Tài liệu Đề tài Một số vấn đề cơ bản về lãi suất tiền gửi ngân hàng thương mại - Lê Huyền Ly: LỜI NÓI ĐẦU
Lãi suất là một phạm trù kinh tế mang tính chất tổng hợp đa dạng và phức tạp.Tính tổng hợp và phức tạp cuả lãi suất xuất phát từ khái niệm:”lãi suất không có gì khác hơn là một giá cả -giá thuê vốn”.
Lãi suất là một khái niệm luôn phát triển ,nó luôn gắn với một nền kinh tế ở một thời điểm lịch sử.Lãi suất có tác động rất lớn đến nền kinh tế của đất nước,và nó là một công cụ trong phát triển kinh tế và đồng thời lại là một công cụ kìm hãm của chính sự phát triển ấy,tuỳ thuộc vào việc khôn ngoan hay yếu kém trong việc sử dụng chúng.
Đối với nước ta,lãi suất luôn được coi là một trong những vấn đề rất được quan tâm hiện nay. Đặc biệt trong thời gian gần đây vấn đề về lãi suất tiền gửi gân hàng được quan tâm rất nhiều.
Tiền gửi ngân hàng là một trong những nguồn vốn cơ bản,quan trọng của ngân hàng thương mại.Nguồn vốn này chính là nền tảng cho sự phát triển của ngân hàng , đóng vai trò quan trọng và ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động của ngân hàng.Hiện nay ,hầu hết ngâ...
39 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1052 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Một số vấn đề cơ bản về lãi suất tiền gửi ngân hàng thương mại - Lê Huyền Ly, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Lãi suất là một phạm trù kinh tế mang tính chất tổng hợp đa dạng và phức tạp.Tính tổng hợp và phức tạp cuả lãi suất xuất phát từ khái niệm:”lãi suất không có gì khác hơn là một giá cả -giá thuê vốn”.
Lãi suất là một khái niệm luôn phát triển ,nó luôn gắn với một nền kinh tế ở một thời điểm lịch sử.Lãi suất có tác động rất lớn đến nền kinh tế của đất nước,và nó là một công cụ trong phát triển kinh tế và đồng thời lại là một công cụ kìm hãm của chính sự phát triển ấy,tuỳ thuộc vào việc khôn ngoan hay yếu kém trong việc sử dụng chúng.
Đối với nước ta,lãi suất luôn được coi là một trong những vấn đề rất được quan tâm hiện nay. Đặc biệt trong thời gian gần đây vấn đề về lãi suất tiền gửi gân hàng được quan tâm rất nhiều.
Tiền gửi ngân hàng là một trong những nguồn vốn cơ bản,quan trọng của ngân hàng thương mại.Nguồn vốn này chính là nền tảng cho sự phát triển của ngân hàng , đóng vai trò quan trọng và ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động của ngân hàng.Hiện nay ,hầu hết ngân hàng đều phải đối mặt với sự cạnh tranh thu hút khách hàng về mình trong việc định giá các dịch vụ liên quan đến tiền gửi.
Lãi suất tiền gửi có tác động rất nhiều đến hiệu quả của hoạt động huy động tiền gửi. Mặt khác lãi suất này có tính quyết định đối với việc mở rộng nguồn vốn vốn,chất lượng của nguồn vốn.Chính vì vậy ngân hàng cần có một chính sách về lãi suất tiền gửi phù hợp với một mặt để có thể thu hút và duy trì sự ổn định trong lượng tiền gửi của khách hàng ,mặt khác ổn định thu nhập của ngân hàng.
Chính vì vậy tôi đi vào nghiên cứu “Một số vấn đề cơ bản về lãi suất tiền gửi ngân hàng thương mại” nhằm hiểu rõ hơn về lãi suất tiền gửi là như thế nào, những nhân tố cấu thành nên lãi suất tiền gửi cũng như những tác động của nó tới ngân hàng cũng như nên kinh tế …
Phần I:Lý thuyết cơ bản
I Tổng quan về ngân hàng và dịch vụ của ngân hàng
1.Khái niệm về ngân hàng
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế .Ngân hàng bao gồm nhiều loại tùy thuộc vào sự phát triển trong đó ngân hàng thương mại thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản ,thị phần và số lượng các ngân hàng .Ngân hàng là tổ chức thu hút tiết kiệm lớn nhất trong hầu hết mọi nền kinh tế.Hàng triệu cá nhân ,hộ gia đình và các doanh nghiệp ,các tổ chức kinh tế-xã hội đều gửi tiền tại ngân hàng.Ngân hàng đóng vai trò người thủ quỹ cho toàn xã hội .Thu nhập từ ngân hàng là nguồn thu nhập quan trọng của nhiều hộ gia đình .Ngân hàng là tổ chức cho vay chủ yếu đối với các doanh nghiệp,cá nhân ,hộ gia đình và một phần đối với nhà nước(thành phố,tỉnh…).Đối với các doanh nghiệp,ngân hàng thường là tổ chức cung cấp tín dụng để phục vụ cho việc mua hàng hóa dự trữ hoặc xây dựng nhà máy,mua sắm trang thiết bị .Khi doanh nghiệp và người tiêu dùng phải thanh toán cho các khoản mua hàng hóa và dịch vụ ,họ thường sử dụng séc, ủy nhiệm chi,thẻ tín dụng hay tài khoản điện tử…Và họ cần thông tin tài chính hay lập kế hoạch tài chính họ thường đến các ngân hàng để nhận được lời tư vấn .Các khoản tín dụng của ngân hàng cho chíng phủ (thông qua mua các chứng khoán của Chính phủ) là nguồn tìa chính quan trọng để đầu tư phát triển..Ngân hàng thực hiện các chính sách kinh tế , đặc biệt là chính tiền tệ,vì vậy là một kênh quan trọng trong chính sách kinh tế của Chính phủ nhằm ổn địng kinh tế.
Vậy ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất-đặc biệt là tín dụng ,tiết kiệm ,dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kì một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
2.Chức năng của ngân hàng
2.1.Trung gian tài chính
Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển tiết kiệm thành đầu tư, đòi hỏi sự tiếp xúc với hai loại cá nhân và tổ chức trong nền kinh tế :(1) các cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu ,tức là chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư vượt quá thu nhập và vì thế họ là những người cần bổ sung vốn,và (2) các cá nhân và tổ chức thặng dư cho chi tiêu ,tức là thu nhập hiện tại của họ lớn hơn các khoản chi tiêu cho hàng hóa ,dịch vụ và do vậy họ có tiền để tiết kiệm.
Sự tồn tại hai loại cá nhân và tổ chức trên hoàn toàn độc lập với ngân hàng . Điều tất yếu là tiền sẽ chuyể từ nhóm thứ (2) sang nhóm thứ (1) nếu cả hai cùng có lợi.Quan hệ tín dụng trực tiếp (quan hệ tài chính trực tiếp) đã có từ lâu và tồn tại cho đến ngày nay.
Tuy nhiên ,quan hệ trực tiếp bị nhiều giới hạn do sự không phù hợp về quy mô ,thời gian ,không gian…Điều này làm cản trở quan hệ trực tiếp phát triển và là điều kiện nảy sinh trung gian tài chính.Do chuyên môn hóa ,trung gian tài chính có thể làm giảm chi phí giao dịch .Như vậy trung gian tài chính đã làm tăng thu nhập cho người tiết kiệm ,từ đó mà khuyến khích tiết kiệm , đồng thời giảm phí tổn tín dụng cho người đầu tư(tăng thu nhập cho người đầu tư)từ đó mà khuyến khích đầu tư.Trung gian tài chính đã tập hợp các người tiết kiệm và đầu tư,vì vậy mà giải quyết được mâu thuẫn của tín dụng trực tiếp.Cơ chế hoạt động của trung gian sẽ có hiệu quả gánh chịu rủi ro và sử dụng các kỹ thuật nghiệp vụ để hạn chế ,phân tán rủi ro và giảm chi phí giao dịch.
Hầu hết các lý thuyết niên đại đều giả thích sự tồn tại của ngân hàng bằng cách chỉ ra sự không hoàn hảo trong hệ thống tài chính.chẳng hạn các khoản tín dụng và chứng khoán không thể chia thành những khoản nhỏ ma mọi người đều có thể mua .Ngân hàng cung cấp một dịch vụ có giá trị trong việc chia chứng khoán đó thành các chứng khoán nhỏ hơn (dưới dạng tiền gửi) phục vụ cho hàng triệu người.
Một đóng góp khác của ngân hàng là họ sẵn sàng chấp nhận các khoản cho vay nhiều rủi ro trong khi lại phát hành các chứng khoán ít rủi ro cho người gửi tiền.Thực tế các ngân hàng tham gia vào kinh doanh rủi ro .Ngân hàng cũng thỏa mãn nhu cầu thanh khoản của nhiều khách hàng .
Một lý do nữa làm cho ngân hàng phát triển và thịnh vượng là khả năng thẩm định thông tin .Sự phân bổ không đều thông tin và năng lực phân tích thông tin được gọi là tình trạng “thông tin không cân xứng “ làm giảm tính hiệu quả của thị trường nhưng tạo ra một khả năng sinh lợi cho ngân hàng,nơi có chuyên môn và kinh nghiệm đánh giá cá công cụ tài chính và có khả năng lựa chọn những công cụ với các yếu tố rủi ro-lợi nhuận hấp dẫn nhất.
2.2.Tạo phương tiện thanh toán
Tiền-vàng có một chức năng quan trọng là làm phương tiện thanh toán .Các ngân hàng đã không tạo được tiền kim loại.Các ngân hàng thợ vàng tạo phương tiện thanh toán khi phát hành giấy nợ với khách hàng .Giấy nhận nợ do ngân hàng phát hành với ưu điểm nhất định đã trở thành phương tiện thanh toán rộng rãi được nhiều người chấp nhận .Như vậy ,ban đầu các ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán thay cho tiền kim loại dựa trên số lượng tiền kim loại đang nắm giữ.Với nhiều ưu thế dần dần giấy nợ của ngân hàng đã thay thế cho tiền kim loại làm phương tiện lưu thông và phương tiện cất trữ,nó trở thành tiền giấy.
Việc in tiền mang lại lợi nhuận rất lớn , đồng thời với nhu cầu có đồng tiền quốc gia duy nhất đã dẫn đến việc nhà nước tập trung quyền lực phát hành tiền giấy vào một tổ chức hoặc là Bộ Tài Chính hoặc là Ngân hàng Trung Ương.Từ đó chấm dứt việc các ngân hàng thương mại tạo ra các giấy bạc của riêng mình.
Trong điều kiện phát triển thanh toán qua ngân hàng ,các khách hàng nhận thấy nếu họ có được hàng hóa và các dịch vụ theo yêu cầu.Theo quan điểm hiện đại , đại lượng tiền tệ bao gồm nhiều bộ phận .Thứ nhất là tiền giấy trong lưu thông (MO)thứ hai là các số dư trên tài khoản tiền gửi giao dịch của cá khách hàng tịa các ngân hàng ,thứ ba là tiền gửi trên các khoản tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi có kì hạn…
Khi ngân hàng cho vay số dư trên tìa khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tăng lên,khách hàng có thể dùng để mua hàng và dịch vụ .Do đó ,bằng việc cho vay (hay tạo tín dụng)các ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán (tham gia tạo ra M1).
Toàn bộ hệ thống ngân hàng cũng tạo phương tiện thanh toán khi các khoản tiền gửi được mở rộng từ ngân hàng này đến ngân hàng khác trên cơ sở cho vay.
Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra lượng tiền gửi mà hệ thống ngân hàng tạo ra chịu tác động trực tiếp của các nhân tố như tỷ lệ dự trữ bắt buộc ,tỷ lệ thanh toán bằng tiền mặt qua ngân hàng, tỷ lệ tiền gửi không phải là tiền gửi thanh toán…
2.3.Trung gian thanh toán
Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất ,hiện nay ở hầu hết các quốc gia.Thay mặt khách hàng ,ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hóa và dịch vụ. Để việc thanh toán nhanh chóng ,thuận tiện và tiết kiệm chi phí,ngân hàng đưa ra cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán như thanh toán bằng séc , ủy nhiệm chi,nhờ thu,các loại thẻ…cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử,kết nối các quỹ và cung cấp tiền giấy khi khách hàng cần .Các ngân hàng còn thực hiện thanh toán bù trừ với nhau thông qua ngân hàng Trung Ương hoặc thông qua các trung tâm thanh toán .Công nghệ thanh toán qua ngân hàng càng đạt hiệu quả cao khi quy mô sử dụng công nghệ đó càng được nở rộng.Vì vậy ,công nghệ thanh toán hiện đại qua ngân hàng thường được các nhà quản lý tìm cách áp dụng rộng rãi.Nhiều hình thức thanh toán được chuẩn hóa góp phần tạo tính thống nhất trong thanh toán không chỉ giữa ngân hàng trong một quốc gia mà còn giữa các ngân hàng trên thế giới.Các trung tâm thanh toán quốc tế được thiết lập đã làm tăng hiệu quả của thanh tóan qua ngân hàng,biến ngân hàng trở thành trung tâm thanh toán quan trọng và có hiệu quả ,phục vụ đắc lực cho nền kinh tế toàn cầu.
3.Các dịch vụ ngân hàng
Ngân hàng là một doanh nghiệp cung cấp dịch vụ cho công chúng và các doanh nghiệp.Thành công của ngân hàng phụ thuộc vào năng lực xác đinh các dịch vụ tài chính mà xã hội có nhu cầu ,thực hiện các dịch vụ tài chính mà xã hội có nhu cầu thực hiện các dịch vụ đó một các có hiệu quả.
3.1.Mua bán ngoại tệ
Một trong những dịch vụ ngân hàng đầu tiên đuợc thực hiện là trao đổi mua bán ngoại tệ -một ngân hàng đứng ra mua bán một loại tiền khác và hưởng phí dịch vụ .Trong thị trường tài chính ngày nay,mua bán ngoại tệ thường chỉ do các ngân hàng lớn nhất thưch hiện bởi vì những giao dịch như vậy có mức độ rủi ro cao, đồng thời yêu cầu phải có trình độ chuyên môn cao.
3.2.Nhận tiền gửi
Cho vay được coi là hoạt động sinh lời cao ,do đó các ngân hàng đã tìm mọi cách để huy động được tiền .Một trong những nguồn quan trọng là các khoản tiền gửi (thanh tóan và tiết kiệm của khách hàng )Ngân hàng mở dịch vụ nhận tiền gửi để bảo quản hộ người có tiền với cam kểt hoàn trả đúng hạn.Trong cuộc cạnh tranh để tìm và giành được các khoản tiền gửi ,các ngân hàng đã trả lãi cho tiền gửi như là phần thưởng cho khách hàng về việc sẵn sàng hi sinh nhu cầu tiêu dung trước mắt và cho phép ngân hàng sử dụng tam thời để kinh doanh.
3.3.Cho vay
3.3.1.Cho vay thương mại
Ngay ở thời kỳ đầu ,các ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà thực tế là cho vay đối với những người bán (người bán chuyển các khoản phải thu cho ngân hàng để lấy tìên trước ).Sau đó là bước chuyển tiếp từ chiết khấu thương phiếu sang cho vay trực tiếp đối với các khách hàng (là người mua ),giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ nhằm mở rộng sản xuất kinh doạnh.
3.3.2.Cho vay tiêu dùng
Trong giai đoạn đầu hầu hết các ngân hàng không tích cực cho vay đối với các cá nhân và hộ gia đình bởi họ tin rằng các khoản cho vay tiêu dùng rủi ro vỡ nợ tương đối cao.Sự gia tăng thu nhập của người tiêu dùng và sự cạnh tranh trong cho vay đã buộc ngân hàng phải hướng tới người tiêu dùng như là một khách hàng tiềm năng .Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai ,tín dụng tiêu dùng đã trở thành một trong những loại hình tín dụng tăng trưởng nhanh nhất ở các nước có nền kinh tế phát triển.
3.3.3.tài trợ cho dự án
Bên cạnh cho vay truyền thống là cho vay ngắn hạn,các ngân hàng ngày càng trở nên năng động trong việc tài trợ cho xây nhà máy mới đặc biệt là trong các ngành công nghệ cao .Mặc dù rủi ro trong loại hình tín dụng này nói chung là cao song lãi lại lớn .Một số ngân hàng còn cho vay để đầu tư vào đất.
3.4.Bảo quản vật có giá
Các ngân hàng thực hịên việc lưu giữ vàng và các vật có giá khác cho khách hàng trong kho bảo quản .Ngân hàng giữ vàng và giao cho khách tờ biên nhận (giấy chứng nhận do ngân hàng phát hành).Do khả năng chi trả bất cứ lúc nào cho giấy chứng nhận ,nên giấy chứng nhận đã được sử dụng như tiền –dùng để thanh toán các khoản nợ trong phạm vi ảnh hưởng của ngân hàng phát hành .Lợi ích cuả việc sử dụng phương tiện thanh toán bằng giấy thay cho bằng kim loại đã khuyến khích khách hàng . Đó là hình thức đầu tiên giấy bạc ngân hàng .Ngày nay ,vật có gía được tách khỏi tiền gửi và khách hàng phải trả chi phí bảo quản.
3.5 Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán
Khi doanh nhân gửi tiền vào ngân hàng ,họ nhận thấy ngân hàng không chỉ bảo quản mà còn thực hiện các lệnh chi trả cho khách hàng của họ.Thanh toán qua ngân hàng sẽ mở đầu cho thanh toán không dùng tiền mặt ,tức là người gửi tiền không cần phải đến ngân hàng để lấy tiền mà chỉ cần viết dấy chi trả cho khách (còn gọi là séc ), khách hàng mang giấy ngân hàng sẽ nhận được tiền .Các tiện ích của thanh toán không dùng tiền mặt (an toàn ,nhanh chóng chính xác ,tiết kiệm chi phí) đã góp phần rút ngắn thời gian kinh doanh và nâng cao thu nhập cho các doanh nhân .Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin ,nhiều thể thức thanh toán được phat triển như Uỷ nhiệm thu,Uỷ nhiệm chi,nhờ thu,L/C,thanh toán bằng điện thẻ…
3.6 Quản lý ngân quỹ
Các ngân hàng mở tài khoản và giữ tiền của phần lớn các doanh nghiệp và nhiều cá nhân .Nhờ đó ,ngân hàng thường có mối liên hệ chặt chẽ với nhiều khách hàng .Do có kinh nghiệm trong quản lý ngân quỹ và khả năng trong việc thu ngân ,nhiều ngân hàng đã cung cấp cho khách hàng dịch vụ quản lý ngân quỹ,trong đó ngân hàng đồng ý quản lý việc thu chi cho một công ty kinh doanh và tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào chứng khoán sinh lời và tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần tiên mặt để thanh toán.
3.7 Tài trợ các hoạt động của chính phủ
Khả năng huy động và cho vay với khối lượng lớn của ngân hàng đã trở thành trọng tâm chú ý của các Chính Phủ.Do nhu cầu chi tiêu lớn và thường là cấp bách trong khi thu không đủ,chính phủ các nước đều muốn tiếp cận với các khoản vay của ngân hàng .trong điều kiện các ngân hàng tư nhân không muốn tài trợ cho chính phủ vì rủi ro cao.Chính phủ thường dung một số đặc quyền trao đổi lấy các khoản vay cảu những ngân hàng lớn .Khi ngân hàng trung ương thành lập ,chính phủ thường dùng mộ số đặc quyền trao đổi lấy các khoản tín dung lớn.Ngày nay ,chính phủ giành quyền cấp giấy phép thành lập với điều kiện là họ phải cam kết thực hiện với mức độ nào đó các chính scáh của chính phủ và tài trợ cho chính phủ.Các ngân hàng phải mua trái phiếu Chính phủ theo một tỷ lệ nhất định trên tổng lượng tiêng gửi mà ngân hàng huy động được,hoặc phải cho vay với các điều kiện ưu đãi cho các doạnh nghiệp của Chính phủ.
3.8.Bảo lãnh
Do khả năng thanh toán của ngân hàng cho một khách hàng rất lớn do ngân hàng nắm giữ tiền gửi của khách hàng,nên ngânh àng có uy tín trong boả lãnh cho khách hàng.Trong những năm gần đây ,nghiệp vụ bảo lãnh cho khách hàng ngày càng đa dạng và phát triển mạnh.Ngân hàng thường bảo lãnh cho khách hàng của mình mua chịu hàng hoá và trang thiết vị ,phát hành chứng khoán ,vay vốn của tổ chức tín dụng khác…
3.9.Cho thuê thiết bị trung và dài hạn(leasing )
Nhằm để bán được các thiết bị , đặc biệt là cá thiết bị có gía trị lớn ,nhiều hãng sản xuất và thương mại đã cho thuê (thay vì bán) các thiết bị .Cuối hợp đồng thuê,khách hàng có thể mua (do vậy còn gọi là hợp đồng thuê mua )Rất nhiều ngân hàng tích cực cho khách hàng kinh doanh quyền lựa chọn thuê các thiết bị,máy móc cần thiết thông qua hợp đồng thuê mua ,trong đó ngân hàng mua thiết bị và cho khách hàng thuê.Hợp đồng cho thuê thường phải đảm bảo yêu cầu khách hàng phải trả tới hơn 2/3 giá trị của tài sản cho thuê.Do vậy,cho thuê của ngân hàng cũng có nhiều điểm giống như cho vay và được xếp vào tín dụng trung và dài hạn.
3.10.Cung cấp dịch vụ uỷ thác và tư vấn
Do hoạt động trong lĩnh vực tài chính,các ngân hàng có rất nhiều chuyên gia về quản lý tài chính.Vì vậy ,nhiều cá nhân và doanh nghiệp đã chờ ngân hàng quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính hộ ,uỷ thác phát hành ,uỷ thác đầu tư…Thậm chí ,các ngân hàng đóng vai trò là người được uỷ thác trong di chúc , quản lý tài sản cho khách hàng đã qua đời bằng cách công bố tài sản,bảo quản các tài sản có giá.Nhiều khách hàng còn coi ngân hàng như một chuyên gia tư vấn tài chính
3.11. Cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán
Nhiều ngân hàng đang phấn đấu cung cấp đủ các dịch vụ tài chính cho phép khách hàng thoả mãn mọi nhu cầu. Đây là một trong những lý do khiến các ngân hàng bắt đầu bán các dịch vụ môi giới chứng khoán ,cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu ,trái phiếu và các chứng khoán khác mà không phải nhờ đến người kinh doanh chứng khoán.Trong một vài trường hợp ,các ngân hàng tổ chức ra công ty chứng khoán hoặc công ty môi giới chứng khoán.
3.12.Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm
Từ nhiều năm nay,các ngân hàng đã bán bảo hiểm cho khách hàng điều đó bảo đảm việc hoàn trả cho trường hợp khách hàng bị chết ,bị tàn phế hay gặp rủi ro trong hoạt động ,mất khả năng thanh toán
3.1. Cung cấp các dịch vụ đại lý
Nhiều ngân hàng trong quá trình hoạt động không thể thiết lập chi nhánh hoặc văn phòng ở khắp mọi nơi.Nhiều ngân hàng (thường ngân hàng lớn )cung cấp dịch vụ ngân hàng đại lý cho các ngân hàng khác như thanh toán hộ ,phát hành hộ các chứng chỉ tiền gửi ,làm ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ…
II Một số vấn đề về lãi suất
1.Khái niệm về lãi suât
Lãi suất là một phạm trù kinh tế mang tính chất tổng hợp , đa dạng và phức tạp.Tính tổng hợp và phức tạp của lãi suất xuất phát từ khái niệm “lãi suất không có gì khác hơn là một loại giá-giá thuê vốn.
Nó tổng hợp bởi sự chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố kinh tế quan trọng tác động đến sự phát triển của nền kinh tế.
Nó đa dạng vì tính đa dạng của các loại tín dụng khác nhau trong nền kinh tế thị trường như:lãi suất cầm cố thế chấp ,lãi suất trái khoán công ty,lãi suất trái phiếu kho bạc ,lãi suất chiết khấu ,tái chiết khấu,lãi suất tín dụng tại ngân hàng.
Nó phức tạp bởi nó là một phạm trù giá cả.sự biến động của nó chịu ảnh hưởng của các quy luật cung cầu trên thị trường,quy luật đó lại có mối quan hệ tác động qua lại với các quy luật khác.
V ậy lãi suất được hiểu theo một nghĩa chung nhất là gía cả của tín dụng –giá cả của quan hệ vay mượn hoặc cho thuê những dịch vụ về vốn dưới hình thức tiền tệ hoặc các dạng thức tài sản khác nhau.Khi đến hạn ,người đi vay sẽ phải trả cho người cho vay một khoản tiền dôi ra ngoài số tiền vốn gọi là tiền lãiTỷ lệ phần trăm của số tiền ,lãi trên số tiền vốn gọi là lãi suất.
Các nhà kinh tế học luôn xem xét lãi suất là một khái niệm luôn phát triển ,nó luôn gắn với một nền kinh tế ở một thời điểm lịch sử ,tuỳ theo ,môic trường phái , đã có những quan điểm giải thích khác nhau.Những quan điểm trước đây xem lãi suất là công cụ phân phối thu nhập quốc dân,phân phối lãi suất thặng dư,là phương tiện hạ giá thành sản phẩm…không còn thích hợp với nền kinh tế thị trường.
Ở tầm kinh tế vi mô ,lãi suất là cơ sở để cho các cá nhân cũng như các doanh nghiệp đưa ra các quyết định kinh tế của mình như:chi tiêu hay để dành gửi tiết kiệm , đầu tư số vốn tích luỹ được vào danh mục đầu tư này hay danh mục đầu tư khác..
Mặt khác , ở tầm kinh tế vĩ mô ,lãi suất lại là một công cụ điều tiết cho vay kinh tê rất nhạy bén và hiệu quả :thông qua việc thay đổi mức và cơ cấu lãi suất trong từng thời kì nhất định ,chính phủ có thể tác động đến quá trình điều chỉnh cơ cấu , đến tốc độ tăng trưởng ,sản lượng ,tỷ lệ thất nghiệp và tình trạng lạm phát trong nước.Hơn thế nữa,trong những điều kiện nhất định của nền kinh tế mở,chính sách lãi suất còn được sử dụng như là một công cụ góp phần điều tiết đối với các luồng vốn đi vào hay đi ra đối với một nước ,tác động đến đầu tư phát triển kinh tế mà còn tác động trực tiếp đến cán cân thanh toán và các quan hệ thương mại quốc tế của nước đó đối với nước ngoài.
Cùng với quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường , đất nước ta đã có những cải cách cơ bản trong các hoạt động của toàn bộ hệ thống ngân hàng và cải cách cơ bản trong các hoạt động của toàn bộ hệ thống ngân hàng và tài chính.Trong những điều kiện như vậy ,việc học tập kinh nghiệm quản lý và điều hành chính sách lãi suất của các nước phát triển là rất cần thiết. Điều này không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình xây dựng và điều hành một chính sách lãi suất phù hợp với quá trình hình thành và hoạt động một cách có hiệu quả của hệ thống thị trường tài chính ở Việt Nam,góp phần rất quan trọng đối với quá trình hình thành và hoạt động một cách có hiệu quả của hệ thống thị trường tài chính ở Việt Nam,góp phần giải quyết những khó khăn về vốn , đảm bảo sự thắng lợi trong cho công cuộc công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
2.Phân loại lãi suất
2.1.Phân loại theo độ dài thời gian
Dựa vào tiêu thức thời gian ,mỗi nước phân loại lãi suất có khác nhau
Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) phân chia lãi suất ra làm hai loại:1)lãi suất ngắn hạn được áp dụng cho những khoản vay có thời hạn từ 12 năm trở lại,2) lãi suất dài hạn được áp dụng cho những khoản vay trên 12 tháng.
Ở một số nước có nền kinh tế phát triển ,như Hoa Kỳ thường phân chia lãi suất ngắn hạn từ một năm trở xuống và lẫi suất dài hạn có thời gian trên một năm.
Nhưng ở nứơc ta lãi suất theo độ dài thời gian gồm 3 loại:
+Ngắn han: từ 12 tháng trở xuống
+Trung han: Trên 12 tháng đến 5 năm
+Dài hạn :Trên 5 năm
2.2.Phân loại theo loại tiền
Theo tiêu thức này,lãi suất được chi làm hai loại:
+Lãi suất nội tệ: Đây là lãi suất được tình trên cơ sở đồng tiền của quốc gia sử dụng, được áp dụng trong khuôn khổ cho vay hoặc đi vay bằng đồng tiền của quốc gia đó.Ví dụ ở Việt Nam lãi suất được tính trên cơ sở VND là lãi suất nội tệ tại Việt Nam. Ở Nhật lãi suất được tính trên đồng Yên là lãi suất nội tệ của Nhật.
+Lãi suất ngoại tệ: Đây là loại lãi suất được tính trên cơ sở những đồng tiền của nước ngoài được thực hiện khi vay hoặc cho vay bằng ngoại tệ.Ví dụ ở việt nam được tính trên cơ sở USD là lãi suất ngoại tệ tại Việt Nam. Ở Hoa Kỳ lãi suất được tính trên cơ sở đồng EURO là lãi suẩt ngoại tệ tại Hoa Kỳ.
2.3.Phân loại theo phương pháp tính lãi
Phân loại theo tiêu thức này là cách phân loại mà mọi người thườn quan tâm để quyết định vay hoặc cho vay với loại lãi suất nào và ở mức độ bao nhiêu.Theo tiêu thức này,thường có hai loại:
+Lãi suẩt đơn:là lãi suất chỉ được xác định trên số vốn gốc ban đầu mà không tính thêm tiền lãi tích lũy kỳ trước,tức là không ghép lãi vào vốn.Lãi suất đơn thường là lãi suất danh nghĩa,lãi suất gi trên hợp đồng tín dụng.
Ta sẽ có công thức tổng quát tính số tiền lãi theo lãi đơn như sau:
I =Cta/100
C:là số vốn
t :là lãi suất năm cảu 100 đơn vị tiền tệ
I: là số tiền lãi
a :là thời hạn tính theo năm
+Lãi suất ghép:lãi suất này được hình thành bởi sự gép lãi đơn trong thời kỳ vào vốn để tính lãi trong thời kỳ kế tiếp theo và có thể tiếp tục mãi.
Khi hoàn trả tiền vay ,người đi vay trả .
Công thức tính lãi theo lãi ghép:
Cn=C0(1+i)n
C0:Số vốn ban đầu
n :Số thời kì gửi vốn
i :Lãi suất của một đơn vị tiền tệ
2.4.Phân loại theo giá trị thực
Tiêu thức này giúp xem xét vấn đề khi vay hoặc cho vay với một lãi suất nào đó ,chúng ta có cơ may thu được giá trị thực của đồng tiền nhiều hoặc ít hơn so với biến động của mức lạm phát .Phân loại lãi suất theo tiêu thức này,chúng ta có hai loại:lãi suất danh nghĩa và lãi suất thực .
+Lãi suất danh nghĩa:Là lãi suất của tài sản trên đơn vị tiền tệ ,nó đơn thuần chỉ ra số lượng đơn vị tiền thu được từ mỗi 100 đơn vị được đem ra đầu tư trong khoảng thời gian nhất định nào đó,không tính đến ảnh hưởng của lạm phát .Các lãi suất được công bố trên các phương tiện truyền thông đại chúng là lãi suất danh nghĩa.
+Lãi suất thực là lãi suất được chỉnh lại cho đúng theo những thay đổi dự tính về mức giá,do đó nó phản ánh chính xác hơn chi phí thật của việc vay tiền.
2.5.Phân loại theo nghiệp vụ ngân hàng
Là trung gian tài chính ,ngân hàng tham gia vào quan hệ tín dụng với hai tư cách:
-một là vai trò thụ trái,tức là đi vay
-hai là vai trò trái chủ,tức là cho vay.
Do đó các ngân hàng thường áp dụng tiêu thức phân loại lãi suất theo nghiệp vụ ,chia lãi suất thành hai loại:
+Lãi suất huy động :là lãi suất do các ngân hàng đưa ra để huy động vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội,trong đó lãi suất tiền gửi có vị trí quan trọng .Hiện nay hầu hết các ngân hàng đang phải đối mặt với sự cạnh tranh thu hút khách hàng về mình trong việc định giá các dịch vụ liên quan đến tiền gửi,một loại tiền vốn của ngân hàng .Một mặt ngân hàng phải trả một khoản lãi suất đủ lớn để có thể thu hút và duy trì sự ổn định trong lượng tiền.
+Lãi suất cho vay:là lãi suất mà người đi vay của ngân hàng căn cứ vào đó để trả lãi vay cho ngân hàng .Trong công bố lãi suất ,lãi suất cho vay thường đứng sau lãi suất đi vay của ngân hàng.
phân loại theo tiêu thức này giúp các ngân hàng có thể quyết định nên ấn định lãi suất huy động vốn và lãi suất cho vay là bao nhiêu ,từ đó có thể huy động được nguồn dồi dào đồng thời có thể sử dụng hết nguồn vốn của mình để cho vay nhằm hướng tới mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận.Mặt khác ,phân loại theo tiêu thức này cũng giúp cho người gửi tiền có thể lưaj chọn một ngân hàng để gởi tiền với lãi suất cao nhất, đồng thời người vay tiền có thể lựa chọn một ngân hàng để xin vay với lãi suất thấp nhất.
2.6.Phân loại theo phương thức tính lãi
+Phương thức cố định lãi suất:
Đây là phương thức cổ điển nhất vì nó xuất hiện từ thời Hy Lạp-La Mã.Theo phương thức này ,các ngân hàng đưa ra các thang đo lãi suất đã lập sẵn để thông báo cho các khách hàng có nhu cầu vay vốn từ ngân hàng .Khách hàng chỉ có thể chấp nhận mức vay ấy nếu muốn vay tiền .Phương thức này có ưu điểm sẽ giúp cho ngân hàng ước tính khá chính xác được lợi nhuận từ những khoản cho vay và chủ động tính lãi suất cần đưa ra để huy động tiền gửi và các tài sản nợ khác.Tuy nhiên việc cố định lãi suất đã làm cho ngân hàng tự hạn chế về khả năng cho vay và đầu tư,ngân hàng không thể cho vay dưới mức ấn định ,từ đó xáy ra tình trạng ngân hàng nhiều khi thừa vốn mà không thể hoặc không giám đầu tư.Hơn nữa ,việc cố định lãi suất sẽ không thể xảy ra việc thương lượng về chi phí vốn giữa người đi vay và người muốn cho vay.Do đó ,kết quả là ngân hàng phẩi chạy theo khách hàng chứ không phải người cần vay chạy theo ngân hàng để thương lượng.
+Phương thức thả nổi lãi suất
Khi hoạt động theo phương thức thả nổi lãi suất,ngân hàng quan tâm đến lợi nhuận về ngắn hạn mà bỏ quên khách hàng .Ngược lại ,khi thả nổi lãi suất theo thị trường và theo kết quả thương lượng của từng thương vụ ,ngân hàng quản lí tài sản và lợi nhuận theo kết quả thương lượng giữa người mua và người bán.Với lãi suất thả nổi ngân hàng quan tâm đến khách hàng và lợi nhuận theo từng mục đích lâu dài.Khi đó ngân hàng sẽ có nhiều khách hàng tìm đến và chắc chắn sẽ có nhiều cơ hội tốt để lựa chọn đầu tư và như vậy không phải ngân hàng tìm đến khách hàng một cách đơn phương mà cả khách hàng cũng tìm đến ngân hàng bởi lẽ cả hai đều thấy có thể có nhiều lợi ích qua thương lượng.
3.Một số phân biệt về lãi suất
3.1.Lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa
Trên thực tế ,những khoản thu nhập bằng tiền hay thu nhập danh nghĩa thường không phản ánh đúng giá trị thực của chính khoản thu nhập đó.Tỷ lệ lạm phát hay tỷ lệ trượt giá của đồng tiền trong một thời gian nhất định luôn làm cho giá trị thực trở nên nhỏ hơn giá trị danh nghĩa.Vì vậy,lãi suất thực luôn nhỏ hơn lãi suất danh nghĩa bởi tỷ lệ lạm phát nói trên.
Thông thường trong những điều kiện tỷ lệ lạm phát(ii)không lớn hơn 10% thì lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa có thể liên hệ với nhau qua công thức đơn giản:
ir=in-ii
Trong đó ,ir,in và ii lần lượt là lãi suất thực,lãi suất danh nghĩa và tỷ lệ lạm phát.
Tuy nhiên nếu tỷ lệ lạm phát ii cao hơn 10%,ví dụ là 35%,lãi suất danh nghĩa ,ví dụ là 144% thì lãi suất thực không thể tính như trên(144-35=111%)mà phải tính theo công thức:
Ir=(in-ii)/(ii+1)
3.2.Lãi suất và tỷ suất lợi tức
Lãi suất là tỷ lệ phần trăm của số tiền lãi trên số tiền vốn cho vay.Trong khi đó tỷ suất lợi tức là tỷ lệ phần trăm của số thu nhập của người có vốn trên tổng số vốn anh ta đã đưa vào sử dụng(đầu tư hay cho vay).Như vậy lãi suất không nhất thiết bằng tỷ suất lợi tức.
3.3.Lãi suất cơ bản của ngân hàng
Ba lãi suất cơ bản của ngân hàng thường được quan tâm hơn cả bao gồm:lãi suất tiền gửi, lãi suất cho vay và lãi suất liên ngân hàng.Lãi suất tiền gửi thông thường là lãi suất mà ngân hàng thương mại trả cho người gửi tiền trên số tiền ở tài khoản tiền gửi tiết kiệm.Tuy nhiên ở một số nước đang phát triển khác,tiền gửi không thời hạn để phát hành séc cũng có thể được trả lãi suất tiền gửi nhằm mục đích khuyến khích cho việc thanh toán không dùng tiền mặt.Lãi suất tiền gửi được xác định qua công thức:
Itg=icb+ii
Trong đó ,itg và icb lần lượt là lãi suất tiền gửi và tỷ lệ lãi cơ bản ngân hàng trả cho từng loại tiền gửi khác nhau.
Lãi suất cho vay cũng bao gồm nhiều laọi khác nhau,tuỳ theo tình chất của món vay và thời gian vốn,tuy vậy lãi suất cho vay thường được xác định dựa trên cơ sở lãi suất tiền gửi: icv=itg+X
Trong đó icv là lãi suất vay,X là chi phí nghiệp vj ngân hàng,bao gồm tất cả các khoản chi phí hoạt động,phát triển vốn và dự phòng rủi ro,…. Đối với các nước phát triển tìa chính tự do hoá,X được xác định bởi thị trường ,còn đối với các nước như Việt Nam,X được quy định bởi ngân hàng Nhà nước.
Ngoài lãi suất tiền gửi cho vay,liên quan đến hoạt động của ngân hàng trên phạm vi thị trường tiền tệ còn có lãi suất liên ngân hàng:Lãi suất mà các ngân hàng cho nhau vay tiền nhằm giải quyết nhu cầu vốn ngắn hạn trên các thị trường tiền tệ.Lãi suất LIBOR hay PIBOR…tương ứng với lãi suất trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng London hay Paris.
4.Cấu trúc kì hạn và cấu trúc rủi ro lãi suất
4.1.Cấu trúc rủi ro của lãi suất:
Có rất nhiều các trường phái và lý thuyết khác nhau nghiên cứu về cấu trúc rủi ro của lãi suất và mức độ rủi ro của một món vay hay một dự án đầu tư.Lý thuyết về cấu trúc rủi ro của lãi suất cũng được phát triển dựa vào các thị trường với các đặc điểm khác nhau.Và một sự thống nhất chung của các trường phái là:mức độ rủi ro của món vay càng cao,lãi suất cảu món vay đó càng cao.
4.2.Cấu trúc thời hạn của lãi suất
Tương tự như khi chúng ta nghiên cứu về cấu trúc rủi ro,cấu trúc thời hạn cũng đựơc trình bày khác nhau phụ thuộc vào việc phân tích các dạng thức cho vay khác nhau tạo ra các đường cong lãi suất khác nhau.Hơn nữa,cấu trúc về thời hạn của lãi suất còn phụ thuộc vào các lý thuyết:lý thuyết về dự đoán về cấu trúc thời hạn,lý thuyết về tiền thưởng rủi ro và lý thuyết về phân đoạn thị trường.Tuy vậy có thể thấy rất rõ ràng từ những kết quả phân tích mang tính quy luật và những bằng chứng thực nghiệm rằng một món vay có thời hạn càng dài thì lãi suất càng cao.
5.Các nhân tố ảnh hưởng tới lãi suất
Lãi suất trong nền kinh tế thị trường luôn biến động phụ thuộc rất nhiều vào các nhân tố kinh tế vĩ mô cũng như nhiều nhân tố khác.
5.1. Ảnh hưởng của cung cầu của quỹ cho vay
Lãi suất là giá cả của cho vay vì vậy bất lì sự thay đổi nào của cung cầu hoặc cả cung và cầu quỹ cho vay không cùng một tỷ lệ đều sẽ là thay đổi mức lãi suất trên thị trường,tuy mức độ biến động của lãi suất cũng ít nhiều phụ thuộc vào các quy định của chính phủ và ngân hàng Trung ương ,song đa số các nước có nền kinh tế thị trường đều dựa vào nguyên lý này để xác định lãi suất.Từ điều này cho thấy chúng ta có thể tác động vào cung cầu trên thị trường vốn để thay đổi lãi suất trong nền kinh tế cho phù hợp với các mục tiêu chiến lược trong từng thời kỳ:chẳng hạn như tghay đổi cơ cấu vốn đầu tư,tập trung vốn đầu tư cho các dự án trọng điểm.Mặt khác,muốn duy trì ổn định của lãi suất thì sự ổn của thị trường vốn phỉa được đảm bảo vững chắc..
5.2Ảnh hưởng của lạm phát kỳ vọng
+Khi mức lạm phát được dự đoán sẽ tăng lên trong một thời kỳ nào đó,lãi suất sẽ có xu hướng tăng. Điều này có thể được giải thích bằng hai hướng tiếp cận.Thứ nhất,xuất phát từ mối quan hệ giữa lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa \cho thấy, để duy trì lãi suất thực không đổi ,tỷ lệ lam phát tăng đòi hỏi lãi suất fanh nghĩa phải tăng lên tương ứng.Thứ 2,công chúng dự đoán lạm phát tăng ,sẽ dành phần tiết kiệm của mình cho việc dự trữ hàng hoá hoặc những dạng thức tài sản phi tài chính khác như vàng ,ngoại tệ mạnh,hoặc đầu tư vốn ra nước ngoài nếu có thể.Tất cả các điều này làm giảm cũng quỹ cho vay và gây áp lực tăng lãi suất của các nhà băng cũng như trên thị trường.Từ mối quan hệ này cho thấy ý ngiã và tầm quan trọng của việc khắc phục tâm lý lạm phát đối với việc ổn định lãi suất,sự ổn định và tăng trưởng nền kinh tế.
5.3. Ảnh hưởng của Bội chi Ngân sách
Một cách đơn giản nhất,bội chi ngân sách trung ương và địa phương trực tiếp làm cho cầu của quỹ cho vay tăng làm tăng lãi suất.Sau nữa,bội chi ngân sách sẽ tác động đến tâm lý công chúng về gia tăng mức lạm phát và do vậy mà sẽ gây áp lực tăng lãi suất .Trên một giác độ khác,thông thường khi bội chi ngân sách tăng chính phủ thường tăng việc phát hành trái phiếu.Lượng cung trái phiếu trên thị trường gia tăng việc phát hành trái phiếu có xu hướng giảm,lãi suất thị trường vì vậy mà tăng lên.Hơn nữa ,tài sản có cửa các ngân hàng thương mại cũng gia tăng ở khoản mục trái phiếu chính phủ,dự trữ vượt quá giảm.lãi suất ngân hàng cũng sẽ tăng.
5.4.Những thay đổi về thuế
Thuế thu nhập cá nhân và thuế lợi tức công ty luôn tác động đến lãi suất giông như khi thuế tác động đến giá cả hàng hoá.Nếu các hình thức thuế này tăng lên cũng có nghĩa là điều tiết đi một phần thu nhập của những cá nhân và tổ chức cung cấp dịch vụ tín dụng hay những người tham gia kinh doanh chứng khoán.Thông thường ai cũng sẽ quan tâm đến thu nhập thực tế hay lợi nhuận sau thuế hơn là thu nhập danh nghĩa.Do vậy , để duy trì một mức lợi nhuận thực tế nhất định họ phải cộng thêm vào lãi suất cho vay những thay đổi của thuế. Điều quan trọng được rút ra từ mối quan hệ này là việc xấc lập và điều chỉnh đối với chính sách thuế ,nhằm hạn chế những tác động ngoài ý muốn của mối thay đổi nói trên của thuế.
5.5.Những thay đổi trong đời sống xã hội
Ngoài những yếu tố được trình bày ở trên,sự thay đổi của lãi suất còn chịu ảnh hưởng của các yếu tố thuộc về đời sống xã hội khác.Sự phát triển của thị trường tài chính với các công cụ tài chính đa dạng phong phú là một ví dụ .Các công cụ này khác nhau không chỉ ở thời gian phương pháp tính và trả lãi ,khả năng tiêu thụ mà cả về độ co giãn của giá cả theo lượng cầu của chúng .Chính vì vậy mà những thay đổi trong cơ cấu chứng khoán,sưk xuất hiện chứng khoán mới ,cũng như sự phát triển theo chiều rộng và chiều sâu cảu thị trường sơ cấp cũng sẽ tác động làm thay đổi lãi suất trên thị trường tứ cấp…Thêm nữa ,tình hình kinh tế ,chinh strị cũn như những biến động tài chính quốc tế như các cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trên thế giới ,các luồng vốn đầu tư ra ,vào đối với các nước…đều ít nhiều tác động đến sự thay đổi lãi suất của tất cả các nước khác.
III Lãi suất tiền gửi ngân hàng
Hiện nay,hầu hết các ngân hàng đang phải đối mặt với sự cạnh tranh thu hút khách hàng về mình trong việc định giá các dịch vụ liên quan đến tiền gửi ,một loại nguồn vốn chủ yếu của ngân hàng.Một mặt ngân hàng phải trả một mức lãi suất đủ lớn để có thể thu hút và duy trì sự ổn định trong lượng tiền gửi của khách hàng.Mặt khác ,ngân hàng phải cố gắng hạn chế việc trả lãi suất cao,bởi điều này sẽ làm giảm mức thu nhập tiềm năng của ngân hàng.
Ngân hàng thường phải lựa chọn giữa hai mục tiêu tăng trưởng và khả năng sinh lời.Trả lãi suất cao hơn cho các khoản tiền gửi và các nguồn vốn giúp cho ngân hàng tăng trưởng nhanh hơn,nhưng chiến lược cạnh tranh này khiến cho lợi nhuận của ngân hàng suy giảm nghiêm trọng.Quy mô của tiền gửi chủ yếu dựa vào quy mô các khoản cho vay và đầu tư.
Huy động vốn là hoạt động chủ yếu và thường xuyên của ngân hàng,bởi vì để có tiền cho vay và kinh doanh các lĩnh vực khác,ngân hàng không chỉ dựa vào nguồn vốn điều lệ của mình(vốn chủ sở hữu) mà còn phỉa huy động vốn trên thị trường .Hiện nay các ngân hàng có những phương thức huy động chủ yếu bao gồm những loại tiền gửi sau:
1.Lãi suất tiền gửi giao dịch(tiền gửi thanh toán):
1.1.Khái niệm:
Đây là tiền của doanh nghiệp hoặc cá nhân gửi vào ngân hàng để nhờ ngân hàng giữ và thanh toán hộ.
Trong phạm vi số dư cho phép,các nhu cầu chi trả của doanh nghiệp và cá nhân đều được ngân hàng thực hiện.Các khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp và cá nhân đều có thể được nhập vào tiền gửi thanh toán theo yêu cầu.Tiền gửi giao dịch thì chủ tài khoản có thể rút tiền bằng các công cụ có thể chuyển quyền sở hữu được,mà điển hình là tờ séc để trả cho bên thứ ba bất kỳ lúc nào.Mục đích của khách hàng khi gửi tiền thanh toán là để an toàn tiện lợi trong thanh toán không dùng tiền mặt và hưởng các dịch vụ khác do ngân hàng cung cấp.Nhìn chung ,lãi suất khoản tiền này rất thấp.
1.2.Phân loại
+.Tài khoản tiền gửi thanh toán dùng cho các doanh nghiệp: không được hưởng lãi trực tiếp,mà người gửi chỉ hưởng lãi gián tiếp thông qua các dịch vụ thanh toán miễn phí của ngân hàng .
+.Tài khoản tiền gửi thanh toán dùng cho cá nhân: được ngân hàng trả lãi,nhưng lãi suất áp dụng cho loại tiền gửi này thường thấp hơn lãi suất tiền gửi định kỳ.
2.Lãi suất tiền gửi phi giao dịch(tiền gửi có kì hạn và tiền gửi tiết kiệm)
2.1.Khái niệm:
Tiền gửi giao dịch là loại tiền gửi có định hướng tiết kiệm,gửi tiền dự phòng có hưởng lãi,không thể dùng thường xuyên vào mục đích thanh toán.
Khác với tiền gửi thanh toán ,tiền gửi định lỳ là tiền tạm thời chưa sử dụng hoặc là tiền để dành của cá nhân ,vì vậy mục đích gửi tiền vào ngân hàng là nhằm tìm kiếm tiền lãi.
Đối với ngân hàng tiền gửi định kì là nguồn vốn ổn định trong kinh doanh ,do đó ngân hàng thường trả lãi cho tiền gửi có kì hạn cao hơn lãi suất chi trả cho tiền gưi thanh toán của cá nhân.Hình thức áp dụng tiền gửi có kì hạn tại các ngân hàng rất đa dạng ,có loại có kì hạn 1 tuần,2 tuần,1 tháng,3 tháng…thời hạn càng dài lãi suất càng cao.Lãi suất tiền gửi có kì hạn có thể tính theo phương pháp lãi suất đơn,hoặc lãi suất tích hợp và áp dụng lãi suất cố định hoặc lãi suất thả nổi.Nếu áp dụng lãi suất thả nổi ,thì thường lấy lãi suất thị trường liên ngân hàng làm cơ sở cho việc xác định lãi suất.
2.2.Phân loại:
+Tiền gửi có kì hạn của doanh nghiệp,các tổ chức xã hội
Nhiều khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp,các tổ chức xã hội sẽ được chi trả sau một thời gian xác định.Tiền gửi thanh toán tuy rất thuận tiện cho hoạt động thanh toán song lãi suất lại thấp. Để đáp ứng nhu cầu tăng thu của người gửi tiền,ngân hàng đã đưa ra hình thức tiền gửi có kì hạn.Người gửi không được sử dụng các hình thức thanh toán đối với tiền gửi này.Nếu cần chi tiêu ,người gửi phải đến ngân hàng để rút tiền ra.Tuy không thuận lợi cho tiêu dùng bằng hình thức tiền gửi thanh toán song tiền gửi có kì hạn được hưởng lãi suất cao hơn tuỳ theo độ dài của kì hạn.
+Tiền gửi tiết kiệm dân cư:
Các tầng lớp dân cư đều có các khoản thu nhập tạm thời chưa sử dụng (các khoản tiền tiết kiệm)Trong điều kiện có khả năng tiếp cận với ngân hàng ,họ đều có thể gửi tiết kiệm nhằm thực hiện các mục tiêu bảo toàn và sinh lời đối với các khoản tiết kiệm , đặc biệt là nhu cầu bảo toàn .Nhằm thu hút ngày càng nhiều tiền tiết kiệm,các ngân hàng đều cố gắng khuyến khích dân cư thay đổi thói quen giữ vàng và tiền mặt tại nhà bằng cách mở rộng mạng lưới huy động , đưa ra các hình thức huy động đa dạng và lãi suất cạnh tranh hấp dẫn.Ngân hàng có thể mở cho mỗi người tiết kiệm nhiều trương mục tiết kiệm cho mỗi kì hạn và mỗi lần gửi khác nhau.Sổ tiết kiệm này không dùng để thanh toán tiền hàng và dịch vụ song có thể thế chấp để vay vốn nếu được ngân hàng cho phép.Lãi suất tiền gửi tiết kiệm cũng rất đa dạng,nó được chia theo thời gian,chia theo khối lượng...Thời gian càng dài thì lãi suất càng cao…
3.Các loại lãi suất khác
Bên cạnh các hình thức huy động trên ,ngân hàng còn phát hành các chứng chỉ tiền gửi kì phiếu,trái phiếu ngân hầng để huy động vốn trên thị trường phù hợp với kế hoạch sử dụng vốn của mình .Vì thế ,ngân hàng còn trả lãi cho các loại tiền gửi tiết kiệm không kì hạn ,tiền gửi tiết kiệm có kì hạn.Riêng đối với tiền gửi tiết kiệm có kì hạn ,ngoài lãi suất được hưởng ,người gửi còn có thể được thưởng dưới hình thức bằng tiền ,hoặc hiện vật thông qua xổ số theo định kỳ.
Ngoài các tiền gửi định kì theo tài khoản,ngân hàng còn phát hành các giấy nợ dưới hình thức kì phiếu(hoặc trái phiếu).Việc huy động kỳ phiếu thường được áp dụng theo hai phương thức sau:
a)Phát hành dưới hình thức ngang mệnh giá:Người mua kì phiếu trả tiền theo mệnh giá đã được ghi trên tờ kỳ phiếu,khi đến hạn thanh toán ,ngân hàng sẽ hoàn trả vốn gốc là mệnh giá và phần lãi mà khách hàng được hưởng.
b)Phát hành dưới hình thức chiết khấu :Người mua kỳ phiếu trả tiền theo mệnh giá trừ đi số tiền chiết khấu và khi đến hạn thanh toán ,ngân hàng sẽ trả theo đúng mệnh giá.
Tiền gửi là nguồn vốn lớn nhất của ngân hàng thương mại.Việc duy trì và mở rộng tiền gửi có ý ngiã đặc biệt quan trọng trong việc mở rộng kinh doanh và gia tăng lợi nhuận của ngân hàng.Vì vậy cần phỉa có những chính sách về lãi suất thích hợp nhằm thu hút tiền gửi khách hàng và đồng thời nhằm gia tăng lợi nhuận cho ngân hàng.
4.Phương pháp xác định chi phí huy động vốn(Lãi suất cho vay hoà vốn)
Việc chọn lựa các phương pháp xác định chi phí huy động vốn sẽ giúp ngân hàng tính toán chính xác một cách tương đối chi phí huy động vốn được coi là yếu tố cơ bản để xác định mức lợi nhuận mà ngân hàng cần thu được từ các tài sản có sinh lời và tìm kiếm cho mình một tổ hợp các nguồn vốn khác nhau trên thị trường với mức chi phí thấp nhất.Bên cạnh đó ,ngân hàng cũng có cơ sở để nhận định việc sử dụng nguồn vốn huy động ảnh hưởng đến rủi ro thanh khoản ,rủi ro lãi suất đến mức độ nào.Hầu hết các ngân hàng thương mại đều xác định chi phí huy động vốn theo phương pháp lãi suất cho vay hoà vốn:
Lãi suất cho vay hoà vốn=(chi phí trả lãi+chi phí huy động khác)/Tổng tài sản có có sinh lời
Lãi suất cho vay hoà vốn là mức lãi suất cho vay tối thiểu do ngân hàng tính toán để xác định rằng nếu ngân hàng chỉ cho vay khách hàng ở mức lãi suất này thì ngân hàng chỉ đủ để trang trải các chi phí lãi (hoà vốn).Với phương pháp này có thể sẽ giúp nhà quản trị ngân hàng có mục tiêu tỷ suất sinh lời trước thuế định hướng trước để quyết định cho vay hay đầu tư mới đảm bảo bù đắp được chi phí huy động vốn và có lãi.
Vì sao muốn tính toán lãi suất huy động vốn phải dựa vào cônh thức “cho vay hoà vốn”?
Trong hệ thống NHTM ,quy mô của tiền gửi chủ yếu dựa vào khoản tín dụng mà các ngân hàng đưa ra dưới hình thức cho vay và đầu tư.Nếu các ngân hàng không tham gia vào hoạt động cho vay và đầu tư ,họ sẽ chỉ có các ký thác tương ứng với lượng tiền mặt mà người ký quỹ gửi tại ngân hàng . Đa số tiền gửi hoàn toàn dẽ hoán chuyển thành tiền mặt và tiền lãi sẽ chỉ phản ánh mức thu nhập từ các lệ phí do tiền tệ nhận thấy có thể kiếm lợi được và do vậy ,họ cố gắng cho vay và đầu tư một cách thận trọng đối với số vốn họ nhận được từ các cổ đông và những người ký thác nhằm làm tăng mức lợi nhuận ,chính vì vậy mà ngân hàng khi tính toán lãi suất huy động vốn phải dựa vào công thức cho vay hoà vốn.
Trong thực tế ,vốn huy động có nhiều loại lãi suất khác nhau với nhiều kỳ hạn khác nhau.Do đó lãi suất của vốn huy động phải được tính trên tổng thể nguồn vốn mà ngân hàng huy động được .Việc tính toán này mang tính chất thường xuyên định kì nhằm đánh giá được một cách tổng quan chi phí đầu vào,từ đó ngân hàng có cơ sở hoạch định chính sách đầu ra, đảm bảo kinh doanh có hiệu quả.
Cụ thể có các phương pháp xác định lãi suất cho vay hoà vốn như sau:
+ Lãi suất cho vay hoà vốn :theo phương pháp chi phí bình quân .Phương pháp này chú trọng vào cơ cấu hỗn hợp các nguồn vốn mà ngân hàng đã huy động trong quá khứ và xem xét cẩn thận mức lãi suất mà thị trường đã áp đặt ngân hàng phải phải trả cho mỗi nguồn vốn đi vay .Tích số của lãi suất phỉa trả và tổng mức vốn đi vay được sử dụng trong quá khứ tạo thành chi phí nguồn vốn trung bình quân gia quyền.
+ Lãi suất cho vay hoà vốn theo phương pháp chi phí bình quân có ưu điểm là đơn giản,nhưng lại chỉ nhìn về quá khứ để xem xét chi phí và lãi suất tối thiểu để cho vay đã thực hiện của ngân hàng .Phương pháp cho vay hoà vốn theo chi phí vốn biên tế giúp nhà quản trị hưởng về tương lai.
+Lãi suất hoà vốn theo chi phí huy động vốn hỗn hợp.
Lãi suất cho vay=(chi phí lãi+Chi phí phi lãi)x100/Mức cho vay
Trong công thức lãi suất cho vay vốn theo phương phương pháp chi phí vốn biến tế đơn giản hoá nguồn vốn huy động để cho vay của ngân hàng là từ một nguồn vốn,trong khi đó ngân hàng huy động vốn hỗn hợp sẽ quan tâm đến việc tập hợp huy động mọi nguồn vốn đi vay và sở hữu của ngân hàng:
Lãi suất cho vay hoà vốn=(chi phí lãi+Chi phí phi lãi huy động mới)x100/Tổng tài sản sinh lời mới tạo ra
Rõ ràng là phương pháp này đã xác lập một tiêu chuẩn chặt chẽ hơn cho việc định giá các dịch vụ của ngân hàng ,bao gồm các dịch vụ tiền gởi và huy động vốn khác.
Tuy nhiên ,biện pháp tốt nhất là nâng tỷ trọng thanh toán không dùng tiền mặt để nâng cao khả năng tạo tiền gởi ứng lập của hệ thống ngân hàng thương mại,từ đó góp phần hạ thấp chi phí huy động vốn.
Hầu hết các NHTM đều xác định chi phí huy động vốn theo phương pháp chi phí trung bình theo nguyên giá.
Lãi suất bình quân đầu vào=Chi phí trả lãi/Tổng vốn huy động và đi vay
Thước đo chi phí huy động bình quân sẽ có ích khi sử dụng để đánh giá tình hình huy động vốn trong quá khứ.Tuy nhiên ,phương pháp này có nhiều hạn chế như trong nguồn vốn huy động của ngân hàng có một bộ phận không mang lại lợi nhuận cho ngân hàng (dự trữ bắt buộc…),chi phí huy động vốn cần bao hàm cả các chi phí khác có liên quan đến việc huy động vốn (chi phí tác ngiệp …)Bên cạnh đó,chi phí theo nguyên giá này sẽ chọn lựa huy động vốn theo loại nào hoặc sẽ định giá tài sản có ra sao khi lãi suất biến động mạnh. Để khắc phục những hạn chế của phương pháp trên ,ngân hàng nên xác định chi phí huy động vốn theo phương pháp lãi suất cho vay hoà
Lãi suất cho vay hoà vốn=(chi phí trả lãi+chi phí huy động khác)/tống tài sản có sinh lời
Lãi suất cho vay hoà vốn là mức lãi suất cho vay tối thiểu chỉ đủ để ngân hàng bù đắp cho chi phí huy động vốn.Phương pháp lãi suất cho vay tối thiểu chỉ đủ để ngân hàng bù đắp cho chi phí huy động vốn.Phương pháp này giúp nhà quản trị ngân hàng có mục tiêu tỷ suất sinh lời trước thuế định hướng trước khi quyết định cho vay hay đầu tư để đảm bảo được chi phí huy động vốn và có lãi.
Trong thực tế ,vốn huy động có nhiều loại lãi suất khác nhau vơí nhiều kì hạn khác nhau.Do đó ,lãi suất của vốn huy động phải được tính trên tổng thể nguồn vốn mà ngân hàng thương mại huy đông được.Việc tính lãi này phải mang tính thường xuyên , định kì nhằm đánh giá được một cách tổng quan chi phí đầu vào,từ đó ngân hàng mới có chính sách hoạch định lãi suất đầu ra, đảm bảo kinh doanh có hiệu quả.
5.Phương thức định giá lãi suất tiền gửi ngân hàng
5.1.Lãi suất tiền gửi nhìn chung được định giá thấp hơn lãi suất cho vay.Lãi suất tiền gửi được định giá dựa vào tỷ lệ chênh lệch bình quân, đã được tính toán trong quá khứ giữa lãi suất bình quân đầu vào đảm bảo sao cho ngân hàng trang trẩi được chi phí lãi,các chi phí phi lãi và có lợi nhuận.Tỷ lệ chênh lệch này được tính toán dựa vào lãi suất tiền gửi trong quá khứ kết hợp với yếu tố cạnh tranh ,tỷ lệ phí bảo hiểm tiền gửi ,tỷ lệ giự trữ bắt buộc và tỷ lệ chi phí quản lý vốn huy động.
5.2.Lãi suất tiền gửi có tính đến các yếu tố lạm phát ,yếu tố về thời gian gửi tiền của khách hàng…
Thời gian gần đây ,các ngân hàng đã duy trì được mối tương quan giữa lãi suất tiền gửi với tỷ lệ lạm phát phù hợp ,lãi suất tiền gửi được xây dựng dựa trên nền tảng là đảm bảo quyền lợi của người gửi tiền thể hiện qua lãi suất tiền gửi lớn hơn tỷ lệ lạm phát.
Bên cạnh đó ,lãi suất tiền gửi còn được phân chia theo thời gian gửi tiền.Khách hàng gửi thời hạn càng dài thì lãi suất càng cao, điều này cũng là một thuận lý,vì thời gian gửi tiền càng dài thì yếu tố rủi ro chứa đựng càng lớn nên lãi suất tiền gửi dài hạn thường cao hơn lãi suất tiền gửi ngắn hạn.Khách hàng gửi tiền được chọn lựa lãnh lãi khi đến hạn hoặc theo định kì.Nếu đến hạn khách hàng không đến nhận thì tiền lãi sẽ nhập gốc và chuyển sang kì hạn tiếp theo.Nếu khách hàng rút tiền trước hạn,thì tuỳ theo thời gian khách hàng đã gửi tiền được bao lâu ,khách hàng sẽ được hưởng mức lãi suất rút trước hạn tương ứng với thời hạn gửi tiền.Ngân hàng cũng có lãi suất phân biệt giữa tiền gửi bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ.
Yếu tố cạnh tranh để thu hút vốn huy động cũng đã làm cho các ngân hàng có những chính sách lãi suất khác nhau,một ngân hàng có quy mô nhỏ thường cạnh tranh mở rộng nguồn vốn bằng cách tăng lãi suất huy động vốn cao hơn so với ngân hàng thương mại khác.
Bên cạnh đó,một số ngân hàng còn có những chính sách linh hoạt hơn trong trả lãi tiền được hưởng một tỷ lệ lãi suất thưởn ,khách hàng gửi tiền có kì hạn với mức tiền gửi theo quy định ngân hàng ,thì bên cạnh việc nhận tiền lãi ,khách hàng còn được tham dự sổ số có thưởng,khách hàng gửi tiền có kỳ hạn dài hạn(trên một năm)sẽ được điều chỉnh lãi suất khi lãi suất ngân hàng có sự thay đổi.
Thực tế mỗi hệ thống ngân hàng thương mại hiện nay đều có chỉ đạo riêng về lãi suất cho hệ thống mình(có khung lãi suất cụ thể)trong từng thời kì, đảm bảo lãi suất thực dương và có lãi.Việc duy trì lãi suất cạnh tranh về tiền gửi so với các ngân hàng khác đã trở nên cực kì quan trọng trong việc thu hút các khoản tiền gửi mới và duy trì tiền gửi hiện có, đặc biệt khi lãi suất thị trường đã ở vào mức tương đối cao.Và trong các gia đoạn khan hiếm tiền tệ,dù cho những khác biệt tương đối nhỏ về lãi suất sẽ thúc đẩy người gửi tiết kiệm và nhà đầu tư chuyển vốn từ công cụ mà họ đang có sang tiết kiệm hoặc đầu tư,hay từ một ngân hàng này sang một công ty hoặc một tổ chức nào khác.
6.Các nhân tố cấu thành lãi suất tiền gửi ngân hàng
Về một phương diện nào đó ,lãi suất ngân hàng bị chi phối bởi loại hình tài sản có mà ngân hàng đã đầu tư.Do đó lãi suất áp dụng đối với các loại cho vay của ngân hàng khác nhau và tăng lên tuỳ theo bối cảnh của khoản cho vay.
6.1.Nhân tố thời gian của lãi suất:
Một trong những nhận thức cơ bản và quan trọng nhất của nền kinh tế học đó là “thời gian là tiền”.Bất kì loại tài sản nào được sử dụng một cách hữu ích thì thời gian càng trôi đi ,càng làm cho nó có giá trị hơn nhiều.Giá trị của một loại vật chất như miếng đất thường được xác định bằng sự hữu ích và nhu cầu mong muốn cảu mọi người đối với nó.Tiền cũng vậy.Nếu đem cất kỹ vào kho hay được đem chôn dưới gậm giường,tiền sẽ không tạo ra được bất kì lợi nhuận hay giá trị nào,vì nó bị cách ly với môi trường mà trong đó nó được mọi người cần.Tiền được cất giấu như thế giống như đất bị bỏ hoang,trong trường hợp này càng để lâu giá trị của chúng càng thấp.Ngược lại,khi sử dụng một cách có ích,tiền và đất đều tạo ra giá trị . Đến lượt mình ,chính những giá trị do các tài sản tạo ra xác định nên chi phí cần có để được sở hữu các loại tài sản.
Nhân tố thời gian của lãi suất ngân hàng bao gồm:
+ Giá trị của quyền sử dụng tiền trong khoảng thời gian nhất định.
Giá trị của quyền sử dụng tiền trong thời gian nhất định là lợi tức mà người vay phải trả do sử dụng quyền sử dụng tiền tệ của người cho vay trong điều kiện không lạm phát và rủi ro.Vì ngân hàng đi vay để cho vay nên trong yếu tố này bao gồm:phần trả lãi phải trả cho người kí thác ,chi phí quản lý ,chi phí tiền lương ,chi phí chuyển đổi…Các khoản chi phí này phải thay đổi theo thời hạn tiền kí thác và tuỳ theo loại tín dụng cấp cho khách hàng vay.
Tất cả các loại tài sản có và tài sản nợ khác nhau về thời gian đáo hạn. Đây là độ dài về giờ,ngày,tháng,năm của khoản nợ từ ngày nhận cho đến khi nó trả được lãi suất cho mỗi loại cũng khác nhau. Đó cũng là nguyên nhân cho sự phân biệt về lãu suất ngắn hạn và lãi suất dài hạn.Lãi suất ngắn hạn thường thấp hơn lãi suất dài hạn,vì đơn giản là những khoản đầu tư ngắn hạn như thế sẽ có lợi tức không ổn định.Hơn nữa,chính lợi tức không ổn định của nó là nguyên nhân làm cho loại lãi suất này biến động khá thường xuyên và dữ dội. Ở các nước phát triển ,nhiều khi trong một ngày nó có thể lên xuống hai ba mức do ảnh hưởng của lợi tức chứng khoán.
Do tính lâu dài của nó ,các khoản đầu tư dài hạn thường được sử dụng cho cá khu vực sản xuất kinh doanh cơ bản bền chắc,với lợi tức ít thay đổi.Do lợi tức của đầu tư ổn định,lãi suất của các loại tài sản này cũng cao hơn các loại tài sản khác.
+Tỷ lệ lạm phát dự tính.
Lạm phát là kẻ thù của lãi suất.Lạm phát sẽ làm bay hơi một cách vô hình lãi suất của các loại tài sản mà ngân hàng và nhân dân có được.
Tỷ lệ lạm phát dự tính là phần mà ngân hàng mong muốn bù đắp nếu lạm phát diễn ra.Trong cơ cấu lãi suất,nếu không tính đến yếu tố này,ngân hàng dẽ gặp bất lợi.Người đi vay cũng phải bằng lòng trả khoản đó,vì thực tế nó là của người cho vay .Trong cơ cấu lãi suất tiền gửi ,khách hàng ký thác cũng được tính thêm tỷ lệ này và rõ ràng đó cũng là điều hợp lý.
Trong cùng một đơn vị thời gian:
+Tỷ lệ lãi suất=tỷ lệ lạm phát,thì lãi suất thực sự bằng không.
+Tỷ lệ lãi suất <tỷ lệ lạm phát ,lãi suất thực là âm.Lạm phát càng lớn lãi suất bao nhiêu ,giá trị thực của lãi suất càng thấp bấy nhiêu.Giá trị của tài sản bị bòa mòn càng dữ dội.
+Tỷ lệ lãi suất >tỷ lệ lạm phát ,lãi suất thực sự lớn hơn không.Lãi suất càng lớn hơn lạm phát ,lợi nhuận thực thu được càng lớn theo.Trong trường hợp nầy, đầu tư hoàn toàn có lợi.
Vì vậy cho nên khi ngân hàng hoặc nhân dân đầu tư hay cho vay ,người ta thường quan tâm đến lạm phát để luôn đảm bảo rằng lãi suất đầu tư phải sớm hơn tỷ lệ lạm phát.Nói cách khác,lãi suất đầu tư phải ở mức từ tỷ lệ lạm phát trở lên.
+Chi phí chuyển sang tiền mặt dự tính hay khả năng thanh tiêu.
Khả năng thanh tiêu chỉ về mức độ nhanh hay chậm của việc chuyển một tài sản trở lại thành tiền mặt mà chỉ mất chút ít hoặc mất chút ít hoặc không mất chi phí nào cả.Có thể dễ dàng nhận thấy rằng khả năng thanh tiêu cũng liên đới với thời gian đáo hạn của tài sản.Với những loại tài sản có đáo hạn ngắn và cực ngắn,khả năng thanh tiêu của nó cực cao và chi phí chuyển đổi cực thấp.Còn những loại tài sản dài hạn là những loại tài sản khó thanh tiêu và phải mất nhiều thời gian hơn,tốn nhiều chi phí hơn,tốn công sức hơn,rủi ro cao hơn khi cần bán hoặc đổi nó ra tiền mặt.
Phần lớn các người cho vay đều thích cho vay ngắn hạn,bởi vì các khoản vay dài hạn để đầu tư sinh lợi.Vì thế ,người đi vay thích các khoản vay dài hạn để đầu tư sinh lời.Vì thế ,người đi vay thường sẵn sàng trả lãi suất cao hơn để tránh rủi ro đổ vỡ.Người đi vay đều thích cho vay ngắn hạn ,Người đi vay và người cho vay gặp nhau trên thị trường sẽ đẩy đường biểu diễn lãi suất dốc lên cao theo thời gian.
Vậy lãi suất danh nghĩa(trong điều kiện chưa xét đến rủi ro)trở thành:
Lãi suất danh nghĩa= lãi suất + tỷ lệ + Lệ phí chuyển sang tiền thực lạm phát mặt dự tính
6.2.Nhân tố rủi ro trong lãi suất.
Rủi ro cũng là nhân tố làm tăng hoặc giảm lãi suất tài sản của ngân hàng và nền kinh tế.Nhân tố này hình thành loại chi phí rủi ro mà ngân hàng và các nhà đầu tư khác nhau phải tính đến cho các trường hợp vốn đầu tư bị mất giá,vốn khong thu hồi được vì nơi nhận đầu tư bị phá sản,vỡ nợ,lợi tức trở nên âm vì giá cả tăng nhanh.
Rủi ro phải là nhân tố được tính vào lãi suất,nhưng được tính như thế nào đó là điều quan trọng.Một doanh nghiệp không chỉ chi phối bởi môi trường bên trong ,mà còn bị chi phối bởi các yếu tố môi trường bên ngoài ,chúng không giễ kiểm soát được.Rủi ro môi trường bên ngoài không thể bị loại trừ bởi việc đa dạng hóa ,nên người ta còn gọi chúng là “rủi ro không thể đa dạng”.Các rủi ro này thường tạo ra những tác động khác nhau đến hoạt động kinh doanh và trường hợp xấu nhất chúng có thể dẫn đến phá sản.
Trên thị trường tài chính ,”rủi ro không thể đa dạng” được định giá trong cơ cấu lãi suất và được gọi là “lệ phí rủi ro thị trường”,bởi vì loại rủi ro này thay đổi theo thời hạn cho vay ,theo mức biến động trên thị trường.
Phần 2.Thưc trạng và giải pháp về lãi suất tiền gửi ngân hàng
I Thực trạng:
1.Cuộc đua lãi suất tiền gửi ngân hầng.
Thời gian vừa qua hầu hết các ngân hàng đều tăng lãi suất huy động tiền gửi VND và USD. Từ đầu năm đến nay, không chỉ các ngân hàng quốc doanh mà hầu hết các ngân hàng cổ phần đều đã đồng loạt công bố tăng lãi suất huy động. Hiện lãi suất VND cao nhất của các ngân hàng cổ phần đã lên tới 0,82%/tháng.
Tại Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB), lãi suất tiền gửi bằng USD được điều chỉnh tăng ở tất cả các kỳ hạn với mức tăng từ 0,3%/năm đến 0,85%/năm kể từ ngày 3-3. Ngoài ra, người gửi tiền còn được cộng thêm lãi suất thưởng từ 0,1%/năm đến 0,162%/năm, nếu gửi tiền từ 5.000 - 60.000 USD cho một sổ tiết kiệm.
Ngân hàng Ngoại thương VN (Vietcombank) cũng quyết định tăng lãi suất tiền gửi bằng tiền đồng (VND) lên ở tất cả các kỳ hạn với mức tăng từ 0,2%/năm đến 0,6%/năm từ cuối tháng 2/2006.
Lãi suất hấp dẫn đã khiến lượng tiền gửi vào các ngân hàng đều tăng cao, đặc biệt là ở các khối ngân hàng TMCP. Không chỉ tăng lãi suất, các NH còn cạnh tranh huy động vốn bằng nhiều hình thức khác nhau, từ phát hành kỳ phiếu, khuyến mãi, tiết kiệm dự thưởng (trúng vàng, xe hơi, nhà..) đến “chiêu” chia nhỏ các kỳ hạn gửi, cho rút tiền trước hạn khi gửi có kỳ hạn...
Có nhiều yếu tố đang cộng hưởng để định hình một làn sóng tăng lãi suất mới vào thời điểm cuối năm. Quy mô của làn sóng này phụ thuộc nhiều vào tình trạng “sức khỏe” của các ngân hàng thương mại
Ngân hàng Nhà nước vừa có công văn yêu cầu các ngân hàng thương mại quốc doanh tăng cường quản lý vốn khả dụng, đảm bảo đáp ứng nhu cầu thanh khoản, chi trả cho những tháng cuối năm 2006 và đầu năm 2007.Theo đó, các ngân hàng thương mại quốc doanh cần tăng cường công tác quản lý vốn khả dụng, chủ động cân đối các nguồn vốn, khai thác tối đa các nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư và trên thị trường liên ngân hàng để đáp ứng nhu cầu thanh toán chi trả cho khách hàngCó thể hiểu công văn trên là tín hiệu về một không khí sôi động trên thị trường tiền tệ vào thời điểm cuối năm và đón Tết. Trong đó, không khí lo ngại là một nét chính.Nhiều hợp đồng sẽ tập trung đáo hạn vào thời điểm cuối năm, đặc biệt là lượng tiền giải ngân cho các khoản tiền gửi, phục vụ nhu cầu mua sắm của dân cư tăng cao trong dịp này.Dự tính lượng tiền sẽ chảy ra khỏi ngân hàng là 30%.Ngoài ra, nhu cầu vay vốn của giới doanh nghiệp để tăng nguồn hàng phục vụ Tết cũng sẽ là một áp lực giải ngân .Các ngân hàng đang bước vào thời điểm chi ra nhiều hơn huy động. Và nếu tình hình “sức khỏe” không đáp ứng được, phỉa đi ngược gió và phải tăng lãi suất huy động.Trong tình thế đó, chỉ riêng các ngân hàng quốc doanh không đủ sức thì sẽ được Ngân hàng Nhà nước hỗ trợ; công văn của Ngân hàng Nhà nước cũng đã bật đèn xanh rằng sẽ hỗ trợ trong trường hợp ngân hàng đó đã khai thác mọi nguồn vốn mà vẫn thật sự khó khăn về thanh khoản.Còn các ngân hàng thương mại cổ phần tăng lãi suất là điều thường thấy trong tình trạng thiếu vốn như hiện nay.Có một sức ép khác để tăng lãi suất, thực tế hơn và tập trung vào lãi suất huy động USD. Đó là khi thị trường ngân hàng bước vào mùa kiều hối. Con số 4 tỷ USD kiều hối của năm nay, dù là từ những dự báo không chính thức, nhưng đang là tâm điểm chú ý của các ngân hàng thương mại: Phải làm sao để nguồn vốn đó chảy về phía mình? Và tăng lãi suất lại được đặt ra như một lực hút hấp dẫn nhất.Hiện tại, ngoài những điều kiện nội tại của mỗi ngân hàng, lực cản lớn nhất trên thị trường đối với làn sóng tăng lãi suất là trần thỏa thuận giữa các ngân hàng. Thỏa thuận này áp dụng với loại tiền gửi VND. Nhưng, trên thực tế tình trạng “xé rào” đang diễn ra khá phổ biến, đặc biệt là ở khối thương mại cổ phần.Đối với các ngân hàng quốc doanh, ngoại trừ Ngân hàng Phát triển nhà Đồng bằng sông Cửu Long (MHB), trần thỏa thuận lãi suất tương đối được đảm bảo, thậm chí vẫn có dư một khoảng cách nhất định. Rất có thể khoảng cách đó sẽ được dùng nốt cho lần tăng vào dịp cuối năm này.
Còn với lãi suất USD, không thuộc diện thỏa thuận trần, mức tăng dự báo sẽ lớn hơn. Hiện lãi suất huy động đã phổ biến trên 5% ở kỳ hạn 12 tháng, trong khi lãi suất cho vay đầu ra trung, dài hạn ở khoảng 6% - 7,8%.
* Ngân hàng Quân Đội (MB) vừa quyết định tăng lãi suất huy động đồng Euro ở cả hai hình thức tiết kiệm cá nhân và tiền gửi của các tổ chức kinh tế. Với mức chênh lệch khá cao từ 25 đến 70 điểm phần trăm so với biểu liễu suất cũ, mức lãi suất mới áp dụng cho tiền gửi tiết kiệm cá nhân đã ngang bằng với lãi suất áp dụng đối với tiền gửi của các tổ chức kinh tế. Mức tăng cao nhất là đối với tiền gửi tiết kiệm lần lượt ở kỳ hạn 9 tháng và 12 tháng, tăng từ 1,6%/năm và 1,7%/năm lên 2,3%/năm và 2,4%/năm. Ở các kỳ hạn khác, mức lãi suất mới cũng khá hấp dẫn như: không kỳ hạn – 1%/năm, 3 tháng – 1,9%/năm, 13 tháng – 2,6%/năm, 24 tháng – 3%/năm.Theo MB, đợt tăng lãi suất mới này là nhằm thu hút đồng Euro để đáp ứng đủ nhu cầu vốn giải ngân cho các dự án sử dụng ngoại tệ này vào thời điểm cuối năm.* Ngân hàng Kỹ thương Việt Nam (Techcombank) cũng vừa điều chỉnh lãi suất huy động tiết kiệm, trong đó lãi suất huy động VND có biên độ tăng khá lớn, từ 0,12%/năm đến 0,24%/năm. Tăng mạnh nhất là kỳ hạn 1 tháng và 2 tháng, tăng tương ứng từ 7,20%/năm lên 7,44%/năm và 7,68%/năm lên 7,92%/năm. Các kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng và 12 tháng cũng được điều chỉnh tăng lên 8,58%/năm, 8,76%/năm và 9,36%/năm.
Lãi suất “Tiết kiệm Phát Lộc” của Techcombank cũng tăng nhẹ ở một số kỳ hạn: 4 tháng, 7 tháng, 8 tháng, 13 tháng và 14 tháng, với mức tăng từ 0,02%/năm đến 0,06%/năm. Sản phẩm mới “Tài khoản Tiết kiệm Đa năng” cho phép rút gốc linh hoạt cũng được điều chỉnh lãi suất ở các kỳ hạn 6 tháng, 9 tháng và 10 tháng, với mức tăng 0,12%/năm ở mỗi kỳ hạn đối với đồng VND. Theo đó, lãi suất gửi VND kỳ hạn 6 tháng, 9 tháng và 12 tháng tăng lên tương ứng là 8,82%/năm, 9,18%/năm và 9,42%/năm.
Trong đợt tăng này, lãi suất tiết kiệm đồng USD của Techcombank được điều chỉnh tăng ở kỳ hạn 2 tháng, từ 4,10%/năm lên 4,15%/năm; kỳ hạn 6 tháng tăng từ 4,6%/năm lên 4,8%/năm.
2.Nguyên nhân làm lãi suất tiền gửi tăng:
2.1.Cơ cấu tiền gửi của các ngân hàng thương mại chưa vững chắc
Phần lớn vốn sử dụng để cho vay của các ngân hàng là từ nguồn tiền gửi của các tổ chức và tiền gửi tiết kiệm của dân cư. Tiền gửi tiết kiệm tuy phải trả lãi suất cao hơn nhưng đặc điểm của nguồn này có tính ổn định, vững chắc.
Hiện nay, 55,4% vốn huy động của các ngân hàng thương mại ở Hà Nội là của các tổ chức kinh tế-xã hội và các định chế tài chính (không phải các tổ chức tín dụng). Tỷ lệ này ở Tp.HCM là 51%.
Bên cạnh đó, tiền gửi của các doanh nghiệp, đặc biệt là các tổng công ty lớn (từ hàng chục đến hàng ngàn tỷ đồng) cũng đều là nguồn vốn không kỳ hạn hoặc ngắn hạn, bất cứ lúc nào cũng bị rút đột ngột.
Một chi nhánh Ngân hàng Công thương trên địa bàn Hà Nội có hơn 3.000 tỷ vốn huy động, trong đó 1.000 tỷ là tiền gửi ngắn hạn của một tổng công ty Nhà nước. Ngân hàng này luôn nơm nớp lo nếu vì lý do nào đó tổng công ty này rút số tiền trên thì ngay lập tức nguồn vốn huy động của chi nhánh này giảm 1/3 và hậu quả của nó đối với việc cân đối vốn thì ai cũng rõ.
2.2.Tác động từ việc tăng lãi suất của FED
Đến ngày 29/6/2006 FED tăng lãi suất cơ bản lên mức 5,25%/năm, đây là lần tăng thứ 17 trong vòng 2 năm qua kể từ tháng 6/2004. Lãi suất của thị trường tài chính của các nước luôn tác động lẫn nhau. Lãi suất huy động ngoại tệ trong nước lần lượt tăng theo các lần điều chỉnh của FED. Hiện lãi suất huy động USD kỳ hạn 12 tháng cao nhất của ngân hàng thương mại đã đến mức 5,1%/năm.
Bên cạnh đó, lãi suất ngoại tệ tăng gây sức ép lên lãi suất nội tệ. Nhiều ngân hàng lo ngại người dân sẽ chuyển từ gửi nội tệ sang ngoại tệ khiến ngân hàng thiếu hụt vốn nội tệ nên cũng phải tăng lãi suất nội tệ lên ở mức tương đối có lợi cho người gửi tiền để duy trì nguồn vốn này.
2.3.Sức ép cạnh tranh và mở rộng kinh doanh
Chúng ta đều biết tiền gửi là đầu vào sống còn trong hoạt động của ngân hàng. Trong giới ngân hàng có câu: "Ai có nguồn vốn lớn, người ấy chiếm lĩnh thị trường".
Sức ép cạnh tranh để giữ và phát triển nguồn vốn là rất gay gắt. Một số ngân hàng thương mại cổ phần Hà Nội cho biết tại thời điểm này tuy không thiếu vốn nhưng họ vẫn phải tăng lãi suất huy động vì sợ khách hàng rút tiền sang các ngân hàng khác có lãi suất cao hơn.
Phó tổng giám đốc một ngân hàng thương mại cổ phần nói: "Qua theo dõi tình hình hiện nay, tôi thấy cứ chi nhánh nào có nguồn tiền gửi từ tổ chức kinh tế- xã hội và dân cư lớn thì chi nhánh đó lỗ vì lãi suất huy động cao, cho vay lại khó khăn, vốn thừa vẫn phải trả lãi cho tiền gửi. Nhưng tính chung cả hệ thống thì chúng tôi vẫn phải tăng lãi suất vì sụt giảm tiền gửi không những hoạt động tín dụng trở nên bấp bênh mà còn mất khách hàng với những nhu cầu sử dụng các dịch vụ khác của ngân hàng".
2.4.Bù đắp cho rủi ro trong hoạt động tín dụng
Trong bối cảnh nền kinh tế đang trong chặng đầu của tiến trình hội nhập, rủi ro tín dụng ngày càng tăng. Tỷ lệ nợ từ nhóm 3 đến nhóm 5 thể hiện trên bản cân đối của các ngân hàng thương mại hiện phần lớn ở mức dưới 5%/tổng dư nợ, nhưng các khoản nợ nhóm 2 (các khoản nợ quá hạn dưới 90 ngày và các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trong hạn theo thời hạn nợ đã cơ cấu lại...) đang có xu hướng tăng. Một vài ngân hàng thương mại Nhà nước tỷ lệ nợ nhóm 2 đến nhóm 5 đã trên mức 20%/tổng dư nợ cho vay.
Theo phản ánh của một số ngân hàng, các khoản cho vay đối với doanh nghiệp Nhà nước đang có dấu hiệu tiếp tục tăng do khối xây dựng, giao thông đã hết thời hạn cơ cấu lại nợ nhưng vẫn không thanh toán được nợ. Nợ xấu cũng xuất hiện một số doanh nghiệp xuất khẩu nhạy cảm với những biến động của thị trường. Bên cạnh đó nợ đọng trong cho vay lĩnh vực bất động sản cũng không phải là ít...
Tình hình này có thể cũng là một trong những nguyên nhân khiến các ngân hàng tiếp tục tăng cường thu hút tiền gửi để bù đắp phần vốn đang nợ đọng và đảm bảo khả năng thanh khoản của mình.
2.5.Lạm phát
Lạm phát cũng là một nguyên nhân cho việc tăng lãi suất huy động.Bởi lạm phát cao, người gửi tiền thường có khuynh hướng đòi hỏi một mức lãi suất cao hơn và càng đòi hỏi mức lãi suất cao ở những NH không có hoặc kém uy tín. Những người gửi tiền họ cũng tính toán sao cho số tiền của mình gửi vào ngân hàng sẽ có lãi,chính vì thế mà lãi suất tiền gửi cần phải tính toán tới yếu tố lạm phát.
2.6.nhu cầu vốn ngày càng tăng và một số nguyên nhân khác
Nhu cầu vốn ngày càng gia tăng cũng là một trong những nguyên nhân gây nên cơn sốt về lãi suất ,và hiện nay NH nhà nước đang oằn vai nhằm cung ứng vốn trung và dài hạn cho các doanh nghiệp cũng là một nguyên nhân nữa.
Ngoài ra còn vì một số nguyên nhân như chỉ số giá tăng,tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế ngày càng mạnh
3.Những tác động lớn khi lãi suất tiền gửi tăng
3.1.Hoạt động của ngân hàng:
Khi lãi suất tiền gửi ngân hàng tăng sẽ gây khó khăn cho ngân hàng trong việc điều chỉnh lãi suất cho vay,nếu lãi suất cho vay cao quá sẽ làm giảm lượng vốn vay,gây ứ đọng vốn,thiệt hại tới kinh doanh của ngân hàng,nhưng nếu như để lãi suất thấp sẽ làm giảm doanh thu của ngân hàng. Đặc biệt là rủi ro ngân hàng cũng gia tăng khi lãi suất ngân hàng chạy theo lãi suất huy động. Chính vì vậy đây đang là bài toán khó đối với ngân hàng trong thời gian qua.
3.2.Cá nhân ,Doanh nghiệp vay vốn
Hiện nay các doanh nghiệp ở nước ta, nhất là các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực sản xuất công nghiệp, doanh nghiệp gia công hàng xuất khẩu và làm hàng xuất khẩu,....hoạt động kinh doanh chủ yếu bằng vốn vay ngân hàng. Vì vậy, lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại tăng lên sẽ làm tăng chi phí vốn vay của các cá nhân vay vốn làm ăn cũng như doanh nghiệp, từ đó làm tăng giá thành sản phẩm, tăng chi phí đầu tư dự án mới, giảm lợi nhuận,…
3.3.Hoạt động đầu tư
Ngoài ra lãi suất huy động tăng kéo theo lãi suất cho vay tăng ảnh hưởng tới đầu tư.Các dự án đầu tư thường dùng một lượng vốn lớn với thời hạn dài,chính vì thế khi lãi suất tăng làm cho đầu tư giảm,bởi gánh nặng về lãi suất vay lớn.
IV Giải pháp
1.Nâng cao chức năng vai trò điều tiết tiền tệ của ngân hàng Trung Ương
Hình dung một cách đơn giản, nếu xem những người có tiền nhàn rỗi như những “cái cây” giữ nước trên núi, những người cần vay vốn như những “cánh đồng” cần nước tưới, các ngân hàng như những “dòng sông”, thì ngân hàng trung ương (Ngân hàng Nhà nước) sẽ như một “hồ chứa nước” đóng vai trò điều tiết dòng chảy của tất cả các sông để có một lượng nước vừa đủ
Nhìn chung, để làm được vai trò điều tiết của mình, ngoài việc có một lượng nước dữ trữ đủ lớn (cung tiền, ngoại tệ dữ trữ…) với một hệ thống cửa thông, van xả hợp lý (lãi suất, thị trường mở…), cái hồ còn phải làm sao đó để các dòng sông có thể khai thác một cách tốt nhất (nếu không nói là toàn bộ) lượng nước (nguồn vốn) những cái cây đang giữ.
Khi thiếu nước cung cấp cho những cánh đồng, do đã tận dụng triệt để các nguồn nước, thì sông sẽ hỏi vay nước từ hồ. Lúc này, quyết định sẽ thuộc về cái hồ. Nếu thấy những cánh đồng thực sự cần thêm nước cho việc phát triển cây trồng (kích thích tăng trưởng kinh tế) thì họ sẽ mở van tăng thêm nước (hạ lãi suất, tăng cung tiền) cho các dòng sông.
Ngược lại, khi thấy nguy cơ do nước quá nhiều có khả năng gây ra ngập lụt (lạm phát) họ sẽ giảm hoặc khóa van lại, thậm chí tìm cách thu hút bớt nước từ các dòng sông (tăng lãi suất, giảm cung tiền), tích trữ vào hồ để dùng khi cần thiết.
Giải pháp hữu hiệu nhất là nâng cao năng lực và khả năng điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước VN sao cho mỗi khi họ đưa ra các quyết định của mình lập tức có tác động ngay đến nền kinh tế.
Một ngân hàng trung ương mạnh có tính độc lập cao so với chính phủ là một trong những nền tảng cơ bản nhưng cũng là công cụ hữu hiệu để giảm thiểu những tác động tiêu cực của kinh tế thị trường.
2.Lựa chọn dự án hiệu quả để đầu tư nhằm hạ cơn sốt lãi suất.
Trong tiến trình phát triển kinh tế của nước ta chính vì thế cần một lượng vốn rất lớn để đầu tư vào nhiều lĩnh vực.Chính vì vậy đã gây một cơn sốt vốn, cũng là nguyên nhân dẫn tới lãi suất tăng cao,chính vì thế cần phải lựa chọn những dự án hiệu quả ,phân tích dự án trước khi cho vay tránh tổn thất cho ngân hàng,mặt khác những dự án tốt sẽ nhanh chóng thu hồi được vốn cho ngân hàng.
3.Phát triển thị trường tài chính
Để giảm bớt cuộc chạy đua lãi suất như hiện nay thì chúng ta cần phải phát triển thị trường tài chính.Bởi nhu cầu vốn hiện nay tăng cao,do đó cần phát triển thị trường tài chính để dúp cho doanh nghiệp có nhiều con đường để thu hút vốn hơn,giảm gánh nặng lên nhu cầu vốn vay ngân hàng,giảm cơn sốt về lãi suất.
KẾT LUẬN
Qua đề tài này,ta thấy lãi suất tiền gửi ngân hàng có vai trò đặc biệt quan trọng.Mỗi thay đổi của nó ảnh hưởng rất lớn tới các hoạt động trong nền kinh tế.Lãi suất tiền gửi là một lĩnh vực hết sức phức tap,bởi nó hội tụ nhiều mối quan hệ,các mâu thuẫn liên quan trực tiếp tới lợi ích vật chất trong xã hội nói chung và ngân hàng nói riêng .
Lãi suât tiền gửi cũng nên luôn luôn phải đổi mới theo hướng đa dạng hóa ,linh họat nhằm thỏa mãn nhu cầu của khách hàng,tạo điều kiện cho ngân hàng tối thiểu hóa chi phí đầu vào,tăng lợi nhuận.
Trong nền kinh tế mở ngày nay,các ngân hàng liên tục cạnh tranh với nhau trong mọi hoạt động của mình,trong đó có cả hoạt động huy động tiền gửi.Trước tình hình đó,ngân hàng thường phải lựa chọn giữa hai mục tiêu tăng trưởng và khả năng sinh lời.Trả lãi suất cao hơn cho các khoản tiền gửi giúp cho ngân hàng tăng trưởng nhanh hơn ,nhưng chiến lược cạnh trạnh này khiến lợi nhuận của ngân hàng giảm nghiêm trọng.Do vậy để có một nguồn vốn dồi dào và thực sự ổn định để mở rộng hoạt động kinh doanh của mình , đòi hỏi mỗi ngân hàng phải tự tạo cho mình một chính sách lãi suất hợp lý.
Với xu thế ngày nay,bên cạnh một chính sách lãi suât tiền gửi hợp lý,cần phải kết hợp với các dịch vụ ngân hàng. Đây là một biện pháp rất hiệu quả và sự vươn tới không giới hạn,là sân chơi lành mạnh cho các NHTM dùng hết khả năng mình để cạnh tranh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Ngân hàng thương mại_NXB Thống kê
Chủ biên PGS_TS.Phan Thị Thu Hà
2.Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính(Feredic S.Miskin)
3.Quản trị ngân hàng Thương Mại (Peter Rose)
4.Lý thuyết tài chính tiền tệ (SGK Trường Đại học Tài Chính)
5.Giáo trình Lý thuyết Tài chính-Tiền tệ (Trường KTQD)
6.Quản trị ngân hàng thương mại (Lê Văn Tư)
7.Tạp chí ngân hàng số 11/2005
8.Tạp chí ngân hàng số 2/2006
9.Tạp chí ngân hàng số 5/2005
10.Ngân hàng thương mại-NXB Thành phố HCM(E.W.Reed&E.K.Gill)
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
Phần I Lý thuyết cơ bản 2 I Tổng quan về ngân hàng và dịch vụ của ngân hàng 2
1.Khái niệm về ngân hàng 2
2.Chức năng của ngân hàng 2
3.Các dịch vụ ngân hàng 5
II Một số vấn đề về lãi suất 9
1.Khái niệm về lãi suất 9
2.Phân loại lãi suất 10
2.1.Phân loại theo độ dài thời gian 10
2.2.Phân loại theo loại tiền 11
2.3.Phân loại theo phương pháp tính lãi 11
2.4.Phân loại theo giá trị thực 12
2.5.Phân loại theo nghiệp vụ ngân hàng 12
2.6.Phân loại theo phương thức tính tính lãi 13
3.Một số phân biệt về lãi suất 14
4.Cấu trúc kỳ hạn và cấu trúc rủi ro của lãi suất 16
5.Các nhân tố ảnh hưởng tới lãi suất 16
III Lãi suất tiền gửi ngân hàng 18
1.Lãi suất tiền gửi giao dịch 19
2.Lãi suất tiền gửi phi giao dịch 19
3.Các lãi suất khác 20
4.Phương pháp xác định chi phí huy động vốn 21
5.Phương thức định giá lãi suất tiền gửi ngân hàng 24
6.Các nhân tố cấu thành lãi suất tiền gửi ngân hàng 25
Phần 2:Thực trạng và giải pháp về lãi suất tiền gửi ngân hàng 29
I Thực trạng 29
1.Cuộc đua lãi suât tiền gửi ngân hàng 29
2.Nguyên nhân làm lãi suất tiền gửi tăng 31
3.Những tác động khi lãi suất tăng 34
II Giải pháp
1.Nâng cao chức năng và vai trò điều tiết
tiền tệ của ngân hàng Trung Ương 34
2.Lựa chọn dự hiệu quả để đầu tư nhằm hạ cơn sốt lãi suất 35
3.Phát triển thị trường tài chính 35
KẾT LUẬN 36
Tài liệu tham khảo 39
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- DA24.docx