng và nuôi rừng ngày càng tăng từ 19,4% lên tới 46,8% năm 2002. Bên cạnh đó công tác khai thác bị kìm hãm bởi vậy, tỷ trọng khai thác gỗ và lâm sản giảm từ 79,5% xuống 48,7%. Nhưng nhìn chung khai thác gỗ và lâm sản là lĩnh vực chủ yếu trong ngành Lâm nghiệp tỉnh Thanh Hoá. Cùng với công tác trồng rừng và nuôi rừng, khai thác gỗ và lâm sản tất yếu hình thành dịch vụ lâm nghiệp, nhằm thúc đẩy hơn nữa công tác trồng rừng, khai thác lâm sản tăng nhanh hơn nữa về giá trị sản xuất hàng năm. Bảng 12: Sản phẩm chủ yếu của lâm nghiệp Thanh Hoá Sản phẩm Đơn vị 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 Gỗ tròn Nghìn m² 68 51 42 38,8 37,5 32,1 32,5 Củi Nghìn ste 2140 2030 1718 1500 1457 1130 1125 Tre luồng Nghìn cây 11525 11600 11151 19000 12450 12500 15000 Nứa Tấn 36099 33070 33477 37000 48300 45000 33000 Nhựa thông Tấn - 20 18 12 120 149 203 Nguồn: Phòng nông nghiệp- Sở kế hoạch và Đầu tư Thanh Hoá Khả năng khai thác gỗ tròn, củi từ năm 1996 đến năm 2001 có xu hướng giảm như sau: Gỗ tròn từ 68nghìn m² xuống còn32,1 nghìn m², củi từ 2140 ste xuống 1125 nghìn ste. Tre luồng, giảm vào từ năm 1999 đến năm 2002 từ 19000 nghìn cây xuống còn 15000 nghìn cây; nứa có năm 2000,2001 tăng còn lại các năm đều giảm; nguyên nhân chính của hiện tượng trên là do chủ trương đóng cửa rừng, công tác khoanh nuôi trồng rừng được đẩy mạnh.Thời kỳ này chỉ có khả năng khai thác nhựa thông liên tục tăng, từ chỗ sản lượng không đáng kể đến năm 2001 sản lượng có được là 203 tấn. Điều đó chứng tỏ khả năng khai thác nhựa thông đã có xu hướng tăng lên liên tục, công tác khai thác của các lâm trường ngày càng được hoàn thiện. > Ngành ngư nghiệp Vùng biền của Thanh Hoá được đánh giá là có tiềm năng về tài nguyên rất phong phú. Nếu như khai thác được tiềm năng đó sẽ là một thuận lợi lớn trong công tác giải quyết việc làm cũng như thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của tỉnh nhà. Thời gian qua khả năng khai thác thuỷ sản của Thanh Hoá đạt mức thấp so với tiềm năng hiện có. Do vậy trong cơ cấu giá trị sản xuất của nhóm ngành nông nghiệp thì Thuỷ sản vẫn chiếm tỷ lệ thấp. Vấn đề đặt ra là trong thời kỳ tới Thanh Hoá phải đầu tư hơn nữa cho công tác đánh bắt và nuôi trồng cũng như chế biến thuỷ sản. Chỉ có như vậy mới có thế đẩy nhanh tốc độ phát triển ngành ngư nghiệp nói riêng và phát triển kinh tế của tỉnh Thanh Hoá nói chung trong thời kỳ tới. Bảng 13 : Cơ cấu theo giá trị sản xuất thuỷ sản Thanh Hoá thời kỳ 1996-2002 Đơn vị: % 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 Tổng số 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 Nuôi trồng thuỷ sản 20,5 19,4 19,7 22,3 28,5 19,3 21,3 Khai thác thuỷ sản 68,4 72,3 72,5 70,3 64,4 75,2 74,5 Hoạt động dịch vụ 11,1 8,3 7,8 7,4 7,1 5,5 4,2 Nguồn: Cục thống kê Thanh Hoá Trong khai thác và đánh bắt nuôi trồng Thuỷ sản, cơ cấu giá trị khai thác chiếm tỷ trọng 65%, nuôi trồng 23% (còn lại là giá trị dịch vụ Thuỷ sản 12%). Sản lượng khai thác và nuôi trồng tăng đều qua các năm. Năm 2002 giá trị sản xuất của toàn ngành thuỷ sản khoảng 480,7 tỷ đồng. Nuôi trồng thuỷ sản được quan tâm phát triển. Tổng diện tích nuôi trồng đạt 15.000 ha, trong đó nuôi diện tích nuôi chuyên canh 11.135 ha, nuôi không chuyên canh là 3865 ha. Sản lượng thủy sản nuôi trồng đạt 14742 tấn (riêng tôm sú nuôi đạt 1862 tấn là năm có sản lượng tôm cao nhất từ trước đến nay). Cơ cấu nuôi trồng thuỷ sản đã được tập trung chỉ đạo chuyển dịch theo hướng tăng năng suất và hiệu quả. Các sản phẩm chủ yếu của Thuỷ sản bao gồm: cá, tôm, mực. Trong đó sản lượng cá chiếm tỷ trọng cao nhất là trên 60% trong tổng số lượng toàn ngành thuỷ sản. Trong những năm gần đây sản lượng tôm, mực có chiều hướng tăng lên. Nhiều giống tôm, cá đã được đưa vào nuôi trồng như tôm càng xanh, cá rô phi đơn tính, cá chim trắng... được đưa vào nuôi thâm canh làm cho lượng thuỷ sản tăng lên đáng kể về số lượng và chủng loại. Nhìn chung ngành nông nghiệp trong thời gian qua đã có bước phát triển đáng kể. Ngành nông nghiệp đã góp phần vào việc gia tăng giá trị xuất khẩu với các sản phẩm chủ yếu như: lạc nhân, chè, gạo, thịt đông, dưa chuột muối, thảm cói đay, hàng tre mây... nông nghiệp còn cung cấp đủ nguyên liệu cho các nhà máy chế biến nông sản của tỉnh, phục vụ nhu câù tiêu dùng trong cả nước. Đã hình thành các vùng sản xuất chuyên môn hóa, vùng lúa cao sản ở các huyện đồng bằng. Nhiều mô hình trang trại sản xuất nông nghiệp kết hợp với lâm nghiệp trên vùng đồi, các mô hình thâm canh lúa nước,mía, lạc nuôi trồng thuỷ sản, chăn nuôi trâu bò là những tiền đề quan trọng để phát triển nông nghiệp trong tương lai. Đến nay toàn tỉnh đã có 2.190 trang trại với các loại hình: trồng cây hàng năm, cây lâu năm, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, chăn nuôi, bước đầu đã có hiệu quả thiết thực về kinh tế xã hội. Tuy nhiên các trang trại này vẫn ở quy mô nhỏ, phạm vi chủ yếu là trong gia đình. Song song với những kết quả đạt được là những yếu kém của ngành: ngành nông nghiệp còn phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên, cơ cấu nông nghiệp chậm được chuyển đổi để gắn với thị trường và phù hợp với hệ sinh thái. Cơ sở vật chất kỹ thuật trong nông nghiệp tuy đã được tăng cường nhưng chưa đáp ứng cho yêu cầu sản xuất nông nghiệp đạt mức tăng trưởng cao và ổn định. Năng suất lao động trong nông nghiệp còn thấp, đời sống nông dân còn nhiều khó khă. Thị trường tiêu thụ sản phẩm chưa được mở rộng, khâu chế biến của địa phương chưa được đầu tư thỏa đáng, hiệu quả thấp, giá thành sản phẩm còn quá cao so với giá cạnh tranh... đang là những thách thức lớn đối với ngành nông nghiệp. 2.2. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp. Xây dựng và công nghiệp ở Thanh Hoá có ý nghĩa và tác dụng to lớn đối với nền kinh tế của tỉnh theo hướng đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hoá. Với tiềm năng dồi dào về tài nguyên, lao động công nghiệp Thanh Hoá đã những đổi mới đáng phấn khởi. Hàng năm đóng góp của công nghiệp vào ngân sách tỉnh khoảng 60-65%. Tốc độ tăng trưởng của ngành hàng năm vào khoảng 13%/năm. Các nhóm ngành chính trong ngành công nghiệp bao gồm: công nghiệp khai thác, công nghiệp chế biến, công nghiệp điện nước. Trong nội bộ ngành công nghiệp có những thay đổi đáng kể từ năm 1996 đến nay. Bảng 14 : Cơ cấu công nghiệp theo giá trị sản xuất phân theo ngành kinh tế của Thanh Hoá từ năm 1996 đến năm 2002. Đơn vị: % Chỉ tiêu 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 Tổng số 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 Công nghiệp khai thác 4,0 4,4 4,3 5,2 4,0 3,7 4,0 Công nghiệp chế biến 95,7 95,3 95,0 94,6 95,7 96,0 95,8 Công nghiệp điện, nước 0,3 0,3 0,7 0,2 0,3 0,3 0,3 Nguồn: Sở Công nghiệp Thanh Hoá Xu hướng biến đổi của các ngành trong ngành công nghiệp là: ngành công nghiệp chế biến chiếm tỷ trọng cao nhất trên 90%, sau đó là ngành công nghiệp khai thác và cuối cùng là ngành công nghiệp điện nước. Công nghiệp khai thác: chủ yếu ở đây là khai thác đá, cát sỏi... khai thác quặng kim loại. Còn khai thác than ở Thanh Hoá là rất ít vì đây là nguồn hạn chế nhất. Trong những năm từ 1996, 1997 giá trị hầu như không đáng kể, mãi đến năm 1998 mới đạt giá trị 25 triệu đồng. Ngành khai thác đá và các mỏ khác chiếm tỷ trọng cao nhất năm 1996 đạt 78%, năm 2002 đạt 72,7%. Do tiềm năng sẵn có của các núi đá (Thanh Hoá có trữ lượng đá vôi lớng nhất cả nước) và nhu cầu sản xuất như sản xuất xi măng, gạch ốp lát, đá xẻ... cho nên ngành khai thác đá và các mỏ khác đạt giá trị cao nhất trong công nghiệp khai thác.Năm 2002 giá trị sản xuất ngành này có xu hướng giảm xuống là do sản phẩm trên địa bàn bị ứ đọng nhiều nên buộc các nhà sản xuất phải hạn chế khai thác. Đứng sau công nghiệp khai thác đá là khai thác quặng kim loại. Đáng chú ý là quặng crôm chiếm đa số trong ngành này bởi vì Thanh Hoá là tỉnh duy nhất trong cả nước có chứa khối lượng crôm cao nhất 21.898 triệu tấn. Công nghiệp chế biến: Thế mạnh của công nghiệp chế biến là các sản phẩm như vật liệu xây dựng (cát, vôi, sỏi đá, xi măn, gạch, chất keo dính xây dựng...), đường bánh kẹo, hải sản đông lạnh, nước mắm.... Bảng15: Các sản phẩm chủ yếu của công nghiệp chế biến Thanh Hoá giai đoạn 1996-2002 Đơn vị 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 Vật liệu xây dựng: - Xi măng - Cát sỏi - Gạch nung - Ngói lợp - Vôi - Đá ốp lát - Thép + phôi - Gạch lát hoa - GạchCeramic ......... Tấn 1000m³ 1000 viên 1000 viên Tấn 1000 m² Tấn 1000 viên 1000 m² 1237 635,4 256493 15095 62500 273 2375 3464,1 - 1209 762,8 227264 14455 75090 259 2169 3320 - 1211 878,5 239977 13242 80200 348 3106 4000 215 1066 932,5 246964 10081 101521 401,8 3722 1577 325 1671 993,8 316282 12118 115271 449,9 3515 1673 401 2754 1003 345729 11038 107381 967 3203 1635 423 3551 1400 526000 10170 126600 1410 3100 1578 700 Hải sản đông lạnh Tấn 563 1043 1220,4 1270,6 2091 2570 3500 Đồ uống 1000 lít 13180 13817 19342 15355,5 18.034,5 17.017 22.000 Nước mắm 1000 lít 3461 5391 5287 5061 5.892 6197 6715 Đường+ bánh kẹo Tấn 33780 49948 69949 93850 202683,3 145761 132571 Chiếu cói 1000 lá 2310 2712 2953 3598 3940,9 3833 3545 Quần áo may sẵn 1000 cái 2217 2702 2994,3 2492 3037,6 3245 4648 ........ ..... .... ..... Nguồn : Cục thống kê tỉnh Thanh Hoá Qua bảng trên ta thấy: Các mặt hàng của công nghiệp chế biến đều tăng nhanh qua các năm. Trong ngành vật liệu xây dựng tăng nhanh nhất vẫn là xi măng từ 1237 tấn năm 1996 tăng lên đến 3.551 tấn năm 2002, bởi vì Thanh Hoá có 2 nhà máy xi măng lớn là nhà máy xi măng Bỉm Sơn và nhà máy xi măng Nghi Sơn với công suất 4,1 triệu tấn/năm. Hiện nay, Thanh Hoá có tới 3 nhà máy đường: Lam Sơn, Việt -Đài và Nông Cống với tổng công suất 14.000 tấn mía/ngày, điều đó lý giải rằng tại sao mà sản lượng mía đường tăng mạnh đến như vậy. Khối lượng đường mật tăng từ 33.053,7 năm 1996 tấn lên tới 142628 tấn năm 2002. Nhưng trong hai năm trở lại đây sản lượng đường giảm mạnh. Đến năm 2002 chỉ còn lại có 109.485 tấn. Công nghiệp điện nước: Chiếm tỷ trọng thấp nhất trong các ngành, năm 2002 nó chỉ chiếm có 0,3%. Các phân ngành chính của công nghiệp điện nước là phân phối và sản xuất điện, nước cho sản xuất và tiêu dùng. Trong hai phân ngành này thì sản xuất và phân phối điện là chủ yếu, chiếm hơn 80%, còn sản xuất và phân phối nước chiếm tỷ trọng rất bé. Nguyên nhân chủ yếu là chỉ ở thành phố, thị xã, thị trấn mới có nhu cầu dùng nước máy còn lại đa phần người dân nông thôn ở Thanh Hoá họ sinh hoạt chủ yếu dựa vào nước ngầm thông qua hình thức đào giếng. Trong tương lai khả năng phát triển mạnh ngành này có thể được xem là sáng sủa, cùng với tốc độ đô thị hoá ngày càng lên cao trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá cũng như trong cả nước, khu vực và trên thế giới. Trên đây mới chỉ là những đánh giá chung nhất về thực trạng công nghiệp tỉnh Thanh Hoá phân theo ngành sản xuất. Để đánh giá đúng thực trạng của ngành công nghiệp hiện nay như thế nào, đề tài xin được đề cập đến khía cạnh chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp phân theo thành phần kinh tế. Bảng 16 : Cơ cấu công nghiệp theo giá trị sản xuât phân theo khu vực kinh tế có vốn đầu tư trong nước và nước ngoài. Đơn vị: % 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 Tổng số 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 1. Khu vực vốn trong nước 99,9 97,5 94,8 93,4 83,4 71,0 71,6 2. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 0,1 2,5 5,2 6,6 16,6 29,0 28,4 Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư Thanh Hoá Qua bảng trên ta nhận thấy: Công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng nhanh từ khôi đáng kể năm 1996 đến năm 2002 đã chiếm tỷ trọng 28,4% giá trị sản xuất toàn ngành. Công nghiệp có vốn đầu tư trong nước từ chỗ chiếm tỷ trọng chủ yếu 99,9% năm 1996 giảm xuống còn có 71,6% năm 2002. Vì vậy cơ cấu công nghiệp theo các thành phần kinh tế đã có sự thay đổi. Giá trị sản xuất công nghiệp quốc doanh tăng bình quân 6,4%/năm, công nghiệp địa phương quản lý tăng 16,64%/năm trong đó ngoài quốc doanh tăng 30,31%/năm. Nhìn chung ngành công nghiệp tỉnh Thanh Hoá trong thời gian qua đã có những thành tích đáng kể, giá trị sản xuất công nghiệp liên tục tăng, đã tập trung đầu tư một số ngành công nghiệp có lợi thế so sánh như công nghiệp chế biến vật liêụ xây dựng, công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản... Tuy nhiên vẫn còn yếu kém: cơ cấu sản phẩm ngành nghề còn đơn điệu, chậm đổi mới, nhiều ngành hàng tiêu dùng, chế biến nông lâm thuỷ sản, ngành thu hút nhiều lao động như dệt may, giày da...chưa được tổ chức sản xuất nhiều trong tỉnh, chưa đáp ứng được nhu cầu ngay cả thị trường nội tỉnh. Doanh nghiệp công nghiệp quốc doanh do địa phương quản lý đại bộ phận có công nghệ lạc hậu khó tháo gỡ về mặt tài chính, về tổ chức lao động, do đó hoạt động kém hiệu quả, các doanh nghiệp mới đầu tư công suất còn thấp. Công nghiệp ngoài quốc doanh tuy đã có bước phát triển khá nhưng chưa mạnh, chưa phát huy được hết nội lực trong nhân dân, các chính sách khuyến khích đầu tư chưa đồng bộ và chưa được quan tâm tổ chức chỉ đạo thực hiện. 2.3. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành dịch vụ Các hoạt động dịch vụ thương mại trong những năm qua phát triển nhanhvà đa dạng, đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế thị trường, mở cửa và hội nhập, nhất là hoạt động kinh doanh thương mại, xuất nhập khẩu, bưu chính viễn thông, vận tải, tiền tệ,du lịch và các dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống. Tỷ trọng GDP ngành dịch vụ từ năm 1996 đến năm 1997 liên tục tăng, nhưng từ sau năm 1998 tỷ trọng này bị giảm sút, do chịu ảnh hưởng mạnh của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực. Đến năm 2002 tỷ trọng dịch vụ còn có 32,62%, trong khi đó tỷ trọng này đã đạt được 34,6% GDP vào năm 1998. Xu hướng trong những năm tới tỷ trọng ngành này sẽ tăng vì thị trường đã ổn định, theo ước tính thì tỷ trọng GDP của ngành này đã tăng lên 33,2% vào năm 2002, đây là một xu hướng tích cực. > Ngành thương mại Thương mại đã được xây dựng và phát triển thị trường với nhiều thành phần tham gia. Năm 2002tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ trên thị trường đạt 4.300 tỷ đồng, tăng bình quân năm là 7,7%. Diện mạo thị trường có nhiêu khởi sắc, hàng hoá phong phú, cung ứng đầy đủ nhu cầu vật tư, hàng hoá cho sản xuất và đời sống. Thương mại nhà nước ngoài việc đảm bảo các mặt hàng thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống còn cung ứng đầy đủ, kịp thời các mặt hàng chính sách phục vụ đồng bào miền núi, các xã khó khăn... Hoạt động xuất nhập khẩu: khả năng xuất nhập khẩu các mặt hàng trên địa bàn tỉnh có xu hướng tăng lên trong thời gian vừa qua. Những năm gần đây đã khắc phục được tình trạng nhập siêu. Bảng 17: Thực trạng xuất nhập khẩu Thanh Hoá thời kỳ 1996-2002 Đơn vị: Nghìn USD 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 Xuất khẩu 13509 26566 28356 25897 36950 45520 57500 Nhập khẩu 18751 36643 20000 28000 30000 29355 37515 X- N -5242 -10077 8536 -2103 6950 16165 19985 Nguồn: Phòng thương mại- Sở Kế hoạch và Đầu tư Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu có chiều hướng gia tăng 32260 nghìn USD năm 1996 lên 95015 nghìn USD năm 2002. Trong các năm từ 1996, 1997 và năm 1998 Thanh Hoá vẫn phải nhập siêu, nhập siêu cao nhất là năm 1997 là 10.077 nghìn USD. Đến năm 2000 do xuất khẩu gia tăng mạnh đã khắc phục được tình trạng nhập siêu. Một số loại hàng nhập khẩu

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc16001.DOC
Tài liệu liên quan